Người lái đò sông Đà

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

[VẺ ĐẸP HUNG BẠO - NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ]

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Chẳng biết từ khi nào, những dòng sông đã trở thành sợi thương, sợi nhớ, nhân lên thành tình yêu trong trái tim những người nghệ sĩ. Để rồi, tình yêu ấy gợi nhạc cho những câu hát; là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng các vần thơ, là làn gió ấm thổi vào từng áng văn. Dẫu đó là một dòng sông mênh mông, hoang vắng, thấm đẫm nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương trong "Tràng Giang" hay một sông Hương với vẻ đẹp người con gái Huế mộng mơ trong bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông"... Tất cả đều đọng lại trong tâm trí độc giả những cảm xúc khó quên. Và Nguyễn Tuân - người nghệ sĩ chân chính suốt đời đi tìm cái đẹp, cũng bị say đắm và ngất ngay trước vẻ đẹp của dòng Đà giang ở núi rừng Tây Bắc. Với tùy bút "Người lái đò sông Đà", ông viết về dòng sông, nhưng là dòng sông có linh hồn và tính cách. Đó cũng là nguyên do, mà nó hung bạo chẳng kém gì con người lúc đương đầu với sóng gió, nhưng cũng có lúc thơ mộng, trữ tình như một mỹ nữ tràn đầy sắc xuân. (đề bài)

Được xướng danh như "Bậc thầy tùy bút", Nguyễn Tuân bén duyên với thể loại này như một mối quan hệ tiền định, một sự hòa hợp và cũng là một sứ mệnh. Đặc thù phong cách của Nguyễn Tuân vốn dĩ không cố định xuyên suốt theo giai đoạn, mà luôn có những biến đổi, những sự vận động với các đối tượng văn học mà ông tiếp cận. Nguyễn Tuân viết nhiều, đa dạng về thể loại nhưng đến với tùy bút, thì linh hồn nghệ thuật đặc hữu của thi nhân mới có được nền tảng phù hợp - một mối tương quan đặc biệt, một sự hòa hợp đạt độ toàn bích giữa cái bản ngã văn nhân và thể loại văn học. Nguyễn Minh Châu khi bàn về Nguyễn Tuân đã từng khẳng định rằng "Ông được coi là một định nghĩa về người nghệ sĩ".

"Người lái đò sông Đà" là một trong mười lăm tác phẩm được in trong tập tùy bút "Sông Đà". Tác phẩm là thành quả thai nghén từ chuyến đi thực tế của tác giả lên vùng Tây Bắc vào năm 1958. Không gian vùng đất này làm thôi thúc trái tim người nghệ sĩ, làm khơi dậy những cung bậc cảm xúc và rồi ngoại cảnh đã bước chân vào trong trang văn của Nguyễn Tuân bằng một phương trình chuyển hóa với những quy luật thuộc về thi nhân. Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người Tây Bắc. Nếu sông Đà là "chất vàng của thiên nhiên" thì nhân dân Tây Bắc không khác gì là "thứ vàng mười đã qua thử lửa".

Ngay từ lời đề từ của tác phẩm, Nguyễn Tuân đã đóng đinh vào lòng người đọc về sự ngang ngạnh bướng bỉnh, lạ thường của dòng sông:

Chúng thủy giai đông tẩu

Đà giang độc bắc lưu

Nguyễn Tuân không khỏi làm ta ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con sông Đà. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng "Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời". Lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn "Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu... Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia". "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, bí ẩn của dòng sông. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.

Lại nói đến quãng mặt ghềnh Hát Lóong. Bằng phong cách tài hoa, nhà văn đã sáng tạo những câu văn trùng điệp "dài hàng ngàn cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy". Hàng loạt những thanh sắc nối tiếp nhau gợi tả sóng gió như vút cao trên quãng sông này. Phép điệp cấu trúc cùng động từ "xô" thể hiện một sức mạnh khủng khiếp của sóng gió thiên nhiên. Sẽ chẳng hoa mỹ khi ta ca ngợi nhà văn là "thợ kim hoàng của chữ". Từ láy "gùn ghè" dường như là một sáng tạo độc đáo, đậm đà dấu ấn từ thi nhân. Nó gợi nhắc về sự gan lì, dữ tợn, lại như là thách đố của dòng sông.

Những cái hút nước sông Đà còn đáng sợ hơn và thực sự trở nên hiểm ác trong trang văn của Nguyễn Tuân. Ông xem nó như "cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu". Cảm giác ghê rợn được gợi qua âm thanh "thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào". Nó khiến ta rùng mình khi liên tưởng tiếng nước như tiếng kêu gào khủng khiếp của loài thủy quái. Nhà văn nhấn mạnh cảm giác nguy hiểm khi đi qua cái hút nước ấy, phải "ấn ga cho nhanh để vút qua". Khi nói về sự hung bạo của sông Đà tất phải nói đến cái dữ dằn của con thác. Còn nhớ trong Tây Tiến, Quang Dũng từng miêu tả:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét"

Vẻ hung dữ của con thác trong trang thơ của Quang Dũng chưa thấm gì với trang văn của Nguyễn Tuân. Từ xa, ta đã nghe tiếng thác nước "như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Phép nhân hóa diễn tả một trật tự tăng dần về âm lượng và cảm xúc, khoảng cách giữa thi nhân và dòng sông càng lúc càng thu hẹp. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, những con thác sông Đà có khác nào con quái vật hung hãn trong cơn bứt phá, tức tối và tuyệt vọng. Cái lạ là tác giả đã dùng lửa tả nước, lấy rừng tả thác. Đó quả là cách chơi ngông trong văn chương của Nguyễn Tuân.

Hết uy hiếp người lái đò bằng thác dữ, sông Đà lại dàn thạch trận với dã tâm tiêu diệu mọi con thuyền. Đà tung ra một lực lượng hết sức hùng hậu, thiện chiến, với đủ tướng dữ, quân tợn, đứa nào trông cũng ngỗ ngược, dữ dằn. Những tảng đá tưởng như nó đứng, nó ngồi, nằm tùy theo sở thích. Nhưng hoàn toàn không phải vậy, chúng âm mưu bày binh bố trận nhằm hại chết con thuyền đối phương. Mỗi vòng vây, được bố trí rất nhiều cửa tử, duy chỉ một cửa sinh nhưng lúc lại bên phải, bên trái, khi thì nằm ở giữa. Vòng đầu, nó làm ra vẻ sơ hở để dụ con thuyền đi vào rồi sau đó tung ra cú đánh khuýp quật vu hồi. Khi con thuyền xa vào trận địa, đá thác và sông nước cùng tác chiến, đánh hội đồng, chúng đánh dồn dập, tới tấp với những miếng đòn hiểm độc. Nhà văn đã vận dụng triệt để kiến thức từ nhiều lĩnh vực: quân sự, điện ảnh, thể thao để xây dựng thật thành công hình ảnh "một thủy quái sông Đà". Cứ thế, sự dữ dằn, hung bạo, hiểm ác của sông Đà – kẻ thù số một của con người Tây Bắc cứ nhân lên trùng trùng trong liên tưởng, tưởng tượng của người đọc, người nghe.

"Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm" (Nguyễn Đăng Mạnh). Tác phẩm nói chung và đoạn trích nói riêng thể hiện rõ nét tài hoa, uyên bác trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Trong đó nổi bật là những so sánh, liên tưởng thú vị: hệ thống ngôn từ phong phú sống động, giàu hình ảnh, câu văn đa dạng, lúc thì dữ dội, mãnh liệt cuồn cuộn tuôn trào, khi thì khoan thai, trữ tình cùng vốn tri thức nhiều mặt hòa quyện với nhau trong một lối văn độc đáo. Tùy bút khắc họa những nét hùng vĩ, thơ mộng nhưng khắc nghiệt của đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn phát hiện chất nghệ sĩ cũng như sự tài ba trí dũng của người dân lao động. Từ đó, tác giả ca ngợi dòng sông, núi rừng quê hương vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, tài hoa.

Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận định "Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp.". Quả thật "Người lái đò Sông Đà" là một áng văn tuyệt tác được dệt lên bằng tình yêu đất nước thiết tha, say đắm của một nhà văn cả đời đi tìm cái đẹp. Vẻ đẹp ấy vừa kỳ vĩ, hung bạo lại vừa trữ tình, nên thơ.

[VẺ ĐẸP TRỮ TÌNH - NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ]

Sông Đà không chỉ có những dòng thác "hùm beo", dữ tợn, mà nó còn là một bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống "Con Sông Đà tuôn dài tuân dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân." Câu văn thật dài chỉ với một dấu ngắt gợi nhớ về độ dài miên man của dòng sông. Phép so sánh dòng sông như một áng tóc trữ tình là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, giàu chất thơ, chất họa chẳng những phô ra vẻ dịu dàng, duyên dáng, kiều diễm của sông Đà mà còn bộc lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Qua phép so sánh, sông Đà mang dáng vẻ của một nữ nhân xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa cánh rừng hoa gạo. Hình ảnh so sánh của Nguyễn Tuân gợi ta nhớ đến dòng sông Hương trữ tình, diễm lệ. Dòng sông Hương trong nét vẽ của Hoàng Phủ Ngọc Tường như người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng duyên dáng.  Mê dắm vẻ đẹp kiều diễm của sông Đà, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra mĩ nhân sông Đà luôn muốn làm đẹp với mình, sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa một sắc. Mùa xuân nước sông xanh màu xanh ngọc bích thay vì màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa".

Sông Đà gợi cảm, tựa như người cố nhân, mang đến cảm giác gần gũi thân thương, khi đi xa lại nhớ về. Gương mặt cố nhân sông Đà tươi sáng rực rỡ như màu nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". Gặp lại cố nhân, người nghệ sĩ không giấu được niềm hân hoan, háo hức. "Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Với câu văn trong sáng, ngôn từ rất gợi cảm, từng con chữ như xoáy vào tiềm thức ta những xúc cảm thật đẹp, thật trong sáng. Sông Đà là công trình mỹ thuật tuyệt diệu của tạo hóa. Đó là tuyệt tác được chạm khắc bằng chính bút pháp tài hoa của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân.

Đắm đuối trước vẻ trữ tình thơ mộng của dòng Đà giang trong phong thái của một khách lãng du, mê đắm, thưởng ngoạn, Nguyễn Tuân đã khám phá ra bao vẻ nên thơ, nên họa của dòng sông. Xuôi về hạ lưu, dòng sông lững lời, êm trôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi trên phía thượng nguồn Tây Bắc. "Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, Trần, Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi." Con sông Đà dường như chỉ biết tồn tại trong không gian mà không hề biết đến thời gian. Thời gian mải miết trôi, sông Đà vẫn mãi vẻ đẹp nguyên sơ, hoang dại bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Hai bên bờ sông tịnh không một bóng người. Chỉ có những nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, những đồi cỏ gianh đang ra nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ thấm đẫm sương đêm. Thỉnh thoảng, con hươu thơ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương chăm chăm nhìn ông khách sông Đà. Vạn vật như đang chìm vào cõi mộng mơ. Dưới lòng sông, những đàn cá đầm xanh thi thoảng quẫy vọt lên bụng trắng như bạc rơi thoi. Các câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên như những nét vẽ mềm mại, thanh thoát. Dưới ngòi bút dạt dào chất thơ, chất họa vẻ đẹp của dòng nước sông Đà hiện lên như những thước phim huyền ảo. Nguyễn Tuân như đưa người đọc vào thế giới thần tiên thơ mộng, cảnh vừa hoang sơ, cổ kính, vừa thơ mộng, trữ tình, vừa ẩn chứa sức sống tươi xanh.

[HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÁI ĐÒ]

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò hiện lên trong tầm vóc của một người lao động bình dị mà phi thường. Cũng như trăm nghìn người "chèo thuyền vượt thác" khác, người lái đò sông Đà có "tay lái ra hoa" từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước". Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến chở da trâu, xương hổ, chè,...ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình người lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng, chất mun. Cánh tay rắn chắc. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số "củ nâu" thương tích trên chiến trường sông Đà mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ huân chương lao động siêu hạng".

Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của người lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dặn kinh nghiệm. Chất tài hoa nghệ sĩ ấy là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách của ông. Trong trận thủy chiến, người lái đò luôn bình tĩnh, hai tay giữ chặt máy chèo. Sóng nước hung tợn như những kẻ liều mạng "Ùa vào mà bẻ gãy cán chèo", "đá trái mà thúc gối vào hông thuyền". Nhưng ông đò không hề nao núng, dùng mưu trí và bản lĩnh vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, ông vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, vẫn thể hiện vai trò người chỉ huy bằng lòng dũng cảm, sức dẻo dai của mình.

Khi phá trùng vi thứ nhất, không một phút nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò tiếp tục phá luôn trùng vi thứ hai. Mặc dù bọn thác dữ đang ra sức níu chiếc thuyền lôi vào cửa tử nhưng ông đã nắm chắc "binh pháp của thần sông, thần đá" nên khéo léo điều khiển con thuyền "cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ". Người tướng quân dũng cảm đối mặt với bọn "giặc" bằng những hành động rất chuẩn xác và điêu luyện: bám chặt, ghì cương, phóng nhanh, lái miết,... cho đến khi phá xong trùng vi thứ hai người lái đò lại bước vào trùng vi cuối cùng. Không hề bất ngờ trước mưu mô của kẻ thù. Với bàn tay điêu luyện, dặn kinh nghiệm, ông đã biến con thuyền thành con tuấn mã hiểu ý chủ phóng thẳng vào cửa đá để tránh khỏi luồng nước dữ. Cuộc vượt thác của người lái đò như một cuộc thủy chiến không cân sức giữa thiên nhiên với con người. Sự dũng cảm, tài trí của người lái đò thể hiện qua cuộc vượt thác như những trận quyết chiến, những trận đánh sinh tử chia làm nhiều hồi, nhiều đợt.

Nếu người xưa vẫn thường coi "cưỡi cơn gió mạnh, đạp đầu sóng dữ" là biểu tượng cho một lý tưởng anh hùng thì ông lái đò trong tùy bút của Nguyễn Tuân cũng cưỡi gió, đạp sóng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Trong cuộc chiến đấu không cân sức giữa trận đồ bát quái, người lái đò như phô diễn tất cả sự tài hoa của mình. Mọi động tác của ông đều nhịp nhàng, chuẩn xác, biết đổi chiến thuật, hiểu rõ đối phương và cuối cùng là chiến thắng. Vẻ đẹp trong tâm hồn người lái đò còn thể hiện sau cảnh vượt thác. Thông thường, người ta hay kể về những chiến công nhưng ông đò xem đó là một phần trong cuộc sống nên không bàn một lời nào về trận chiến vừa qua nơi ải nước. Họ xem cuộc sống chiến đấu trên sông Đà là chuyện bình thường nên không lấy gì làm hồi hộp, đáng nhớ. Rất ung dung và thanh thản, người lái đò vừa nướng ống cơm lam, vừa kể chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra tràn đầy ruộng. Những câu chuyện rất đời thường nhưng phản ánh một đời sống tâm hồn gắn liền với sông nước rất dung dị mà tài hoa, cần lao mà nghệ sĩ.

Tùy bút "Người lái đò sông Đà" đích thực là trang hoa, tờ hoa. Nguyễn Tuân đã khám phá ra bao vẻ đẹp kỳ thú trong thiên nhiên và con người, đã nhìn sự vật ở phương diện văn hóa nghệ thuật, nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Mạch vận động tự do theo dòng cảm xúc lai láng. Người lái đò trong bài tùy bút là một sáng tạo nghệ thuật sáng bừng lên vẻ đẹp nhân văn. Trên cái mênh mang của "Dải sông Đà bọt nước lênh bênh", và giữa lớp lớp trùng vây thạch trận "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè", ta thấy ông lái đò người Thái quắc thước và con thuyền 6 tay chèo đang dũng mãnh băng băng lướt qua. Người lái đò là một bài ca về lao động và sự sống. Hình ảnh ông đẹp quá, một vẻ đẹp Tây Bắc như đang đề thơ vào sông nước Đà Giang.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro