Phần 23

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN 23
Việc đầu cơ cổ phiếu có lẽ sẽ không bao giờ biến mất. Người ta cũng không mong muốn nó biến mất. Không thể nào ngăn cản
sự phát triển của nó thông qua những cảnh báo về rủi ro. Bạn không thể ngăn một người tránh khỏi những phán đoán sai dù
người đó tài năng và có kinh nghiệm. Những kế hoạch kĩ lưỡng hoàn toàn có thể bị phá hỏng bởi những điều không ngờ trước hay
thậm chí những điều chúng ta cho rằng không thể xảy ra. Thảm họa có thể đến từ những biến động của thiên nhiên, thời tiết; từ
chính lòng tham lam hay tính kiêu căng tự phụ của con người; từ nỗi lo sợ hay hy vọng quá lớn. Tuy nhiên, ngoài những yếu tố
có thể coi là kẻ thù tự nhiên đó, thì một nhà đầu cơ chứng khoán cũng phải chấp nhận những hoạt động nhất định hay những thất
bại không thể lường trước cả về mặt đạo đức và thương mại.
Sau khi đánh giá và nhìn nhận lại những hoạt động đã diễn ra trong suốt hai mươi năm qua kể từ khi tôi lần đầu đặt chân tới
phố Wall, tôi phải thừa nhận rằng đã có rất nhiều những chuyển biến theo chiều hướng tốt hơn. Những công ty mua bán cổ phiếu
chui theo kiểu cũ đã không còn nữa. Mặc dù những công ty môi giới theo kiểu “chui” vẫn đang phất lên từ đồng tiền của những
người muốn làm giàu một cách nhanh chóng. Sàn giao dịch chứng khoán đã thực hiện rất thành công vai trò của nó, không chỉ là
nơi hoạt động của những kẻ lừa đảo vì nó yêu cầu những thành viên của mình phải triệt để tuân theo những quy tắc nhất định.
Hàng loạt những quy định và hạn chế đã được áp dụng một cách chặt chẽ, tuy nhiên chúng vẫn cần được phát triển thêm. Không
phải những sự nhẫn tâm về mặt đạo đức mà chính sự bảo thủ đã ăn sâu vào thịtrường phố Wall, là nguyên nhân của sự tồn tại
những hoạt động tội lỗi nhất định tại đây.
Việc đầu cơ có lãi một cổ phiếu nào đó vốn đã khó, bây giờ lại càng khó hơn nữa. Cách đây không lâu, một nhà giao dịch
thực sự có thể hiểu khá rõ về những cổ phiếu được niêm yết. Như vào năm 1901, khi J. P. Morgan phát hành cổ phiếu của
United States Steel Corporation, một tập đoàn được sáp nhập từ những tập đoàn nhỏ hơn, trong đó phần lớn chưa đến hai năm
tuổi, trên sàn giao dịch có 275 cổ phiếu và khoảng 100 trong số đó thuộc khu vực chưa niêm yết; đồng thời có nhiều cổ phiếu
một nhà giao dịch không cần hiểu gì nhiều do chúng hoặc là những đợt phát hành nhỏ lẻ hoặc kém năng động vì chúng là cổ
phiếu thiểu số hoặc là cổ phiếu được đảm bảo và do đó không hấp dẫn đầu cơ. Trong thực tế, đại đa số trong đó là những cổ phiếu
chưa hề giao dịch trong nhiều năm. Hiện nay có khoảng 900 cổ phiếu nằm trong danh sách thường xuyên và khi thịtrường năng
động có khoảng 600 cổ phiếu khác nhau được giao dịch. Hơn nữa trước đây các nhóm hay các loại cổ phiếu cũng dễ theo dõi
hơn. Không chỉ ít hơn về mặt số lượng, mức vốn hoá cũng nhỏ hơn và lượng thông tin một nhà giao dịch phải tìm kiếm cũng bao
quát một lĩnh vực hẹp hơn. Nhưng hiện nay, một nhà giao dịch có thể tham gia vào hầu như mọi lĩnh vực; mọi ngành nghề trên
thế giới. Điều đó cần nhiều thời gian và công sức bỏ ra hơn, do đó có thể nói công việc đầu cơ chứng khoán ngày nay trở nên khó
khăn hơn đối với những nhà đầu cơ chuyên nghiệp.
Có hàng ngàn người mua bán cổ phiếu để đầu cơ nhưng số người thực sự thu được lợi nhuận chỉ chiếm một phần nhỏ. Về mức
độ nào đó, công chúng luôn nằm “trong” thịtrường do đó người bịthua lỗ luôn có phần của công chúng. Những kẻ thù không đội
trời chung của nhà đầu cơ chứng khoán đó là: sự dốt nát, lòng tham, sự sợ hãi và hy vọng. Tất cả những cuốn sách luật trên thế
giới hay những quy tắc của các sàn giao dịch trên Trái đất này đều không thể loại bỏ những điều này ra khỏi con người bằng da
bằng thịt. Những tai nạn xảy ra đối với các kế hoạch được tính toán một cách kĩ lưỡng thường không nằm trong những dự định
của các nhà kinh tế máu lạnh hay những nhà từ thiện hảo tâm. Ngoài ra còn một nguyên nhân thất bại nữa đó là những thông tin
sai lệch không được phân biệt với những nguồn tin nội bộ thực sự. Một nhà giao dịch chứng khoán có thể che giấu ngụy trang cho
những thông tin như vậy bằng nhiều cách khác nhau, do đó nó càng nguy hiểm hơn.
Tất nhiên người ngoài thường giao dịch dựa vào hoặc là những nguồn tin nội bộ hoặc tin đồn, thông tin truyền miệng hoặc in
trên báo chí, có thể trực tiếp hay ám chỉ một cách gián tiếp. Đối với những nguồn tin nội bộ thông thường, bạn không thể đảm
bảo điều gì. Chẳng hạn, một người bạn thân thiết lâu năm muốn giúp bạn làm giàu bằng cách tiết lộ cho bạn biết những việc anh ta
đã làm, tức là mua hay bán cổ phiếu nào đó. Ý định của anh ta là hoàn toàn tốt. Nhưng nếu nguồn tin là sai thì bạn sẽ làm như thế
nào? Nếu dựa vào những người cung cấp tin nội bộ chuyên nghiệp và có lương tâm, công chúng sẽ được bảo vệ tốt hơn. Tuy
nhiên nếu chỉ dựa vào những tin đồn xuất hiện đầy rẫy tại phố Wall, không có gì đảm bảo cho công chúng không mắc phải vô số
những sai lầm do thông tin sai lệch. Những nhà buôn bán cổ phiếu với số lượng lớn, các nhà vận động làm giá, các tổ hợp và các
cá nhân dựa vào nhiều công cụ khác nhau nhằm bán ra số cổ phiếu dư thừa của mình với giá càng cao càng tốt. Trong đó hai
công cụ hữu hiệu nhất để tạo tâm lý giá tăng là qua báo chí và bảng tin.
Hãy lướt qua toà soạn của những tờ báo tài chính vào một ngày bất kì, bạn sẽ rất ngạc nhiên khi biết được mỗi ngày họ đã
cho in ra bao nhiêu những lời khẳng định mang tính “nửa chính thức”. Người phát ngôn ra những lời khẳng định như vậy thường
là “một lãnh đạo trong nội bộ”, “một giám đốc hàng đầu” hay “một quan chức cấp cao” hay một ai đó nằm trong số “những người
có trách nhiệm”, những người được cho là hiểu rõ về những vấn đề mình đang nói ra. Tôi xin chọn ngẫu nhiên một trong những
tin vắn của ngày hôm nay: “ông chủ của một nhà băng hàng đầu đã nói rằng vẫn còn quá sớm để nghĩ tới một thịtrường giảm giá.”
Có đúng là ông chủ của một nhà băng hàng đầu đã nói như vậy hay không? Và nếu có thì tại sao ông ta lại nói như vậy? Tại
sao ông ta lại yêu cầu giấu tên? Có phải ông ta sợ rằng mọi người sẽ tin theo ông ta nếu ông ta tiết lộ tên mình?
Đây là một tin vắn khác về một công ty có cổ phiếu năng động trong suốt tuần qua. Lần này người phát ngôn là một “giám
đốc hàng đầu.” Vậy giám đốc nào trong số hàng tá giám đốc của công ty đó — nếu có — đã đưa ra phát biểu như vậy? Rõ ràngrằng do việc giấu tên của tác giả, công chúng sẽ không thể buộc tội bất cứ ai về những thiệt hại có thể gây ra do lời phát biểu đó.
Ngoài những nghiên cứu chính thức về đầu cơ cổ phiếu họ có thể thu thập được từ bất cứ nơi nào khác, những nhà giao dịch
cần cân nhắc tới tất cả những số liệu thực tế gắn liền với mỗi cuộc chơi tại phố Wall. Ngoài việc kiếm tiền thì người ta cũng phải
biết cách làm sao để không bị mất tiền. Một điều quan trọng là người ta cần biết cái gì không nên làm và cái gì cần phải làm. Do
đó, cần nhớ rằng việc thao túng thịtrường chính là tìm cách nâng giá một loại cổ phiếu nào đó và thông qua sự tăng giá đó các
nhà lãnh đạo nội bộ có thể kiếm được khoản lợi nhuận càng lớn càng tốt. Tuy nhiên, khách hàng của bất kì một nhà môi giới nào
cũng sẽ cho mình là quá đa nghi nếu anh ta muốn biết tại sao giá một cổ phiếu nào đó lại tăng lên. Đương nhiên các nhà vận động
làm giá sẽ “giải thích” rằng điều đó được tính toán nhằm phân phối cổ phiếu tốt hơn. Bản thân tôi luôn nghiêng theo ý kiến rằng
công chúng sẽ ít bịthiệt hại hơn nếu người ta không cho phép in những lời phát biểu tạo tâm lý tăng giá như vậy. Ý tôi muốn nói
tới những phát biểu khiến công chúng mua vào hoặc lưu giữ cổ phiếu.
Đại đa số những bài báo tạo tâm lý giá tăng của những vị giám đốc hoặc giới nội bộ yêu cầu giấu tên đều truyền đạt những ấn
tượng sai lệch và không đáng tin cậy đối với công chúng. Mỗi năm công chúng thua lỗ hàng nhiều triệu đô-la do tin theo những
phát biểu “nửa chính thức” như vậy.
Hãy nói ví dụ một công ty đang trải qua một giai đoạn suy thoái trong công việc kinh doanh. Cổ phiếu của nó bị đình trệ.
Các thông tin báo giá của nó thể hiện ý kiến chính xác của phần lớn công chúng về giá trịthật của nó. Nếu cổ phiếu ở mức quá
thấp như vậy, một người nào đó sẽ biết tới nó, họ mua vào và giá lại tăng lên. Nếu quá nhiều người có đầy đủ thông tin về nó và
bắt đầu bán ra thì giá sẽ giảm xuống. Nếu không có gì đặc biệt xảy ra, sẽ không ai nói gì về nó hay có động thái nào sau đó.
Tiếp theo phải nói tới ngành nghề kinh doanh mà công ty đó tham gia. Ai là người sẽ biết thông tin đầu tiên, giới nội bộ hay
công chúng? Bạn không thể nào cho rằng đó là công chúng. Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Nếu doanh thu tiếp tục tăng và công ty sẽ
tính lại cổ tức cho mỗi cổ phiếu; và nếu cổ tức không bị gián đoạn và tỉ suất cũng tăng lên, điều đó có nghĩa là giá trị của cổ phiếu
tăng lên.
Giả sử rằng doanh thu tiếp tục tăng đều. Liệu rằng ban lãnh đạo có công khai những thông tin tốt đẹp đó hay không? Ngài
chủ tịch có thông báo với các cổ đông hay không? Liệu rằng một vị giám đốc từ thiện nào đó có thể đưa ra một phát biểu có ký
tên, qua đó mang lại lợi ích cho một bộ phận độc giả đã đọc tờ báo hôm đó hay không? Liệu một quan chức nội bộ vẫn theo đuổi
chính sách giấu tên từ trước tới nay sẽ đưa ra một công bố không ký tên về tương lai rất hứa hẹn của công ty hay không? Lần này
thì không. Không ai đưa ra bất kì lời nào hay cho in bất kì tuyên bố nào trên báo chí cũng như trên bảng tin.
Những thông tin có thể mang lại giá trị được giữ kín không để lọt ra công chúng và những nhà “lãnh đạo nội bộ” sẽ không
còn cởi mở và tự họ lao vào thịtrường tìm mua tất cả số cổ phiếu giá rẻ mà họ có thể thu gom được. Khi việc mua vào do có đầy
đủ thông tin nhưng diễn ra một cách lặng lẽ này tiếp diễn trong một thời gian thì giá cổ phiếu bắt đầu tăng. Các phóng viên tài
chính, biết rằng giới nội bộ hiểu rõ nguyên nhân của sự tăng giá này, bắt đầu đặt câu hỏi. Những vị lãnh đạo nội bộ này đều nhất
trí rằng họ không có thông tin nào để công bố. Họ không biết rằng liệu có đảm bảo nào cho đợt tăng giá này hay không. Đôi khi
họ còn nói rằng họ không hề quan tâm tới những biến đổi thất thường của thịtrường chứng khoán và những hành động của các
nhà đầu cơ.
Thịtrường tiếp tục tăng giá cho đến một ngày khi những người nắm thông tin đã thu gom đủ số cổ phiếu họ muốn có trong
mức có thể. Ngay lập tức phố Wall bắt đầu xuất hiện những tin đồn tạo tâm lý tăng giá. Bảng tin lập tức cung cấp cho các nhà
giao dịch những thông tin “được Ủy quyền chính thức” rằng công ty đang có một bước ngoặt lớn. Cũng vị giám đốc yêu cầu giấu
tên khi nói rằng không có đảm bảo nào cho việc tăng giá cổ phiếu lần này lại đưa ra phát biểu rằng - tất nhiên là có nêu tên — các
cổ đông có đủ lý do để tin tưởng vào triển vọng tốt đẹp của công ty.
Bịthuyết phục bởi những nguồn tin tới tấp về sự tăng giá cổ phiếu công chúng bắt đầu mua vào. Điều đó khiến giá cổ phiếu
tăng vọt. Đến thời điểm nhất định, khi sự đoán của những vị giám đốc giấu tên kia trở thành hiện thực và công ty bắt đầu phân
phối lại cổ tức; nói cách khác là tăng tỉ suất cổ tức, nếu tình hình cho phép. Với động thái này tâm lý tăng giá càng được đẩy lên
cao. Những tin đồn không chỉ nhiều hơn bao giờ hết về mặt số lượng mà còn ngày càng nóng bỏng hơn. Một “giám đốc cấp cao”
thậm chí yêu cầu thẳng thắn rằng cần có một công bố về các điều kiện của công ty nhằm thông báo với cả thế giới rằng mức tăng
trưởng vẫn không ngừng tăng lên. Một “lãnh đạo nội bộ” sau những lời thuyết phục của một hãng thông tấn cuối cùng đã thừa
nhận rằng doanh thu tăng không phải là một hiện tượng nhất thời. “Một chủ nhà băng nổi tiếng”, về mặt kinh doanh có thể coi là
một chi nhánh của công ty, đã phát biểu rằng mức tăng doanh số là chưa từng có trong lịch sử. Nếu không gặp trục trặc gì công
ty có thể tăng trưởng liên tục không rõ là trong bao nhiêu tháng tới. Một “thành viên của Ủy ban tài chính”, trong bản tuyên bố
của mình, ông thể hiện sự ngạc nhiên tại sao công chúng lại ngạc nhiên đến vậy trước việc cổ phiếu tăng giá. Điều duy nhất đáng
ngạc nhiên đó là tốc độ tăng rất khiêm tốn của cổ phiếu. Bất kì ai nghiên cứu bản báo cáo thường niên tới đây đều có thể thấy
rằng giá trịtrên sổ sách của cổ phiếu này cao hơn rất nhiều so với giá trên thịtrường. Tuy nhiên, dù trong trường hợp nào thì tên
của người có tấm lòng bác ái đó cũng không được tiết lộ.
Nếu như doanh thu tiếp tục tăng lên và những người trong nội bộ nhận thấy không có gì ngăn cản sự phát triển thịnh vượng
của công ty, họ sẽ tiếp tục giữ lại số cổ phiếu đã mua với giá rẻ. Không có gì khiến cổ phiếu giảm giá thì tại sao họ lại phải bán ra?
Nhưng ngay khi có những dấu hiệu không tốt đối với công việc kinh doanh của công ty thì điều gì sẽ xảy ra? Liệu họ có đưa ra bất
kì lời tuyên bố hay cảnh báo nào hay không? Không có. Bây giờ là xu hướng giá xuống. Cũng như lúc họ mua vào không hề “cờgiong trống mở” khi tình hình kinh doanh phát đạt, họ bắt đầu bán ra một cách lặng lẽ. Do vụ bán ra nội bộ này giá cổ phiếu bắt
đầu giảm xuống. Sau đó công chúng bắt đầu nhận được những lời giải thích tương tự. “Một lãnh đạo nội bộ” khẳng định rằng mọi
việc vẫn ổn thoả, sự sụt giá chỉ là do việc một số kẻ đầu cơ giá giảm bán ra nhằm tác động tới thịtrường chung. Nếu vào một ngày
đẹp trời, sau khi cổ phiếu giảm giá trong một thời gian bỗng nhiên bị rớt giá một cách nghiêm trọng, lập tức sẽ có những yêu cầu
về nguyên nhân và những lời giải thích. Trừ khi có ai đó đưa ra lời giải thích nếu không công chúng sẽ bắt đầu lo sợ về những điều
xấu nhất. Do đó các bảng tin bắt đầu đưa tin đại loại như thế này: “Khi chúng tôi yêu cầu một vị giám đốc cấp cao của công ty giải
thích về sự suy yếu của cổ phiếu, ông ta trả lời rằng chỉ có thể kết luận rằng nguyên nhân là do việc đầu cơ giá hạ. Các điều kiện
chính vẫn không thay đổi. Công việc kinh doanh của công ty chưa bao giờ tốt như hiện nay và trừ khi có một bất trắc hoàn toàn
chưa dự đoán được, nếu không sẽ có một đợt tăng tỉ suất trong cuộc họp phân chia cổ tức lần tới. Giới đầu cơ giá hạ trên thị
trường đang rất kích động và việc cổ phiếu suy yếu chỉ là một chiến dịch nhằm thu hút số cổ phiếu của những người không kiên
định.” Bảng tin đã trở thành một dụng cụ quảng cáo rất tốt mặc dù sau đó sẽ lại có những “nguồn tin đáng tin cậy” cho biết phần
lớn những cổ phiếu mua vào khi giá giảm mang lại lợi ích cho giới nội bộ và những người đầu cơ giá giảm đã bị rơi vào bẫy. Và rồi
sẽ có ngày việc này được thanh toán.
Ngoài những vụ thua lỗ do tin vào những lời công bố tạo tâm lý tăng giá và mua vào cổ phiếu, công chúng đôi khi cũng đánh
mất nhiều khoản lợi nhuận do bị can ngăn không được bán ra. Một phương thức hiệu quả để khiến công chúng mua những cổ
phiếu mà giới nội bộ muốn bán ra đó là ngăn cản người khác bán ra cùng loại cổ phiếu đó nếu anh ta không muốn hỗ trợ hoặc tích
luỹ chúng. Công chúng sẽ tin vào điều gì sau khi đọc lời tuyên bố của vị “giám đốc đáng kính” kia? Những người ngoài nội bộ sẽ
nghĩ như thế nào? Tất nhiên, họ nghĩ rằng cổ phiếu đó sẽ không thể giảm giá, sự sụt giá hiện nay là do giới đầu cơ giá hạ bán ra và
ngay khi việc đầu cơ kết thúc những người trong nội bộ sẽ tạo ra một đợt tăng giá và những kẻ bán khống sẽ phải mua bù ở một
mức giá rất cao. Công chúng hoàn toàn tin vào điều này vì đó chính xác là những gì sẽ xảy ra nếu sự sụt giá quả thực là một chiến
dịch của giới đầu cơ giá hạ.
Trong trường hợp này, bất kể những đe doạ cũng như những lời hứa hẹn về một đợt “vắt kiệt” bằng áp lực tăng giá đối với
những kẻ bản khống, cổ phiếu cũng không tăng giá trở lại. Giá tiếp tục giảm không gì ngăn cản nổi. Lượng cổ phiếu do những
người trong nội bộ tung ra thịtrường quá lớn, không thể tiêu thụ hết.
Và lượng cổ phiếu nội bộ do những vị “giám đốc cấp cao” hay những “nhà lãnh đạo hàng đầu” này bán ra trở thành quả bóng
đá qua lại giữa các nhà giao dịch chuyên nghiệp. Giá vẫn tiếp tục giảm, và dường như nó vẫn chưa đạt điểm thấp nhất. Giới nội bộ
biết rằng những điều kiện giao dịch như vậy sẽ ảnh hưởng ngược lại doanh thu của công ty trong tương lai, do đó họ không dám
hỗ trợ giá cổ phiếu cho tới khi công việc kinh doanh của công ty chuyển biến tốt hơn. Khi đó họ lại lặng lẽ mua vào.
Tôi đã thực hiện công việc buôn bán cổ phiếu và theo dõi sát sao thịtrường chứng khoán trong nhiều năm và tôi có thể nói
rằng tôi chưa từng gặp trường hợp nào một chiến dịch đầu cơ giá hạ có thể khiến giá cổ phiếu giảm mạnh mẽ như vậy. Cái gọi là
chiến dịch đầu cơ giá hạ thực tế là việc bán ra dựa trên những thông tin và phán đoán chính xác từ các điều kiện có thực. Nó
không chỉ việc giá cổ phiếu giảm xuống do giới nội bộ bán ra hoặc không mua vào. Mọi người đều cố gắng bán ra càng nhanh
càng tốt, và khi mọi người đều bán ra và không ai mua vào thì ai sẽ là người thanh toán?
Công chúng cần luôn nắm rõ một điểm như sau: lý do thực sự của việc sụt giá trong một thời gian dài không bao giờ là do
đầu cơ giá hạ. Khi một cổ phiếu liên tục giảm giá các bạn có thể đánh cược rằng có vấn đề gì đó đã xảy ra với nó, có thể là với thị
trường của nó hay công ty của nó. Nếu không có những lý do thích hợp, cổ phiếu sẽ sớm giảm xuống dưới giá trịthực của nó và
điều đó sẽ khiến người ta lại mua trở lại và chặn đứng việc giảm giá. Tất nhiên, thời điểm duy nhất để một người đầu cơ giá hạ có
thể kiếm được khoản lợi nhuận to lớn đó là khi cổ phiếu đó có giá quá cao. Và bạn có thể đánh cược bất cứ thứ gì rằng những
người trong nội bộ sẽ không bao giờ công bố điều đó ra công chúng.
Tất nhiên, một ví dụ điển hình là vụ New Haven. Ngày nay người ta được biết những điều rất ít người biết vào thời điểm đó.
Cổ phiếu đó được bán với giá 255 vào năm 1902 và đó là khoản đầu tư cho đường sắt của New England. Tại vùng đó, thước đo sự
kính trọng và vịtrí của một người trong cộng đồng là số cổ phiếu loại này của anh ta. Nếu có ai đó từng nói công ty này đang rơi
vào tình trạng nợ nần thì người ta sẽ không tống anh ta vào tù mà đưa thẳng anh ta vào nhà thương điên cùng với những kẻ tâm
thần. Tuy nhiên khi một vị chủ tịch mới và hiếu chiến lên thay vịtrí của ông Morgan thì sự sụp đổ bắt đầu diễn ra. Ban đầu những
chính sách mới vẫn chưa thể hiện rõ rằng con đường sẽ không được xây dựng ở địa điểm cũ. Nhưng khi lần lượt tài sản được
chuyển sàng Consolidated Road với mức giá rất cao, một số ít những nhà quan sát nhạy bén trên bắt đầu nghi ngờ tính đúng đắn
trong chính sách của Mellen. Một hệ thống toa xe được mua với giá hai triệu đã được bán lại cho New Haven với giá 10 triệu đô-
la; và một hay hai kẻ thiếu thận trọng đã thừa nhận rằng việc quản lý đã không được thực hiện một cách thận trọng. Việc nghi ngờ
rằng New Haven cũng không chịu được mức giá quá cao như vậy cũng giống như nghi ngờ độ cứng của dãy núi Gibraltar
(1 )
.
Tất nhiên, người đầu tiên thấy được nguy cơ sụt giá đang hiển hiện chính là giới nội bộ. Họ nhận thức được những điều kiện
thực tế của công ty và lập tức giảm bớt số cổ phiếu của họ. Do sự bán ra đó đồng thời không nhận được sự hỗ trợ, giá của cổ phiếu
New Haven, vốn rất được bảo đảm, cũng bắt đầu sụt giảm. Và như thường lệ lại có những câu hỏi được đặt ra, những yêu cầu phải
giải thích; cũng vậy những lời giải thích như thường lệ lại được đưa ra. “Những vị lãnh đạo cao cấp trong nội bộ” tuyên bố rằng họ
không nhận thấy có dấu hiệu nào không ổn và sự giảm giá chỉ là do những kẻ đầu cơ giá hạ bán ra. Do đó các nhà “đầu tư” của
New England vẫn giữ lại số cổ phiếu của New York, New Haven & Hartford. Tại sao lại không? Chẳng phải nguồn tin nội bộ đểu
nói rằng không có vấn đề gì xảy ra cả và tất cả chỉ là do những kẻ đầu cơ giá hạ sao? Chằng phải người ta vẫn trả cổ tức sao?Cùng lúc đó đợt tăng giá tạo áp lực đối với những kẻ đầu tư giá hạ đã không xảy ra, thay vào đó là những mức giá thấp kỷ lục
khác. Việc bán ra của những người nội bộ diễn ra gấp gáp hơn và ít che giấu hơn. Tuy nhiên những người có tinh thần lo lắng đến
lợi ích chung tại Boston đã bị coi là những kẻ đầu cơ và tranh thủ tình cảm của mọi người khi yêu cầu phải có một sự giải thích rõ
ràng cho việc giá cổ phiếu sụt giảm, đồng nghĩa với sự thua lỗ của mọi người tại New England, những người chỉ muốn đầu tư một
cách an toàn và hưởng khoản cổ tức hàng năm.
Đợt sụt giảm lịch sử từ 255 xuống 12 điểm chưa bao giờ và có lẽ không bao giờ là do động cơ đầu cơ giá hạ. Nó không được
khởi động cũng như duy trì bởi các hoạt động đầu cơ giá hạ. Những người trong nội bộ đã bán được số cổ phiếu nhiều hơn với giá
cao hơn nếu họ công bố sự thật đó hay thậm chí chỉ là để nó lọt ra ngoài. Dù cho mức giá cổ phiếu này là 250, 200 hay 150 hay
100 hay 50 thậm chí là 25 thì nó vẫn quá cao, những người trong nội bộ biết việc này nhưng công chúng thi không. Công chúng
cần phải xem xét lại những bất lợi mà họ sẽ phải gánh chịu khi tìm cách kiếm tiền thông qua mua bán cổ phiếu của một công ty
mà đối với những vấn đề nội bộ của nó, chỉ có một số ít người nắm được toàn bộ sự thật.
Những cổ phiếu sụt giảm mạnh nhất trong vòng 20 năm qua không phải do nguyên nhân đầu cơ giá hạ. Tuy nhiên, việc dễ
dàng chấp nhận những lời giải thích như vậy đã dẫn đến những thua lỗ của công chúng lên đến hàng nhiều triệu đô-la. Những sự
giải thích như vậy đã khiến người ta không bán ra số cổ phiếu của mình dù không thích những điều kiện hiện nay của nó, và họ đã
thanh lý toàn bộ nếu họ không nghĩ rằng giá sẽ tăng trở lại sau khi chiến dịch đầu cơ giá hạ của chấm dứt. Tôi từng nghe trước kia
có nhiều người buộc tội Keene, trước đó nữa là Charley Woerishoffer và Addison Cammack, và sau đó có lẽ là chính là tôi.
Tôi cũng nhớ trường hợp của Intervale Oil. Khi đó đang có một tổ hợp đầu cơ nhằm đẩy giá lên và cũng đã kiếm được một số
khách hàng khi giá tăng. Các nhà vận động đã đưa được giá lên tới 50 điểm và tổ hợp bắt đầu bán ra, tiếp theo đó là một đợt sụt
giảm nhanh chóng. Nhanh chóng xuất hiện yêu cầu về những lời giải thích tại sao cổ phiếu Intervale yếu đến như vậy? Do số
người đặt ra câu hỏi này không nhỏ nên nó đã trở thành một thông tin quan trọng. Một trong những bảng thông báo của một tờ
tin tài chính đã ghé văn phòng của những nhà môi giới hiểu rõ nhất về đợt tăng giá của Intervale Oil đồng thời có thể giải thích
được nguyên nhân của sự sụt giảm. Những nhà môi giới này, thành viên của tổ hợp đầu cơ tăng giá, đã nói gì khi được yêu cầu
đưa ra nguyên nhân của việc giảm giá để họ in lên báo và phát sóng lên toàn quốc? Họ trả lời rằng đó là chiến dịch của Larry
Livingston! Như thế vẫn chưa đủ! Họ nói rằng họ sẽ “tóm” được anh ta. Nhưng tất nhiên, tổ hợp của Intervale tiếp tục bán ra. Cổ
phiếu chỉ dừng lại ở mức 12 điểm và khi họ tiếp tục bán ra giá tiếp tục giảm xuống 10 điểm nhưng tính về giá trung bình thì vẫn
cao hơn chi phí.
Những người trong nội bộ hoàn toàn đúng đắn khi bán ra trong thịtrường giá xuống. Nhưng đối với những người ngoài nội
bộ, những người đã mua với giá 35 — 40, đó là một vấn đề hoàn toàn khác. Đọc những điều này in trên bảng tin, những người
ngoài nội bộ chỉ biết chờ đợi xem Larry Livingston sẽ làm gì trước sự “căm phẫn” của tổ hợp đầu cơ nội bộ.
Trong một thịtrường giá tăng và đặc biệt trong những giai đoạn phát triển nóng, ban đầu công chúng thường thu được lợi
nhuận và sau đó lại thua lỗ do giữ số cổ phiếu quá lâu. Những câu chuyện về “chiến dịch của những kẻ đầu cơ giá hạ” đã khiến họ
giữ lại. Công chúng cần cảnh giác trước những lời giải thích của giới nội bộ yêu cầu giấu tên đưa ra nhằm thuyết phục công chúng
tin theo những gì mà họ muốn công chúng tin theo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyen