Phiếm luận về thời gian

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Thi gian là mt ngn la thiêu đt ta.

Nhưng chính ta là ngn la."

Jorge–Luis Borges  

             Từ lâu tôi vẫn bị ám ảnh bởi vấn đề thời gian.

             Nhưng gần đây, khi bắt đầu "trông tuổi già bóng xế", tôi bỗng cảm thấy vấn đề trở thành

gay go và cấp bách. Mình không còn lại bao nhiêu thời gian nữa, tôi tự bảo, cho nên phải cố

gắng tận dụng tất cả thời gian còn lại. Để làm gì? Để suy nghĩ về một số vấn đề hệ trọng, bắt

đầu bằng vấn đề thời gian.

           Bởi vì nếu hiểu được thời gian, thì biết đâu...

           Biết đâu đó chẳng phải là một chìa khóa mở rộng ra bao nhiêu cánh cửa, bao nhiêu con

đường, bao nhiêu chân trời mới? Và nếu giải đáp được bài toán trong những bài toán, vén

được màn bí mật trong những bí mật của cuộc đời, thì biết đâu chẳng có hy vọng tự đưa

mình... thoát khỏi thời gian?

            Tôi biết đó là một điều không tưởng, một hành trình mạo hiểm mà trên đó đã bao

nhiêu người vấp ngã và đắm chìm.

Một người bạn đã nhìn tôi ái ngại: "Mày mà suy nghĩ về thời gian thì có ngày phát điên

mất. Tao bắt đầu lo cho mày..."

            Tôi cảm ơn anh bạn, nhưng cũng thầm nghĩ: Cần gì phải lo? Cùng lắm thì phát điên,

nhưng điên vì một lý do vô cùng chính đáng, một vấn đề đã từng ám ảnh bao nhiêu thế hệ

thi sĩ, triết gia và khoa học, một vấn đề mấu chốt nằm giữa lòng cuộc sống. Còn nếu hiểu

được rõ hơn thời gian, thì biết đâu mình sẽ làm chủ được phần nào thời gian, hay ít ra làm

bạn được với thời gian, trong mình?...

          Thời gian là gì?

          Vậy thời gian là gì nhỉ? Làm thế nào hiểu được thời gian? Có thể nào hiểu được thời

gian?

           Bởi vì còn gì dễ cảm thấy hơn thời gian, nhưng cũng còn gì khó hiểu hơn thời gian!

           Thời gian có mặt ở khắp nơi, nhưng cũng không tìm thấy ở nơi nào. Trong mỗi tia nắng,

trong mỗi tiếng chim, trong từng ngọn cỏ, đều có thời gian. Trong mọi niềm vui, trong từng

nỗi nhớ, trong mỗi ước mơ, đều có thời gian. Thời gian vừa ở bên ngoài, vừa ở trong lòng ý

thức.

            Có thể nói rằng đâu đâu cũng có mặt thời gian, cũng như đâu đâu cũng có mặt không

gian. Nhưng thời gian mới thực là vô cùng bí hiểm. Bởi vì không gian nằm sờ sờ ra đấy, chỉ

cần mở mắt ra là nhìn thấy, giơ tay ra là nắm bắt được, tha hồ tác động vào. Nhưng còn thời

gian? Tìm thời gian ở đâu, dù đập tan bình cát đo thời gian hay tháo hết những đinh ốc

đồng hồ, cũng không thể nào tìm thấy thời gian trong đó. Thời gian bàng bạc khắp nơi,

nhưng cũng không trú ngụ nơi nào.

           Mỗi giây phút trôi qua là thời gian. Trong khi tôi viết hay đọc những giòng này, thời

gian đã đi qua. Có thời gian thì mới có di chuyển, động tác, nhưng ngay cả im lìm, bất động

cũng cần có thời gian. Phải có thời gian mới có hiện hữu.

            Người ta vẫn quen nhìn thời gian như một định luật đưa tới già nua, tàn tạ, hủy diệt,

nhưng không mấy ai nghĩ rằng chính nhờ có thời gian nên mới có tác động, hiện hữu, nẩy

sinh. Nếu không có thời gian, thì sẽ không bao giờ có sự sống. Không có sự hình thành của

trái đất, hơn mười tỷ năm sau tiếng "Big Bang", không có sự kết hợp của các phân tử thành

các cơ thể đơn bào, rồi đa bào, không có sự xuất hiện của các loài cỏ cây, cầm thú, không có

sự tiến hóa liên tục cho tới loài người, với bộ óc tinh vi, sáng tạo. Đó là những thành quả

của sự tiến hóa không ngừng của vạn vật, tức là những thành quả của thời gian.

Và chỉ cần có một sự đổi thay vô cùng nhỏ bé trong định luật thời gian, cũng đủ đưa tới

muôn ngàn đảo lộn trong cuộc sống hàng ngày: xe cộ đâm nhau, tiếng nói lắp bắp, tim đập

loạn xạ, hình ảnh nháo nhào, tư tưởng lộn xộn, v.v.. Không thể nào tưởng tượng nổi việc

không có một định luật bất di bất dịch của thời gian. Phải chăng đặc điểm của thời gian

chính là điều đó, vừa biến động, vừa bất biến, biến động trong hiện tượng, nhưng bất biến

trong nguyên lai?

           Nếu có một đấng Thần linh Tối thượng, thì tôi nghĩ không phải là thần Sấm, thần Chớp,

thần Mưa, thần Sinh nở, v.v. mà là thần Thời gian, bởi vì chỉ có thời gian mới bao trùm và

chế ngự tất cả. Thay vì chúng ta than vãn, ca cẩm thời gian mỗi ngày đục phá, gậm nhấm

cuộc đời, thì có lẽ chúng ta nên ca tụng Thời gian chính là đấng Tạo hóa, là tác giả tối hậu

của mọi hiện hữu trong thế giới này. Có thời gian là có tất cả. Nếu có thời gian, tôi có thể

làm được mọi thứ, kể cả trở thành bất tử!

           Thật ra, thời gian không phải là một, mà là hai: đó vừa là một định luật tự nhiên, khách

quan, bao trùm thế giới, vừa là một khái niệm chủ quan của con người đơn độc. Bởi vì chỉ

có con người mới có ý thức về thời gian. Con người là sinh vật duy nhất biết rằng mình sẽ

chết, và biết rằng thời gian liên tục trôi qua.

           Nhưng cái khổ của con người cũng nằm trong ý thức về thời gian đó, hay đúng hơn

trong ý thức về khoảng cách giữa hai loại thời gian. Thời gian vt lý thì vô tình, giá lạnh, đi

trên một con đường thẳng tắp, đều đặn như một cái máy (tuyệt hảo bởi vì không bao giờ

hư!), tạo tác và phá hủy mọi sinh vật, mọi hiện hữu. Trong khi đó thời gian tâm lý lại hữu

tình, nóng bỏng, quay theo một hình tròn, lúc nhanh lúc chậm, với bao nhiêu kỷ niệm nhớ

thương về dĩ vãng, cũng như bao nhiêu dự trù lo lắng cho tương lai. Chúng ta hãy lắng

nghe tiếng vang của thời gian trong tâm hồn người thi sĩ.

         Thời gian đối với nhà thi sĩ

          Chúng ta thử tự hỏi: Nếu không có thời gian, thì liệu còn có bao nhiêu vần thơ và bao

nhiêu nhà thi sĩ? Nói một cách khác: Giả sử các nhà thi sĩ quên đi mọi kỷ niệm, thì liệu

còn có lý do gì để làm thơ?

             Tôi chắc rằng lúc bấy giờ chỉ còn lại một loại thơ: Đó là thơ Thiền. Bởi vì chỉ có nhà thơ

Thiền mới làm thơ về hiện tại, còn đa số các nhà thơ đều sống về dĩ vãng, về kỷ niệm, về

tuổi thơ, với bao nhiêu nhớ nhung, tiếc nuối.

           Là thi sĩ, theo tôi, không phải là "Say với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây", như

lời của Xuân Diệu. Là thi sĩ, chính là mang trong tiềm thức một bồ kỷ niệm, và một bầu

cảm xúc đi đôi với những kỷ niệm đó. Và lời thơ, chính là nguồn cảm xúc dâng trào, quyện

vào với kỷ niệm, dội lên thành thơ.

          Để ý kỹ, chúng ta sẽ thấy đa số những từ ngữ, khái niệm, hình ảnh trong các bài thơ đều

liên quan tới dĩ vãng như "nhớ nhà ... quên lãng ... kỷ niệm ... xa xưa ... cố hương ... dấu

chân ... lần cuối ... dở dang ... lỗi hẹn ... bến cũ ... biệt ly ... vấn vương ... bụi thời gian ... thuở

nào ... xa vắng ... nhớ nhung ... nắng cũ ... mòn mỏi ... phai màu ... ước hẹn ... hao mòn ...

ngừng trôi ... chia phôi ... hoài cảm ... ấu thơ, v.v"

           Chẳng hạn như bài văn đầy âm điệu sau đây của Đinh Hùng, cũng mang bao nhiêu hình

ảnh của quá khứ, của thời gian: "Thu năm nay, tôi li đi trên con đường vắng này, nghe

từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ. Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng cung nữ đi

xưa, và trong vườn nhà ai thấp thoáng hoa phù dung bui sáng nở trắng như một tâm hồn

còn tr. Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa, và linh hồn tôi vẫn là linh hồn năm trước.

Đường này hiu hắt, tôi đem lòng về để gặp mùa thu thương nhớ cũ, và may cũng thấy thu

về để nước hồ xanh. Chân ai đi xa vắng đằng kia hay đó chỉ là gió thoảng mong manh, và

gió nào vương vấn hồn tôi hay đó chỉ là dư thanh của một ngày xưa cũ?"

           Cũng như trong những vần thơ của Apollinaire, vẫn còn phảng phất hương vị của thời

gian, của một mùa thu thương nhớ:

J'ai cueilli ce brin de bruyère,

L'automne est morte souviens–t'en.

Nous ne nous verrons plus sur terre,

Odeur du temps brin de bruyère,

Et souviens–toi que je t'attends.

(Anh đã hái một cành hoa thạch thảo,

Mùa thu đã chết em nhớ chăng.

Thế giới này đôi ta vĩnh biệt,

Hương thời gian hoa thạch thảo,

Em ơi hãy nhớ, anh chờ em.)

           Nếu không phải là nhớ thương, thì nhà thơ cũng mang nặng trong mình một mối sầu

vạn cổ, cũng như Trần Tử Ngang đã không ngăn được xúc động khi ngẫm tới thời gian, tới

không gian vô tận, bên cạnh kiếp người ngắn ngủi, nhỏ bé vô cùng:

Tin bt kiến cnhân,

Hu bt tri lai gi.

Nim thiên đa chi du du,

Đc thương nhiên nhi thế ャ4V_<*Tt____h.

(Ai người trước đã qua?

Ai người sau sắp tới?

Ngẫm trời đất không cùng.

Một mình rơi giọt lệ.)

          Và thời gian đối với nhà thi hào Lý Bạch cũng như giòng nước lạnh lùng trôi qua, không

làm sao ngăn chặn được, cũng như nỗi buồn của số phận làm người không thể nào làm tan

đi trong men rượu:

Tru đao đon thy, thy cánh lưu.

Cbôi tiêu su, su cánh su.

(Rút gươm chém nước, nước trôi,

Tiêu sầu nhấc chén, lại dôi nỗi sầu.)

Quân bt kiến, Hoàng hà chi thy thiên thượng lai,

Bôn lưu đáo hi bt phc hi. Hu bt kiến

Cao đường minh kính bi bch phát,

Triêu như thanh ti mthành tuyết...

(Bác chẳng thấy, con sông Hoàng lưng trời tuôn nước,

Xuống biển rồi có ngược lên đâu? Lại chẳng thấy

Đài cao soi gương buồn tóc bạc,

Sáng xanh tơ mà tối đã như sương...)

          Sinh ra, già đi, chết đi ... Con người như một chiếc thuyền mỏng manh, lênh đênh trên

biển cả, không biết trôi dạt nơi đâu, mà cũng không thả neo được giờ phút nào, cũng như

lời năn nỉ của Lamartine khi muốn níu kéo lại những khoảnh khắc êm đẹp nhất của cuộc

đời:

Ainsi, toujours poussés vers de nouveaux rivages,

Dans la nuit éternelle emportés sans retour,

Ne pourrons–nous jamais sur l'océan des âges,

Jeter l'ancre un seul jour?

(...) Ô temps! suspends ton vol, et vous, heures propices!

Suspendez votre cours.

Laissez–nous savourer les rapides délices

Des plus beaux de nos jours!

(Thuyền vô định lênh đênh trôi mãi

Trên biển đời trong suốt đêm thâu.

Biết chăng trong kiếp sống này

Bao giờ mới được có ngày thả neo?

(...) Thời gian hỡi, ngừng ngay cánh lại!

Giờ phút êm, xin hãy ngừng trôi.

Hãy cho ta hưởng một thôi,

Những ngày tươi đẹp nhất đời của ta!)

         Ôi, nhà thi sĩ mới ngây thơ làm sao, bởi vì chỉ cần hỏi lại câu "Muốn thời gian ngừng lại

trong bao nhiêu lâu?" là đã thấy mình vô lý đến sượng sùng! Nếu thời gian ngừng lại, thì

không có thời gian. Mà nếu không có thời gian, thì làm gì có ai mà tận hưởng, có cái gì mà

tận hưởng? Chỉ còn cách xin thời gian trôi qua, nhưng riêng ta thì vẫn như vậy, không chút

đổi thay. Ôi vẫn cái ta, vẫn cái thường là nguồn gốc của mọi khổ đau...

Và liệu có gì là thường còn? Trong bầu không khí hừng hực đấu tranh cho tự do tín

ngưỡng, nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã kêu lên:

Ri đây... ri mai sau còn... chi?

Ngc đá cũng thành tro, la tre dn mc nát.

Vi thi gian lê vết máu qua đi.

Còn mãi ch, còn trái tim BTát.

Di hào quang xung tn chn A T (...)

           Tất cả rồi cũng sẽ trở thành tro tàn, cát bụi. Tác phẩm nào tuyệt tác đến đâu chăng nữa

cũng sẽ bị thời gian phá hủy, ngoại trừ tấm gương hy sinh cao cả của các đấng Bồ Tát, bởi vì

được truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác, nên đã vượt khỏi thời gian.

Nói tóm lại, thời gian đối với nhà thi sĩ vừa là một điều chủ quan tới tột độ, vừa là một

mối sầu vạn cổ, một nỗi nhớ thương man mác, và một niềm đau ray rứt đê mê (une

douleur exquise). Đó không phải là một cái gì trừu tượng mà là một sự thực sống động,

không ngừng vang dội trong chiều sâu tâm thức. Nhà thơ biết mình không tránh khỏi thời

gian, chịu đau cái nỗi đau thời gian, nhưng không thể nào từ bỏ được nó. Bởi vì nỗi đau

thời gian đó chính là mình, nó đã trở thành mình...

       Thời gian đối với nhà triết học

          Thời gian không phải chỉ là một nỗi đau, mà còn là một câu hỏi không ngừng dằn vặt

con người, qua bao nhiêu thế hệ.

          Câu hỏi đó không chỉ nằm trong phạm vi những lý luận siêu hình của nhà triết học,

cũng như lời của Bachelard: "Suy nghĩ về thời gian là công việc đầu tiên của mọi nhà siêu

hình học". Nó bắt nguồn từ chiều sâu tâm thức của mỗi người, như một ngọn lửa âm ỉ

nhưng cũng có thể bùng cháy lên bất cứ lúc nào, thúc đẩy bởi một sự bức thiết nội tâm.

Cũng như trước "cái chết" và "sự sống", con người không thể nào thoát ra khỏi sự ám ảnh

của "thời gian"...

           Từ cổ xưa, người ta đã ý thức về thời gian qua những quan sát về sự đổi thay trên thế

giới. Đối với người Trung Hoa, mọi sự vật đều biến chuyển theo những định luật tự nhiên,

tức là luật biến hóa của vũ trụ, được Khổng Tử chép lại trong Kinh Dch: từ Thái Cực sinh ra

Lưỡng Nghi, sinh ra Tứ Tượng, Bát Quái, cho tới 64 Quái, với Ngũ Hành tương sinh tương

khắc, sinh ra vạn vật. Lão Tử trong Đo Đc Kinh cũng vạch rõ những biến chuyển tự

nhiên của vũ trụ, nhưng khuyến cáo con người không nên cưỡng lại mà nên thuận với

những biến đổi tự nhiên đó.

           Ảnh hưởng của đạo Lão và Phật đã mang lại cho nền văn minh Trung Hoa một lối nhìn

siêu thoát về thời gian, cũng như trong bài Tiền Xích Bích Phú của Tô Thức: "... Bác có biết

nước và trăng không? Nước chy thế kia mà chưa tng đi bao gi, mt trăng khi tròn khi

khuyết như vy mà chưa tng thêm bt bao gi. Bi vì ta tự ở nơi biến đi mà xem ra, thì

cuc tri đt cũng chỉ ở trong mt cái chp mt; mà nếu tnơi không biến đi mà xem,

thì muôn vt cùng vi ta đu không bao gihết c..."

          Tại Tây phương, triết lý ngay từ ban đầu đã luôn luôn dao động giữa hai khuynh hướng

của tư tưởng cổ xưa Hy Lạp: giữa "tất cả đổi thay" theo Héraclite, và "tất cả bất biến" theo

Parménide.

          Đối với Héraclite, đặc tính của cuộc sống là sự lưu chuyển không ngừng của sự vật

(panta rhei): "Người ta không bao gitm hai ln mt giòng sông". Điều đó nằm trong

định luật chung của vũ trụ gọi là logos, bao trùm và tác động trên tất cả mọi hiện tượng trên

thế gian. Tất cả luôn luôn biến đổi, cái này đưa tới cái kia, vừa chống đối nhau vừa nẩy sinh

ra nhau, như "sáng/tối", "nóng/lạnh", "ngày / đêm".

              Ngược lại, Parménide cho rằng sự có mặt (être) là vĩnh cửu, và tất cả đổi thay chỉ là

những vẻ bên ngoài. Cũng trong chiều hướng này, Platon chủ trương bên cạnh thế giới hiện

tượng đổi thay, còn có thế giới của Tư Tưởng, của Linh Hồn, một thế giới vĩnh cửu bất biến,

vượt khỏi thời gian. Thời gian đương nhiên trở thành "hình ảnh chuyển động của sự vĩnh

cửu bất động" (image mobile de l'éternité immobile).

Đối với Aristote, thời gian cũng như sự chuyển động mang một tính chất vĩnh cửu, vô

thủy vô chung. "Thi gian là thước đo ca schuyn đng (mesure du mouvement), gia

trước và sau; thi gian liên tc, bi vì thuc vào sliên tc". Chỉ có thời gian hiện tại mới

là thời gian thực sự.

            Theo trường phái Khắc Kỷ (Stoiciens), thời gian không có thực chất, nhưng "mọi sự vật

hiện hữu và chuyển động chính ở trong thời gian". Thời gian nằm trong cuộc sống của thế

giới, tức là của Tạo Hóa, bởi vì vũ trụ chính là Thiên Nhiên, là Tạo Hóa. Do đó, nhà hiền

triết khắc kỷ tuân theo và chấp nhận thời gian, sống phù hợp với thời gian, để hòa đồng với

Tạo Hóa. Trong một lá thư cho học trò mình, Sénèque viết: "Không có gì thuc vta c,

Lucilius . Chcó thi gian là ca ta. Cái tài sn thoáng qua và trơn tut đó là điu duy

nht mà To Hóa đã tm trao cho chúng ta"...

            Ngược lại với quan điểm này, Epicure định nghĩa thời gian như "tai nạn của những tai

nạn" (accident des accidents). Khác với không gian, thời gian tự nó không là gì, nó không

thuộc vào cấu trúc của thế giới, mà là do những nguyên tử và không gian tạo thành. Thời

gian không phải là một thực thể, và sở dĩ con người cảm thấy thời gian là nhờ ở những biến

đổi của sự vật. Do đó, người ta có thể tránh né thời gian được, bởi vì luôn luôn có khả năng

thoát khỏi bằng cách nhớ tới một khoảng thời gian khác. Ngay trong khi bị tra tấn hành hạ,

người ta cũng có thể cảm thấy hạnh phúc bằng cách nhớ tới những giây phút hạnh phúc

trong quá khứ. Thời gian không xâm phạm được vào nhà hiền triết, bởi vì chỉ là một cái gì

lướt qua và không tồn tại được.

             Vào thời kỳ Trung cổ, Thánh Augustin đã đưa ra những nhận định sâu sắc về thời gian:

"Thi gian là gì? Nếu không ai hi tôi vthi gian, thì tôi biết rõ; nhưng khi cn phi

gii thích thì tôi không còn biết thi gian là gì.

Tuy vy, tôi dám mnh bo ququyết rng, nếu không có gì xy ra, skhông có thi

gian đi qua; nếu không có gì xy đến, skhông có thi gian sp ti; nếu không có gì

hin hu, skhông có thi gian hin ti.

           Nhưng hai thi gian này, quá khvà tương lai, làm sao chúng có mt được, nếu quá

khkhông còn na và tương lai chưa ti? Ngay chin ti, nếu luôn luôn còn đó,

không mt đi trong quá kh, nó skhông phi là thi gian; nó slà vĩnh cu. Vy,

nếu hin ti mun là thi gian, phi mt đi trong quá kh, thì làm sao chúng ta có

thkhng đnh rng nó cũng có mt, khi mà lý do duy nht ca scó mt này chính

là skhông còn na? Thành ththc ra nếu chúng ta có thnói rng thi gian có

mt, thì chính là bi vì nó đi vào không–có mt".

              Đó chính là nghịch lý của thời gian: Quá khứ không có bởi vì đã qua rồi, tương lai

không có bởi vì chưa tới, chỉ có hiện tại là có thật, nhưng hiện tại phải biến mất ngay mới là

hiện tại, bởi vì chỉ cần kéo dài một chút đã trở thành quá khứ ...

              Như vậy, theo Augustin, không hề có 3 loại thời gian (quá khứ, hiện tại và tương lai),

mà chỉ có 3 thể của thời gian, đồng thời có mặt trong ý thức con người. "C3 thca thi

gian đó đu có mt trong ý thc, và tôi không thy chúng nơi nào khác". Ông cũng nêu

lên một câu hỏi mấu chốt: "Làm sao tôi có thể vừa có mặt trong hiện tại, vừa có đủ tầm

nhìn để thấy rằng thời gian trôi qua?".

             Đối với Pascal, thời gian thuộc vào những gì không thể định nghĩa được, và dù thế nào

định nghĩa cũng vô ích. Leibniz cho rằng thời gian cũng như không gian, là những gì hoàn

toàn tương đối, không có thực thể: Không gian là "trình tự của những gì có khả năng cùng

có mặt" (ordre des coexistences possibles), trong khi đó thời gian là "trình tự của những gì

có khả năng kế tiếp nhau" (ordre des successions possibles), nhưng có liên hệ với nhau.

Đó chính là một vấn đề nan giải của thời gian, bởi vì làm thế nào giải thích được tính chất

đôi của thời gian, vừa là kế tiếp vừa là liên tục, vừa phân biệt vừa bao gồm những giây lát

hình thành nó? Nếu tôi bị thời gian cuốn đi theo dòng hiện tượng, thì làm sao tôi nghĩ

được về thời gian? Nhưng nếu tôi chỉ là người đứng nhìn bàng quan, thì tôi đã bị tách ra

khỏi thời gian mất rồi.

Kant, triết gia của thế kỷ Ánh Sáng, cho thời gian đóng một vai trò quan trọng hơn, vì là

một hình thái phổ biến cho phép con người nhận biết được các hiện tượng. Kant quan niệm

rằng thời gian không phải là một khái niệm xuất phát từ kinh nghiệm, nhưng đã có trước

kinh nghiệm, cũng như không gian. Cả hai là những hình thái tiên nghiệm (a priori) của

cảm giác, thuộc về trực giác và phát xuất từ chủ thể. Chỉ với giả thuyết đó người ta mới có

thể cảm thấy được sự đồng thời hoặc kế tiếp của mọi hiện hữu. Thời gian không phải là một

ý niệm, mà là một trực giác thuần túy, bởi vì chỉ có một không gian và một thời gian, vô

biên và bao gồm tất cả các không gian và thời gian đặc biệt. Kant coi không gian và thời

gian là những "thực thể theo kinh nghiệm", bởi vì vừa có hậu quả khách quan, vừa là chủ

quan, bởi vì chúng là những hình thái của trực giác. Sự chủ quan này chính là một "tính lý

tưởng siêu nghiệm" (idéalité transcendantale), điều khiển tất cả các tri thức nói chung và

là điều kiện của sự hiểu biết.

                Đối với Hegel, thời gian có ba kích thước:

1. Quá khứ: là sự hiện hữu như bị xóa bỏ, như không có mặt

2. Tương lai: là sự không–có–mặt, nhưng tất định có

3. Hiện tại: là sự trở thành lập tức, sự kết hợp của hai cái trên.

"Chcó thi gian khi có lch s, tc là có shin hu ca con người... Con người

trong thi gian, và thi gian không có ngoài con người; do đó con người chính là thi

gian và thi gian chính là con người".

               Nhưng bám sát chiều hướng lịch sử một cách quá đáng cũng có hại cho cuộc sống, theo

Nietzsche: "Con vt sng mt cuc đi không có lch s... Ngược li, con người vì ta mình

vào gánh nng mi ngày mt gia tăng ca quá kh, nên bnó đè lên mình và đy xiêu

hướng đi, làm chm bước như mt gánh nng vô hình ca bóng ti".

Thời gian cũng có thể bao gồm tất cả. Đó là quan điểm của Bergson, người đã xây dựng

nên một triết lý hoàn toàn dựa lên thời gian. Đó không phải là thời gian của khoa học, của

vật lý, của máy móc, của đồng hồ, không phải thời gian được đo tính, phân tích, mổ xẻ,

chuyển đổi thành không gian. Mà là thời gian được con người sống và cảm nhận. Thời gian

thực sự là thời gian của chiều sâu tâm hồn, một khoảng thời gian có bề dầy, co giãn linh

động, mang tới những cảm giác mạnh mẽ, có chất lượng và không thể thay bằng số lượng.

Đó là một dữ kiện trực tiếp của ý thức (donnée immédiate de la conscience), vượt khỏi

ngôn từ, lý luận, và chỉ có thể cảm nhận bằng trực giác. Đối với Bergson, "Thi gian là sáng

to, hoc không là gì hết".

            Thời gian tính (temporalité) giữ một vị trí trung tâm trong triết lý của Heidegger. Bởi vì

con người trước hết là "có mặt ở thế gian" (être–au–monde) cho nên tự định nghĩa là sự lo

lắng, và sự lo lắng chỉ có thể có trong thời gian, tức là điều kiện tối hậu. Thời gian tính là

bản chất của sự hiện hữu chân thực. Thời gian đối với con người không phải ở bên ngoài, nó

không phải là một cái gì bên ngoài đâm bổ vào chúng ta, để bắt chúng ta phải tuân theo

luật của nó, và hủy hoại chúng ta nếu cần. Và sự có mặt, bởi vì chính nó là thời gian tính,

cho nên cũng là lịch sử tính (historicité).

             Jules Lagneau cho rằng không gian và thời gian không thể tách rời nhau được, trừ khi

bằng cách trừu tượng hóa. "Không gian và thi gian là schuyn đng được tru tượng

hóa". Nhưng nếu không gian và thời gian đều là bằng chứng của sự tùy thuộc của ta vào sự

vật, thì cũng có những sự khác biệt giữa hai khái niệm này: "Không gian là du hiu ca

quyn lc ca ta. Thi gian là du hiu ca sbt lc ca ta". Bởi vì, theo Alain, học trò của

ông, "Cm nhn thy không gian, tc là biết mình đang đâu, và sti đâu lát na, nếu

mun. Trong khi đó, nếu mình mun ti ngày hôm sau, thì chcó mt cách là chđi. Vì

vy cho nên không có scm nhn vthi gian".

Như vậy, quan niệm của triết học về thời gian mỗi ngày một thêm phức tạp, và có lẽ đã

đi tới một ngõ cụt không thể nào tiến xa hơn được. Triết học ngày nay quanh đi quẩn lại,

nghĩ tới nghĩ lui, rồi rốt cuộc cũng như thể "con rắn tự cắn đuôi mình", hay "con kiến mà

leo cành đào"... trong câu ca dao nọ.

          Không tìm thấy giải đáp nơi triết học, con người hiện đại thường quay về phía khoa học,

với hy vọng vén được màn bí mật về thời gian, nhờ những khám phá mới nhất của vật lý và

sinh học.

          Thời gian dưới mắt nhà khoa học

Đo tính thi gian

            Từ lâu, người ta đã tìm cách đo tính thời gian, là một yếu tố quan trọng trong sự giao

tiếp giữa những con người.

            Ví dụ như nếu muốn có một đứa bé một ngày kia chào đời, thì ít ra cũng phải có một

cuộc hẹn hò giữa một cặp tình nhân, ở một thời điểm nào đó. Nếu không đo tính được thời

gian, thì làm gì có hẹn hò, có gặp gỡ, có nên vợ nên chồng, sinh con đẻ cái. Làm gì có

những sinh hoạt xã hội, như mua bán, hội hè, thi cử, thể thao, ca nhạc và ngay cả luộc một

quả trứng gà cũng không xong!

             Ngay từ cổ xưa, con người đã biết dùng những phương tiện giản dị, gần thiên nhiên để

đo tính thời gian: bằng bóng mặt trời xoay quanh nhật bàn (cadran solaire), những giọt

nước chảy tí tách trong lậu hồ (clepsydre), hay những hạt cát trôi dần trong bình cát

(sablier). Thuở ấy, thời gian được đo tính một cách mơ hồ, nhưng đầy thơ mộng.

Đến khi đồng hồ xuất hiện tại Âu châu vào thời kỳ Phục Hưng, thì thời gian bắt đầu trở

nên máy móc và khô khan. Lúc đầu còn nghe tiếng "tích tắc" của đồng hồ quả lắc, tiếng

chuông đánh "boong", tiếng chim kêu "cú cu". Nhưng chẳng bao lâu đồng hồ đã im tiếng,

đã mất cả những chiếc kim lân tinh, những chiếc rubis quí giá, và chỉ còn là một bản số

điện tử trống rỗng, không hồn.

              Nhờ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đo tính thời gian đã trở thành mỗi ngày một

thêm chính xác. Với đồng hồ cơ khí và đồng hồ tự động, người ta có thể nhanh chậm một

vài giây trên một ngày, trong khi đó đồng hồ quartz chỉ còn sai một vài giây trên một

tháng, và đồng hồ nguyên tử một giây trên một triệu năm! Thời kế tự động, rồi thời kế

quartz đã cho phép đo được những khoảng cách vô cùng ngắn ngủi, cho tới một phần triệu

giây (nanoseconde). Và bắt đầu từ năm 1967, một giây được định nghĩa là "thời hạn của

9.192.631.770 chu kỳ sóng từ điện được phát hoặc hấp thụ bởi một nguyên tử césium 133

khi chuyển từ một mức độ năng lượng này tới một mức độ khác!" Và từ năm 1983, một mét

được định nghĩa là "chiều dài của con đường mà ánh sáng đi qua khoảng trống trong thời

gian 1/299.792.458 giây".

          Còn gì chính xác hơn là định nghĩa khoa học, nhưng đo được thời gian, dù chính xác tới

đâu chăng nữa, vẫn chưa phải là hiểu được thời gian...

          Liên hgia không gian và thi gian

           Thực ra, phải đợi đến Galilei, con người mới bắt đầu đi vào khoa học, nhờ sự khám phá

những định luật nối liền sự chuyển động với thời gian. Với lòng tin sắt đá rằng "thiên nhiên

viết bng ngôn ngtoán hc", Galilei đã khai phá cho con người con đường tìm hiểu thiên

nhiên, qua những áp dụng toán học vào vật lý học.

Với định luật "vạn vật hấp dẫn" (gravitation universelle), Newton mở ra cho khoa học

một kỷ nguyên mới, một hệ thống cơ khí mà trong đó mỗi chuyển động trong không gian

đều phải tuân theo định luật một cách chính xác, từ một trái táo tới một ngôi sao. Cơ khí

của Newton dựa lên giả thuyết có một không gian độc nhất, cùng tính chất khắp nơi, và một

thời gian tuyệt đối, độc nhất. Thế giới của Newton như vậy có bốn chiều: ba chiều để tả

không gian, và một chiều là thời gian. Đặc điểm của chiều thời gian là người ta không thể

nào di chuyển được trong đó, và cũng như không gian, không thể nào suy tư được trên đó,

bởi vì cả hai là những định nghĩa tiên nghiệm (définitions a priori) làm nền tảng cho vật lý

học.

              Einstein không đặt vấn đề thời gian như một điều tiên nghiệm, nhưng lưu ý tới khoảng

thời gian đo giữa hai sự kiện, bởi những quan sát viên ở những hệ quy chiếu (référentiels)

khác nhau. Ông cho thấy rằng những khoảng thời gian đó khác nhau. Thời gian như vậy

tùy thuộc vào hệ quy chiếu được chọn, và không còn được coi là tuyệt đối.

Người ta thường lấy câu chuyện hai anh em sinh đôi của Langevin để minh họa tính

chất tương đối của thời gian: Một trong hai người phiêu du trong không gian trong một

không thuyền với một tốc độ gần tốc độ ánh sáng, trong khi người kia ở lại trái đất. Thời

gian đối với người đi nhanh sẽ chậm hơn người ở lại tại chỗ, và sau một thời gian, người đi

xa trở về sẽ trẻ hơn người ở lại. (Như vậy, biết đâu chẳng giải thích được một cách khoa học

câu chuyện Từ Thức gặp Giáng Hương, hay Lưu Nguyễn lạc Đào Nguyên, khi trở về hạ giới,

chỉ còn gặp những cháu chắt của mình!)

           Trong thuyết tương đối hẹp (relativité restreinte) của Einstein, thời gian gắn liền với hệ

quy chiếu, nhưng còn thuộc vào hệ thống bốn chiều, cùng với không gian, để miêu tả sự

chuyển động. Trong một hệ quy chiếu nào đó, thời gian và không gian cùng đóng một vai

trò, đó là thời gian và không gian tuyệt đối của Newton.

Trong thuyết tương đối tổng quát (relativité générale), thì lại khác hẳn. Không gian–

thời gian trở thành bản chất của vũ trụ, một hình học (géométrie) bị méo mó bởi luật hấp

dẫn. Vũ trụ không phải chỉ ở trong không gian và thời gian, mà cũng chính là không gian

và thời gian. Thời gian là một phần tử của vũ trụ, nó thuộc vào cấu trúc của vũ trụ.

            Thi gian, mt o tưởng?

           Đối với một nhà khoa học như Einstein, quan niệm thời gian như một sự nối tiếp

(continuité), một sự một chiều (irréversibilité), chỉ là một ảo tưởng. Vũ trụ có mặt, nhưng

không trở thành. Theo Einstein, "mũi tên thời gian" chỉ là một ảo tưởng cần phải gạt bỏ,

phải vượt qua. Trong những trao đổi thư từ với Michele Besso, một người bạn thân thường

gạn hỏi ông: "Vy sni tiếp, smt chiu ca thi gian, mày để ở đâu?" Ông trả lời một

cách kiên nhẫn: "Làm gì có smt chiu? Mũi tên thi gian không hcó trong thiên

nhiên. Đó chlà mt quan nim hoàn toàn xut phát tcon người, hoàn toàn tương đi".

Và khi Besso chết, Einstein viết thư cho chị của ông: "Michele đã đi trước tôi đlìa bthế

gii llùng này. Nhưng điu đó không quan trng lm. Đi vi chúng tôi, nhng nhà vt

lý hc vng lòng tin, sphân bit gia quá kh, hin ti và tương lai chlà mt o tưởng,

dù nó rt dai dng".

            Sau này, nhà vật lý thiên văn Stephen Hawking cũng quan niệm như vậy trong tác

phẩm Lược sthi gian. Ông đề nghị thay thế thời gian bằng thời gian tưởng tượng, và nhờ

đó có thể không gian hóa (spatialiser) thời gian, bằng cách đổi dấu (+) bằng dấu (–). Theo

thuyết tương đối hẹp của Einstein, không gian và thời gian liên hệ với nhau, nhưng vật chất

vẫn còn độc lập. Khoảng cơ bản không còn là một khoảng không gian như trong hình học

Euclide, mà là một khoảng không gian–thời gian. Song, thời gian đóng một vai trò khác

trong khoảng này, nó không có cùng một dấu. Như người ta thường viết trong khoảng

(ds2), thời gian mang dấu (+) và không gian mang dấu (–).

So với thuyết tương đối hẹp, thì thuyết tương đối tổng quát của Einstein đưa tới một sự

tổng hợp vĩ đại hơn nhiều. Không gian vừa có liên hệ với thời gian và vật chất. Và sự liên hệ

đó có là nhờ độ cong của không gian–thời gian, và cái độ cong này tùy thuộc những gì chứa

đựng trong vật chất. Nhưng thuyết tương đối tổng quát vẫn còn là một thuyết theo Newton,

bởi vì vẫn còn mang những điều xác thực, và vẫn không có mũi tên thời gian.

           Mũi tên thi gian và lut nhit đng

          Vào thế kỷ thứ XIX, Sadi Carnot, trong khi nghiên cứu về các máy chạy hơi nước, nhận

thấy rằng sự biến đổi sức nóng thành cơ năng bị hạn chế bởi tính chất một chiều của những

dời chuyển sức nóng (chỉ có thể đi từ nóng sang lạnh), dường như sức nóng mang trong

mình một tính chất đặc biệt liên quan tới một chiều.

Những suy nghĩ đó sẽ làm khởi điểm cho nguyên tắc thứ hai của nhiệt động (deuxième

principe de la thermodynamique), do Clausius trình bày dưới hình thức hoàn chỉnh:

           Trong mỗi hệ thống vật lý đều có một đại lượng gọi là entropie, biểu thị mức độ hỗn độn

hoặc ngẫu nhiên có mặt trong hệ thống đó.

Số lượng entropie trong một hệ thống cô lập chỉ có thể tăng lên mỗi khi có một hiện

tượng vật lý nào đó. Lấy ví dụ, tổng entropie của một tách cà phê và một viên đường thấp

hơn entropie của một tách cà phê ngọt, cho nên viên đường chỉ có thể tan trong tách cà

phê, chứ không bao giờ có thể lấy đường ra được từ một tách cà phê ngọt. Một cách đơn

giản hơn, nếu chúng ta ném một cái chén xuống đất, chén đó (trên nguyên tắc) sẽ vỡ.

Entropie của chén lành thấp hơn chén vỡ, nên không bao giờ chén vỡ sẽ lành trở lại. Mọi

sinh vật chết đi không thể nào sống trở lại, cũng như chiếc lá vàng đã lìa cành, không bay

lại được lên trên cành và xanh tươi trở lại.

           Trong kinh nghiệm sống hàng ngày, chúng ta thấy những đổi thay thường đi từ thứ tự

(ordre) tới hỗn độn (désordre), từ sự khó xảy ra (improbable) tới sự dễ xảy ra (probable).

Đó chính là "mũi tên nhit đng" áp dụng vào thời gian.

Ý thức về những nghịch lý của thời gian bắt nguồn từ những công trình của Boltzman.

Boltzman bị ảnh hưởng mạnh của Darwin, và là nhà vật lý học đầu tiên quan niệm sự tiến

hóa của vũ trụ như là một sự suy rộng của thuyết Darwin. Nhưng trước những lời chỉ trích

trách ông đi ngược lại với định luật hai chiều của Newton, ông đã đắn đo và chùn lại. Ông

vừa muốn một đằng tin vào quan niệm tiến hóa của vũ trụ, vào mũi tên thời gian, một đằng

giữ trung thành với định luật của Newton. Đó là một nghịch lý mà ông đã không giải quyết

nổi, và có thể là một lý do đã khiến ông tự tử.

            Ssng, mt cuc tranh đu chng li entropie

           Theo nguyên tắc thứ hai của nhiệt động, mọi sự vật không thể nào tránh được bị tiêu

hủy dần mòn, nhưng tất cả không chống đối lại sự tiêu hủy đó một cách giống nhau. Đối với

vật chất không sinh động, thời gian chỉ là tiêu mòn và tàn phá.

Ngược lại, sự sống là một ngoại lệ duy nhất và tạm thời trước luật entropie, điều đó đã

được các nhà sinh học vạch rõ. Các sinh vật có khả năng dùng một khoảng thời gian nào

đó, để phát triển theo định luật của chính mình và dùng những dự trữ năng lượng của

mình. "Ssng", theo Lévy–Valensi, "là mt cuc đu tranh thường trc chng li

entropie. Nó phi, trong mi giây phút, theo cách nói ca Bergson, 'nâng cái gánh nng

đang rơi xung', và làm chm đi nhng đi thay không thnào ngăn cn được.

Dường như, trong mt thế gii không thnào tránh được vic quay vschết, ssng

cgng tn dng tt cnăng lượng đang tiêu dn ca mình, đlàm được mt cái gì đó,

trong mt khong thi gian nào đó."

           Ngoài ra, sự sống còn dùng một phương pháp hữu hiệu để chống lại sự phá hủy của thời

gian, đó là sự sinh sản. Nhờ sự sinh sản, cuộc sống được tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ

khác, qua sự trao truyền thông tin mang bởi những gien, cũng như một ngọn lửa truyền từ

ngọn đuốc này qua ngọn đuốc khác, để không bao giờ ngừng cháy.

           Chronos và tempus: Thi gian vt lý và thi gian tâm lý

Có thể nói rằng cho tới thế kỷ thứ XVIII, không có sự cách biệt giữa triết học và khoa

học, vì một lý do giản dị: Các nhà triết học đồng thời là những nhà khoa học. Từ Platon,

Aristote cho tới Descartes, Leibniz, Kant, tất cả đều là những nhà bác học "văn võ song

toàn", nghĩa là vừa là triết gia, vừa là nhà toán học, vật lý học, thiên văn học, sinh học...

Nhưng bắt đầu từ thế kỷ thứ XIX, những kiến thức của nhân loại trở thành mênh mông

và phức tạp đến nỗi các học giả bắt buộc phải lựa chọn một ngành chuyên môn, để mỗi

ngày tiến sâu vào ngành đó. Chẳng hạn như Bergson, khi còn là một học sinh xuất sắc thi

tuyển vào trường Cao đẳng Sư phạm, đã phải chọn lựa giữa văn chương và khoa học, và ông

đã chọn văn chương. Như vậy, dần dần triết học và khoa học đã rời xa nhau, cho tới khi

không còn nói với nhau cùng một thứ tiếng, không còn dùng những khái niệm giống nhau.

Ví dụ khái niệm "thời gian" chẳng hạn. Liệu "thời gian" của nhà khoa học có phải là

"thời gian" của nhà triết học? Đó là câu hỏi đặt lên trong cuộc đối thoại tại Paris năm 1922

giữa Bergson và Einstein, về "Thời gian và thuyết tương đối".

Để trả lời câu hỏi của Bergson: "Ông có chc rng thi gian ca ông là thi gian ca con

người tm thường không?", Einstein khẳng định: "Thi gian ca nhà triết hc và thi gian

ca nhà vt lý hc là mt. Không có thi gian ca triết hc. Chcó thi gian tâm lý khác

vi thi gian ca vt lý hc. Chcó khoa hc mi nói được stht". Câu trả lời độc đoán

này làm Bergson vô cùng thất vọng, có lẽ vì ông đã quá mong đợi ở khoa học một sự xác

nhận về trực giác của ông về thời gian.

          Nhưng thật ra, cuộc đối thoại này, giữa hai nhà trí thức nổi tiếng thời bấy giờ, thất bại có

lẽ là vì đây chỉ là hai cuộc độc thoại, "ông nói gà, bà nói vịt". Einstein và Bergson mỗi người

chỉ nói về thời gian của mình.

          Thời gian của Einstein là thời gian vật lý, thời gian khoa học, không màu sắc hương vị,

thời gian của cả vũ trụ, không phải của riêng con người. Thời gian đó chỉ là ảo tưởng, bởi vì

không có thực chất, không có bề dày, không chia ra làm quá khứ, hiện tại và tương lai. Thời

gian đó chính là không gian, nó có mặt trong mỗi sự vật, nó là sự vật. Con người không làm

gì được trên nó, bởi vì nó chính là con người, là một sự vật.

Thời gian của Bergson là thời gian tâm lý. Đối với ông, nó bao trùm tất cả, nó chính là

sự sống, sự tiến hóa trong sáng tạo. Là thời gian được sống và cảm nhận trực tiếp bởi con

người, với những cảm xúc của quá khứ, với bề dày của hiện tại và khả năng sáng tạo của

tương lai. Thời gian đó có thể co giãn, ngưng lại, rút ngắn hay kéo dài, quay vòng trở lại.

Con người có khả năng ảnh hưởng được vào nó, nhưng nó cũng có thể chế ngự con người.

          Để phân biệt hai loại thời gian này, người ta đã đề nghị gọi thời gian vật lý là chronos

(tiếng Hy Lạp), và thời gian tâm lý là tempus (tiếng La tinh). Mỗi người gọi thời gian là

chronos hay tempus tùy theo quan niệm của mình về thời gian.

           Prigogine, gia thi gian Poincaré và thi gian Lyapounov

           Trong cuốn sách Gia thi gian và vĩnh cu, Ilya Prigogine đưa ra một câu trả lời dứt

khoát: Thời gian hiện hữu trong vũ trụ, nó có mặt trong vật chất, và mang tính chất một

chiều.

           Lý luận của Prigogine dựa lên sự so sánh giữa hai loại thời gian: thời gian Poincaré và

thời gian Lyapounov.

          Nhà toán học Henri Poincaré chứng minh rằng, trong một hệ thống cô lập với những

tiểu thể (corpuscules) tác động lẫn nhau, sau một thời gian, hệ thống đó sẽ đi qua trở lại

trạng thái ban đầu. Thời gian giữa hai lượt đi qua cùng một trạng thái gọi là thời gian

Poincaré, và thời gian đó dĩ nhiên rất dài. Lấy một ví dụ, một quả bóng bị xẹp, nếu không có

tác động bên ngoài, thì một ngày kia sẽ căng trở lại. Không cần bơm, chỉ cần đợi, nhưng

phải đợi rất lâu!

           Lyapounov ngược lại chứng minh rằng trong sự tiến triển của một hệ thống, độ nhạy

(sensibilité) của nó đối với những điều kiện ban đầu tăng lên không ngừng. Đó là "hiệu ứng

bươm bướm" (effet papillon): Một cái vỗ cánh của một con bướm có thể gây nên một cơn

bão tố cách đó cả ngàn cây số trong vài tháng nữa. Sau một khoảng thời gian, một hệ thống

sẽ trở thành hỗn độn (chaotique), không thể nào tiên đoán được một cách khoa học, và

thời gian đó gọi là thời gian Lyapounov.

            Prigogine, trong khi so sánh thời gian Poincaré với thời gian Lyapounov, nhận thấy

rằng thời gian Lyapounov ngắn hơn thời gian Poincaré nhiều, và như vậy có nghĩa rằng

một hệ thống sẽ trở thành hỗn độn trước khi trở lại trạng thái ban đầu. Trên thực tế, định lý

Poincaré không áp dụng được, bởi vì hệ thống sẽ trở thành hỗn độn trước, và sẽ biến hóa

theo muôn vàn phương thức khác nhau. Điều đó giải thích rõ rệt những nhận xét thường

xuyên của chúng ta về cuộc đời: Quả bóng sẽ không bao giờ tự căng trở lại, tương lai không

thể nào tiên đoán được, và thời gian bắt buộc phải một chiều.

           gian sâu thm (thi gian đa cht); thi gian thng dc, thi gian chu k

          Theo nhà cổ sinh vật học Stephen Jay Gould, còn có một loại thời gian gọi là thời gian

sâu thẳm (temps profond), tức là thời gian địa chất (temps géologique), thời gian đó kéo

dài trên hàng tỷ năm từ lúc hình thành trái đất, và mới được con người ý thức được từ chưa

đầy hai thế kỷ nay. Nếu lấy chiều cao của tháp Eiffel để tả thời gian sâu thẳm, thì tất cả lịch

sử loài người chỉ bằng bề dày của lớp sơn trên chóp tháp mà thôi!

Và cũng có hai quan niệm về thời gian đã in sâu vào truyền thống Tây phương, đó là

thời gian thẳng dọc (temps linéaire ou sagittal) và thời gian chu kỳ (temps cyclique), được

biểu tượng bằng mũi tên và vòng tròn.

Theo quan niệm thời gian thẳng dọc, lịch sử được coi như là sự nối tiếp một chiều của

những sự kiện chỉ có mặt một lần. Mỗi khoảnh khắc đứng một địa vị riêng trong chuỗi thời

gian, và toàn thể những khoảnh khắc thời gian chuyển vận theo một chiều hướng nhất

định.

Ngược lại, theo quan niệm thời gian chu kỳ, những sự kiện không còn tính chất riêng rẽ,

nhưng thể hiện những điều căn bản luôn luôn có mặt và bất biến. Mọi biến chuyển nằm

trong những chu kỳ được lập lại, và những khác biệt trong quá khứ sẽ trở thành những thực

hiện trong tương lai. Thời gian như vậy không có chiều hướng.

Cả hai quan niệm đó về thời gian đều có mặt trong Thánh Kinh:

Một ngày kia, Thượng Đế tạo ra trái đất và con người, Ngài chỉ cho Noé phương pháp

thoát khỏi một trận lụt lớn bằng một chiếc tàu đặc biệt, sau đó ngài trao cho Moses những

điều giới luật vào một thời điểm nào đó, rồi ngài phái đứa Con của Ngài xuống trần, chịu

đóng đinh tại một nơi và vào một lúc nào đó, để rồi sống lại vào ngày thứ ba. Đó là quan

niệm thời gian thẳng dọc.

          Ngược lại, trong phần Ecclésiaste (Qohéleth), thời gian mang tính chất chu kỳ: "Mt

tri mc, mt tri ln, và mt tri mc trli. Gió thi quanh, quay đi và trli. Tt c

các giòng sông chy vbin c, và bin vn không đy. Cái gì đã có scó, cái gì đã thc

hin sthc hin trli, và không có gì mi mdưới ánh mt tri".

Chỉ cần quan sát thiên nhiên, người ta cũng thấy rõ tính chất chu kỳ của những biến đổi

trong cuộc sống. Từ hơi thở, nhịp tim, sự co giãn bắp thịt, kinh nguyệt, cho tới sự bài tiết

nội tuyến, những làn sóng điện trong não, dường như tất cả mọi sinh vật đều sống theo

nhịp một chiếc đồng hồ sinh lý, theo luật thời gian chu kỳ. Nhìn rộng hơn, ngay cả trong

thế giới khoáng chất, trái đất với bốn mùa, nước thủy triều, nắng mưa, gió bão, các vì sao và

các hành tinh, đều vận chuyển theo thời gian chu kỳ.

Nếu không có thời gian chu kỳ thì sẽ không có gì trở lại, không tiên đoán được việc gì

xảy ra (mặt trời liệu còn có mọc ngày mai?), không có khoa học với các định luật, phương

trình. Không có xe đạp, xe hơi, bởi vì không có bánh xe quay vòng, không có máy bay cánh

quạt. Cũng không có âm nhạc, bởi vì sẽ không có nốt nhạc trở lại, không có điệp khúc.

Không có thi văn, bởi vì sẽ không có vần thơ, không có lời văn...

            Nhưng thật ra chính quan niệm thời gian thẳng dọc mới là động cơ của cuộc cách mạng

khoa học kỹ thuật tại Tây phương từ thế kỷ thứ XVII. Bởi vì quan niệm thời gian thẳng dọc

bao hàm khái niệm tiến hóa và tiến bộ. Có thời gian thẳng dọc mới có khám phá, đả phá,

xây dựng, phát triển. Nếu "không có gì mới mẻ dưới ánh mặt trời", thì việc gì phải mệt sức

đặt lại vấn đề và cố gắng gia tăng sự hiểu biết của con người? Theo Mircea Eliade, sự chú

trọng tới tính chất "mới lạ" và "một chiều" của lịch sử là một khám phá tương đối mới trong

đời sống nhân loại. Ngược lại, nhân loại cổ xưa cố hết sức tự bảo vệ chống lại tất cả những gì

mới lạ và một chiều của lịch sử.

             Nếu quan niệm thời gian thẳng dọc phát triển mạnh mẽ trong văn minh Tây phương,

thì quan niệm thời gian chu kỳ lại chế ngự văn minh Đông phương một cách rõ rệt. Chúng

ta có thể tự hỏi rằng phải chăng một trong những lý do chậm trễ về khoa học kỹ thuật của

Đông phương nằm chính trong quan niệm thời gian chu kỳ trội hẳn đó?

Thật ra, hai quan niệm thời gian thẳng dọc và thời gian chu kỳ, dưới hai ẩn dụ mũi tên

và vòng tròn, đều đúng và sai như nhau. Đó chỉ là một cách nhìn nhị đối (dichotomie)

quen thuộc của người Tây phương. Cũng như nhiều sự phân đôi khác ("linh hồn/thể xác";

"sáng tạo/tiến hóa"; "nhất nguyên/đa nguyên", v.v.) cách nhìn đối chiếu này đều sai lầm

hoặc thiếu sót, bởi vì chỉ thể hiện được một phần nào của thực tế vô cùng phức tạp. Đó chỉ

là những phương tiện do con người chế tạo ra để làm sáng tỏ những suy nghĩ của mình.

Hình ảnh thích hợp nhất về thời gian, theo tôi nghĩ, có lẽ là vòng xoắn (spirale), bởi vì

vừa mang tính chất thẳng dọc vừa mang tính chất chu kỳ. Những gì xảy ra cũng trở lại,

nhưng không hoàn toàn như trước. Mặt trời mọc và lặn trở lại, bốn mùa quay trở lại và các

thế hệ nối tiếp nhau, nhưng không có ngày nào giống ngày nào, và không có người nào

giống người nào. Cũng như câu trả lời của nhà sư Nagasena (Na Tiên) khi vua Milinda hỏi

cái "ta" là gì. "Cũng như mt ngn la, đi thay trong tng giây phút, không phi cùng là

mt ngn la, nhưng không phi là mt ngn la khác" (na ca so na ca anno).

Và biết đâu trong đạo Phật đều có cả hai ẩn dụ mũi tên và vòng tròn. Vòng luân hồi

chẳng là vòng tròn, và con đường giải thoát chẳng là mũi tên đó hay sao?

Thời gian trong đạo Phật

           Vô thường, tính cht căn bn ca hin tượng

           Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên nhấn mạnh vào vô thường, tức là tính chất không

thường còn của sự vật, là sự biến đổi không ngừng của thế giới hiện tượng. Đối với đạo Phật,

không có hiện hữu, chỉ có trở thành (bhava). Vô thường (anicca), cùng với vô ngã (anatta),

và khổ (dukkha), là ba đặc tính của đời sống (tilakkhana). Ba đặc tính làm cho con người

trầm luân trong vòng luân hồi (samsara), do cái nghiệp (karma) của mình gây nên. Nhưng

chính nhờ cái nghiệp đó, cùng cái Phật tâm (bodhicitta) sẵn có trong mình, mà con người

có thể, bằng cách kiên trì tu tập, giữ giới (sila), định tâm (samadhi), để đạt tới trí tuệ siêu

việt (prajna), và tự giải thoát (moksha) ra khỏi vòng sinh tử, khổ đau.

Vô thường có thể xuất hiện dưới ba hình thức:

Sát na vô thường, là sự chuyển biến liên tục của sự vật trong từng sát na (theo danh từ

Phật, mỗi sát na là một khoảnh khắc rất nhỏ của thời gian). Sự vô thường này rất cần thiết

cho sự sống, và có thể nói là gắn liền với sự sống, chính nó là sự sống.

Nht k vô thường là sự chuyển biến nhanh chóng của sự vật theo một chu kỳ nào đó,

đưa tới một sự thay đổi trạng thái rõ rệt. Chẳng hạn như khi nước sôi biến thành hơi, khi

nước lạnh đông thành băng, khi hoa biến thành quả, khi lá vàng rụng, hay khi người bệnh

nặng qua đời.

Tai nn là những điều xảy ra một cách đột ngột, không hề báo trước, biến đổi cuộc đời,

theo chiều hướng xấu nhiều hơn là tốt.

           Thái đca người Pht ttrước vô thường

          Thay vì lấy một thái độ thụ động trước vô thường, đạo Phật chủ trương lấy một thái độ

sáng suốt và tích cực. Đầu tiên, con người phải ý thức rằng vô thường (sát na vô thường) là

điều cần thiết cho sự sống, cho sự hiện hữu, và chính nhờ vô thường mới có sự chuyển đổi

theo chiều hướng tốt, mới có hy vọng một ngày mai tươi sáng hơn, cho những người đang

khổ đau. Sau đó phải quán chiếu sự vô thường trong mọi sự vật, để không còn lo ngại, sợ

hãi những biến chuyển do nhất kỳ vô thường một ngày kia có thể xảy đến, chẳng hạn như

khi mất một người thân trong gia đình, khi lâm bệnh nặng, khi mất tài của, hay khi bị tai

nạn. Tất cả những điều đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào, và người Phật tử phải cố gắng tu tập

để xem vô thường là một chuyện tất nhiên và thường tình.

           Cũng vì hiểu rõ rằng mọi sự vật đổi thay trong từng giây phút, cho nên người Phật tử

biết quí trọng và sống trọn vẹn mỗi giây phút hiện tại, mỗi vẻ đẹp của cuộc đời, mỗi tình

cảm của những người thân thương, để không bao giờ lo sợ và tiếc nuối. Và cũng nhờ ý thức

rằng tất cả là vô ngã, là điều gắn liền với vô thường, cho nên người Phật tử không màng tới

sự chấp chặt, trì kéo lại cho mình những của cải, những giây phút vui tươi, cũng như mọi ảo

tưởng trong cuộc đời.

           Nhng quan đim khác bit vthi gian trong các tông phái Pht giáo

          Trong lịch sử tư tưởng đạo Phật, quan niệm về thời gian không phải là luôn luôn đồng

nhất, không có tranh luận. Hơn hai trăm năm sau khi Đức Phật Thích Ca viên tịch, đoàn

thể tăng già chia rẽ ra làm nhiều tông phái, trong đó có phái Sarvastivada (Nhất Thế Hữu)

và phái Sautrantika (Kinh Lượng), chống đối nhau trên nhiều điểm, đặc biệt về thời gian:

– Theo phái Sarvastivada (sarva = tất cả, asti = hiện hữu), tất cả đều có mặt: quá khứ,

hiện tại cũng như tương lai. Mọi pháp (dharma) hữu vi đều không sinh, không diệt, chúng

có mặt từ vô thủy, và chỉ chuyển đổi từ một trạng thái tàng ẩn tới một trạng thái rõ rệt.

Chẳng hạn như một người đàn bà đồng thời là một đứa bé gái và là một bà mẹ, một cây cam

vừa là một hạt cam và một trái cam. Nước vừa là băng tuyết vừa là hơi nước, tùy theo nhiệt

độ, nhưng trong bản thể vẫn là nước.

– Phái Sautrantika (sutra = kinh điển) lại cho rằng chỉ có hiện tại mới thực sự có mặt,

và thời gian chỉ là một ảo tưởng gây nên bởi những giây lát liên tục kế tiếp nhau. Căn bản

của cuộc sống con người ngụ tại một tâm thức cao siêu, được trường tồn từ kiếp này sang

kiếp khác.

            Những phái này sẽ có ảnh hưởng đến sự xuất hiện của hai tông phái quan trọng của Đại

thừa, là phái Trung quán (Madhyamaka) và phái Duy thức (Vijnanavada hay Yogachara).

– Phái Trung quán, dưới sự hướng dẫn của ngài Long Thụ (Nagarjuna), quan niệm rằng

tất cả trong thực chất đều là Không (shunyata). Nhưng Không không có nghĩa là trống

không, là hư vô, là không có gì, Không có nghĩa là Sự Thực tuyệt đối (paramartha–satya),

là Chân Như, là Bản Thể của sự vật (tathata). Do đó, thời gian không phải là một vấn đề, bởi

vì chỉ có mặt trong thế giới hiện tượng, tức là cái Sắc, cái Tướng, chứ không có trong cái

Không, nếu đi sâu vào bản thể.

– Phái Duy thc, dưới sự hướng dẫn của ngài Vô Trước (Asanga) và ngài Thế Thân

(Vasubandhu), quan niệm rằng mọi hiện tượng là sản phẩm của ý thức, rằng tất cả là ý

thức. Ngoài 6 thức thông thường ra, còn một ý thức sâu thẳm gọi là A–lại–da thức (alaya–

vijnana), là nơi chứa đựng tất cả những nhân của nghiệp trước, và nguồn gốc của mọi hành

động. Trong chiều sâu của A–lại–da, cũng có những cái nhân tinh khiết, có thể được xem

như như, như bản thể của vũ trụ. Như vậy, theo Duy thức học, thời gian cũng thuộc vào

hiện tượng, vào ý thức, và tự nó cũng không có thực thể.

             Vũ trquan trong đo Pht

            Thời gian trong đạo Phật được đo bằng sát na tức là một khoảng thời gian rất ngắn (một

phần nhỏ của giây), cho tới kalpa tức là một khoảng thời gian rất dài (hàng triệu năm).

Đạo Phật quan niệm rằng vũ trụ không có giới hạn, trong không gian (có tới "tam thiên

vạn thiên thế giới") cũng như trong thời gian (tất cả đều "vô thủy vô chung"). Thế giới

không có điểm khởi đầu, mà cũng không có điểm kết thúc, cũng như quan niệm chung

"không sinh, không diệt" của Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnaparamita).

Nếu dùng danh từ khoa học ngày nay, thì chúng ta sẽ nói rằng đạo Phật quan niệm

không có "Big Bang" mà cũng không có "Big Crunch". Hình ảnh phù hợp nhất với đạo Phật

có lẽ là vũ trụ co giãn, đi từ tăng tới giảm, rồi từ giảm tới tăng, không bao giờ bắt đầu và

không bao giờ hết. Thật ra điều này cũng không đi ngược lại với vật lý hiện đại, bởi vì nếu

đa số các nhà khoa học chấp nhận quan niệm "Big Bang" là một biến cố hình thành vũ trụ

từ 15 tỷ năm trước, thì họ cũng quan niệm không có giây phút "ban đầu", bởi vì 15 tỷ năm,

cũng như 300.000 km/giây cho tốc độ ánh sáng và –273°C cho nhiệt độ của một vật thể,

chỉ là một điểm số giới hạn không thể nào vượt qua được.

          Thời gian trong cuộc sống hàng ngày

            Thi gian qua nhanh tht!

Còn nhận định nào thông thường hơn là những câu:

– Chóng thật! Mới dạo nào...

– Nhìn con cháu mình lớn lên, mới thấy thời gian qua quá nhanh...

– Mới ngoảnh đi ngoảnh lại, đã thấy mình già nua đi nhiều...

Những câu chuyện về thời gian, cũng như về thời tiết (tiếng Pháp gọi cả hai là "le

temps"), là những câu chuyện thường tình người ta vẫn nói với nhau hàng ngày, trong nhà

cũng như ngoài chợ. Nhưng khi nói về thời tiết, nắng mưa, người ta thường nói chuyện

bâng quơ, tầm phào, trong khi nói về thời gian, người ta bỗng thấy dâng lên một nỗi buồn

man mác, kèm theo tiếng thở dài.

           Quả thật, thời gian băng qua nhanh như mũi tên, và con người chỉ có thể nhìn theo bất

lực!

              Có lẽ chỉ có những nhà khoa học lẩm cẩm mới đặt ra vấn đề có "mũi tên thời gian" hay

không, thời gian đi một chiều hay hai chiều. Đối với người thường, chỉ cần mở mắt ra đã

thấy rõ rằng thời gian không bao giờ đi ngược trở lại. Cũng như hạt cát lùa qua kẽ tay

không làm sao ngăn bắt được, như đóa hoa tàn úa không bao giờ tươi lại được, như mái tóc

đốm bạc không bao giờ đen lại được. Người ta không bao giờ đi ngược lại được thời gian, dù

rằng có thể gây nên những ảo tưởng đó, bằng cách chiếu ngược lại những phim ảnh, với

những tài tử đi giật lùi trông đến buồn cười! Cuộc đời như một cuốn phim đặc biệt chỉ

chiếu có một lần, hay như một cuốn sách đặc biệt mỗi trang chỉ lật qua một lần. Đó là cái

giá (quá đắt chăng?) phải trả cho sự hiện hữu...

            o tưởng níu kéo li thi gian

            Nhưng ít người dám thẳng nhìn sự thật như vậy. Người ta tìm đủ mọi cách để nuôi

dưỡng ảo tưởng níu kéo lại được thời gian.

Biết bao người đã rời bỏ cuộc sống tầm thường, để đi tìm một con đường đưa tới Vĩnh

cửu, tới Tuyệt đối. Faust đã không ngần ngại bán linh hồn mình, là cái gì quí giá nhất, cho

Quỷ, để mong trở thành bất tử. Từ trái đào tiên trong vườn Thánh mẫu cho tới viên hoàn

đơn của Thái thượng Lão quân, từ con nhân sâm cho tới bình Thánh Graal, đã có bao

nhiêu huyền thoại về những phương pháp màu nhiệm để con người cải lão hoàn đồng. Đã

có bao nhiêu vị hoàng đế, bao nhiêu nhà lãnh tụ ra đi để lại một chiếc xác ướp, với ảo vọng

được tiếp tục sống vĩnh viễn bên thế giới bên kia! Và cũng đã có bao nhiêu chuyện tưởng

tượng như của H.G. Wells với "cái máy đi ngược lại thời gian", chỉ cần ngồi vào trong đó,

bấm một vài nút là đã thấy mình quay trở lại vài thế kỷ về trước.

Hỡi ôi, tất cả chỉ là ảo tưởng, hoang đường! Ngoài khoa học ra, với những tiến bộ gần

đây của y học đã tương đối kéo dài cuộc sống của con người, không có gì ảnh hưởng được

vào thời gian. Tất cả những liều thuốc "mang lại trẻ trung", như nhân sâm, sừng tê giác, hải

mã, cao hổ, mật gấu, mật rắn, sinh tố, mélatonine, v.v. đều là những món hàng tung ra bởi

những kẻ lợi dụng những ảo tưởng của con người. Và mới đây, các nhà sinh học vừa mới

thành công trong việc cấy dòng vô tính (clonage) trên các con vật, khơi dậy lên bao nhiêu

ảo mộng bất tử của con người. Rốt cục tất cả chỉ là "hão huyn trong nhng hão huyn"

(vanitas vanitatum), cũng như lời của Ecclésiaste...

           Thi gian ngn, dài

           Người ta thường chú trọng tới thời gian khi đã bắt đầu "có tuổi", tức là khi bắt đầu đếm

ngược thời gian còn lại. Hồi bé, người ta thường ao ước thời gian qua mau để chóng thành

"người lớn", nhưng về già người ta chỉ cầu mong thời gian đi chậm hơn một chút. Một năm

đối với người trẻ không là bao nhiêu, nhưng đối với người già là một khoảng thời gian vô

cùng quí báu.

           Trong cuộc sống hàng ngày, thời gian còn có một khả năng co giãn lạ lùng. Đối với mỗi

người, thời gian không đi qua đều đặn như chiếc kim đồng hồ, trái lại lúc thì lướt nhanh

vùn vụt, lúc thì chậm chạp đến phát điên. Trong khi chờ đợi, trong lúc chán chường, chúng

ta thấy sao thời gian đi quá chậm! Trong lúc vui tươi, trong khi hồ hởi, chúng ta tiếc thời

gian qua quá nhanh! Và trí nhớ của con người để làm chi, nếu không phải là để kéo dài thời

gian trong khi tưởng nhớ? Khả năng quên đi của con người để làm chi, nếu không phải là

để xóa bỏ một phần nào thời gian?

           Tôi thường so sánh tốc độ của đời người với tốc độ của một vật rơi vào khoảng trống, tức

là mỗi ngày một nhanh. Càng về sau, chúng ta càng cảm thấy cuộc đời trôi qua nhanh.

Cũng như trong một chuyến du lịch, những ngày đầu qua chậm, nhưng những ngày cuối

lướt qua nhanh vô cùng. Bởi vì tất cả đều mới lạ lúc ban đầu, trong khi đó, vào cuối chuyến

du lịch cũng như cuối cuộc đời, tất cả dường như đã quá quen thuộc, và chúng ta chỉ còn

nhai đi nhai lại một số kỷ niệm xa xưa.

Thời gian trong khi đang học hỏi bao giờ cũng dài hơn thời gian khi đã quen biết rõ. Sự

học hỏi, cũng như sự sáng tạo, làm cho thời gian đầy đặn hơn, phong phú hơn. Nói như

Malraux, tác phẩm nghệ thuật có tính chất "vượt qua thời gian" (intemporalité), bởi vì giá

trị của nó vượt qua các thời đại, nó không bị lệ thuộc vào lịch sử, nó đã trở thành gia tài của

nhân loại. Do đó, "nghthut là mt schng đi đnh mnh" (l'art est un anti–destin),

và trong một chừng mực nào đó, một sự chống thời gian.

             Chy đua vi thi gian. Nghch lý ca thi gian

            Vào thế kỷ trước tại các nước Tây phương, người ta còn có thời giờ lâu lâu dừng chân lại,

rút trong túi ra chiếc đồng hồ quả lắc, chậm rãi nhìn giờ, rồi bỏ lại vào túi, thong dong bước

đi. Ngày nay, người ta vội vã đến nỗi chỉ còn kịp liếc mắt vào chiếc đồng hồ trên bảng xe

hơi, rồi nhấn ga, vọt lẹ.

Cách đây chưa đầy chục năm, khách du lịch sang thăm Việt Nam vào thời kỳ bao cấp

thường để ý thấy mọi người ung dung đạp xe đạp, chậm rãi dạo chơi trong đường phố, hay

suốt ngày ngồi chơi xơi nước trong các cơ quan. Ngày nay, với nền "kinh tế thị trường" và

cuộc sống "đổi mới", mọi người đã bắt đầu vội vã, tăng tả, vọt lẹ trên những chiếc Honda,

bất kể những người qua đường. Ngày xưa, người ta còn nghèo nhưng thừa thời giờ, ngày

nay đã có tiền nhưng lại ít thời gian. Ai bảo "thời giờ là vàng bạc"? Liệu có đổi chác được

thời giờ thành tiền bạc, hay dùng tiền bạc mua lại được thời gian?

              Người ta thường chạy theo thời gian, vừa muốn níu kéo lại, vừa muốn vượt nhanh hơn,

thật mới buồn cười làm sao. Chỉ chờ đợi vài phút trước đèn đỏ, đã lên tiếng càu nhàu, và

đèn vừa xanh thì đã vụt lên, phóng nhanh chạy ẩu. Nhanh để làm gì? Để được thêm thời

gian ư? Làm gì có thời gian mà thêm... Chờ đợi lâu mất thời giờ ư? Làm gì có thời giờ mà

mất...

            Trong cuộc chạy đua với thời gian, con người chắc chắn chỉ có thể thua chứ không bao

giờ thắng. Thời gian luôn luôn đuổi kịp mình, cũng như bóng với hình, không làm sao

chạy thoát, và mọi sinh vật bị thời gian bủa vây như một cái lưới, dù vùng vẫy tới đâu cũng

vô ích.

            Trong thần thoại Hy lạp, thời gian được biểu tượng bằng người khổng lồ Cronos, không

ngừng ăn thịt những đứa con mình do người vợ Rhéa, Trái đất, sinh ra. Dưới nhật bàn,

người ta thường thấy viết câu: "Nhng mũi đu gây tn thương, mũi cui cùng kết liu", để

so sánh thời gian với những mũi tên không ngừng bắn vào mạng sống con người.

Điều nghịch lý với thời gian, là càng nắm chặt thời gian thì lại càng bị thời gian vuột

mất, càng buông thả thì lại càng kéo lại được thời gian. Càng vội vàng hấp tấp thì lại càng bị

thời gian đuổi riết, càng thư thả khoan thai, không màng tới thời gian, thì lại càng được

thời gian quên đi, lại càng thừa thãi thời gian.

         Và không có gì làm con người lệ thuộc thời gian hơn là chờ đợi. Người ta không khỏi

nôn nóng, sốt ruột trong khi chờ đợi, nhất là khi chờ đợi người yêu! Ngược lại, khi chú tâm

vào một việc gì, dù vô ích (như chơi ô chữ, chơi cờ phá trận), người ta thường quên đi thời

gian, nên gọi là "giết" thời gian (nhưng ai giết ai?). Nói tóm lại, chạy theo thời gian thì lại

bị thời gian đuổi, quên đi thời gian thì lại được thời gian quên...

              Cố tổng thống Pháp Mitterrand đã có một câu nổi tiếng: "Il faut laisser le temps au

temps" (Phải để thời gian cho thời gian). Hồi bị bắt giam bên Đức, ông đã phải vượt tù ba

lần mới thành công, rồi đến khi ứng cử tổng thống, cũng phải đợi lần thứ ba ông mới đắc

cử, và sau đó đứng đầu nước Pháp trong 14 năm trời! Biết kiên nhẫn chờ đợi tức là tự cho

mình thời gian, là điều kiện của thành công. Và biết chờ đợi mới là chiến thắng thực sự,

trên thời gian và trên chính mình...

              Thi gian có thnào ngng li?

             Thời gian không thể nào ngừng lại được, vì một lý do giản dị là thời gian không bao giờ

đi, không bao giờ chảy. Miêu tả thời gian bằng hình ảnh con người ngồi trong xe lửa nhìn

phong cảnh lướt qua, hay đứng bên bờ sông nhìn giòng nước trôi qua đều là sai lầm. Con

người thuộc vào phong cảnh, thuộc vào giòng sông, và đối với thời gian con người vừa là

chủ thể, vừa là khách thể.

               Trong một cuốn sách mới ra, tựa đề Ngày mà thi gian ngng li, giáo sư Jean Bernard

đưa ra một giả thuyết hoàn toàn tưởng tượng: Vào một giờ phút nào đó, thời gian bỗng

nhiên ngừng lại, gây nên muôn vàn xáo trộn trong xã hội, và đặt ra những câu hỏi triết học

và khoa học vô cùng nan giải. Nhưng thật ra, nghĩ cho cùng, đó chỉ có thể là kim đồng hồ

ngừng lại, hoặc là thời gian ngừng lại cho một số sinh hoạt thôi, chứ không thể nào tất cả

thời gian trong vũ trụ ngừng lại được. Bởi vì nếu thời gian ngừng lại sẽ không còn gì hết, sẽ

là tận thế. Hơn nữa, sẽ không còn ai để mà nhận định được đó là tận thế!

            Làm gì vi thi gian? Làm thế nào qun lý được thi gian?

           Nhà văn Saint–Exupéry kể lại một hôm ông đáp máy bay xuống sa mạc, và trước khuôn

mặt ngơ ngác của một người Maure bản xứ, ông giải thích: "Ông biết không, với chiếc máy

bay này, tôi chỉ mất hai tiếng đồng hồ trong khi các ông với đoàn lạc đà phải đi suốt hai

tháng".

– Nhưng như vy, người Maure trả lời, ông làm gì vi thi gian còn li?

            Vấn đề có lẽ là như vậy: Làm gì với thời gian còn lại? Hay nói một cách thời thượng, làm

thế nào quản lý được thời gian?

            Phần lớn những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm mang lại cho con người ngày hôm nay

nhiều thời gian hơn. Người ta đi lại nhanh hơn, thông tin nhanh hơn, làm việc nhanh hơn,

ăn uống nhanh hơn, nội trợ nhanh hơn. Nhờ những tiện nghi cơ giới và điện tử mỗi ngày

một thêm hữu hiệu, những công tác hàng ngày trở nên mỗi ngày một thêm nhẹ nhàng,

nhanh chóng. Từ tuần làm việc hơn 40 giờ vào đầu thế kỷ, nay sắp giảm đi còn 35 giờ, và sẽ

có triển vọng xuống dưới 30 giờ trong thế kỷ sắp tới. Người ta sẽ có nhiều thời giờ hơn để

thể thao, để học hỏi, để giải trí, để dạy dỗ con cái.

              Đó là trên lý thuyết, nhưng trên thực tế, tại sao con người mỗi ngày một sống vội vàng

hơn, phù phiếm hơn, tại sao tinh thần càng ngày càng căng thẳng hơn, giáo dục gia đình

càng lỏng lẻo hơn? Tại sao càng thừa thời gian, người ta lại càng cảm thấy thiếu, cũng như

càng kiếm nhiều tiền, người ta lại càng cảm thấy thiếu tiền?

Hiện nay, tất cả thế giới đang hướng về xã hội công nghiệp và kinh tế tư bản (hay "kinh

tế thị trường"), với hiệu quả kinh tế tối đa làm chủ đích. Đa số mọi hoạt động trong xã hội

đều nhắm vào tăng gia sản xuất, mỗi ngày một nhiều hơn và nhanh chóng hơn. Vì "thời giờ

là tiền bạc", cho nên người ta không có quyền mất những giây phút quí báu. "Fast food,

Quick service, Speedy, Express..." đã trở thành những nhãn hiệu thời thượng. Và đương

nhiên, stress trở thành căn bệnh của thời đại, với trăm ngàn chứng bệnh, như nhức đầu,

đau lưng, táo bón, mất ngủ... Đó là chưa kể tới những tai nạn xe hơi, những trường hợp tự

tử, đặc biệt trong giới trẻ, những trạng thái suy sút tinh thần, những đổ vỡ gia đình, nạn ma

túy... tất cả những vấn đề ít nhiều liên quan tới stress, do áp lực mà thời gian gây nên.

          Nhưng may thay, đã bắt đầu có những phản ứng xuất hiện, chống lại sự "chuyên chế"

của thời gian. Thay vì hối nhau: "Magne–toi!" (Lẹ lên), người ta đã bắt đầu khuyên nhủ lẫn

nhau: "Relax and enjoy!" (Hãy buông xả và hưởng đời), "Cool!" (Bình tĩnh), "Don't worry,

be happy!" (Đừng lo nghĩ, hãy sung sướng), "Soyez Zen!" (Hãy Thiền). Người ta đã bắt đầu

chấp nhận làm việc ít hơn, với tiền lương ít hơn, hay nghỉ hưu sớm hơn, với viễn tượng

hưởng được nhiều hơn thời gian còn lại.

          Nghĩ cho cùng, không bị áp lực của thời gian, tức là sự thảnh thơi thần trí, rốt cục quí

hơn vàng bạc. Nhiều người đã chối bỏ cuộc sống xô bồ của thành thị để trở về sống giữa

thôn quê, theo nhịp sống của thiên nhiên. Người thì quay về với những phương pháp cổ

truyền như Dưỡng Sinh, Thiền hay Thái Cực Quyền, người thì dùng thể thao, âm nhạc,

nghệ thuật để tìm lại sự thăng bằng thần trí. Không ai bảo ai, con người của cuối thế kỷ XX

đang tìm một lối thoát ra khỏi áp lực của thời gian, bằng cách dùng thời gian một cách

khôn khéo hơn, cho một hạnh phúc bền bỉ hơn.

           Kết luận

          Thời gian quả thật là một đề tài vô tận. Tôi ý thức được điều đó trong khi đi sâu vào trận

địa..., hay rừng rậm..., hay sa mạc... của thời gian.

Có lẽ cống hiến cả cuộc đời cho đề tài này cũng không hết, huống chi chỉ quan tâm đến

nó trong một khoảng thời gian ngắn ngủi.

Nhưng, như một bức tranh cũng có ngày phải vẽ xong vì màu đã khô, một bức tượng

phải nặn xong vì đất đã nứt, một bài thi phải trả vì chuông đã reo (cũng lại vấn đề thời

gian!), bài phiếm luận này rồi cũng phải chấm dứt.

           Vậy làm thế nào kết luận, và liệu có cần kết luận?

           Nếu quả đề tài này thật là vô tận, thì không cần gì đến kết luận. Còn nếu muốn kết luận

tạm thời, thì chỉ xin đưa ra một nhận xét: Thời gian rất đa dạng và mang đầy nghịch lý.

Thời gian có muôn hình vạn trạng: thời gian của nhà thi sĩ, thời gian của nhà triết học,

thời gian của nhà khoa học, thời gian của người Phật tử, thời gian vật lý, thời gian tâm lý,

thời gian sâu thẳm, thời gian địa chất, thời gian thẳng dọc, thời gian chu kỳ, thời gian ngày

xưa và ngày nay, thời gian xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường, thời gian đô thị và thôn

dã, thời gian cá nhân và tập thể... và còn bao nhiêu thời gian khác nữa. Chúng ta sống

nhiều loại thời gian đan díu với nhau, cũng như một sợi dây thừng gồm nhiều sợi dây khác,

mỗi sợi dây lại gồm nhiều sợi khác nữa, dài ngắn, to nhỏ, màu sắc khác nhau.

            Vậy câu hỏi: "Thời gian là gì? Ý nghĩa của thời gian là gì?" không thể nào trả lời một

cách đơn thuần, giản lược.

          Thời gian có thể vừa không là gì (theo đạo Phật, Epicure và Einstein), vừa là tất cả (theo

Bergson và các nhà thi sĩ). Thời gian nằm ở trong mỗi vật thể của vũ trụ và trong sự sâu

thẳm của tâm hồn. Thời gian có mặt trong mỗi phân tử, mỗi tế bào, mỗi giây thần kinh, mỗi

suy tư, mỗi cảm xúc.

             Cũng như lời của Marcel Proust: "Mt gikhông phi mt gi, đó là mt chiếc bình đy

hương v, âm thanh, dkiến và hoàn cnh". Hay lời của Jorge–Luis Borges: "Thi gian là

mt ngn la thiêu đt ta. Nhưng chính ta là ngn la".

                  Ngọn lửa thiêu đốt, nhưng cũng vừa chiếu sáng và sưởi ấm cuộc đời. Nếu chúng ta sợ

hãi thời gian, thù ghét thời gian, thì cũng phải trân trọng nó, yêu thương nó. Bởi vì nó là sự

sống, là tất cả. Tại sao không nhìn nó một cách bình thản, không xúc động, như thể là

chính nó, như Chân Như...

"Này," ông bạn tôi bỗng lên tiếng, "suy nghĩ bàn luận lâu dài về thời gian làm gì, chỉ mất

thời giờ vô ích. Triết lý mà không đưa tới hành động thì cũng chỉ là 'hão huyền trong

những hão huyền', chẳng đáng một đồng xu!"

           Tôi giật mình bừng tỉnh: Ông bạn tôi có lý!

           Điều quan trọng không phải là hiểu được thời gian là gì, mà là làm gì được trên thời

gian, hay đúng hơn với thời gian. Nghệ thuật sống có lẽ là nghệ thuật dùng thời gian, làm

thế nào điều khiển được thời gian, mà không bị thời gian điều khiển. Và nếu không làm

chủ được thời gian (vật lý), thì ít ra cũng không bị nô lệ bởi thời gian (tâm lý), cũng làm

bạn được với thời gian trong mình...

              Điều quan trọng có lẽ là ý thức được giá trị của thời gian, tận dụng từng giây phút, không

lãng phí thời giờ, luôn luôn quí trọng nó, nhưng cũng đồng thời không chấp chặt vào nó.

Làm thế nào cho mỗi giây phút cuộc đời thêm ý nghĩa, cho bản thân cũng như gia đình

và xã hội. Ý nghĩa của thời gian có lẽ là: Làm thế nào cho thời gian thêm ý nghĩa, tuy rằng

trong tuyệt đối tự nó không có ý nghĩa. Đối với Albert Camus, chính vì cuộc đời phi lý, cho

nên mới phải đem lại cho nó một ý nghĩa.

Xin nhường lại câu cuối cho con chồn nói với Hoàng tử Bé của Saint–Exupéry: "Chính

thi gian ta chăm sóc hoa hng làm cho hoa hng trthành quan trng".

          Olivet, mùa thu 1997

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro