CHƯƠNG HAI

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Một nét đặc biệt của Conway là cứ để mọi người tự thức dậy và không nói năng gì khi họ thốt lên những lời tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng về sau, khi Barnard hỏi ý kiến anh, thì anh nói với vẻ lưu loát tự nhiên của một giáo sư đại học đang giải thích một vấn đề. Anh nói theo anh nghĩ, có thể vẫn còn ở trong địa phận Ấn Độ; máy bay bay về hướng Đông đã nhiều giờ, bay ở độ quá cao nên không thể nhìn thấy gì mấy, song chắc có thể đường bay là theo một thung lũng có sông, chạy dài từ Đông sang Tây.

"Tôi muốn tôi không phải dựa vào trí nhớ, mà tôi có cảm giác đây là khu thung lũng ở mạn thượng lưu sông Indus. Nếu vậy thì chúng ta đã được đưa đến một vùng rất ngoạn mục của thế giới và như các bạn thấy đây, thực là ngoạn mục."

"Vậy, thế anh có biết đây là nơi nào không?" Barnard ngắt lời Conway và hỏi.

"Ồ, không - trước đây, tôi chưa hề đến gần vùng này bao giờ nhưng tôi cũng sẽ không lấy làm lạ nếu đây là dãy núi Nanga Parbat, nơi anh chàng Mummery đã bỏ mạng. Về câu trúc và hình dáng chung thì dường như cũng ăn khớp với tất cả những gì tôi đã được nghe nói về dãy núi này."

"Thế anh cũng là một nhà leo núi ư?"

"Hồi ít tuổi hơn, tôi từng thích môn thể thao này. Có điều, tất nhiên, tôi chỉ thường leo ở Thụy Sĩ mà thôi."

Mallinson cáu kỉnh nói xen vào: "Xin bàn luận về việc rồi đây chúng ta sẽ đi đến đâu, tôi thấy nó còn thiết thực hơn. Cầu Chúa truyền cho người nào có thể nói cho chúng ta biết điều đó."

"Ồ, này, tôi thấy hình như chúng ta đang đi về phía rặng núi đằng xa kia phải không, anh Conway?" Barnard nói: "Tôi xin lỗi anh vì tôi đã gọi anh


như vậy, nhưng nêu chúng ta sắp cùng mắc vào một chuyên phiêu lưu thì tôi chẳng cần câu nệ cho lắm."

Conway cho việc ai gọi tên mình ra cũng là điều tự nhiên, nên việc Barnard xin lỗi, anh thấy chỉ là một điều vặt không cần thiết.

"Ồ, đúng thế!"

Anh nói và tiếp thêm:

"Tôi nghĩ dãy núi ấy phải là dãy Karakorams. Ở đây có rất nhiều hõm, đèo, nếu anh chàng của chúng ta có ý định vượt qua nó."

"Anh chàng của chúng ta?" Mallinson la lên. "Anh muốn nói thằng điên của chúng ta phải không? Tôi thừa nhận là cái thuyết bắt cóc bấy giờ bị bỏ qua rồi. Chúng ta giờ đây đã đi qua vùng biên giới, quanh đây không còn có bộ lạc nào cư ngụ. Lời giải thích duy nhất mà tôi có thể nghĩ được là anh chàng này đích là một thằng đang lên cơn điên. Thử hỏi nếu không điên thì ai lại bay vào vừng này?"

"Tôi biết không có ai, ngoài một phi công tuyệt vời mới có thể làm được việc này." Barnard đáp lại. "Tôi không phải là người thông thạo về khoa địa lý, nhưng tôi cũng biết được những dãy núi này nổi tiếng là cao nhất thế giới, và nêu đúng vậy, thì vượt qua được chúng quả là một thành tích giỏi bậc nhất."

"Và đây cũng là ý muốn của Thượng đế," cô Brinklow bất ngờ nói xen

vào.

Conway không nói ra ý kiến của mình. Ý của Thượng đế hay sự điên

rồ của con người - anh thấy dường như nếu muốn có đủ lý lẽ xác đáng để giải thích hầu hết mọi sự việc, người ta có thể tùy ý chọn. Hoặc (anh nghĩ đến điều này khi anh ngắm nhìn cái cabin ngăn nắp nhỏ bé in lên trên nền cửa sổ của cảnh tượng thiên nhiên dữ dội ngoài kia) lần lượt là ý muốn của con người và sự điên rồ của Thượng đế. Hẳn được thỏa mãn khi biết chắc phải nhìn sự vật theo cách nào. Và, trong lúc anh còn vừa ngắm vừa suy nghĩ, cân nhắc, thì xảy ra một sự biến đổi kỳ lạ.

Anh sáng trở nên xanh xanh trên toàn bộ triền núi, những khu sườn dưới thấp sẫm lại thành màu tím. Có một cái gì sâu hơn tính bàng quang


quen thuộc nổi lên trong anh - không hẳn là sự kích động, càng không phải sợ hãi, mà một sự chờ đợi cực căng thẳng. Anh nói: "Barnard, anh nói đúng đây, sự kiện này mỗi lúc một trở nên đáng chú ý hơn."

"Đáng chú ý hay không, tôi cũng không đưa ra đề nghị ta phải cảm ơn về sự việc này." Mallinson khăng khăng giữ ý kiến của mình. "Chúng ta không yêu cầu họ đưa chúng ta đến đây, và có trời biết chúng ta sẽ phải làm gì khi chúng ta đến nơi ấy, bất kỳ nơi ấy là nơi nào. Và tôi thấy dù cho tên lái này ngẫu nhiên chỉ là một tên lái để phô trương thì sự việc này cũng không vì thế mà thoát khỏi tội vi phạm xấc xược. Ngay cả trường hợp nếu hắn chỉ lái để phô trương, thì hắn vẫn thực sự là một thằng điên. Tôi đã có lần nghe nói về một phi công hóa điên ở trên không trung. Còn thằng cha này hẳn đã điên ngay từ phút đầu. Thuyết của tôi là như vậy, anh Conway ạ."

Conway nín lặng. Anh thấy bực mình với cái lối cứ liên tục la hét át cả tiếng động cơ máy, và nói cho cùng, cứ tranh cãi về những khả năng thì có ích gì. Nhưng khi Mallinson ép anh cho ý kiến, anh nói:

"Chú biết đây, đây là một sự điên loạn được tổ chức rất giỏi. Chú hẳn còn nhớ việc hạ cánh xuống lấy xăng và cả việc đây là chiếc máy bay duy nhất có thể bay lên tới một độ cao như vậy.

"Cái đó không hề chứng minh rằng hắn ta không điên. Hắn có thể điên rồ để tính toán mọi chuyện."

"Phải, tất nhiên, có thể là như thể."

"Ồ, vậy thì chúng ta phải quyết định một phương án hành động chứ. Chúng ta sẽ làm gì đây khi máy bay hạ cánh? Nghĩa là, nếu nó không va vào đâu và giết chết hết chúng ta. Chúng ta sẽ làm gì? Chạy lại ngợi khen hắn về chuyến bay kỳ diệu chăng!"

"Không đời nào, chừng nào anh còn sống," Barnard đáp lại, "Tôi sẽ nhường để anh làm công việc chạy về phía hắn."

Conway lại tỏ ra không thích kéo dài cuộc tranh cãi, nhất là từ khi anh chàng người Mỹ, một tay khôi hài điềm tĩnh, xem ra rất có thể tự mình xử trí được. Conway đã có ý nghĩ rằng, nhóm người này đã không phải kém phần may mắn được tập hợp. Chi có Mallinson hay gây gổ, mà cái đó một phần


cũng do đang ở trên độ cao. Không khí loãng có những tác động khác nhau đến con người; Conway chẳng hạn, ở trên độ cao, anh thấy đầu óc minh mẫn và cơ thể lâng lâng, cảm giác này không có gì là khó chịu. Thực tế, anh hít thở một cách thích thú từng đợt ngắn cái không khí mát lạnh. Đành rằng toàn bộ hoàn cảnh là đáng kinh sợ, song lúc này, anh không thể bực bội về một cái gì đã tiến hành một cách có chủ tâm rõ rệt và với một sức quyến rũ như vậy.

Và trong lúc ngắm nhìn ngọn núi tráng lệ trước mắt trong lòng anh bỗng trào lên một niềm thích thú, vi trên trái đất vẫn còn những nơi như thế này, xa xôi, cao vời vợi mà chưa có dâu chân người. Bức thành băng giá của dãy Karakorams giờ đây in nổi bật hơn bao giờ hết trên nền trời phương Bắc lúc này đã trở nên xám xịt và thê thảm; những ngọn núi lập lòe lạnh buốt, cực kỳ hùng vĩ và xa xôi, ngay cả cái không có tên gọi của chúng cũng mang tính cách oai nghiêm. Mấy nghìn độ cao đã làm thất bại những vị khổng lồ nổi tiếng, thực đã cứu thoát những ngọn núi này khỏi những đoàn người leo núi; chúng không mấy hấp dẫn với những ai muốn đạt kỷ lục. Conway là con người đối lập với những người kiểu ấy; anh vốn coi lý tưởng về những cái gì tuyệt đối, tột bậc của người phương Tây là thô tục và với anh dường như "Cái tối đa cho cái cao nhất" là một ý kiến kém hữu lý hơn và có thể còn tầm thường hơn là câu "cái nhiều cho cái cao". Thực tế anh không quan tâm đến sự cố gắng quá sức và lấy làm chán ngán những thành tích chói lọi.

Trong lúc anh còn đang ngắm quang cảnh trước mắt thì hoàng hôn buông xuống, dìm những vùng sâu vào trong bóng tối om đang dâng lên như một thùng thuốc nhuộm. Rồi toàn bộ dãy núi giờ đây gần hơn, nhợt nhạt đi, tiến vào một vùng lộng lẫy tươi mát hơn; mặt trăng tròn trặn nhô lên, lần lượt chạm vào mỗi ngọn núi chẳng khác nào vị thiên thần thắp sáng đèn cho đến lúc đường chân trời dài dặc lấp lánh in trên nền bầu trời lam sẫm. Không khí trở lạnh, gió nổi lên làm máy bay tròng trành. Những hiểm nguy mới này khiến cho mấy người trên máy bay lo lắng; người ta đã không tính đến chuyện máy bay có thể bay tiếp sau lúc nhá nhem tối, và giờ đây chỉ còn hy vọng vào chuyện cạn hết xăng. Tuy nhiên, cái đó phải đến nhanh. Mallinson bắt đầu bàn cãi về việc này, còn Conway phần nào miễn cưỡng bàn, vì anh thực sự không biết, anh chỉ đưa ra ước tính máy bay chỉ có thể bay xa nhất được chừng một ngàn dặm, mà giờ thì đã gần tới con số đó rồi.

"Vậy, chúng ta sẽ bị đưa đến đâu?" Mallinson hỏi vẻ thiểu não.


"Cũng khó nói đích xác, nhưng có lẽ đến một vùng nào đó ở Tây Tạng. Nếu đây là dãy núi Karakorams thì Tây Tạng ở phía bên kia. Một ngọn núi trên dọc đường hẳn là ngọn K2, thường được coi là ngọn núi cao thứ nhì trên thế giới."

"Xếp sau ngọn Everest," Barnard nói, "Kìa, đây là một phong cảnh khá

đẹp."

"Và theo quan điểm của nhà leo núi thì nó còn khó leo hơn ngọn

Everest. Công tước Abruzzi đã chịu bỏ cuộc và coi đây là một ngọn núi tuyệt đối không thể leo lên được."

"Ối trời!" Mallinson lầm bầm, vẻ bực dọc còn Barnard phá lên cười. "Anh Conway, tôi đoán hẳn anh là hướng dẫn viên chính thức của chuyến đi này, và xin thú thực nếu chỉ được một ly cà phê cô nhắc là tôi xin bất cần đây sẽ là Tây Tạng hay Tennessee.

"Nhưng, rồi đây, chúng ta sẽ làm gì với chuyện này?" Mallinson lại nêu vấn đề ra. "Tại sao chúng ta lại đến đây? Vấn đề là thế nào? Tôi không hiểu tại sao các anh lại có thể đùa cợt về chuyện này được."

"Ồ, thì cũng tốt như gây gổ về nó, anh bạn trẻ ạ. Vả lại, nếu anh chàng nọ đúng là mất trí như anh nghĩ thì có lẽ cũng chẳng có vấn đề gì."

"Hắn phải là thằng điên. Tôi không thấy còn cách giải thích nào khác.

Anh Conway, anh nghĩ thế nào?" Conway lắc đầu.

Cô Brinklow quay ngoắt lại, như cô có thể làm trong lúc giữa giờ giải lao của một vở kịch. "Vì các anh không ai hỏi ý kiến tôi, có lẽ tôi không nên đưa ra nhận xét gì." Cô bắt đầu với giọng khiêm tốn sâu sắc. "Nhưng tôi cần nói rằng tôi cũng có ý kiến như ông Mallinson. Tôi tin chắc anh chàng tội nghiệp này không thể không mất trí. Tất nhiên, tôi nói tới anh chàng phi công. Nếu hắn ta không điên, thực không có gì tha thứ cho hắn được." Cô nói thêm, tiếng nói tự tin, hét to, át cả tiếng máy nổ ầm ầm. "Các ông có biết không, đây là lần đầu tiên tôi đi máy bay! Chuyến đầu tiên của tôi đây! Trước kia không có gì có thể quyến rũ tôi đi máy bay, mặc dù một người bạn của tôi đã hết sức thuyết phục tôi đi một chuyên bay từ London tới Paris."


"Và giờ đây cô lại đang bay từ Ấn Độ sang Tây Tạng," Barnard nói, "Ấy chuyện đời cứ thường xảy ra như vậy đó."

Cô Brinklow nói:

"Ngày trước tôi có quen một nhà truyền giáo đã từng ờ Tây Tạng. Ông ta nói người Tây Tạng rất kỳ lạ. Họ tin rằng loài người xuất phát từ loài khỉ mà ra."

"Thế thì họ thực giỏi."

"Ồ, không, không. Tôi không nói với ý nghĩa của khoa học hiện đại. Họ đã tin như vậy từ mấy trăm năm nay rồi và đây chỉ là một trong những thói mê tín của họ mà thôi. Tất nhiên, bản thân tôi phản đối tất cả những chuyện ấy và theo tôi, Darwin còn tồi tệ hơn người Tây Tạng nhiều. Tôi đứng về phía Kinh thánh."

"Chắc dòng Chính thống phải không cô?"

Nhưng cô Brinklow dường như không hiểu ý này.

"Tôi vẫn thuộc về tổ chức LMS," cô rít lên, "Song tôi không đồng ý với họ về vấn đề làm lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh."

Conway tiếp tục cảm thấy đây là một nhận xét khá hài hước, mãi lâu sau, khi anh đã nhận ra LMS là những chữ cái đầu của mấy từ: London Missionary Society (Hội các nhà truyền giáo London). Tuy nhiên, khi hình dung ra những phiền phức trong việc kéo dài sự bàn cãi về thần học ở trạm Euston, anh bắt đầu nghĩ rằng ở cô Brinklow này có một cài gì đó hơi hấp dẫn. Anh ngẫm nghĩ liệu anh có thể đưa cho cô mượn cái áo khoác để cô đỡ lạnh lúc đêm này không, nhưng rồi cuối cùng anh nghĩ vóc người cô có lẽ còn khỏe mạnh cứng cáp hơn anh. Do đó, anh cuộn mình, nhắm mắt lại, rồi nhẹ nhàng, yên tĩnh ngủ thiếp đi.

Chuyến bay vẫn tiếp tục.

Đột nhiên máy bay tròng trành khiến tất cả bốn người giật mình thức

giấc.

Conway bị đập đầu vào cửa sổ khiến anh choáng váng một lúc; lần


tròng trành nữa khiến anh loạng choạng giữa hai hàng ghế. Lúc này trở lạnh hơn. Việc đầu tiên anh làm là như cái máy anh nhìn vào đồng hồ đeo tay. Đồng hồ chỉ một rưỡi, hẳn anh đã ngủ chợp đi được một chút. Hai tai anh nghe vang vang những tiếng đen đét thực to. Thoạt đầu anh cho là tưởng tượng, sau mãi anh nhận ra động cơ máy đã tắt, máy bay đang lao húc vào giữa cơn gió mạnh. Rồi anh nhìn qua cửa sổ thấy mặt đất đã sát gần, mơ hồ xám xịt, và đang vun vút chạy ở phía dưới. "Nó sắp hạ cánh rồi!" Mallinson hét lên.

Barnard cũng bị tung ra khỏi ghế lầm lì đáp lại: "Nếu số nó đỏ."

Cô Brinklow, người bị đảo lộn ít nhất trong suốt lúc chấn động, đang sửa lại chiếc mũ đội đầu cho ngay ngắn một cách hết sức bình tĩnh, như thể

[1]


tàu sắp cập bến Dover .

Liền ngay đó, máy bay chạm đất. Nhưng lần hạ cánh này thực kém. "Trời ơi, kém quá, kém quá!" Mallinson rên rỉ, tay bíu vào ghế, trong

suốt mười giây va đập và lắc lư. Nghe có tiếng cái gì đó căng ra và nổ bục, một bánh xe nổ tung. "Thế là hết", anh nói thêm, giọng bi quan đau khổ. "Cái chống hậu gãy rồi, chúng ta sẽ phải đỗ nằm ở đây thôi, chắc chắn là như vậy!"

Conway vốn không hay nói nhiều vào những khi gay cấn; lúc này anh duỗi đôi chân đã tê cứng và sờ sờ chỗ đầu bị va vào cửa sổ. Một vết thâm tím, thế thôi. Anh phải làm một cái gì để giúp đỡ những người này. Nhưng khi chiếc máy bay ngừng hẳn thì anh là người đứng dậy sau cùng. "Hãy bình tĩnh," anh kêu to khi thấy Mallinson giật mạnh mở tung cái cửa buồng khách, chuẩn bị nhảy xuống đất và trong sự yên lặng tương đối lúc bấy giờ, tiếng Mallinson đáp lại nghe kỳ quái:

"Không cần phải bình tĩnh - đây nom như nơi cùng trời cuối đất rồi - ít nhất thì cũng chẳng có một bóng người quanh đây."

Một lát sau, mọi người đều thấy lạnh run. Bên tai không nghe thấy một tiếng gì ngoài tiếng gió thổi ào ào và tiếng chân họ bước lạo xạo, họ cảm thấy mình bị đưa đến vùng ác nghiệt và buồn rầu man rợ - cái buồn rầu man rợ bao trùm cả mặt đất lẫn bầu không khí ở đây. Mặt trăng như đã biến mất sau những đám mây; ánh sao soi sáng một vùng trống không khủng khiếp,


phần phật gió. Chẳng cần nghĩ ngợi hay quen biết, người ta cũng đoán được vùng lạnh giá này nằm trên núi cao, và những ngọn núi ở đây là những ngọn núi nằm trên những đỉnh núi. Một trong những ngọn núi này lập lòe ở trên đường chân trời xa như một hàm răng chó sói.

Mallinson bồn chồn nhanh nhẹn đã trèo ngay vào buồng lái: "Dưới đất thì tôi bất chấp tên lái này, không kể hắn là ai," anh kêu lên. "Tôi sẽ xử trí ngay với hắn..."

Mấy người kia nhìn thấy anh cương quyết như vậy đều tỏ vẻ sợ hãi và như bị thôi miên, cứ đứng ngấy người ra. Conway nhoài người chạy theo anh, nhưng đã quá muộn không ngăn được Mallinson vào buồng lái. Tuy vậy, chỉ một thoáng sau đã thấy anh thanh niên lại nhảy xuống, bíu chặt lấy cánh tay Conway, giọng lắp bắp khàn khàn khẽ nói: "Này, anh Conway, thực lạ quá... Hình như thằng cha ấy nó bị ốm hoặc chết gì đó... Tôi gặng hỏi mấy hắn cũng không nói một lòi. Anh hãy trèo lên xem... Dù sao thì tôi đã lấy được khẩu súng của hắn."

"Tốt nhất, chú hãy đưa nó cho tôi," Conway nói, và tuy vẫn còn choáng váng do vừa bị va đập vào đầu, anh vẫn quyết tâm hành động. Từ trước đến nay, ở khắp nơi, trong mọi hoàn cảnh trên đời này, anh thấy dường như đây là lần kết hợp cả sự khó chịu lẫn ghê tởm. Anh kiễng chân rướn người lên để có thể nhìn vào trong buồng lái đóng kín, tuy nhìn không rõ lắm. Mùi xăng bốc ra nồng nặc, do vậy anh không dám đánh diêm để soi. Anh chỉ lờ mờ nhìn thấy người lái nhô về phía trước, đầu gục lên trên những cần máy kiểm tra. Anh lắc lắc thân mình người lái, tháo chiếc mũ hắn đội trên đầu và nới dấy thắt nút áo vòng quanh cổ. Một lát sau, anh quay lại nói với mọi người: "Đúng là đã có chuyện gì xảy ra với hắn ta. Chúng ta phải lôi hắn ra." Nhưng người quan sát đứng ngoài có thể nói thêm rằng có một cái gì đó đã xảy ra với Conway. Tiếng anh nói chắc nịch hơn, sắc bén hơn; như không còn lập lờ bên bờ sự nghi ngờ sâu sắc nữa. Giờ đây, thời gian, địa điểm, không khí lạnh, sự mệt mỏi không còn đáng quan tâm lắm nữa; có một việc nhất thiết phải làm, và thế là cái thói quen ở anh, cái tập quán lớn hơn ở anh đã vượt lên trên tất cả và đang chuẩn bị làm công việc ấy.

Với sự giúp đỡ của Barnard và Mallinson, người phi công được kéo ra khỏi chiếc ghế ngồi lái và nhấc lên đưa xuống đất. Anh ta chỉ ngất lịm mà chưa chết. Conway không biết nhiều về y học, nhưng cũng như hầu hết


những người đã từng sinh sống ở nơi đất lạ, hiện tượng đau yếu là hết sức quen thuộc.

"Đây có thể là do độ cao đã gây nên cơn đau tim," anh phán đoán, vừa cúi người xuống xem xét con người mà anh không quen biết. "Đặt anh ta ở đây thì chúng ta không giúp được gì cho anh ta vì chẳng có gì che chắn được những luồng gió khủng khiếp này. Tốt hơn hết là ta hãy đưa anh ta vào buồng khách và cả chúng ta nữa. Đây là đâu, chúng ta hoàn toàn không biết, vậy chẳng có hy vọng gì tính chuyện đi đâu trước trời sáng".

Lòi nhận định cũng như ý kiến gợi ra đều được mọi người chấp nhận ngay. Ngay cả Mallinson cũng tán thành. Họ khiêng người lái vào buồng khách và đặt anh ta nằm dài dọc theo lối đi giữa hai hàng ghế. Bên trong buồng khách cũng không ấm gì hơn ở ngoài nhưng nó còn che được cơn gió mạnh. Trong một thời gian dài, gió đã khiến mọi người phải quan tâm lo lắng - cái duyên cớ, có thể gọi là như vậy, của cả một đêm lo âu buồn rầu. Đây không phải là gió thường. Cũng không phải chỉ là gió mạnh và lạnh. Mà như thể một kẻ điên cuồng đang sống vây quanh họ, một chủ nhân đang giẫm đạp lên cơ ngơi của chính mình. Nó làm nghiêng ngả rung lắc dữ dội cái máy bay cùng đám người bên trong và khi Conway nhìn qua cửa sổ, anh thấy như gió đang cuốn bớt đi những mẩu ánh sáng từ những ngôi sao.

Người lái nằm đó bất động, còn Conway trong buồng chật hẹp và tối om khó khăn cố gắng xem xét dưới ánh sáng diêm lập lòe. Nhưng anh cũng chẳng phát hiện được gì nhiều.

"Hắn ta bị suy tim." Cuối cùng anh nói.

Liền lúc đó, cô Brinklow lục trong túi xách của mình, và khiến mọi người xúc động khi cô nói: "Thứ này tôi chưa hề nhấp một giọt, nhưng tôi luôn mang nó bên mình, đề phòng trường hợp xảy ra tai nạn. Và đây cũng là một thứ tai nạn phải không?"

"Tôi phải nói là đúng vậy," Conway đáp, giọng đanh lại. Anh mở nút lọ, ngửi mùi và rót một ít thứ rượu mạnh ấy vào mồm người lái máy bay. "Đúng thứ này là cần thiết cho hắn ta. Cám ơn cô".

Sau một lát, thấy mi mắt hắn hơi cử động, Mallinson bỗng nhiên như phát điên. "Tôi không thể nhịn được," anh hét lên và cười sằng sặc. "Chúng


ta có khác gì một đám người dở hơi đi đánh diêm soi một xác chết không... Mà hắn đâu có phải là một người đẹp đẽ gì. Một thằng Tầu, tôi dám nói đúng vậy."

"Có thể thế." Conway nói, giọng bình tĩnh nhưng có phần nghiêm khắc. "Nhưng đây chưa phải là một xác chết. May ra chúng ta còn có thể cứu được hắn."

"May ra? Đây là cái may của hắn chứ không phải của chúng ta." "Đừng có quá chắc chắn thế. Lúc này anh cứ im mồm đi."


Trong người Mallinson còn có khá nhiều tính cách của một anh học trò, nên anh đã không cãi lại câu ra lệnh cộc lốc của người lớn tuổi hơn, mặc dầu lúc này rõ ràng anh khó tự nén nổi mình. Conway tuy thương hại Mallinson, nhưng giờ đây anh còn lo cấp thiết giải quyết ngay vấn đề anh phi công, vì trong tất cả đám người ở đây, anh ta là người duy nhất có thể giải thích phần nào cái số phận của họ lúc này. Conway không muốn bàn cãi thêm nữa một cách chỉ là ước đoán; suốt trong chuyến bay, đã bàn cãi đủ rồi. Vốn luôn tò mò về mặt tinh thần, nhưng giờ đây anh đã thấy khó chịu, vì anh biết rằng toàn bộ hoàn cảnh lúc này không còn tính chất hấp dẫn của một sự kiện nguy hiểm, mà nó đang đe dọa họ sẽ phải chịu đựng nhiều thử thách để rồi kết thúc bằng một tai họa. Thức để anh canh gác suốt cả một đêm đầy gió gào thét; anh đương đầu với sự việc một cách thẳng thắn, vì anh đã không ngại gì nói ngay ra cho mọi người biết sự thể sẽ là như vậy. Anh đoán họ đã bay qua khá xa dãy núi phía Tây của ngọn Himalaya và đã đi về phía những ngọn núi ít ai biết đến ở vùng Kuen-Lun. Nếu vậy, thì giờ đây họ đang ở một vùng cao nhất và ít mến khách nhất trên trái đất này, vùng cao nguyên Tây Tạng, mà ngay chỗ thung lũng thấp nhất cũng cao hơn mặt nước biển hai dặm, một vùng rộng mênh mông, không có người ở, một vùng suốt ngày chỉ có gió gào và trên quy mô lớn, chưa được khám phá. Ở một vùng khỉ ho cò gáy, bị bỏ quên này, nơi họ đang đứng đây, họ sẽ thiếu thốn hơn bất kỳ ở một hòn đảo hoang vắng nào. Rồi, đột nhiên, như thể để đáp lại trí tò mò của anh bằng cách làm tăng thêm, một sự thay đổi gây sợ hãi đã diễn ra. Mặt trăng mà lúc nãy anh cho là lấp sau mây, giờ đây ngoi lên miệng của một ngọn núi cao đầy bóng tối và trong lúc chưa lộ hẳn ra, ánh trăng đã xua tan bóng tối ở phía trước. Conway nhìn thấy hình dáng một khu thung lũng chạy dài với những ngọn đồi thấp, tròn trĩnh, trông buồn rầu, nằm hai bên, màu đen huyền in trên màu xanh sẫm tia điện của bầu trời ban đêm. Nhưng mặt anh cứ dán vào phía đầu khu thung lũng, vì ở đấy, anh thấy dường như có một ngọn núi đẹp nhất trên đời, vút cao lên vào khoảng trống, nom thực nguy nga tráng lệ dưới ánh trăng lung linh mờ ảo. Ngọn núi đúng là một hình chóp tuyết tuyệt hảo, đường nét giản dị như được vẽ lên bởi bàn tay một em bé, và thực không thể xếp nó vào loại nào về mặt kích thước, chiều cao hoặc độ gần. Nom nó rất lộng lẫy, đứng ở một tư thế rất thanh bình khiến trong một lát, anh đã ngạc nhiên, không biết nó là thực hay chỉ là ảo ảnh. Rồi, trong lúc anh đang ngắm nhìn, một dải mây nhỏ che phủ phần đáy của hình chóp khiến cảnh tượng sinh động hẳn lên trước khi có tiếng tuyết lở ầm ầm khẳng định đây là cảnh có thực.


Anh cũng muốn gọi mọi người cùng ra nhìn, nhưng sau nghĩ lại, anh thấy nhìn quang cảnh ấy có thể mọi người lại hóa ra lo lắng. Mà ngay cả với cách nhìn thông thường thì cũng đúng vậy, cảnh tráng lệ hoang dã như thế chi làm tăng thêm sự thật về cô lập và nguy hiểm. Rất có thể nơi có người ở gần nhất đây cũng xa hàng mấy trăm dặm. Ở đây họ không có thức gì để ăn; vũ khí không có gì ngoài một khẩu súng lục; chiếc máy bay thì đã bị hư hại và hầu như đã cạn xăng, dù cho một ai trong bọn họ có biết lái cũng đành chịu. Họ không có quần áo đủ để chống lại cái gió và cái rét khủng khiếp ở đây. Chiếc áo đi môtô và chiếc áo choàng ulster9[1] của Mallinson cũng không đủ và ngay cả cô Brinklow vốn đã đắp vào người đầy len dạ và khăn quàng như chuẩn bị lên Bắc cực (Lúc đầu nhìn cô ta ăn mặc như vậy, anh thấy buồn cười) vậy mà vẫn thấy co ro. Tất cả mọi người, chi trừ có bản thân anh là không bị tác động của độ cao. Ngay Barnard lúc này cũng trở nên trầm ngâm. Mallinson thì cứ lầm bầm một mình; rõ ràng nếu những thử thách gay go này tiếp diễn lâu thì không hiểu cái gì sẽ xảy ra với anh. Trước những viễn cảnh đầy lo âu đấy, Conway thấy mình không thể không đưa mắt đầy thán phục nhìn cô Brinklow. Anh nghĩ cô ta không phải một con người bình thường, không một người phụ nữ nào vẫn dạy người Afghanistan hát tụng Thánh ca lại có thể được quý trọng như vậy. Nhưng sau mỗi tai họa, cô ta lại vẫn thường tỏ ra khác thường, và anh cảm thấy biết ơn sâu sắc cô về điều đó. "Tôi mong rằng cô không cảm thấy khó chịu quá?" Anh hỏi cô, giọng thân tình, khi anh thấy cô ngước mắt nhìn anh.

"Binh lính trong Chiến tranh còn phải chịu đựng gian khổ hơn thế này nhiều.' Cô đáp lại.

Conway thấy sự so sánh không đúng lắm. Sự thực, bản thân anh chưa bao giờ phải trải qua một đêm trong chiến hào quá khó chịu như thế này, tuy chắc chắn với nhiều người khác điều ấy là có thể có. Anh đã tập trung tư tưởng vào người phi công nọ, anh ta giờ đây cứ thở nấc từng cơn và đôi lúc khẽ cựa quậy. Có lẽ Mallinson đã đúng khi đoán người này là người Trung Quốc. Anh ta có cái mũi và đôi gò má đặc biệt Mông Cổ, mặc dầu anh ta đã thủ vai một trung úy - phi công người Anh rất thành thạo. Mallinson bảo anh ta xấu xí, nhưng với Conway, vốn đã từng sống ở Trung Quốc, lại thấy anh ta thuộc loại người khá dễ coi, tuy giờ đây, dưới ánh sáng lập lòe của mấy que diêm, nước da xanh xao và cái mồm há hốc của anh ta nom không có gì là đẹp.


Đêm tối kéo dài, như thể mỗi phút là một cái gì nặng trĩu và sờ thấy được, và cần phải đẩy đi để nhường chỗ cho phút sau. Sau một lúc, ánh trăng nhạt dần và cũng mờ theo cái ngọn núi ma quái ở phía xa, rồi những trò độc ác của bộ ba: Đêm tối, lạnh giá và gió gào, cứ tăng dần lên cho đến tận tảng sáng. Như thấy dấu hiệu của bình minh, gió ngừng thổi để lại cảnh vật trong yên tĩnh đầy trắc ẩn. Đóng khung trong hình tam giác mờ nhạt ở phía trước, quả núi lại hiện ra, thoạt đầu màu xám, sau trắng toát, rồi nhuốm màu hồng khi ánh nắng sớm mai rọi vào đỉnh. Trong bóng tối, giờ đây mỗi lúc một nhạt dần, khu thung lũng thành hình rõ, để lộ ra cái nền đá tảng và đá cuội thoai thoải dốc ngược lên. Một bức tranh không có gì ấm cúng lắm, nhưng với Conway, quan sát nó anh thấy có một nhận thức kỳ lạ về vẻ đẹp của nó, về một cái gì không chút gợi cảm lãng mạn, mà nghiêm khắc. Gần như một tính chất trí thức. Cái hình chóp trắng ở phía xa buộc đầu óc người ta phải chấp nhận không bàn cãi, như chấp nhận định đề Euclide vậy, và cuối cùng, khi mặt trời đã lên cao trên nền trời màu xanh cá heo thẫm, thì anh cảm thấy chỉ hơi khó chịu một chút thôi.

Không khí trở nên ấm hơn, mấy người kia cũng thức giấc; anh bàn với họ nên đưa người phi công ra chỗ quang đãng để không khí khô ráo và ánh nắng có thể khiến anh ta hồi tình lại. Mọi người nghe theo, họ lại bắt đầu một cuộc canh gác thứ hai và vui vẻ hơn. Cuối cùng, anh phi công đã mở mắt và bắt đầu nói lắp bắp. Bốn người cúi xuống sát người anh ta, lắng nghe nói những tiếng vô nghĩa trừ có Conway là hiểu được và chốc chốc anh lại đáp lời. Sau một lúc, anh phi công trở nên mỗi lúc một yếu hơn, nói mỗi lúc một khó khăn và cuối cùng tắt thở. Lúc ấy vào lúc nửa buổi.

Conway liền quay lại nói với mấy người bạn: "Tôi rất buồn phải nói rằng anh ta đã nói với tôi rất ít - tôi muốn nói ít là so với những điều chúng ta muốn biết. Anh ta chỉ nói rằng giờ đây chúng ta ở đất Tây Tạng, điều này thì đã rõ. Anh ta không nói mạch lạc về nguyên do anh ta đã đưa chúng ta đến đây, nhưng hình như anh ta biết nơi này. Anh ta nói một thứ tiếng Trung Quốc mà tôi nghe không hiểu lắm, song tôi nghĩ anh ta có nói gì đó về một tu viện Lama ở gần đây, dọc theo thưng lũng, và tôi hiểu được, là đến đây, chúng ta sẽ có thức ăn và nhà ở. Anh ta gọi nơi đó là Shangri-La. La, tiếng Mông Cổ nghĩa là đèo. Anh ta hết sức nhấn mạnh rằng chúng ta cần phải đến đó."

"Thế thì tôi lại thấy hình như chẳng có lý do nào để chúng ta cần phải


đến đây." Mallinson nói. "Suy cho cùng, có thế thằng cha ấy nó loạn óc. Có đúng không?"

"Về điều ấy hẳn chú biết cũng rõ như tôi. Nhưng nếu không đến đây thì chúng ta đi đâu bấy giờ?"

"Tùy anh, tôi không quan tâm. Tất cả những gì tôi biết chắc là cái Shangri-La này nêu ở phía kia, thì hẳn phải cách biệt văn minh thêm mấy dặm nữa. Tôi sẽ lấy làm sung sướng nếu chúng ta thu ngắn quãng đường lại, chứ đừng kéo dài ra. Mẹ kiếp! Anh không mang chúng tôi trở về chăng?"

Conway nhẫn nại đáp: "Mallinson, tôi thấy chú không hiểu rõ hoàn cảnh chúng ta hiện nay. Chúng ta đang ở một vùng mà không ai biết đến lắm, trừ có điều đi đến đây là một việc làm rất khó khăn và nguy hiểm, thậm chí cả đối với một đoàn thám hiểm có trang bị đầy đủ. Với lại hàng mấy trăm dặm của cái xứ sở này đang bao quanh chúng ta thì cái khái niệm đi bộ trở về Peshawar, tôi thấy không có chút hy vọng nào."

"Tôi không nghĩ là tôi có thể làm được chuyện ấy." Cô Brinklow nói, giọng nghiêm chỉnh.

Barnard gật đầu. "Dường như chúng ta rất may, nếu cái tu viện Lama ấy lại ở gần quanh đây."

"Có thể là tương đối may." Conway nói. "Nghĩ cho cùng thì hiện thời chúng ta không có một chút lương thực, và như các anh đều có thể tự thấy được, vùng đất này không phải là nơi dễ dàng sống. Chỉ ít tiếng đồng hồ nữa là chúng ta sẽ đói lả. Và rồi còn đêm nay, nếu cứ ở lại đây, chúng ta sẽ phải đương đầu với gió rét và giá lạnh. Đây không phải là một viễn cảnh dễ chịu gì. Tôi thấy, chúng ta chỉ còn có cơ may là tìm đến với một số người khác, và như vậy giờ đây chúng ta còn đi tìm họ ở đâu ngoài cái nơi mà anh phi công nọ đã bảo chúng ta?"

"Và nếu đây là một cái bẫy thì sao?" Mallinson hỏi, nhưng Barnard đáp lại thay Conway: "Một cái bẫy khá ấm áp đấy. Với một mẩu phó mát trong đó thì tôi xin chui xuống tận đáy bẫy."

Mọi người phá ra cười, trừ Mallinson, coi bộ như muốn phát điên và loạn thần kinh. Cuối cùng, Conway nói tiếp:


"Tôi quyết định cứ đi, vậy tất cả chúng ta có ưng thuận không? Rõ ràng có một lối đi dọc khu thung lũng; coi bộ nó cũng không dốc lắm, tuy nhiên, chúng ta sẽ phải đi chầm chậm. Dù sao thì ở đây chúng ta cũng chẳng làm được việc gì. Ngay cả đem chôn người này chúng ta cũng không làm được nếu không có thuốc nổ. Vả lại, người của tu viện rất có thể sẽ giúp chúng ta thuê được phu khuân vác để trở về. Chúng ta sẽ cần đến họ. Tôi xin gợi ý, chúng ta phải bắt đầu đi ngay, để trường hợp đến chiều mà muộn không tìm thấy nơi đó, chúng ta có thì giờ quay lại đây ngụ thêm một đêm trong buồng khách của máy bay."

"Và giả dụ chúng ta tìm thấy được tu viện ấy?" Mallinson hỏi, vẫn giọng gay gắt. "Liệu có gì bảo đảm chúng ta sẽ không bị giết không?"

"Không, làm gì có chuyện ấy. Mà tôi nghĩ đi đến đây là một sự đánh liều ít nguy hiểm hơn và có thể còn đáng lựa chọn hơn là liều ở đây mà chịu chết đói hoặc chết lạnh." Rồi cảm thấy cái lý lẽ lạnh lùng ấy không hoàn toàn thích hợp vào lúc này, nên anh nói thêm: "Thực tế giết người là chuyện hầu như không hề xảy ra ở một tu viện phật giáo. Còn ít hơn cả chuyện bị giết ở trong một nhà thờ nước Anh."

"Như Thánh Thomas ở Canterbury vậy," cô Brinklow nói, vừa gật đầu nhấn mạnh sự tán đồng, nhưng lại phá hỏng hoàn toàn vấn đề anh đưa ra.

Mallinson nhún vai đáp lại giọng bực bội buồn rầu. "Thôi được, vậy chúng ta đi Shangri-La. Bất kỳ ở đâu và không kể rồi sẽ ra sao, chúng ta cũng cứ thử xem. Nhưng mong sao tu viện đó không ở trên lưng chừng ngọn núi kia."

Nghe anh nói, mọi người đều đưa mắt chú ý nhìn về phía chóp núi đang lấp lánh, nơi thung lũng chạy tới. Dưới ánh sáng ban ngày ngọn núi nom tuyệt đẹp và đột nhiên mọi người trố mắt ra nhìn, vì họ thấy từ đằng xa có hình dáng một đám người đang đi xuống dốc, lại gần phía họ.

"Đúng là ý Trời!" Cô Brinklow thầm thốt lên.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lichsu