Đất Nước

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Kho tàng thơ văn của dân tộc Việt Nam ta tựa như một bản hợp xướng du dương với những nốt trầm bổng làm đắm say lòng người... Ta nghe đâu đây lời thơ hùng tráng về một "Nam quốc sơn hà" vừa tự hào lại không kém phần kiêu hãnh; rồi một dấu luyến ngân lên của một thời đại mang đậm nét dân tộc; đột ngột lại giáng một âm dài thâm trầm, đau thương để rồi bản đàn ấy lại thăng lên những âm hào hùng, mang theo khí thế của một dân tộc nồng nàn yêu nước, kiên trung quật cường. Bản hùng ca ấy nên thanh, thành điệu chính là từ ngòi bút và xúc cảm chân thành của rất nhiều thi nhân, mà trong đó, mỗi nhà thơ mang một âm sắc khác nhau. Trong số đó, một trong những nốt hay nhất, dịu dàng và du dương nhất hòa thành hợp âm được viết nên bởi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà điển hình là đoạn thơ mở đầu bài thơ Đất Nước - chín câu thơ lý giải cho hai tiếng "Đất Nước" tưởng như xa xăm mà gần gũi, lớn lao mà mộc mạc - mở đầu cho chương thứ năm của bản trường ca " Mặt đường khát vọng"

Tác phẩm Trường ca Mặt đường khát vọng được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971. Đất Nước là chương thứ V trong trường ca này. Đoạn thơ chính là sự thức tỉnh của thế hệ trẻ ở các thành thị miền Nam, và rộng ra, sự tự nhận thức của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm chiến tranh xuống đường dấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. 9 dòng thơ đầu là những cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về sự sinh thành và phát triển của Đất Nước qua những hình tượng cụ thể, sinh động, gợi cảm sôi nổi và thiết tha. Cái hay của đoạn thơ là hình tượng Đất Nước được cảm nhận từ phương diện văn hóa dân gian, văn học dân gian. Với thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng...nhà thơ giúp cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn và sự hình thành của Đất Nước một cách sâu sắc.

" Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi"Câu thơ chỉ là một lời trần thuật nhưng lại mang cho người đọc một cảm giác thật đặc biệt, dường như có chút gì đó xưa cũ gợi về trong kí ức còn mơ hồ. Trước mắt người đọc, hai tiếng "Đất Nước" được cẩn thận viết hoa khiến lòng người không khỏi xao xuyến một nỗi niềm khó tả. Ôi... "Đất Nước"... Xưa nay có ai từng viết hoa hai tiếng thiêng liêng ấy ngoài Nguyễn Khoa Điềm? Ta đã từng biết đến một đất nước qua giọng thơ êm nhẹ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:"Việt Nam đất nước ta ơiMênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả dập dờnMây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều"Thế nhưng "đất nước" của Nguyễn Đình Thi không viết hoa! Còn Nguyễn Khoa Điềm, ông viết hoa hai tiếng "Đất Nước" như một niềm tôn kính, thương yêu bằng tất cả trái tim. Với nhà thơ, đất nước mình không chỉ là đất nước vô giác vô tri, đất nước từ lâu đã mang một linh hồn dân tộc thắm thiết, đậm đà mà từ đây, ông khẳng định rõ hơn về sinh thể thiêng liêng, ruột thịt này...Chỉ bao nhiêu đó thôi, nhà thơ đã khiến cho biết bao nhiêu tâm hồn lay động, để rổi kết lại bằng ba tiếng "đã có rồi" chậm và nhỏ, nhấn mạnh sức sống lâu đời của đất nước bằng chính sự dịu êm, ngọt ngào sâu sắc: " Đất Nước đã có tự ngàn xưa, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành, ở bên, yêu thương và chở che cho ta. Ta có thể không rõ Đất Nước khởi nguổn ra sao, thế nhưng Đất Nước thì luôn quan sát và dõi theo bước chân ta đi đến cuối đất cùng trời...". Cùng với đại từ phiếm chỉ "ta", không chỉ rõ ràng, cụ thể một ai, nhà thơ đã tô đậm lên được ngàn năm văn hiến lâu đời của đất nước, khắc sâu bề dày lịch sử mà đất nước đã đi qua.

Giọng thơ êm ái như ru ta về một thời thơ ấu "ngày xửa ngày xưa", ngày xưa yên bình với cổ tích, với mái nhà tranh bình dị, với bếp lửa ấm áp, bập bùng - nơi có mẹ, có cha, có ông, có bà, có tình thương gia đình không gì sánh nổi. Ở đó, ta lớn lên trong sự chở che của cha, trong lời ru à ơi dịu dàng của mẹ, trong những câu chuyện cổ xưa thật xưa chẳng rõ ai viết thành và viết năm nao mà chẳng hiểu sao lại in sâu vào trí óc thuở ngây ngô, khờ khạo.

Dáng hình của đất nước chính là ẩn trong những điều bình dị và gần gũi ấy, len lỏi vào từng chút một cuộc sống của ta từ thuở nằm nôi, nghe tiếng chõng kẽo cà kẽo kẹt, nghe câu hát ru ngọt ngào ru ta vào giấc ngủ bình an... Đất nước tựa như một sinh thể, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành. Đất nước thì bước qua bao thăng trầm lịch sử, còn ta bước qua lửa đạn chiến tranh để trọn vẹn gìn giữ hai tiếng "đất nước" yêu kính ngàn năm...Đối với câu hỏi hồn hậu: " Đất nước có tự bao giờ?", nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề né tránh. Ông không đứng trên quan điểm của một nhà sử học, cũng chẳng hề sử dụng ngôn từ của một nhà nghiên cứu xã hội, ông đơn giản chỉ dùng trái tim và tâm hồn mình để định nghĩa đất nước mà thôi. Thế nhưng cũng chính vì vậy mà đất nước qua thơ ông trở nên gần gũi và thân thuộc hơn bao giờ hết, bình dị và dịu êm như tình mẹ bao la. Từ hai tiếng "đất nước" tưởng như khó có thể nói thành lời, nhà thơ đã dùng ngòi bút tài hoa của mình vẽ nên những đường nét mộc mạc và cụ thể, cho ta thấy dáng hình đất nước mến yêu bằng một định nghĩa rất riêng - định nghĩa từ tiếng lòng của một người con hiếu thuận của quê cha đất tổ, của một hồn thơ không những tinh tế mà còn giàu tình cảm và uyên bác. Bằng cách gắn liền sự ra đời của sinh linh Đất Nước với sự ra đời của miếng trầu bà vẫn thường ăn, nhà thơ đã cho thấy một tâm hồn thấm nhuần tính dân tộc cùng với sự tinh tế của bản thân. Ông không những trả lời và cụ thể hóa cho khởi nguồn của đất nước thân thương này, ông còn gợi nhắc về truyền thống nhuộm răng, ăn trầu của các bà, các mẹ ngày xưa. Hương trầu thơm tho như phả vào từng con chữ, đưa ta về một miền kí ức nhỏ đầy ắp yêu thương bên người bà kính yêu, nơi có bà miệng nhai trầu móm mém, thơm thật thơm một kí ức sống mãi trong lòng người. Và miếng trầu têm khéo ấy, dẫu thật nhỏ bé, lại chở cả một "Đất Nước" cùng đi...Cứ thế, thời gian miệt mài chảy trôi, để rồi ta lớn khôn và "Đất Nước" cũng lớn lên cùng với lũy tre làng xanh thật xanh vẫn hiền hòa đong đưa theo làn gió. Tre chẳng biết từ thuở xa xăm nào đã gắn bó sâu sắc với làng quê Việt Nam, đi vào bao câu hát, bài thơ:" Tre xanh xanh tự bao giờChuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh" (Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)Cũng như đất nước mình vẫn dịu hiền lớn lên, lặng lẽ, âm thầm...Hai tiếng "dân mình" khi được cất lên cùng "Đất Nước lớn lên khi dân mình biết biết trồng tre mà đánh giặc" nghe sao mà thân thương quá đỗi, bởi lẽ dân mình cùng chung một dòng máu Rồng Tiên, cùng một gốc gác, cội nguồn, mang trong mình tương liên huyết mạch, là máu thịt, là anh em... Nếu như vế đầu câu thơ dâng sóng lòng ta lên bởi những thanh âm trong trẻo tràn đầy tình cảm thì nửa sau câu thơ gợi cho ta nhớ về hình ảnh chàng Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre mà đánh đuổi giặc Ân. Từ chính bờ tre Việt Nam hiền lành, mộc mạc ấy, sức mạnh của cả một dân tộc trội lên, vươn mình khôn lớn như Thánh Gióng khi xưa, trưởng thành từ chính những gian truân, thử thách:" Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng"

Đất nước mình đã lớn lên như thế đó, cũng như một sinh thể sống thực sự, trải qua bao biến cố thăng trầm, bao phen nguy nan, "biết bao đời đã chịu nhiều thương đau" thế nhưng cho đến cuối cùng, đất nước mình vẫn vượt qua tất cả, vẫn sừng sững và tồn tại hiên ngang, bởi đất nước luôn có chúng ta - những người con yêu kính đất mẹ sẵn sàng đánh đổi tất cả, dẫu cho có phải hi sinh cả tính mạng vẫn không nề hà, chùn bước mà chịu thua, bởi lẽ thẳm sâu trong tâm trí mỗi người, chỉ cần còn hơi thở cuối, ta đều nguyện dành trọn cho Tổ quốc thân yêu.

"Tóc mẹ thì búi sau đầu" Trong muôn vàn truyền thống đẹp ,nhà thơ chọn ra một hình ảnh thật giản dị nhưng rất tinh tế đặc sắc :hình ảnh người phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu _hình ảnh thật gần gũi ,thân quen in sâu trong nếp nghĩ ,gợi suy ngẫm về con người trong cuộc sống lam lũ vất vơ nhưng vẫn duyên dáng, tần tảo ,đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm tháng vẫn không thay đổi ,vẫn gợi suy ngẫm về cái đẹp giản dị mà thiêng liêng ." Cái kèo cái cột thành tên"Từ những điều thân thuộc và đời thường, những cái tên âu yếm, yêu thương ấy đã ra đời bằng những "kèo" và những "cột". Tên dẫu thật lạ nhưng mang đầy ý nghĩa và tình yêu khi ẩn sâu bên trong cái tên mộc mạc ấy chính là truyền thống về đặt tên cho con không đẹp - để bảo vệ con, mong cho con một đời bình an, hạnh phúc - từ lâu đã được truyền lại từ đời này sang đời khác, tiếp nối và lưu giữ trọn vẹn lời dạy cổ xưa.Không những vậy, "cái kèo cái cột" còn là những từ chứng kiến sự phát triển giàu mạnh thêm của ngôn ngữ nước mình - tiếng nói mà cả dân tộc ta luôn tự hào là trong sáng và giàu đẹp, tiếng nói mà toàn thể dân tộc Việt Nam ta đã "quyết đem hết tinh thần và lực lượng, của cải và tính mạng" ra để bảo vệ và gìn giữ, phát triển cho đến ngày hôm nay. Cùng với đó, hình ảnh cái kèo, cái cột còn gợi lên cảm giác thật gần gũi và thân thuộc, dường như trong tâm trí chợt hiện lên một mái nhà tranh đơn sơ nhưng lại rất đầm ấm, tuy giản dị nhưng lại có thừa niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian...Trải khắp bảy câu thơ, nhà thơ đã khéo lồng ghép biết bao truyền thống lâu đời giàu ý nghĩa của dân tộc. Mỗi truyền thống lại gắn với một câu chuyện, mỗi tập tục lại mang đến một cảm xúc riêng. Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ những tiếng "ngày xửa ngày xưa", đến miếng trầu têm thật khéo thật thơm, vòng qua lũy tre làng xanh rì rào để về đến nhà nhìn thấy bóng dáng và mái tóc mẹ, lắng tai nghe những cái tên trìu mến, yêu thương và còn ý nhị nhắc về nghĩa tình sâu nặng tựa như gừng và muối của cha và mẹ... Thế nên không có lí do gì mà nhà thơ lại "bỏ quên" mất một truyền thống đã đi cùng cha ông ta từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, đã bồi đắp nên lớp nền vững chãi cho ta cắm lên ngọn cờ dân tộc phấp phới tung bay:" Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng"Câu thơ như nét vẽ giản dị họa lên truyền thống trồng lúa nước cũng như đức tính cần lao, chịu khó, vốn "một nắng hai sương" biết bao đời tiếp nối và giữ gìn của toàn dân tộc. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến hình ảnh đồng lúa bát ngát, mênh mông, nơi cò thẳng cánh bay cao, nơi sáo diều vi vu yên bình chao lượn. Nhắc đến bông lúa trổ đòng đòng, thơm thật ngọt mùi hương lúa chín là nhắc đến những giọt mồ hôi mặn đã rơi xuống để đổi lấy tinh túy của đất trời. Những hạt ngọc trời ấy đã được làm ra từ đôi tay chai sạn vì nắng, vì gió, vì đồng áng, ruộng nương của những người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà. Từ lúc cấy mạ đến ngày trổ bông, lúa gặt về còn phải "xay, giã, giần, sàng", công phu lắm mới làm nên được một bát cơm thơm dẻo. Chính vì vậy, lúa gạo vốn quý lại càng quý hơn và ta càng thêm thương những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn. Họ không những cho ta bữa ăn ngọt lành, học còn tiếp nối ngọn lửa truyền thống của ông cha để lại. Vậy nên:" Ai ơi bưng bát cơm đầyDẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần".Câu thơ không chỉ dừng lại ở việc nêu lên truyền thống dân tộc mà còn là lời răn dạy dịu dàng, nhắc người ta nhớ đến công lao của người nông dân. Từ đó nhắn nhủ người ta biết yêu, biết quý hạt gạo, bởi mỗi hạt chứa đựng cả lịch sử và truyền thống hàng ngàn năm qua...Vậy là," Đất Nước có từ ngày đó..."Đất Nước đã khởi nguồn từ "đó", nghe như thanh âm từ những ngày xa xôi vọng về. Hai tiếng "ngày đó" gợi lên cảm nhận về khoảng thời gian lâu thật lâu và xưa thật xưa, cùng với dấu ba chấm "...", câu thơ như được ngân dài hơn, tha thiết và sâu lắng hơn. Dường như mỗi khi "Đất Nước" được cất thành lời, đến câu "Đất Nước có từ ngày đó...", người đọc đều nhỏ giọng hơn, nhẹ nhàng hơn, để cho thanh âm như nhỏ dần, nhạt dần, hòa dần vào trong không gian và dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi.Khép lại chín câu thơ đầu của chương V, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thiện xong bức họa đất nước bằng cách vẽ của riêng mình. Đất nước trong ông đã hiện lên ngay trước mắt người đọc, bằng cả thị giác và cả xúc cảm bồi hồi, khó tả đang trào dâng.Thơ ông vốn không vần, cũng chẳng đi theo một niêm luật nào cụ thể, tưởng như sẽ rất nhàm chán và khô khan. Thế nhưng không... "Đất Nước" không những không bị cuốn trôi theo dòng thời gian hay bị lu mờ bởi những tác phẩm cùng đề tài, "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm đã tỏa sáng từ chính những câu thơ không vần chẳng luật ấy. Chính bởi thơ không vần nên ý thơ mặc sức mà lan tỏa. Chính bởi ngôn từ bình dị, mộc mạc không phô trương, bề thế mà "Đất Nước" dịu êm như bản tình ca khắc ghi sâu vào lòng mỗi người - bản tình ca giữa "ta" và "Đất Nước - thắm thiết, đậm đà và nặng sâu. Cùng với kiến thức phong phú, uyên bác về truyền thống dân tộc mình, nhà thơ đã đưa cả bốn nghìn năm lịch sử vào từng câu, từng chữ, để mỗi khi đọc lên, dải đất uốn lượn hình chữ S cong cong ấy hiện lên trong tâm trí mỗi người dân đất Việt thật tròn vẹn, thật đẹp và thật sáng tươi. Đúng như trong "Học văn đọc văn", Giáo sư Trần Đình Sử từng nhận định: " Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ". Đọc "Đất Nước", người ta không chỉ thấy được một đất nước gần gũi và dịu hiền trong tâm hồn mình, người ta còn thấy cả một tấm lòng yêu nước dịu dàng, tinh tế cùng với tài hoa cầm bút của người nghệ sĩ đã viết nên bài thơ.Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kì những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng kiến sự ra đời của nhiều tuyệt tác, thực sự là một giai đoạn mà thơ văn nở rộ như một vườn hoa rực rỡ sắc màu, đặc biệt là đối với văn học miền Nam. "Đất Nước" đã góp phần hương sắc dìu dịu mà len lỏi in sâu vào trí óc thế hệ thanh niên trẻ miền Nam lúc bấy giờ, cũng như toàn thể người dân Việt Nam, thức tỉnh họ sớm bước đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bảo vệ độc lập và tự do của một dân tộc anh hùng. Và dẫu ra đời trong hoàn cảnh bão lửa mưa bom, "Đất Nước" vẫn luôn nhẹ nhàng và dịu êm như người mẹ dịu hiền vỗ về lòng ta bởi từng lời thơ du dương ấy, để rồi bốn mươi tám năm qua, như đứng ngoài quy luật của thời gian, "Đất Nước" vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị tinh thần mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hướng đến. 

Trong "Đất Nước," Nguyễn Khoa Điềm đã tận dụng chất liệu văn hóa dân gian một cách khéo léo để vẽ nên bức tranh truyền thống văn hoá rực rỡ. Những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, như những viên ngọc sáng lấp lánh, được sắp xếp hài hòa và huyền bí, tạo nên một không gian văn hoá truyền thống vừa quen thuộc vừa mới lạ. Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là nhà thơ đưa vào những dòng thơ của mình những hình ảnh quen thuộc từ dân ca, tục ngữ, mà còn là nhà thơ đánh thức những giá trị tâm hồn, gieo mầm niềm tự hào và tình yêu quê hương trong trái tim mỗi độc giả. Đất nước, trong thơ của ông, không chỉ là một vùng đất trên bản đồ mà còn là một tâm hồn bất tử, được chắp cánh bởi những câu chuyện huyền bí và truyền thống văn hoá dân gian.

Mặc cho bước chân thời gian vẫn chảy trôi không ngừng,thơ văn vẫn ở đó và vẫn tỏa sáng, bởi lẽ "Thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trở thành bất tử" ( Shelly), nên chúng cũng trường tồn mãi với tháng năm. Bài thơ "Đất Nước" của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã ngân lên một khúc dạo du dương, dịu dàng, khắc sâu vào từng trái tim, từng tâm hồn, gợi lên một niềm yêu thương, tự hào khó tả về mảnh đất quê hương thân thương, nơi ta thuộc từng đường đi lối về, từng hàng cây ngọn cỏ. Dù đi đâu, đi đến tận cuối đất cùng trời, ta vẫn tự hào mang trong mình dòng máu Lạc Hồng hào hùng, hiên ngang. Dù ta là ai, chỉ cần ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, trái tim sẽ mãi luôn nhớ: " Dù đi đâu... Đến phương trời nào, cũng chẳng đẹp hơn nước non Việt Nam"...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#no0ooo