Chương 1.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Để bắt đầu câu chuyện này, tôi xin phép được quay trở lại Gia Lâm cách đây 9 năm. Ngày ấy tôi còn là một cậu bé học cấp hai, vô lo vô nghĩ. Thuở niên thiếu của tôi sẽ mãi trôi qua êm đềm với cánh đồng, trái bóng như vậy nếu không có một ngày..

Đó là một ngày mưa tầm tã ở vùng ngoại ô, bố tôi cùng một người đàn ông chững tuổi nhanh chóng rảo bước vào trong nhà. Ấn tượng đầu tiên của tôi với người đàn ông này là đôi mắt sáng, bước đi linh hoạt chẳng khác nào thanh niên mặc dù ông ta nhìn cũng đã chững tuổi. Yên vị trên chiếc trường kỷ đã cũ của nhà tôi, người đàn ông lạ mặt cất tiếng:

- Thưa anh chị, nhà này vốn xây trên đất có ngạ quỷ, vợ chồng đương số có con đầu lòng mang nghiệp âm.

Nghe đến đó thì mẹ tôi có vẻ lo lắng lắm, bà cố gượng hỏi người đàn ông với giọng run sợ

- Nghiệp..Nghiệp âm là gì hả thầy?

Cái người được mẹ tôi gọi là thầy ấy nhìn đăm chiêu về khoảng không phía trước, nhấp ngụm trà, ông từ từ nói.

-Kiếp số nghiệp âm có nghĩa là người có duyên với tâm linh, có duyên với thế giới vô hình. Những người này thường sinh vào chính Tý, cuộc đời có đôi phần vất vả nhưng ngộ tính đặc biệt cao, nếu đi theo con đường thầy pháp thì lại sớm đạt được những thành công đáng kể. Bằng không thì cuộc đời thâm trầm, tươi ba buồn bảy.

Bố mẹ tôi nhìn nhau thở dài, ai nấy đều giữ im lặng. Tôi ngồi hóng phía kế bên nghe chẳng hiểu được là bao đành bỏ lên nhà đọc truyện.

Sau cái ngày định mệnh ấy, mẹ tôi chạy vạy khắp nơi để mời thầy về xem bói cho thằng con quý tử. Kể cũng lạ, xưa nay tôi hiếm khi thấy mẹ như vậy. Cứ ròng rã như vậy hơn tháng trời, mẹ tôi được đánh tiếng có ông thầy bùa ở Hải Dương kỳ thực là cao tay lắm. Sớm hôm ấy, mẹ cùng tôi bắt chuyến xe từ năm giờ sáng với hy vọng là người đầu tiên dược diện kiến ông thầy cao tay.

Hải Dương, vùng đất có bề dày lịch sử, văn hóa được kéo dài từ những triều đại phong kiến Lý, Trần, Lê, Nguyễn cho tới nay. Bên cạnh đó cũng là những câu chuyện tâm linh nhuốm màu kỳ bí mà ít ai dám bàn về sự thực hư của nó.

Tôi và mẹ đặt chân đến Tứ Kỳ cũng cỡ hơn 7h, khó khăn lắm mẹ tôi mới hỏi thăm được đường vào nhà của vị thầy pháp cao tay. Ban đầu, mẹ tôi còn bán tín bán nghi vào những lời đồn đoán về danh tiếng của ông thầy. Cho đến khi hai mẹ con chứng kiến cảnh tượng cả chục người la liệt ngồi chờ tới lượt ở cửa. Ấy vậy mới thấm câu "thỉnh thầy khó hơn đãi mỏ". Cực chẳng đã, mẹ con tôi đành phải ghé vào quán nước vệ đường chờ vãn người mới tới thưa chuyện. Đúng là gần đèn thì rạng, ngay cả người bán quán bên cạnh nhà thầy cũng có cái khiếu xem bói, thoáng nhìn mặt mẹ tôi là cô này đoán ngay ra đến gặp thầy Hữu. Cô bán nước mồi chuyện

-Thầy Hữu ở đây thì có tiếng từ ngày xưa rồi, ngày nào cũng thế đấy cô ạ, khách lai vãng cứ độ vài ba chục người cho tới tối muộn. Em bán nước quanh năm ở đây có đồng ra đồng vào cũng là nhờ cái tiếng của thầy Hữu.

Mẹ tôi tiếp nhời,

-Mẹ con chị ở xa tới, chả biết tài phép thầy ra sao mà tiếng lành đồn lên tận đất Hà Nội cô ạ.

Cô hàng nước ra vẻ hào hứng lắm

-Đấy, chị nhìn thì biết, thỉ như mà thầy Hữu không có tài cán gì thì làm sao mà tấp nập như thế kia được. Ngày xưa có đợt làng em gặp sự lạ. Chỉ trong một tuần mà đến gần chục thanh niên làng lần lượt lăn ra ốm, có đêm người ta còn nghe thấy tiếng vó ngựa bình bịch ngoài đường như hành quân thời xưa. Người làng cứ 8h giờ tối là tuyệt nhiên kín cổng cao tường, chẳng ai dám bén mảng ra ngoài đường. Cho tới khi thầy Hữu chuyển tới đây. Cứ giờ Hợi hàng ngày là hàng xóm lại được phen thất kinh khi có ông cụ tuổi ngoài lục tuần diện áo nâu sòng lễ khễ tay nải đi về hướng đầu làng. Thật ra thì cũng chả ai biết là ông đi đâu, nhưng theo lời kể của mấy người đi chợ đêm thì ...

Mẹ tôi sốt sắng giục,

-Cô cứ kể tiếp đi, chị vẫn đang nghe

Câu chuyện lại được tiếp tục, lần này nghe chừng giọng điệu của cô hàng nước như có gì đó trùng xuống.

-Theo như mấy người đi chợ đêm kể lại, thỉnh thoảng họ dậy lên chợ huyện sớm thì thấy có người đàn ông đứng trước cây đa cổ thụ ở đầu làng quát tháo, tay bắt quyết, tay cầm cành cây như cành dâu mà quật vào thân cây. Có người từng cố lại gần để nghe cho ra ông thầy này quát tháo điều gì, nhưng kỳ thực chỉ toàn là thứ tiếng quái đản, có cố nghe cũng chả hiểu nổi. Cũng có những người khác kể, ông thầy ngồi chân xếp vàng dưới gốc đa mà gõ mõ, người đi qua chỉ nghe thấy tiếng khóc ai oán từ muôn trùng vọng lại, hòa cùng âm thanh đa chiều của màn đêm tạo nên một cảm giác ma mị đến rợn người. Tuy vậy, ấy cũng chỉ là những câu chuyện mà người dân xóm này thêu dệt lên về sự kỳ bí của thầy Hữu. Còn thực hư thế nào thì chỉ có bản thân ông ấy mới biết được. Nhưng cho đến một ngày, cả làng trên xóm dưới ở cái đất này phải kính nể đến cái tên của thầy.

Đến đây tôi xin phép được gọi tên của cô hàng nước cho dễ bề thuật lại câu chuyện.

Mẹ và tôi cứ thế chìm đắm trong câu chuyện ma mị của cô Trà, chính bản thân hai mẹ con cũng đang tò mò cực độ về những diễn biến tiếp theo. Dường như nắm bắt được tâm lý của hai người đối diện, cô Trà nhanh chóng kể tiếp.

- Đó là một ngày mà mọi thứ quái dị xảy ra trong cái làng nhỏ bé này lên tới đỉnh điểm, cô con gái diệu của bác trưởng thôn nửa đêm canh ba mò ra gốc đa đầu làng ngồi rên rỉ. Ông Lục, người xóm giữa, ông này có thói quen đi câu đêm, mà những người có cái thú vui này thì còn sợ gì ma quỷ, nhiều lúc nhắc tới chuyện ma trêu quỷ hờn ông Lục chỉ cười rồi gạt đi và cho đó là mấy điều nhảm nhí. Hôm nay, chẳng khác gì mọi khi, ông Lục sang ao làng Tượng để buông cần. Ông Lục rảo bước tới đoạn gốc đa đầu làng thì bỗng chân ông nặng như trì, từ phía gốc đa hắt ra ánh mắt đỏ rực đang nhìn về phía ông. Ông Lục thất kinh, miệng ú ớ chẳng nói được lời nào. Bấy lâu nay ông vốn chẳng tin vào thứ ma quỷ, cho tới ngày hôm nay, trong tình huống tiến thoái lưỡng nan này, có nói là không tin thì cũng chẳng thể nào mà đành lòng cho được. Ông Lục cố gắng lết những bước chạy nặng trịch quay ngược về trong làng, phần thì ông la hét um xùm cả một vùng quê tĩnh mịch vốn đã chìm vào màn đêm thăm thẳm. Thấy tiếng kêu la thất thanh, người này kháo người kia kéo nhau ra ngoài xem sự tình thế nào. Người ta thấy cái dáng vẻ còm nhom của ông Lục đang ba chân bốn cẳng tiến về phía đám đông. Thở không ra hơi, ông Lục cố rằn vài câu lí nhí, gốc đa.. gốc đa... gốc đa có ma. Người làng nhìn nhau, chẳng ai dám nói với ai nửa lời, Vẻ mặt của mấy mươi người lúc bây giờ đều hiện rõ sự ngờ vực. A Tuân, người nổi tiếng gan dạ trong làng đề nghị dẫn đầu một vài thanh niên trai tráng ra xem sự tình.

Vẻ mặt cô Trà lúc này vẫn tỏ rõ sự kinh hãi, có lẽ ngày hôm đó cô cũng là người chứng kiến phần nào sự việc xảy ra. Cô ấp úng,

- Ấy thế..ấy thế mà cũng chả ăn thua, mấy người thanh niên chưa đi tới gốc đa thì đã nghe tiếng cười khanh khách vọng lại như từ âm ti địa ngục. Trong cái khói sương mờ đục dưới ánh trăng vành vạnh, họ thấy dáng dấp của một cô gái đang ngồi gục dưới gốc đa, hai tay buông thõng. A Tuân đánh tiếng để mọi người tiến lại gần hơn, nhưng khung khảnh quái dị trước mắt đang khiến cho những con người tưởng chừng như gan hùm dạ hổ cũng phải chùn chân. Trong cái lúc tình thế được coi là "âm thịnh dương suy" đó, ngay cả một tiếng động nhỏ nhất cũng có thể làm con người ta hồn bay phách lạc. Có kẻ đã toan tính quay đầu bỏ chạy. Nhưng chưa kịp quay người lại thì có bàn tay sần sùi thô ráp đặt lên vai của kẻ đứng ngoài cùng. Tên này kinh hãi, người run lẩy bẩy, ánh mắt từ từ quay lại phía sau...

Đôi bàn tay thô kệch ấy vô tình khiến cho gã thanh niên trở nên hoảng loạn, giữa tiết trời đông lạnh đến thấu xương thấu thịt mà mồ hôi trên người gã đổ ra như tắm, khuôn mặt tái nhợt đi vì sợ. Ánh mắt hắn từ từ bắt chọn được hình thù phía sau mình. Lúc này, ba hồn bảy vía của gã thanh niên như vừa trở về từ cõi âm ty tào địa. Nhưng người này là ai, sao vẻ mặt của ông ta bình tĩnh một cách lạ thường như vậy. A Tuân nghe thấy có động liền quay lại phía sau, vốn tính tình cũng hay lân la đầu thôn cuối xóm nên a cũng chẳng còn lạ gì người đàn ông kỳ bí kia, đó là thầy Hữu. A Tuân toan lên tiếng thì thầy Hữu ra dấu để mọi người giữ yên lặng.

Tiếp đó, thầy Hữu từ trong tay nải đã đeo sẵn trên vai lấy ra một chiếc chuông đồng. Đoạn vừa lắc chuông thầy Hữu vừa từ từ tiến lại phía gốc đa, cảnh vật lúc này tựa hồ như tào phủ. Phía sau, mấy người thanh niên vừa kinh sợ vừa tò mò muốn biết thầy Hữu định làm gì. Thoạt khung cảnh phía trước như dần thay đổi, cô gái từ từ đứng dậy, đầu nghẹo hẳn sang một bên. Tiếng cười khanh khách khi nãy hình như đã dừng hẳn, thay vào đó là những tiếng thầm thì khi được khi mất. Tuy vậy, nếu tập trung nghe một cách kỹ càng thì người ta vẫn có thể phần nào lập lờ nghe được ba tiếng "đừng lại đây". Về phần thầy Hữu, lúc này ông đã mặt đối mặt với cô gái kia, miệng ông liên tục lẩm bẩm thứ tiếng gì đó rất kỳ lạ. Không gian yên ắng dần bị phá tan bằng từng đợt gió rít liên hồi, a Tuân và mấy người thanh niên đều nghe rõ mồn một tiếng vó ngựa vọng lại từ phía đồi cát, hình như nó đang tiến về phía này. Lúc đó, một giọng nói đàn ông vang lên rõng rạc, hình như đó là tiếng của thầy Hữu, người đàn ông tuổi đã lục tuần mà giọng nói vẫn đanh thép như vậy thì quả thật là điều phi thường.

- Ngạ quỷ phương nào sao dám đến đây gây nghiệp, còn không mau trả thân xác lại cho nữ này.

Thì ra, đó không phải là một hồn ma bóng quế hiện về dương gian như mấy thanh niên đoán già đoán non. Bởi vậy, họ mới có chút dũng khí để tiến lại gần hơn hòng quan sát sự tình.

Tiếp đó thầy Hữu lại lấy ra một thứ trông như cây kỳ lệnh, ông chỉ thẳng về phía cô gái quát lớn hơn

- Ác nghiệp chưa thấy quyền ta nên còn chưa sợ phỏng?

Lúc này mới cô gãi bỗng quỳ rạp xuống, hai tay ngoặt ra phía sau lưng như có người trói lại. Thoạt nhìn lờ mờ như có bóng ai đó đứng ngay phía sau cô ta. Thầy Hữu gằn giọng hỏi,

- Đã biết ta là ai rồi thì mau nói, bằng không ta cho binh dẫn xuống địa phủ để tào quan hỏi tội.

Bấy giờ từ phía cô gái mới phát ra giọng nói hục hặc như của đàn ông,

- Ta là Mã Chính, người huyện Thiểm Tây, xưa từng sang đây đánh đồn binh của nhà Lê từ thời Thanh Cao Tông tức Càn Long Đế. Ngự tại gốc đa này đã nhiều năm, cô gái này vốn hợp mạng hợp số với ta, ta muốn đưa cô ấy về làm thê thiếp.

Thầy Hữu lúc đó lấy ra một đạo bùa vứt xuống đất, vừa chạm đất thì đạo bùa đột nhiên bốc lửa cháy phừng phừng. Thầy Hữu tiếp lời:

- Nam Bắc vốn đã phân chia rõ ràng từ lâu, thời Hậu Lê và Càn Long Đế cũng đã đi qua hơn 200 năm, hà cớ chi người còn lưu lạc chốn nhân gian này. Đã thế còn muốn tác hại tới dân nước Nam.

Lúc này ánh mắt của cô gái đó, đúng hơn là ánh mắt của vong linh trong thể xác cô gái đang hướng thẳng về phía thầy Hữu mà rằng,

- Kẻ phàm tục như người đừng có xen vào luôn hồi nhân thế, cha của cô gái này xưa kia định dọn gốc đa nơi ta ngự để cất dựng nhà cửa, nay con gái hắn phải trả giá là điều đúng thôi.

Nghe đến đây, a Tuân nhận ra ngay đó là câu chuyện của 10 năm về trước khi bác trưởng thôn cho người hạ gốc đa để xây nhà văn hóa. Ngày đó bằng cách nào cũng không thể đốn được cây đa đó xuống nên người ta đành di dười địa điểm xây dựng nhà văn hóa sang bên cạnh. Nếu đúng như vậy thì cô gái kia chẳng ai khác chính là Huệ, cô con gái đầu lòng của bác trưởng thôn.

Thầy Hữu phần cũng biết tên này đã thành tinh, nếu như hắn là tướng quân mà tử trận tại đây thì ắt hẳn xung quanh hắn cũng chẳng ít ma quỷ là binh tốt của y. Nếu như trừ khử y đi thì liệu có chắc những tên quỷ lâu la khác có để yên cho cái thôn nhỏ bé này không. Ấy vậy, thầy mới thử ý định thương lượng với y, chờ dịp có cơ hội sẽ bắt cả mẻ lưới lớn, trừ họa cho dân.

- Nếu ngươi chịu trả lại thân xác cho cô gái này, ta sẽ cho người dựng am thờ ngươi ở dưới gốc đa này, phần lại cho ngươi thêm hình nhân để hầu hạ khi cần, bằng không đừng trách ta vô tình.

Vừa dứt lời, thầy Hữu vứt thêm một lá bùa nữa xuống đất. Là bùa lần này vừa gặp đất cũng phát hỏa ngay, nhưng là ngọn lửa màu xanh khác lạ, quả thật là ảo bí vô cùng.

Cô gái bỗng chốc đổ gục ra phía sau, mấy người thanh niên vẫn ú ớ chưa hiểu rõ sự tình thì trong gió có tiếng nói vọng về, "nếu ngày mai không dựng xong am cho ta thì ta sẽ còn quay lại, mấy thứ bùa chú của ngươi chẳng đủ để làm hại ta đâu". Thầy Hữu lập tức đỡ cô gái dậy và lên tiếng nhờ a Tuân cùng mấy người đưa cô trở về làng, phần ông vẫn cố nán lại gốc đa làm gì đó mà chẳng ai có thể biết...

Sau này, chính thầy Hữu đã kể lại cho tôi. Lúc ấy, thầy Hữu quả thật là đã quá khinh địch, quỷ vong kia đã tu luyện thành tinh. 200 năm là quãng thời gian không hề ngắn nếu không muốn nói là quá đủ để một vong trở thành ngạ quỷ. Hóa ra ban đầu hắn chịu trói dưới binh của thầy cũng là để thăm dò bản lãnh của thầy Hữu tới đâu mà thôi.

Một đồn mười, mười đồn trăm, đúng là chẳng có thứ gì nhanh bằng tiếng đồn. Chưa đầy nửa ngày mà cả cái huyện Tứ Kỳ rộng lớn ấy đã biết đến danh thầy Hữu. Trưa ấy, ông Thực trưởng thôn cùng vài cụ lớn tuổi trong thôn ghé thăm nhà thầy Hữu. Phần để cảm ơn thầy Hữu đã tận lực cứu giúp cô con gái diệu của mình, phần cũng muốn cùng thầy Hữu và các cụ trong làng tìm cách hóa giải cái nghiệp mà làng đang phải gánh chịu. Đây vốn cũng chẳng phải việc của thầy Hữu, nhưng quả thật, cái kiếp thầy pháp đã gặp rồi có tránh cũng chẳng được. Cực chẳng đã nên mới đành phải làm mà thôi, dẫu biết những việc này dễ đem lại hậu họa về sau, nhưng giờ biết phải ra sao?

Ông Thực úp mở lên tiếng,

-Thưa thầy, kỳ này cũng là kiếp nạn mà thôn ta gặp phải, hôm nay ở đây cũng có mặt các cụ trưởng tộc trong thôn. Kính mong thầy ngỏ lời ngỏ ý giúp cho thôn ta qua được cái đại hạn này.

Ông Thực nói với giọng nói cầu khẩn, nhưng một phần, chính bản thân ông ta cũng đang lo lắng cho sự an nguy của chính mình. Vì ông ta biết, mọi chuyện ngày hôm nay dù ít dù nhiều cũng bắt nguồn từ câu chuyện xây dựng nhà văn hóa 10 năm về trước. Thầy Hữu vốn đã nhìn thấu tâm can của ông Thực, âu trong lòng cũng đã có cách giải quyết cho vấn đề này. Cổ nhân vốn có câu "oan có đầu, nợ có chủ", nếu như tháo được nút thắt thì thế cục ắt nằm trọn trong lòng bàn tay. Ngay lập tức, thầy Hữu quay sang phía các trưởng tộc mà rằng,

-Kính thưa các cụ, thưa đồng chí trưởng thôn, vạn vật trên đời này xảy ra đều có nguyên do của nó. Chẳng có điều gì là nằm ngoài vòng luôn hồi nhân sinh cả, phúc báo nghiệp báo đều đã được ông trời sắp đặt. Hữu đây thực tài hèn mọn, nhưng đứng trước sự việc này quả thực không thể nào mà nhắm mắt bỏ quá. Nếu như các cụ đây cũng như đồng chí Thực đã có sự tin tưởng thì Hữu tôi sẽ tận lực.

Mọi người có mặt lúc ấy đồng thanh,

-Vậy thì xin theo sự sắp đặt của thầy.

Thoạt thầy Hữu lấy trong túi áo nâu ra một mẩu giấy có ghi sẵn đồ lễ cần phải chuẩn bị đưa cho ông Thực rồi dặn,

-Trên đây là những đồ lễ thiết yếu phải có, phiền ông chuẩn bị đầy đủ cho tôi trước giờ Dậu. Lưu ý là hai hình nhân nữ đặc biệt phải được vẽ trang phục tựa theo y phục Trung Hoa thời kỳ phong kiến và không được để tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, khi thấy sẩm tối mới được mang ra ngoài. Còn về các cụ xin tìm giúp Hữu năm người đàn ông tuổi Dần chưa lập gia đình. Đầu giờ Tuất chúng ta hẹn nhau ở đầu thôn.

Công việc tạm thời cũng đã được thống nhất, mỗi người tủa đi một nơi để chuẩn bị cho đàn lễ mà ông Thực gọi là đàn giải nghiệp. Riêng về phần thầy Hữu, nhấp một ngụp chè thật đặc, thầy phóng tầm mắt ra phía khoảng không vạn dặm mà đăm chiêu suy nghĩ. Chuyến này quả thực là lành ít dữ nhiều, từ ngày xuất sơn, bản thân thầy Hữu chưa từng có lần nào gặp những ngã quỷ thành tinh, âm lực quái đản như lần này. Thiết nghĩ, nếu trị tận gốc thì có khi mạng sống của chính mình cũng khó lòng mà giữ được.

Đôi khi đứng trước những sự việc, những lựa chọn mang tính chất quan trọng của cuộc đời con người, chúng ta buộc phải chọn sự thử thách, không phải vì ta muốn đương đầu với những khó khăn mà đơn giản, đó là trách nhiệm của người học pháp

Tối đó, thầy Hữu có mặt từ sớm, người ta không còn bắt gặp một khuôn mặt điềm tĩnh của ông hàng ngày trên con đường làng. Thay vào đó, thầy Hữu giữ khuôn mặt có phần nghiêm trọng, cùng với y phục màu tía thêu hình bát quái ta hay thấy ở mấy tay pháp sư người tàu. Thần khí của thầy Hữu toát ra một vẻ oai nghiêm mà ngay cả những người bên cạnh cũng phải cảm thấy sởn gai ốc. Mọi lễ vật lúc này cũng dã được ông Thực mang đến đầy đủ, nào là cửu vĩ, long chu, nào là hoa man, đàn mã, thuyền rồng, hình nộm. Đều là những cực phẩm trong các canh đàn khóa lễ thời buổi bấy giờ. Thầy Hữu chọn ra 64 đốt tre non, tất cả đều được nhúng qua máu chó đen phơi dưới ánh chiều tà. Thầy Hữu chỉ đạo mấy thanh niên cắm 64 cọc tre đó theo trận đồ bát quái, bao bọc phía bên ngoài đó là bốn tảng đá lớn tượng trưng cho Tứ Tượng. Đàn mã được đặt trong lòng của trận đồ cọc tre bát quái. Đàn mã hình ngũ giác, mỗi cạnh của ngũ giác có một người đàn ông tuổi Dần cầm lệnh kỳ của thầy Hữu đứng trấn, tượng trưng cho ngũ hành. Đàn lễ của thầy Hữu lúc này quả thực là đồ sộ lắm, người dân trong thôn không khỏi tò mò kéo nhau đến xem giữa tiết trời khuya lạnh giá. Ai nấy đều co ro trong cái lạnh đầu đông, nhưng điều đó không quan trọng với bản thân họ, điều họ muốn là một lần trong đời được chứng kiến cái thứ gọi là "ma quỷ". Thầy Hữu bắt đầu làm phép, lại một lần nữa a Tuân và vài người thanh niên hôm nọ lại bắt gặp tiếng vó ngựa từ đồi cát vọng lại, lần này không chỉ là một mà là như đến cả chục, cả trăm vó ngựa đang rền vang trong đêm tối. Thầy Hữu bắt quyết một hồi lâu, mồ hôi vã ra như tắm. Bất chợt, thầy Hữu đứng phắt dậy, ảnh mắt hướng về phía cô Huệ, người tối qua vừa bị quỷ mượn xác. Cô Huệ run lên bần bật, người ngã vật ra đất, mắt cô dần dần chuyển sang lòng trắng dã, người ta còn thấy nó ánh lên vài tia đỏ le lói trong ánh mắt của cô. Thầy Hữu ra hiệu cho mọi người tránh xa khỏi khu vực cô Huệ đang lê lết. Thầy Hữu ném ra phía đó bốn lá bùa màu vàng, thoạt tự lấy dao nhỏ cắt tay lấy máu vẽ lên trán một chữ kỳ lạ mà chẳng ai hiểu, có mấy tay am hiểu trong thôn gọi chữ đó là chữ "sát" theo nghĩa của Tàu. Bốn lá bùa bốc cháy phừng phừng trên nền đất, kỳ lạ một điều, bốn là bùa đó cháy một hồi lâu mà chẳng thấy ngừng. Người dân xung quanh đã có người thấy ớn lạnh mà bỏ về, lúc này là chính tý, thầy Hữu mới cất tiếng,

- Ta đến đúng hẹn, ngươi tới đây sao còn mang theo nhiều binh ma quỷ tướng như vậy, há phải chăng muốn gây hấn với ta.

Giọng nói nam nhân lần này phát ra từ cô Huệ rõng rạc và oai vệ hơn hôm qua rất nhiều,

-Nếu muốn thương thảo với ta sao còn bày bát quái trận đồ, đó không phải là hành động mang tính thiện chí.

Tiếng nói vừa dứt thì gió đùng đùng nổi lên, bụi thổi mịt mù cả một vùng đất khiến người ta khó có thể nhìn rõ điều gì đang xảy ra. Về sau, có người kể lại rằng, lúc ấy chỉ nghe thấy tiếng gươm giáo, hò nhau ngày một dồn dập, cũng có người thuật lại rằng nghe thấy tiếng la hét của cả trăm, cả vạn người vọng lại từ muôn trùng.

Ấy thử hỏi, điều gì đã xảy ra lúc bấy giờ?

Bấy giờ những người ở phía ngoài trận pháp của thầy Hữu khó lòng nào mà nhận biết tình hình cho được, duy chỉ có năm người đàn ông trấn năm góc của đàn lễ là chứng kiến rõ rệt những gì xảy ra. Trùnng hợp thay, chồng của cô Trà lại là một trong năm người đứng pháp trong trận đồ lúc ấy. Mãi sau này khi câu chuyện lắng xuống, cô Trà mới được dịp nghe chồng thuật lại những giây phút hoảng loạn năm xưa.

Bấy giờ chú Tiến, sau này là chồng cô Trà, thấy rất rõ trong cái dáng vẻ của Huệ đã mất đi sự uyển chuyển của một người thiếu nữ. Thay vào đó là những bước đi oai vệ, từ tốn, họa như tướng đi của các bậc danh tướng cổ xưa. Phía bên cạnh quỷ tướng đó, nếu căng mắt nhìn rõ thì hình như có rất nhiều những bóng đen mập mờ phảng phất ở phía sau. Cớ phải chăng đó cũng là những vong hồn tử trận chưa được siêu sinh nay muốn lên dương thế làm loạn. Mấy người đứng trấn trận pháp nháo nhác, tim đập thình thịch, kẻ nào kẻ nấy chỉ muốn buông đồ mà tháo chạy, nhưng lạ thay, lúc ấy tuy là tình thế cấp bách nhưng ai nấy đều như trôn chân tại vị trí của mình, có muốn chạy cũng chẳng tài nào mà nhấc nổi chân lên được. Thầy Hữu đã nhiều phen ra vào với những thứ ma tà này nên cũng có phần nào đó vững tâm hơn năm người dưới đàn kia. Thầy Hữu quát lớn,

-Tất cả đứng yên, lúc này có muốn chạy cũng không được, ta đã có sự dự toán. Lúc này bỏ chạy thì tất cả cùng chết, phải thật kiên định.

Thầy Hữu ra lệnh cho năm người cầm lệnh kỳ cùng hướng về ngạ quỷ trong thân xác của cô Huệ. Kỳ lạ thay, bốn bề mặt đất lúc ấy bỗng rung chuyển một cách một cách mạnh mẽ. Chính bản thân chú Tiến cũng không khỏi kinh ngạc khi nhìn thấy bốn phiến đá lớn sức năm sáu người khiêng đột nhiên di chuyển như có người tác động. Mặc dù kể cả có sức người tác động thì liệu ai có đủ sức mà làm được điều phi thường đến vậy. Mà đâu chỉ có riêng 4 phiến đá xảy ra sự lạ, ngay cả đến 64 cọc tre được cắm xuống đất một cách chắc chắn cũng rung lên liên hồi, thậm chí có những cọc đổ ngả hẳn sang một phía. Thầy Hữu lúc này lấy ra một xấp bùa đã được chuẩn bị sẵn, hơ đi hơ lại quanh bó nhang đang cháy phừng phừng trên bàn lễ. Kế đó, thầy Hữu tung nắm bùa về phía trước mặt, miệng hô vang bốn chữ, "Tứ Tượng xoay chuyển". Đúng lúc đó thì chú Tiến thấy mồn một có bóng người đang đẩy bốn tảng đá lăn về phía trước đàn lễ, vừa đến nơi xếp thành một hàng ngang thì dừng lại. Mấy bóng người lúc đó cũng tự nhiên mà tan mất. Thầy Hữu tay cầm thanh Mộc Kiếm liên tục múa võ trên đài lễ, chẳng ai có thể tin rằng một người đàn ông da dẻ nhăn nheo, đầu hai thứ tóc lại có thể thực hiện những đường kiếm dứt khoát và thanh thoát như vậy. Mỗi đường kiếm mà thầy Hữu chém về phía trước thì lại có một tiếng gào thét vọng lại trong gió, cứ như vậy chừng mươi phút thì tên quỷ tướng trong thân xác cô Huệ khựng lại. Tiếng nói thều thào khác hẳn với lúc đầu cất lên từ phía đó,

-Xem ra ngươi cũng có chút thực tài, sao ngươi không kết liễu nốt ta đi, Mật Tông Pháp Chỉ của ngươi thừa sức để đánh ta hồn siêu phách lạc.

Thầy Hữu lặng người hồi lâu, lên tiếng giảng giải cho kẻ âm hồn ngạ quỷ dưới kia hiểu,

-Ta vốn học đạo, chữ đạo để lên đầu, nhưng đó không phải là đạo pháp mà là đạo hạnh. Ngươi dù là bại binh nhưng vẫn có âm tướng đi theo phò trợ ắt khi còn trên dương thế cũng là người có nghĩa khí, ta niệm tình đó mở cho ngươi một cơ hội. Nếu như biết an phận thì ta cho người lập miếu thờ phụng ngay dưới gốc đa, sớm hôm nhang khói cho ngươi hưởng lễ của trăm họ.

Nói đoạn đến đây thì cảnh vật xung quanh trở về đúng những gì mà nó vốn có. Những cơn cuồng phong mịt mù đã biến mất, những người phía bên ngoài lúc này cũng đã thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy thầy Hữu và năm người trấn pháp vẫn đang bình yên vô sự. Ngạ quỷ tiếp lời,

-Mã Chính ta xưa nay trung quân ái quốc, nguyện một lòng được phò trợ cho chúa công. Thánh ân đưa ta đến đây để chinh phạt, nay nhiệm vụ đã xong chỉ mong được trở về Thiểm Tây nơi quê nhà để an nghỉ.

Thầy Hữu tỏ vẻ thán phục chữ trung chữ nghĩa của âm quỷ mà rằng,

-Điều đó không khó, ta hoàn toàn có thể thỉnh pháp thánh mở lối đưa đường dẫn ngươi về với nơi Bắc Quốc. Tuy vậy, ngươi phải buông tha cho thiếu nữ kia, oan oan tương báo âu cũng chỉ làm ngươi thêm nặng nghiệp. Ta đã cất công chuẩn bị cho ngươi hai tố nữ theo hầu dọc đường khi ngươi trở về, nếu đồng ý ta sẽ làm phép thỉnh lệnh Thánh ngay lúc này.

Cô Huệ gục xuống ngay trước trận đồ, miệng ré lên một tiếng kêu ngân dài xé tan màn đêm u ám của cả xứ huyện Tứ Kỳ. Có tiếng vọng lại ngày một xa xăm,

-Mã Chính ta ngự ở đây đã hai trăm năm, chưa từng gặp ai vừa có tài vừa có khí chất khẳng khái như ngươi. Sau này ta trở về Bắc Quốc, nếu về phần âm có biến sự cứ thỉnh ta về, ắt sẽ phò trợ ngươi hết mực.

Thầy Hữu ngồi giữa đàn lễ, hai tay bắt quyết đọc vang một loạt những chú ngữ của đạo pháp. Thầy sai năm người phía dưới đem vàng mã đốt ngay trước đàn tràng. Về phần cô Huệ thì cắm 9 cọc tre xung quanh rồi thắp 3 nén nhang chờ hết nửa nhang là tự động tỉnh lại. Dứt đó thầy Hữu cũng đổ gục xuống rồi thổ huyết, người dân thấy vậy liền chạy lại mà đỡ dậy. Thầy Hữu móm mém cười,

- Vậy là Hữu tôi đã xong việc, mọi người thu xếp đồ đạc chúng ta vẫn còn việc phải bàn ....

Bấy giờ cũng chỉ còn lại vài người ở trong nhà của thầy Hữu. Tất nhiên, trong số đó có ông Thực cùng cô con gái diệu của mình. Cô Huệ sau khi hết nửa tuần nhang thì đã dần dần tỉnh lại. Duy chỉ có một điều cô không hiểu, trong lúc mê man cô cảm giác như có rất nhiều người gọi tên của cha mình. Nhưng tuyệt nhiên cô thể nào nhìn rõ được tướng tá khuôn mặt họ, thậm chí cô cũng chẳng tài nào nhớ nổi dáng vẻ của từng người. Đang suy nghĩ đắn đo có nên kể cho cha biết không thì ông Thực lên tiếng chấn an mọi người,

-Thưa bà con, chuyện ngày hôm nay thầy Hữu đã tận tâm cứu giúp làng ta chắc rằng mọi người ai cũng đã biết cả. Mọi vấn đề ở đây đã có người nhà tôi sắp đặt, bà con cũng nên về nghỉ ngơi cho sớm, tránh gây ồn ào ảnh hưởng tới thầy.

Ông Thực vừa dứt lời thì người ta thấy tay thầy Hữu có cử động, hình như thầy Hữu đang cố ra dấu cho việc gì đó. Ông Thực toan lại gần để xem xét sự tình thì thầy Hữu đã víu tay vào mấy người xung quanh mà gượng dậy. Trong cái lúc hơi thở quãng được quãng mất, thầy Hữu vẫn cố thì thào vài lời, có vẻ như những gì sắp tới đây mà thầy Hữu nói rất quan trọng, nếu không thì đã chẳng cần phải gượng ép sức lực tới như vậy, thầy Hữu nói,

-Cảm ơn mọi người đã đưa Hữu tôi về nhà, Hữu tôi có tài cán gì mà được mọi người ưu ái đến vậy. Lúc này bên ngoài âm dương đang hỗn loạn, mọi người chớ nên vội mà rời đi. Những ai đã ở đây rồi thì hãy chờ tới khi gà gáy canh năm cho dương khí thịnh lên rồi hãy ra về. Kể từ ngày mai, mọi chuyện ở làng sẽ tạm thời được ổn định.

Bấy giờ sau khi chứng kiến những tài phép vừa rồi của thầy Hữu thì chẳng ai là dám không tin vào những lời nói vừa rồi của thầy. Hơn chục con người trong căn nhà cấp bốn chẳng ai bảo ai đều tự giác tìm chỗ dựa lưng, vài người thì xúm lại bàn tán về những chuyện ly kỳ mà họ chứng kiến hồi tối. Duy chỉ có ông Thực là cố nán lại bên giường của thầy Hữu theo ý của thầy để hầu chuyện. Sự việc ngày hôm nay quả thực quá sức tưởng tượng với một người bình thường như ông Thực, ngay kể như chuyện trấn tà sát quỷ xưa nay ông Thực cũng đã thấy có phần gai người chứ đừng nói đến việc cô con gái của mình bị quỷ nhập. Bấy nhiêu đó thôi cũng đủ khiến cho con người ta lo lắng tới mất ăn mất ngủ, ông Thực cứ canh cánh trong lòng sợ rằng mọi việc sẽ lại tái diễn nên chờ tới khi thấy sắc mặt thầy Hữu có phần khá hơn thì bèn hỏi,

-Thưa thầy, không biết liệu sau này cái Huệ nhà tôi có còn gặp phải những chuyện như hôm nay nữa hay không. Cháu nó còn bé, phận làm cha như tôi không thể nào đứng nhìn những thứ quỷ dị này diễn ra với cháu nó được. Thực tình là lo lắng và đau xót vô cùng.

Thầy Hữu cũng làm cha, cũng hiểu được phần nào tâm sự của ông Thực lúc này. Nhưng số làm thầy có sao thì phải nói vậy, nếu như có gì dấu diếm thì quả thật là thẹn với hai chữ "đạo hạnh". Thầy Hữu từ từ mà rằng,

-Khi nãy trong lúc tôi hành sự đã vô tình thay đổi Lưỡng Nghi dẫn tới sự bất ổn về âm dương quanh khu đất đầu làng. Khi Lưỡng Nghi bị xáo trộn thì cũng là lúc mà âm dương hỗn độn lúc thì âm thịnh lúc thì dương thịnh, rất khó để nắm bắt. Điều ấy đã vô tình tạo ra một liên kết giữa cõi âm và cõi trần, không chỉ có vong linh của Mã Chính mà ngay cả những hồn ma bóng quê quanh gốc đa cũng nhân dịp này mà trở lại dương gian tác quai tác quái. Về cơ bản thì mọi thứ sẽ tạm thời ổn định sau đêm nay, khi Lưỡng Nghi điều hòa lại trở lại cân bằng, nhưng để về lâu về dài thì dân làng thỉnh thoảng vẫn sẽ phải đối mặt với những chuyện ma mị có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Còn về phần cô Huệ thì cũng không có gì quá đáng để lo ngại, ông về cho người lập một miếu thờ Mã Chính ở ngay dưới gốc đa. Hương khói trong 227 ngày đúng với số năm hắn đã ngự tại đó. Phần là để chuộc lỗi của ông đã từng gây ra nhiều năm trước đây, phần cũng để cầu thỉnh hắn không làm phiền cô Huệ nữa.

Ông Thực nghe đến đoạn này thì trong lòng cũng có phần nào yên trí, nhưng những tai họa vẫn sẽ còn đó hay sao? Ông Thực không để ngắt quãng suy nghĩ liền nói ngay,

-Vậy vẫn còn những thứ ma quỷ khác sẽ tìm tới cái thôn quê bé nhỏ này sao thầy, thầy có thể chỉ điểm cho tôi cách giải quyết được không.

Thầy Hữu lặng người, trong ánh mắt của thầy tỏ rõ sự đăm chiêu của kẻ hành đạo có lẽ đang tự vấn chính bản thân về vận số của mình, thầy Hữu ngập ngừng nói,

-Kiếp số của tôi cũng chẳng còn được mấy năm nữa, chuyện sau này ắt tôi sẽ có dự tính sao cho phù hợp. Giờ có lẽ phải đợi, ông trời luôn công bằng trong vạn sự. Có biến ắt xuất kỳ nhân.

Vẫn đang bán tín bán nghi vào câu chuyện của cô Trà thì mẹ con tôi bắt gặp một giọng nói trầm, ấm, có phần khiêm nhường của đàn ông.

-Vậy là cũng sáu năm rồi nhỉ, không ngờ cô Trà còn nhớ sự việc kỹ hơn cả tôi.

Sau đó là một tràng cười hào sảng lắm, tiếng cười đó có lẽ cô Trà cũng đã quá quen nên ngay lập tức nhận ra đó là thầy Hữu. Thầy Hữu vẫn thường có thói quen mua nước chè ở quán của cô Trà thay vì tự pha chế tại nhà, khách khứa ra vào nườm nượp là vậy nhưng thầy vẫn dành thời gian để đi thưởng thức cái thứ nước chè mà người dân trong xóm vẫn tấm tắc đùa nhau là hảo hạng ấy. Mẹ tôi thấy vậy thì toan lên tiếng định chào hỏi thì cô Trà vội đưa lời,

-Kính thầy, từ sáng đến giờ có mẹ con nhà cô này đợi thầy, vì thấy trong nhà có lắm khách khứa với toàn người sang trọng nên họ không dám vào. Nghe nói mẹ con cô đó đến xem về cái gọi là "Nghiệp Âm".

"Nghiệp âm"? Thầy Hữu hỏi lại cô Trà một lần nữa để xác thực lại những gì mình vừa nghe. Hình như bản thân thầy Hữu đang ngờ vực lắm về hai từ "Nghiệp Âm" mà cô Trà vừa nói. Có lẽ từ ngày xuất sơn cho tới giờ cũng đã nhiều năm chính bản thân thầy Hữu cũng chưa gặp ai nhắc tới hai từ này nữa. Ấy vậy mà ngày hôm nay vô tình lại có người tới diện kiến mình để hỏi về điều này, quả thật là kỳ lạ. Mẹ tôi thấy cô Trà lên tiếng chào hỏi thì cũng nhanh nhẹn mà rằng,

- Kính thầy, mẹ con con từ Hà Nội về đây cũng đã đợi được quá nửa ngày, mong thầy chiếu cố cho hai mẹ con con được gặp thầy thưa chuyện sớm.

Thầy Hữu bấy giờ có vẻ như không để ý tới lời nói của mẹ tôi cho lắm, ánh mắt của thầy đang tập trung nhìn vào tôi, tôi cảm nhận được sự bất ngờ cũng như hoài nghi qua cái nhìn đó. Tôi cũng chẳng rõ những cảm nhận đó là thật hay giả. Nhưng kỳ thực, cho tới mãi sau này, chính cô Trà cũng bộc bạch với tôi rằng, "chưa bao giờ cô thấy thầy Hữu phải sững sờ đến như vậy, họa chăng phải có thứ gì đó đặc biệt lắm thì mới khiến cho con người ta tập trung đến thế".

Mẹ tôi thấy thầy Hữu có vẻ đang ưu tư nên cũng không dám thuận lời, có vẻ như mẹ tôi thấy vậy thì trong lòng cũng lo lắng lắm. Ai đi xem số ở đâu mà chả vậy, nếu như bản thân mình hay con cái mà vô tình được các thầy đặc biệt quan tâm thì ắt là lành ít mà dữ nhiều. Thử hỏi không lo sao cho được?

Cô Trà biết ý mẹ tôi đang nóng lòng mới lên tiếng,

- Kìa, thầy Hữu, mẹ con cô ấy đang chờ thầy trả lời đấy, thầy xem thu xếp giúp cho họ sớm, đường xá từ Hà Nội về đây cũng xa xôi mà cô ấy còn có con mọn ở nhà, mong thầy chiếu cố cho.

Thầy Hữu lúc đấy mới sực tỉnh, dường như thầy Hữu cũng đang rất hào hứng với hai chữ "Nghiệp Âm" và bản thân người mang nghiệp là tôi nên thầy nói luôn,

-Cậu này đến đây hôm nay âu cũng là chữ duyên, Hữu đây chờ cậu đã sáu năm rồi. Cô dẫn cháu vào sảnh nhà tôi ngồi đợi, tôi xử lý nốt vài chuyện rồi sẽ trao đổi với hai mẹ con ngay, thầy Hữu nói với mẹ tôi.

Mẹ tôi tức thì kéo tôi theo chân thầy Hữu vào nhà nhưng cũng không quên dùng kính ngữ để cảm ơn cô Trà, nếu hôm nay không có cô thì chắc tới tối mịt mẹ con tôi cũng chẳng tài nào mà được diện kiến người được coi là "kỳ nhân" của vùng đất Tứ Kỳ này.

Mà kể cũng lạ thật, có vẻ như những người làm việc âm đều có sở thích sống và sinh hoạt gần với thiên nhiên thì phải. Cả một cụm nhà vườn hơn hai trăm mét được thầy Hữu khéo léo sử dụng một cách hoàn hảo. Trước mặt của căn nhà là sân gạch tráng men đỏ, cái loại gạch này cách đây chục năm là mốt của dân kiến trúc lúc bấy giờ. Mười nhà làm sân thì tới chín nhà phải lát loại gạch men này. Kể ra thì thầy Hữu cũng không phải là lớp người tụt hậu so với thời đại cho lắm. Hai bên hông nhà được bao bọc bởi hơn trăm mét vườn trái mà chủ đạo là xoài, thiết nghĩ với vườn cây như thế này thì người chủ hẳn cũng phải dành không ít thời gian để chăm bẵm cho cái thú vườn tược của mình. Tạm gác lại những cảnh vật về kiến trúc nhà vườn của thầy Hữu sang một bên, một điều mà cho tới bây giờ tôi vẫn nhớ khi bước vào trong căn nhà của thầy đó là mùi vị. Ở đó là mùi vị của sự yên bình, một mùi vị mà thông qua khí quản nó có thể tìm tới mọi ngóc ngách trong tâm hồn ta để xoa dịu những suy nghĩ hỗn độn về vạn sự trong tiềm thức. Chưa kể đến âm thanh của dòng nước róc rách chảy qua những phiến đá cuội mấp mô khiến cho âm sắc và cảnh vật được cân bằng, tạo cho con người ta cảm giác được trở về với những gì thường nhật, bình dị nhất. Tôi vốn gọi đó là hơi thở của sự bình yên.

Mẹ con tôi ngồi sát về phía bể cá để chờ đợi, phần vì tôi rất thích ngắm sự dị chuyển của đàn cá và dòng nước, phần cũng vì trong nhà thầy la liệt là những người ngồi đợi để tới lượt. Trông ai cũng toát lên cái vẻ hồi hộp và háo hức lắm, nhưng tuyệt nhiên chẳng ai nói với ai câu nào, khả dĩ lắm thì mới có người lên tiếng mà dăm câu ba điều rồi họ lại thôi.

Thầy Hữu từ trên tầng đi xuống, có mấy người ăn mặc sang trọng lắm cũng xuống theo. Thầy Hữu quay lại hình như dặn dò mấy người đó việc gì đấy rồi lên tiếng,

- Thực sự xin lỗi mọi người, hôm nay Hữu đây có việc hệ trọng phải làm. Ai có công có việc gì thì xin khất tới ngày mai, nếu hệ trọng lắm thì xin ở lại còn không thì đành lỡ hẹn ngày hôm nay.

Mấy người có mặt lúc đó tỏ vẻ bất ngờ, có người thì uể oải vì chờ cả ngày mà không được việc nhưng cũng đành xin phép thầy Hữu mà ra về. Đoạn thầy Hữu tiến lại chỗ hai mẹ con tôi ngồi chào hỏi rồi mời hai mẹ con lên tầng trên để bàn chuyện. Chắc hẳn hai chữ "Nghiệp Âm" phải quan trọng lắm thì thầy Hữu mới dành riêng thời gian cho hai mẹ con tôi như vậy. Vừa đi thầy Hữu vừa hỏi,

- Xin hỏi cô có phải khi cháu hạ sinh là đúng vào lúc chính Tý hay không, chưa kể ngay trước lúc sinh vốn đã có ý định bỏ cháu vì không thấy tim thai hay không?

Mẹ tôi hoảng hốt, quả thật câu chuyện tôi thiếu chút nữa đã bỏ mạng trong bụng mẹ trước giờ sinh gần như chẳng mấy ai biết ngoài mẹ tôi và một người họ hàng mà tại sao nay thầy Hữu lại rõ như thể chính ông ấy có mặt vào ngày hôm đó vậy, mẹ tôi ấp ủng đáp,

- Dạ đúng thầy ạ, cháu nó may mắn được chào đời vào đúng 0h của ngày 16 âm lịch. Cũng may năm đó có người họ hàng quyết tâm xin được mổ ngay nên mới có cháu nó ngày hôm nay, nếu không thì..

Thầy Hữu cắt lời,

-Điều này một phần cũng là ý trời, mời cô với cháu ngồi. Trước hết tôi xin phép không giải thích gì nhiều, ngay đây tôi xin thỉnh bà cô tổ của nhà cậu này lên để nói chuyện, bà cùng lính của bà đi theo hai mẹ con cô tới đây ắt hẳn có chuyện muốn nói.

Thầy Hữu bảo mẹ tôi ngồi chân xếp vàng, hai tay đan vào nhau đặt trước bụng giống như tư thế ngồi thiền của các nhà sư. Kế đó thầy Hữu lấy một cây nhang hơ quanh mặt mẹ tôi miệng lẩm bẩm đọc chú ngữ, tôi chỉ kịp nghe được tới câu cung thỉnh gia tiên vong linh thánh tổ Nguyễn họ thì mẹ tôi bật dậy cười ha hả. Chàng cười đó nghe có phần oai linh lắm, chắc hẳn bà cô tổ đã ngự vào mẹ tôi rồi đây, mẹ tôi đập tay xuống đất rồi nói lớn,

-Lính ghế nhà ai thơm danh nức tiếng ở đâu để cháu chắt của ta phải tìm tới tận đây ấy nhỉ

Thầy Hữu lấy rượu cung kính mời rồi đáp lại,

- Thưa trên tôi đây là Hữu, hành đạo theo lệnh Phật Thánh mà giúp đời, hôm nay rước bóng bà tổ cô họ Nguyễn về đây xin dâng hương dâng hoa để tỏ lòng thành kính của Hữu. Sau đó xin thỉnh giáo bà về chuyện của cậu bé này, thầy Hữu chỉ vào tôi mà nói.

Mẹ tôi, đúng hơn là bóng bà tổ cô nhấp ngụm rượu rồi chép miệng một tiếng để ra vẻ là rượu ngon, bà tổ cô vừa cười vừa nói,

- Thằng này kiếp số tu tập nhiều đời, nay có duyên được hạ sinh vào nhà họ Nguyễn âu cũng là cái phúc cái phần của dòng họ, kể từ ngày nó sinh là dòng họ được hưởng quả phúc từ đấy. Duy chỉ có bố mẹ nó là phải chịu kiếp vận long đong hết 45 tuổi để tạo gia cảnh khó khăn nhằm cho nó hiểu được cái nghèo, cái khổ là như thế nào. Cái "nghiệp âm" vốn là duyên nợ với cửa Phật Thánh, với đạo pháp ở kiếp trước chưa trọn mà còn phải tiếp tục tu tập ở kiếp này cho vuông tròn nên mới sinh ra hai từ này. Hôm nay ta cất công theo mẹ con nó tới đây cũng là muốn có lời xin gửi gắm nó cho Hữu ngươi, vốn cũng biết ngươi trên đội việc Thánh dưới gánh việc trần nhưng vẫn hy vọng ngươi có thể giúp cho. Nếu được thì đúng là "duyên kiếp đã định, kỳ nhân tầm đạo".

Thầy Hữu thấy vậy thì cúi gập đầu xuống mà thưa rằng,

-Thưa trên, tôi đây tài hèn đức mọn làm sao đủ sức để gánh vác trọng trách này, một phần cũng phải để xem cơ duyên của cháu nó với đạo pháp tới đâu nữa?

Bà tổ cô cau mày lại, một tay nắm hờ dơ lên phía trước ra vẻ đồng ý rồi nói,

-Vậy nhà ngươi hãy qua đồng đài âm dương thỉnh ý Tiên Thánh, nếu như vạn sự vốn do trời định thì xin hãy lấy ý trời mà làm đại cục.

Thầy Hữu gật đầu, mặt quay về phía ban thờ, hai tay chắp lại mà vái. Kế đó thầy Hữu lấy ra hai đồng xu và một cái đĩa sứ con, một tay cầm đĩa một tay cầm hai đồng xu tung vào chính giữa lòng đĩa. Ngay sau khi hai đồng xu dừng lại thì mẹ tôi ngã vật ra phía sau mắt nhắm mắt mở như vừa tỉnh dậy, mẹ tôi hình như vẫn ý thức được sự việc xảy ra xung quanh khi bị nhập liền vội vàng ngồi dậy nhìn vào đồng đài âm dương rồi hỏi thầy Hữu ngay,

-Thưa thầy, như này có nghĩa là? ...

Thưa thầy như này có nghĩa là gì... Sao, sao hai đồng đài lại vỡ ra làm bốn như vậy được.

Thầy Hữu sửng sốt, chính bản thân thầy Hữu cũng không thể tin được vào những gì vừa diễn ra trong tích tắc. Hành đạo biết bao nhiêu năm, trải qua đến cả vạn sự ly kỳ nhưng một lần nào thầy Hữu chứng kiến hay thậm chí là nghe kể qua về việc những đồng đài âm dương có thể bị vỡ. Thầy Hữu suy nghĩ một hồi lâu rồi mới nói với mẹ tôi,

- Hai đồng đài âm dương này Hữu được ân sư tặng làm quà xuất sơn, theo tôi đã ngót ba chục năm rồi nay, xảy ra cơ sự như này ắt là điềm chẳng lành hoặc gần đây có một vong linh âm tính cực thịnh khiến cho âm dương bị đảo lộn thì mới xảy ra được việc như vậy. Xin cô chuẩn bị tinh thần, tôi sẽ thỉnh tiếp gia tiên nhà cậu này lên để hỏi chuyện.

Mẹ tôi thấy thầy nói vậy thì mặt tái nhợt, chuyến này cứ nghĩ sẽ tìm được cách hóa giải cho hai từ "Nghiệp Âm", vậy mà từ khi bước chân vào căn nhà của thầy Hữu chỉ thấy được toàn là những điều khiến cho con người ta phải bận lòng. Thiết nghĩ muốn thay đổi ý trời âu cũng chẳng được, chi bằng tìm cách thuận theo chiều gió, từ từ mà thích nghi thì hẳn sẽ tốt hơn, ông trời chắc chẳng bao giờ triệt đường sống của ai đâu.

Thầy Hữu lấy dưới chân bàn thờ ra năm chiếc bát sứ, thầy bảo mẹ tôi thắp năm ngọn đèn cầy để vào lòng bát cho ngay ngắn, trong tay thầy lúc đó đã cầm một chiếc bùa màu đỏ thẫm, hình thù vẽ trên tấm bùa đó kỳ thực là cổ quái, chẳng giống mấy với những tấm bùa bình an mà chúng ta vẫn thường hay gặp. Thầy Hữu đưa cho mẹ tôi mà dặn,

- Đây là linh phù chỉ, Hữu tôi đặc biệt vẽ ra để hành pháp, cô đốt lên rồi hòa tro vào nước mà uống, chút nữa cô sẽ nhìn thấy nhiều sự lạ, hãy nhớ rằng tuyệt đối không được lên tiếng.

Khi chuẩn bị xong xuôi thì thầy Hữu lấy ra một chiếc khăn lớn màu tía đậm, ở giữa có thêu hoa văn phượng hạc, chi tiết sắc nét chẳng khác nào đồ dùng của bậc vua chúa quan lại thời xưa. Thầy Hữu đưa nó cho tôi mà rằng,

-Lát nữa nếu ta ra hiệu thì cậu nhớ phải phủ ngay tấm khăn này chùm qua đầu mẹ cậu nghe chưa.

Tôi vâng một tiếng để báo cho thầy rằng tôi đã nhớ rõ. Ở thời điểm đó, với những công việc mang tính tâm linh như thế này thì tôi chỉ biết làm theo chứ cũng không rõ nó có công dụng của nó như nào, ra sao.

Dặn dò xong xuôi đâu đấy thì thầy Hữu xòe hai lòng bàn tay đặt lên đầu gối, miệng hô rất vang bốn từ "Cung nghênh thần quỷ", lúc bấy giờ các ngón tay của thầy đã đan lại tượng trưng cho một ấn pháp dơ thẳng về phía mẹ tôi. Năm ngọn đèn cầy khi đó bỗng cháy rực một cách dữ dội, tôi nghe loáng thoáng như có tiếng trẻ con cười, trong tiếng cười có pha lẫn cả tiếng hục hặc của đàn ông chững tuổi. Mẹ tôi hai mắt hướng ra phía cửa trợn tròn, sự bất ngờ đi với nỗi run sợ hiện rõ trên khuôn mặt khắc khổ của bà. Mẹ tôi miệng ú ớ hẳn muốn hét lên vì những gì mình đang chứng kiến nhưng cố nén lại để thầy Hữu có thể tiếp tục hành lễ.

Thầy Hữu thấy vậy thì lập tức thổi tắt một ngọn nến rồi hô vang "thỉnh nhập". Đoạn thầy rút ra hai điếu thuốc lá châm lên rồi để ngay ngắn trước mặt mẹ tôi và cúi đầu xuống mà nói,

-Cung thỉnh cậu bé đỏ tại gia, cung thỉnh giám quan Nguyễn tộc.

Mẹ tôi mắt nhắm tịt, một tay với lấy điếu thuốc đưa lên phì phèo như thể là một người sành hút, cái thần thái khi ấy phỏng như bậc tôn quý của các triều đại phong kiến vậy. Kế đó vong linh trong người mẹ tôi lên tiếng, nhưng giọng nói lại tựa như của một đứa trẻ. Âm thanh nghe có vẻ thanh thoát, dễ nghe, ngôn từ có phần chắc chắn mà lại tinh nghịch,

-Cơ ngơi đẹp quá, cây cối lại sai đầy một vườn quả, chút nữa gửi cho thằng cu kia một ít về dâng ta nhé.

Thầy Hữu cười móm mém mà rằng,

-Dạ, thỉnh cậu về hôm nay Hữu tôi muốn hỏi về vận số của thằng cu này, giám quan Nguyễn tộc thương tình cho con cho cháu mà đưa đường chỉ lối, giúp đỡ cho dòng họ ở trần thế.

Cũng kỳ lạ thật, nghe đến hai chữ "giám quan" thì chắc cũng phải là hàng có danh có tiếng ở dưới âm phần, nhưng sao lại mang tiếng nói của một đứa trẻ, đúng là thế giới âm ty quả nhiên là cổ quái. Tôi nghĩ.

-Ta vốn mang giọng nói của đứa trẻ phần vì khi mới chỉ là giọt máu ta đã bị bố mẹ từ bỏ, ta được hình thành ngay sau khi ngươi sinh chưa đầy bốn tháng, vì lo cho ngươi nên đành phải bỏ ta. Ấy vậy ta mới lang thang giữa hai cõi phù dung, cũng may mà nương nhờ được vào cửa Tiên Thánh đất Bảo Hà nhờ phúc trăm họ được ăn được học nên mới có ngày lên làm giám quan tộc Nguyễn như hôm nay. Nhưng hình hài của ta ở dưới âm thì vẫn mãi là một đứa trẻ, kể cả giọng nói cũng như vậy cho nên khỏi thắc mắc nhé.

Giọng nói trẻ con ấy khiến tôi tá hoảng, người tôi run lên bần bật, hai tay cầm chiếc khăn của thầy Hữu mà phải bấu thật chặt vào đó cho khỏi sợ. Hình như vong linh đó thể cảm ứng được suy nghĩ của tôi, chẳng phải những gì vừa nói kia chính là giải đáp cho thắc mắc của tôi sao. Tôi tuyệt nhiên im bặt, không dám phản kháng lại điều gì, thậm chí lúc ấy trong tâm trí của tôi chỉ còn lại là một mớ hỗn loạn giữa những câu hỏi về khả năng của vong linh thuộc về phần âm. Thầy Hữu ngồi sát đó thấy vậy thì nói ngay,

-À ra vậy, thì ra thằng bé này xét về dương thế lại là anh em đối với cậu. Vậy thì chắc hẳn cậu phần ít phần nhiều cũng đã nắm rõ bản mệnh của nó.

Mẹ tôi ngửa mặt lên mà cười, tiếng cười đắc chí từ tâm niệm của một vong linh trẻ con làm tôi càng thêm phần kinh hãi, vong linh ấy tiếp lời,

-Tuy ta cũng phần nào thông hiểu được vận số của đứa trẻ này nhưng ngặt nỗi đó là thiên cơ. Nếu tiết lộ ra thì dù ít dù nhiều cũng phải chịu hình phạt. Nhưng dù gì hôm nay cũng đã thỉnh ta về đây, ta sẽ sang tai lai lời cho Hữu ngươi mà truyền đạt lại cho người dương thế.

Thầy Hữu ghé sát tai lại để nghe những gì mà giám quan Nguyễn tộc truyền đạt, hình như có vẻ là thiện ý nên thầy Hữu gật đầu mà cười tươi lắm. Thầy Hữu lấy tay chỉ vào chiếc khăn tía ra hiệu cho tôi đã tới lúc hành sự. Tôi lập tức tung chiếc khăn tía trùm đầu mẹ tôi, lúc ấy tôi chỉ nhớ thoang thoáng hình như có bóng trẻ con mặc quần áo gấm đứng ngay trước mặt cười với tôi. Hình ảnh ấy cho đến bây giờ thi thoảng vẫn được gợi lại trong những giấc mơ lạ thường mà tôi vẫn hay gặp.

Mẹ tôi tỉnh lại, hai mắt đỏ hoen như chỉ trào trực để òa khóc. Tôi biết, tôi hiểu, chính vì nghĩa tình mẫu tử mà mẹ tôi mới xúc động đến như vậy. Bản thân mẹ tôi năm xưa chẳng thể nào ngờ được lại có những chuyện như thế này. Một vong linh bé nhỏ đã vô tình mất đi cơ hội được chuyển thế kiếp ngươi cũng chỉ vì hai chữ "hoàn cảnh". Người học đạo vẫn thường hay nói rằng, "Những vong linh được đầu thai chuyển kiếp thì phải vượt ngàn trùng biển khơi thì mới được về đầu thai làm con của một nhà. Nên vậy chớ có vì lý do gì mà tước đoạt đi cơ hội luân hồi của những vong linh ấy, đó là một quả nghiệp". Nhưng thú thật, nào có người mẹ nào là không thắm tình mẫu tử, âu cũng chỉ là do số phận gượng ép.

Thầy Hữu chắc cũng thông linh được với những gì xảy ra trong quá khứ của một người nên an ủi,

-Số phận đã vậy thì thôi cô cũng đừng buồn, lỗi cũng chẳng phải do cô. Việc cần làm bây giờ là phải tìm cách ứng dụng được vận số của cậu bé này.

Mẹ tôi lau đi hàng lệ đã đổ xuống tự khi nào mà thưa với thầy,

-Kính thầy, mẹ con con cũng chẳng biết làm thế nào cho phải, thôi thì trăm sự đành phải nhờ vào đức hạnh của thầy.

Thầy Hữu mới giảng giải,

-Hai lần gia tiên nhà này lên và vừa rồi giám quan dòng tộc cũng sang tai cho tôi kết hợp với kinh nghiệm xem số mệnh mấy mươi năm nay, tôi có thể tạm khái quát là như này. Đương số nhiều kiếp đã vốn là người tu đạo, trải qua nhiều những thử thách ở tiền kiếp mà lại được đầu thai thành người ở kiếp này để tu tập, những công việc của cậu ta ở dương thế dù sao cũng sẽ gặp những chắc chở, việc nào rồi cũng sẽ đứt gánh đổ sông, tính tình càng lớn càng dị biệt, giỏi giang bao nhiêu thì con người cậu ta lại càng thâm trầm ưu tư bấy nhiêu. Duy chỉ có việc tiên thánh là may ra cậu ta sẽ theo được tới cùng. Tuy nói thì là vậy, nhưng để tin và làm được cũng là một điều vô cùng khó. Tôi biết chính bản thân cô cũng có phần nào đó còn hoài nghi về năng lực của tôi cũng như những gì xảy ra ngày hôm nay. Chi bằng cô cứ cùng cháu về suy nghĩ, nếu cảm thấy cần thiết và tin tưởng thì ngày rằm tháng tới mời quay lại đây, chuyện này ngày một ngày hai chẳng thể nào mà nói cho hết được.

Mẹ tôi lưỡng lự, đúng là những gì vừa xảy ra nó chóng vánh quá, nếu như không phải một người có kiến thức về âm dương thì làm sao có thể thông suốt được vạn sự để mà định đoạt. Mẹ tôi suy nghĩ một hồi lâu rồi mới trả lời thầy Hữu,

-Thầy nói cũng đúng, lúc này mẹ con con chưa thể định đoạt được gì nhiều, chắc hôm nay phải xin phép ra về để dành thời gian mà suy nghĩ. Cảm tạ thầy, thầy cho con xin số điện thoại, có điều gì con sẽ điện cho thầy để xin ý kiến.

Quãng đó thầy Hữu cho mẹ tôi số điện thoại rồi tiễn hai mẹ con xuống dưới nhà, mới đó thôi mà trời đã ngả chiều. Thầy Hữu dúi vào tay tôi một phong bao màu đỏ rồi dặn hai mẹ con,

-Trong ba ngày nữa nếu có sự tình gì bất chắc thì hãy nhớ đến phong bao này, khi nào thực sự cấp bách thì hãy mở nó ra ắt sẽ có cách.

Mẹ con tôi tạm biệt thầy Hữu rồi ra về, phía sau là một khoảng không vô định ẩn chứa biết bao những hoài nghi của cả hai mẹ con về cái gọi là thế giới tâm linh. Là thực hay là ảo, là ý trời hay nhân định. Chẳng ai rõ được, chẳng ai có thể nhìn thấu và thông linh được với những thứ kỳ lạ hàng ngày vẫn đang tồn tại ở một thế giới vô hình ma ta chẳng hề biết đến,...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro