CHƯƠNG BA

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Ở con người Conway bao giờ cũng có một phần bàng quan đứng nhìn, mặc dầu phần còn lại có thể hoạt động sôi nổi. Ngay giờ đây, trong lúc chờ đợi đám người lạ kia tới gần, anh cũng không tỏ ra xốn xang quyết định xem có thể hoặc không thể làm gì khi những trường hợp bất ngờ có thể xảy ra. Cái đó không phải là dũng cảm, hoặc điềm tĩnh hoặc một sự tự tin cao cả vào quyền lực của mình để tùy cơ quyết định. Nói một cách tệ nhất thì đây là một hình thức lười nhác, không muốn gạt đi cái thái độ chỉ đứng nhìn xem sự việc xảy ra.

Khi đám người leo xuống thung lũng thì thấy rõ đây là một đám khoảng hơn mười hai người đang khiêng theo một cái ghế có mui che như một cái kiệu. Một lát sau, có thể nhìn rõ trên ghế có một người, mình khoác áo choàng màu xanh lam. Conway không hiểu tất cả đoàn người ấy đi đâu, nhưng đúng như cô Brinklow vừa nói lúc nãy: Đây là trời phù hộ nên mới khiến đám người nọ ngẫu nhiên tới đây vào đúng lúc này. Khi đám người chi còn cách một quãng có thể nghe thấy tiếng hô gọi, thì Conway rời mấy người của mình tiến lên phía trước; anh đi thong thả vì vốn biết người phương Đông trọng nghi lễ chào hỏi lúc gặp nhau và thích giành thời gian làm việc đó. Khi còn cách họ mấy thước, anh dừng lại, cúi đầu chào rất lịch sự. Anh rất ngạc nhiên thấy người khoác áo choàng xanh từ trên ghế bước xuống, tiến lại phía anh với dáng điệu ung dung và trang nghiêm, rồi giơ tay ra. Conway đáp lại và nhận thấy người ấy là một ông già hoặc một người nhiều tuổi Trung Quốc, tóc đã hoa râm, mày râu nhẵn nhụi, có phần xanh xao trong chiếc áo khoác ngoài bằng lụa thêu hoa. Người Trung Quốc đó hẳn cũng ngắm nhìn nhận xét Conway như vậy. Rồi, bằng một thứ tiếng Anh chính xác và có lẽ quá chính xác, người ấy nói: "Tôi từ Tu viện Lama Shangri-La tới".

Conway lại cúi đầu chào và sau một lúc lặng yên, anh bắt đầu nói ngắn gọn về trường hợp đã dẫn anh cùng ba người bạn đây lâm vào một vùng rất ít người lui tới này. Nghe anh thuật lại xong, người Trung Quốc ra hiệu là mình đã hiểu.


"Câu chuyện thật đặc biệt", người ấy nói và đưa mắt nhìn chiếc máy bay bị hư hại, với vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi. Sau đó, người ấy nói tiếp: "Tôi tên là Tưởng, mong ông làm ơn giới thiệu tôi với các bạn của ông."

Conway cố mỉm cười lịch sự. Anh có phần ngạc nhiên vì cái hiện tượng mới lạ giữa vùng Tây Tạng hoang vu lại có một người Trung Quốc nói tiếng Anh rất thành thạo, có cách xử thế của một con người phố Bond. Anh quay lại phía mấy người của anh lúc ấy cũng đã theo kịp đến và đang nhìn cuộc gặp gỡ, với mỗi người một mức độ ngạc nhiên khác nhau. Anh giới thiệu: "Đây là cô Brinklow... Ông Barnard đây là một người Mỹ... Đây là ông Mallinson... Còn tôi là Conway. Chúng tôi rất vui mừng được gặp ông, tuy cuộc gặp gỡ này cũng khó hiểu như việc chúng tôi bị đưa đến đây. Thực vậy, chúng tôi cũng đang định đi đến tu viện của ông, do đó là hai lần may. Nếu ông có thể chỉ cho tôi hướng đi.

"Không cần làm việc đó. Tôi xin rất vui lòng làm người dẫn đường cho các ông."

"Nhưng tôi đâu dám phiền ông đến như vậy. Ông thực quá tốt, song nếu đường từ đây đến tu viện không xa..."

"Nói không xa, song nó không dễ đi. Tôi lấy làm vinh dự được đi cùng ông và các bạn của ông."

"Nhưng thực là..."

"Tôi thiết tha mong ông chấp nhận."

Conway thấy bàn cãi lúc này, xét về địa điểm và hoàn cảnh thì có nguy cơ trở nên buồn cười, nên đáp lại: "Thế thì hay quá, chúng tôi rất đội ơn ông."

Mallinson vốn từ nãy vẫn nén chịu nghe những lời như đùa cợt ấy, giờ đây nói xen vào, giọng chua cay đốp chát: "Chúng tôi sẽ không ở lại lâu," anh nói cộc lốc. "Chúng tôi sẽ trả tiền sòng phẳng và chúng tôi muốn thuê một số người của các ông để giúp chúng tôi trở về. Chúng tôi muốn quay lại cuộc sống văn minh càng sớm càng tốt."

"Thế ông tin chắc chắn rằng đến đó là các ông phải sống xa nền văn minh ư?"


Câu hỏi với giọng nói hết sức ngọt ngào chỉ khiến cho anh thanh niên càng thêm gay gắt. "Tôi tin chắc là lúc này tôi đang ở xa nơi tôi muốn được sống, và cả bọn chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi sẽ xin cám ơn việc các ông cho chúng tôi trú tạm một thời gian, nhưng chúng tôi sẽ cám ơn các ông rất nhiều nếu ông giúp chúng tôi phương tiện để trở về. Ông nghĩ đi từ đây về Ấn Độ sẽ mất bao lâu?"

"Tôi thực sự không thể nói được điều gì về việc ấy."

"Ồ, tôi mong rằng chúng tôi sẽ không gặp trở ngại gì về việc này. Tôi đã có một số kinh nghiệm thuê mướn người dân địa phương làm công việc khuân vác; chúng tôi mong ông sẽ dùng thế lực của mình để chúng tôi được đối xử thẳng thắn."

Conway thấy hầu hết những lời lẽ của Mallinson có phần hung hăng một cách không cần thiết và anh vừa sắp xen vào thì người Trung Hoa nọ đáp lại, vẫn với vẻ hết sức đàng hoàng trang nghiêm: "Thưa ông Mallinson, tôi chỉ có thể đoán chắc với ông rằng, các ông sẽ được đối xử rất tử tế và cuối cùng các ông sẽ không phải nuối tiếc một chút gì."

"Cuối cùng?" Mallinson gào to, nhấn mạnh vào từ ấy, nhưng cuộc cãi vã được gạt đi dễ dàng vì người ta đã bày ra thết đãi rượu vang và hoa quả, những thứ này được đám người Tây Tạng to bé, chắc nịch, mình vận quần áo bằng da cừu, đầu đội mũ lông, chân đi giầy da bò, mang theo. Rượu vang có mùi thơm không khác gì thứ vang trắng của Đức, còn hoa quả gồm những quả xoài chín kỹ; sau một thời gian mấy tiếng đồng hồ nhịn đói, lúc này ăn vào bốn người thấy ngon tuyệt, tuy có chút khó nuốt đấy. Mallinson ăn uống ngon lành không chút nghĩ ngợi, nhưng Conway, giờ đây những lo lắng trước mắt đã được giải quyết, còn những lo lắng xa xôi anh không muốn nghĩ đến, anh lấy làm lạ không hiểu làm thế nào mà người ta lại trồng được xoài ở nơi núi cao như thế này. Anh cũng suy nghĩ về ngọn núi ở phía bên kia thung lũng; một ngọn núi gây xúc động mạnh khi được đánh giá theo một tiêu chuẩn nào đó, và anh ngạc nhiên là một số nhà du lịch đã không nói nhiều đến nó trong những cuốn sách mà một chuyên đi đến Tây Tạng thế nào cũng thôi thúc họ phải viết ra. Nhìn ngọn núi, đầu óc anh đang hình dung mình leo lên nó và đang tìm một con đường qua đèo hoặc qua một hành lang thì có tiếng Mallinson kêu lên kéo đầu óc anh quay về thực tại; anh liền nhìn xung quanh và thấy người Trung Hoa nọ đang chăm chú nhìn


anh và hỏi: "Ông Conway, ông vừa đang ngắm ngọn núi phải không?" "Vâng. Một quang cảnh thực đẹp. Nó hẳn có tên gọi, phải không ông?" "Nó có tên gọi là ngọn Karakal."

"Tôi chưa từng được nghe thấy cái tên ấy.Nó có cao lắm không ông?"

"Trên hai mươi tám nghìn bộ."

"Thật thế à? Tôi không nghĩ là lại có một ngọn núi nào cao như vậy ngoài ngọn Himalaya. Chẳng hay con số đó có chính xác không? Ai là người đã đo nó?"

"Thưa ngài, ngài còn nghĩ người đo nó là ai? Có gì là kỵ nhau giữa cuộc sống ở tu viện với khoa Tam giác lượng?"

Conway thích thú câu nói và anh đáp lại: "Ồ, không, không chút nào hết". Rồi anh cười lễ phép. Anh nghĩ đây là một câu nói đùa hơi thô thiển, nhưng có lẽ một câu nói đùa đáng tận dụng. Và ngay sau đó, cuộc hành trình đến Shangri-La bắt đầu.

Suốt sáng hôm đó họ phải trèo chậm chạp trên những con đường không dốc lắm, nhưng ở độ cao như vậy, đòi hỏi người leo phải gắng hết sức, nên không còn ai có dư sức để nói chuyện. Người Trung Hoa nọ ngồi sang trọng trên chiếc ghế của ông ta, việc làm này có thể coi như không hào hiệp nếu không thấy là vô lý khi hình dung cô Brinklow ngồi trên cái chỗ ngồi huy hoàng đó. Conway, người mà không khí loãng trên độ cao ít tác động đến hơn mọi người, cũng thấy khó nhọc, đôi lúc mới bắt chuyện với đám người khiêng ghế. Anh biết một ít tiếng Tây Tạng, chi vừa đủ để hiểu được rằng đám người này rất mừng khi được trở về tu viện. Dù có ý muốn tiếp tục nói chuyện với người cầm đầu của đoàn người này, anh cũng không thể làm được, vì người này, mắt nhắm lại, gương mặt lấp một nửa sau bức màn che và hình như ông ta có tài nhắm mắt là ngủ liền và ngủ đúng lúc.

Trong lúc đó, mặt trời đã sưởi ấm; cơn đói và khát đã dịu đi, nếu không phải là họ đã được ăn uống thoải mái; và không khí trong sạch như ở một hành tinh khác, cứ mỗi ngụm hít sâu lại trở nên quý giá hơn. Người ta phải hít thở thong thả, khoan thai; việc làm này lúc đầu nghe có vẻ làm cho mọi người bối rối, nhưng sau một thời gian, nó khiến mọi người an tâm, ngây


ngất, toàn thân chuyển dịch theo nhịp hít thở, bước đi và suy nghĩ; những lá phổi, không còn kín đáo và tự hoạt động mà hoạt động tuân theo sự hài hòa với đầu óc và cặp chân. Conway, vốn có chiều hướng thần bí phù hợp một cách kỳ lạ với cái chất hoài nghi, nên không thấy lúng túng khổ sở vì cái cảm giác ấy. Một hai lần anh nói mấy câu vui vẻ với Mallinson, nhưng anh thanh niên này còn đang vất vả, căng thẳng để trèo núi. Barnard cũng thở hổn hển như người lên cơn hen, còn cô Brinklow đang chiến đâu ác liệt với cái phổi mà vì một lý do nào đó cô cố gắng giấu giếm không cho ai biết.

"Chúng ta sắp lên tới đỉnh rồi," Conway nói để khuyến khích.

"Tôi đã có một lần chạy đuổi theo xe lửa và cũng cảm thấy đúng như bây giờ," cô đáp lại.

Conway nghĩ bụng: Vậy đấy, có những người coi rượu táo cũng như rượu sâm banh. Đấy là vấn đề khẩu vị.

Anh ngạc nhiên khi thấy ngoài những phút lúng túng khó xử, anh có rất ít hoài nghi, lo lắng, và cái đó về riêng bản thân thì anh không hề có chút nào. Trong cuộc đời, có những lúc người ta mở rộng tâm hồn mình đúng như có thể mở rộng miệng túi, nếu cuộc vui buổi tối tỏ ra đắt giá, nhưng cũng mới mẻ một cách không ngờ. Conway, vào buổi sáng mệt bở hơi tai ấy, đúng nhìn ngọn Karakal, anh cũng sẵn sàng mở rộng tâm hồn thấy mình được khuây khỏa nhưng chưa hẳn phân khích khi đón nhận những cái mới mẻ. Sau mười năm bôn ba qua nhiều vùng ở châu Á, anh đã có được cách đánh giá khe khắt về nhũng nơi và những sự việc xảy ra; song, trước cảnh tượng này, anh phải thừa nhận là nó hứa hẹn, báo hiệu nhiều cái phi thường.

Đi được khoảng vài dặm, dọc khu thung lũng, thì đến quãng đường phải leo dốc cao hơn, nhưng lúc này mặt trời bị mấy phủ kín và một đám sương mù trắng xóa che kín trước mắt mọi người. Tiếng sấm và tiếng tuyết lở từ đồng tuyết ở phía trên vang dội lại; không khí trở lạnh, với khí hậu bất thường luôn thay đổi của vùng núi, không khí trở nên lạnh buốt. Một cơn gió mạnh và mưa tuyết kéo đến làm ướt hết cả đám người, khiến họ thêm hết sức khó chịu; ngay cả Conway, trong một lúc cũng cảm thấy không thể đi xa hơn được nữa. Song chi một lát sau đó, dường như đã lên đến đỉnh cao, vì thấy đám người khiêng dừng lại để điều chỉnh kiệu. Barnard và Mallinson cả hai đều bị mệt quá nên đoàn người cứ liên tiếp phải ngừng lại để đợi; nhưng đám


người Tây Tạng rõ ràng lo lắng muốn đi vội, họ ra hiệu cho mấy người của Conway biết đoạn đường còn lại sẽ đỡ khó đi hơn.

Nghe những lời đoán chắc như vậy, mấy người lại thấy lo âu khi thấy đám người Tây Tạng mở bọc lấy thừng ra.

"Họ chuẩn bị để treo cổ bọn ta chăng?" Barnard thốt kêu lên, vẻ hài hước, thất vọng; song đám người dẫn đường liền ra hiệu cho biết là họ chi có ý định buộc mọi người lại theo kiểu leo núi thông thường mà thôi. Khi họ thấy Conway cũng thạo việc dùng "thừng, họ tỏ ra kính họng anh hơn và để anh tùy ý buộc theo cách của anh. Anh sắp xếp buộc người anh ngay sau Mallinson với mấy người Tây Tạng ở phía trước và phía sau; rồi đến Barnard và cô Brinklow, rồi đến một số người Tây Tạng ở phía sau nữa. Conway chẳng mấy đã nhận thấy trong lúc người cầm đầu họ tiếp tục ngủ thì đám người Tây Tạng có ý muốn để anh thay thế lãnh đạo đoàn người. Anh cũng quen nhanh chóng và nếu có gì khó khăn anh sẽ đưa ra cái mà anh biết là của anh: Gây được lòng tin và tư cách chỉ huy. Trước kia, anh vốn là một nhà leo núi bậc nhất và chắc bây giờ anh vẫn còn rất khá. "Cô phải để ý đến ông Barnard," anh bảo cô Brinklow, nửa đùa nửa thật; và cô Brinklow đáp lại với vẻ bẽn lẽn của một con đại bàng: "Tôi sẽ cố gắng hết sức mình, nhưng như ông biết đây, từ trước đến nay tôi chưa hề bị lấy thừng buộc vào người bao giờ."

Đoạn đường sau, tuy đôi lúc có gây hứng thú, cũng đã bớt gay go hơn, không như anh đã nghĩ, và người ta cũng đỡ căng đến vỡ lồng ngực lúc leo lên. Con đường đi là một đoạn tắt cắt ngang dọc sườn một bức tường đá mà đỉnh cao ở trên bị mây mù che kín. Có lẽ cũng may vì mây mù phủ kín cả vực thẳm ở phía bên kia, tuy Conway vốn rất tinh mắt về nhìn đỉnh cao, muốn được nhìn rõ nơi mình đang đứng. Con đường mòn nhiều chỗ rộng không quá hai bộ, và cứ nhìn cách thức đám người Tây Tạng xoay sở để khiêng chiếc kiệu ở những điểm đó, anh thấy rất phục họ cũng như phục thần kinh của con người ngồi kiệu vẫn điềm nhiên ngủ được suốt dọc đường. Đám người Tây Tạng này chắc chắn tin cậy được, nhưng dường như đến những quãng đường mòn rộng hơn và hơi dốc xuống, họ vẫn tỏ ra vui mừng. Những lúc ấy họ bắt đầu cùng nhau cất tiếng du dương hát lên những giai điệu nhạc sĩ Massenet trước đây đã soạn cho một số vở ba lê Tây Tạng. Mưa tạnh, không khí ấm dần lên.


"Này, một mình chúng ta chắc chắn sẽ không thể nào tìm ra được con đường này," Conway nói, ý định để làm mọi người phấn chấn thêm, nhưng Mallinson không thích lắm. Thực vậy, anh có tâm trạng rất sợ và giờ đây khi đoạn xấu nhất đã qua, tâm trạng này lại có cơ lộ rõ hơn. "Chúng ta phải tiếc lắm chăng?" Anh đáp lại, giọng chua chát.

Con đường mòn tiếp tục dốc xuống thẳng đứng hơn, và đến một chỗ

[1]

10


Conway thấy có mấy cây edelweiss , dấu hiệu chào mừng đầu tiên của

tầng cao mến khách hơn.

"Trời ơi, anh Conway, dễ thường anh tưởng tượng mình đang dạo chơi vơ vẩn trên vùng núi Alps chăng? Chúng ta đang chuẩn bị cho mình sẽ cắm trại ra sao đây, đây là điều tôi muốn biết? Và chương trình hành động của chúng ta khi tới đó sẽ ra sao? Chúng ta sẽ làm gì?"

Conway điềm tĩnh đáp: "Nếu chú có tất cả những kinh nghiệm mà tôi có, chú sẽ biết rằng ở đời có những lúc thích thú nhất là lúc không làm gì hết. Sự việc xảy đến với anh và anh cứ mặc cho nó nảy sinh. Chiến tranh có phần giống như thế đấy. Người ta lấy làm hạnh phúc, như trường hợp chúng ta hiện nay, khi xúc cảm về cái mới làm dịu đi nỗi khó chịu."

"Anh triết lý quá đáng với tôi lắm đây. Hồi ở Baskul đầy bạo loạn tâm tính anh đâu có như vậy!"

"Tất nhiên là không, vì khi ấy tôi còn có cơ may để thay đổi sự việc bằng hành động của mình. Còn giờ đây, ít nhất vào lúc này, không có cái cơ may đó. Chúng ta có mặt ở đây vì chúng ta có mặt ở đây, nếu anh muốn tìm lý do thì nó đây. Tôi vẫn thường lấy nó để an ủi mình?"

"Hẳn anh cũng biết rồi đây con đường trở lại ngược con đường chúng ta vừa đến thực khủng khiếp. Chúng ta đã phải trườn bò trên mặt một ngọn núi dốc thẳng đứng suốt một tiếng đồng hồ, cuối cùng - tôi đã để ý thấy điều đó."

"Thì tôi cũng vậy."

"Anh cũng để ý thấy ư?" Mallinson phá ra cười, vẻ phấn khích. "Tôi dám nói tôi là một kẻ hay quấy rầy, nhưng tôi không thể khác được. Tôi nghi ngờ tất cả những cái này. Tôi có cảm tưởng chúng ta đang thực vượt qua cả


ý của bọn này muốn chúng ta phải làm. Bọn chúng đang đẩy chúng ta vào một nơi nguy hiểm."

"Dù cho có thế nữa thì chỉ còn cách là ở đây cho đến cùng và chết." "Tôi biết đó là logic vấn đề, nhưng xem ra thái độ ấy chẳng giúp ích gì

cho chúng ta. Tôi e rằng bản thân tôi không dễ dàng chấp nhận hoàn cảnh

như anh. Tôi quên làm sao được mới cách đây có hai ngày, chúng ta còn đang ở lãnh sự quán Baskul. Nhớ lại tất cả những gì xảy đến với chúng ta từ ngày đó, tôi thấy phần nào khó chịu quá. Tôi rất buồn. Người tôi đã mệt rã rời. Nó khiến tôi thấy mình đã may mắn tránh được chiến tranh; tôi cho rằng tôi phải phát điên lên vì sự việc. Cả cái thế giới quanh tôi đây, tôi thấy dường như đã hoàn toàn phát điên. Bản thân tôi hẳn cũng đang điên dại khi ngồi nói với anh những điều này."

Conway lắc đầu "Chú em thân yêu ơi, không phải vậy. Chú hai mươi tư tuổi đầu lại đang ở trên độ cao khoảng hai dặm rưỡi; những cái đó cũng đủ làm nguyên nhân gây nên tâm trạng chú lúc này. Tôi nghĩ chú đã vượt qua được cuộc thử thách gay go một cách rất tài tình, hơn tôi nhiều vào lúc tôi ở tuổi chú."

"Thế anh có cảm thấy sự điên rồ của tất cả những cái ấy không? Cái cách chúng ta bị đưa đến vùng núi cao này và những lúc khủng khiếp chờ đợi trong gió gào, nào anh phi công hấp hối chết dần và rồi cuộc gặp gỡ những người này, anh có thấy tất cả như xảy ra trong con ác mộng và không thể tin được khi anh nhìn lại không?"

"Tất nhiên là như vậy."

"Vậy, tôi muốn biết anh làm thế nào mà vẫn giữ được sự bình tĩnh lạnh lùng trước mọi sự việc?"

"Chú thực sự muốn biết ư? Tôi sẽ nói nếu chú muốn biết, mặc dầu khi tôi nói ra có thể chú sẽ cho tôi là con người chai đá. Vì có quá nhiều những cái khác khi tôi có thể nhìn lại, cũng như đã xảy ra trong con ác mộng. Đây không phải là phần phát điên duy nhất của thế giới, chú Mallinson ạ. Xét cho cùng, nếu chú phải nghĩ về Baskul, thì chú có nhớ là ngay cái lúc trước khi chúng ta rời đây ra đi, những người cách mạng nổi dậy đã tra tấn những tù binh của họ như thế nào để moi tin tức không? Một chiếc máy giặt là11[1]


bình thường tất nhiên là rất hữu hiệu, nhưng tôi không hề thấy một cái gì dễ sợ nực cười hơn. Và chú có nhớ cái thông điệp cuối cùng trước khi đường dây thông tin với chúng ta bị cắt đứt không? Một tờ thông báo của hãng dệt Manchester hỏi xem chúng ta có biết cửa hàng buôn nào ở Baskul nhận bán coocxê! Chú thấy thế có đủ điên không? Chú hãy tin rằng, khi tới đây cái xấu nhất có thể đến với chúng ta cũng chi là chúng ta đánh đổi một hình thức điên này lấy một hình thức điên khác. Còn về chiến tranh, nêu chú có bị vướng vào đây thì chú cũng nên làm như tôi, học co lại một cách lạnh lùng."

Hai người còn đang nói chuyện với nhau thì một đoạn leo dốc khó khăn nhưng chỉ ngắn thôi đã khiến họ phải nín thở, chỉ trong mấy bước mà phải căng thẳng như suốt từ trước cộng lại. Một lát sau đó, mặt đất trở nên bằng phẳng, đám người từ trong mây mù bước ra vùng quang đãng đầy ánh nắng. Phía trước, chỉ cách có một quãng ngắn là tu viện Lama Shangri-La.

Với Conway khi nhìn tu viện lần đầu tiên, đây có thể là một ảo ảnh vỗ cánh bay ra từ các nhịp điệu cô đơn, trong đó tình trạng thiếu dưỡng khí đã bao vây mọi giác quan của anh. Thực tế, đây là một cảnh tượng kỳ lạ và gần như khó tin. Một nhóm đình tạ nhiều màu sắc vắt vẻo bên sườn núi, chúng không mang nét trầm ngâm ảm đạm của một tòa lâu đài ở Rhineland[2], mà có cái tinh tế ngẫu nhiên của những đài hoa cắm xuyên vào một vách đá cheo leo. Một cảnh tượng nguy nga hùng vĩ mà thanh tú. Một cảm xúc khắc khổ đưa mắt ngước nhìn từ những mái nhà màu xanh sữa đến cái thành lũy

[3]


đá xám ở bên trên coi cũng kỳ lạ như Wetterhorn trên Grindelwald . Phía

bên kia những sườn ngọn núi Karakal phủ đầy tuyết cao vút lên thành một hình chóp chói lòa. Conway nghĩ đây rất có thể là một phong cảnh vùng núi đáng kinh hoàng nhất trên thế giới và anh hình dung đến sức nén càng vô biên của tuyêt và băng đè lên đá mà đá lúc này làm nhiệm vụ của một bức tường khổng lồ ngăn giữ nó lại. Có lẽ một ngày nào đó, toàn bộ ngọn núi sẽ vỡ tung ra, và một nửa cái cảnh lộng lẫy băng giá của Karakal đổ nhào xuống thung lũng. Anh ngạc nhiên không hiểu sao cái rủi ro mỏng manh kết hợp với cái kinh hoàng của nó thậm chí còn có thể gây được phấn khích dễ chịu.

Không kém phần quyến rũ là quang cảnh ở phía dưới vì bức tường núi tiếp tục đổ xuống, gần như thẳng đúng, thành một đường nứt, hiện tượng này có thể do một biên cố địa chất ở thời xa xưa tạo nên. Nền thung lũng ở nơi


mờ xa, nhìn dịu mắt một màu xanh lục; nơi đây kín gió, tu viện nhìn ra nó bao quát chứ không lấn át. Conway thấy đây là một địa điểm thiên nhiên ưu đãi đầy vẻ hấp dẫn, mặc dầu nếu nơi đây có người ở thì cộng đồng này hẳn hoàn toàn bị cô lập bởi những dãy núi cao vời vợi, không thể leo sang được phía xa bên kia. Nơi đây duy chỉ có khu tu viện là lộ ra một con đường trèo lên được mà thôi. Nhìn cảnh vật, Conway cảm thấy lòng hơi se lại vì sợ hãi, có lẽ những điều lo âu của Mallinson không hoàn toàn coi thường được. Nhưng cảm giác ấy chỉ thoáng qua để rồi hòa vào mối cảm xúc sâu xa hơn, nửa thần bí, nửa rõ ràng trước mắt là cuối cùng đã đến được một nơi tận cùng, nơi chấm dứt.

Anh chẳng hề nhớ rõ bằng cách nào anh và mấy người kia đã đến được tu viện này, hoặc những thể thức họ đã được tiếp nhận vào đây, được cởi giày và dẫn vào khu nhà này. Không khí loãng ở đây có kết cấu như trong giấc mơ phù hợp với màu xanh men sứ của da trời; với mỗi hơi anh thở, mỗi ánh mắt anh đưa nhìn ở nơi yên tĩnh đê mê này đã khiến anh như không để ý đến nỗi bồn chồn của Mallinson, những lời dí dỏm của Barnard và hình tượng một người đàn bà chuẩn bị chu đáo để đương đầu với trường hợp xấu nhất ở cô Brinklow. Anh mơ hồ nhớ lại sự ngạc nhiên khi thấy khu bên trong tu viện rộng rãi thế, ấm áp thế và rất sạch sẽ; nhưng anh không có thì giờ để quan sát nhiều hơn những cái đó vì người Trung Hoa nọ từ trên cái ghế có mui che đã bước xuống dẫn đường cho anh cùng mấy người đi qua mấy phòng chờ. Giờ đây, người ấy tỏ ra rất nhã nhặn, lịch sự.

"Tôi phải xin lỗi," người ấy nói, "Vì đã không chăm sóc các ông trên đường đi, nhưng xin thú thực, những cuộc hành trình như vậy không hợp với tôi và tôi phải lo giữ sức cho mình. Tôi mong rằng các ông không đến nỗi quá mệt."

"Chúng tôi đã cố gắng," Conway đáp lại, vừa gượng mỉm cười.

"Tuyệt. Và giờ đây, nếu các ông vui lòng đi theo, tôi sẽ xin dẫn các ông đến phòng của mình. Chắc các ông muốn được tắm rửa. Nơi ăn chỗ ở của chúng tôi giản dị, song tôi hy vọng nó sẽ đáp ứng đẩy đủ."

Tới đây, Barnard lúc này vẫn còn hơi mệt, đã bật nên tiếng cười khúc khích vừa khò khè thở. "Ồ" anh vừa thở vừa nói, "Tôi có thể nói là tôi chưa yêu mến cái khí hậu ở đây - không khí dường như có phần nào dính vào


ngực tôi - nhưng từ những cửa sổ phía trước nhìn ra, quang cảnh hẳn tuyệt đẹp. Chúng tôi có phải xếp hàng vào tắm, hay đây là một khách sạn nước Mỹ?"

"Ông Barnard, tôi nghĩ là ông sẽ thấy mọi sự đều hoàn hảo."

Cô Brinklow vẻ nghiêm trang gật đầu nói: "Quả vậy, tôi mong được như vậy."

"Và sau đó," người Trung Hoa nói tiếp: "Tôi rất lấy làm hân hạnh được các vị cùng chúng tôi dự bữa ăn trưa."

Conway đáp lại rất lịch sự. Chỉ có Mallinson là lặng thinh không tỏ thái độ gì trước những điều dễ chịu bất ngờ ấy. Cũng như Barnard, anh bị khó thở vì ở độ cao, nhưng giờ đây, cố gắng, anh đã đủ hơi sức để kêu lên: "Và sau đó, nếu ông vui lòng, chúng tôi cũng xin phác họa kế hoạch về chuyến quay trở về. Càng sớm càng tốt, ý tôi là như vậy."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lichsu