Chương 3.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thầy Hữu đọc đi đọc lại câu chú đó tới ba lần thì mới thấy người thanh niên kia có phản ứng. Anh ta hai tay vỗ vào ngực thùm thụp, đầu liên tục lắc sang hai bên, mắt nhắm nghiền không nói được lời nào. Thầy Hữu thấy thế thì mới hỏi,

-Vừa mới đấy mà đã bị khóa khẩu rồi sao, nếu đúng thì gật đầu để ta thỉnh lệnh xin khai khẩu.

Chàng thanh niên gật đầu liên hồi rồi, thầy Hữu bắt quyết rồi miết hai tay vào yết hầu của anh ta mà nói,

-Giờ thì nói đi, ngọn ngành sự việc, người là ai, sao các ngươi lại bị hàm oan mà chết, sao các ngươi lại lưu lạc tới đây, sao các ngươi lại muốn hại gia đình nhà này. Mau,

Thầy Hữu gằn giọng. Vong linh ngự trong người gã thanh niên lúc này âu cũng có vài phần kính trọng thầy Hữu lắm thì phải. Hắn vái thầy Hữu ba vái rồi mới dám thưa chuyện,

-Bẩm thầy, con là Nguyễn Văn Đại, mồ côi cha mẹ từ khi mới lọt lòng, may mắn được nhà cụ Lý ở ngoại thành Hà Nội đem về nuôi. Năm con mười ba thì bắt đầu phụ việc cho nhà cụ Lý, từ những công việc vặt vạnh trong nhà cho đến chăn trâu cắt cỏ. Năm con mười chín thì cô Xuân, con gái của cụ Lý cũng trạc tuổi con được đính ước với một cậu thiếu gia ở nội thành. Cô Xuân vì phản đối điều này mà nhiều hôm to tiếng với cụ Lý. Có một dạo, cô Xuân bỏ cơm bỏ nước cả tuần liền để tránh mặt cụ Lý, con ngày nào cũng phải lén giấu đồ ăn mang lên cho cô ấy, lúc ấy thì con mới biết là mình đã động lòng với con gái của ân nhân cứu mạng. Biết bản thân thấp kém của mình không xứng nên con cũng không dám mở lòng. Rồi đến một ngày nọ, gia đinh trong nhà hô hoán nhau chạy ra cái giếng nước ở đằng sau. Mấy người nháo nhào thắt dây thừng ngang bụng mà dòng xuống dưới giếng. Con dò hỏi mấy người xung quanh thì mới biết rằng cô Xuân vì cãi nhau với cụ Lý mà uất quá đã buộc đá bên mình mà nhảy xuống dưới giếng tự tử. Nghe đến đó thì con thần hồn nát thần tính, lao thân về phía miệng giếng toan nhảy xuống thì mọi người cản lại. Mấy người gia đinh thòng dây từ dưới giếng trèo lên cũng lắc đầu bó tay vì con nước ở dưới đó sâu quá. Cụ Lý hiều hôm sau cũng cho mời đến nào là các nhà khoa học tây Phương, nào là dân chài lưới lâu năm để lặn xuống dưới con nước tìm xác cô Xuân nhưng không được, tất cả chỉ ra về với một cái lắc đầu. Cô Xuân mất đâu đó được hai tuần thì cái Miên, con hầu kề cận của cô Xuân, cũng gieo mình xuống giếng mà tự tử nốt. Từ đó, đêm nào người trong nhà cũng thấy có bóng hai người nữ nhân ngồi vắt vưởng trên phía thành giếng mà chải đầu cho nhau, đó chảng phải ai khác, chính là hồn ma của cô Xuân và cái Miên. Nhà cụ Lý dạo ấy lấy làm sợ lắm, mời không biết bao nhiêu thầy pháp về trấn yểm nhưng đều không được, thầy nào cũng khuyên cụ Lý nên bỏ cái đất này mà đi nơi khác, duy chỉ có một ông thầy đã đến yểm chú che mắt để cho không một ai có thể thấy được xương cốt của những người chết dưới giếng đó rồi ra về và dặn cụ Lý đúng một câu, "tránh hậu họa về sau, nên rời đi sớm để toàn mạng". Cụ Lý nghe xuôi tai nên cũng khoán cho gia đinh chuẩn bị đồ đạc để di dời, riêng có mình con thì từ khi cô Xuân tự tử cứ thơ thẩn bên cái giếng sau nhà. Phần vì đau xót cho người mà mình thầm thương trộm nhớ, phần vì cũng chả còn lưu luyến gì ở cõi hồng trần này nên đâm ra nghĩ quẩn, con cũng buông mình xuống con nước dưới giếng mà tử tự ngay trước khi nhà cụ Lý chuyển đi một ngày.

Thầy Hữu nghe đến đó thì chỉ biết thở dài mà than thở với trời đất. Trên cõi đời này đúng là chẳng có thứ gì giống như hương vị của tình yêu. Khi ngọt bùi thì có thể cùng nhau vượt qua muôn trùng sóng bể, rời non lấp biển. Nhưng khi đắng cay, uất hận thì con người ta hoàn toàn có thể từ bỏ tất cả để giải thoát cho tâm can và trái tim của mình khi yêu. Hơn thế nữa, tình yêu cũng có thể khiến cho con người ta trở nên lạc quan, yêu đời khi họ được sống một cách hạnh phúc bên nửa kia của mình. Nhưng bên cạnh đó, tình yêu cũng có thể khiến cho con người ta phải đằng đẵng trong nỗi nhớ mong, sầu ải trong sự tương phùng, để rồi dẫn đến những suy nghĩ bi quan, quỵ lụy, mà rồi hành động như cô Xuân, như chàng Đạt..

Vong linh đó chỉ tay về phía mẹ con tôi rồi lại tiếp tục câu chuyện của mình,

-Ba người con là ma ở đó cũng được mấy chục năm thì dòng họ gia đình hai mẹ con nhà kia chuyển đến đất nhà cụ Lý cũ để ở. Ban đầu, chúng con không hề có ý định làm hại đến gia đình họ. Nhưng cho đến khi chồng của cô nữ kia quyết định xây nhà và mời thầy pháp về để cúng đất thì mọi chuyện mới trở nên tồi tệ. Khi ấy, oán niệm của cô Xuân năm xưa do quá lớn nên đã tu luyện thành quỷ tinh ở trốn nhân gian, một lần vì tác quái ở trên dương nên đã bị quỷ sai ở dưới âm bắt xuống điện Diêm La để trị tội. Vị thầy pháp đến cúng đất năm đó vốn là một người sành sỏi về âm binh, bùa chú, ông ta đoán biết được ở đất này vốn có một tinh quỷ nên đã lên kế hoạch để thâu hồn ba người bọn con về làm tay sai cho ông ta. Ông ta nhân lý do vì muốn di dời xương cốt của cô Xuân để gia chủ liệu sự động thổ nên đã triệu cô Xuân từ dưới thập bát tầng Diêm La lên dương để hỏi chuyện. Tên thầy pháp đó xem ra cũng cao cường, cô Xuân vừa lên thì ông ta thâu ngay hồn cô mà nhốt lại. Sau đó thì con với cái Miên cũng lần lượt bị lừa y như vậy. Tên thầy pháp đó đưa chúng con về bản điện nhà hắn rồi làm phép để chúng con trở thành ma binh, quỷ tướng dưới quyền của hắn. Sau này khi hắn chết, chúng con lưu lạc trong nhân gian mãi mới tìm được về chốn cũ, cũng đã định nương nhờ cửa phật, cửa thánh để tu tập mong ngày được luân hồi chuyển kiếp nhưng quả thực là không được. Thầy biết đấy, đến tiên gia khi chết đi cũng còn phải giữ lại cốt tiên thì mới được chuyển thế thành người thì nói gì đến con người phàm trần. Cũng có những người xương cốt tuy bị thất lạc hay vỡ vụn nhưng họ may sao lại kêu cầu được gia tiên phổ độ, phật thánh nâng đỡ nên được xét đi tu tập để luân hồi chuyển kiếp. Đằng này xương cốt của chúng con bị yểm, chính chúng con cũng chẳng biết vị trí rõ ràng nó nằm ở đâu, nếu như khi xuống dưới âm không giữ được cốt người thì luật âm coi đó là coi thường nhân thể, khinh thường xương cốt nên dù có được luân hồi cũng chỉ làm kiếp súc sanh.

Vong linh nói đến đây thì thầy Hữu quát to,

-Ngươi dám nói cửa thần phù không đứng ra trợ duyên tiếp phúc cho nhà các ngươi ư, đúng là hỗn hào. Xưa nay chẳng có phật thánh nào là không nâng đỡ cho sinh linh vạn vật, cái chính là các ngươi có nhất tâm hay không, có niềm tin vào nơi cửa đền cửa phủ hay không hay chỉ đơn thuần lã lũ tà quỷ mất đi lương tri cốt cách mà quấy nhiễu dương gian. Ấy vậy thì dù có thực hiện đàn lễ vuông tròn đến đâu thì cũng chẳng phật thánh nào giúp được cho các ngươi. Hãy nhớ, phật thánh chỉ chứng tâm chứ cũng chẳng chứng lễ đâu, dù là người hay là quỷ khi nhất tâm cầu đảo thì vạn sự ắt sẽ hanh thông. Ba ngươi nay đã đến đây kể rõ sự tình thì Hữu ta cũng hiểu được phần nào câu chuyện. Các ngươi vừa đáng thương nhưng cũng vừa đáng trách, ta quả thực là rất khó xử.

Thầy Hữu nói đến đây thì vong linh của tên Đại òa lên mà khóc, hắn khóc nấc nên từng cơn nức nở nghe thật phiền lòng. Vừa khóc, hắn vừa thưa với thầy Hữu rằng,

-Con biết thầy là người đạo pháp cao minh, thầy giúp cho ba đứa con với, ngoài thầy ra chẳng ai có thể giúp chúng con phá được trận đồ yểm cốt. Đây cũng là một cơ duyên của ba đứa con với thầy, con xin thầy cho ba đứa con được diện thỉnh thầy để cúi đầu dập lễ trước ân nhân.

Thầy Hữu lúc ấy hẳn cũng rối bời lắm, chính bản thân thầy Hữu cũng chẳng biết nên làm như nào cho vẹn toàn trăm sự. Thoạt nghe có giọng nữ nhân có âm vực trong trẻo, thanh mảnh như tiếng chim hót,

-Tiểu nữ xin dập đầu cúi lậy đạo nhân...

Thầy Hữu nghe giọng nữ nhân mà lấy làm kinh ngạc, chính bản thân thầy Hữu cũng không ngờ tới ở chốn âm gian vẫn còn những cô hồn dã quỷ hiểu được lễ nghi đạo đài, ăn nói trước sau phép tắc như vậy, quả thật là hiếm gặp.

-Phải chăng cô là Miên sao, không ngờ một người tỳ nữ trong thời kỳ loạn lạc như cô lại khéo ăn nói đến như vậy.

Thầy Hữu dò hỏi người phụ nữ vừa mới nhập hồn vào thân xác của chàng thanh niên nọ. Âm thế đúng là có nhiều điều cổ quái, mới đây chỉ chừng vài cái chớp mắt thôi mà đã có đến hai vong linh thay phiên nhau nhập xác vào một người phàm trần. Đúng là nếu như không mục sở thị thì khó lòng nào mà tin được những điều này là thực.

Vong linh cô gái thấy thầy Hữu hỏi thì kính cẩn đáp ngay,

-Dạ thưa vâng. Nhi nữ họ Đỗ, tên chỉ có một chữ Miên. Tiểu nữ xưa kia vốn là phường chèo hát, theo cha lang bạt kỳ hồ ra xứ Bắc để mưu sinh. Hai cha con đến vùng ngoại thành thì không ngờ lại gặp phải nạn đói, cha tiểu nữ vì thấy khó khăn nên đành bạt mạng đi làm phu cho nhà phú hộ để nuôi con, ngày kiếm được một thì cho tiểu nữ ăn một, kiếm được hai thì cho tiểu nữ ăn hai. Cha tiểu nữ kiếm được bao nhiêu thì dành dụm hết cho con cho cái, còn bản thân mình thì cứ mặc kệ chẳng thèm đoái hoài. Không lâu sau vì quá sức mà cha tiểu nữ lâm bệnh nặng, bản thân tiểu nữ phải bán mình cho nhà cụ Lý để lấy tiền chạy chữa cho cha. Năm ấy may mắn thay lại được cô Xuân rủ lòng thương nhận về làm tỳ nữ hầu hạ sớm tối, được chừng hai năm thì tình cảm hai người thân nhau như chị em, sống với nhau mà không hề câu nệ đến danh phận chủ tớ.

Vong linh nói giọng bùi ngùi lắm, cũng chả trách được cho phận nữ nhi yếu đuối, thử hỏi nếu như mang những chuyện đau lòng này trong quá khứ ra thì mấy ai là người không xót lệ. Thầy Hữu nghe đến đây thì cũng mủi lòng, tuy rằng xưa nay những câu chuyện về sinh tử số phận vốn là chuyện thường thấy của kiếp người. Nhưng khi thực sự được nghe, được cảm nhận qua lời kể của người trong cuộc thì mới thấy nó thấm thía đến từng câu từng chữ. Thầy Hữu từ từ hỏi tiếp,

-Vậy hôm nay ngươi đến đây là có việc gì, nếu muốn ta vì câu chuyện của ngươi mà giúp cho cô Xuân để báo nghĩa thì khó lắm đây.

Thầy Hữu như chạm đúng tim đen của vong linh tỳ nữ tên Miên, cô ta nghe xong thì hốt hoảng dập đầu trước thì thầy Hữu mà xin rằng,

-Xin thầy, thầy là người thông hiểu đạo pháp, thầy thương tình giúp cho ba người chúng con. Dù biết là sẽ khó khăn cho thầy nhưng chẳng phải tôn chỉ của người học đạo là "giúp đời cứu nhân" hay sao. Nếu như không thể chọn vẹn cứu được cả ba thì cúi xin thầy hãy cứu lấy cô Xuân, đưa cô ấy thoát khỏi được chân quỷ. Tiểu nữ xin ghi lòng tạc dạ công ơn trời biển của thầy.

Thầy Hữu thầm nghĩ, đây quả thực không phải một tỳ nữ bình thường. Câu chữ của cô ta vừa có phần gãy gọn, chuẩn chỉ, vừa có phần như đẩy đối phương vào ngõ cụt, muốn giúp đỡ thì thực khó nhưng từ chối thì cũng không đành lòng. Thầy Hữu trả lời,

-Xem ra thì nữ quỷ tên Xuân này có hai người dám vì cô ta mà quên cả bản thân mình, xưa nay đúng là kỳ tích trong nhân thế. Xét về lý thì năng lực của ta hoàn toàn không đủ để phá giải một trận đồ "yểm cốt" thực sự. Trận đồ này vốn dĩ không yêu cầu kỹ thuật cao siêu gì, chỉ cần thông thạo và làm đúng một số các đạo chú là hoàn toàn có thể thực hiện được, nhưng đáng tiếc rằng càng đơn giản thì lại càng khó giải, trận đồ này tuy thông dụng về cách dùng nhưng cách hóa giải của nó âu đã bị thất lạc từ nhiều niên đại về trước. Thôi thì ta sẽ nghĩ cách để cứu vạn sự tình, bằng không thì đành phó mặc cho ý trời.

Thầy Hữu nói đến đây thì vừa hay có tiếng gà gáy sáng, bầu trời đêm chỉ còn lại chút luyến lưu muộn màng của sắc đen tĩnh mịch. Bấy giờ trên khoảng sân rộng thênh thang chỉ còn lại bốn bóng người, thầy Hữu, mẹ con tôi và chàng thanh niên nọ. Có vẻ như lúc này ma quỷ đã trở về với thế giới của họ, một thế giới song hành bên cạnh dương thế nhưng lại không hề hiện hữu dưới con mắt của những người phàm trần như chúng ta. Lại nói về chàng thanh niên nọ, sau khi thầy Hữu ngắt lời thì anh ta đổ gục ra đất mà thở, toàn thân bất động, thầy Hữu phải vỗ mấy cái vào mặt thì anh ta mới chịu lồm cồm bò dậy, đoạn thầy Hữu dặn dò,

-Về nhà nghỉ ngơi đi, nấu một nồi gạo nếp thật ngon mà ăn cho lại sức, dương khí trong gạo nếp sẽ giúp cơ thể cậu lấy lại được sự cân bằng, tuyệt đối nhớ không được bén mảng đến những nơi có chướng khí thịnh phát như nghĩa địa, đất hoang kẻ gặp sự lạ. Có gì thì lập tức đến tìm ta ngay.

Chàng thanh niên nghe thầy Hữu quản xong thì lập tức xin phép cáo từ, sự vội vã của anh ta phần nào phản ánh được tâm lý sợ sệt, dè chừng của con người đối với thế giới tâm linh sau khi tận mắt quan sát, chứng kiến những gì đang xảy ra xung quanh nó. Thầy Hữu thấy vậy thì cũng không lấy làm lạ cho lắm, xưa nay chính thầy Hữu đã gặp không ít phen anh hùng hảo hán, vỗ ngực ta đây mà khinh thường thế giới tâm linh để rồi tự mình phải chuốc lấy những hậu họa khôn lường. Đoạn thầy Hữu quay sang mẹ tôi băn khoăn,

-Lúc này chỉ còn lại ba người chúng ta, cô có gì thì hãy cứ phân trần ở đây để mọi người cùng tìm cách giải quyết, cứ giấu diếm mãi như thế thì ta chẳng tài nào nắm bắt được sự tình mà giúp cho gia đình cô đâu.

Mẹ tôi nghe thấy những lời đó của thầy Hữu mà giật nảy mình, ắt hẳn lúc này thầy Hữu cũng đã nắm thóp được phần nào suy nghĩ của bà thì lời nói mới chắc chắn đến như vậy. Thấy mẹ tôi vẫn có vẻ ái ngại, thầy Hữu lập tức nói thêm,

-Chuyện âm dương tuy rằng có nhiều điều khiến cho con người ta khó hiểu. Nhưng về cơ bản, tất cả mọi chuyện đều có căn nguyên của nó, việc này nối tiếp việc kia, sự việc này là tiền đề cho sự việc tiếp tới. Tất cả đều được xâu chuỗi lại với nhau một cách liền mạch. Điều cô đang giấu biết đâu lại là một chi tiết quan trọng trong toàn bộ sự việc này, nếu như cô muốn tất cả được giải quyết thì hãy nói với ta, bằng không thì bản thân ta cũng hết cách, chẳng biết đường nào mà lần.

Mẹ tôi lúc này mới dám mở miệng, có lẽ bản thân bà cũng đã phần nào nghiệm thấy được sự quan trọng của những gì mà mình sắp nói ngay đây,

-Thưa thầy, cách đây chừng nửa tháng, con có mơ thấy ông nội của cháu Quang về. Ông dặn dò rất kỹ về chuyện "cốt người" mà mấy vong linh vừa rồi có đề cập đến. Quả thực, khi nghe đến hai từ ấy con mới lấy làm lo lắng. Ông của cháu khi hiện về thì dặn đi dặn lại rằng, bằng bất cứ giá nào cũng không được để cho những quỷ linh bước vào thổ đất nhà mình để tìm xương cốt, bùa chú trấn yểm ở đây nếu như hóa giải không được sẽ trở thành "sát phù lệnh", nếu để chuyện đó xảy ra thì chỉ còn nước mạt vận.

Thầy Hữu nghe thế thì phá lên cười,

-Nhà cô đúng là phúc lộc về âm phần lớn thật, một người cha biết nghĩ cho con cái, một người ông biết lo lắng cho tương lai của cháu chắt. Đúng là đáng quý lắm, nhưng chỉ vì chuyện đó mà cô cứ phải lăn tăn thì đúng là không đáng.

Thầy Hữu trầm ngâm phân giải tiếp,

-Số là nếu như để tìm xương cốt cho ba vong linh này thì về cơ bản âu cũng chỉ có hai cách như ta đã nói. Một là chúng ta phải thỉnh được gia tiên của họ để phả độ cho con cháu của chính mình, xin sổ tào quan để được xuống âm tu tập thì may ra mới có cơ hội luân hồi chuyển kiếp thành người. Hai là phá giải trận đồ được yểm dưới đất nhà cô để tìm ra xương cốt của họ rồi đem đi an táng theo nghi thức dân gian, sau đó đợi ba năm bốc mả thì mới thành sự. Nhưng đối với cách thứ hai thì việc an táng này sẽ phải thực hiện ngay trên phần đất của gia chủ, xây mồ đắp mả ngay trên mảnh đất mà gia đình cô đang sinh sống, đây là một trong những điều tối kỵ của phong thủy, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cũng như tài vận của gia đình. Hơn nữa, nếu như làm vậy thì cũng chẳng khác nào là nuôi quỷ ở trong nhà, nếu như sau này ba vong linh có manh nha làm loạn thì cũng chẳng thể nào mà trở tay cho kịp, khi ấy chắc chỉ có nước biệt xứ mà tránh tai họa. Ngoài ra, nếu như chúng ta làm vậy thì cũng sẽ ảnh hưởng tới việc thỉnh cầu gia tiên chư thần khi cúng bái. Lúc ấy những người được linh ứng đầu tiên không phải gia tiên của nhà cô mà lại là chính ba vong linh đang ngự trên phần đất mà ta đã xây mồ xây mả.

Thầy Hữu vừa nói vừa cười ra vẻ đắc chí lắm,

-Ta dám khẳng định một điều, trên đây chính là những thứ đã khiến cho ông nội của cháu Quang phải bận lòng. Tiên tổ của chúng ta mặc dù không còn tại thế nhưng họ vẫn luôn theo dõi và gia trì phù hộ giúp cho con cháu được an cư lạc nghiệp. Chính họ cũng phần nào giúp cho chúng ta cải vận, thoát khỏi tai ương khổ ải. Trong đạo pháp có một câu rằng, "nếu như gia tiên dưới âm còn khổ thì dù có cầu đến Phật Thánh cũng chưa chắc đã được tòng tâm", ý là trước khi thờ phụng đến Phật Thánh thì hãy nhớ thờ phụng gia tiên của mình trước đã.

Thầy Hữu đến đây thì khẳng định thêm,

-Hữu đây khi nghe được câu chuyện của ba vong linh chết thảm ở sau nhà cô thì cũng đã nghĩ ra được một kế sách có thể vẹn toàn đôi đường. Chúng ta vừa phá giải được trận yểm, vừa có thể đưa ba vong linh đến nơi tu tập phù hợp mà không sợ bị phản tác dụng.

Mẹ tôi hiếu kỳ hỏi dồn,

-Thầy xin hãy chỉ điểm, nhà con xin theo.

Thầy Hữu không chần trừ nói ngay,

-Lần này sự việc thành bại vốn dĩ phụ thuộc vào cô, cô phải thuyết phục được câu bé Giám Quan của Nguyễn tộc giúp cho thì mới được.

Mẹ tôi lấy làm lạ nên ngắt lời,

-Sao lại là con, con thuyết phục về điều gì mới được chứ.

Thầy Hữu từ tốn đáp,

-Đừng vội thắc mắc, ta còn chưa nói hết. Vốn dĩ lần này muốn nhờ cậu bé Giám Quan là vì trận đồ "yểm cốt" theo ta biết thì hiện tại cách hóa giải đã không còn lưu truyền trong dân gian, hay nói cách khác là gần như không thể giải được. Mặc dù vậy nhưng nếu có sự hậu thuẫn của Tiên Thánh thì câu chuyện sẽ trở nên dỡ dàng hơn gấp trăm lần. Khi xưa ta từng nghe cậu bé Giám Quan nhà cô nói được anh linh trên đất Bảo Hà thu nạp, cho ăn học trên đất tiên thánh. Điều này đồng nghĩa với việc cậu ta hoàn toàn có thể thỉnh thánh nhân tương cứu, hoặc chí ít cũng xin được pháp khí về để phá trận.

Mẹ tôi tiếp lời,

-Thưa thầy, ý thầy muốn nói đến phải chăng là...

Thầy Hữu gật đầu hiểu ý, khuôn mặt khi ấy thì làm ra vẻ vui lắm, giọng nói có phần hào hứng hơn hẳn. Sự rộn rã thể hiện rõ qua từng lời văn nhưng vẫn giữ được sự uy linh, kính cẩn,

-Bảo Hà đất ấy phong quang, thỉnh Ông Hoàng Bảy xe loan ngự về, Bắc Nam đôi sứ vào ra, đồn rằng Ông Bảy Bảo Hà tối linh.

...

Trời bắt đầu hửng sáng, phía đằng đông là cả một vùng xích vân đồ sộ đang lan rộng ra muôn ngả, cái khoảnh khắc giao thoa ấy của đất trời tựa hồ như đưa tâm hồn con người ta trở lại với sự bình yên vốn có của nó. Lúc ấy, cái lúc mà màn đêm đang thu mình dần trong sự bao bọc của ánh bình minh, ta thèm, ta thèm một cảm giác vỗ về, trở che như vòng tay mẹ, một cảm giác của sự an yên mà nhẽ ra ta đáng được đắm mình vào nó. Cách đây chỉ chừng vài tiếng, chính ta còn đang băn khoăn về vận số, về tương lai khi tồn tại giữa hai thế giới song hành mà trong đó lại có một thế lực vô hình mà ta không hay, không biết, không thể cảm nhận. Nhưng xét về nhiều khía cạnh, thế giới ấy dẫu cho có hư thực đi chăng nữa thì vẫn luôn tồn tại dưới hai khái niệm cơ bản, đó là thiện và ác, và để đại diện cho phe thiện, như một chỗ dựa tâm linh cho bách tính muôn dân, đó là các vị Tiên Thánh, điển hình trong số đó mà đáng phải kể đến chính là vị nhân thần được suy tôn Thượng Đẳng Thần, ông Hoàng Bảy Bảo Hà.

Lại nói, ngay sau khi thầy Hữu hé lộ về ông Hoàng Bảy Bảo Hà thì đã tức thì cùng mẹ con tôi di chuyển từ Hải Dương lên Lào Cai để yết bái cửa tiên thánh. Quả thực, ấy cũng là một trong những lần hiếm hoi mà tôi được theo chân thầy Hữu đến cửa đình thần Tam, Tứ Phủ và âu cũng là lần đầu tiên tôi được tận mắt thưởng thức cái cảnh sắc mà theo thầy Hữu là đắc địa về phong thủy tại miền sơn cước. Quả thực vậy, đền Bảo Hà được xây dựng ngay dưới chân đồi Cấm, phía giáp danh là con sông Hồng đỏ nặng phù sa. Nếu để xét về phong thủy thì đền Bảo Hà được đặt vào thế "Tọa sơn đạp thủy", đây là một trong những đắc cách về phong thủy nhằm trấn linh cho vùng biên ải được can qua, thịnh vượng. Xét về mặt tổng thể, đền Bảo Hà cho đến nay vẫn giữ được nét văn hóa kiến trúc nguyên bản từ thời Hậu Lê, điển hình là cửa vào tam quan bề thế thể hiện cho tầm quan trọng của đền phủ tiên thánh khi xưa cũng ngang bằng với những cung vua, phủ chúa. Chưa hết, phần triền mái của nhà đền tuy đã được trùng tu nhưng vẫn giữ nguyên cấu trúc vuốt cong ở bốn góc tựa như thể mũi thuyền. Đặc biệt, chính giữa mái là hình tượng "lưỡng long chầu nguyệt" đang ẩn hiện sau làn khói nhang nghi ngút, đó là biểu thị thực thể cho sức mạnh tâm linh thần phục thánh thần của vạn vật. Đến đây, ta không thể không nhắc đến yếu tố con người, chính con người đã góp một phần không nhỏ vào việc giữ nề, giữ nếp, giữ nét văn hóa đặc trưng tại những đình đền thuộc hàng Tam Tứ Phủ, điển hình như đền Ông Bảy khi lượng khách tứ xứ thập phương đổ về đây dâng hương và hầu lễ tiên thánh mỗi ngày quả thực là không đếm xuế.

Ngay sau khi bước vào cửa tam quan, thầy Hữu quay sang mẹ tôi mà dặn,

-Bây giờ cô đi thắp nhang kêu cầu tất cả các miếu, các ban, sau khi xong việc thì quay lại chính cung thờ ông Hoàng Bảy, tôi và thằng cò sẽ đợi ở đấy.

Mẹ tôi nghe xong thì vội vã đi ngay, phần tôi thì theo sau thầy Hữu tiến vào chính cung thờ ông Hoàng Bảy. Phải nói rằng, ở đền Bảo Hà hay hầu hết tất cả những đền phủ lớn trên khắp cả nước, họ đều có sự sắp xếp, bài trí, sử dụng gam màu và phối hợp họa tiết hết sức tinh vi. Đặc biệt là những sắc vàng đồng và đỏ mun, nó xuất hiện trên tất thẩy những đồ vật được bày biện, trang trí trong cung thờ, chưa kể đến là cả những họa tiết, chạm trổ rồng phượng cũng không nằm ngoại lệ. Tất cả những thứ ấy hòa quyện lại tạo cho ta một cảm giác uy linh, bề thế khi bước vào bất cứ một cửa đình thần nào. Thầy Hữu sau một hồi quan sát thì sốt sắng thủ thỉ với tôi, giọng nói có đôi phần hệ trọng lắm,

-Sắp tới đây là đến giá hầu ông Hoàng Bảy, con lách vào phía gần phía trong nơi họ hầu bóng mà ngồi, nhớ kỹ nếu như lát nữa ông Bảy giáng ngự vào thanh đồng hễ có cho bất cứ thứ gì thì cũng phải gói ngay vào cái khăn này, dùng chỉ đỏ buộc xung quanh, vái tượng ông ba vái rồi xin lui ra vòng ngoài chờ ta, bất cứ ai nói gì, dọa nạt ra sao cũng không được để tâm tới.

Dứt lời, thầy Hữu đẩy tôi chen vào giữa mấy người lớn tuổi đang ngồi san sát phía sau sập hầu lớn đặt ngay dưới ban chính thờ ông Bảy, còn bản thân thì vòng ra phía bên phải sập đứng như thể chờ đợi điều gì đó. Quãng ấy có tiếng đàn nguyệt ngân lên trong trẻo hòa cùng nhịp phách trống nhanh dần, giai điệu khi ấy nghe quả thực là vui tai lắm, chẳng khác nào những cung âm của xuân hội, chừng được dăm ba nhịp thì lại nghe có tiếng hát trầm bổng, quãng ngắn quãng dài như thể phú thơ trên nền nhạc,

-Gió Nam thoảng hương bay ngào ngạt, bóng ác tà đã gác non tây. Trăng in mặt nước vơi đầy, Bảo Hà cổ tích xưa nay còn truyền.

...

Đoạn đến đây thì thanh đồng ngồi chính giữa sập đá đang lắc lư theo âm điệu bỗng cầm tay vào miếng vải sắc đỏ có thêu hình "lưỡng long chầu nguyệt" đang phủ đi diện ảnh mà hất ra phía sau, hành động ấy được thực hiện một cách dứt khoát, đượm hồn, tư thế quả thực trông rất đẹp mắt.. Lúc này ánh mắt thanh đồng nhìn ra vẻ oai nghiêm và bệ vệ lắm, tay phải tựa vào chồng gấm, tay trái nắm lại, đánh sang ngang như thể ra hiệu cho mấy người hầu dâng ở hai bên. Tức thì, hai người hầu dâng phía trước lập tức đỡ thanh đồng dậy, một người nhanh nhẹn cầm lên chiếc đai hồng rồi thắt ngang bụng cho ghế thánh, hành động ấy diễn ra thoăn thoắt xem chừng như là thuần thục lắm. Kế đó, vị thanh đồng lồng tay vào một tấm khăn tấu sắc đỏ, có thêu hình long phượng trông thực rất cầu kỳ, đoạn cầm hai nén nhang cúi mình khấn ba khấn trước chính ban, một khấn bên tả, một khấn bên hữu. Xong xuôi, thanh đồng lùi lại phía sau hai bước, ra hẳn phía góc của sập hầu, thế rồi chân trái duỗi thẳng tiến về phía trước, chân phải bước lên hai cấp xong khụy gối xuống nệm rồng, thực hiện nghi thức tam bái vạn niên. Lúc này thì cung văn lại tấu lời, tiết tấu nhạc điệu có phần dồn dập hơn, nghe mà thấy tim can cũng rộn rã theo phần nào,

-A, là bút phê sai, triền hương là bút phê sai. Cảm phiền chư tướng đáo lai hộ trì, tả sai binh bộ binh thùy

...

Thanh đồng bấy giờ cầm một bó nhang lớn mà dơ lên giữa chính điện, lửa trên nhang cháy bập bùng chẳng khác nào một bó đuốc, ấy rồi anh ta tay trái trống hông, tay phải múa đuốc theo những cung tròn. Lúc này, nhìn thanh đồng trên sập trông mới oai phong, lẫm liệt làm sao, người thì khoác lam bào tầm long, đầu thì đội khăn xếp điểm hoa, chưa kể ấy là ngực đeo ngọc thạch kim lệnh. Quả thực, phong thái so với các bậc danh gia, quan tướng năm xưa thì cũng chẳng có thua kém là bao. Ngay sau đó, thanh đồng cầm mỗi tay một cây gậy hình trụ, kích thước chừng hơn sáu chục phân, dân gian gọi đó là hèo, một đầu hèo được bọc đồng chạm trổ hoa văn trông rất mịn màng, đầu còn lại thì có gắn thêm mấy quả lục lạc bằng đồng, anh ta cứ cầm như vậy mà tới lui trên sập, vừa di chuyển vừa múa hèo lên xuống trông rất cầu kỳ và cẩn trọng. Được một chạp, thanh đồng lại ngồi xuống ghế lớn mà mấy tay hầu dâng vừa kê ở chính sập. Anh tay hai tay cầm hèo để theo lối vuông góc, tay trái di chuyển chiếc hèo nằm ngang tựa như đang kéo đàn nhị, kỳ thực, lúc đó ta mới thấy được sự diễn xướng của thanh đồng có hồn đến mức nào, nhìn anh ta bấy giờ đúng thực là hết mực phong lưu, tài hoa, người thì hơi ngả người ra phía sau, mắt lim dim quãng mở quãng đóng, đầu lắc lư như thể đang ngâm hoa, thưởng nhạc.

Chợt, thanh đồng ấy đứng phắt dậy, người nghiêng lại về phía sau, hai tay cầm đôi hèo ném thẳng về phía tôi rồi gầm lên một tiếng "Ha" nghe thật là uy dũng. Chột dạ, tôi nhớ lại lời thầy Hữu nên vội vàng gói gém hai cây hèo lại, buộc chỉ đỏ ở phía bên ngoài rồi vái lậy tượng ông Bảy ba vái. Xong xuôi, tôi cố chen ra vòng ngoài nép sát vào phía cửa gỗ để đứng chờ thầy Hữu. Mấy người xung quanh đó cứ thì thầm to nhỏ với tôi rằng tôi đã bị ông Bảy chấm lính bắt đồng, mau chạy lên sập lậy ông ngay đi rồi nghe ông phán truyền. Tôi thì quả thực lúc ấy vững tâm lắm, ai nói như nào tôi cũng mặc kệ, cứ y án làm theo lời thầy Hữu cho chắc chắn. Ngoảnh đi ngoảnh lại, tôi đảo mắt tìm thầy Hữu thì đã thấy thầy đang quỳ gối phía sau thanh đồng ở ngay trên sập, một tây cầm cây quạt xếp che miệng, một tay bưng đĩa có trung tửu và xấp tiền đang dâng lên ông Bảy mà thưa,

-Nam mô A Di Đà Phật con tấu lậy quan Hoàng Bẩy Bảo Hà trấn thủ miền sơn cước biên cương, họ Nguyễn con là Nguyễn Văn Hữu, gia chủ là Nguyễn Ngọc Quang người dương thế mệnh càn bóng quế, đem thân về tâu đem đầu về bái cửa quan Hoàng. Quan giáng phúc lưu ân nhận đồng thương đồng nhận lính thương lính cho Nguyễn Ngọc Quang cùng gia môn được an khang thịnh vượng, ngũ phúc lâm môn. Họ Nguyễn con xin thỉnh dương pháp khí cửa quan, mượn thế oai linh nơi đình thần Tứ Phủ diệt tà sát quỷ. Ghế của quan, có công có danh, có chức có quyền, đẹp hơn người, tươi hơn bạn, họ Nguyễn con có giọt dầu lễ bạc tâm thành dâng tiến lên quan để quan phát lộc đi quan chi lộc về, cho bóng quan được oai phong lẫm liệt, cầu được ước nên, muôn dân trăm họ được ăn mày công đức cửa quan. A Di Đà Phật.

Thanh đồng lúc này nghe được lời tấu của thầy Hữu thì gật đầu như thể ưng thuận lắm, miệng nhả khói thuốc trông hết mực huyền ảo, tay hất ra sau rồi phán truyền,

-Ta chứng minh công đức cho họ Nguyễn đắc lễ đắc bái, chu viên hoàn hảo, mười phân vẹn mười, đầy quyền mãn quả, cha biết mặt, mẹ đề tên, sở cầu được tất ứng, sở nguyện được tòng tâm, ta cho cứu tử độ sinh, cứu dân độ thế, cứu đâu được đó, cho thơm danh nước tiếng. Quà lễ ngày hôm nay sẽ tấu tới thượng thiên thượng ngàn đền vàng thoải phủ để chứng minh công đức cho họ Nguyễn Văn và Nguyễn Ngọc ha.

Dứt lời, thanh đồng cầm xếp tiền tung về phía sau, thầy Hữu sau này nói rằng hành động ấy là để ban tài tiếp lộc tới thanh đồng đạo quan, cho muôn dân trăm họ đã đến trợ duyên tiếp phúc cho buổi hầu. Việc xong, thầy Hữu cúi lậy ba vái rồi lui ra phía bên ngoài. Lúc này mẹ tôi vừa hay trở về đến chính ban, thầy Hữu ra dấu cho hai mẹ con ra phía bên ngoài, thầy Hữu quãng ấy dặn,

-Về cơ bản là đã thỉnh được pháp khí, nhưng phải là người đã từng ra hầu thánh hoặc kề cận bên cửa đình thần thì mới có thể sử dụng được nó. Bây giờ cô vào lễ tạ ông Bảy rồi xin lệnh ông cho cậu bé giám quan nhà cô được linh ứng với pháp khí khi hành lễ. Đây, cô cầm lấy hai đồng đài âm dương và cái đĩa này, reo ba lần, nếu được một mặt sấp, một mặt ngửa là âu vạn sự đã nhất nhất được tòng tâm.

Nói đoạn thầy Hữu lấy ra hai đồng đài âm dương rồi dúi cho mẹ tôi, phần tôi và thầy Hữu thì đứng ngoài chờ đợi. Được chừng mươi phút thì mẹ tôi từ phía bên trong thất thiểu đi ra, khuôn mặt khi ấy thực sự là lo lắng lắm, giọng nói thì thoảng có đôi phần run sợ,

-Thầy ơi, con reo đồng đài ba lần thì cả ba lần hai mặt đều sấp, bây giờ phải làm như nào hả thầy.

Thầy Hữu thở dài một tiếng rồi đáp,

-Âu chắc có lẽ ông Bảy đã chấm đồng thằng cu Quang này thật rồi, giờ không chỉ còn là câu chuyện mượn pháp khì trừ tà nữa. Xem ra số mệnh của thằng bé này lại thêm đôi phần vất vả đây. Thôi, chúng ta về đã kẻo không kịp giờ giải ấn làm lễ.

Ba người chúng tôi lập tức khởi hành trở về Hà Nội theo y lệnh của thầy Hữu, quãng đường từ Bảo Hà về thủ đô khi ấy chỉ còn chập choạng trong giấc ngủ dong của tôi trên xe. Thực sự, với một cậu bé chừng tuổi ăn tuổi ngủ như tôi thì những việc đi lại đến vài trăm cây số trong ngày như thế này thật đúng là quá sức. Nhưng thôi, đành phải cố gắng mà cho xong việc, dù gì thì đây cũng là những việc tốt cho gia đình cũng như bản thân tôi ở hiện tại.

Trời đã đổ về khuya, vùng ngoại ô vắng vẻ khi ấy cũng đã thưa bớt bóng người, cả một màn đêm tĩnh mịch yên ả đang ôm trọn lấy tầm nhìn của tôi. Phía bên cạnh, thầy Hữu giường như cũng phần nào thấy được sự lo lắng và ngổn ngang của tôi qua ánh mắt nên bèn cất lời,

-Nghiệp Âm nó là như thế đấy con ạ, những gì mà ngày hôm nay con được quan sát, được chứng kiến trên đất Bảo Hà âu cũng là một khía cạnh nào đó của Nghiệp Âm. Đối với những người như vậy, cuộc sống vốn dĩ chẳng dễ dàng gì để mà cân bằng được giữa việc âm và việc trần. Làm việc trần tốt thì âm nhiễu, làm việc âm tốt thì dương cực. Sau này nếu như con có thể cân bằng được âm phần và dương thế thì đúng là một kỳ tích hiếm gặp.

Thầy Hữu kế đó quay sang mẹ tôi hỏi dò,

-Mấy thứ cần cho buổi lễ tôi dặn chị khi ở trên xe đã chuẩn bị xong hết chưa

Mẹ tôi đáp vội,

-Chồng con ở nhà đã lo chu toàn, tất cả bây giờ chỉ đợi thầy về hành sự nữa mà thôi.

Nói tới đây thì vừa hay xe về đến trước cổng, ba người chúng tôi vội vã tới mức còn chẳng kịp nói lời tạm biệt với bác tài. Thầy Hữu khi đó một tay xách hình nhân đang giam Xích Diệm Quỷ, một tay lệ khệ túi đồ nghề theo chân mẹ tôi bước nhanh ra phía sau nhà. Ở đó, bố tôi hình như đã lo liệu xong xuôi mọi việc nên đứng chờ tự bao giờ, nhưng hình như ông có vẻ không mấy hồ hởi khi thấy ba người chúng tôi về tới. Đoạn thầy Hữu khoán cho mẹ con tôi dừng lại không được bước tiếp, thầy Hữu hô lớn,

-Vong nào ở đâu, sao lại nhập vào gia chủ trong đất này

Hai mẹ con tôi khi ấy thất kinh, bốn mắt nhìn nhau hoảng hốt không ai dám nói với ai câu nào. Về phần bố tôi, ông đứng hoàn toàn bất động trên nền đất, ánh mắt chừng chừng nhìn xuống phía dưới, đầu hơi gục xuống như có ai đang đè trên cổ. Thầy Hữu lúc này toan tiến lại gần thì bố tôi bất ngờ hất mắt lên nhìn thẳng vào thầy Hữu, ánh mắt trợn tròn như đang giận dữ...

Gặp sự lạ, thầy Hữu lập tức lùi lại phía sau để cảnh giới, một mặt rút ra hai lá bùa có họa nhân hình mà đặt trước mặt mẹ con tôi. Kế đó, thầy Hữu lấy hai cây nhang cắm xuyên qua hai lá bùa xuống nền đất hòng cố định lại rồi bắt quyết hô lớn,

-Kính thỉnh bản gia táo phủ thần quân linh ứng độ trì

Đoạn thầy Hữu nhanh tay ngắt lấy hai đầu nhang toan phóng về phía bố tôi đang đứng thì bất giác từ phía ấy có tiếng nam nhân vọng lại,

-Khoan hãy động thủ, ta vốn là vong linh ở thổ đất này, có triệu thỉnh táo phủ thần quân lên thì ta cũng không bị đuổi đi đâu.

Mẹ tôi khi ấy ở vòng ngoài nghe được giọng nói lạ cất lên thì ra vẻ hiếu kỳ lắm, bà ngấp ngứng cắt lời của vong nhân,

-Có phải thầy đấy không ạ. Dạ thưa, có phải thầy không?

Ngay tức thì, phía đằng trước có tiếng quát lớn dội lại,

-Thoái ấn cốt trận, rước họa diệt thân.

Mẹ con tôi bấy giờ nghe đến hai từ diệt thân thì lấy làm lo lắng lắm, riêng bản thân thầy Hữu thì có vẻ như còn đang ngờ vực về điều gì đó nên vẫn phân vân chưa tiếp tục hành sự.

-Quang, lấy trong tay nải của ta có ba cây đèn cầy, xếp một cây phía trước mặt hình nhân, hai cây ở phía sau sao cho thành hình tam giác rồi thắp sáng lên. Nếu như có gì lạ thì phải lập tức báo lại cho ta ngay.

Thầy Hữu giọng chắc nịnh như thể biết chắc sẽ có biến cố xảy ra vậy. Quả thực, đối với một con người đã dọc ngang bao phen trên con đường hành đạo như thầy Hữu thì ắt hẳn sẽ phải có cái lý riêng của mình trong từng hành động. Kể cả cho dù có đứng trước những lời hù dọa của ma quỷ hay sự thông phán của vong linh thì cũng đều cần phải cân nhắc và suy xét cho kỹ lưỡng. Lại nói về phần tôi lúc này, sau một hồi loay hoay thì cũng y án xếp được ba cây đèn cầy quanh hình nhân như lời thầy Hữu dặn. Đoạn tôi lấy hộp quẹt châm lửa thắp sáng ba cây đèn thì mới tá hỏa. Thầy Hữu kỳ thực phán đoán không sai, quả đúng là có sự lạ xảy ra. Tôi gọi sang phía thầy Hữu,

-Ba cây đèn không thể sáng cùng lúc thầy ơi. Thắp sáng được một cây phía trước thì hai cây phía sau tắt mà thắp sáng được hai cây phía sau thì cây đèn phía trước tuyệt nhiên không thể bắt lửa.

Thầy Hữu nghe đến đây thì liền đảo mắt xung quanh một vòng như thể thăm dò rồi chừng mắt lại tại ngay vị trí bố tôi đang đứng mà quát,

-Muốn cản người khác thì phải có lý do, chớ có nên mập mờ như vậy. Ba cây đèn thắp lên cây tỏ cây mờ, há chẳng phải chính bản thân ông còn đang do dự hay sao?

Lúc này từ phía bố tôi vang lên một chàng cười thực sự là hào sảng lắm,

-Hay, hay lắm, đoán được tâm ý của một vong linh chỉ bằng mấy cây đèn cầy, quả đúng là người cao đạo. Nhưng xin hỏi thầy Hữu liệu rằng mấy cây đèn này có thể đoán được tâm ý của một quỷ tinh như Xích Diệm hay không?

Thầy Hữu im lặng, vong linh ngự trong người bố tôi thấy đắc thế nên liền nói tiếp,

-Thiết nghĩ, Xích Diệm này chỉ muốn lợi dụng đạo pháp của thầy để hóa giải trận đồ. Còn về bản thân nó, quỷ tính chắc hẳn đã lấn át đi nhân tâm, không biết chừng nó sẽ dùng xương cốt để tu luyện ma đạo. Tới lúc ấy, thỉ như nó có trở mặt thì ta e rằng thầy cũng khó lòng mà cản được.

Thầy Hữu nghe xong đáp ngay,

-Xin ông hãy cứ yên tâm, Hữu đây đã có sự chuẩn bị chu toàn, nếu lần này hành sự có gì sơ suất thì Hữu đây sẽ tự giác đem mình đến chịu tội trước ban thờ tiên gia của Nguyễn tộc.

Vong linh nghe đến đây thì mới có phần xuôi giọng,

-Được lời này của ông thì ta cũng yên lòng, dù sao thì sự đến nước này ta có muốn cản cũng chẳng được, họa chăng nếu có tai kiếp thì âu đó cũng là cái nghiệp chướng mà gia đình ta phải gánh chịu. Xin đa tạ.

Vong linh vừa dứt lời thì quãng ấy tôi thất thần cả kinh, hình ảnh một bóng đen thù lũ từ từ chồi lên ngay phía sau lưng bố tôi như một thực thể đang dần dần hiện hữu ngay trước mắt, cái bóng ấy phải cao chừng quá đầu người, đoạn nó vọt lên phía bờ tường lơ lửng thoắt ẩn thoắt hiện ngay sau mấy tán cây như còn đang vương vấn điều gì đó mà chưa thể tiêu tan. Thầy Hữu đứng dưới thấy vậy thì lấy ngay ba cây nhang cắm xuống đất mà khấn nguyện,

-Độ linh vô thượng tam quy, nhất tử nhất sinh tiễn biệt triều vong

Thầy Hữu khấn chú xong thì vừa hay lúc đó bố tôi hớt hải chạy lại. Mặt mũi ông bấy giờ vẫn còn đang mơ hồ chưa hiểu rõ sự tình thì thầy Hữu đã khoán ngay,

-Tỉnh lại nhanh vậy sao? Dương khí trong người xem ra cũng lớn lắm đây. Khỏi cần câu nệ chào hỏi, hai vợ chồng anh lập tức thiết lễ như ta đã dặn, đến giờ hành lễ rồi.

Bố mẹ tôi nghe thấy vậy thì chỉ kịp gật đầu mà sốt sắng đi chuẩn bị ngay. Đoạn bố tôi chải một tấm chiếu cói lớn ra chính giữa sân sau, lòng chiếu đặt hai bát nhang cỡ lớn đã châm sẵn năm que nhang trên mỗi bát. Đặc biệt, bốn cạnh chiếu được bố tôi cố định bằng bốn tán trúc còn nguyên lá, nhưng kỳ lạ một điều, tất cả lá trên mấy cành trúc ấy đều được sơn một lớp sơn đen đặc, bóng nhãy, tuyệt nhiên không một lá nào giữ được màu sắc nguyên vẹn. Phía chính diện, bố tôi bê hình nhân giấy đặt vào trong một vòng tròn vôi đã được vẽ sẵn, ngay bên dưới là ba lô nhang lớn đang nghi ngút khói hương. Thầy Hữu lúc này thấy mọi thứ đã được sửa soạn đâu vào đấy thì mới mở khăn vải lấy ra hai cây hèo thỉnh trên đất Bảo Hà mà cắm thẳng vào hai bát nhang ở giữa chiếu, mỗi bát một cây xiên chéo nhau theo hình chữ X. Ngay sau đó, thầy Hữu lập tức ngồi xuống bắt quyết thỉnh kinh, cả một chàng chú kinh kéo dài đến chừng hơn một canh giờ mà vẫn chưa dứt. Cảnh vật lúc này chìm đắm trong sắc khói mở ảo quyện vào với ánh trăng chẳng khác nào những cô hồn các đảng đang vất vưởng chốn nhân gian.

Chợt, thầy Hữu rút lấy một cây nhang từ phía trước mặt chĩa vào chính diện hình nhân mà hô lớn,

-Tam quỷ tọa trận, bách quỷ giáng đường

Thầy Hữu hô xong thì ba lô nhang dưới chân của hình nhân bất ngờ bốc hỏa dữ dội, ngọn lửa cháy thành màu xanh dương trông thực rất kỳ dị. Thấy vậy, thầy Hữu liền đứng dậy đi vòng tròn xunh quanh bốn tán trúc ở bốn góc, mỗi góc đi cả thẩy đến chín vòng. Xong xuôi đâu đấy, thầy Hữu lại quay trở vào chính giữa chiếu, hai tay rút hai cây hèo lên mà đánh vào tứ phương tám hướng, mỗi cú đánh thầy Hữu lại hô một khẩu chú khác nhau.

-Chính Đông nguyệt phù đà lôi chỉ

Đoạn đến đây thì trên trời hắc vân cuồn cuộn che đi ánh nguyệt quang, khung cảnh lúc này chỉ còn lại là một khoảng đen heo hắt mờ nhạt. Bất giác, mấy người chúng tôi ở vòng ngoài đều không khỏi kinh hãi khi dưới thứ ánh sáng phập phùng của tàn nhang đương là hình ảnh của mấy bàn tay đen sì, lố nhố nhô lên từ dưới mặt đất đang cố bấu víu vào bốn tán trúc ở bốn cạnh chiếu. Kỳ thực, bình sinh tôi chưa từng chứng kiến qua một cảnh tượng nào hãi hùng đến như vậy.

-Bách quỷ dẫn nguyệt

Thầy Hữu thấy thời cơ đã điểm thì lập tức đánh mắt về phía sau để ra hiệu. Hiểu ý, bố tôi từ phía sau tay cầm một tấm gương bát quái mà tung về phía thầy Hữu. Thầy Hữu nhào lên bắt lấy tấm gương mà trông thân pháp quả thực rất linh hoạt. Lúc này, người ta không còn thấy những sắc vân đen đặc hùng đồ trên bầu trời khi nãy nữa mà thay vào đó lại là ánh nguyệt quanh đang vành vạch soi rọi nhân gian. Thầy Hữu thấy thiên tượng đã thay đổi thì lập tức dơ tấm gương lên cao, một phần ánh sáng khi ấy phản chiếu qua tấm gương hắt xuống mặt đất thành hình tròn nhỏ rất rõ nét. Báy giờ, thầy Hữu một tay giữ lấy tấm gương, một tay cầm cây hèo phi thẳng xuống phần đất nhỏ đương sáng rõ. Chuôi hèo vừa chạm vào nền đất thì một mùi hôi thối bốc lên xộc thẳng vào mũi mấy người chúng tôi. Thấy vậy, thầy Hữu lập tức buông kính, hai tay bắt quyết nhìn thẳng về phía hình nhân mà hô lớn,

-Thoái ấn phù định, quỷ cốt nhập vi

Ấn chú vừa được hô lên thì từ phía bên cạnh, bố tôi xồng xộc chạy ngay tới nơi đang cắm cây hèo mà hít lấy hít để cái mùi hôi tanh nồng nặng vẫn còn đang tỏa ra trong từ đoạn chuôi hèo. Kỳ lạ thay, cái dáng chạy của bố tôi lại không giống với phong thái của một người đàn ông cho lắm, từng bước chân của ông có phần thanh thoát, uyển chuyển như của bậc nữ nhi nề nếp. Hai mẹ con tôi chứng kiến cảnh này thì tuyệt nhiên im bặt, không ai dám nói với ai nửa lời. Được một hồi thì bố tôi quay người lại, hai mắt nhắm nghiền, đầu nghiêng dần sang phía bên phải. Bất ngờ, bố tôi rút cây hèo lên rồi tung mình về phía thầy Hữu. Bị động, thầy Hữu chỉ kịp quay người lại mà tránh đi nhưng vẫn trúng phải hai đòn trời giáng của bố tôi nên ngã gục xuống đất, mồm miệng máu me xối xả chảy ra, một tay run run chỉ về phía tôi toan nói gì đó nhưng không thành lời.

Thoạt, có tiếng nói văng vẳng bên tai tôi nghe rõng rạc và khí phách lắm,

-Anh linh bóng Hoàng, trừ tà sát quỷ, cứu tử độ sinh.

Cơ thể tôi bấy giờ như có ngoại lực tác động, toàn thân lao thẳng về phía trước một cách vô định, thần trí hoàn toàn không thể kiểm soát nổi hành động. Đoạn tôi một tay rút lấy cây hèo còn lại đang cắm trong lô nhang, một tay giật lấy cây hèo đang nằm trong tay bố tôi rồi cùng lúc đánh mạnh hai cây hèo vào hai bên phía sườn bụng của ông. Mọi thứ xảy ra chỉ trong vòng tích tắc, bố tôi ngã vật ra phía sau, mồm nôn ọe ra cái thứ chất dịch bày nhày đen sì đặc quánh. Lúc này, thầy Hữu nằm gục ngay phía kế bên giọng yếu ớt cố cắt nghĩa thành câu,

-Phóng hỏa thiêu hủy hình nhân

Tức khắc, tôi vớ ngay lấy cái hộp quẹt mà hành sự, vì là hình nhân giấy nên lửa bắt rất nhanh, chỉ thoáng chốc mà ngọn lửa đã bùng lên đến cả thước. Cùng lúc ấy, từ phía mẹ tôi có tiếng khóc thê lương của nữ nhân vọng lại,

-Thần nhân xin hãy hạ thủ lưu tình mà tha cho cô Xuân

Thầy Hữu lồm cồm bò dậy, hai tay điểm quyết chú nhằm vào ngọn lửa đang phừng phừng dữ dội. Quyết chú càng vang vọng thì tiếng khóc lại càng ai oán đến não lòng.

-Phiêu bồng một kiếp nhân gian, họa chăng cũng chỉ một đường xe tơ, xe vào biển cát tựa mơ, xe vào khiếp khổ cùng cơ sầu lòng...

Vạn vong quỷ trận, bát phương tứ quỷ, nhất tề ứng linh

Tiếng nam nhân chạc tuổi thanh niên không rõ từ đâu vọng lại khiến thầy Hữu được phen kinh ngạc. Đoạn thầy Hữu dừng hẳn quyết chú, một tay điểm mạnh vào huyệt nhân trung, một tay ngắt lấy mấy lá trúc rồi nhét vào miệng bố tôi. Ngay lúc ấy, bố tôi bất chợt đứng dậy, thần thái trông rất khác so với thường nhật, ông tiến về phía trước ba bước rồi từ từ gập mình xuống dưới, hai tay xoa xoa trên nền đất tựa như đang họa hình. Thấy vậy, thầy Hữu tức thì thắp sáng hai ngọn đèn cầy rồi tiến lại gần hòng quan sát sự tình. Bất giác, thầy Hữu lùi lại cả kinh, khuôn mặt lộ rõ sự kinh hãi đến tột độ. Nhưng kỳ thực, hình ảnh trên nền đất lúc bấy giờ hoàn toàn không phải là một dị họa hay bất kể một tượng hình ma quái nào, nó đơn giản chỉ là một hình chữ nhật với bốn dấu chấm lớn ở chính giữa bốn cạnh. Tôi thấy thế thì liền lấy làm lạ nên bèn hỏi thầy Hữu,

-Có chuyện gì vậy thưa thầy?

Thầy Hữu lặng im một hồi lâu rồi nhanh chóng đặt hai ngọn đèn cầy vào hai chấm lớn trên cạnh dài của hình chữ nhật. Ngọn lửa trên hai cây đèn yếu ớt, lay lắt trong màn đêm như chỉ trực tắt, đoạn thầy Hữu nhấc một cây đèn lên rồi đặt vào chấm giữa của một cạnh ngang phía kế bên thì ánh sáng của cây đèn còn lại lập tức vụt tắt. Lúc này, thầy Hữu mới nhìn sang tôi mà nói,

-Có kỳ nhân xuất thế ở đây.

Tôi lập tức đáp,

-Ý thầy là sao? Ngoài mấy người chúng ta ra thì ở đây đâu còn có ai đâu?

Thầy Hữu chỉ tay xuống nền đất rồi nói tiếp,

-Con nhìn xem, đây là giản đồ của trận pháp "Vạn vong quỷ trận". Theo thần kích kể lại thì năm xưa, sáu ngàn quân Nguyên Mông do tướng Ái Lỗ chỉ huy theo đường Vân Nam tiến vào biên giới nước ta. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật khi ấy được lệnh trấn thủ cửa Mộc Ngột hay tin giặc tràn xuống thì bèn xua quân ra giao chiến cùng với đại quân của Ái Lỗ. Ta và giặc giao chiến tất thẩy là mười tám trận trong vòng ba tháng. Cuối cùng, vì muốn đẩy nhanh tiến độ hành quân cho kịp kỳ hẹn với Thoát Hoan nên Ái Lỗ đã ra yêu sách bố trận "Vạn vong" tại Bạch Hạc hòng mở đường. Bấy giờ, hai tướng nhà Trần là Lê Thạch và Hà Anh chỉ huy quân đội giới bị tại Bạch Hạc do gặp phải quỷ trận nên đã vong mạng. Tuy rằng chi tiết nhuốm màu tâm linh này không được nhắc đến trong những bộ sử lớn như Đại Việt Sử Ký toàn thư hay Khâm Định Việt sử thông giám cương mục nhưng trong giới thuật sĩ chúng ta, mọi người vẫn lưu truyền một câu chuyện ma tà về "Vạn vong quỷ trận" trên đất Bạch Hạc là như vậy.

Tôi nghe đến đây thì sốt sắng, trong lòng thầm nghĩ đến những vị hảo tướng thời Trần mà còn phải vong mạng thì bốn người chúng tôi làm sao có thể vẹn toàn mà thoát khỏi quỷ trận được đây. Tôi ấp úng hỏi thầy Hữu,

-Vậy có cách nào để phá trận không thưa thầy?

Thầy Hữu lúc đó lắc đầu ngao ngán nhìn lên ánh trăng tỏ tường mà thở dài một tiếng nghe thật phiền muộn,

-"Vạn vong quỷ trận" này bắt nguồn từ thời xuân thu chiến quốc, lấy ánh nguyệt quang làm chủ đạo. Người bố trận nắm trong tay ít nhất là một trăm vong linh, trong đó có bốn vong linh mang âm lực từ trăm năm trở lên. Trận đồ sẽ được bày theo cách vây hãm từ bốn phía đánh vào, mỗi phía do một quỷ vong trăm năm làm tiên phong, sức mạnh tựa hồ như cả vạn binh mã. Phàm là những người trần thế tục nếu như chẳng may lạc vào trận đồ này mà không có sự chỉ điểm của cao nhân thì chỉ có nước vong mạng bởi vốn dĩ, trận đồ này không có sinh môn, cả bốn cửa đều là cửa tử.

Đoạn thầy Hữu tay thoăn thoắt bấm độn, miệng lẩm bẩm tiếp lời,

-Chính vì xuất hiện từ thời xuân thu chiến quốc nên cách phá giải trận đồ này âu cũng dựa theo thuyết "tướng bại, tử sinh phản vi cục" của thời ấy. Tức là, nếu con có thể đánh bại quỷ tinh trăm năm ở bất kể một trong bốn hướng thì tự khắc cửa sinh môn sẽ mở ra, trận đồ trở nên vô hại. Xét theo địa thế của thổ đất nhà con thì chỉ có thể đánh ra theo hướng chính Bắc phía bên hông nhà thì may mắn mới có thể thoát thân, hướng này vốn khuất ánh trăng nên tà tính phần nào sẽ có sự triết giảm.

Tôi nhanh nhảu mau miệng,

-Vậy thì chúng ta còn chờ gì mà không hành sự

Thầy Hữu gạt đi,

-Không thể nóng vội, phàm là người có thể bố trận "Vạn vong" trên khắp nước Nam Việt này đều có sự hữu hảo giao liên với ta. Hễ một trong mấy người đó có ý định thiết lập đàn trận thì ắt sẽ mời những người còn lại đến để trợ đàn. Người ở đây ngày hôm nay chưa biết hắn tốt xấu ra sao, nhưng phải khẳng rằng định đạo thuật của y đã đắc thế thì mới dám đơn phương độc mã ở đây xoay chuyển càn khôn, bày binh bố trận. Hơn nữa, tướng ra trận thì dù ít dù nhiều cũng cần phải có binh mã theo sau để trợ uy, ta tay không tấc sắt, thân cô thế cô thì dù có lâm trận âu cũng chỉ làm mồi cho ngạ quỷ.

Thầy Hữu dứt lời thì bố tôi đứng kế bên thoạt nhiên từ từ xoay mình đi về hướng mẹ tôi đang ngồi khóc than ngay phía trước mặt. Đoạn bố tôi đỡ mẹ dậy, hai người quay mặt về hướng thầy Hữu rồi quỳ rạp xuống, đồng thanh nói lớn,

-Cảm tạ ân đức trời biển của thần nhân, hai người Đại Miên chúng tôi hạ quyết tâm ứng thân dưới kỳ lệnh của ngài để hóa giải trận pháp. Hồn phách của hai người chúng tôi so với việc cứu tế nhân sinh âu cũng chẳng quan trọng bằng là bao.

Thầy Hữu lưỡng lự, xem ra sự tình đã đến nước này thì cũng chẳng còn cách nào khác ngoài việc mượn phách vía của hai âm hồn Đại, Miên để hóa binh lâm trận. Nhưng trước khi hành sự, thầy Hữu vẫn cố căn dặn,

-Việc này là đại sự, thành bại còn chưa rõ, nếu như chẳng may có lỡ tiêu tán hồn phách thì liệu có đáng hay không, hay người phải suy nghĩ cho kỹ.

Hai người nhìn nhau rồi cúi đầu dập ba lậy trước thầy Hữu,

-Kiếp số của hai người chúng tôi vốn dĩ đã không được toàn vẹn, nay được thầy phát duyên tương trợ thì hai người chúng tôi mới có cơ hội được vào vòng luân hồi tiếp tục kiếp trần gian. Mang ơn thì phải báo ơn, âm dương vốn dĩ có sinh quy rõ ràng, chúng tôi quyết không từ nan.

Thầy Hữu không nói gì mà chỉ lẳng lặng tiến về phía tay nải lấy ra hai chiếc lệnh kỳ, một có thêu hình hổ phục, một có thêu hình long quy. Đoạn thầy Hữu giao lại lệnh kỳ cho bố mẹ tôi rồi quay sang phía tôi mà nói,

-Khu đất phía sau này của nhà cháu có cửa ngách hay không?

Tôi gật đầu, thầy Hữu thấy vậy thì lập tức ra ám hiệu cho mấy người chúng tôi nhất tề hành sự. Bốn người vừa bước đến phía trước cửa ngách thì thầy Hữu chắp tay bắt quyết, miệng hô lớn, thanh âm giọng nói vang dội tựa như thái sơn bắc đẩu,

-Văn Hữu tự Phúc Môn, ứng trận đạo nhân, xuất thế Bắc phương.

Thầy Hữu vừa dứt lời thì tiếng trống dồn dập từ bốn bề vọng lại làm kinh động cả một vùng trời, chưa kể là tiếng nhân mã reo hò chẳng khác nào vạn quân xông trận. Thầy Hữu lúc đó lấy hết sức bình sinh đạp tung cánh cửa ngách đã mục rũa vốn chỉ để làm ranh giới giữa thổ đất nhà tôi cùng với khu đất hoang phía bên cạnh. Cánh cửa vừa bật ra thì có một vật sắc lẹm từ phía ngoài bay vào cắt ngang vai thầy Hữu. Tức khắc, thầy Hữu nghiêng mình tránh sang một bên, miệng quát lớn,

-Ám khí có trục vong phù

Lúc đó, bố tôi đương đứng phía sau vì không phản ứng kịp nên lập tức bị đả thương đoạn phía bả vai. Mẹ tôi ở ngay kế bên chứng kiến cảnh tượng đó thì chỉ la lên một tiếng "anh Đại" rồi tay cầm lệnh kỳ lao thẳng ra bên ngoài ứng chiến. Thầy Hữu thấy vậy dơ tay toan gàn lại nhưng không kịp, mẹ tôi lao ra đến bên ngoài thì tức khắc bị quật ngã ngay xuống dưới đất không rõ nguyên do. Bấy giờ, tiếng nam nhân từ bên ngoài mới vọng về chỗ mấy người chúng tôi,

-Ta hiệu Tử Thanh, phụng sự ủy thác của thân phụ hành đạo trên đất Lạng Sơn trước lúc lâm trung có dặn dò đi thu thập tà quỷ Xích Diệm cùng hai tùy tùng. Năm xưa do thân phụ ta tu luyện tà đạo tác hại nhân sinh nên tới lúc cuối đời muốn được chuộc lại sai lầm, đạo hữu và mấy người không nên có sự can dự. Hơn nữa, dựa vào mấy người thôi thì không thể phá được "Vạn vong quỷ trận" của tại hạ đâu.

Giọng nói của người này cương nghị, dứt khoát, lông mày tựa hùm hổ, mắt sáng bỳ long châu, tướng mạo phi phàm chẳng khác nào bậc kỳ nhân tái thế. Thầy Hữu đến đây cũng sững người mà thốt lên,

-Quả là kỳ tài xuất thiếu niên, đoán trước được Hữu đây sẽ xông ra từ cửa Bắc, thật bội phục. Nhưng tiếc cho chàng thanh niên khi Xích Diệm tráo trở kỳ cùng đã bị cậu bé này một tay dùng pháp khí đánh cho hồn siêu phách lạc, còn hai người tùy tùng là Miên và Đại đã được ta an bài đi tu tập tại cửa ông Hoàng Bảy Bảo Hà. Cậu ắt hẳn là con trai của người năm xưa tới đây xem phong thủy trên thổ đất của gia chủ này có đúng không?

Chàng thanh niên cười phá lên rồi tiếp lời thầy Hữu ngay,

-Quả đúng là như vậy, nhưng hãy khoan nói về việc huyết thống của tại hạ. Đạo Hữu ngẫm thử xem, thiên có thiên điều, âm có âm quy, nếu như vong linh nào cũng được tạo điều kiện đi tu tập tại cửa tiên thánh thì thử hỏi xem âm quy có còn nghiêm ngặt, luật lệ còn có ai kinh. Xét về nhiều phương diện thì cho dù là Xích Diệm tuy đã hồn tiêu phách tán, nhưng hai vong linh Miên Đại vẫn phải xuống cõi âm để quỷ thần hai vai luận tội xét xử, chưa nói đến quỷ kế đa đoan, không biết chừng cho đi tu tập lại trốn khỏi cửa tiên thánh mà hạ sơn tác quái. Người hành đạo như chúng ta đáng lẽ phải hiểu rõ điều này hơn ai hết, dẫu biết rằng đạo hữu muốn tu tích âm đức nhưng đây vốn là việc làm ảnh hưởng tới vòng lặp luôn hồi, phá đi sự tôn nghiêm của tam giới. Mong đạo hữu hãy hiểu cho.

Thầy Hữu lặng người, tâm can lúc bấy giờ chắc hẳn là rối ren lắm. Không ngờ một người trẻ tuổi như vậy mà lại nắm rõ được âm quy, luật lệ, tinh thông vạn sự đến ngọn ngành. Chưa kể là đạo pháp phải cao hơn bản thân thầy Hữu đến vài bậc. Tình thế lúc này tiến thoái lưỡng nan, thầy Hữu phần cũng muốn xuôi theo ý của Tử Thanh, phần cũng muốn giúp cô Miên và anh Đại được tòng tâm, nhưng kỳ thực, vạn sự đúng là bất cầu nhân, lời nói của chàng thanh niên Tử Thanh quả thật không ngoa. Ngay khi thầy Hữu sờ tay xuống rút ám khí ra khỏi bả vai của bố tôi thì vội vàng hô lớn,

-Vong linh của Đại trốn rồi.

Chàng thanh niên không đáp mà tức thì vòng một tay ra phía sau rút ra thanh mộc kiếm, một tay cầm thứ gì đó có họa hình tựa như ấn tín, miệng hô lên câu chú ngữ,

-Khiển sai âm tướng, thông phán âm dương, thông linh thần tuệ, thỉnh chầu sai nha.

Bấy giờ, cuồng phong cuồn cuộn nổi lên, trong mịt mùng cát bụi, người ta có thể thấy được hình ảnh lờ mờ của hai bóng người y phục hắc bạch, khuôn mặt nhăn nheo ủ rũ,một người thì cao gầy, tay cầm thiết trượng, một người thì béo, lùn, tay cầm nan phiến. Hai người này thoắt cái đã tiến đến ngay sát bên cạnh chỗ mẹ tôi đang bất tỉnh. Đoạn chàng thanh niên kia đốt lên một xấp bùa rồi tung vào giữa màn đêm, ngọn lửa trên mấy tấm bùa cháy phập phồng họa ra hình nữ nhân trông thực sự là kiều diễm lắm. Chỉ trong thoáng chốc, hai người hắc bạch đã mỗi người mỗi bên, tay cầm khí giới mà áp giải nữ nhân đi về phía khoảng không vô định trong cơn bão cát, cuồng phong. Trước lúc biến mất, người nữ nhân có quay lại hướng ánh mắt không tròng về phía tôi mà đổ dòng huyết lệ, gương mặt như đang cầu khẩn điều gì đó. Thầy Hữu khi ấy thấy sự tình như vậy thì giường như hiểu ra điều gì đó nhưng lực bất tòng tâm nên chỉ cúi đầu tiễn biệt nữ nhân.

-Việc đã xong, tại hại xin được cáo lui trước, còn về anh Đại thì ắt nhân sinh đã có sự sắp đặt. Sau này mấy người chúng ta chắc chắn sẽ còn gặp lại trên ngã ba Bạch Hạc. Hẹn ngày tái ngộ.

Nói xong, người thanh niên đó dắt kiếm ra sau lưng rồi lập tức chạy ra phía ngoài đường vun vút lao đi trong màn đêm. Thầy Hữu quay sang tôi gấp gáp căn dặn vài ba câu,

-Vạn sự lúc này đã yên, nhà con đã giải được tai ách này, bố mẹ cứ để lát nữa sẽ tự tỉnh, ta phải đuổi theo người ban nãy ngay. "Nghiệp Âm" là gì, con đã hiểu được mấy phần rồi? Sau này chúng ta có duyên ắt sẽ trùng phùng.

Tôi ngẩn người chưa kịp đáp lời thì thầy Hữu đã phi thân đuổi theo chàng thanh niên nọ, bỏ mặc lại mình tôi giữa bộn bề của tâm ý. Ngay lúc ấy, chính bản thân tôi thực lòng mà nói cũng còn chưa hiểu rõ được hai chữ "Nghiệp Âm". Mọi thứ nó đến và đi một cách chóng vánh tựa hồ như cơn sóng bể. Phải chăng, tất cả những gì đã xảy ra chỉ là một giấc chiêm bao mà tôi vô tình được chọn là người mục sở thị. Thật khó để bộc bạch hết được tâm can tôi khi ấy,

- Nghiệp Âm tiền định từ muôn kiếp, nhân gian thống khổ khắp biển sâu. Cõi đời, cõi đạo âu một vẻ, tam mệnh thiếu niên xuất anh hùng.

Hết phần 1.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro