CHƯƠNG NĂM: SỰ LỢI HẠI CỦA VẤN ĐỀ ĐỒNG CỐT

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

         Mọi  người  đều  đồng  ý  rằng  những  người  đồng  cốt  chuyên  nghiệp, mà  vấn  đề  cơm  áo  hàng  ngày  tùy  thược  nơi  khả  năng  của  họ  để  tạo  nên  các  hiện  tượng  thông  linh  khi  có  thân  chủ  đến  viếng,  trong  ngững  cơn  nguy  cấp,  túng  thiếu,  thường  bị  bắt  buộc  làm  những  hiện  tượng  giả  trá  để  thay  thế  vào  khi  mà  những  hiện  tượng  thật  không  thể  xuất  hiện. Hầu  hết  các  giới  đồng  cốt  hành  nghề  đều  nghèo,  thường  là  những  người  phế  tật,  nhưng  bắt  buộc  phải  nuôi  con  hay  bảo  dưỡng  những  ông  chồng  lười  biếng  hay  bệnh  hoạn.  Vấn  đề  sinh  kế  của  họ  thật  vô  cùng  bấp  bênh,  bởi  vì  trạng  thái  đồng  cốt  tùy  thuộc  những  điều  kiện  tâm  sinh  lý  cũng  như  những  điều  kiện  thời  tiết  ngoài  khả  năng  kiểm  soát  của  họ.  Bởi  vậy,  nên  không  phải  là  một  chuyện  là  nếu  trong  những  cơn  túng  quẩn,  dưới  sự  thúc  đẩy  của  những  nhu  cầu  cấp  bách,  họ  không  còn  đặt  nặng  vấn  đề  lương  tâm.  Lẽ  tự  nhiên,  họ  đễ  bị  lung  lạc  trước  sự  cám  dỗ  mà  những  thân  chủ  mê  tín  bày  ra  trước  mắt  họ,  những  người  này  không  đòi  hỏi  gì  hơn  là  trả  tiền  để  mà  bị  gạt.  Dù  sao,  đó  là  những  điều  mà  các  đồng  tử  chuyên  nghiệp  giải  thích  cho  tôi  nghe.

           Họ  đã  kể  lại  cho  tôi  nghe  cuộc  đời  khốn  khổ  của  họ,  việc  họ “có đồng” đã  tác  hại  thế  nào  trong  thời  thơ  ấu,  làm  cho  họ  bị  lẩn  tránh  và  ngược  đãi  bởi  những  bạn  học  cùng  lớp,  bị  theo  dõi  và  chọc  ghẹo  bởi  những  kẻ  tò  mò, bị  dùng  làm  một  hiện  tượng  lạ  mắt  bởi  những “gánh  xiếc” lưu  động trả  tiền  cho  cha  mẹ  họ  thụ  hưởng,  và  mang  lấy  những  chứng  bệnh  hoạn  thần  kinh,  bệnh  lao  phổi,  hay  tràng  nhạc,  làm  tàn  phá  sức  khỏe  của  họ.

         Bà  Hardinge  Britten,  một  nhà  chuyên  môn  khảo  cứu  về  vấn  đề  thông  linh  và  có  nhiều  kinh  nghiệm  về  các  giới  đồng  cốt, có  nói  rằng  bà ít  khi  thấy  một  đồng  tử  nào  mà  không  có  một  khí  chất  bệnh  hoạn,  thường  là  có  bệnh  tràng  nhạc  hay  bệnh  lao  và  sự  khám  nghiệm cơ  thể  cho  thấy  rằng  họ  cũng    thường  hay  có  những  ám  tật  nơi  cơ  quan  sinh  dục.  Trong quyển “Art  Magic”, bà  viết:

          “MỘT  SỰ  VIỆC  CÓ  Ý  NGHĨA  ĐỂ  LƯU  Ý  CÁC  NHÀ  SINH  LÝ  VÀ  TÂM  LÝ  HỌC,  LÀ  DƯỜNG  NHƯ  NHỮNG  NGƯỜI  MẮC  BỆNH   TRÀNG  NHẠC VÀ  BỆNH  SƯNG  HẠCH  TUYẾN,  THƯỜNG  LÀ  NHỮNG  MÔI  TRƯỜNG  THUẬN  LỢI  ĐỂ  CHO  CÁC  VONG  LINH  TÁC  ĐỘNG  TRÊN  ĐỊA  HẠT  VẬT  CHẤT  HỮU  HÌNH.  NHỮNG  PHỤ  NỮ  HÌNH  VÓC  MẢNH  MAI,  YẾU  ĐUỐI,  VÀ  NHỮNG  NGƯỜI  CÓ  TÍNH  CHẤT  KHIẾT  BẠCH,  NGÂY  THƠ,  VÔ  TỘI,  NHƯNG  HỆ  THỐNG  HẠCH  TUYẾN  CỦA  HỌ  Đà BỊ  GẬM  NHẤM  BỞI  CHỨNG  BỆNH  TRÀNG  NHẠC,  THƯỜNG  DỄ  TRỞ  NÊN  NHỮNG  KHÍ  CỤ  HỮU  HIỆU  CHO  SỰ  TÁC  ĐỘNG  CỦA  CÁC  VONG  LINH  TRÊN  CÕI  VẬT  CHẤT  HỒNG  TRẦN”.

           Những  hoạt  động  đồng  cốt  thực  hành  ở  những  nơi  công  cộng,  là  một  hiểm  họa  trầm  trọng  trên  phương  diện  sức  khỏe  thể  chất  cũng  như  trên  phương  diện  tinh  thần.  Tất  cả  mọi  y  sĩ  đều  nói  rằng  ngủ  trong  một  gian  phòng  không  có  thoáng  khí,  chung  lộn  với  một  số  đông  người  hỗn  tạp,  trong  số  đó  có  người  bệnh  tật  là  một  điều  vô  cùng  nguy  hiểm  và  có  thể  là  một  tai  họa  làm  chết  người.  Nhưng  nguy  cơ  này  còn  không  thấm  vào  đâu  so  với  cái  hiểm  họa  rình  rập  một  bên  người  đồng  cốt  hành  nghề  công  cộng,  phải  chấp  nhận  sự  có  mặt  và  chịu  sự  xâm  nhập  từ  điển  của  tất  cả  mọi  người  đủ  các  giới  và  đủ  mọi  thành  phần.  Trong  số  đó,  đương  nhiên  có  người  tốt  kẻ  xấu  lẫn  lộn,  gồm  cả  những  người  bệnh  tật  về  thể  xác  cũng  như  về  tinh  thần,  những  kẻ  thô  bạo,  dâm  ác,  vật  chất,  ô  trược,  vô  đạo,  vô  tín  ngưỡng,  sa  đọa,  tội  lỗi  trong  tư  tưởng,  lời  nói,  hay  việc  làm  và  trái  ngược  lại.  Thật  tội  nghiệp  thay  cho  những  người  đồng  cốt  bất  hạnh  ấy;  chẳng  khác  nào  những  gái  làng  chơi  vì  tiền  mà  cung  hiến  thể  xác  cho  mọi  người,  họ  để  cho  phần  tâm  linh  của  họ  chịu  sự  ô  nhiễm,  dày  vò  của  khách  bốn  phương!  Thật  hạnh  phúc  thay  cho  những  người  nào  có  thể  phát  triển  và  thực  hành  những  khả  năng  thông  linh  của  mình  trong  những  hoàn  cảnh  tịnh  khiết  và  lành  mạnh,  giữa  một  tập  đoàn  chọn  lọc  gồm  những  người  ưu  tú,  tốt  lành: đó  là  trường  hợp  của  những  nhà  nữ  đồng  tử  và  linh  thị  thời  cổ  xưa,   được  giữ  gìn,  bảo  dưỡng  và  chăm  sóc  cẩn  thận  trong  các  đền  thờ…

                                                  II

          Mùa  hè  năm  1875, một  phụ  nữ  tên  Youngs  hành  nghề  đồng  tử  để  sinh  sống  tại  Nữu  Ước. Hiện  tượng  chính  của  bà  này  là  sai  khiến  âm  binh  nâng  cao  lên  một  cây  đàn  dương  cầm  lớn  hạng  nặng,  và  làm  cho  nó  nghiêng  qua  nghiêng  lại  hai  đầu  để  làm  nhịp trong  khi  bà  ấy  đánh  đàn.

           Tôi  nghe  nói  vậy, bèn  mời  bà  HPB  cùng  đi  với  tôi  đến  nơi  để  xem  hiện  tượng  lạ  ấy.  Tôi  đem  theo  ba  vật  đựng  trong  túi  để  thử  khả  năng  đồng  tử  của  bà  kia,  là  một  quả  trứng  gà  còn  sống,  và  hai  hột  hồ  đào.  Tôi  không  cần  phải  sử  dụng  trí  nhớ,  vì  tôi  còn  cất  giữ  bài  tường  thuật  chính  xác  về  sự  việc  này  đăng  trên  báo  NEW  YORK  SUN  ra  ngày  4 tháng 9 năm  1875.  Hôm  ấy  có  tất  cả  mười  lăm  người  đến  dự  buổi  họp  đàn.  Phóng viên nhật  báo  ấy  viết  như  sau:

          “CUỘC  BIỂU  DIỄN  BẮT  ĐẦU  BẰNG  VIỆC  DỞ  HỔNG  CÂY  ĐÀN  DƯƠNG  CẦM (PIANO ) BỞI  NHỮNG  SỨC  MẠNH  VÔ  HÌNH, TRONG  KHI  BÀ  ĐỒNG  TỬ  YOUNGS  ĐẶT  NHẸ  HAI  BÀN  TAY  LÊN  MẶT  ĐÀN.  CÁC  VONG  LINH  KHUẤT  MẶT  SẼ  GÕ  NHỊP  BA  CÁI  HOẶC  MỘT  CÁI  TRÊN  CÂY  ĐÀN  ĐỂ  TỎ  Ý  THUẬN  HAY  KHÔNG  THUẬN  LÀM  CUỘC  BIỂU  DIỄN.  KHI  Đà SẴN  SÀNG  BÀ  NGỒI  XUỐNG  GHẾ  VÀ  BẮT  ĐẦU  CHƠI  VÀI  BẢN  NHẠC, TRONG  KHI  ĐÓ  CÂY  ĐÀN  TỰ  ĐỘNG  LÊN  CAO  XUỐNG  THẤP  THEO  NHỊP  ĐÀN.  KẾ  ĐÓ,  BÀ  ĐỨNG  QUA  MỘT  BÊN  VÀ  GỌI  ĐẠI  TÁ  OLCOTT  VÀ  NHỮNG  NGƯỜI  CÓ  MẶT  MUỐN  LÀM  CUỘC  THÍ  NGHIỆM,  MỖI  NGƯỜI  HÃY  ĐẶT  BÀN  TAY  TRÁI  CỦA  MÌNH  PHÍA  MẶT  DƯỚI  CÂY  ĐÀN,  CÒN  BÀ  CŨNG  ĐẶT  NHẸ  MỘT  BÀN  TAY  Y  NHƯ  VẬY.  XONG  RỒI,  THEO  LỜI  YÊU  CẦU  CỦA  BÀ  ĐỒNG  TỬ,  MỘT  ĐẦU  CỦA  CÂY  ĐÀN  DƯƠNG  CẦM  RẤT  NẶNG  ĐƯỢC  DỞ  HỔNG  LÊN  KHỎI  SÀN  GẠCH  MÀ  KHÔNG  CÓ  SỰ  DÙNG  SỨC  CỐ  GẮNG  CỦA  MỘT  NGƯỜI  NÀO.  ĐẾN  ĐÂY,  ĐẠI  TÁ  OLCOTT  YÊU  CẦU  BÀ  ĐỒNG  TỬ  CHO  ÔNG  LÀM  MỘT  THÍ  NGHIỆM  KHÁC.  BÀ  NÀY  VUI  LÒNG,  ĐẠI  TÁ  LIỀN  ĐƯA  RA  MỘT  QUẢ  TRỨNG  GÀ  ĐỰNG  SẴN  TRONG  MỘT  CÁI  HỘP,  VÀ  YÊU  CẦU  BÀ  ĐẶT  QUẢ  TRỨNG  GIỮA  BÀN  TAY  BÀ  VÀ  MẶT  DƯỚI  CỦA  CÂY  ĐÀN,  RỒI  YÊU  CẦU  CÁC  VONG  LINH  NÂNG  CÂY  ĐÀN  LÊN.  BÀ  ĐỒNG  TỬ  NÓI  RẰNG  TRONG  THỜI  GIAN  HÀNH  NGHỀ  ĐỒNG  TỬ , BÀ  CHƯA  TỪNG  LÀM  CUỘC  THÍ  NGHIỆM  NHƯ  VẬY  BAO  GIỜ,  VÀ  BÀ  KHÔNG  CHẮC  SẼ  THÀNH  CÔNG,  NHƯNG  BÀ  CŨNG  BẰNG  LÒNG  LÀM  THỬ.  BÀ  CẦM  LẤY  QUẢ  TRỨNG  ÁP  VÀO  MẶT  DƯỚI  CÂY  ĐÀN  THEO  LỜI  DẶN,  VỚI  BÀN  TAY  KIA  BÀ  VỖ  VÀO  THÙNG  CÂY  ĐÀN  VÀ  YÊU  CẦU  CÁC  VONG  LINH  HÃY  THỬ  RA  SỨC.  NGAY  TỨC  KHẮC,  CÂY  ĐÀN  LẠI  NÂNG  CAO  LÊN  NHƯ  TRƯỚC  VÀ  TREO  LƠ  LỬNG  MỘT  LÚC  TRÊN  KHÔNG  TRUNG. CUỘC  THÍ  NGHIỆM  ĐỘC  ĐÁO  VÀ  MỚI  LẠ  NÀY  Đà THÀNH  CÔNG  TRỌN  VẸN.”

         Kế  đó,  bà  Youngs  yêu  cầu  những  vị  nào  mập  mạp  nặng  cân  nhất  trong  cử  tọa  hãy  ngồi  lên  mặt  đàn  dương  cầm,  và  sau  khi  có  bảy  người  thân  hình  đồ  sộ  vừa  nam  vừa  nữ  đã  ngồi  lên,  bà  đánh  một  bản  nhạc  hành  khúc,  và  tất  cả  nội  vụ,  cả  người  lẫn  dương  cầm,  đều  được  dở  hổng  lên  một  cách  dễ  dàng.  Đến  đây,  Đại  Tá  Olcott  mới  đưa  ra  hai  hột  hồ  đào ( walnut ) và  yêu  cầu  các  vong  linh  khuất  mặt  hãy  làm  bể  những  cái  vỏ  cứng  bên  ngoài  dưới  chân  cây  đàn  mà  không  làm  giập  cái  nhân  ở  bên  trong,  mục  đích  là  để  chứng  minh  rằng  có  sự  tác  động  của  một  sức  mạnh  khác  hơn  là  của  bà  đồng  tử  và  cái  sức  mạnh  ấy  có  sự  điều  khiển  của  một  trí  lực  thông  minh.  Những  vong  linh  tỏ  ý  bằng  lòng,  nhưng  vì  những  cây  chân  đàn  dương  cầm  đều  đặt  trên  các  bánh  xe  lăn,  nên  đành  phải  bỏ  cuộc  thí  nghiệm  vì  không  thể  thực  hiện  được.  Kế  đó,  Đại  Tá  Olcott  yêu  cầu  bà  nọ  để  cho  ông  cầm  quả  trứng  và  đặt  ở  mặt  dưới  cây  đàn,  còn  bà  đặt  bàn  tay  dưới  bàn  tay  của  ông,  để  chứng  minh  một  cách  tuyệt  đối  sự  kiện  rằng  không  có  một  sự  dùng  sức  cố  gắng  nào  của  bà  đồng  tử.  Cuộc  thí  nghiệm  này  cũng  được  chấp  thuận  và  thi  hành  ngay  tức  khắc.  Cây đàn cũng  được  nâng  nhẹ  lên  như  trước.  Sau  cùng,  buổi  họp  đàn  chiều  hôm  ấy  kết  thúc  bằng  việc  NÂNG  NHẸ  CÂY  ĐÀN  LÊN  KHÔNG  TRUNG  MÀ  KHÔNG  CÓ  VIỆC  ĐỤNG  CHẠM  HAY  ĐẶT  NHẸ  BÀN  TAY  CỦA  BÀ  ĐỒNG  TỬ.

           Đó  hẳn  là  sự  biển  lộ  rất  độc  đáo  của  một  sức  mạnh  vô  hình.  Không  những  một  cây  đàn  dương  cầm  hạng  lớn  và  rất  nặng  mà  sức  một  người  không  thể  dở  nổi  một  đầu,  lại  được  nâng  nhẹ  lên  dễ  dàng  mà  không  có  sự  dùng  sức  cố  gắng  của  người  đồng  tử  hay  của  một  người  nào  có  mặt  tại  chỗ,  trong  một  gian  phòng  thắp  đèn  sang,  mà  còn  có  sự  tác  động  của  một  trí  lực  thông  minh,  hiểu  biết  và  làm  đúng  theo  mọi  lời  yêu  cầu.

         Việc  này  hẳn  là  không  có  bao  nhiêu  giá  trị  tâm  linh,  nhưng  nó  hàm  xúc  một  ý  nghĩa  làm  đảo  lộn  những  lý  thuyết  của  Khoa  Vật  Lý  Học  hiện  đại.

                                                  III

           Một  hiện  tượng  đồng  tử  khác  có  tính  chất  thi  vị  hơn  và  hứng  thú  hơn  nữa  là  của  bà  Mary  Baker  Thayer, ở  Boston,  mà  tôi  đã  dành  trọn  hết  năm  tuần  để  theo  dõi,  cũng  trong  mùa  hè  năm  ấy. Bà  này  có  khả  năng  đặc  biệt  là  làm  cho  các  thứ  cỏ  cây  hoa  lá  rơi  rụng  như  mưa  chung  quanh  bà  trong  khi  họp  đàn,  những  cành  lá  và  bông  hoa  này  đều  còn  tươi  tốt  dường  như  mới  vừa  ngắt  bẻ  từ  các  cây  lớn,  có  khi  là  những  loại  cây  cỏ  lạ  từ  phương  xa  đem  về  trồng  ở  xứ  này.

          Trong  các  buổi  họp  đàn,  khi  các  quan  khách  đã  tụ  họp  đông  đủ,  một  vị  khách  khả  kính  được  mọi  người  đồng  ý  yêu  cầu  đứng  ra  xem  xét  các  phòng  và  bàn  ghế  trong  nhà,  khép  kín  các  cửa  sổ,  khóa  chặt  cửa  cái  và  cất  giữ  chìa  khóa.  Người  đồng  tử  cũng  chịu  để  cho  tôi  khám  xét  kỹ  lưỡng  để  biết  chắc  là  bà  không  có  dấu  bông  hoa  hay  những  vật  gì  khác  trong  mình.  Có  khi,  bà  còn  để  cho  tôi  trói  và  nhốt  bà  trong  một  cái  bao  bố  cho  bà  không  thể  cử  động  hoặc  sử  dụng  tay  chân  để  làm  bất  cứ  một  động  tác  nào.  Kế  đó,  mọi  người  mới  ngồi  chung  quanh  một  cái  bàn  ăn  lớn,  nắm  tay  nhau  thành  vòng ( luôn  cả  bà  đồng  tử ),  tắt  hết  đèn  để  phòng  tối  thui  và  chờ  đợi  hiện  tượng  xảy  ra.  Sau  một  lát,  người  ta  nghe  có  tiếng  động  nhẹ  của  vật  gì  rơi  trên  mặt  bàn  trống  trơn,  và  mùi  thơm  tỏa  ra  khắp  phòng.  Khi  đó  bà  Thayer  mới  yêu  cầu  thắp  đèn  lên,  thì  người  ta  thấy  trên  bàn  có  đầy  những  hoa  thơm  cỏ  lạ,  đôi  khi  lại  thấy  những  cành  hoa  cắm  vào  áo  hay  gài  trên  tóc  của  các  quan  khách  ngồi  tham  dự.  Thỉnh  thoảng,  có  vài  con  bươm  bướm,  hoặc  một  con  chim  quyên,  chim  yến,  hay  chim  hoàng  anh,  hay  vài  loại  chim  nhỏ  vừa  kêu  ríu  rít  vừa  bay  lượn  khắp  phòng;  hoặc  một  con  cá  vàng  hãy  còn  ướt  nhảy  trên  mặt  bàn,  dường  như  vừa  mới  lấy  ra  từ  trong  hồ  nước.  Đôi  khi,  những  người  có  mặt  cũng  thốt  lên  những  tiếng  kêu  ngạc  nhiên  khi  họ  nhận  thấy  nằm  trong  tay  họ  một  cái  hoa  hay  một  nhánh  kiểng  mà  họ  đã  nghĩ  trong  trí  và  thầm  lặng  yêu  cầu  được  đem  đến  cho  họ.

         Trong  một  buổi  họp  đàn  khác,  có  một  cây  thạch  thảo  xuất  hiện  trước  các  quan  khách,  còn  nguyên  những  rễ  cây  và  đất  bám  vào  như  vừa  mới  được  bứng  lên,  lại  có  cả  ba  con  trùng  đất  còn  đang  ngo  ngoe  quằn  mình  giữa  đám  rễ.  Nhưng  tôi  còn  chứng  kiến  một  việc  lạ  hơn  nữa.

          Một  buổi  trưa  hè,  tôi  đến  viếng  một  nghĩa  địa  ở  ngoại  ô  thành  phố  Boston,  và  khi  đi  qua  một  vườn  kiểng,  tôi  chú  ý  đến  một  giống  cây  lạ  với  những  lá  hẹp  và  dài,  có  sọc  trắng  và  xanh  lợt,  mà  khoa  Thảo  Mộc  Học  gọi  là  cây  Long  Huyết ( Dracaena  Regina ).  Tôi  lấy  bút  chì  xanh  vẽ  ở  mặt  dưới  một  lá,  cái  hình  một  ngôi  sao  sáu  góc  và  âm  thầm  kêu  gọi  bằng  tư  tưởng  các  âm  binh  hãy  đem  cái  lá  ấy  đến  cho  tôi  tại  nhà  bà  Thayer  trong  buổi  họp  đàn  tối  hôm  sau.

          Tối  hôm  đó,  tôi  ngồi  bên  cạnh  bà  đồng  tử,  và  nắm  hai  bàn  tay  bà  để  bảo  đảm  cho  chắc  rằng  bà  vẫn  trung  thực.  Trong  bóng  tối,  tôi  cảm  giác  được  một  vật  gì  mát  lạnh  và  ướt  rơi  trên  một  bàn  tay  tôi,  và  khi  đèn  được  thắp  sáng  trở  lại,  thì  thấy  vật  ấy  chính  là  cái  lá  cây  Long  Huyết  mà  tôi  đã  làm  dấu  ngày  hôm  qua!  Để  phối  kiểm  lại  cho  chắc, tôi  đã  trở  lại  vườn  kiểng  và  nhận  thấy  cái  lá  của  tôi  làm  dấu,  thật  sự  đã  bị  ngắt  ra  khỏi  nhánh  và  cái  lá  ấy  mà  tôi  đem  theo  trong  túi,  đem  ráp  lại  thì  đúng  với  chỗ  bị  ngắt!  Nhiều  sự  kiện  tương  tự  cũng  đã  làm  cho  tôi  tin  chắc  rằng  bà  Thayer  là  một  người  đồng  tử  chân  chính.  Ngoài  ra,  còn  có  một  hiện  tượng  sinh  lý  không  những  đã  làm  tăng  thêm  lòng  tin  của  tôi,  mà  còn  làm  sáng  tỏ  thêm  toàn  bộ  vấn  đề  đồng  tử.  Khi  tôi  nắm  hai  bàn  tay  bà  trong  hai  bàn  tay  tôi,  tôi  nhận  thấy  rằng  đúng  vào  lúc  mà  những  cỏ  cây  hoa  lá  bắt  đầu  rơi  trên  mặt  bàn  thì  bà  đồng   tử  rung  mình,  thở  dài,  và  hai  bàn  tay  trở  nên  lạnh  ngắt  như  đồng.  Một  lúc  sau  đó,  hai  bàn  tay  bà  mới  trở  lại  nhiệt  độ  bình  thường.  Điều  đó  chỉ  rằng  dường  như  có  một  sự  hoàn  toàn  biến  đổi  về  nhiệt  độ  trong  cơ  thể  của  người  đồng  tử  trong  khi  thực  hành  các  hiện  tượng.

          Khi  bà  HPB  kêu  gọi  một  vong  linh  hiện  nguyên  hình  từ  trong  phòng  của  bà  đồng  tử  Holmes  trong  một  cuộc  biểu  diễn  trước  đây,  bà  nắm  chặt  lấy  bàn  tay  tôi  một cách  xúc  động, và  bàn  tay  bà  trở  nên  lạnh  như  nước  đá.  Bàn  tay  của  Signor B., nhà  phù  thủy  Ý  cũng  lạnh  ngắt  sau  hiện  tượng  làm  mưa;  và  sự  chuyển  biến  từ  trạng  thái  lên  đồng  qua  trạng  thái  xuất  thần  nhập  hóa  và  những  giai  đoạn  thâm  sâu  hơn  của  trạng  thái  vô  thức  đều  đi  kèm  với  hiện  tượng  hạ  thấp  nhiệt  độ  của  cơ  thể  một  cách  bình  thường.

                                                  IV

      Trong  một  buổi  họp  đàn  khác  chỉ  có  ba  người  tham  dự,  là  bà  Hougton, vợ  của  một  vị  luật  sư  tên  tuổi  ở  Boston,  một  phụ  nữ  khác,  và  tôi.  Chúng  tôi  ngồi  lại  một  bàn,  tôi  nắm  hai  bàn  tay  bà  đồng  tử, một  bà  khách đi  đóng  các  cửa  trong  nhà  còn  một  bà  coi  việc  đèn  đuốc. Khi  đèn  đã  tắt,  chúng  tôi  ngồi  đợi  ít  lâu  trong  bong  tối,  nhưng  không  nghe có tiếng  hoa  rơi  trên  bàn.  Bỗng  nhiên,  tôi  có  cảm  giác  một  cánh  hoa  mát  và  ướt  rơi  nhẹ  trên  lưng  bàn  tay  tôi.  Khi  đèn  thắp  sáng,  thì  thấy  đó  là  một  cái  hoa  hường  rất  đẹp,  vừa  mới  nở  được  một  nửa,  hãy  còn  đượm  những  giọt  sương  lung  linh  ướt.  Bà  đồng  tử  vừa  giật  mình  dường  như  có  người  khuất  mặt  nói  chuyện  với  bà  từ  đằng  sau,  và  nói:

         “Thưa  Đại  Tá,  những  âm  binh  nói  rằng  cánh  hoa  này  là  quà  tặng  cho  bà  HPB”.

         Tôi  bèn  đưa  cái  hoa  cho  bà  Houghton,  rồi  bà  này  trao  lại  cho  bà  HPB  khi  chúng  tôi  về  đến  nhà,  tại  đây  chúng  tôi  thấy  bà  HPB  đang  vừa  hút  thuốc  lá  vừa  nói  chuyện  với  luật  sư  Houghton.

          Bà  HPB  cầm  lấy  cái  hoa  đưa  lên  mũi  để  thưởng  thức  mùi  thơm  của  nó,  gương  mặt  đăm  chiêu  với  một  cái  nhìn  xa  vắng  trong  cặp  mắt,  mà  những  bạn  thân  của  bà  thường  thấy  mỗi  khi  bà  làm  các  hiện  tượng  thần  thông.  Cơn  mộng  mơ  của  bà  bị  gián  đoạn  bởi  luật  sư  Houghton  khi  ông  nói:

        “Thưa  bà,  cái  hoa  này  thật  đẹp, bà  hãy  đưa  cho  tôi  xem  một  chút”.

          Bà  đưa  cái  hoa  cho  ông  cũng  vẫn  với  cái  vẻ  mặt  đăm  chiêu,  và  với  một  cử  chỉ  vô  tư  máy  móc.  Vị luật sư  ngửi  hoa,  rồi  thình  lình  kêu  lên:

        “Ủa !  Sao hoa nặng  vậy? Tôi  chưa  hề  thấy  hoa  nào  như  cái  hoa  này.  Quí  vị  hãy  xem,  sức  nặng  của  nó  làm  cong  cái  cuống  hoa!”

          Tôi  mới  cầm  lấy  cái  hoa  để  xem  lại,  vì  mới  lúc  nãy  khi  nó  còn  ở  trên  tay  tôi,  không  thấy  có  gì  khác  thường.  Nhưng  bây  giờ  thì  lạ  thật,  nó  lại  rất  nặng.  Lúc ấy, bà  HPB  mới  nói:

         “Hãy cẩn  thận,  đừng  làm  nó  gẫy”

         Tôi  gượng  nhẹ  nâng  cái  hoa  lên  giữa  ngón  tay  cái  và  ngón  trỏ  của  bàn  tay  mặt  và  nhìn  xem  cho  kỹ,  nhưng  không  thấy  lý  do  gì  làm  cho  nó  có  sức  nặng.  Bỗng  nhiên,  tôi  thấy  có  một  chấm  nhỏ  ánh  sáng  màu  vàng  chiếu  nơi  trung  tâm  cái  hoa,  và  trước  khi  tôi  có  thì  giờ  nhìn  lại  lần  nữa,  thì  một  cái  nhẫn  vàng  nặng  lớn  bản  và  trơn  bong  từ  trong  nụ  hoa  nhảy  vọt  ra,  dường  như  do  sức  đẩy  của  một  cái  lò  xo,  và  rơi  xuống  đất  ngay  dưới  chân  tôi.  Cái  hoa  liền  đứng  ngay  trở  lại  trên  cái  cuống,  không  còn  nặng  như  lúc  nãy,  mà  trở  lại  trạng  thái  bình  thường.

          Ông  Houghton  và  tôi  đều  là  luật  sư,  vốn  có  bản  năng  thận  trọng  của  nghề  nghiệp,  chúng  tôi  bèn  xem  xét  kỹ  lại  bên  trong  cái  hoa,  nhưng  không  thấy  có  dấu  vết  gì  khả  nghi  chỉ  rằng  có  bàn  tay  người  sờ  mó  vào:  những  cánh  hoa  được  xếp   lên  nhau  một  cách  đều  đặn  và  chặt  chẽ,  và  người  ta  không  thể  nhét  cái  nhẫn  vàng  vào  bên  trong  mà  không  làm  sứt  mẻ  cái  nụ  non  ở  giữa.  Vả  lại,  làm  sao  bà  HPB  có  thể  chơi  cái  trò  giả  mạo  ấy  ngay  trước  mắt  chúng  tôi,  dưới  ánh  sáng  của  ba  ngọn  đèn,  trong  khi  bà  cầm  cái  hoa  trong  bàn  tay  mặt  chỉ  có  độ  hai  phút  trước  khi  đưa  nó  cho  ông  Houghton?

          Hiện  tượng  này  có  thể  giải  thích  bằng  khoa  Huyền  Môn:  vật  chất  trong  chiếc  nhẫn  và  vật  chất  trong  những  cánh  hoa  có  thể  đã  được  nâng  cao  từ  chiều  đo  thứ  ba  lên  chiều  đo  thứ  tư,  và  phục  hồi  trở  lại  chiều  đo  thứ  ba  vào  lúc  chiếc  nhẫn  nhảy  vọt  ra  ngoài  cái  hoa.  Quả  thật  sự  việc  đã  xảy  ra  đúng  y  như  vậy.  Cái  nhẫn  ấy  cân  nặng  ba  chỉ,  và  tôi  đang  đeo  nó  trong  lúc  này.  Nó  không  phải  được  tạo  ra  từ  chỗ  hư  không,  mà  chỉ  là  một  vật  được  di  chuyển  xuyên  qua  không  gian.

          Một  năm  rưỡi  sau  đó,  sau  khi  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế   Giới  được  thành  lập  độ  một  năm,  bà  HPB  và  tôi  cư  trú  tại  New  York  trong  hai  gian  phòng  khác  nhau  cùng  trong  một  nhà.  Một  ngày  nọ,  cô  em  gái  tôi,  là  bà  W.H. Mitchell,  đi  cùng  với  chồng  đến  viếng  chúng  tôi,  và  trong  câu  chuyện  hàn  huyên  tâm  sự,  cô  yêu  cầu  cho  xem  chiếc  nhẫn  và  nói  cho  cô  nghe  câu  chuyện  lịch  sử  của  nó.  Khi  xem  xong,  cô  đeo  thử  vào  ngón  tay  rồi  tháo  ra  đặt  nằm  trong  lòng  bàn  tay  cô  để  trả  lại  cho  bà  HPB.  Bà  HPB  cứ  để  nó  nằm  y  như  thế  mà  không  động  đến,  khép  các  ngón  tay  cô  em  tôi  trên  chiếc  nhẫn,  nắm  bàn  tay  ấy  trong  một  lúc,  rồi  buông  ra  và  bảo  cô  em  tôi  hãy  nhìn  lại  xem.  Thì  ra  nó  không  còn  là  một  chiếc  nhẫn  trơn  nữa,  mà  chúng  tôi  thấy  trên  cái  khoen  vàng  có  cẩn  ba  hột  kim  cương  nhỏ  xếp  thành  hình  tam  giác.

         Việc ấy  được  thực  hiện  bằng  cách  nào?  Giả  thuyết  ít  huyền  diệu  nhất  là  bà  HPB  đã  cho  một  thợ  kim  hoàn  cẩn  ba  hột  kim  cương  trên  chiếc  nhẫn  từ  trước,  và  dùng  thuật  thôi  miên  che  mắt  để  chúng  tôi  không  nhìn  thấy,  cho  đến  khi  thị  giác  của  chúng  tôi  được  giải  tỏa  vào  lúc  cô  em  tôi  mở  bàn  tay  ra.  Điều  này  có  thể  hiểu  được  như  một  phép  thuật  thôi  miên;  tôi  đã  từng  thấy  những  hiện  tượng  đó,  và  chính  tôi  cũng  có  thể  làm  được  như  vậy.  Người  ta  có  thể  làm  che  khuất  tầm  nhãn  quang  của  kẻ  khác,  không  những  đối  với  vài  hột  kim  cương,  mà  còn  có  thể  làm  che  dấu  một  người,  một  cử  tọa  đông  đảo,  một  cái  nhà,  một  cái  cây,  một  quả  núi,  hay  bất  cứ  vật  gì:  thuật  thôi  miên  dường  như  có  khả  năng  tác  động  vô  giới  hạn.  Hiện  tượng  chiếc  nhẫn  nạm  kim  cương  có  thể  được  giải  thích  ra  sao  tùy  ý; nó  vẫn  là  một  sự  thành  công  hoàn  toàn.

                                                   V

         Những  sự  việc  kể  trên  sẽ  giúp  cho  độc  giả  có  một  ý  niệm  về  những  hiện  tượng  lạ  lù        ng  vẫn  tiếp  diễn  hồi  thời  đó  ở  các  xứ  phương  Tây. Ở  phương  Đông  thỉnh  thoảng  người  ta  cũng  từng  nghe  nói  về  những  sự  di  chuyển  đồ  vật  tương  tự  xuyên  qua  không  gian,  nhưng  luôn  luôn  với  một  sự  kinh  khiếp,  sợ  hãi,  và  những  người  chứng  kiến  không  hề  nghĩ  đến  việc  đem  các  hiện  tượng  ấy  ra  làm  những  đề  tài  khảo  cứu  khoa  học.  Trái  lại,  chúng  bị  coi  như  những  việc  chẳng  lành,  do  tác  động  của  những  vong  linh  bất  hảo,  thường  là  những  vong  hồn  đọa  lạc  của  những  bạn  bè,  thân  quyến  hãy  còn  bám  víu  cõi  Trần  và  người  ta  chỉ  muốn  tảo  trừ  những  sự  việc  ấy  như  những  chuyện  quấy  rầy,  phiền  nhiễu.

          Đối  với  người  Đông  Phương,  vốn  có  một  truyền  thống  tâm  linh  vững  chắc  từ  lâu  đời,  thì  sự  giao  tiếp  giữa  người  sống  với  vong  linh  người  chết  là  một  bằng  chứng  chỉ  rằng  người  chết  vẫn  chưa  đoạn  tuyệt  một  cách  thoải  mái  nhẹ  nhàng  với  cuộc  đời  thế  gian,  và  như  vậy,  họ  bị  ngăn  trở  trên  con  đường  tiến  hóa  tự  nhiên  để  vượt  lên  cõi  giới  tinh  thần.  Người  Á  Đông  coi  việc  biểu  diễn  những  hiện  tượng  thuộc  loại  kể  trên  như  những  bằng  chứng  chỉ  rằng  các  người  biểu  diễn  ấy  chỉ  có  những  quyền  năng  thuộc  loại  thấp  kém.

         Trong  thời  gian  ở  Ấn  Độ,  tôi  đã  từng  nghe  nhiều  người  bổn  xứ  nói  rằng  thật  là  một  điều  đáng  tiếc  mà  thấy  bà  HPB  biểu  diễn  các  hiện  tượng  thần  thông,  bởi  vì  việc  ấy  chỉ  rằng  bà  chưa  đạt  tới  trình  độ  cao  siêu  trong  pháp  môn  Yoga.  Thật  vậy,  Đạo  Sư  Patanjali,  cũng  như  Phật  Thích  Ca,  đã  từng  cảnh  cáo  các  môn  đồ  không  nên  biểu  diễn  phép  thuật  thần  thông  khi  họ  phát  triển  được  những  quyền  năng  thần  bí  trong  diễn  trình  tiền  hóa  tâm  linh  của  họ.  Tuy nhiên,  chính  đức  Phật  đôi  khi  cũng  đã  làm  các  hiện  tượng  thần  thông,  nhưng  ngài  chỉ  làm  như  vậy  trong  khi  thuyết  pháp  để  kêu  gọi  sự  chú  ý  của  quần  chúng  và  thúc  đẩy  họ  cố  gắng  công  phu  tu  luyện  sau  khi  đã  thanh  lọc  bản  thể  cho  bớt  nhiễm  trần.  Phần  nhiều  các  bậc  giáo  chủ  khác  cũng  áp  dụng  phương  pháp  đó. Phải  chăng  bà  HPB  cũng  làm  giống  y  như  vậy?  Trong  khi  làm  các  phép  thuật  thần  thông,  phải  chăng  bà  đã  có  cảnh  giác  tất  cả  mọi  người  rằng  đó  chỉ  là  những  điều  phụ  thuộc  nhỏ  mọn,  không  đáng  kể  trên  đường  Đạo?  Không  ai  có  thể  phủ  nhận  điều  ấy;  mọi  người  đều  nhìn  nhận  là  bà  vẫn  luôn  luôn  dạy  rằng  các  hiện  tượng  thần  thông  chỉ  có  tác  dụng  là  để  thực  nghiệm  khoa  triết  học  tâm  linh,  cũng  như  những  cuộc  thí  nghiệm  hóa  chất  đối  với  khoa  Hóa  Học  vậy.

          Bà  hẳn  là  đã  sai  lầm  mà  phung  phí  thần  lực  trong  các  hiện  tượng  huyền  linh  để  làm  ngạc  nhiên  những  quan  khách  tầm  thường,  không  quan  trọng,  thần  lực  ấy  có  thể  dùng  một  cách  hữu  hiệu  hơn  nhiều  để  phá  hủy  bức  rào  vô  tín  ngưỡng  và  độc  đoán  của  khoa  học  duy  vật  Tây  Phương.  Tuy  nhiên,  nhờ  đó  bà  đã  thuyết  phục  được  một  số  người,  chịu  ảnh  hưởng  của  bà  mà  đã  đóng  góp  công  lao  tích  cực  vào  phong  trào  Thông  Thiên  Học  vĩ  đại  của  chúng  ta,  và  vài  người  trung  kiên  nhất  trong  số  đó  đã  từ  bỏ  khoa  Thần  Linh  Học  Tây  Phương  để  bước  vào  Huyền  Môn  Đông  Phương  qua chiếc  cầu  trung  gian  của  những  hiện  tượng  diệu  huyền.

          Về  phần  tôi,  tôi  có  thể  nói  rằng  những  loạt  hiện  tượng  thần  thông  đa  hình  đa  dạng  mà  bà  HPB  đã  biểu  diễn  cho  tôi  xem,  đã  làm  cho  tôi  hiểu  được  dễ  dàng  những  lý  thuyết  cổ  truyền  Đông  Phương  của  Khoa  Học  Tâm  Linh.  Tôi  rất  tiếc  rằng  những  người  khác,  nhất  là  những  bạn  Đạo  phương  Đông  của  tôi,  vốn  có  một  tâm  hồn đã  từng  được  chuẩn  bị  hoàn  toàn  chu  đáo,  lại  không  có  được  một  cơ  hội  may  mắn  như  tôi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro