mtts

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

MỸ THUẬT VIỆT NAM THỜI TÂY SƠN
(1789-1802)

 

1.HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

Bối cảnh đất nước lúc bấy giờ, ở phía Nam lực lượng của Nguyễn Phúc Ánh trỗi dậy, phía Bắc vua Lê cầu viện nhà Thanh nhằm củng cố ngai vàng. Lợi dụng sự cầu viện đó, nhà Thanh đã cử Tôn Sỹ Nghị dẫn 29 vạn quân tràn vào đất Bắc (11/1788). Ngày 22/12/1788, Nguyễn Huệ tổ chức Lễ tế trời tại núi Bân, công bố chiếu lên ngôi, lấy niên hiệu là Quang Trung, điểm binh và tiến ra Bắc đánh đuổi quân Thanh. Các trận đánh quan trọng: Trận Rạch Gầm – Xoài Mút ; Trận Ngọc Hồi- Đống Đa.

Về kinh tế, chính sách kinh tế của nhà Tây Sơn vẫn xây dựng trên căn bản “trọng nông”

Về văn hóa, chính sách văn hóa đặc biệt nhất dưới thời Tây Sơn là chính sách đối với Phật giáo. Nhà Tây Sơn chủ trương chế tài đối với Phật giáo nhằm hạn chế số chùa chiền và sư sãi.

Về quân sự, nhà Tây Sơn rất trọng quân sự, quyết tâm xây dựng lực lượng quân đội hùng hậu để bảo vệ đất nước.  Để tiện việc kiểm soát, mỗi dân đinh đều được phát một thẻ “Thiên hạ đại tín”, ghi rõ tên họ, quê quán và điểm chỉ của người mang thẻ.

 Nhờ công cuộc khai hoang phục hóa mà xã hội dần dần ổn định, đời sống nhân dân dần được cải thiện.

Sau khi Quang Trung mất (16/9/1792), Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Ông là người có học vấn, nhưng thiếu tài “kinh luân”, nên phó mặc việc triều chính cho đại thần văn võ. Đây chính là nguyên nhân để triều Tây Sơn suy yếu và đi đến diệt vong.

 

2.Nghệ thuật kiến trúc thời Tây Sơn

 

-      Kiến trúc thời kì Tây Sơn chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi hoàn cảnh lịch sử giai đoạn này.

-      Nhà Tây Sơn kéo dài trong 14 năm trải qua những năm đầu ổn định, khôi phục nên kinh tế. Tuy nhiên , sau đó lại rơi vào tình trạng chiến tranh với nhà Nguyễn và suy thoái.

-      Chính vì vậy đã phần nào hạn chế việc xây dựng và phát triển kiến trúc.

-      Thời kì này trường phái kiến trúc cung đình được chú trọng bởi lẽ Kinh đô Phú Xuân được xây dựng và trở thành nơi định đô của nhà Tây Sơn.  Xây dựng nhiều phủ điện nguy nga rực rỡ, chạm khắc vẽ vời khéo đẹp vô cùng. Tường được trang trí bằng sành sứ thành rồng - lân - phượng - hổ và hoa cỏ. Ngoài ra còn có những bộ tranh lớn độc đáo và sinh động như bộ tranh 8 bức liên hoàn vẽ 100 em bé để trang hoàng trong cung điện.

-      Nghệ thuật kiến trúc tôn giáo khá phát triển đặc biệt là kiến trúc Phật giáo bởi lẽ Tôn giáo gia nhập vào Việt Nam lâu đời tạo niềm tin vào cuộc sống cho nhân dân Việt. Tấm lòng người Việt luôn mang trong mình truyền thống hiếu đạo, tôn trọng tất cả những giá trị tâm linh. Bởi thế chùa chiền đền quán được xây dựng rất nhiều và từ lâu đời. Đây không những là chỗ dựa tinh thần cho con người mà kiến trúc của nó cũng làm ta nể phục bởi tài nghệ của nghệ nhân đương thời.

-      Không như các thời trước kiến trúc tôn giáo đền chùa luôn lộng lẫy trang hoàng, các nghệ nhân thời Tây Sơn đã đưa nghệ thuật vào bên cái trang hoàng lộng lẫy thành một thể kiến trúc thống nhất tạo sự trang nghiêm mà gần gũi giản dị nhưng vẫn mang rõ nét riêng độc đáo cho triều đại mình.

-      Đặc biệt phải kể đến đặc trưng motip rồng thời Tây Sơn. Hình rồng cách điệu thường đơn giản, không rối rắm. Các chi tiết phụ của rồng được cách điệu bởi những ngọn lá hoặc những đám mây. Đuôi rồng thường là một tàu lá chẻ đôi, uốn cong về hai phía. Rồng thời Tây Sơn kế thừa và phát triển rồng thời Trần và Lê sơ. Thân rồng tả thực, mềm mại, uốn lượn nhưng có đầu dũng mãnh…

-      Một số đình chùa được xây mới hoặc sửa chữa vào thời kì Tây Sơn có niên đại xác định như chùa Kim Liên (Hồ Tây- Hà Nội) năm 1792, chùa Tây Phương (Thạch Thất- Hà Tây) năm 1794, đền Vua Bà (Nghệ An) năm 1798, hay đình Phong Cốc (Quảng Ninh) năm 1800...

-      Đặc trưng motip rồng thời Tây Sơn: Nghiêng về cách điệu hơn tả thực,cách điệu lá, mây. Kế thừa và phát triển rồng thời Trần và Lê sơ .Thân rồng tả thực mềm mại, uốn lượn nhưng có đầu dũng mãnh của đầu sư tử, lân. Rồng cách điệu có mào, sừng,chân,đuôi được cách điệu bằng những ngọn lá hay áng mây. Đặc biệt đuôi rồng là tàu lá chẻ đôi uốn cong về  2 phiá.

a.     Chùa Tây Phương (Thạch Thất- Hà Tây)

 

-      Chùa Tây Phương có tên chữ là Sùng Phúc tự, được xây dựng vào năm 1554 đời vua Lê Trung Tông trên núi Tây Phương, Thạch Thất, Hà Tây.

-      Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu. Năm 1794, chùa được xây dựng lại và còn giữ được nét kiến trúc cho đến ngày nay. Theo thư tịch cổ ghi lại, chùa có niên đại  từ thời Mạc năm 1554. Nhưng theo ghi chép trên bia Tây Phương sơn Sùng Phúc tự thạch bi thì nó được trùng tu và làm lại vào đầu thế kỷ XVII (1635). Đến cuối thế kỷ XVII Tây Đô Vương Trịnh Tạc (1606-1682) lại cho phá chùa cũ dựng lại chùa mới và tam quan.

-      Đây là ngôi chùa cổ thứ hai sau chùa Dâu ở Bắc Ninh.

-      Lối lên chùa gồm 373 bậc đá ong, cao chừng 50m.

-      Chùa xây dựng trên một khoảng đất hẹp trên đỉnh của ngọn Câu Lậu sơn, có lẽ do điều kiện khó vận chuyển vật liệu nên có thể nghĩ đến khả năng đồ sộ của công trình. Do đó, để tạo ra được một công trình mẫu mực, các kiến trúc sư dân gian dường như đã tập trung mọi cố gắng vào khai thác những khía cạnh khác nhau của nghệ thuật kiến trúc gỗ.

-      Tổng thể công trình gồm có chùa Trung, chùa Thượng, chùa Hạ sắp xếp song song với nhau theo kiểu chữ Tam. Đây là một sáng tạo của thời Tây Sơn, nhưng xung quanh xây tường và lắp cánh cửa bao quanh lại theo chữ Công, là kiểu truyền thống vốn phổ biến từ nhiều thế kỷ trước (Thế kỷ XV) nhưng nét độc đáo ở chỗ khi những cửa khép lại, tổng thể đóng kín theo chiều ngang song, chiều dọc vẫn mở luôn đón nắng gió làm cho nội thất thông thoáng và được chiếu sáng.

-      Niên đại này khiến không ít nhà nghiên cứu xếp chùa Tây Phương vào mỹ thuật thời Tây Sơn, nhưng người ta cũng nhận thấy rằng kiến trúc không chỉ chùa Tây Phương mà mẫu hình của nó được hiện diện trên cả chùa Kim Liên đã làm nên nét độc đáo riêng biệt cho hai ngôi chùa hình chữ Tam này là sản phẩm của nghệ thuật thời Lê Trịnh. Cả hai ngôi chùa đều do các chúa Trịnh bỏ công trùng hưng và xây dựng qua nhiều đời.  thành tựu kiến trúc của thế kỷ XVII với lối dựng các nếp nhà chồng diêm hai tầng tám mái đã được hiện diện trong các thành phần kiến trúc ở đây. Chưa kể dạng thức tàu đao mái lá rất phổ biến trong các dạng thức đình làng thế kỷ này, cũng đã được áp dụng khiến cho ba nếp chùa vừa như tĩnh tại, lại vừa như bay bổng tạo nên sự cân bằng trên đỉnh núi chênh vênh.

-      Quan sát kĩ thì thấy rằng tuy ba nếp chùa được dựng song hành gồm chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng, nhưng chúng lại được liên kết với nhau bởi lớp tường bao đóng thành một khối kín, có cửa ngách thông sang hai bên.Đầu hồi của chùa Trung lùi vào khiến những đầu đao mái chùa như sinh động hơn trong nhịp điệu đã được thay đổi một cách cơ bản.

-      Chỉ có chùa Hạ là có 9 cửa (nhưng thường đóng), còn nếp chùa trong chỉ là kết cấu bởi những hàng cột rỗng, khiến chúng liên thông với nhau tạo nên nội thất chùa rộng và thoáng. Giữa mỗi nếp chùa này còn có một khoảng sân hẹp thông với không gian mở rộng lên trời hứng ánh sáng gọi là sân “thiên tỉnh” (giếng trời).

-      Giữa các tòa chùa là khoảng sân nhỏ. Đây là nơi đặt giếng trời, đón nắng, gió tạo không gian thoáng mát và ánh sáng vừa đủ cho chốn tu hành. Ở mỗi khoảng sân này lại được thiết kế một cái bể nước khiến cho lớp gạch lót mái “sắc-không” tượng trưng cho tấm áo cà sa của đức Phật như ánh lên thứ ánh sáng muôn màu. Từ ngoài bước vào, cái cảm giác về khoảng tối như dần được mở ra khi bước qua những sân thiên tỉnh để dần vào trong, chiêm ngưỡng những pho tượng Phật, thì cảm giác về thế giới Phật pháp như mở cõi lòng đến sự rộng lớn vô biên.

-      Cả 3 toà chùa đều dựng theo lối chồng diêm với hai tầng tám mái xoè ra bốn phía xung quanh tất cả có 24 lá mái và 24 hoa đao. Cứ trùng điệp nhấp nhô, lặp lại mà đổi mới, tạo ra vẻ thanh toát. Phần cổ diềm lắp ván cờ đồng nhìn bên ngoài như hai tầng song nột thất thống nhất một khối từ nền đến nóc tạo không gian thuận lợi cho việc bày tượng. Phần thân chùa trừ phía trước lắp cánh cửa, phần còn lại xây tường gạch Bát Tràng, nung già, mạch dày, để mọc như mảng kẻ ngang trang trí, trong đó mỗi mảng tường lại trổ cửa tròn " sắc - không " gồm nhiều vòng tròn đồng tâm, nửa đặc, nửa rỗng đan xen tạo mới vuông tròn đối đã và cũng là cách lưu thông không khí trong - ngoài.

-      Kiến trúc này là sự kết hợp giữa sự phức tạp của trang trí trên các thành phần của các vì kèo và sự đơn giản của kết cấu mặt bằng. Sự đối lập tĩnh tại của các đường thẳng và sự sinh động của các mái cong, khiến cho ngôi chùa trở nên sống động một cách lạ thường.

-      Vào bên trong, bộ khung chùa gồm những thành phần phải ưa nhìn gắn bó nhau bằng mộng mẹo xít xao, chủ yếu bào trơn đóng bén xoi giờ chạy chỉ, nhưng vấn giành tỷ lệ cần thiết để trang trí ở các mặt bẩy. Hai toà chùa trước và sau giống nhau về quy mô 3 gian 2 di về kích thước và cũng giống nhau về cả đề tài trang trí loại hoa lá nhiều thuỳ như lá ngô đồng, lá đu đủ hau thầu dầu, với hoạ tiết vừa rắn thật mạnh mẽ mà mềm mại. Chùa Trung nhỏ hơn và được trang trí bằng đề tài gốm hổ phù, rồng, phượng. Các đấu kê cột và đôi giường đều làm thành đoá sen nở rộ các dép đỡ hoành đều làm như con thuyền.

-      Không như các thời trước kiến trúc tôn giáo đền chùa luôn lộng lẫy trang hoàng, các nghệ nhân thời Tây Sơn đã đưa nghệ thuật vào bên cái trang hoàng lộng lẫy thành một thể kiến trúc thống nhất tạo sự trang nghiêm mà gần gũi giản dị nhưng vẫn mang rõ nét riêng độc đáo cho triều đại mình. Và đây cũng được coi là một trong những công trình kiến trúc phật giáo tiêu biểu của Việt Nam, thể hiện tài năng và sự sáng tạo của ông cha ta trong lĩnh vực kiến trúc.

b.    Chùa Kim Liên (Hồ Tây- Hà Nội)

-      Cũng giống như chùa Tây Phương, chùa Kim Liên cũng được lọt vào top một trong mười di tích kiến trúc cổ đặc sắc nhất Việt Nam.

-      Chùa Kim Liên vừa thờ Phật, vừa thờ công chúa Từ Hoa con vua Lý Thần Tông. Chùa được làm trên nền cũ của cung Từ Hoa vào đời Trần (1225-1413). Năm 1639, dưới triều vua Lê Thần Tông, chùa được tu sửa lại là Chùa Đại Bi. Đến thời vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái (1720-1728), có vị hoà thượng tên là Huệ, nguyên là nội thị của Chúa Trịnh Đô Vương đến tu tại đây. Năm 1771 Chúa Trịnh Sâm sai dỡ Chùa Bảo Lâm tu bổ chùa này và đổi tên là Kim Liên. Năm 1792 chùa được đại tu mang dấu ấn kiến trúc thời Tây Sơn.

-      Chùa Kim Liên còn có tên gọi là Đại Bi tự, nằm ở bên hồ Tây, xã Quảng An, Từ Liêm, HN.

-      Có rất nhiều điểm giống nhau giữa chùa Kim Liên và chùa Tây Phương.

-      Cổng tam quan của Chùa Kim Liên là một kiến trúc độc đáo với hai tầng, 8 mái bằng gỗ mang màu sắc cung đình, với những bức chạm nổi trên mặt gỗ hình rồng hoa văn cực kỳ tinh xảo.

-      Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XVIII, khác với kiểu chùa " Tram gian " Nội Công - Ngoại Quốc ở giai đoạn trước, có sự vây bọc kín, chùa thời này có sự thoát khỏi khuôn viên, tường bao bọc, mà hoà nhập vào thiên nhiên bằng cách dùng các vườn cây vườn. Cảnh bao bọc hoà trộn không gian chùa, các toà chùa cũng có sự khác biệt.

-      Phong cách kiến trúc của chùa Kim Liên, có lẽ do ảnh hưởng từ nguồn cội là một vị trí cung điện và thờ một tôn thất nhà Lý, nên đượm dáng vẻ cung đình. Bố cục của chùa bao gồm một trục đối xứng từ tam quan đến nhà Tổ. Từ tam quan đi vào một khoảng sân dẫn vào ba nếp chùa xếp song song theo hình chữ "tam" (三), thứ tự từ chùa Hạ, chùa Trung quay mặt về hướng Tây đến chùa Thượng quay mặt về phía Đông. Ba lớp chùa được liên kết với nhau bằng tường gạch để trần có trổ cửa sổ tròn lồng chữ nhà Phật.

-      Tam quan chùa Kim Liên khá độc đáo gồm dàn ra ba cửa, cửa giữa cao rộng hơn 2 cửa bên, tất cả chỉ có một hàng cột, toàn bộ sức nặng truyền xuống đất chỉ thông qua bốn cột dựng trên một đường thẳng thế mà đứng vững ngang nhiên trong nhiều cuộc đối đầu với gió bão. Các vì đỡ nóc là những con đường chồng đè xuyên qua cột được trang trí rồng mây, cả tầng trên của cổng giữa và tầng dưới của hai cổng bên tạo theo một đường thẳng. Đều có mái toả về bốn phía và do đó có 8 hoa đao uốn cong vồng lên xum xuê bay bổng.

-      Mái chùa Kim Liên lợp ngói với cấu trúc hai tầng theo kiểu chồng diêm. Mỗi nếp 8 mái, có tám tàu đao hình rồng uốn cong. Chân cột kê trên đá tảng chạm hình hoa sen cách điệu.

-      Công trình Phật giáo này có ba ngôi nhà chồng diêm xếp nối tiếp nhau thành hình chữ “tam”, vừa trang nghiêm, vừa lộng lẫy, lại hòa nhập vào cây xanh và nước biếc xung quanh. Mỗi ngôi nhà đều có hai tầng, mỗi tầng bốn mái (kiểu thức mà dân gian gọi là tám mái). Kiểu thức chồng diêm này đã có từ thời Mạc, nhưng chủ yếu được dùng để xây các gác chuông. Hầu như không có ngôi chùa nào dùng kiểu kiến trúc này để xây các nhà chính như ở chùa Kim Liên. Thêm vào đó, cả bốn mặt tường chùa đều xây gạch trần mà màu sắc của gạch kết hợp với việc trổ các cửa sổ tròn hình “sắc sắc – không không” theo quan niệm Phật giáo như ở chùa Tây Phương tạo ra vẻ đẹp mộc mạc, trang nhã.

-      Đề tài được chạm khắc trên kiến trúc chùa Kim Liên khá đơn giản, các mảng chạm bố cục chặt chẽ, cân đối và tuân thủ theo qui luật đăng đối tạo cảm giác nhẹ nhàng.

-      Chùa Kim Liên được trang trí nhiều nhưng không quá dày đặc mà rải rác thoáng đãng chủ yếu là rồng ,phượng, hoa lá (cây ngô đồng và đu đủ) được chạm theo kỹ thuật chạm nông với một phong cách giàu chất hiện thực.

-      Hơn 300 năm trôi qua, tam quan vẫn đứng vững tôn vẻ độc đáo cho chùa Kim Liên. Điều này chứng tỏ một sự tính toán kĩ lưỡng và tài năng sáng tạo của con người ở thời kì này.

3.     ĐIÊU KHẮC THỜI TÂY SƠN

 

Mười tám pho tượng Tổ chùa Tây Phương được coi là một bộ tượng hoàn thiện nhất của điêu khắc gỗ Việt Nam trong thế kỉ 18. Các pho tượng đã thoát ra ngoài các khuôn mẫu chuẩn mực của các tượng Phật, Bồ tát, để mang lên mình nó những sáng tạo, cảm hứng sống động.Nếu như các tượng Phật thường ở trong trạng thái Tĩnh: ngồi vững chãi trên tòa sen, mắt nhắm hờ, bất động chìm trong cõi bất khả tư nghị, các nếp áo đều phủ xuống lặng lẽ; thì các tượng Tổ chùa Tây Phương ở trong trạng thái Động: đứng, ngồi, nói, thuyết, quạt, ngoáy tai… rất sinh động phong phú, các tà áo bay tung, bước chân vững chãi… Các nghệ nhân dân gian vô danh đã thổi hồn cuộc sống vào các tượng Tổ này, hơn bất cứ pho tượng nào trong chùa.

a.     Tượng tuyết sơn đại sĩ

Trong nhiều chùa, trên bàn thờ có thể gặp một pho tượng một người cực kì gầy gò, chỉ còn da bọc xương ngồi trong một tư thế khắc khổ. Đó là tượng Tuyết Sơn.

Theo Phật giáo, thì khi thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm lìa bỏ gia đình đi tìm con đường giải thoát, đã trải qua việc tu học với nhiều vị thầy. Sau đó ông đã tự mình tu tập khổ hạnh trong núi tuyết (Tuyết sơn), mỗi ngày chỉ ăn một hạt vừng, khiến cho thân thể suy kiệt. Tu khổ hạnh là một trong các phương thức tu tập của Bàlamôn nhằm đạt chứng ngộ chân lý thượng đế.Khi đó Tất Đạt Đa suy kiệt đến mức cùng cực, đúng lúc đó có một thôn nữ mang một bình sữa đi qua, thấy ông đã kiệt sức nên dâng tặng một bát sữa. Tất Đạt Đa nhận ra rằng phương thức tu ép xác khổ hạnh không phải là con đường đúng để đạt tới chính đẳng chính giác. Ông lập tức từ bỏ phương pháp tu đó, nhẹ nhàng không vương vấn, sau đó thành đạo dưới gốc Bồ Đề, khi đó thành Phật. Tượng Tuyết Sơn do đó mô tả Tất Đạt Đa khi đang tu khổ hạnh, tức là khi chưa chứng quả, khi còn đang “sai lầm”. Do khi đó chưa đạt quả vị Phật, nên tượng Tuyết Sơn không ngồi trên tòa sen. Ở pho tượng này trừ phần đầu với khối căng tròn còn lại là khối lõm.với phong cách hiện thực dựa trên cơ sở nắm vững giải phẫu, tượng tuyết sơn hiện lên thâm trầm sâu lắng mà đầy biến động dữ dội bên trong.

b.Tượng di lặc

Đối lập với tượng Tuyết Sơn gầy gò da bọc xương, tượng Di Lặc béo tốt hả hê tạo thành một cặp đôi thú vị.

Nụ cười của đức Di-lặc là nụ cười hoan hỷ bất diệt, tâm hồn của đức Di-lặc là tâm hồn bao dung không bờ bến. Và, không ai nhìn vào hình tượng của Ngài mà không cảm thấy lòng mình trở nên thanh thản nhẹ nhàng.
Thật ra không phải ngẫu nhiên mà tượng Phật Di-lặc được tạc theo hình thức như vậy, mà đây chính là thể hiện mong ước và tâm tư của đạo Phật trong việc đem nụ cười vào trong cuộc đời.

c. Tổ thứ 7: bà tu mật tôn giả

Tổ thứ 7 Bà Tu Mật khi chưa xuất gia thích kết giao bạn bè, thơ ca, uống rượu, ăn mặc lịch sự. Tượng được tạc trong tư thế cung kính niệm phật, miệng đang há mở chào hỏi, cầu mong phúc cho người đối diện, quần áo trang phục chỉnh tề đẹp đẽ.dáng điệu  cho ta thấy  như đang thuyên giảng những chân lý sâu xa của đạo phật

d. Tổ thứ 8:Phật đà nan đề

Tổ thứ 8 Phật Đà Nan Đề, người béo tốt, lúc nào cũng ung dung tự tại. Dáng vẻ tượng rất hoan hỉ, người ngả ra sau thoải mái, tay cầm cái que đang ngoáy tai, quần áo xuề xòa buông thõng.

Khuôm mặt tượng toát lên vẻ phúc hậu với khối căng tròn đầy, óng ả .Mặt hỉ hả , miệng cười sảng khoải , cho ta thấy một cách tu hành thoải mái, toát lên một sự thông minh mềm mỏng dễ gần của một bậc trí giả.

e.Tổ thứ 19: cưu ma la đa tôn giả

Tổ ngồi ngả ngã người rất thoải mái,  với khuôn mặt hả hê cùng nhau làm toát ra tính cách lãng mạn, yêu đời, sống thật thoải mái.  Tất cả đều toát lên một sự mãn nguyện.

e.Tổ thứ 12: Xà dạ đa tôn giả

Tổ thứ 20 Xà Dạ Đa trí tuệ thâm sâu cao siêu, người đã giáo hóa được cho rất nhiều người, được tạc với một hình dạng rất cổ quái: thân thể gày gò giơ xương, tay đang cầm cái que gãi lưng có vẻ rất khó chịu khổ sở; thế nhưng đầu rất to thể hiện suy nghĩ sung mãn.Tư thế của tượng thể hiện một dáng ngồi nhấp nhổm,đôi mắt ưu tư với những nếp nhăn có đường hướng đi xuống, khuôn măt dài xương xương in hằn những nét suy tư , cổ rướn lên tạo những hốc, ngực phơi đủ bộ xương sườn,thể hiện một cái tâm dẵn vặt không yên.Một cơ thể suy kiệt và một tinh thần nội lực mạnh mẽ.

Như vậy ta có thể thấy: Điêu khắc thời Tây Sơn mang đậm chất hiện thực, có lẽ chỉ có cách tả thực ,các nghệ nhân xưa mới chuyền tải hết được nội tâm phong phú của cá tượng phật trên con đường tìm đến với cõi niết bàn .

4. Đặc điểm Mĩ thuật thời Tây Sơn (cuối thế kỉ 18):

 Giai đoạn này thời gian tương đối ngắn nên về phương diện mĩ thuật không bộc lộ ở nhiều loại hình như các thời trước. Tuy nhiên, trong một vài loại hình lại nổi lên những đặc điểm khá sắc nét. Tranh thờ, tranh sinh hoạt vẽ theo chiều dọc có trục treo còn lưu lại khá nhiều. Trong đó đáng chú ý tới 2 sưu tập ở Vũ Di (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) và Độc Lôi (Nam Đàn, Nghệ An) là những tranh được thể hiện bằng bút pháp đường nét tinh tế điêu luyện, màu sắc hài hoà. Điêu khắc, đặc biệt là điêu khắc trang trí kiến trúc và tượng thời Tây Sơn tuy không nhiều nhưng đã tạo được một phong cách riêng có giá trị nghệ thuật cao. Như tượng Tuyết Sơn, tượng 8 vị Kim Cương, tượng 18 vị Tổ phái Thiền tông Tây Thiên ở chùa Tây Phương (Hà Tây) là các tác phẩm nổi tiếng nhiều người biết tới.

Đặc điểm phong cách nghệ thuật thời Tây Sơn: đường nét, mảng khối khoẻ khoắn, dứt khoát, mang tính hiện thực cao, tính miêu tả rõ nét, sắc sảo, đặc biệt ở loại hình điêu khắc tượng tròn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro