Chương 2.1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

                 

Ông già ham sách, hoá ra, tên là Christopher Lilly. Tên người cháu gái là Maud. Họ sống ở miền tây London, ngoài con đường nối tới Maidenhead, gần một ngôi làng tên Marlow, trong ngôi nhà mà ngườita gọi là Briar. Kế hoạch của Gentleman là gửi tôi đến đó một mình, bằng tàu lửa, trong vòng hai ngày. Còn anh ta phải ở lại London trong ít nhất một tuần nữa để lo việc đóng bìa các quyển sách của ông già.

Tôi không quan tâm lắm về chi tiết việc đến đó, cũng như đi tới ngôi nhà, một mình. Trước đây tôi chưa bao giờ đi về phía tây xa quá Cremorne Gardens, nơi thỉnh thoảng tôi đến cùng các cháu trai của ông Ibbs để xem khiêu vũ vào tối thứ bảy. Từ chỗ đó, tôi trông thấy cô gái Pháp băng qua con sông trên một sợi dây, suýt bị rơi – thật không thể không chú ý. Người ta nói cô ta có mang vớ dài, nhưng chân trông vẫn khá hớ hênh. Tuy vậy, tôi nhớ đã đứng trên cầu Battersea khi cô ấy bước đi trên sợi thừng, nhìn ra xa, qua cả Hammersmith, tới tất cả những vùng quê mãi ngoài kia.Chỉ thấy cây cối, những ngọn đồi, không có lấy một cái ống khói hay đỉnh chóp nhà thờ trong tầm mắt – Ui! Được thấy điều đó thật là lạnh hết cả người. Nếubấy giờ bạn bảo tôi rằng một ngày tôi sẽ rời Borough – nơi có tất cả người quen, bạn bè, cả bà Sucksby và ông Ibbs – để đơn thân độc mã lên đường trở thành người hầu ở một ngôi nhà tít bên kia những ngọn đồi tăm tối đó, thì tôi sẽ cười vào mặt bạn.

Tuy vậy, Gentleman nói tôi phải đi sớm, phòng trường hợp cô chủ – cô Lilly – có thể làm hỏng sự dàn xếp của chúng tôi, nếu vô tình nhận một cô gái khác làm người hầu. Ngày hôm sau, anh chàng đến phố Lant, ngồi viết cho cô ta một lá thư, nói rằng hy vọng cô ta thứ lỗi cho những lời tuỳ tiện từ anh chàng, nhưng anh chàng đã làm một cuộc viếng thăm đến người y tá cũ của mình – người anh ta xem như mẹ lúc còn nhỏ – và thấy bà ấy cuồng lên vì đau khổ cho số phận đứa con gái của cô em đã chết. Tất nhiên, con gái của cô em đã chết đó là tôi. Câu chuyện như sau: quý cô mà tôi hầu hạ đã kết hôn và chuyển sang Ấn Độ nên tôi bị mất việc, tôi đang tìm một cô chủ khác, đồng thời đang bị đủ thứ cám dỗ trở thành người xấu, và rằng giá như một quý cô từ tâm nào đó có thể cho tôi một cơ hội lánh xa khỏi những tội lỗi trong thành phố –vân vân và vân vân.

Tôi bèn nói, "Nếu cô ta tin vào những lời khoác lác như vậy, Gentleman, thì cô ta thậm chí còn ngốc hơn lời anh kể ban đầu."

Nhưng anh ta trả lời, rằng có khoảng một trăm cô gái từ Strand tới Piccadilly đã nhuần nhuyễn đến tuyệt vời câu chuyện đó, chuyện thường ngày ở huyện. Và rằng nếu những gã tai to mặt lớn ở Lodon còcó thể bị chia cách khỏi những đồng shilling của họ vì câu chuyện này, thì bao nhiêu kẻ khác cũng bị dính bẫy chứ, những kẻ không như Quý-cô-Maud-Lilly, cô độc, buồn bã, cạnh bên lại chẳng có ai để chỉ bảo?

"Cô sẽ thấy," anh ta nói, rồi niêm phong lá thư, ghi phương hướng và nhờ một trong số những thằng nhóc hàng xóm chạy đến bưu điện giao.

Sau đó, rất chắc chắn vào thành công của kế hoạch, anh ta nói mọi người phải ngay lập tức bắt đầu dạy cho tôi cách thức của một cô hầu gái đích thực.

Đầu tiên, họ gội đầu cho tôi. Tóc tôi lúc bấy giờ, như nhiều cô gái khác ở Borough, được chia làm ba phần, một chiếc lược gài phía sau cùng mỗi bên, với ít lọn xoăn. Nếu uốn các lọn bằng ống sắt thật nóng,trước đó làm ướt tóc bằng nước đường, sẽ có thể khiến chúng cứng hẳn lại và duy trì được một tuần, hoặc hơn. Tuy vậy, Gentleman nói rằng anh ta nghĩ kiểu đó quá phóng túng đối với một cô gái nông thôn. Anh ta bắt tôi gội đầu cho tới khi tóc thật mượt, rồi chia một lần – chỉ mỗi một lần – sau đó ghim thành búi đơn giản phía sau đầu. Anh ta cũng bắt Dainty gội tóc, rồi sau khi tôi đã chải đi chải lại tóc mình, ghim tới ghim lui đến khi anh ta hài lòng, thì anh ta bắt tôi chải và búi tóc của Dainty theo kiểu giống như vậy, giả vờ rằng tóc của con nhỏ là tóc cô chủ, cô Lilly. Anh ta bắng nhắng xung quanh hệt một cô gái tầm phào. Khi đã xong xuôi, Dainty lẫn tôi đều trông rất thường, mặt như miếng thịt muối, đến mức xin vào tu viện hẳn cũng được nhận. John tuyên bố nếu người ta đặt ảnh chúng tôi ở trại sản xuất bơ thì sẽ có phương pháp mới để làm vón sữa.

Nghe vậy, Dainty giật ghim cài ra khỏi tóc, ném nó vào lửa. Vài sợi tóc vẫn còn bám trên đó bị lửa nướng kêu xèo xèo.

"Mày không thể làm gì khác với con nhỏ của mày hả," ông Ibbs nói với John, "ngoài việc làm nó khóc?"

John bật cười. "Tôi thích nhìn nó khóc," thằng nhóc trả lời. "Việc đó ít làm nó ít đổ mồ hôi hơn."

Thật là một thằng nhóc đểu cáng.

Nhưng dù vậy, nó vẫn rất bị lôi cuốn vào vở kịch của Gentleman. Tất cả chúng tôi đều như thế. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến ông Ibbs kéo màn che xuống cửa ra vào cửa hàng và để mặc bếp than nguội lạnh. Khi người ta lui tới để cắt chìa khoá, ông đuổi họ đi. Với hai hay ba tên trộm mang chiến lợi phẩm tới, thì ông lắc đầu.

"Không làm việc đó được, con trai. Không phải hôm nay. Có vài thứ đang phải lo."

Ông chỉ cho gọi Phil đến, vào sáng sớm. Bảo hắn ngồi xuống, giảng cho hắn một lượt các thứ trong danh sách mà Gentleman đã thảo vào đêm trước. Sau đó, Phil kéo chiếc nón kếp che xuống mắt rồi rời đi. Hai giờ sau, lúc quay lại, gã mang theo một chiếc túi cùng chiếc vali bọc vải bạt – lấy được từ một tên quản một cái nhà kho mờ ám ở sông mà gã quen.

Vali là để tôi mang theo đến vùng nông thôn. Trong túi có một cái váy vải nâu tầm cỡ tôi, áo choàng, giày, vớ dài bằng lụa đen, và trên hết, là một đống các thứ nội y trắng thực thụ của một quý cô.

Ông Ibbs chỉ tháo sợi dây nơi miệng túi, liếc vào, trông thấy vải lanh, rồi đi lại ngồi ở phía xa căn bếp, nơi có cái khoá Bramah mà ông thích tháo ra, rắc bột, rồi ráp lại. Ông bắt John đi cùng và giữ mấy cái ốc vít. Còn Gentleman lấy ra các thứ dành cho quý cô, từng món một, đặt tươm tất lên bàn. Cạnh bàn, anh ta đặt một cái ghế.

"Nào, Sue," anh ta nói, "giả sử cái ghế này là cô Lilly. Cô sẽ mặc áo cho cô ấy thế nào? Xem như cô bắt đầu với vớ dài và quần chẽn."

"Quần chẽn hả?" Tôi hỏi. "Không phải anh có ý nói là cô ta trần truồng đó chứ?"

Dainty đưa tay lên miệng cười khúc khích. Nó đang ngồi dưới chân bà Sucksby để uốn lại tóc.

"Trần truồng?" Gentleman đáp. "Chà, trần như nhộng. Chứ còn làm sao nữa? Cô ta phải cởi quần áo ra khi chúng dơ, phải cởi ra để tắm. Công việc của cô là nhận lấy chúng khi cô ta làm điều đó. Công việc của côlà đưa quần áo sạch cho cô ta."

Tôi đã không nghĩ đến điều này. Không biết sẽ như thế nào khi đứng đưa quần chẽn cho một cô gái lạ không được che chắn. Từng có một cô gái lạ, chạy dọc theo phố Lant, trên người không một mảnh vải, la thét, một cảnh sát và một y tá rượt phía sau. Giả sử cô Lilly bị hoảng sợ như thế, còn tôi phải tóm cô ta lại? Tôi đỏ mặt, Gentleman trông thấy. "Thôi nào," anh ta cười mỉm một chút. "Đừng nói là cô đang hãi đấy nhé?"

Tôi hất đầu, để cho thấy không phải như vậy. Anh ta gật, cầm lên một cặp vớ dài, rồi đến quần chẽn, ddoạn vắt chúng lủng lẳng trên chỗ ngồi của chiếc ghế.

"Tiếp theo là gì?" Anh ta hỏi tôi.

Tôi nhún vai. "Áo lót, chắc vậy."

"Cô phải gọi đó là áo trong," anh ta nhắc. "Và cô phải bảo đảm nó được làm ấm trước khi cô chủ mặc vào."

Anh ta cầm chiếc áo lót, đưa nó lại gần bếp lửa. Rồi cẩn thận đặt nó lên trên quần chẽn, trên lưng ghế, như thể cái ghế đang mặc thứ đó vậy.

"Nào, giờ đến áo nịt của cô ta," anh ta nói tiếp. "Cô ta sẽ muốn cô thắt nó giúp, càng chặt càng tốt. Nào, cô làm thử cho tôi xem."

Anh ta đặt áo nịt quanh áo lót, các dây xỏ ở phía lưng áo. Và trong lúc nghiêng người trên ghế để giữ chặt thứ đó, anh ta kêu tôi kéo các dây xỏ, thắt thành nơ bướm. Chúng hằn những lằn đỏ và trắngtrên lòng bàn tay tôi, như thể đã bị roi quất vậy.

"Sao cô ta không mặc loại có dây buộc phía trước, giống như một cô gái bình thường ấy?" Dainty hỏi trong lúc quan sát.

"Bởi vì khi đó," Gentleman đáp, "cô ta sẽ chẳng cần đến người hầu làm gì. Và nếu không cần người hầu, thì cô ta sẽ chẳng biết rằng mình là một quý cô. Há?" Anh ta nháy mắt.

Sau áo nịt là áo ngoài, tiếp đến là sơ mi giả, rồi yếm giả, thêm váy phồng có chín vòng, đến váy lót, lần này bằng lụa. Rồi Gentleman sai Dainty chạy lên tầng trên lấy một chai nước thơm của bà Sucksby, nói tôi xịt lên chỗ gỗ vỡ của lưng ghế, lộ ra giữa các chiếc nơ của áo lót. Anh ta bảo chỗ đó là yết hầu của cô chủ Lilly.

Và suốt trong lúc làm những việc này, tôi phải nói:
"Thưa, cô giơ tay lên ạ, để tôi vuốt thẳng nếp gấp." Hoặc, "Cô muốn như thế nào ạ, xếp nếp hay viền ren?" Hoặc, "Cô đã sẵn sàng chưa ạ?"
"Cô có muốn thắt chặt không?"
"Cô có muốn chặt hơn không?"
"Ôi! Xin thứ lỗi nếu tôi làm cô đau."

Cuối cùng, với tất cả những màn khom lưng uốn gối và nhặng xị, tôi nóng hừng hực như một con lợn. Cô chủ Lilly ngồi trước mặt chúng tôi – áo nịt đã thắt chặt, xoè phủ xuống sàn, thơm tho như một hoa hồng –nhưng tất nhiên, là khá trống trải ở vùng vai và cổ.

John lên tiếng, "Cô ta ít nói quá hả?" Suốt nãy giờ thằng nhóc liên tục liếc trộm chúng tôi, trong lúc ông Ibbs rắc bột vào cái khoá Bramah.

"Một quý cô cơ mà," Gentleman vuốt râu, "và bản chất nhút nhát nữa chứ. Nhưng cô ta sẽ thích ứng thôi, với Sue bên cạnh và sự dạy dỗ của tôi. Phải không, em yêu?"

Anh ta ngồi xổm bên chiếc ghế, vuốt ve những ngón tay lên chỗ phồng của váy áo, rồi cho tay xuống, lần lên cao dần bên dưới các lớp lụa. Anh ta làm việc đó gọn gàng đến nỗi, tôi đinh ninh anh ta đang tỏ tình rồi đấy. Lần lên cao hơn thì má anh ta ửng hồng, vải lụa kêu sột soạt, chiếc sơ mi giả bung ra, cái ghế rung bần bật trên sàn bếp, các khớp nối chân ghế rên rỉ khe khẽ. Rồi nó nằm im re.

"Đấy, đồ lẳng lơ nhỏ bé ngọt ngào," anh ta nói nhẹ nhàng. Rút tay ra khỏi túi, giơ một chiếc vớ dài ra đưa cho tôi, đoạn anh ta ngáp. "Giờ thì, xem như đến giờ ngủ."

John vẫn còn nhìn chúng tôi, chẳng nói lời nào, chỉ chớp mắt và ngọ nguậy hai chân. Dainty dụi mắt, tóc đã uốn được phân nửa, nồng mùi kẹo bơ.

Tôi bắt đầu với những chiếc nơ nơi eo áo sơ mi giả, nới các dây buộc của áo nịt rồi tháo hẳn chúng ra.

"Cô nhấc chân lên ạ, để tôi cởi thứ này ra."
"Cô thở nhẹ hơn một chút ạ, sẽ xong ngay."

Anh ta bắt tôi làm đủ thứ như thế trong ít nhất một giờ nữa. Rồi anh ta hơ nóng cái bàn là.

"Nhổ lên đây, được không Dainty?" Anh ta giơ nó cho con bé. Con bé làm theo, và khi vệt nhổ kêu một tiếng 'xèo' thì anh ta lấy ra một điếu thuốc, châm lửa từ bề mặt nóng rực của bàn là. Rồi trong lúc anh ta đứng hút thuốc, bà Sucksby – người lúc xưa, trước cả khi nghĩ đến chuyệ nmở trại trẻ, đã từng làm nhân viên vắt trong một tiệm giặt – chỉ tôi cách ủi và gấp các thứ bằng vải lanh của một quý cô. Việc đó, tôi phải nói, tốn thêm một giờ nữa.

Rồi Gentleman bảo tôi lên tầng trên để mặc chiếc váy Phil đã lấy cho. Một chiếc váy nâu đơn giản, ít nhiều tương tự màu tóc tôi. Các bức tường trong bếp cũng nâu, khi trở xuống tôi gần như khó mà được ai trông thấy. Tôi muốn một cái đầm xanh lơ hơn, hoặc là tím violet, nhưng Gentleman nói đây là chiếc váy hoàn hảo cho kẻ trộm hoặc người hầu – thế nên càng hoàn hảo hơn cho tôi, kẻ sắp đến Briar để làm cả hai công việc đó.

Nghe vậy, chúng tôi cười phá lên. Khi tôi đi quanh phòng để làm quen với chiếc váy – nó hơi chặt – và để Dainty trông thấy những chỗ cắt quá lớn cần được đính lại, anh ta bắt tôi đứng lại thử nhún người chào. Việc này khó hơn chỉ nói bằng miệng. Nếu có điều gì để thích thú trong cuộc sống quen thuộc của tôi, thì đó là việc tôi không có ông chủ cô chủ nào cả. Tôi chưa bao giờ phải nhún người chào một ai. Giờ thì Gentleman bắt tôi nhún lên nhún xuống đến khi tôi nghĩ mình sắp phát bệnh tới nơi. Anh ta nói việc nhún người chào là điều rất tự nhiên đối với người hầu của một quý cô,cũng giống như gió thổi qua vậy. Anh ta nói chỉ cần tôi nắm được cái trò này, thì sẽ không bao giờ quên – ít nhất thì anh ta đúng về điều đó, đến tận bây giờ tôi vẫn có thể nhún chào một cách chuẩn mực. Có thể, nếu tôi màng đến việc làm chuyện đó.

Sau khi hoàn tất với việc nhún chào, anh ta bắt tôi học câu chuyện của mình. Rồi để kiểm tra, anh ta bắt tôi đứng trước mặt, lặp lại những phần của mình, hệt một con bé trả bài giáo lý.

"Xem nào," anh ta nói. "Cô tên là gì?"

"Chẳng phải là Susan sao?" Tôi hỏi lại.

"Cái gì, 'chẳng phải là Susan sao'?"

"Chẳng phải là Susan Trinder sao?"

"Chẳng phải là Susan sao, thưa ngài. Cô phải nhớ, ở Briar, tôi không phải Gentleman. Tôi sẽ là ông Richard Rivers. Cô phải gọi tôi là ngài, phải gọi ông Lilly là ngài, còn các quý cô thì gọi bằng cô, cô Lilly, hoặc cô Maud, tuỳ cách cô ta hướng dẫn cô. Còn tất cả chúng tôi sẽ gọi cô là Susan." Anh ta cau mày. "Nhưng, không thể là Susan Trinder được. Như vậy nếu hỏng việc, họ sẽ tìm đến phố Lant. Chúng ta phải tìm cho cô một cái họ tốt hơn–"

"Valentine," tôi nói thẳng luôn. Còn có thể nói được gì đây? Tôi chỉ mới mười bảy tuổi. Trái tim tôi cũng biết rung rinh. Gentleman nghe thấy, bèn cong môi.

"Hoàn hảo," anh ta nói, "nếu như chúng ta sắp tung cô lên sân khấu."

"Tôi biết những cô gái tên Valentine thật mà!" Tôi nói.

"Đúng vậy," Dainty nói. "Floy Valentine và hai người chị em của nó. Nhưng lạy Chúa, tôi ghét mấy đứa đó. Cô không phải muốn lấy tên giống chúng chứ, Sue?"

Tôi cắn ngón tay. "Có lẽ vậy."

"Chắc chắn là không được rồi," Gentleman nói."Một cái tên hoa mỹ có thể huỷ hoại chúng ta. Đây là phi vụ sinh tử. Chúng ta cần một cái tên có thể che giấu cô, chứ không phải khiến cho mọi người chú ý. Chúng ta cần một cái tên–" Anh ta nghĩ ngợi tới lui, "một cái tên không thể bị theo dấu, nhưng khiến mọi người nhớ... Brown? Để hợp với cái váy của cô chăng? Hay là – đúng rồi, sao lại không chứ? Gọi là Smith đi. Susan Smith." Anh ta mỉm cười. "Đằng nào cô cũng sẽ là một dạng thợ còn gì. Kiểu này này."

Anh ta buông thõng tay, xoay nó, rồi cong ngón giữa. Dấu hiệu đó, cái từ anh ta muốn nói đến – fingersmith, th khoắng – là dấu hiệu của một tên trộm ở Borough. Chúng tôi lại phá ra cười.

Cuối cùng, anh ta ho vài tiếng, quệt mắt. "Ôi chà, vui thật," anh ta nói. "Nào, chúng ta đến đâu rồi? À đúng rồi. Nói lại cho tôi nghe, tên cô là gì?"

Tôi trả lời, thêm 'thưa ngài' vào cuối câu.

"Tốt lắm. Nhà cô ở đâu?"

"Nhà tôi ở London, thưa ngài," tôi đáp. "Mẹ tôi đã chết, tôi ở với dì đã già, chính là người từng làm y tá cho ngài khi ngài còn nhỏ, thưa ngài."

Anh ta gật đầu. "Các chi tiết đều rất tốt. Nhưng chưa thật tốt, về cách thức. Nghe này, tôi biết bà Sucksby nuôi dạy cô tốt hơn thế. Cô không phải đang đi bán hoa violet. Nói lại đi."
Tôi cau mặt, nhưng cũng nói lại, thận trọng hơn.
"Người từng làm y tá cho ngài khi ngài còn nhỏ, thưa ngài."
"Tốt hơn, tốt hơn rồi. Trước đây, hoàn cảnh cô thế nào?"
"Tôi sống với một quý cô tốt bụng, thưa ngài, ở Mayfair. Về sau cô ấy kết hôn và sắp chuyển đến Ấn Độ. Cô ấy sẽ có một hầu gái người địa phương để giúp việc phục sức nên không cần tôi nữa."
"Ôi trời. Cô thật đáng thương, Sue.
"Thật vậy, thưa ngài."
"Cô có biết ơn cô Lilly vì đã nhận cô tới Briar không?"
"Ôi, thưa ngài! Việc đó đâu cần biết ơn!"
"Lại violet!" Anh ta phẩy tay. "Không sao, nói vậy cũng được. Nhưng đừng nhìn vào mắt tôi mạnh dạn quá, hiểu không? Này, thay vào đó, nhìn giày tôi ấy. Tốt. Giờ, nói tôi nghe. Cái này quan trọng đây. Nhiệm vụ của cô là gì khi phục vụ cô chủ mới?"
"Tôi phải đánh thức cô ấy vào buổi sáng," tôi nói, "rót trà cho cô ấy. Phải tắm rửa cho cô ấy, vận trang phục, chải tóc cho cô ấy. Tôi phải giữ các trang sức của cô ấy gọn gàng, không trộm chúng. Tôi phải đi cùng khi cô ấy có nhã hứng đi dạo, ngồi cùng khi cô ấy thích ngồi. Tôi phải mang quạt phòng khi cô ấy quá nóng, áo choàng phòng khi lạnh, mangeau-de-Cologne phòng khi cô ấy nhức đầu, và thuốc cho những lúc cô ấy bỗng nhiên khó ở. Tôi phải làm người kèm cặp cô ấy tại các buổi học vẽ, không được nhìn khi cô ấy đỏ mặt."
"Xuất sắc! Phẩm chất cô phải thế nào?"
"Minh bạch như mặt trời."
"Còn mục đích của cô là gì, điều không ai khác ngoài chúng ta được biết?"
"Làm cô ấy yêu ngài, rời bỏ ông bác vì ngài. Giúp cô ấy có được tài sản cho ngài, và ngài, ngài Rivers, sẽ có tài sản cho tôi."

Tôi nâng váy, cho anh ta thấy một trong những động tác nhún người chào nhuần nhuyễn đó, mắt luôn nhìn nơi mũi giày anh ta.

Dainty vỗ người tôi. Bà Sucksby xoa tay với nhau và nói, "Ba ngàn bảng, Sue. Ôi! Dainty, đưa ta một đứa nhỏ, ta muốn có cái gì đó để ôm thật chặt."

Gentleman bước sang bên, châm một điếu thuốc."Không tệ," anh ta nói. "Không tệ chút nào. Tạm thời, tôi nghĩ, chỉ cần thanh lịch thêm một chút. Chúng ta sẽ thử lại sau."

"Sau?" Tôi nói. "Trời đất, Gentleman, anh chưa xong với tôi nữa sao? Nếu cô Lilly chịu nhận tôi làm hầu gái vì muốn làm anh vui lòng, thì việc gì cô ta phải bận tâm rằng tôi tốt lành đến cỡ nào?"

"Cô ta thìsẽ không bận tâm," anh ta trả lời. "Tôi nghĩ chúng ta còn có thể đeo tạp dề cho Charley Wag và gửi nó đi, cô ta cũng chẳng bận tâm thắc mắc gì. Nhưng cô không phải chỉ cần lừa mỗi mình cô ta. Còn có lão già, ông bác cô ta, ngoài ra là cácngười hầu của ông ta nữa."

Tôi nói, "Người hầu của ông ta?" Tôi chưa tính đến việc đó.

"Tất nhiên," anh ta nói. "Cô nghĩ một cái nhà to như vậy tự nó xoay sở hả? Trước tiên là người tổng quản, ông Way–"

"Ông Way!" John khịt mũi cười. "Người ta có gọi ông ấy là Milky không?"

"Không," Gentleman đáp. Anh ta quay trở sang tôi. "Ông Way," anh ta lại nói. "Tuy nhiên, tôi có thể nói ông ta sẽ không làm phiền cô nhiều. Nhưng còn có bà Stiles, người quản gia – bà ấy có thể săm soi cô kỹ hơn một chút, cô phải cẩn thận với bà ta. Rồi có thằng nhóc của ông Way, Charles, và tôi đoán là một hai đứa con gái làm mấy việc bếp núc, một hai cô hầu bàn, mấy người chăm ngựa, thằng nhóc giữ ngựa, mấy người làm vườn. Nhưng cô sẽ không gặp họ nhiều, nên đừng bận tâm."

Tôi kinh hãi nhìn anh ta. Tôi nói, "Lúc trước anh chưa từng nhắc tới họ. Bà Sucksby, anh ta có nói về họ không? Anh ta có nói, rằng sẽ có cả trăm người hầu khác mà tôi phải diễn vai người hầu cho xem?"

Bà Sucksby đang bế một đứa bé, đu đưa như thể ẵm tiền. "Công bằng đi nào, Gentleman," bà nói, không hề nhìn sang. "Tối qua cậu chẳng nói năng gì đến mấy người giúp việc kia."

Anh ta nhún vai. "Tiểu tiết thôi," anh ta nói.

Tiểu tiết hả? Đúng là anh ta mà. Kể nửa câu chuyện và suy diễn rằng người ta đã biết hết.

Nhưng đã quá trễ để đối ý. Ngày hôm sau Gentleman lại bắt tôi luyện tập mệt đừ, đến hôm sau nữa thì anh ta nhận được một lá thư, từ cô Lilly.

Anh ta nhận nó tại bưu điện trong thành phố. Nếu chúng tôi có thư đưa tới tận nhà, hàng xóm sẽ thắc mắc đang có chuyện gì. Anh ta nhận nó, mang về, mở ra trong lúc chúng tôi ngó nghiêng. Rồi chúng tôi ngồi yên lặng, để nghe đọc lá thư – ông Ibbs chỉ nhịp ngón tay một chút trên mặt bàn, điều đó cho thấy ông đang hồi hộp, khiến tôi lại càng hồi hộp hơn.

Lá thư khá ngắn. Trước tiên, cô Lilly nói, rằng rất vui khi nhận được thư của ngài Rivers. Rằng ngài thật tốt bụng, ân cần đối với người y tá cũ. Cô ta chắc chắn, mình mong muốn có nhiều hơn những quý ông tốt bụng, ân cần như anh ta!

Cô ta nói ông bác trở nên cực khó gần khi người phụ tá của ông giờ đã đi mất. Căn nhà có vẻ khác đi nhiều, tĩnh lặng, buồn chán, có lẽ do thời tiết đang chuyển đổi. Về người hầu gái – đến đây Gentleman nghiêng lá thư, để bắt được nhiều ánh sáng hơn. Về người hầu gái, Agnes đáng thương, cô rất vui được báo với anh ta rằng Agnes trông đã ổn, đàng nào cũng sẽ không chết.

Nghe đến đó, chúng tôi hít một hơi sâu. Bà Sucksby nhắm mắt, và tôi thấy ông Ibbs liếc nhìn cái lò than lạnh tanh, cộng gộp những phi vụ ông bỏ lỡ trong hai ngày qua. Nhưng rồi Gentleman mỉm cười. Cô hầu gái sẽ không chết, nhưng sức khoẻ cô ta bị tổn hại rất nhiều, tinh thần rất tệ, họ sắp gửi trả cô ta về Cork.

"Chúa phù hộ cô ả Ai-len đó!" Ông Ibbs nói, rút khăn tay ra lau đầu. Gentleman tiếp tục đọc.

"Tôi sẽ rất vui được gặp cô gái anh đã nhắc đến," cô Lilly viết. "Tôi sẽ rất vui nếu anh gửi cô ấy đến chỗ tôi, ngay tức khắc. Tôi cảm kích bất kỳ ai nhớ đến mình. Tôi chưa thật quen với việc người khác nghĩ đến sự an nhàn của tôi. Nếu cô ấy là một cô gái tốt và dễ bảo, thì tôi chắc chắn sẽ yêu mến cô ấy. Ông Rivers, tôi sẽ càng yêu mến cô ấy hơn, vì cô ấy sẽ đến gặp tôi từ London – nơi có anh."

Anh ta lại mỉm cười, nâng lá thư lên miệng, đưa tới đưa lui trên môi. Chiếc nhẫn rởm của anh ta phát vài tia lấp lánh từ ánh sáng nơi những chiếc đèn.

Hẳn nhiên, mọi thứ đã diễn biến hệt như sự hứa hẹn của gã quỷ tinh ranh.

Đêm đó – sẽ là đêm cuối cùng của tôi tại phố Lant, và đêm đầu tiên trong số tất cả những đêm dẫn đến việc bảo đảm cho Gentleman có được tài sản của cô Lilly. Hôm đó, ông Ibbs đem ra một bữa thịt nướng cho buổi tối, đun nóng mấy que sắt trong đám lửa hòng làm rượu đánh trứng, để ăn mừng.

Bữa tối là một cái đầu lợn được nhồi nơi tai –một món ưa thích của tôi, được chuẩn bị vì tôi. Ông Ibbs mang con dao cắt thịt ra bậc cửa sau, xắn tay áo, rồi khom xuống mài sắc lưỡi dao. Ông nghiêng người,bchống tay lên bệ cửa, tôi quan sát ông với cảm giác lạ lùng lan khắp các lỗ chân lông. Dọc trên chiếc cột ở chỗ đó là những vết cắt mà vào mỗi ngày Giáng sinh, khi tôi còn là một cô bé, ông lại đặt con dao lên đầu tôi để xem tôi đã cao thêm được bao nhiêu. Bây giờ ông miết lưỡi dao tới lui trên hòn đá, đến khi nó phát ra loạt âm thanh vui vẻ, rồi đưa cho bà Sucksby để chia thịt vào đĩa.bTrong căn nhà của chúng tôi, bà luôn luôn là người cắt thịt. Hai chiếc tai, mỗi cái cho ông Ibbs và Gentleman, mũi cho John và Dainty, còn hai má – những phần mềm nhất – cho chính bà và tôi.

Tất cả, như đã nói, là vì tôi. Nhưng tôi cũng không biết nữa. Có thể do thấy các vệt khắc nơi cột cửa, có thể do nghĩ đến món súp bà Sucksby sẽ nấu khi tôi không hiện diện để ăn, cùng với xương của chiếc đầu lợn nướng, hay có thể do chính cái đầu đó, trông nó như đang nhăn nhó, lông mi và lông mũi của nó quện nâu bởi thứ nước mắt làm bằng đường, nhưng khi mọi người ngồi quanh bàn, tôi thấy buồn. John và Dainty ngấu nghiến bữa tối của chúng, cười ha hả, cãi nhau, thỉnh thoảng lại nổi giận đùng đùng khi bị Gentleman trêu chọc, thỉnh thoảng lại hờn dỗi. Ông Ibbs dùng phần của mình thật gọn gàng, bà Sucksby dùng phần của mình thật gọn gàng. Còn tôi săm soi miếng thịt lợn của mình, cảm thấy chẳng có chút khẩu vị nào.

Tôi cho Dainty phân nửa. Nó đưa cho John. Thằng nhỏ gõ hai hàm răng với nhau lách cách và tru lên, hệt một con chó.

Rồi thì, khi tất cả đĩa đã sạch sẽ, ông Ibbs đập trứng, cho đường vào rum để làm rượu đánh trứng. Ông rót đầy bảy ly, lấy mấy que thép từ lò lửa, vẫy chúng một giây để không còn nóng rẫy, rồi nhúng vào. Làm nóng rượu đánh trứng cũng giống như châm lửa vào rượu brandy trên một cái bánh pudding mận – mọi người đều muốn trông thấy quá trình, lắng nghe tiếng lèo xèo của món uống. John nói, "Tôi làm một cái được không, ông Ibbs?" Mặt nó đỏ bừng vì bữa khuya, sáng bóng như tranh vẽ, như khuôn mặt của một thằng bé trong hình ở cửa sổ một tiệm đồ chơi.

Chúng tôi ngồi, mọi người trò chuyện, cười đùa, nói rằng thật hay ho ra sao khi Gentleman trở nên giàu có, và sẽ tôi quay về với ba ngàn đồng tuyệt vời. Nhưng tôi vẫn im lặng, dường như chẳng ai chú ý cả. Cuối cùng, bà Sucksby vỗ bụng nói,
"Ông giúp mọi người một bài được không, ông Ibbs, để dỗ bọn trẻ ngủ?"

Ông Ibbs có thể huýt sáo hệt một cái ấm đun, trong suốt một giờ không nghỉ. Ông đặt ly của mình sang bên, quệt rượu trứng trên râu mép, rồi bắt đầu bằng bài 'Chiếc áo khoác Tarpaulin.' Bà Sucksby ngâm nga theo đến khi hai mắt ướt nước, và tiếng ngâm nga đứt quãng. Chồng bà từng là một thuỷ thủ, đã lạc mất trên biển. Ý tôi là, lạc mất đối với bà. Ông ta sống ở Bermudas.

"Hay tuyệt," bà nói khi bài hát chấm dứt. "Nhưng tiếp theo hãy thổi bài nào sôi động đi, lạy trời! Không thì tôi sẽ trở nên uỷ mị mất. Hãy xem mấy đứa nhỏ nhảy nhót một chút."

Ông Ibbs bèn chuyển sang một điệu nhanh, bà Sucksby vỗ tay, John và Dainty đứng dậy, đẩy ghế ra sau. "Bà giữ khuyên tai dùm con được không, bà Sucksby?" Dainty nói. Chúng nhảy điệu polka đến tận khi các thứ trang trí bằng gốm trên bệ lò sưởi nảy theo, bụi bay lên cả tấc dưới đôi chân giậm huỳnh huỵch của chúng. Gentleman ngồi, nghiêng người nhìn chúng, vừa hút một điếu thuốc và kêu "Hup!" hoặc "Được đó, Johny!" theo cách anh ta sẽ gọi, cười với một con chó săn trong trận đấu mình không đặt cược.

Khi họ gọi tôi nhập cuộc, tôi từ chối. Bụi bặm khiến tôi hắt xì, và xét cho cùng, que sắt dùng làm nóng rượu trứng của tôi đã được đun nóng quá, trứng bị đông lại. Bà Sucksby đã chừa một ly cùng một đĩa thịt vụn cho em gái ông Ibbs, tôi nói mình sẽ mang chúng lên. "Được thôi, con yêu," bà nói, vẫn đang vỗ tay theo nhịp. Tôi cầm cái đĩa, ly cùng một chiếc đèn cầy, lỉnh lên tầng trên.

Tựa như bước khỏi thiên đường vậy, tôi luôn nghĩ, khi rời căn bếp vào một đêm đông. Cho dù vậy, sau khi để thức ăn lại cạnh người em đang ngủ của ông Ibbs và đi thăm một hai đứa bé đã tỉnh ngủ vì tiếng nhảy múa bên dưới, tôi cũng không trở lại cùng những người khác. Tôi vào lối đi nhỏ dọc đầu cầu thang, đến cửa căn phòng đã chia sẻ cùng bà Sucksby, rồi lên chiếc cầu thang tiếp theo, đến căn gác mái nhỏ nơi mình đã được sinh ra.

Căn phòng luôn luôn lạnh. Đêm nay có gió, cửa sổ đã bị long ra, và nó còn lạnh hơn bao giờ hết. Sàn làm bằng ván trơn, có những mảnh dạ thô bên trên. Tường trơ trụi, ngoại trừ một ít vải dầu màu xanh dương được đính vào để ngăn nước từ một cái chậu tắm. Chiếc chậu tắm, lúc này, đang bị trùm lên bởi một cái sơ mi, của Gentleman, và một hoặc hai cái cổ áo. Anh ta luôn luôn ngủ ở đây mỗi khi đến thăm, dù vẫn có thể cùng ông Ibbs làm một chiếc giường ở dưới bếp. Tôi biết mình sẽ chọn chỗ nào. Đôi giày ống da của anh ta nằm rũ trên sàn – đã được anh ta cạy sạch bùn và chùi bóng loáng. Cạnh đó là túi xách cùng vải lanh ló ra. Trên một chiếc ghế có vài đồng xu từ túi anh ta, một gói thuốc, và sáp niêm phong. Những đồng xu khá nhẹ. Chỗ sáp rất giòn, như kẹo bơ vậy.

Chiếc giường được làm một cách sơ sài. Bên trên có một tấm màn nhung đỏ, khuyên đã được lấy ra, dùng làm khăn phủ giường. Nó được lấy từ một căn nhà bị cháy, vẫn còn mùi xỉ. Tôi cầm lên choàng quanh vai, như một chiếc áo khoác. Rồi tắt lửa ở đèn cầy, đến đứng cạnh cửa sổ, run rẩy, nhìn ra các mái nhà, ống khói. Nhìn Horsemonger Lane Gaol, nơi mẹ tôi bị treo cổ.

Kính cửa sổ có dính vài bông tuyết băng đầu tiên, tôi đưa ngón tay lên đó, hầu khiến băng tan chảy thành nước bẩn. Tôi vẫn có thể nghe tiếng huýt sáo của ông Ibbs và tiếng dậm chân của Dainty, nhưng phía trước mặt, Borough thật tăm tối. Chỉ lác đác đây đó một ánh đèn lập loè nơi một ô cửa sổ như ô cửa này; rồi đèn lồng của xe ngựa, ném ra những chiếc bóng đen; một người chạy thục mạng trong cái lạnh, nhanh và ám muội như những chiếc bóng, đến và đi đều nhanh như nhau. Tôi nghĩ đến tất cả những kẻ trộm có mặt ở đó, tất cả những đứa trẻ của chúng, rồi đến tất cả những người đàn ông và phụ nữ bình thường đang sống cuộc đời của họ – bình thường hoặc khác thường –trong nhà họ, trên những con phố khác, ở những phần sáng sủa hơn của London. Tôi nghĩ đến Maud Lilly, trong ngôi nhà lớn của cô ta. Ba ngày trước, cô ấy còn chưa biết tên tôi – và tôi chưa biết tên cô ấy. Cô ấy không hề biết tôi đang vạch ra vở diễn sẽ huỷ hoại cô ấy, trong lúc Dainty Warren và John Vroom nhảy điệu polka trong bếp.

Cô ấy như thế nào? Tôi từng biết một cô gái tên Maud, cô ta chỉ có nửa phần môi. Cô ta từng thích dựng lên câu chuyện rằng nửa phần môi còn lại đã bị mất trong một cuộc đánh nhau. Tuy nhiên, tôi biết sự thật là, cô ta sinh ra đã như vậy rồi, chứ cô ta mà đánh nhau nổi với ai. Cuối cùng cô ta chết – không phải vì đánh nhau, mà vì ăn phải thịt hỏng. Một miếng thịt hỏng giết chết cô ta, chỉ có thế.

Nhưng, cô ta rất đen. Gentleman đã nói rằng cô Maud này, Maud của anh ta, thì trắng trẻo và đẹp. Nhưng khi nghĩ đến cô ấy, tôi chỉ có thể hình dung cô ấy ốm, màu nâu, thẳng đờ như cái ghế trong bếp mà tôi đã thắt áo nịt cho.

Tôi thử một động tác nhún chào. Tấm màn nhung khiến tôi vụng về. Tôi thử lần nữa. Trong nỗi sợ bất chợt, tôi bắt đầu đổ mồ hôi.

Rồi tiếng cánh cửa bếp mở ra, có tiếng bước chân lên cầu thang, giọng bà Sucksby gọi tôi. Tôi không trả lời. Tôi nghe tiếng bà đi vào các phòng ngủ bên dưới, tìm kiếm tôi. Rồi yên lặng, lại có tiếng chân của bà, trên chiếc thang lên gác xép, rồi có ánh sáng từ đèn cầy của bà. Việc lên thang khiến bà thở dài tí chút – chỉ một chút thôi, vì bà tuy mập nhưng rất lanh lẹ.

"Con ở đây hả, Sue?" Bà lặng lẽ hỏi. "Một mình, trong bóng tối à?"
Bà nhìn quanh, vào tất cả những thứ tôi đãbnhìn – những đồng xu, sáp niêm phong, ủng của Gentleman, túi da. Rồi bà đến chỗ tôi, đặt bàn tay ấm và khô lên má tôi, tôi bèn nói – như thể bà đã cù hay véo tôi, và lời nói là tiếng cười hay bật thốt không thể cưỡng lại được – rằng:

"Nếu con chưa sẵn sàng cho việc này thì sao, bà Sucksby? Nếu con không thể làm được thì sao? Giả sử con mất bình tĩnh, làm bà thất vọng? Chẳng phải xét cho cùng, chúng ta định gửi Dainty đi còn gì?"

Bà lắc đầu, mỉm cười. "Nào, vậy thì," bà dẫn tôi lại giường, chúng tôi ngồi xuống, bà đỡ đầu tôi xuống đến khi nó tựa trên đùi bà, đẩy tấm màn khỏi má tôi, vuốt tóc tôi. "Nào, xem nào."

"Chẳng phải đó sẽ là một chặng đường dài sao?" Tôi ngước nhìn mặt bà.
"Không xa lắm," bà trả lời.
"Bà sẽ nghĩ về con chứ, trong thời gian con ở đó?"
Bà gỡ một lọn tóc bị vướng nơi tai tôi.
"Từng phút một," bà lặng lẽ nói. "Chẳng phải con là cô bé của ta sao? Con nghĩ ta không lo sao? Nhưng con sẽ có Gentleman bên cạnh. Lẽ ra ta không nên để con đi, vì bất cứ gã côn đồ tầm phào nào."

Ít ra, là đúng như vậy. Nhưng tim tôi vẫn đập mạnh. Tôi lại nghĩ đến Maud Lilly – ngồi thở dài trong phòng cô ta, chờ tôi đến để tháo dây buộc và giữ áo ngủ của cô ấy trước ngọn lửa. Quý cô đáng thương, Dainty đã nói thế.

Tôi cắn bên trong má. Rồi thì: "Con có nên làm việc đó không, bà Sucksby?" Tôi nói. "Đó chẳng phải một trò lừa rất ác, rất đáng khinh sao?"

Bà nhìn thẳng vào mắt tôi, rồi nhướn mắt, gật đầu về phía khung cảnh bên trên cửa sổ. Bà nói, "Ta nghĩ bà ấy sẽ làm vậy, không hề nghĩ ngợi. Và ta biết bà ấy sẽ cảm thấy gì trong tim – lo sợ, nhưng cũng tự hào, và phần tự hào trội hơn – khi nhìn những gì con đang làm."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro