Những cuộc tranh luận và bút chiến mà các bài phóng sự và quyển sách của tôi đã gây ra trong các giới, trong đó bà PHB và tôi đều có dự phần ; sự tố giác và bênh vực các đồng tử Holmes; và những cuộc bình luận sôi nổi kéo dài về khoa Thần Linh Học trong báo giới Âu-Mỹ, đã đưa đến vài hậu quả thuận lợi, trong đó có hai điều quan trọng là :
1._ Việc trình bày những quan niệm Huyền Môn của Đông Phương, làm cho thế giới Tây Phương phải chú ý; và
2._ Việc khai sinh ra hội Thông Thiên Học thế giới. Sự thành lập Hội Thông Thiên Học không phải là do phép mầu của các Chân Sư theo những chuyện bịa đặt láo lếu, mà chỉ là do hậu quả tự nhiên của những giai đoạn diễn biến tuần tự, như độc giả sẽ thấy trong những thơ từ mà chúng tôi viết cho các báo trong những thuở ban đầu, và trích lục vài đoạn dưới đây. Những chi tiết có vẻ khô khan, nhưng có tầm mức quan trọng như những tài liệu lịch sử.
Như đã nói trước đây, sự công kích có tính cách tự quảng cáo của bác sĩ Beard, một vị lương y chuyên khoa chữa trị bằng điện ở New York, nhằm vào các đồng tử Eddy, và sự tuyên bố láo rằng ông ta có thể tạo ra những hiện tượng đó “với những đồ y trang rẻ tiền chỉ tốn chừng ba đô la”, đã làm cho bà HPB phẫn nộ đến mức bà đã “lột da sống” ông ta trong một bức thơ trả lời nẩy lửa đăng trên nhật báo Graphic, và thách đố ông ta dám đánh cuộc năm ngàn đô la ăn thua với bà về sự việc trên.
Chính việc ấy đã làm cho quần chúng Mỹ lần đầu tiên biết đến tên tuổi bà. Lẽ tự nhiên, có sự kết bè thành hai nhóm đối lập : nhóm Thần Linh Học và các đồng tử theo về phe bà HPB , còn những kẻ chống đối, nhất là các nhà bác học có khuynh hướng duy vật, thì đứng về phía những người ủng hộ bác sĩ Beard. Kẻ thủ lợi trong việc tranh chấp này lại chính là ông Beard, vì đó là một mánh khóe có tác dụng quảng cáo cho tên tuổi ông và khoa điện y của ông với kết quả quá mức dự liệu. Các nhật báo Mỹ đều bình luận về bức thơ khiêu khích nẩy lửa của bà HPB chống bác sĩ Beard. Bà cũng đã trả lời các báo, do đó tên tuổi của bà càng ngày càng vang dội khắp nơi khi cuộc tranh luận càng kéo dài.
Như đã nói trước đây, bà đứng trên lập trường của một nhà Thần Linh Học, không những tin tưởng mà còn BIẾT RÕ rằng những trí lực “nhiếp” vào các đồng tử để giáng ngôn giáng bút, làm các hiện tượng hữu hình, và hiện hình toàn diện hoặc cục bộ, chẳng hạn như chỉ hiện có những gương mặt, bàn tay hoặc bàn chân, hay những phần khác trong thân mình, tất cả đều là do tác động của những vong hồn người chết, không hơn không kém.
Về sau, bà HPB cho tôi biết rằng sự bộc phát của những hiện tượng thông linh ở khắp nơi, chính là do Quần Tiên Hội phát động như một khí cụ để trợ giúp cơ Tiến Hóa. Như vậy, những hoạt động cơ bút, đồng tử, không thể bị coi như tuyệt đối bất hảo như vài nhà cực đoan Thông Thiên Học đã tuyên bố, vì theo chỗ tôi biết về các đấng Chân Sư, thì người ta không thể quan niệm rằng các ngài lại dùng một phương tiện hoàn toàn bất hảo, dẫu rằng vì sự lợi ích của nhân loại.
Trong số báo của tờ Daily Graphic mà bà HPB đã gởi đăng bức thơ chống bác sĩ Beard, cũng có đăng tiểu sử của bà do bà cung ứng tài liệu theo lời yêu cầu của tòa soạn. Bà viết:
… “Năm 1858, tôi trở về Paris và có dịp làm quen với nhà Thần Linh Học Daniel Home… Ông này đã cải hóa tôi theo Thần linh Học… Sau đó, tôi trở về Nga và cải hóa cha tôi theo thần Linh Học”
Trong một bài báo bênh vực các nhà đồng tử Holmes chống những kẻ đả kích, bà nói về Thần Linh Học như “tín ngưỡng của chúng tôi”, “lý tưởng của chúng tôi”; và ở một chỗ khác, bà viết:
“Nếu bọn Thần Linh Học chúng tôi bị người ta chê cười, nhạo bang, chế diễu, châm chọc, chúng tôi phải biết ít nhất lý do tại sao?”
Trong tờ báo Spiritual Scientist (Khoa Học Tâm Linh) ra ngày 8-3-1875, bà nói có vài khuynh hướng chỉ rằng mặc dầu tính cách chân thực thiêng liêng của khoa Thần Linh Học chúng ta, và giáo lý của những vị bảo trợ vô hình của chúng ta (những vong linh khuất mặt của những họp đàn), vài nhà Thần Linh Học đã không biết thừa cơ hội đó để học bài học vô tư và công bằng.
Đó là một việc làm rất can đảm, đầy hào khí, hoàn toàn biểu lộ cái đặc tính của bà khi bà nhảy vào vòng chiến vì bất cứ mọi lý tưởng nào mà bà đảm nhận như cái chính nghĩa của mình. Như đã nói trược đây, chính vì lòng yêu tự do và chính nghĩa mà bà đã cùng với một nhóm phụ nữ chiến đấu trong hàng ngũ của nhà ái quốc Garibaldi và mạo hiểm lao mình vào trận đánh ác liệt ở Mentana. Bây giờ, khi thấy cần phải binh vực cái lý tưởng Tâm Linh để chiến đấu chống lại Khoa Học Duy Vật, thì bà chấp nhận cả sự ô nhiễm khi phải tiếp xúc với bọn đồng tử giả mạo, với những loại âm binh bất hảo, hay với phe vô luân trong giới Thần Linh Học chủ trương tự do luyến ái và thoát ly gia đình. Không một điều bất lợi nào trong những sự việc kể trên làm cho bà do dự dù chỉ trong một lúc, khi bà thấy cần đứng vào hàng ngũ của phái thần Linh Học chống lại Duy Vật chủ nghĩa.
Đường lối của bà có thể bị vài người lên án, ngôn ngữ của bà có thể bị coi như hoàn toàn đồng ý và chấp nhận cái Thần Linh Học mà về sau bà đã lên tiếng công kích thậm tệ không tiếc lời. Nhưng nếu lấy công tâm mà xét đoán, người ta phải nhận định rõ cái tình trạng xã hội của thời bấy giờ.
Người ta phải nhận định rõ cái kiến thức sâu rộng của bà, trên lý thuyết lẫn cả thực hành, về những hiện tượng huyền linh mà người đời cần phải biết trước khi bị lôi cuốn theo cái trào lưu độc hại của chủ nghĩa Duy Vật. Nhiều người trong chúng ta có lẽ đã dùng một ngôn ngữ dè dặt cẩn thận hơn để tránh khỏi bị kẹt vào bao nhiêu sự mâu thuẫn và rối rắm về sau này. Nhưng trường hợp của bà hoàn toàn khác hẳn, bà là một nhân vật độc đáo trên tất cả mọi phương diện, về trí lực và quyền năng thần bí, cũng như về khí chất và về phương pháp tranh luận. Một mục đích của tập Hồi Ký này là để chỉ rằng, với tất cả những sự thiếu sót rất cận nhân tính và tật chứng ngáo ngổ mà người ta có thể gán cho bà, bà vẫn là một nhân vật đặc biệt, phi phàm, một người dành trọn cuộc đời làm một công việc vĩ đại phụng sự thế gian, nhưng lại bị người đời phê phán một cách mù quáng và vô ơn bạc nghĩa.
II
Trong những cuộc thí nghiệm riêng tư giữa chúng tôi về những hiện tượng thần linh, bà HPB đã chỉ dẫn cho tôi biết về sự hiện hữu của giới TINH LINH NGŨ HÀNH. Nhờ đó, tôi mới biết phân biệt hai loại sinh vật khác nhau trong việc tạo nên các hiện tượng, là những tinh linh ngũ hành và những vong hồn người chết.
Vào khoảng cuối năm 1874-75, nhờ một dịp may hiếm có được đọc qua những quyển sách quý về Khoa Học Huyền Môn tại thư viện Watkinson, nên tôi được chuẩn bị khá nhiều về phần kiến thức để có thể hiểu những lời giải thích khẩu truyền của bà và những hiện tượng thông linh kỳ diệu do bà tạo ra để chứng minh cho những lời giải thích đó. Thời kỳ học hỏi của tôi lúc ấy qua sách vở, lời dẫn giải khẩu truyền và sự quan sát các hiện tượng, cũng đủ chuẩn bị cho tôi có được một bản lĩnh khá vững vàng về Khoa Học Huyền Môn cho đến khi bà bắt đầu công việc soạn bộ sách “Vén màn Isis” và mời tôi cùng cộng tác.
Khoảng đầu năm 1875, chúng tôi bắt đầu lưu ý đến tờ “Khoa Học Tâm Linh” một tờ tạp chí tiến bộ và độc lập tại Boston do ông Gerry Brown làm chủ bút và chủ nhiệm.
Nhu cầu cấp bách của thời bấy giờ là một tờ báo vừa được coi như một cơ quan ngôn luận của Thần Linh Học, lại vừa có thể khuyến khích các nhà Thần Linh Học hãy quan sát chặt chẽ hơn tác phong hạnh kiểm và khả năng thông linh của những đồng tử của họ, và hãy kiên nhẫn lắng nghe những lý thuyết về các vong linh ở cõi âm cùng sự giao tiếp của họ với người sống. Những tạp chí khác cũ kỹ hơn thuộc loại này lại quá bảo thủ, còn tờ báo của ông Brown dường như đang tiến bước bằng cách mạnh dạn chỉ trích những sự lạm dụng đương thời. Một bức thơ của chúng tôi gởi cho ông Brown dăng trên tạp chí ấy ngày 8-3-1875 khởi đầu những mối liên hệ giữa chúng tôi, và trong vòng một tháng sau, y đã được đặt dưới sự chăm sóc biệt đãi của những thế lực hỗ trợ sau lưng bà HPB.
Trong số tạp chí tháng tư năm ấy, tôi có đăng một bản thông tư đặc biệt với tựa đề: “THÔNG TƯ QUAN TRỌNG CHO CÁC NHÀ THẦN LINH HỌC”. Điều quan trọng của nó đối với ông Gerry Brown là lời hứa trợ giúp bài vở và tài chánh cho y, còn đối với công chúng hâm mộ phong trào Thần Linh Học, thì nó cho biết rằng tờ tạp chí ấy sẽ được sử dụng như cơ quan của một phong trào mới, nhằm mục đích đặt khoa Thần linh Học ở Mỹ trên một nền tảng triết học và trí thức hơn trước, thay vì chỉ chú trọng đến những thông điệp cơ bút và những hiện tượng tầm thường, không đủ thỏa mãn những đầu óc khoa học.
Chính tôi tự thảo ra tờ thông tư đó, tự sửa chữa lấy bản kẽm in và tự đài thọ phí tổn ấn loát. Nói thế có nghĩa là ngoài tôi ra, không một ai nhúng tay vào công việc này, hoặc thêm bớt một chử nào trong bản thảo, hoặc điều khiển hành động của tôi bằng bất cứ cách nào. Tôi viết bản Thông Tư ấy để thi hành ý định của Chân Sư, ngài dạy chúng tôi hãy trợ giúp vị chủ nhiệm tờ tạp chí ấy trong giai đoạn khó khăn hiện tại bằng đủ mọi cách về phương tiện tài chánh cũng như đóng góp bài vở.
Khi bản Thông Tư đã soạn thảo xong và đem lên máy in, tôi hỏi bà HPB trong một bức thơ rằng theo ý bà thì tôi có nên ký tên vào bản thông tư ấy không. Bà trã lời rằng theo ý muốn của các Chân Sư, thì nó phải được ký tên như sau: “Thay mặt HỘI ĐỒNG TIÊN THÁNH, PHÂN BỘ LUXOR (AI CẬP )”. Tôi làm y theo lời, và bản Thông Tư được công bố.
Sau đó, bà giải thích rằng công việc làm của chúng tôi được giám sát bởi một Ủy Ban gồm Bảy vị Chân Sư thuộc phân chi Ai Cập của Quần Tiên Hội. Vì bà chưa đọc qua bản Thông Tư lần nào, lúc ấy tôi mới cầm đưa cho bà một bản và bà bắt đầu đọc một cách chăm chú. Đọc xong, bà bất giác cười lớn, và bảo tôi nhìn xem những chữ cái khoản thủ ở đầu câu của mỗi doạn văn trong đó. Tôi lấy làm ngạc nhiên vô cùng mà nhận thấy rằng những chữ cái đó nếu đem ráp lại thì hợp thành thánh danh của vị Chân Sư Ai Cập, sư phụ của tôi lúc ấy. Sau đó ít lâu, tôi nhận được một chứng thư viết bằng mực vàng trên một tờ giấy xanh, dầy, cho biết rằng tôi được chính thức liên hệ đến cơ quan này, và đặt dưới sự giám sát của ba vị Chân Sư.
Trong những kinh nghiệm huyền linh của tôi hồi thuở ban đầu, không có gì gây một ấn tượng sâu xa vào trí óc tôi hơn là những sự việc trên. Điều ấy chứng minh cho tôi thấy rằng sự chuyển di tư tưởng giữa Chân Sư và đệ tử vẫn là một việc xảy ra thường xuyên, mà không gian không hề làm ngăn cách, chướng ngại. Nó cũng chứng tỏ rằng trong công việc phụng sự thế gian, người đệ tử thường được các đấng Cao Cả dìu dắt, hướng dẫn để làm những công tác mà các ngài muốn được thực hiện trong khi đó người đệ tử vẫn không hề hay biết chi cả.
Trong toàn bộ lịch sử hội Thông Thiên Học thế giới, ai đã biết được có bao nhiêu trường hợp mà mỗi người trong chúng ta vô tình đã làm những gì cần phải làm, nhưng những việc đó có lẽ đã không được thi hành nếu không có một ảnh hưởng nào từ bên ngoài đến thúc đẩy chúng ta?. Và có bao nhiêu lỗi lầm tai hại mà mỗi người trong chúng ta đã làm, bởi vì chúng ta được tự do hành động theo những dục vọng cá nhân, kết quả của sự vô minh, hèn kém, hay thành kiến chật hẹp riêng tư của chính mình? Người ta thường tự hỏi tại sao những vụ tranh chấp, xung đột, những cơn biến động gây ra bao nhiêu tai tiếng, xúc phạm đến thanh danh của Hội, lại không được các Chân Sư tiên liệu trước và ngăn chận đừng để cho chúng xảy ra? Tại sao bà HPB không được cho hay trước về những hành động của những kẻ phản bội, và trong những cơn khủng hoảng nghiêm trọng nhất của hội Thông Thiên Học, không hề thấy có sự trợ giúp nào, và không có một vị hướng dẫn tâm linh nào xuất hiện?
Lẽ tất nhiên, những câu hỏi đó thật rất vô lý. Các Chân Sư vốn đã nắm vững định luật Nhân Quả, không thể xử dụng chúng ta như những hình nộm để cho các ngài giật dây, hoặc như những con thú nhà đã được tập luyện cho biết làm theo ý chủ. Các ngài không thể xử dụng chúng ta một cách máy móc theo những đường lối đã định sẵn, can thiệp vào nghiệp quả của mỗi người, và xâm phạm đến quyền tự do hành động của chúng ta.
Vào một thời kỳ nhất định, trong cơ tiến hóa của nhân loại, có lẽ cần có một người nào đó phải làm, viết, hoặc nói một điều gì đó, mà những điều này, khi đã thực hiện xong sẽ đưa đến cả một loạt những hậu quả mong muốn. Nếu điều đó không tạo nên nghiệp quả bất lợi cho đương sự, thì sự thúc đẩy vô vi để làm công việc cần thiết đó sẽ được đưa đến cho y.
Thí dụ, vận mạng của thế giới nằm trong tay của vài ba nhà lãnh tụ hay nguyên thủ quốc gia của một vài nước siêu cường. Nếu một biến cố nhỏ nhặt nào đó xảy ra một quốc gia có thể bị tiêu diệt, hoặc một triều đại trở thành một tai họa cho cả một dân tộc, hoặc một thời kỳ hòa bình và tiến bộ cho nhân loại có thể mở màn. Nếu trong giai đoạn lịch sử đó, một trong những điều kể trên cần phải xảy ra vì sự lợi ích chung của toàn thể nhân loại, và nếu KHÔNG CÓ MỘT CÁCH NÀO KHÁC để gây nên cơn khủng hoảng cần thiết, thì chừng đó sự gợi ý cho một vị lãnh tụ ra tay hành động có thể đến từ bên ngoài.
Đây là một trường hợp đơn giản hơn, đã xảy ra trong lịch sử. Trong khoa cổ học Ai Cập, người ta đã đạt tới một trình độ mà sự tiến bộ của thế giới đòi hỏi một cái chìa khóa tinh vi hơn để đọc những cổ tự bí mật trong các Kim Tự Tháp. Thời giờ đã điểm để tiết lộ thêm những chân lý thâm sâu và vô cùng quan trọng hàm xúc trong khoa cổ tự của nền văn minh cổ Ai Cập. Vì không có cách nào khác, một người nông dân Ả Rập được gợi ý để cho y đào xới một khoảnh đất nào đó, hoặc khai quật một ngôi mả đá và cậy bật lên một cái nắp hòm đựng xác ướp. Người ta tìm thấy một bia đá hoặc một mớ lá chỉ-thảo có khắc cổ tự, y bèn đem bán cho một nhà khảo cổ, rồi người này truyền đến tay các nhà Ai Cập học uyên bác như Champollion, Young hay Ebers. Các ông này mới tìm thấy cái chìa khóa đã mất, và nhờ đó mới đọc được nhiều bản văn cổ xưa vô cùng quan trọng. Sự gợi ý vô vi cho người nông dân thất học đào xới lên những tài liệu cổ đã bị chôn lấp từ lâu, là do bàn tay trợ giúp của các đấng vô hình, tuy ẩn tàng nhưng luôn luôn dìu dắt sự tiến bộ của nhân loại.
Xin kể một trường hợp cá nhân gần gũi với chúng ta hơn: một ngày nọ tôi được gợi ý đi mua một tờ báo; trong đó tôi đọc thấy một chuyện gì đó, nó thúc đẩy tôi có một hành động tự nhiên; việc ấy làm cho tôi tiếp xúc với bà HPB, và bởi đó mới có hội Thông Thiên Học ra đời, và những hậu quả do Hội này đem đến. Khi làm cái bước đầu tiên, tôi không có công đức gì cả. Nhưng nếu việc ấy gây nên những hậu quả tốt lành, nếu tôi đóng góp công lao sức lực để làm việc với một tinh thần hiến dâng nhiệt thành và vị tha, thì chừng đó tôi cũng được chia xẻ những nghiệp tốt mà việc ấy đem đến cho nhân loại.
Có lần tôi thấy những người dân Tích Lan ở tỉnh Galle tranh nhau đưa tay ra sờ vào những rổ thúng đựng đồ vật thực của những nhà giàu đem đi cúng dường cho các sư tăng. Hỏi ra mới biết là họ tin tưởng rằng do lòng ưu ái chân thành đối với hành động bố thí của kẻ khác, họ cũng được chia xẻ một phần công đức của các thí chủ. Tôi nghiệm thấy điều ấy rất đúng, và có ghi nhận cái ý tưởng đó trong quyển “PHẬT GIÁO VẤN ĐÁP” của tôi soạn.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro