Trao duyên

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

      Trong thời kì văn học trung đại, đã có rất nhiều thi nhân tạo nên những tượng đài thơ ca Việt Nam. Trong đó đại thi hào Nguyễn Du- một trong những cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du ta không thể không nhắc đến tuyệt tác của ông:Truyện Kiều là một tác phẩm được coi như kiệt tác văn chương của nhân loại, được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc, tác phẩm mang giá trị nhân đạo, giá trị nhân văn sâu sắc. Song tác phẩm này còn thành công ở giá trị nghệ thuật, nghệ thuật trong thơ đã lên đến đỉnh cao. Đoạn trích "Trao duyên" trong phần " Gia biến và lưu lạc" là mở đầu cho chuỗi ngày bất hạnh, lưu lạc của Thuý Kiều. Đặc biệt là nghệ thuật dẫn diễn tả tâm trạng nhân vật. Đây là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất về cuộc độc thoại nội tâm,đoạn thơ diễn tả nỗi đau khổ của Thúy Kiều khi trao duyên cho em gái là Thúy Vân, để nhờ Thuý Vân trả nghĩa cho Kim Trọng, người yêu của mình.
                      " Cậy em em có chịu lời
                Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"
       Duyên phận là của trời cho, không được cưỡng cầu và càng không nên ép buộc, nhờ vả. Thế nhưng Thúy Kiều đã cho mình cái đặc quyền đi " nhờ cậy"  duyên như vậy. Chỉ với hai câu thơ nhưng biết bao chua xót và dằn vặt, biết bao nước mắt và đau đớn. Từ "cậy" được đặt lên đầu câu thể giện sự khẩn khoản, van nài cùng với từ "chịu" là sức nặng của niềm tin của Kiều đến Thuý Vân, cho ta thấy được sự cảm thông của Thuý Kiều dành cho Thuý Vân.,làm tăng thêm trọng lượng của câu thơ.  Vốn dĩ Thúy Kiều là chị, sẽ không có chuyện "thưa", "lạy" Thúy Vân. Nhưng ngay từ đầu, Nguyễn Du đã để cho Kiều ở vị trí phía dưới, nàng phải chấp nhận đặt mình vào vị trí của người đi nhờ vả, van xin, chỉ với mục đích giữ trọn lời hứa của mình với chàng Kim Trọng. " Lạy- thưa" thể hiện sự trang trọng của Thuý Vân khi nhận lời và tháu độ thành khẩn của Thuý Kiều. Từ "em" được nhắc lại hai lần, đi kèm các động từ mạnh "lạy", "thưa" "cậy" mở ra một nỗi lòng chua xót, báo hiệu tương lai mịt mù, tăm tối, phải nhờ vả, dựa dẫm, mưu cầu lòng thương của người khác. Từ "em" được nhắc đến hai lần đi kèm với động tác " lạy- thưa" đã mở ra một nỗi lòng chua xót, báo hiệu một tương lai mịt mù, tăm tối trước mắt Kiều. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo đó, tình chị em được mang ra để bấu víu, cách nói khéo lé của Thuý Kiều cho thấy Vân trở thành niềm hi vọng cuối cùng của Kiều khi nàng buộc phải rời xa gia đình, thất hẹn với người yêu.
       Thúy Kiều  bày tỏ nỗi lòng mình với em gái bằng những lời chua xót, đau đớn:
                "Giữa đường đứt gánh tương tư
             Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
                  Kể từ khi gặp chàng Kim
             Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
                  Sự đâu sóng gió bất kì
             Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."
"Gánh tương tư" là quan niệm của người xưa về tình yêu nam nữ. Nó không đơn giản chỉ là tình yêu mà còn là chuyện nghĩa tình, là mối duyên tiền định. Như vậy "Đứt gánh tương tư" tức là chuyện tình yêu dang dở, tan vỡ của Thúy Kiều và Kim Trọng. Mối tình Kim – Kiều mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió đang ập đến. Kiều đau khổ, xót xa cho bi kịch tình yêu nhưng không thể làm khác được, đành trao lại mối duyên này cho em. Nàng đã mượn điển tích "keo loan" để nói lên ý định muốn nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. "Mối tơ thừa" là cách nói nhún mình của Thúy Kiều bởi nàng cảm thấy có lỗi, day dứt vô cùng khi đẩy Vân vào thế bị động như mình ép duyên "mặc em" phải nhận.
    Mặc dù đã trao duyên cho em, nhưng dường như mối tơ duyên vẫn đè nặng trong lòng Thúy Kiều. Những kỉ niệm ngọt ngào như ùa về trong lòng, nàng tâm sự cùng em:
              "Kể từ khi gặp chàng Kim
       Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
                Sự đâu sóng gió bất kì
       Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"
   Câu thơ thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm  còn dang dở giữa mình và Kim Trọng. Từ buổi gặp gỡ đến hôm thề nguyện đính ước với hình ảnh "quạt ước", "chén thề", nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng, sâu sắc. Trao duyên cho em mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn phải sinh ra nông nỗi ấy. Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những khó khăn bất chợt ập đến gia đình, buộc nàng vào tình thế bất đắc dĩ. "Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai", một câu nói vừa tự nhủ lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân, nhờ em gánh một phần trách nhiệm trả nghĩa cho Kim Trọng, Thuý Vân đang chắp mỗi lương duyên của Kim Trọng và Thuý Kiều. Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội, "Hiếu – tình" là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo. Nhưng nàng lại chọn đáp đền chữ hiếu mà trao duyên cho em gái, cho nên hy sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng.
                    "Ngày xuân em hãy còn dài
            Xót tình máu mủ thay lời nước non
                     Chị dù thịt nát xương mòn
           Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
   Kiều còn thể hiện sự khéo léo, tinh tế khi lựa lời đề cập đến hoàn cảnh của Vân để cất lời nhờ em. Xét về tình, Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em đều đang độ tuổi cập kê, Kiều đã lấy cái cớ đó để nhờ cậy em nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị. Ở đây, Thuý Kiều đã dùng cả tình và lý để thuyết phục em. Nếu không có những chuyện tai bay vạ gió, không có những uẩn khúc gia đình thì có lẽ giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình. Lời nói không chỉ thể hiện cái đớn đau khi phải chia lìa gia đình mà còn chứa đựng cả những tủi thân, buồn rầu khi không được ở bên người thương. Trong hoàn cảnh ấy, nàng chỉ biết nhờ đến em, để sau này khi "thịt nát xương tan", nàng vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, nhìn em mình và người yêu được hạnh phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Câu thơ thể hiện lòng can tâm chết đi của Thuý Kiều để đền đáp ơn nghĩa của Thuý Vân.
       Trao cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhất:
                 "Chiếc vành với bức tờ mây
         Duyên này thì giữ, vật này của chung.
                  Dù em nên vợ nên chồng
         Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
                  Mất người còn chút của tin,
        Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
   " Chiếc vành" - vòng xuyến vàng với tờ giấy có trang trí hình mây ghi lời thề ước của Kim Trọng và Thuý Kiều minh chứng cho tình yêu của họ. Thuý Kiều đã đưa cho Thuý Vân để làm của tin kết duyên với Kim Trọng. Nhìn những kỉ vật ấy, lòng người con gái sao tránh khỏi bồi hồi, nhớ nhung. Trong hoàn cảnh ấy, khi Kim Trọng đang ở xa, không hề hay biết tin tức gì, bản thân chuẩn bị một cuộc đời lưu lạc, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đau đớn lại dâng đến tận cùng. Những kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu "Duyên này thì giữ, vật này của chung" có phần lạ kì, ngập ngừng. Thuý Kiều có sự mâu thuẫn khi lí trí muốn trao duyên nhưng tình cảm lại không nỡ.  Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm "của chung" của cả hai chị em. Về mặt lí trí, nàng vì hoàn cảnh nên phải trao duyên. Về mặt tình cảm thì nàng vẫn muốn giữ cho riêng mình. Thuý Kiều có sự mâu thuẫn giữ lí trí và tình cảm, lúng túng trong hành động trao kỉ vật
                   " Dù em nên vợ nên chồng
              Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên"
Trong hoàn cảnh này, Thuý Kiều cho thấy nỗi đau, than thân trách phận, cầu xin sự xót thuơng cho người mệnh bạc. Nàng chỉ mong mai này khi chàng Kim và em của nàng có thành duyên vợ chồng rồi thì mong họ hãy nhớ đến nàng. Dường tâm tư Thuý Kiều đang hồi tưởng lại những kỉ niệm tình yêu với Kim Trọng. Thuý Kiều như đang tự nói với chình mình:
                    " Mất người còn chút của tin
          Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"
    Nàng nhớ về kỉ niệm tình yêu với Kim Trọng. Những hình ảnh " đàn , hương" lãng mạn ấy đối lập với thực tại bi thương, phũ phàng.Vì tình cảm không thể chấm dứt nên cứ dai dẳng mãi. Đây không chỉ là các kỉ vật tượng trưng cho tình yêu hai người nữa mà chúng còn gợi ra sự xót xa cay đắng trong lòng tâm hồn Kiều. Quá khứ lãng mạn đó càng khắc sâu thêm trong lòng Thuý Kiều nỗi đau khổ, dằn vặt.
      Trao lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn không thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề quên đi Kim Trọng:
                 "Mai sau dù có bao giờ
            Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
                  Trông ra ngọn cỏ lá cây
            Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
                  Hồn còn mang nặng lời thề
            Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
                  Dạ đài cách mặt khuất lời
            Rưới xin chén nước cho người thác oan."
Sau khi trao duyên, trao kỉ vật tình yêu cho em thì nàng chỉ đau khổ mà nghĩ đến cái chết. Lời nói mang một sự đau lòng não nề, Kiều tự coi mình là kẻ đoản mệnh, những câu từ thể hiện Kiều đã ở một thế giới khác, không thể trở về với cuộc sống bình thường, không được đoàn tụ với gia đình. Sống trong một xã hội bất công, nơi con người sẵn sàng hãm hại nhau vì đồng tiền, Kiều không dám nghĩ đến việc mưu cầu cho hạnh phúc cá nhân mà chỉ dám mong được chứng kiến hạnh phúc của em gái và người yêu. Sự bế tắc và khổ đau trong lòng nàng chất chứa trong từng câu nói. "Lò hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, nát thân, cách mặt khuất lời, người thác oan", hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết cứa vào lòng người đọc nói lên dường như Thuý Kiều đang đưa tang cho 1 cuộc tình và cũng đang đưa tang cho chính linh hồn của mình vì tình yêu mất đi nàng cũng coi như hồn mình đã chết. Đây là lời nói mà nàng không chỉ muốn gửi đến Thuý Vân mà còn là gửi đến với Kim Trọng. Cách nói gửi gắm đến những người còn sống:
               " Hồn còn mang nặng lời thề
          Nát thân bồ liễu đền nghĩ trúc mai"
Những lời dặn dò  của Kiều cho thấy dù  có chết đi thì linh hồn nàng vẫn mang nặng lời thề nên không thể rời đi mà muốn trở về quanh quẩn bên người mình yêu thương. Trong trường hợp này, Thuý Kiều có lỗi với Kin Trọng, những nỗi đau đó càng khiến cho Kiều càng đau khổ càng yêu Kim Trọng hơn. Nỗi đau càng lớn thì tình yêu càng thêm sâu sắc, có chết đi thì vẫn muốn trơ về bên cạnh người mình yêu, hồn quay về để cầh xin sự cảm thông cho kiếp người bạc mệnh.
                  "Bây giờ trâm gãy gương tan,
              Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
                   Trăm nghìn gửi lạy tình quân
             Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
                   Phận sao phận bạc như vôi
             Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
                   Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
             Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Ở đọn này Thuý Kiều đang nói với Thuý Vân nhưng dường như không ý thức được thực tại mà chỉ nghĩ đến Kim Trọng.  Tâm sự với Kim Trọng nhưng thực chất, Kiều chỉ được độc thoại với chính mình, vì người nàng yêu đang ở phương xa, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại. Hai câu đầu cho ta thấy được sự đối lập, tình têu tan vỡ như gương vỡ nhưng càng đau khổ lại càng yêu nhiều hơn. Hai câu thoe cho thẫy tình yêu sâu sắc của hai người, Kiều nhận ra được sự đối lập giữa tình yêu với Kim Trọng và thực tại tan vỡ. Nàng ý thức được số phận bạc bẽo bằng những điển cố "gương gãy", "trâm tan", những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi lứa. Xét đến cùng, mục đích của cuộc trao duyên này là do mối tình nặng nghĩa với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng được bao lâu. "Muôn vàn ái ân" nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn "tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!".Cùng với nỗi tiếc nuối về tình yêu, Kiều còn khóc thương cho số phận của mình. Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn "bạc như vôi", "nước chảy, hoa trôi lỡ làng", sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói, không có quyền tự quyết định . Lời lẽ của Thuý Kiều có sự đan xen những thành ngữ, khóc thuơng cho tình yêu, oán trách cho số phận bạc mệnh của mình. Tình yêu tan vỡ fo hoàn cảnh trái ngang chứ không phải do cả người. Kiều oán trách thân phận tài sắc vẹn toàn gây nên nỗi đau cho cả người mình yêu thương. Thuý Kiều đã mang tình yêu của Kim Trọng trở thành tình nghĩa phu thê nên mới oán trách mình. Hai câu thơ cuối thể hiện đỉnh điểm của sợ bế tắc, tuyệt vọng. Thuý Kiều gọi tên Kim Trọng trong nỗi đau thương vì tất cả những tình cảm của nàng. Cuối cùng điều mà nàng đau đớn nhất chính là phụ tình Kim Trọng Tiếng gọi xé lòng " Hỡi Kim Lang!" thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi "lang" là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Câu gọi bật ra vừa để thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, sự cao thượng của Thuý Kiều trong tình yêu, luôn nghĩ cho người mình yêu, nỗi đau của Thuý Kiều đạt đến đỉnh điểm khi nghĩ cho nỗi đau của Thuý Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội xưa.
     
       Đoạn trích "Trao duyên" đã khái quát một cách sâu sắc nhất những cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi buộc phải rời xa người yêu, đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong. Bằng bút pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ cảm xúc qua hành động, cử chỉ, nghệ thuật ước lệ, sử dụng thành ngữ và đặc biệt là thủ pháp độc thoại nội tâm, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Tâm trạng nhân vật được đặc tả qua những chi tiết đắt giá, thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại cùng những từ ngữ mạnh, gợi sự xót xa đã làm rung động trái tim bạn đọc với những nỗi niềm của nhân vật. Qua "Trao duyên", Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất công, bạc bẽo đã đẩy con người vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#niel