NHÌN LŨ CHIM KÌA

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

r/nosleep
u/Saturdead (1.2k points - x1 all-seeing upvote - x1 take my energy - x1 take my power)
Look at the birdy

"Bố! Bố! Nhìn lũ chim kìa!"
Kể từ khi đủ lớn để hiểu rằng tôi là một nhà điểu cầm học, hay còn gọi là “người chim”, Jamie luôn muốn được nghe kể về tất cả những loài chim mà mình nhìn thấy. Cô bé có thể ngồi hàng giờ với chiếc máy tính bảng, bật tiếng chim kêu, đố xem tôi có thể nói đó là loại chim gì không. Jamie đã đòi tôi mua cho một cặp vẹt mào khoảng một năm nay, cô bé khá cứng đầu.
"Bố, cái gì đây? Nó là loài chim gì vậy?"
Dù đang đọc một bài nghiên cứu, nhưng tôi biết tốt hơn hết là không nên để Jamie đợi. Tôi ngả người ra sau ghế, vươn vai và nhìn ra ngoài cửa sổ.
Và tôi không biết mình đang nhìn cái gì.

Tôi sống ở một vùng nông thôn – Juniper, West Virginia. Vì vậy, khi nhìn ra ngoài và thấy một con chim nhiệt đới có màu đỏ tươi, tôi biết chắc rằng có điều gì đó không ổn.
”Nó là chim gì vậy bố? Nó là loài chim gì?"
“Bố cũng không rõ, con yêu à," tôi thừa nhận. “Bố con mình ra đó xem thử nhé.”
Tôi mang theo ống nhòm, một chút đồ ăn vặt và đeo giày. Jamie làm theo. Đương nhiên cô bé có cặp ống nhòm của riêng mình.

Chúng tôi bước ra sân sau để nhìn rõ hơn con chim lạ. Nó cao khoảng 20 phân, không kể lông đuôi, có cái mào đen bóng mượt, với đôi cánh màu thiên thanh nhạt dần rồi chuyển sang trắng ngọc trai. Mỏ nó cong như mỏ kền kền nhưng đầu lại đầy lông vũ cùng đôi chân kiểu chữ X như chim gõ kiến. Tôi chưa thấy giống chim này bao giờ.
Ngay khi tôi vừa đặt ống nhòm xuống, nó đã phóng vút vào bụi cây. Jamie vẫn đang vật lộn để mở nắp ống nhòm ra, cô bé cực kỳ không vui khi chưa nhìn rõ được con chim.
“Nó đi đâu rồi, bố? Nó đâu rồi?"
“Có lẽ nó về với gia đình của nó,” tôi nói. “Bố nghĩ đó là thú cưng của ai đó.”
“Con hy vọng họ tìm thấy nó,” Jamie bĩu môi.
"Chắc chắn rồi con yêu."

Tôi đã kiểm tra kỹ những nơi nó có thể làm tổ, lên các hội nhóm trên mạng xem có ai làm sổ lồng một con chim nhiệt đới không nhưng chẳng có manh mối gì. Quanh đây rất ít người nuôi chim cảnh. Có một vài người ở tận Bridgeport, quá xa so với một con vẹt. Tôi coi nó giống như những loài chim khác mà tôi biết và đặt chuyện này sang một bên. Bài nghiên cứu đọc dở đang chờ tôi.
Khi tôi gọi Jamie vào ăn tối, cô bé bước vào bếp với vẻ hào hứng và vui vẻ. Cô bé vẫn nắm chặt cặp ống nhòm.
“Bố ơi, con chim vẫn ở đó,” cô nói. “Cho con đi xem nó nhé?”
“Sau bữa tối, con yêu.”
“Nếu nó bay đi thì sao?”
"Điều đó có nghĩa là nó quay về nhà."
"Lần trước bố cũng nói vậy!"
Jamie bĩu môi, ăn từng miếng lasagna, và ngay khi chiếc đĩa trở nên trống rỗng, cô bé chạy vội ra sân sau để nhìn con chim.
Chuyện này không thành vấn đề, Jamie biết nghe lời.

Sau khi hoàn tất công việc, tôi ngả người ra ghế và vươn vai; chỉ để thấy Jamie chạy hết tốc lực vào rừng.

Tôi nuốt nước bọt và chạy theo.
Tôi thậm chí còn không kịp đi giày, vừa chạy nước rút, vừa gọi tên cô bé. Bản thân khu rừng không phải là một nơi nguy hiểm, nhưng có thể có rắn. Ngoài ra, Jamie còn quá nhỏ để tìm đường trở về trước khi trời tối. Cô bé chưa đi được xa, nhưng tôi không thể mạo hiểm.
Mất khoảng năm phút để tìm thấy Jamie. Cô bé  đang đứng giữa rừng với chiếc ống nhòm, vui vẻ chỉ xuống một con đường nơi chú chim đỏ xinh đẹp đang đậu, nhìn chúng tôi.
“Nó sống ở đây mà bố!” Jamie cười toe toét.
Tôi ôm ghì lấy cô bé, thở phào nhẹ nhõm.

Hai bố con đi về nhà và có một cuộc nói chuyện nghiêm khắc. Jamie hào hứng khi nhìn thấy con chim. Tuy nhiên, cô bé phải biết rằng mình không thể chạy vào rừng như thế. Tôi nói với cô bé rằng nó có thể không an toàn như thế nào, và nếu cô ấy muốn đi xa hơn khu vực sân sau thì phải hỏi tôi trước. Tôi không cấm cản cô bé một cách vô lý.
Suốt đêm, tôi nửa nằm nửa ngồi ở bàn máy tính, trong đầu chỉ có một điều duy nhất: con chim màu đỏ tươi. Rõ ràng con chim đã quen với việc ở gần mọi người, củng cố suy nghĩ rằng nó là một giống chim cảnh nào đó. Tuy nhiên, không ai tìm hay thông báo về việc mất tích chú chim cưng.

Vừa định tắt máy thì tôi nhận được tin nhắn lại, gần như ngay lập tức.
“Anh cũng thấy nó à?”

Chúng tôi gặp nhau ở công ty vào ngày hôm sau. Cymone là kiểu phụ nữ đơn giản, khiêm tốn nhưng mạnh mẽ. Cô đội chiếc mũ kiểm lâm màu xanh lá cây của bố mình lâu đến nỗi tôi đã quên cả mái tóc ngắn của cô ấy có màu gì. Tôi chưa bao giờ thấy người phụ nữ đó lo lắng, nhưng lần này, có điều gì đó âm ỉ dưới vẻ mặt cau có của cô.
“Các con tôi đã nhìn thấy nó,” cô nói. “Tôi chỉ thoáng thấy thôi. Ở phía tây, trên đồi.”
“Tôi đã thấy từ, ừm, tây bắc,” tôi nói. “Đi về phía đông.”
“Chà, tôi cho rằng điều đó thu hẹp phạm vi lại. Có lẽ nó đang làm tổ chỗ mấy cây sồi. Rừng bạch dương quá thưa để nó làm tổ.”
“Cô nghĩ nó đang làm tổ à?”
“Chắc chắn,” Cymone gật đầu. “Đó là một con chim khổng lồ.”
“Chà, nếu cô nghe thấy bất cứ điều gì khác, hãy cho tôi biết.”
“Anh có thể tự mình kiểm tra,” Cymone mỉm cười. “Cuối tuần này chúng ta sẽ tới đó.”
"Cái gì?"
“Chim sẻ chuẩn bị di cư."
“Sammy và Babin thì sao?”
“Lần này đối tượng của họ là chích chòe,” Cymone cười khúc khích. “Còn chúng ta tìm hiểu con chim đỏ.”

Jamie đòi đi cùng tôi. Tôi đã nghĩ đến chuyện này nhưng ngày cuối tuần để dành cho Jamie và mẹ ở bên nhau, tôi không muốn tách họ ra. Jamie cũng sẽ cảm thấy chán nản chỉ sau 30 phút đầu tiên. Đây là một chuyến đi thực tế chứ không phải dã ngoại. Làm sao tôi chắc chắn sẽ thấy con chim đỏ được.
Nói 'không' với Jamie lúc nào cũng là một công việc đau khổ. Cô bé biết chính xác mình nên nói gì.
Nhưng tôi vẫn giữ lại quyết định của mình.
Cảm ơn Chúa.

Sáng thứ Bảy, tôi và Cymone gặp nhau ở con đường mòn phía đông. Khu rừng chạy qua góc phía bắc của Juniper này thật kì diệu, bất kể bắt đầu từ đâu, bạn cũng sẽ phải leo dốc. Ngay cả lúc đi xuống cũng có cảm giác đang leo dốc. Lạ thật.
Chúng tôi đã lang thang trên những con đường mòn đó hàng trăm lần, và lần này cũng không khác những lần trước là mấy. Cymone đánh dấu các điểm mốc dọc quãng đường đi. Chúng tôi trò chuyện về những gì bọn trẻ đang làm ở trường. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng nó có thể biến thành hàng nghìn cuộc thảo luận vi mô. Giáo viên, bài tập về nhà, bạn cùng lớp, thể thao, môn học yêu thích, tất cả. Rất khó để kiếm được một người bạn nói về những điều này.
Sau vài giờ leo dốc, chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi và kiểm tra thiết bị của mình. Dự báo thời tiết nói bầu trời quang đãng, nhưng chúng tôi lại thấy vài đám mây đen ở phía chân trời. Nếu may mắn, cả hai sẽ đến nơi vào cuối buổi chiều. Chim sẻ là loài chim di cư, vì thế cần được kiểm tra thường xuyên. Nó giống như việc kiểm tra các cây cầu để đảm bảo không có vết nứt. Chín mươi chín lần đầu ổn, nhưng vẫn cần chắc chắn không có vấn đề gì ở lần thứ một trăm.

Đang đợi Cymone kiểm tra bản đồ thì cô ấy nhẹ nhàng thúc cùi chỏ vào người tôi.
"Anh thấy chứ?"
Lại là con chim đó.
Nó đậu trên một cành cây thấp cách con đường mòn chỉ 15 mét. Nó phát ra tiếng kêu líu lo kỳ lạ, giống như một con chim cút lớn. Nó nhìn thẳng vào chúng tôi, cái mào đen của nó dựng thẳng. Nó không có vẻ sợ hãi chút nào; chắc chắn đã quen với việc ở gần con người.
“Thành thật mà nói, cô có biết đó là chim gì không?” tôi hỏi.
"Biết chết liền đó trời."
Chúng tôi đã hoàn thành bữa ăn nhẹ của mình và đứng dậy. Con chim bay về hướng tây bắc ngay sau đó. Cymone và tôi ban đầu định đi theo con đường mòn theo hướng đông bắc, nhưng cả hai nghĩ rằng một đường đi vòng một chút cũng không sao. Chúng tôi rất tò mò.

Chúng tôi phát hiện ra con chim thêm ba lần nữa, ngày càng đi sâu vào rừng hơn. Chúng tôi thấy mình đã đi chệch hướng. Con chim cứ nhìn chúng tôi, di chuyển bất cứ khi nào chúng tôi đến quá gần. Tôi không thể hiểu tại sao, nhưng có vẻ như nó cố tình làm vậy; đủ gần để bị thấy, nhưng cũng đủ xa để không bị bắt. Nhưng tại sao nó không bay đi? Tại sao nó lại đậu ở gần chúng tôi?
Tới buổi trưa, chúng tôi kiếm chỗ dừng lại và bắt tay vào công việc. Chúng tôi tìm được một mảng đất trống bên cạnh tảng đá lớn. Tôi bắt đầu kiểm tra lại mấy cái máy đo, còn Cymone chuẩn bị bánh mỳ. Dù đã đi hơi chệch hướng so với dự định ban đầu, nhưng chúng tôi vẫn có thể quay lại kiểm tra mấy cái tổ.
Tôi gần như mắc nghẹn vì miếng sandwich giăm bông khi con chim đỏ bất ngờ đáp xuống ngay trước mặt chúng tôi, dang rộng đôi cánh và mào giương cao. Tôi ngạc nhiên đến mức ngã khỏi khúc gỗ, đánh rơi cả túi xách. Cymone chỉ chồm lên và lùi lại, ôm lấy ngực.
Con chim giẫm lên một trong những chiếc bánh sandwich của chúng tôi, cánh của nó chĩa ra hai hướng. Đó là sự thù địch, cho chúng tôi thấy rằng đây không phải là lãnh thổ của chúng tôi.
Nó thậm chí không ăn bánh sandwich. Nó chỉ đẩy bánh sang một bên.

Hai chúng tôi đứng dậy, thu nhặt đồ đạc và lùi lại. Con chim phát ra một thứ âm thanh quái gở, nghe vừa giống tiếng của rắn đuôi chuông, vừa giống giọng của một con gà trống. Âm thanh này khiến bụng tôi quặn lại, làm tôi phát ốm.
Cymone nắm lấy cánh tay tôi và kéo tôi đi. Chúng tôi chỉ lấy chỗ máy móc, còn đâu bỏ lại đồ ăn, nghĩ rằng không đáng để đánh đổi với sự rắc rối này.
Chúng tôi đi về phía đông, xuống dốc.

Đột nhiên, từ bụi rậm, có một con chim thứ hai. Nó lớn hơn nhiều, gần bằng kích thước của một con ngỗng, và lao thẳng về phía chúng tôi. Cymone giật lùi và vấp ngã, lăn thẳng xuống chân đồi, miệng không ngừng la hét. Tôi vội vã đuổi theo, còn lũ chim trèo lên một cái cây gần đó; quan sát chúng tôi từ xa.
Cymone bị thương, thật tệ. Chân cô mắc kẹt trong một cái rễ cây và bị xoắn gần như 360 độ. Có rất nhiều máu, và tôi có thể thấy thứ gì đó sắc nhọn thò ra; có thể là xương, hoặc sụn.
Tôi vội mang hộp sơ cứu ra. Cymone đang hoảng loạn. Mắt cô mở to, và tay cô run rẩy.
“Không sao đâu,” cô ấy cứ lặp đi lặp lại. "Không sao đâu."
Tôi chỉ biết cắn lưỡi và đưa miếng gạc ra. Tôi cẩn thận nhấc chân cô ấy lên và bắt đầu ấn vào vết thương. Trong lúc đó, tôi có thể nghe thấy tiếng chim hót líu lo ngay trên lối đi.
Nó bắt đầu nghe như một tiếng cười.

Cymone ngồi dậy và ôm lấy chân. Tôi gọi cấp cứu, cứ mỗi hồi chuông, hai con chim lại tiến tới gần hơn.
Nhưng trong bụi bắt đầu động đậy. Ít nhất là còn 6 con nữa thò đầu ra.
Một hai con thì không phải vấn đề to tát gì, nhưng nhiều như vậy lại là chuyện khác. Mỏ chúng giống mỏ mấy loài chim ăn xác nên chắc có thể ngửi được mùi máu. Tôi đoán là chúng cho rằng Cymone đã chết.
Ngay khi điện thoại kết nối thành công cũng là lúc chúng rít lên. Ồn kinh khủng, và nó vang vọng trong đầu tôi một điều gì đó rất đáng sợ. Tôi buông điện thoại, bịt lấy cả hai tai. Chỉ trong tíc tắc, nhưng đủ để một trong những con chim lớn hơn chộp lấy cái điện thoại và chạy vụt vào rừng. Những con còn lại chạy  theo, cười ầm ĩ.

Cymone và tôi hóa đá, ngồi nhìn nhau. Tôi đã cố gắng hết sức để giữ bữa trưa của mình, nhưng tiếng rít đó thực sự làm tôi bối rối. Tay tôi run lên khi tôi nhận ra rằng chúng tôi bị mắc kẹt ở đây. Tôi sẽ phải quay về một mình, hoặc cõng theo Cymone về cùng. Không còn lựa chọn nào khác.
May mắn thay, Cymone là một người kiên cường. Tôi kiếm một cành cây chắc chắn, bọc vải làm thành cái nạng tạm thời. Tôi phải dìu cô ấy lên ngọn đồi dốc, nhưng quãng đường còn lại cô ấy có thể tự mình di chuyển.
Vấn đề là chúng tôi đã đi chệch hướng ban đầu. Tôi không thuộc địa hình khu rừng, và Cymone đã làm rơi chiếc túi của cô ấy lúc trượt ngã. Tôi có bản đồ, nhưng cô ấy mới là người đánh dấu mốc trên đường. Tuy nhiên, miễn là còn đi về phía đông thì cuối cùng chúng tôi sẽ đến trục đường chính, và tôi có một chiếc la bàn.

Chúng tôi bị theo dõi. Tôi đã đếm được ít nhất tám loài chim khác nhau, đủ mọi kích cỡ, từ 15cm đến 80cm. Chúng luôn giữ khoảng cách, nhưng không bao giờ cách quá xa bọn tôi. Tiếng kêu vo ve chết tiệt đó dường luôn hiện hữu như tiếng cành cây gãy và gió thổi qua kẽ lá.
Chúng tôi đã đi được vài giờ thì Cymone chặn tôi lại. Cô không giữ nổi bình tĩnh nữa. Cô hoàn toàn tỏ ra thất vọng.
“Dừng lại,” cô nói. “Dừng... lại... thôi. Nhìn kìa."
Cô chìa cái la bàn ra. Mũi kim không ngừng rung lắc kể cả khi chúng tôi đứng yên hay di chuyển đi chăng nữa. Hướng Bắc chỉ thẳng về phía tổ chim đỏ.
Tôi chưa trải qua việc này bao giờ. Dạ dày tôi sôi lên, một cảm giác bất an lan tỏa khắp người. Nếu cái la bàn còn rung lắc như vậy, tôi không biết chúng tôi sẽ đi đến đâu nữa. Có thể chúng tôi đã đi vòng vòng suốt mấy giờ liền, cũng có thể chúng tôi đã đi sâu vào rừng hơn.

Mặt trời đã bắt đầu lặn. Nhìn theo bóng mặt trời, tôi nhận ra mình đang đi về phía bắc chứ không phải phía đông. Nếu đi theo vệt nắng, chúng tôi sẽ đi đúng hướng, nhưng sẽ không kịp tới trục đường chính trước khi màn đêm buông xuống. Tốt hơn hết là tìm cách trú lại ở đây.
Tôi tìm được một bãi đất trống gần một cái cây lớn và bắt đầu dựng trại. Tôi làm một cái lều nhỏ bằng rêu và cành cây, dùng làm chỗ tránh gió tạm thời. Tôi vệ sinh và băng bó lại cho Cymone. Tôi dựng một khúc gỗ cho cô kê chân lên. Mặc dù rất đau đớn, nhưng Cymone vẫn an toàn.
Vừa ăn, tôi vừa kiểm tra lại la bàn. Kim la bàn không ngừng quay; có thể là phản ứng với những con chim lạ. Tôi bắt đầu nhìn thấy một vòng tròn chim, giống như bầy kền kền bu xung quanh bữa ăn của chúng vậy.
Còn nữa, thứ âm thanh đó. Tôi cá rằng đây không còn là tiếng chim hót líu lo nữa, nó là một giọng cười.

Mặt trời đã lặn, những đám mây đen kéo đến trên đầu. Cơn gió lạnh thổi qua những tán cây và mặt trăng hoàn toàn bị che khuất. Tôi còn chẳng nhìn thấy bàn tay của chính mình. Chúng tôi có một cặp đèn pin; cái phao cứu sinh cuối cùng.
“Chúng ta… chúng ta nên thay phiên nhau gác,” Cymone nói. “Đề phòng thôi.”
“Chắc chắn,” tôi nói. “Chúng ta nên cố gắng che giấu vết máu, có thể có gấu.”
“Quan trọng là… anh nghĩ chúng ta nên làm gì bây giờ?”
Có một vài ý tưởng nảy ra trong đầu tôi. Không có gì dễ dàng cả, nhưng tất cả đều cần thiết. Những con chim này làm tôi phát hoảng, nhưng vẫn còn rất nhiều nguy hiểm khác khi ngủ giữa rừng.

Mọi thứ cứ vậy trôi qua. Trong bóng đen lờ mờ, cái gì trông cũng giống nhau, tất cả những gì tôi có thể nghe thấy là tiếng líu lo và tiếng gió. Những con chim vẫn cứ lượn quanh ngoài kia, chúng không bỏ cuộc. Chỉ một lúc sau, tôi đã trở nên quen thuộc với thứ âm thanh này.
Cymone và tôi thay phiên nhau nghỉ ngơi. Sau vài lần đổi gác, chúng tôi bắt đầu trở nên cẩu thả. Lúc đó đã gần nửa đêm, nhưng cảm giác chúng tôi đã ở đó hàng tuần liền. Thời gian trôi qua thật chậm khi bạn cảm thấy khó chịu, chờ đợi cái lạnh và bóng tối qua đi.

Đã có lúc, cả hai cùng chìm vào giấc ngủ.
Tôi nhớ mình thức dậy, quờ quạng không rõ phương hướng. Thứ gì đó lướt qua sau đầu tôi và hòa vào bóng tối. Tôi với lấy đèn pin, nhưng tìm không ra.
Tôi cũng không ở nơi mà lẽ ra tôi phải ở. Tôi ở cách chỗ mình ngủ khoảng 1 mét 2, và sau gáy tôi là một dòng nước dãi ấm áp.
Lũ chim đã dừng lại.

Tôi chợt nhận ra; một cái gì đó đã cố kéo tôi ra khỏi lều.
Tôi loạng choạng đứng dậy.
“Cymone!” Tôi gọi to. “Cái… cái quái gì thế?!”
Không có phản hồi.
Tôi nín thở lắng nghe. Không có gì ngoài gió.

Tôi bò trở lại nơi trú ẩn, chỉ để nhận ra Cymone đã biến mất.

Tôi mò mẫm tìm đèn pin của cô ấy. Của tôi đã biến mất, nhưng có lẽ của cô ấy thì không. Phải mất một lúc, nhưng cuối cùng tôi cũng tìm thấy chìa khóa nhà của cô ấy. Nó có gắn thêm một chiếc đèn pin nhỏ cỡ ngón tay. Không nhiều, nhưng đó là tất cả những gì tôi có.
“Cymone?!” Tôi gọi to, lau cái thứ âm ấm trên cổ. “Cymone!”
Không có gì.

Cô ấy đã đi đâu đó. Có một vài vệt máu từ vết thương của cô ấy, nhưng chỉ có thế. Chiếc mũ kiểm lâm màu xanh lá cây của cô ấy vẫn còn; cô ấy sẽ không bao giờ để nó lại.
Tôi bắt đầu nhìn xung quanh khoảng đất trống. Phải mất một lúc tôi mới tìm thấy một mảng rêu và cỏ lớn, nơi tôi có thể nhìn thấy mặt đất đã bị đè xuống.
Không, không chỉ là đè xuống. Một cái gì đó đã bị kéo lê qua đây.

Tôi đứng im, cố gắng tìm hiểu xem điều đó nghĩa là gì. Cymone đã biến mất. Và bây giờ, tôi có thể nghe thấy thứ gì đó khác ngoài tiếng gió.
Tiếng động khi ăn.
Khi cắn. Khi xé.
Những cái mỏ chứa đầy tới mức không thể phát ra tiếng cười.

Một cái gì đó đang di chuyển.
Một cái gì đó to lớn.

Tôi quay lại, soi đèn pin để cố nhìn xem. Một cái gì đó đang chạy thẳng tới chỗ tôi. Có một tiếng thở mạnh, và tiếng phi nước đại.
Mọi thứ trong tôi mách bảo tôi phải chạy trốn, nhưng tôi chỉ… đơ cứng người. Tôi đứng đó, chờ đợi cái thứ kia đến. Có lẽ bản năng biết tôi không có cách nào chạy trốn; Tôi sẽ phải đối mặt với nó.

Đèn pin nhấp nháy, nhưng vẫn còn sáng.
Tôi thoáng thấy nó.
Nó chạy bằng bốn chân. Nó có lông, hoàn toàn hòa mình vào bụi rậm. Hai cái mắt to, đen và một cái mỏ sắc nhọn to bằng cổ tôi.
Nó dừng lại ngay trước cái đèn pin, nhưng vẫn ở ngoài tầm nhìn. Nó gầm gừ khiến mặt đất rung chuyển.
Đèn pin của tôi lại nhấp nháy, và con thú lao về phía trước.
Khi đèn ngừng nháy, nó lùi lại, tạo ra một tiếng rít khủng khiếp, to đến nỗi màng nhĩ của tôi rung lên. Tôi mất thăng bằng, va vào một cái cây.
Nó đang bao vây tôi. Những con nhỏ hơn đã bắt đầu chạy đi chạy lại, cắn vào chân tôi.

Tôi quay tròn, cố gắng sử dụng ánh sáng từ cái đèn pin để giữ chân chúng. Trong lúc luống cuống, tôi giẫm phải cái điện thoại của mình. Nó đã hỏng, không thể sử dụng, nhưng nó ở ngay đó. Chúng đã kéo lê nó theo. Hoặc đơn giản là ngay từ đầu, chúng tôi đã không đi xa như chúng tôi tưởng.
Tôi phải làm một cái gì đó. Thử một cái gì đó. Vết cắn ở chân tôi chảy máu, và mùi máu khiến chúng càng háo hức hơn. Cuộc chiến bắt đầu. Tiếng cười lại vang lên.

Tôi ngậm đèn pin vào miệng, cúi xuống nhặt điện thoại lên. Tôi mở nắp, tháo lấy cục pin. Nhờ việc sử dụng sợi dây kim loại từ móc khóa, tôi làm đoản mạch cục pin, thành công chế tạo một chiếc bật lửa mini. Đủ để tôi có thể đốt cháy một bụi cây nhỏ.
Chỉ là một đốm lửa nhỏ, cục pin đã hoàn toàn cạn. Nhưng tôi vẫn ôm lấy đốm lửa giữa hai tay, miệng cắn chặt chiếc đèn pin. Lũ chim chạy xung quanh; vẫn vô hình trong bóng đêm, chờ tôi mất cảnh giác. Chờ ánh sáng cuối cùng lụi tàn.
Đột nhiên, chân tôi bị kéo mạnh. Trong vòng chưa đầy một giây, tôi và ngọn lửa mới chớm nở đã cách xa nhau ba bước chân.

Chúng cắn tôi. Cái gì đó đang cố gắng gầm lên. Tôi dồn hết sức đá một cái, chạm phải một thứ giống như đá, hay là mỏ gì đó.
Nó thậm chí không hề nao núng.
Tôi thu chân về một cách khó khăn, có thêm một vết thương sâu ở mắt cá.

Tôi bò ngược lại với ngọn lửa giờ đã bùng lên to bằng nắm tay. Nó vẫn chưa thể chống chọi trước cơn gió, nhưng vẫn đang lớn dần lên. Thần may mắn đã mỉm cười với tôi.
Tôi làm một ngọn đuốc từ ngọn cây và một miếng vải xé ra từ quần mình. Tôi có thể thấy một thứ gì đó to lớn nằm ngoài tầm với. Nó chưa buông tha tôi, cả những con nhỏ hơn cũng vậy.

Tôi nhặt thêm một ít cành khô để nuôi ngọn lửa của mình và dựa lưng vào một cái cây, để không gì có thể lẻn vào từ phía sau. Tất cả những gì tôi phải làm là giữ cho ngọn lửa cháy và tôi sẽ thoát khỏi đó. Bình minh sẽ đến.
Nhưng tôi có thể nhìn thấy nó. Ngoài kia, trong bóng tối. Những con mắt đen đó nhìn chằm chằm vào tôi, không chớp, không ngừng.
Tôi không thể chạy. Tôi không thể để nó làm tôi mất tinh thần. Nghĩ lại Jamie, tôi tự nhủ chỉ còn một việc phải làm nếu muốn gặp lại cô bé.
Con muốn nhìn con chim.
Chỉ nhìn thôi mà, bố.
Chỉ thế thôi.

Nó đi vòng quanh tôi. Nó gầm gừ. Nó gào lên những tiếng dữ dội, cố gắng làm tôi bối rối. Nhưng đó là tất cả những gì nó làm. Tôi nắm chặt tay, ngồi gần ngọn lửa và nhìn chằm chằm vào nó.
Nhìn vào con chim. Nhìn vào con chim. Hãy nhìn con chim chết tiệt đó cho đến khi màn đêm tan đi.
Và mặt trời đã lên.

Khi trời sáng, chúng rút vào rừng, với đầy ắp thịt và xương.
Chúng đã có chiến lợi phẩm của chúng.
Tôi sẽ không kể chi tiết những gì chúng đã làm với Cymone. Tôi không thể bắt mình nói thành lời.
Không còn gì của Cymone. Dù chỉ một phần cơ thể.
Đó là đêm khủng khiếp nhất trong cuộc đời tôi.

Tôi đã biến nơi đó thành nhà của chúng.
Cảnh sát nói rằng đó là một cuộc tấn công của động vật. Không con chim lạ màu đỏ nào hay… bất cứ thứ gì rình rập chúng tôi. Họ nói đó là một con gấu đen.
Tôi không chắc chắn lắm.
Tôi đang tìm một căn nhà mới. Jamie ở với mẹ trong khi tôi dưỡng thương. Tôi đã cố gắng tìm hiểu thêm, nhưng dường như không ai biết gì. Babin cười và chế nhạo mỗi khi tôi nói rằng có một con chim như vậy sống ở West Virginia.

Nhưng tôi không thể mang Jamie trở lại đây. Chưa. Vào ban đêm, tôi tưởng tượng mình nghe thấy tiếng chim chích chòe ngoài cửa sổ phòng ngủ. Đôi khi, tôi thấy những tia sáng đỏ trong rừng. Tôi chắc rằng chúng vẫn ở ngoài đó, cố dụ mọi người vào sâu hơn trong rừng.
Nghĩ xem, chúng trông thật đáng yêu.
Chúng tôi chỉ muốn xem chúng mà thôi.

_____________________
Link Reddit: https://redd.it/10z5o21
_____________________
Dịch bởi Lu
Edited by https://translate-rvn.web.app/

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#kinhdi