VÒNG III: GANI - BÀI DỰ THI

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ROWAN

Từ ngày mai trở đi, Paul sẽ không được đọc truyện cổ tích nữa. Bố mẹ cậu đã quyết định như thế, và họ sẽ tống hết những tập truyện cổ Grim hay Andersen của cậu ra khỏi nhà.

"Thôi ngay đi, Paul. Quái vật không hề tồn tại, cả người cá, công chúa, đèn thần, toàn là những thứ ngu xuẩn mà người ta sáng tạo ra để lừa phỉnh đầu óc của lũ trẻ con chúng mày. Việc của mày là lo học hành để sau này có thể kiếm được một công việc ở văn phòng chứ không phải phiêu lưu ở những nơi viển vông không có thật."

Bố cậu đã trả lời như thế vào năm cậu mới năm tuổi, và trong một lần cậu hỏi ông liệu nàng tiên cá có tồn tại, hay liệu kẻ ăn thịt cô bé quàng khăn đỏ có phải là Người Sói. Cậu không hiểu vì sao họ lại có phản ứng gay gắt đến thế khi cậu yêu thích truyện cổ tích. Có phải vì cậu đã đặt quá nhiều câu hỏi ngớ ngẩn hay không? Cũng có thể lắm, nhưng trẻ con hỏi người lớn cũng đâu có gì sai? Cô giáo Janes đã nói rằng trẻ con thì phải ham học hỏi, và tất nhiên, với một đứa trẻ tiểu học như Paul, cậu chỉ có thể bắt đầu học hỏi từ việc đặt ra thắc mắc và chờ đợi những lời giải thích. Nhưng có vẻ như bố mẹ cậu không nghĩ như vậy.

"Bố ơi! Bố... - Paul đẩy cửa phòng khách và bước vào - Bố à, bố đừng vứt hết truyện của con. Con xin bố!"

Cổ họng cậu như nghẹn ứ lại. Quần áo cậu dính đầy bùn đất vì lăn lộn đuổi bắt cùng lũ bạn ở cánh đồng cỏ phía Bắc, nhưng cậu chẳng để tâm nữa. Cậu đã vừa khóc, vừa cắm đầu chạy thẳng về nhà khi thấy thằng bé hàng xóm Alan đến báo tin rằng đã nhìn thấy bố mẹ cậu quẳng đi một đống giấy vụn.

"Đó không phải là giấy vụn, thằng ngu!". Paul đã bực tức hét vào mặt nó như vậy, vì cậu biết trong nhà chẳng có mấy sách vở hay tài liệu ngoài những tập truyện mà cậu có. Trở về nhà, cậu thấy bố cậu ngồi trên ghế bành, tay cầm tờ báo và đôi mắt trợn trừng lên giận dữ. Còn mẹ cậu thì thản nhiên ngồi khâu vá trên đi-văng, bà ngẩng lên nhìn Paul rồi lại cúi gằm mặt xuống.

Bố cậu dúi mẩu thuốc lá vào tách cà phê đã cạn. Ông đứng dậy, lấy hơi rồi quát:

"Mày đi đâu cả ngày nay, Paul? Chúa ơi, nhìn mày kìa. Vừa lăn lộn ở chỗ quái nào vậy hả? Lại còn làm hỏng dép nữa! - Ông ngước lên đồng hồ, ra hiệu - Mày biết mấy giờ rồi không?"

Paul định năn nỉ ông về mấy cuốn truyện, nhưng cậu lại im lặng. Bố cậu lại nói thêm một tràng khiến đầu cậu nhức nhối. Chỉ lạ là mỗi khi nổi giận, ông không hề la hét mà chỉ gằn giọng. Paul không thích điều này một chút nào. Cậu thà chịu những trận đòn roi còn hơn nghe những lời móc mỉa của bố cậu. Không hiểu vì sao, cậu thật sự sợ hãi những người không bộc lộ sự giận dữ của mình ra bên ngoài.

"Mày định nói với tao về mấy cuốn truyện tranh ngu ngốc phải không? Tao đã quẳng hết đi rồi, và từ nay mày không được phép nhận bất cứ món quà nào vô bổ như vậy nữa. Còn nếu mày vẫn muốn làm những gì mày thích thì tốt nhất là mày nên biến đi..."

Paul cảm thấy màng nhĩ trong tai cậu đã bị thủng từ lâu. Cậu không nghe thấy gì nữa. Mọi thứ ù đi, thinh lặng, và trước mắt cậu chỉ còn đôi môi đang mấp máy của bố. Cậu chực muốn khóc, nhưng nếu cậu khóc trước mặt ông thì chắc chắn sẽ bị ăn bạt tai. Phải, một cái bạt tai thật đau. Có thể nó sẽ giúp cậu tỉnh ra và "hiểu chuyện" như mẹ cậu vẫn thường hay kì vọng. Nhưng Paul không nghĩ thế. Nếu cứ đứng chôn chân ở đây thì bố cậu sẽ nổi điên lên mất, thế nên cậu quyết định mở cửa và chạy thật nhanh về phòng.

Cái giá sách bằng gỗ của cậu giờ đây trống hoác. Hoặc có thể nó không thật sự như vậy - vẫn còn sót lại vài cuốn sách giáo khoa, truyện ngắn và sách dạy nấu ăn - nhưng Paul cảm thấy rõ có một thứ gì đó vừa bị mất đi. Hẳn rồi. Một kỉ niệm tuổi thơ. Một thế giới tươi đẹp luôn luôn ôm ấp cậu vào lòng mỗi khi cậu cảm thấy tồi tệ. Một kho báu quý giá mà cậu trân trọng hơn bất cứ món đồ chơi nào khác. Bao nhiêu sự tươi vui của căn phòng giờ đây như một thứ màu đã bị bão hòa trong một dung dịch đơn sắc tẻ nhạt. Và giờ đây, Paul phải chấp nhận rằng những cuốn truyện của cậu đã mọc cánh mà bay đi. Lũ bạn sẽ cười nhạo cậu nếu biết cậu đã nổi giận và khóc lóc chỉ vì mấy cuốn truyện cho mà xem.

Đây không phải là lần đầu tiên họ phàn nàn về vấn đề của Paul. "Những câu chuyện cổ tích và phiêu lưu làm đầu óc thằng bé mụ mẫm và ảo tưởng!", mẹ cậu đã từng than vãn như thế với cô Lucilla, bà Letiza và mấy bà hàng xóm khác. Họ thường nhìn Paul với ánh mắt giễu cợt vì Paul không giỏi tiếng Pháp hay xuất sắc môn Khoa học bằng con nhà họ.

Vậy quãng thời gian tuổi thơ của họ chưa từng có chỗ cho những câu chuyện cổ tích ư?

Paul cũng không rõ. Cậu lại càng không thể trực tiếp đặt ra câu hỏi này với người lớn bởi cậu biết họ sẽ nổi giận. Có một lần cậu đánh liều hỏi cô Janes nhưng cô đã nói rằng cậu không còn nhỏ nữa, và đã đến lúc chào tạm biệt những câu chuyện cổ tích rồi. Chao ôi, chưa bao giờ Paul chán ghét việc phải lớn lên và trưởng thành đến thế. Đối với cậu, thế giới cổ tích luôn luôn màu nhiệm hơn bất cứ quầy bán đồ chơi nào, đẹp đẽ hơn bất cứ ngôi làng nào, và những nhân vật mà cậu được gặp trong mỗi trang sách luôn luôn thân thiện và tốt bụng hơn bất cứ cô cậu nào ở trường học của cậu. Đã từng luôn có ba điều ước của Thần Đèn dành cho cậu, đã từng có "chú lính chì dũng cảm" luôn làm tấm gương cho cậu, đã từng có cô bé Ida luôn làm bạn với cậu và dẫn cậu đến bữa tiệc của những bông hoa. Nhưng giờ thì không còn nữa. Không còn gì cho Paul nữa.

Cậu bỗng cảm thấy đơn độc ngay trong chính ngôi nhà của mình. Màn đêm đã gần nuốt chửng vạn vật. Ngoài kia, nhà nhà đã lên đèn. Những âm thanh náo động đã bắt đầu lặng dần đi, thay vào đó, chỉ còn tiếng tủ lạnh dưới nhà kêu ro ro, tiếng vô tuyến vọng lên ai oán, tiếng dế mèn bên dưới lò sưởi. Paul quyết định bỏ bữa ăn tối cho dù mẹ cậu có mời gọi bằng món mì Ý tagliatelle thơm lừng. Có thể ngày mai mình sẽ xin bố tha lỗi, Paul nghĩ thầm, nhưng lần đầu tiên trong đời, cậu cảm thấy cay cay ở sống mũi. Giờ đây cậu chỉ ước gì con gấu bông màu nâu duy nhất của cậu biết nói tiếng người và biết kể chuyện cổ tích cho cậu nghe.

Cứ như thế, cuộc sống của Paul trôi qua một cách chậm rãi và nhàm chán. Trước đây hiếu động bao nhiêu thì giờ đây, cậu ngày càng ít nói và lầm lì. Sau mỗi buổi học, cậu chẳng còn đạp xe ra tận thung lũng ở gần khu rừng Cornwall chơi cùng lũ bạn nữa mà thường nhốt mình trong phòng. Bố mẹ cậu lại bắt đầu một mối quan tâm mới. Họ lo sợ cậu bị tự kỉ, nhưng may mắn là vị bác sĩ già trong làng đã nói rằng không phải vậy.

*

Những tưởng Paul sẽ sống như vậy suốt cả cuộc đời, cho tới khi Rowan - một nhà văn "lập dị" theo như lời bàn tán của mọi người - chuyển đến sống trong một căn nhà cũ đối diện nhà Paul. Cậu nghe người ta bảo rằng nếu như có giải Nobel cho nhà văn kì lạ nhất thì chắc chắn Rowan sẽ là người nhận nó. Paul không biết rõ họ tên đầy đủ của ông nhà văn ấy là gì, chỉ là Rowan - hoặc thậm chí đó chẳng phải là tên thật của ông ta, một bút danh chẳng hạn - nhưng cậu không bận tâm về chuyện này lắm. Cậu chỉ cảm thấy phẫn nộ trong lòng khi thấy mọi người cứ mãi bàn tán xôn xao về một người mới đến mà chưa hề tìm hiểu xem người đó thực sự ra sao. Cậu không hiểu vì điều gì mà họ đều nhìn ông bằng đôi mắt dò xét và khó chịu. "Không phải việc của mày!", đó chắc hẳn là câu cửa miệng của những người lớn dành cho cậu nếu cậu đặt ra những thắc mắc về Rowan. Vì vậy, hằng ngày, cậu chỉ có thể tự mình tìm hiểu về Rowan trông thấy một vài sinh hoạt của Rowan qua khung cửa sổ đối diện.

Cứ trông vẻ bề ngoài của Rowan thì Paul đoán ông ta khoảng chừng sáu mươi tuổi. Ông có một mái tóc bù xù, bộ râu rậm màu nâu và đôi mắt xám nhanh nhạy. Chẳng hiểu sao mọi người trong làng lại không thích ông ấy, nhưng Paul đoán là vì đầu óc của một nhà văn thường bay bổng và có thể ông thường xuyên nói về những điều vượt quá tầm hiểu biết của họ. Rowan thường mặc áo choàng đen dài đến mắt cá, đội mũ và đi một đôi giày bệt đã cũ sờn, đều đặn hằng ngày, ông ra ngoài vào tám giờ sáng và trở về nhà vào lúc mặt trời lặn, trên tay luôn luôn ôm theo một cái túi vải đựng toàn những sách. Người ta kể rằng Rowan đã từng xuất bản được chỉ vỏn vẹn một tập sách phê bình mỏng và vài bài báo. Và chẳng cần phải nói, Rowan là một lão độc thân. "Ai sẽ lấy một người như Rowan?", bố cậu đã từng nói thế với giọng dửng dưng khinh bỉ.

Paul đoán chắc trong căn nhà nhỏ có tầng áp mái của Rowan hẳn phải có nhiều sách lắm. Có thể một số chỗ trên tường và sàn nhà còn được lót bằng sách lắm chứ! Paul chợt có ý muốn được gặp gỡ và trò chuyện Rowan. Chẳng hiểu vì sao, cậu có cảm giác ông sẽ không coi thường cậu chỉ vì cậu là con nít. Cậu sẽ nói chuyện với ông như một người hàng xóm với người hàng xóm, như một cậu học trò với một người thầy. Như một người bạn mới, Paul mong là như vậy. Nhưng hẳn là bố mẹ cậu sẽ không bằng lòng chút nào nếu trông thấy cậu trò chuyện với Rowan. Họ sẽ ngăn cấm cậu như ngăn cấm đến gần một người xấu vậy.

*

Tình cờ là vào một ngày nọ, cô Janes giao cho lớp học của Paul một bài tập làm văn về nhà. "Một góc nhìn khác về thế giới xung quanh ta". Đó có lẽ là một đề bài kì lạ nhất mà Paul từng được giao. Và đương nhiên nó sẽ chẳng dễ dàng như những bài văn kể chuyện trước đây. Thời hạn là ba ngày, và đầu óc cậu lại không gợi ra được chút cảm hứng hay ý tưởng nào khi đọc qua đề bài cả. Thật đáng lo ngại làm sao!

Ồ, có lẽ cậu sẽ cần một người giúp đỡ. Một bài tập làm văn kì lạ sẽ phù hợp với một nhà văn kì lạ chứ nhỉ?

Về đến nhà, Paul thấy cánh cổng nhà cậu vẫn mở toang. Cửa không khóa, nhưng có vẻ như bố mẹ cậu đã ra ngoài. Paul nhớ ra hôm nay là chiều thứ bảy, và vào ngày này, họ thường xuyên đến thăm những người họ hàng xa ở Edinburgh, có lẽ sẽ trở về vào lúc tối muộn. Bữa tối đã được nấu sẵn. Có một mẩu giấy nhắn của mẹ trên bàn dặn cậu nhớ ăn vào lúc sáu giờ - có nghĩa là vẫn còn hai giờ đồng hồ nữa.

Và đây chắc chắn là một cơ hội không thể bỏ lỡ để cậu gặp Rowan.

Vừa lúc ấy, Paul trông thấy ông Rowan trở về nhà - có vẻ sớm hơn thường lệ, nhưng Paul không bận tâm lắm về điều này. Tâm trí đang thôi thúc cậu mạnh mẽ, và theo phản xạ, cậu lấy ra cuốn tập của mình và vội vã chạy sang ngôi nhà đối diện. Rowan có lẽ sẽ không đuổi cậu về, Paul thầm mong như vậy.

Ngôi nhà của ông nhà văn Rowan đã mê hoặc Paul từ lâu. Trước đây nó đã từng là một trại an dưỡng mini cùng một gara, nhưng dần dần chẳng còn ai lui tới đó nữa. Thậm chí khi Rowan chưa chuyển tới đó sống thì người dân trong làng từ lâu đã chẳng bao giờ chú ý nhiều đến ngôi nhà đó, kể cả Paul cho dù nó có ở ngay đối diện đi chăng nữa. Tuy người ta luôn truyền tai nhau rằng hãy hạn chế tới nhà Rowan nhiều nhất có thể, nhưng Paul không hề sợ hãi. Đối với cậu, Rowan là một người bình thường - vô cùng bình thường, và ông sẽ có thể là vị cứu tinh của cậu nếu ông đồng ý giúp cậu với bài tập làm văn lần này.

"Ông ơi, ông Rowan ơi!"

Paul nghe thấy chính mình gọi thật to - trong lúc đứng trước cánh cửa gỗ nhà Rowan - với một chút hồi hộp xen lẫn lo âu. Từ trước tới giờ cậu chưa từng chủ động bắt chuyện với một người lạ nào, nhất là khi đó còn là một người lớn và còn không được lòng những người dân trong làng. Thậm chí nếu như có ai đi qua đây lúc này và trông thấy cậu con trai nhà Craword đang gọi cửa nhà lão Rowan thì họ sẽ chỉ trích cậu ngay tại chỗ. Nhưng thật may là vào giờ này mọi người đều đang bận rộn: cánh đàn ông có lẽ vẫn còn chưa trở về từ nơi làm việc, những bà nội trợ thì đang lo liệu bữa tối, còn lũ trẻ chắc chắn đã lại kéo nhau ra chỗ thung lũng chơi đùa như thường lệ - nơi có một đài phun nước nhỏ tự xây, một cánh đồng hoa và những đàn cừu.

Đợi một lúc lâu, khi Paul đã định bỏ cuộc thì cánh cửa bật mở. Một người đàn ông khá thấp, lưng hơi gù và đôi mắt dò xét Paul từ đầu đến chân ra đón tiếp cậu. Hôm nay Paul không còn thấy Rowan trong chiếc áo khoác dài, đi giày bệt như mọi khi nhưng ông vẫn ăn mặc khá gọn gàng. Và từ giây phút ấy, mọi mối lo ngại hay nghi hoặc của Paul cho dù có ít tới mức nào cũng đã tan biến hết.

Rowan nở một nụ cười thân thiện với Paul, nói với một giọng khàn khàn:

"À ha! Chào cậu bé, cháu làm gì ở đây thế? Có phải cháu cần một bài bình văn?", ông chỉ tay vào cuốn tập trên ngực Paul.

"Không hẳn là như thế, thưa ông...Cháu chỉ muốn nhờ ông...giúp đỡ."

"Ta nghĩ là ta có thể giúp được cháu đấy, nhưng bố mẹ cháu sẽ không hài lòng khi thấy cháu ở đây đâu.", Rowan khẽ lắc đầu, trong thoáng chốc Paul thấy nét mặt ông tươi tỉnh hơn một chút.

"Không đâu ạ. Họ đều đã đi vắng cả, chính vì thế cháu..."

Paul có vẻ hơi quá nôn nóng khi nói chuyện với Rowan, tay và chân cậu đều run rẩy, không phải bởi sợ hãi, cũng không phải vì ông ta dữ dằn hay kì lạ, mà bởi đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, cậu cảm nhận được rõ một sự kết nối mới mẻ với thế giới xung quanh mình. Cậu lật mở cuốn tập trên tay và đưa cho Rowan đề bài làm văn của cô Janes, "Cháu rất cần giúp đỡ thưa ông Rowan, bài tập này vô cùng quan trọng với cháu ạ."

"Ôi bé con, hãy vào nhà đi, và có vẻ chúng ta sẽ phải tiến hành càng sớm càng tốt đấy!", Rowan bỗng bật cười và mời Paul vào nhà.

*

Nhà của Rowan không lớn, nhưng cũng đủ để Paul không cảm thấy ngột ngạt và chật chội. Thậm chí cậu còn thấy khá thoải mái khi đặt chân vào đây. Đúng như tưởng tượng của cậu, bên trong ngôi nhà của Rowan giống như một thư viện với mấy tầng giá sách lớn, cộng thêm một bàn làm việc đầy giấy tờ ở góc phòng. Tuy nó không có nhiều màu sắc tươi vui, và chắc hẳn ở đây có rất ít sách phù hợp với Paul, nhưng cậu vẫn có cảm giác được ôm ấp bởi mùi của giấy viết cũ, của gỗ và của mực viết trong lọ. Chúng khiến cậu cảm thấy ấm áp vô cùng. Giống như được che chở vậy.

Chỉ khi được nhìn Rowan ở một khoảng cách gần như thế, Paul mới nhận ra rằng hôm nay ông trông ủ rũ và hơi mệt mỏi. Đôi mắt thâm quầng. Ông đi lại chậm chạp và hơi vụng về khi sắp mấy cái bánh quy ra đĩa. Thi thoảng ông cứ liên tục ho khù khụ. Paul suýt thì quên mất mình đã quan sát ông khá lâu. Cậu luôn bị thu hút bởi những người lớn tuổi. Họ luôn rất gần gũi và thường gợi cho cậu nghĩ đến người ông nội của mình. Ông mất từ khi cậu mới ba tuổi, và cũng chính vì thế mà những đêm được nằm nghe ông đọc truyện cổ tích trước khi đi ngủ đối với cậu thật quý giá nhưng cũng thật xa vời.

"Trông ông có vẻ mệt mỏi, cháu có làm phiền ông không ạ?"

"Ồ ta không nghĩ như thế. Đó là chuyện bình thường của một lão già thôi! Và, hình như nhóc sống ở nhà đối diện phải không? Tên cháu là gì?"

"Paul Craword, tám tuổi ạ."

"Rất vui được đón tiếp cháu hôm nay, Paul. Nhóc biết tên ta rồi nhỉ. A ha, đừng ngại gì cả, làm chút bánh bích quy nhé?", ông đặt đĩa bánh lên bàn rồi kéo cậu ngồi xuống một chiếc ghế gỗ.

"Chà, hôm nay là một ngày thật tệ đối với ta, nhóc Paul à. Không, những ngày gần đây đều thật tồi tệ..."

Rowan còn nói thêm điều gì đó nữa nhưng Paul không hiểu ý ông lắm. Ông nói bằng một giọng tiếng Anh rất khác với giọng ở vùng quê Scotland của cậu. Paul đoán hình như ông đang than vãn về một "Hội Văn bút" nào đó ở Newtonmore cùng mấy bài đánh giá văn học. Paul chợt nhớ ra đã có lần mọi người trong làng - nhất là mấy giáo viên ở trường học - đã từng có lần tranh luận gay gắt về vấn đề này.

"Ông đừng lo, ông Rowan", Paul cất lời ngay khi Rowan dừng lại và ngồi xuống ghế đối diện, "nếu ông mệt, một ngày nào đó có thể sẽ có những người tí hon đến giúp đỡ ông như giúp đỡ bác thợ đóng giày ấy!"

Rowan bật cười. Chẳng phải cười nhạo báng, mà là một điệu cười vui vẻ và thân thiện làm sao. Trong thoáng chốc cậu như thấy Rowan giống như người ông đã mất của mình cho dù cậu chẳng nhớ rõ khuôn mặt hay giọng nói. Một cảm giác ấm áp và xúc động bỗng dâng trào trong Paul nhưng cậu cố kìm nén lại.

*

Cuộc trò chuyện của Paul và ông Rowan hôm ấy kéo dài hàng giờ.

"Ồ, nghe này Paul. Ta biết cháu vô cùng yêu những câu chuyện cổ tích, như một điều tất yếu của trẻ thơ với tâm hồn trong trẻo vô tư. Chúng đưa cháu đến một thế giới tuyệt đẹp phải không nào? Việc bố mẹ cháu không hài lòng khi cháu yêu thích chúng thật là đáng buồn làm sao. Ta luôn cho rằng trẻ em có khả năng tưởng tượng vô tận, và dĩ nhiên là người lớn kém bọn cháu ở điểm này. Khi còn nhỏ, bất cứ điều gì cũng có lời giải thích, kể cả phép màu, thần tiên hay ma thuật. Còn khi đã trưởng thành, khi đã trải nghiệm và đối mặt với hiện tại và thực tế, ta không còn chơi vơi bay bổng trong thế giới cổ tích ấy nữa. Ta luôn mổ xẻ, suy diễn và phán xét chúng trên cơ sở khoa học, suy luận hay lịch sử, và một trong những tác hại của việc này chính là ta thấy được những "vùng tối" trong thế giới thần tiên của trẻ thơ, từ đó dẫn đến một tâm lí chung: đó là chối bỏ nó, gạt phăng nó ra khỏi đầu óc con trẻ. Ta sẽ không nói với cháu cụ thể về "vùng tối" nữa, và có lẽ đó chính là những gì mà bố mẹ cháu thấy đấy, Paul."

"Tuy hơi khó nhớ một chút, nhưng cháu nghĩ là cháu vẫn có thể hiểu ạ", Paul đáp, "nhưng cháu nghĩ rằng cháu không học tất cả mọi điều từ truyện cổ tích, nhưng bố mẹ cháu không nghĩ vậy."

Paul đã lắng nghe từng lời ông Rowan nói bằng một sự tập trung cao độ, thi thoảng lại cặm cụi ghi tốc kí vào bìa cuốn tập của mình. Nhưng cậu không để ý rằng ông Rowan có vẻ đang gặp khó khăn trong việc nói và hít thở.

"Tốt lắm, nhóc", Rowan ho khù khụ và thở nặng nhọc, nhưng ông vẫn tiếp tục bài giảng của mình, "Hãy viết đúng như những gì cháu hiểu, ta nghĩ là sẽ ổn thôi. Nhưng ta chưa nói hết. Cháu phải hiểu rằng bất cứ vấn đề gì cũng có hai mặt. Tốt và xấu. Tích cực và tiêu cực. Truyện cổ tích dạy con người ta biết thế nào là đúng hay sai, thiện hay ác, người tốt hay người xấu. Ta biết đấu tranh cho hạnh phúc, biết bảo vệ kẻ yếu, biết vượt qua khó khăn thử thách, biết nhận ra những điểm mạnh và yếu của bản thân mình. Và ta cũng biết cách hoàn thiện bản thân ngay từ khi còn nhỏ. Thế nhưng Paul này, ta biết tám tuổi vẫn còn nhỏ, nhỏ lắm", ông vừa nói, vừa nhìn Paul cười, "nhưng ta nghĩ cháu hãy từ từ thoát khỏi nó Không cần vội vàng, cũng không phải ta khuyên cháu từ bỏ sở thích của mình ngay lập tức. Hãy bắt đầu tìm tòi và học hỏi những thứ mới, và không ở đâu xa, nó ở chính ngôi nhà cháu, ở trường học, ở những người bạn tốt và cả ở chính bản thân cháu nữa. Ta tin rằng nó cũng thú vị y như truyện cổ tích vậy. Đó chính là hai góc nhìn mà ta đã gợi ý cho cháu đấy."

Đã đến giờ Paul phải về nhà ăn tối theo lời mẹ dặn, và theo như Paul dự đoán, ông bà Craword sẽ về nhà trong chưa đầy một giờ nữa. Họ sẽ không thích chút nào khi thấy cậu ở cùng ông nhà văn Rowan.

"Cháu rất biết ơn ông, ông Rowan, vì sự chào đón và giúp đỡ ông dành cho cháu hôm nay."


*

Paul bước ra khỏi căn nhà của Rowan. Trời đã sẩm tối, và những ánh đèn đường mờ đi dưới làn mưa bụi đang rơi. Trên đường về nhà - chỉ vỏn vẹn vài bước chân - Paul cảm thấy mình đã già đi mấy tuổi, hay đại loại là như thế: cậu cảm thấy như đã rũ bỏ được một cái bóng đen ra khỏi người vì đã ngộ nhận ra rất nhiều điều. Cậu nghĩ về bài tập làm văn của cô Janes. Có lẽ cậu sẽ bắt tay vào làm ngay khi xong bữa tối. Lúc này, thật may mắn là những ý tưởng đã tràn ngập tâm trí Paul rồi.

Paul chạy lên các bậc tam cấp của nhà mình. Trong nhà tối thui, và cậu phải cố gắng lắm mới vươn tay chạm được vào công tắc điện.

Hình ảnh ông Rowan vẫn không ngừng hiện lên trong tâm trí Paul. Cậu nhìn sang phía căn nhà đối diện, nhưng bên trong các khung cửa sổ vẫn còn chưa lên đèn.

Và cậu chợt có cảm giác nhói buốt trong tim như thể cuộc gặp gỡ với Rowan là lần đầu tiên nhưng cũng sẽ là lần cuối cùng vậy.


*

Ông Rowan mất một tuần sau đó. Chẳng ai biết được chuyện này, cho đến khi có hai người quản lí của Hội văn bút Newtonmore đến để tìm hiểu vì sao ông đã đột ngột nghỉ việc suốt mấy ngày liền. Người ta nói rằng đó là do bệnh viêm phổi của ông tái phát. Họ tìm thấy ông ngồi trên ghế bành, và trên tay vẫn nắm chặt cuốn sách phê bình mỏng dính của chính mình đã xuất bản cách đây hai năm. Chắc hẳn suốt đời ông vẫn luôn trân quý công sức, tâm huyết và đam mê của chính mình cho dù người ta có khinh thường chúng.

Tất cả mọi làng đều biết việc ấy, tất nhiên là bao gồm cả Paul. Cậu đã khóc một mình hằng đêm trong phòng ngủ mỗi khi hướng mắt nhìn về phía ô cửa sổ nhà đối diện - nay đã không còn thứ ánh sáng màu vàng dịu ấm áp cùng chiếc bàn làm việc với tài liệu xếp chồng. Người ta đã dọn hết tất cả đồ đạc trong nhà Rowan, và căn nhà có tầng áp mái ấy lại trở về vẻ lạnh lẽo yên ắng như trước. Cậu đã hối hận vô cùng, vì hôm ấy đã không nhận ra sự khó nhọc trong giọng nói và hơi thở của Rowan, nếu không, cậu đã chạy ngay đi tìm vị bác sĩ già trong làng đến giúp.

Và chỉ đến tận khi đã gần hai mươi tuổi - khi Paul quyết định sẽ theo đuổi sự nghiệp viết lách, cậu đã vô tình nghe được mẹ và mấy người hàng xóm truyền tai nhau về một vụ cãi cọ xảy ra ở Hội văn bút Newtonmore trước khi Rowan mất. Khi ấy, có một bản tiểu luận về văn chương nào đó của Rowan đã được hoàn thành, dài đến hơn năm mươi trang. Sau đó, những thành viên thời ấy của Hội đã gạt bỏ ngay nó khỏi danh sách được xuất bản và in báo. Họ đưa ra những lời phán xét rất gay gắt về bản tiểu luận này. Không sát với chủ đề. Quá chủ quan và không mở rộng. Không có tiềm năng nào đáng kì vọng. Quan điểm lỗi thời. Tuy chưa từng được xem qua bài tiểu luận ấy - có thể nó chưa từng được công khai - nhưng Paul biết rằng đã có vô số những ý kiến trái chiều công kích Rowan và tác phẩm của ông. Có lẽ chính vì thế mà tinh thần của ông đã bị vùi dập, song Paul tin chắc rằng đam mê của Rowan đối với văn chương thì không.

Mãi về sau, Paul Craword mới ngỡ ngàng khi tìm ra bản viết cuối cùng của Rowan được in trong tập Những tiểu luận kinh điển - một trong những cuốn tài liệu nổi tiếng được sử dụng nhiều nhất trong việc giảng dạy ở các trường đại học. Bài luận của Rowan viết về "Thuyết Vụ Án của Franz Kafka", và sau khi đã nghiền ngẫm đọc nó như muốn ngấu nghiến cả tập sách, Paul vừa tiếc nuối, nhưng cũng vừa hạnh phúc, bởi cậu biết rằng thế giới đã nhìn nhầm Rowan.

Tác giả: ganitroyee

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro