Chương II

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Với những trải nghiệm điên rồ mà tôi đã trải qua, cũng như đã cố gắng để kể lại một cách chi tiết nhất có thể với giáo sư Wenger mà không phải đào quá sâu vào những điều báng bổ, tôi tin rằng và cũng biết chắc rằng những điều mà tôi đã trình bày trong bài luận văn là đúng, mặc dù đó rất có thể chỉ là một phần rất nhỏ của tảng băng trôi—một phần rất rất nhỏ của lục địa băng tràn ngập những điều không thể biết nhưng đã phần nào ẩn ẩn hiện diện trong bộ gene của mọi sinh vật sống.

Nhưng cũng từ thời điểm này—khi màn tự thuật của tôi đã kết thúc, những biến động mới chính thức xuất hiện.

Giáo sư Wenger nói với tôi rằng ông cần một thời gian để tiêu hóa những điều tưởng chừng như phi lý mà tôi đã kể, vì vậy ông ấy đã xin phép tạm dừng cuộc trò chuyện và hãy để ông ấy thêm một thời gian xem xét. Tôi rất sẵn lòng với điều ấy, bởi lẽ mục đích 'chia sẻ những bí mật kinh hoàng' của tôi đã hoàn thành.

Tôi cho rằng với sự trợ giúp của những người thông thái như giáo sư, có lẽ chúng tôi sẽ làm sáng tỏ được những bí ẩn lớn nhất của lịch sử? Và phần nào, cũng có thể giúp tôi tránh thoát sự tra tấn ấy?

Rõ ràng, tôi đã quá ngây thơ vào thời điểm đó. Sự ngạo mạn của tôi đã phải trả giá đắt sau này, và đến tận bây giờ nữa.

—Những ngày tiếp theo ở Cambridge của tôi đã trôi qua một cách tưởng chừng như yên bình; những cơn gió đông vẫn cứ đến và đi, tuyết bắt đầu rơi từng đợt đầu tiên, dòng người vẫn qua lại trên những con phố, ai nấy đều có việc của mình và cũng chỉ chăm chú tập trung vào công việc của họ—không muốn làm vướng bận nhau, mọi thứ đều diễn ra không khác gì thường ngày. Nhưng tuy nhiên, tâm trí tôi lại đưa ra những ác cảm mãnh liệt trái ngược hoàn toàn đối với những khung cảnh thường nhật bình lặng đó, cứ như có thứ gì đó giả tạo đang được che giấu, và cái ác, sự đen tối cùng những điều bất tường đang lục đục phía dưới lớp màng ấy, chờ đợi thời cơ để chọc thủng nó ra và mang tới sự hỗn loạn không ai ngờ được.

Tôi không còn nghe tin gì từ thầy Wenger ngoài việc ông ấy đã quyết định lên đường đến Đại Học Oxford vào sáng hôm sau—có thể ông ấy muốn đi tìm thêm tư liệu, hoặc là hội họp với những bộ óc vĩ đại khác, nhưng cũng có thể nó thậm chí còn chẳng còn liên quan đến bài luận văn của tôi, có lẽ nào ông đã nhận được một tin tức khẩn cấp nào đó và bắt buộc phải rời đi ngay hôm sau?

Dù đã phỏng đoán rất nhiều và luôn hướng tới những kết luận tích cực nhất có thể, nhưng tiềm thức tôi biết rằng có điều gì đó không ổn đang xảy ra. Những giọng nói thầm thì kỳ lạ đã hình thành nên từ vòng xoáy vô tận của những màn tra tấn tinh thần khiếp đảm mà tôi đã phải trải qua bấy lâu nay vẫn luôn thì thầm trong tôi, và nay chúng nói với tôi rằng giáo sư chưa bao giờ là một người thật thà, tối bụng hay đáng tin tưởng; chúng nói rằng ông ấy vẫn luôn ẩn giấu bản thân mình dưới một lớp mặt nạ—bởi lẽ ông cũng là một phần của giáo hội cổ xưa—Giáo sư biết về bọn chúng, biết về những Vị Thần ấy.

Stephen J. Wenger là một tông đồ, và ông ấy đang tìm đến những người bạn của mình để thảo luận về những điều mà tôi đã viết ra! Bọn họ sẽ tìm cách xử tử tôi vì dám viết ra những điều thuộc miền cấm kỵ! Bọn chúng sẽ sớm săn lùng tôi!

Đó là những điều mà chúng đã luôn lặp đi lặp lại với tôi. Những tiếng nói vẫn cứ vang vọng mãi dù chẳng đạt được đáp lại, những tiếng khàn khàn rên rỉ đó, chúng đang muốn nhắc nhở tôi? Hay là tiêm nhiễm vào đầu tôi những suy nghĩ xấu xa?

Tôi không thể phán đoán được. Nhưng trong khi cứ đi đi lại lại trong căn phòng trọ với tâm trí còn lo nghĩ mãi, tôi sực nhớ tới một việc.

Đã từng có một lần tôi đi tới thư phòng của giáo sư Wenger để lấy đi vài cuốn tài liệu theo lời nhờ vả của thầy ấy, có lẽ là vào tháng tư năm ngoái.

Tôi vẫn còn nhớ rằng khi đó, tôi tiến đến bàn làm việc của ông để lấy đi hai chồng sách có nguồn gốc từ Ả Rập, nhưng không may sự cồng kềnh của chúng đã khiến tôi có chút mất thăng bằng trong quá trình vận chuyển và để cho cuốn 'Kulu shay' ean Alshayatin' văng xuống phía sau cái bàn gỗ.

Bất đắc dĩ, tôi đã phải đặt xuống phần tài liệu, và đi vòng ra sau cái bàn để nhặt cuốn sách lên. Nhưng điều này bất ngờ lại cho tôi biết được rằng phía dưới bề mặt của cái bàn làm việc ấy có ẩn giấu một cái hốc sâu kỳ lạ, được thiết kế để chỉ có thể nhìn thấy khi cúi xuống nhìn vào trực diện. Vào lúc ấy, bản tính tò mò đột nhiên trỗi dậy dữ dội trong tâm trí tôi đã buộc cho tầm mắt của tôi dừng lại tại cái hốc đó một vài giây, vừa đủ để tôi loáng thoáng thấy được một mặt dây chuyền đang nằm gọn trong đó—với thiết kế kiểu Opera rất đơn giản. Phần dây mạ vàng được đan vào nhau theo kiểu Curb truyền thống, và cuối cùng thắt nút vào một cái khuôn nhỏ hình thoi thon gọn, đính trên đó một viên ngọc lục bảo sáng lấp lánh. Mà khi nhìn kỹ hơn, tôi còn có thể thấy được mặt bên trong của nó có in lên một dòng chữ ngoằn ngoèo với hàng chục nét trong mỗi một ký tự, và tua rua ra như những cái xúc tu nhỏ—đúng đấy, chúng chính là ngôn ngữ Ulqthe!

Đây chắc chắn không phải là một sự trùng hợp. Khi ấy tôi còn chưa được tiếp cận với thứ ngôn ngữ kia nên đã không để ý nhiều, nhưng bấy giờ thì khác. Liệu những gì mà những giọng thì thầm kia nói có đúng? Hiện tại tôi đã có đầu mối để tìm hiểu.

Ngay lập tức, tôi lật tìm một vài bản phác thảo về bảng chữ cái Ulqthe mà tôi đã chép được trong cuốn "Rituals of the Octagram" và đối chiếu với những mảnh ký ức trong đầu. Bởi lẽ những Vị Thần, giấc mơ và Ulqthe có liên hệ rất mật thiết với nhau; thế nên như một nạn nhân đã bị chúng ám ảnh sâu sắc, tôi vẫn còn nhớ rõ những hình chữ mà mình đã nhìn thoáng qua.

Bí Truyền Cổ Lão N'lahyii—bảng giải mã đã nhanh chóng cung cấp cho tôi cái tên này.

Và trong sự ấn tượng tràn đầy ác cảm đột ngột bắn ra, tôi bàng hoàng nhận ra rằng đây là một nhóm tín đồ 'dị giáo' đã từng hoạt động mạnh mẽ ở vùng Đông Anglia nước Anh vào khoảng cuối thế kỷ XVI cho đến đầu thế kỷ XIX, chủ yếu tập trung quanh khu vực Norwich, Cambridge và Ipswich. Trong mắt của công chúng, họ là những kẻ dị giáo báng bổ bị ghẻ lạnh và hắt hủi vô cùng, thậm chí đã từng có khoảng thời gian dân chúng đã hợp lực truy lùng các thành viên của giáo hội vì phản cảm khi bọn họ dám lan truyền những tín ngưỡng cực đoan đầy man rợ—những vụ việc mà lịch sử ngày nay vẫn ghi chép lại như là các cuộc truy lùng phù thủy. Sự bài trừ mạnh mẽ đến mức bọn họ đã phải chuyển hoạt động của mình thành những buổi truyền giáo kín đáo với quy mô nhỏ hơn, và sau đó là biến mất hẳn khi cuộc chiến tranh Napoleon mở ra năm 1803.

Nhưng cũng có nguồn tin cho rằng giáo phái vẫn còn hoạt động cho đến tận bây giờ, và sự biến mất của chúng trên mặt nổi chẳng qua là sự cải cách trong cuộc thay da đổi thịt năm 1815. Giờ thì chúng đáng sợ hơn, cực đoan hơn và bí hiểm hơn nhiều so với lúc trước; bởi lẽ có một số bằng chứng chỉ ra rằng chính giáo hội là những người đứng sau giật dây chiếm đóng thuộc địa Ấn Độ của Anh diễn ra vào năm 1858, sau khi cuộc "Binh biến lính Ấn" bị đàn áp. Động cơ đằng sau của vụ việc này có thể là vì giáo hội muốn tìm kiếm những cuốn kinh cổ nào đó trong hệ thống tu viện phức tạp nơi đây, và bóng dáng của tổ chức cũng đã được nhìn thấy đâu đó ở tu viện Sringeri, Sarnath và Rumtek.

Từ những gì mà tôi đã từng đọc được từ các tư liệu tại thư viện Cambridge, có vẻ như giáo hội này tôn thờ một Vị Thần có tên là Usmuhu'N'lahyii—với hình dáng đậm chất ma quỷ của một con quái vật với bốn cái đầu dê, được tô điểm bởi mười cặp mắt trắng dã và hàng chục chiếc lưỡi rắn dài tới bốn-năm inch luôn thè ra từ những cái miệng rộng đến mang tai, có thân người nhưng mọc đầy lông đen gớm ghiếc và có chi là những cái xúc tu cứng nặng trịch như đá tảng.

Như những thành viên của N'lahyii đã nói trong những buổi truyền giáo,

Ngài nắm giữ những quyền năng và dạng thức thực sự vượt ra khỏi vũ trụ phàm tục; và con người e sợ sự hiện diện của Ngài, bởi Ngài nắm trong tay những điều mà ta chỉ có thể mơ tưởng nhưng không dám làm và cũng không làm được! Ngài là Đấng Tri Thức, là Absus ngủ say tại Raahu, và là một với Ar'absus Yahwkabath!

Thờ cúng Ngài, và chúng ta sẽ đạt được những điều không biết và được phép bước vào miền không tưởng sau cái chết! Tôn thờ Ngài, và chúng ta sẽ làm chủ tể của thế giới này. Để rồi tại vùng đất vĩnh hằng, chúng ta là một phần của Ngài và chìm đắm trong sự bất tử toàn năng!'

—Tim tôi đã chậm một nhịp khi nhớ tới những điều này.

Absus ư? Và Ar'absus?—Chẳng phải chúng có nghĩa tương đương với 'Thần' và 'Chân Thần' trong tiếng Ulqthe sao? Hình dạng ghê tởm? Những quyền năng và dạng thức thực sự vượt qua khỏi vũ trụ phàm tục này?

Đây chẳng phải là những gì mà tôi đã viết hay sao? Tôi thề rằng là mình đã viết ra bài luận ấy với những kiến thức đã tham khảo và được suy nghĩ kỹ càng, nhưng mặc nhiên không bao gồm chút ấn tượng nào về việc tôi đã tham khảo từ 'Bí Truyền N'lahyii'!

Và khoan đã. Những ký ức ấy đến từ đâu? Từ bao giờ mà tôi đã tìm đọc những thông tin về Giáo Hội Bí Truyền N'lahyii vậy?

Những dòng suy nghĩ ấy cứ thế hỗn độn và tràn ngập không ngừng, những câu hỏi chưa thể giải đáp được nay vẫn chưa thể tìm ra câu trả lời, và lại còn tiếp tục kéo thêm vô số những câu hỏi khác nữa. Nhưng sau một lúc choáng váng và đã lấy lại được phần nào bình tĩnh, tôi ít nhất có thể tin rằng giáo sư Wenger thực sự có điều gì đó bất thường, đó là một tín hiệu cực kỳ tồi tệ. Tôi tin vào các dấu hiệu, và dù cho những lời thì thầm hay là những ký ức không xác định này có mang một mục đích xấu xa hay là gì đi chăng nữa, thì chúng vẫn đã cho tôi hai sự lựa chọn. Tin hoặc không tin. Lẽ dĩ nhiên hiện ra sau những phân tích và loại bỏ đơn giản, chỉ có cái trước mới là con đường duy nhất mà tôi vẫn có thể chủ động bước đi.

Tôi đã sai lầm khi tìm gặp Thầy Wenger. Với dấu ấn của 'N'lahyii', ông hẳn phải biết trước về những điều mà tôi đã trình bày, nhưng ông đã không nói gì ngay lúc đó, không gì cả! Giờ thì ông ấy đã đi tới Oxford, phải chăng là ông ấy thực sự đang đi gặp những giáo đồ khác? Và phải chăng họ sẽ sớm tìm bắt lấy tôi? Hoặc biến tôi thành một phần của chúng? Điều gì đang chờ đợi tôi phía trước đây? Có quá nhiều câu hỏi—Đêm đen lạnh buốt, tuyết rơi, không có trăng. Và tôi ôm đầu ngủ gục—

.

Vào sáng hôm sau, tức là ngày mùng 10 tháng 12, sau khi tỉnh lại từ cơn ác mộng dù đã quen thuộc nhưng vẫn không thể nào thích ứng; cái chết trong mơ đã làm tôi nhận ra rằng mình không có lí do để sợ hãi một giáo hội của những kẻ người trần mắt thịt nào đó—nhất là khi tôi vẫn chưa thể xác nhận đó là sự thực.

Tôi cần phải làm một điều gì đó. Ít nhất, tôi cần phải nắm bắt thời gian của mình.

Với ý nghĩ đó, tôi đã thu thập đồ đạc của mình nhanh chóng hết sức, đem theo một phần bản sao của bài luận văn, các bản chép tay của một vài trang trong cuốn 'Rituals of the Octagram', bộ đồ nghề khảo cổ và thêm hai bộ quần áo để dự phòng nữa. Nhưng trước khi chạy trốn khỏi thành phố, tôi vẫn cần phải đi đến thư viện Cambridge một lần cuối để thử tìm những thông tin liên quan tới giáo hội Bí Truyền N'lahyii như là sự bảo đảm tính chân thực cho những mảnh ký ức mơ hồ tôi đang nắm giữ.

Bảy giờ sáng, khi tôi đang chuẩn bị rời khỏi nhà trọ để lên đường đi tới khu lưu trữ những bài sách báo lịch sử ở thư viện đại học, bất ngờ rằng đã có một chàng trai trẻ đang chờ tôi ở dưới lầu—ngay sảnh chờ.

Đó là một cậu trạc tuổi tôi, cao khoảng độ sáu feet hơn. Nhìn qua trông có vẻ hơi ốm yếu với một bờ vai thõng xuống không quá rộng hay săn chắc, tuy nhiên, bằng một cách nào đó mà tôi vẫn có thể sâu sắc cảm nhận được một sự rắn rỏi bất thường ẩn phía dưới bộ vest đen truyền thống của anh ta. Và khi nhìn kỹ hơn, điều đầu tiên đã ngay lập tức thu hút tôi chính là một đôi mắt diều hâu màu biển toát ra thứ cảm giác mạnh mẽ cực kỳ ấn tượng, tuy không tràn đầy sức sống của tuổi trẻ nhưng lại thêm vài phần chững chạc và bén nhạy vô cùng. Thêm vào đó, chiếc mũi khoằm, cằm vuông, đôi môi mỏng và vầng trán rộng dường như đã tô đậm thêm phần tri thức và cương nghị của anh ta. Những đường nét sắc sảo trên khuôn mặt sáng loáng đó—tôi nghĩ rằng người này là một người Anh gốc Pháp, hoặc cũng có thể là một người Pháp bản địa.

Ban đầu, ý nghĩ đã ngay tức thì bắn ra trong tâm trí tôi là anh chàng này hẳn phải là một người của giáo hội được cử đến để đưa tôi đi. Nhưng chỉ một giây ngay sau, tôi liền bác bỏ suy nghĩ này; bởi ở anh, tôi cảm thấy một sự thân thiết kỳ lạ.

Đó không phải là thứ tà thuật hớp hồn nào đó—tôi chắc chắn về điều đó—mà đó là vì người đang đứng trước mắt tôi đây cũng giống với tôi. Cả hai chúng tôi là cùng một kiểu người!

"Xem ra anh không coi tôi là một phần của nhóm người kia." Anh ta nói, với một nụ cười mỉm. Và sau khi nhận được cái gật đầu đồng ý của tôi, anh nói tiếp:

"Tôi là Andervista Hohenjun, học năm ba khoa Khảo cổ học tại Cambridge. Hẳn là anh đã từng nghe qua. Tôi nghĩ là anh có rất nhiều điều muốn nói, nhưng chúng ta không có nhiều thời gian đâu, hãy đi thôi—anh có việc cần tiến vào thư viện Cambridge, tôi cũng thế."

—Sau đó, cả hai chúng tôi đã đồng hành cùng nhau trên con đường Grange đến Thư Viện Đại Học. Chúng tôi đã khá kiệm lời trong khoảng thời gian này, vì thời gian được đặt lên hàng đầu đối với cả hai. Tuy nhiên, tôi cũng đã biết được vài điều về chàng trai trước mặt.

Đúng là trong trí nhớ của tôi đã từng xuất hiện cái tên 'Andervista Hohenjun' này, anh ta là một học sinh xuất sắc khóa dưới mà giáo sư Wenger đã từng vài lần đề cập đến với tôi. Nhưng vì thời ấy tôi còn chăm chăm nghiên cứu và đọc sách nên đã không có thời gian để tìm hiểu thêm về anh ấy. Giờ thì tôi cũng biết được rằng Hohenjun là một người đã xuất hiện những triệu chứng y hệt tôi, nhưng với mức độ trầm trọng hơn nhiều, vậy nên cũng dễ hiểu khi anh ta biết nhiều điều hơn tôi.

Trên đường đi, anh ấy nói, "Anh không nên dùng chủ đề đó để viết bài luận, càng không nên đưa chúng cho bất kỳ ai khác. Đó là sai lầm của anh, Chris."

"Tôi không hiểu? Cả anh và tôi hẳn đều biết được những giấc mơ của chúng ta là những bí mật duy nhất thực sự quan trọng của thế giới này, và với chỉ nguồn lực của riêng anh hay tôi thì chúng ta sẽ chẳng thể hiểu hết được chúng, dù chỉ một chút. Tôi công nhận là mình đã quá hấp tấp khi đưa bản thảo đó cho giáo sư Wenger, nhưng tôi vẫn tin rằng chúng ta cần sự trợ giúp của những bộ óc phi thường khác." Tôi phản bác.

"Vậy là anh chưa mơ đủ nhiều. Anh đã biết chúng là những điều cấm đoán, và chúng vượt trên thường thức của con người hay thậm chí là các quy luật của vũ trụ này, xa hơn thế nữa là những cõi giới giả tưởng; thế nhưng anh vẫn còn nghĩ rằng những kẻ phàm trần như chúng ta sẽ có thể xâm phạm tới lãnh vực của chúng ư? Nỗi sợ và những cái chết liên tục chưa khiến anh nhận rõ vấn đề sao?

Chúng ta được đưa đến đó không phải vì chúng ta đã bước vào địa vực của chúng trong vô thức. Raaval—Cõi Thực, đó là vùng biển sâu được tạo ra để giúp chúng ta có thể phần nào nhận biết được bản chất đáng ghê tởm của thế giới này. Nó cho chúng ta biết cái gì mới thực sự là quan trọng, và cái gì mới nên là mối quan tâm cấp thiết. Nhưng nó chưa bao giờ có nghĩa rằng chúng ta được chọn để làm những người đi đầu trong công cuộc khai phá. Raaval là một phương thức để tự vệ, không phải là để xông đến cái chết.

Như H.P Lovecraft đã nói: 'Điều nhân từ nhất trên thế giới này là việc trí óc con người không có khả năng tương quan với tất cả nội dung của nó. Chúng ta sống trên một hòn đảo yên bình của sự ngu dốt giữa biển đen vô tận, và điều đó không có nghĩa là chúng ta phải đi xa.'—anh hiểu chứ?"

Trước những lập luận của Hohenjun, tôi im lặng.

Đột nhiên tôi nhận ra rằng bấy lâu nay mình vẫn còn quá ngây thơ, rõ ràng là tôi đã nhận thấy rõ những sự khiếp đảm mà chúng đem đến, thậm chí trải qua nhiều lần chết đi sống lại chỉ vì một cái liếc nhìn. Tôi ý thức được sự cách biệt giữa đôi bên cũng giống như Chúa Trời và một con kiến nhỏ bé, thậm chí lớn hơn; nhưng cớ sao tôi vẫn viết mà không suy nghĩ gì cả?

Tại sao tôi chưa từng một lần nghĩ tới những điều này? Là khao khát? Một sự mê hoặc từ những giọng thì thầm sao?

Và như đã đọc được những suy nghĩ của tôi, Hohenjun nói tiếp:

"Anh đã nghĩ đúng rồi đấy. Cái điên loạn vẫn luôn không ngừng gặm nhấm chúng ta, tôi và anh. Những giọng thì thầm trong tâm trí là một di chứng từ những giấc mơ, tiếng nói của chúng đôi khi rất rõ ràng, để cho ta có thể nghe được và từ chối được. Nhưng có những tiếng nói lặng lẽ hơn, ngấm sâu trong vô thức và đã tiêm nhiễm vào tâm thức chúng ta mầm mống của những cái khát khao điên rồ kia. Đôi khi chúng nhắc nhở chúng ta những điều tốt, nhưng không phải lúc nào chúng cũng đáng tin cậy. Trước những điều không thể biết, việc duy nhất mà chúng ta có thể làm là tiếp tục vờ như mình là một kẻ ngu dốt, chỉ như thế mới có thể bảo toàn tính mạng được."

"Những giọng nói đó rốt cuộc là gì?"

"Một lời nguyền đi kèm cùng với những giấc mơ. Người dẫn đạo của tôi nói rằng đó là tập hợp của vô số các phiên bản khác của chúng ta trong những dòng thời gian khác biệt, những người đã sớm bị sa ngã, chưa chết đi nhưng rỗng tuột tâm trí, vẫn sống nhưng hồn đã không đi với thể nữa, và họ lựa chọn để những sự suy đồi của mình ám lên những bản thể vẫn còn lý trí. Đó là tất cả những gì mà tôi biết."

Sau câu nói này của anh, chúng tôi đã rẽ vào Loverose và chỉ còn cách 350 feet nữa cho tới cổng thư viện. Vì vậy, cả hai đã không nói gì nữa, sự im lặng và trầm trọng bám vào bầu không khí. Chúng tôi đi qua cổng, tiến vào phòng đọc liền một mạch. Anh bạn mới quen của tôi đã ngay lập tức tiến tới một xó nào đó ở khu kệ sách tham khảo, trong khi tôi dừng lại ở kệ nghiên cứu và lật tìm các tài liệu ghi chép về lịch sử khu vực Đông Anglia trong khoảng từ bốn thế kỷ trước trở lại.

—Không có gì nhiều ngoài một chút thông tin lặt vặt, tất cả những gì mà tôi có thể tìm thấy được là một vài đoạn ngắn, và nó vẫn chưa khớp hoàn toàn.

Đầu tiên là tôi có thể chắc chắn một vài điều cơ bản về Hội Bí Truyền. Chúng có thực, từng bị truy đuổi, thờ phụng một Vị Thần dị dạng, và thành viên cũng sở hữu những mặt dây chuyền y hệt cái mà tôi đã nhìn thấy trong hốc bàn của thầy Wenger. Tuy nhiên, không có thông tin gì về việc họ đã từng thay da đổi thịt hay dính dáng gì đến vụ việc Anh Quốc xâm chiếm Ấn Độ và thực hiện công cuộc thuộc địa hoá năm 1858. Có lẽ Thư Viện Cambridge không có nhiều thông tin về mục này? Không. Nếu như thông tin về giáo hội đã xuất hiện trong đây, thì không lý nào những phần quan trọng như vậy lại bị bỏ sót—đặc biệt là khi nó liên quan đến một giai đoạn cực kỳ đặc biệt của quốc gia.

Điều này có nghĩa là gì? Hoặc là những ký ức của tôi đã bị thêu dệt, hoặc là những điều này nằm ở mức độ tuyệt mật mà tầng lớp như tôi chưa thể tiếp cận được—hoặc cả hai.

Nhưng nghĩ theo hướng nào, nó cũng còn quá nhiều vấn đề.

Ai có thể xâm nhập được vào bộ não của tôi trong khi nó vốn đã chứa quá nhiều điều cấm kỵ? Thần Linh? Tôi không nghĩ họ có đủ 'nhân tính' để làm điều đó.

"Anh chỉ cần chắc chắn một điều thôi, Chris. Rằng Giáo Hội là có thực, và rằng giáo sư Wenger có vấn đề. Anh đang nguy hiểm. Vì vậy, chúng ta cần nhanh chóng rời khỏi đây." Chẳng biết từ lúc nào mà Hohenjun đã đứng ngay cạnh tôi.

Anh nói với vẻ bình tĩnh, nhưng tôi vẫn nhận ra được sự gấp rút trong đôi mắt của anh, và một chút hưng phấn?

Tôi thấy bộ quần áo của Hohenjun trông có vẻ hơi bụi bặm, áo bị rách một mảnh nhỏ trước ngực và trên tay anh còn cầm theo một cuốn sách khổ lớn, dày, cực kỳ cổ lão. Một cuốn tà thư khác, nhưng xa xưa và mạnh mẽ hơn nhiều so với cuốn của Iserish V. Himber. Chỉ cần một cái nhìn là tôi ngay lập tức biết thế.

Chẳng nói chẳng rằng, chúng tôi ăn ý tìm cách thoát khỏi thư viện. Vì ngoại hình hiện tại của Hohenjun đang không quá tiện lợi để có thể hành động trực tiếp, vậy nên tôi chỉ đành xung phong đảm nhận công việc đánh lạc hướng thủ thư và thêm bốn người bảo vệ canh gác bên ngoài nữa.

Theo ánh nhìn động viên đến từ anh bạn đang đứng núp ở một góc phía xa, tôi tiến lại gần người thủ thư và tự nhiên bắt chuyện ông ấy, dò hỏi về một vài danh mục sách, trong khi một bên tay thuần thục móc ra từ túi áo bên hông một đồng Halfpenny rồi dùng nó gõ nhẹ lên mặt bàn.

Đôi mắt của tôi nhìn thẳng vào ông ấy, từ từ di chuyển qua lại theo nhịp nói và tiếng gõ lanh lảnh của đồng xu, cứ như thế trôi qua khoảng năm-sáu giây đồng hồ. Và như thể đã trúng vào một loại ảo thuật thôi miên nào đó, mà đúng hơn là đã trúng vào một ma thuật điều tiết cộng hưởng não bộ thông qua những tinh chỉnh về sóng não—khuôn mặt của người thủ thư già bỗng tối sầm lại, hai mắt mất đi ánh sáng. Ông ấy chậm chạp đưa tay mò lấy phía dưới mặt bàn, và rung lên chiếc chuông khẩn kêu gọi những người bảo vệ bên ngoài tụ họp lại—để rồi một lần nữa, tôi lặp lại thủ đoạn nho nhỏ của mình. Thế là đường đi đã trở nên thông thoáng. Chúng tôi sẽ có năm phút dư dả trước khi bọn họ tỉnh lại và ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra.

Làm xong việc, tôi quay trở về chỗ của Hohenjun, bỏ ngoài tai câu nói 'anh thực sự rất có thiên phú trong lĩnh vực này đấy nhỉ?' trông có vẻ hơi mỉa mai của anh ấy; và cả hai cùng đi ra ngoài bằng cổng phụ, hướng thẳng đến nhà ga Cambridge và bắt một cặp vé tới Oxford theo đề nghị của anh bạn mới quen của tôi.

Sau vài phút loay hoay trên chuyến tàu, bọn tôi mới có thể kiếm được một chỗ ngồi tốt, sát cửa nối và bên cạnh cửa sổ ở toa gần cuối. Khi này, tôi tiếp tục bắt chuyện với Hohenjun:

"Khi nãy anh đã đi đâu vậy? Và cuốn sách đó..."

"Tôi đã xuống một căn hầm ẩn phía dưới Thư Viện để 'mượn' lấy nó."—Anh nói, và lấy từ trong túi ra cuốn sách kia, "Phải thú thực là mọi chuyện khá phiền phức đấy. Vài năm trước, tôi đã định đi tìm một bản sao của cuốn sách này ở Bibliothèque nationale de France cơ—nhưng nhờ một vài nguồn tin đáng tin cậy, tôi biết ở đây cũng lưu trữ một bản tương tự, và thế là tôi đến theo học tại Cambridge. Ba năm, tất cả chỉ vì mục đích này. Chờ đợi một thời cơ thích hợp. Lẻn xuống căn hầm ẩn phía dưới Thư Viện Đại Học hai trăm mét, luồn lách qua một vài cái bẫy và cố lấy nó ra mà không để ai phát hiện. Mặc dù thực tế thì tôi có nhiều cách làm khác nhanh gọn hơn, nhưng nó sẽ đem đến những chú ý không cần thiết. Hơn nữa, tôi vẫn khá là tận hưởng cuộc sống như vậy."

"..." Tôi trầm lặng nghe anh nói, và đưa hướng nhìn xuống cuốn sách kia.

Bấy giờ, tôi mới nhận ra trên phần bìa trước của nó có khắc hoạ một hình vẽ ngôi sao tám cánh quái lạ ở trung tâm, bao quanh bởi bốn vòng tròn lệch lạc bất đồng đều—y hệt cái tôi đã từng bắt gặp xuyên suốt trong cuốn 'Rituals of The Octagram'. Và ngay xung quanh vòng tròn lớn nhất, có một dòng chữ Ulqthe chạy dọc—'Amantura bie Ithgwr'. Có vẻ là danh từ riêng. Cùng nhau, chúng đem đến một cảm giác tăm tối và hắc ám vô cùng, ngập tràn sự tà ác—

"Hẳn là anh vẫn còn rất nhiều thắc mắc. Ví dụ như tại sao tôi lại biết tới anh, tại sao trong đầu anh có thêm những mảnh ký ức kỳ lạ, hay tại sao cuốn sách này quan trọng với tôi đến như thế?—Vì chúng ta còn nhiều thời gian, nên tôi sẽ giải đáp lần lượt từng câu hỏi cho anh."

"Đầu tiên, anh cần biết rằng nhóm những người như chúng ta được gọi là Người Mộng Mơ Thực Tại—cái tên này chắc hẳn đã được nhắc nhở bởi những giọng nói trong đầu anh. Gọi như vậy là vì trong giấc mơ, chúng ta đi tới Raaval—tức 'Cõi Số Thực' trong tiếng Ulqthe—một biển sâu nằm tách biệt với mọi khái niệm hay phân bậc của mọi thực tại, hay nói đơn giản là thế. Và từ đó, nó phản chiếu lại một số hình ảnh từ Raahu—'Cõi Số Ảo'—một siêu thứ nguyên vượt mọi kích thước hay giới hạn thông thường. Điểm chung của hai nơi là chúng đều vượt quá mọi hình thức và phương diện vật lý mà chúng ta có thể hiểu được; nhưng trong khi Raahu coi cõi giới vật lý của chúng ta như những thực tại được phái sinh từ giấc mơ của chúng, thì Raaval đơn giản là nằm ngoài tất cả, cả chúng ta lẫn Raahu, và kết nối cả hai thông qua những con đường đặc biệt xuyên suốt hệ thống của hai bên. Đây chính là sự thực của thế giới này: Chúng ta đang sống trong thế giới thực, nhưng nó lại là một giấc mơ nhỏ lẻ so với những kẻ ở Raaval—giấc mơ mới là sức mạnh chủ đạo của toàn tại, và cõi mơ mộng thì thực hơn cả cái thực tế thông thường.

Tôi, anh, và nhiều người khác—chúng ta là những người được trao cho sức mạnh để chiêm ngưỡng điều cấm kỵ, những Đấng Sáng Tạo bên ngoài giấc mơ, để rồi từ đó tìm lấy sức mạnh để tự vệ. Cũng vì vậy, nhìn càng nhiều thì sẽ biết càng nhiều, với sự bảo vệ dần dần chúng ta cũng sẽ lây nhiễm lấy cái bản chất cấm đoán đó, có càng nhiều năng lực, siêu thoát khỏi thực tại này. Việc luận văn của anh đưa ra một hệ thống gần như trùng khớp hoàn toàn so với những gì mà tất cả các Giáo Hội Bí Truyền hay những người xưa đã viết ra từ trước là bởi vì tiềm thức của bọn họ lẫn chúng ta đều đã mơ hồ bị in lấy dấu ấn của miền thế giới bên ngoài giấc mơ kia—bởi chúng ta là những Kẻ Báng Bổ. Những tri thức mà chúng ta biết đều hướng tới những Cấm Kỵ đã có trước mọi sự, vậy nên những khái niệm và những ý tưởng nảy ra trong tâm trí của ta đều hướng đến cùng một tên gọi, một khuôn đã được quy định từ trước. Đến đây thì tôi có thể nói rằng, chính tôi là người đã đưa vào anh những mảnh vỡ ký ức ấy. Tôi đã để tâm trí anh đọc lấy 'phần thông tin' mà tôi đã thu thập được về Giáo Hội Bí Truyền N'lahyii. Tôi có thể làm thế, bởi tôi đã mơ nhiều hơn anh, do đó mạnh mẽ hơn. Anh chính là thời cơ của tôi."

Hohenjun nhìn vào mắt tôi bằng một vẻ rất thoải mái, như thể anh đang rất vui. Vui vì gặp được đồng bạn. Anh không hề suy nghĩ gì về việc tôi có thể sẽ nghi ngờ những lời này của anh—và đúng thế. Tôi biết nó là sự thực dù chẳng có một cơ sở vững chắc nào để tin.

"—Không nghi ngờ. Rất tốt, anh quả đúng là một người thích hợp để làm bạn."

"Anh giống tôi, vậy nên không có lý do gì để nói dối. Như vậy, thiên phú của anh trong lĩnh vực 'mơ mộng' này hẳn còn phải lớn hơn tôi rất nhiều." Tôi trả lời.

"Một phần là thế, nhờ sự cộng hưởng trong lúc truyền tải ký ức, tôi cũng đã biết vài điều về anh. Những giấc mơ đã đến với anh năm sáu tuổi, với tôi thì là ba. Nhưng thành thật thì tôi chỉ thực sự chắp nối lại mọi điều với nhau khi có người trợ giúp."

"Còn người nào khác ngoài chúng ta sao?"—Tàu đã đến Bedford. Còn gần hai phần ba chặng nữa cho tới Oxford. Một tiếng rưỡi.

"Iserish V. Himber—người đã viết ra cuốn 'Rituals of The Octagram' là ông cố của tôi, đồng thời cũng là một trong số chúng ta."

"!?"—Choáng ngợp, đó là từ ngữ duy nhất hiện lên trong tâm trí tôi lúc ấy. Nhưng chưa kịp để cho tôi nói điều gì, Hohenjun đã tiếp tục:

"Vào năm 1735, sau khi bản tà thư được công bố hai tháng, ông ấy đã biến mất không dấu vết. Trên thực tế, Giáo Hội Bí Truyền Omakath ở Pháp đã truy lùng ông ấy và khiến ông phải lẩn trốn sang Anh, thay tên đổi họ thành Manelo Hohenjun và sống ẩn dật trong phần đời còn lại. Anh có thể không biết về giáo hội này, nhưng tôi đã nghiên cứu về chúng suốt hơn một thập kỷ. Phải đấy, khi những đứa trẻ cùng lứa còn đang chơi trò đuổi bắt với nhau, thì tôi đã dùng phần thời gian ấy để nghiên cứu và thu thập thông tin. Và tôi có thể khẳng định rằng quy mô lẫn năng lực của giáo hội này vượt xa sức mạnh tổng hợp từ cả Bí Truyền N'lahyii lẫn tiền thân của nó là Bí Truyền Usmuhu ở Israel hợp lại. Như bọn họ nói—Lửa của Đấng Omakathiepth có thể đốt trụi sáu trăm sáu mươi sáu lần Gốc, và thêm sáu trăm sáu mươi sáu Gốc; và bề tôi của Ngài có thể để cho ánh lửa phủ khắp sáu trăm sáu mươi sáu chủng tộc, cùng thêm sáu trăm sáu mươi sáu thế giới nữa. Dù Iserish có mạnh mẽ như nào đi nữa thì cũng không thể chống cự lại được một nhóm người đã rút lấy một phần sức mạnh từ các Vị Thần như họ được, huống hồ khi ấy ông thậm chí đã không còn là chính mình.

—Nhưng mặc dù nói là 'phần đời còn lại', thực tế thì ông ấy chỉ sống được thêm khoảng một năm nữa trước khi cơn điên loạn hoàn toàn xóa bỏ phần 'con người' trong ông. May mắn là ông ấy có vẫn còn đủ năng lực để tự sát. Vợ của ông—tức bà cố của tôi—đã bảo lưu lại các bản thảo nghiên cứu của ông cẩn thẩn, và đến đời tôi—Andervista Hohenjun; tôi không chỉ kế thừa thiên phú của ông ấy, mà còn sớm được bổ trợ bởi một nguồn lực rất lớn là những bản thảo kia."

"Cho anh biết thêm là, ngoài những bản thảo của ông cố, tôi còn từng nhận một sự trợ giúp khác nữa. Cô ấy là trưởng tộc đời thứ 11 nhà công tước Taggestern của Pháp đã sớm lui bại—Enola Taggestern. Cô chỉ hơn ba mươi một chút, nhưng như lời tuyên bố của cô ấy, mọi đời trưởng tộc của dòng họ này từ hệ thứ III trở đi đều là những Người Mơ Mộng, điều đó cũng giải thích được vì sao cô biết nhiều đến thế. Những thắc mắc mà cả tôi lẫn ông cố tôi chưa giải đáp được, cô ấy đã giúp hé mở chúng, và sau đó còn giúp tôi biết thêm đôi điều về các Giáo Hội Bí Truyền trải rộng khắp Châu Âu và Châu Á nữa."

Khoang phòng im lặng một lúc. Trước lúc này, mặc dù tin rằng trên thế giới có rất nhiều trường hợp giống với tôi, nhưng họ hiếm có đến mức tôi vẫn chưa thể gặp bất kỳ ai trong suốt hơn hai mươi năm. Và từ khi quen biết Hohenjun, chỉ mới vài giờ đồng hồ thôi mà tôi như đã được mở rộng một chân trời mới. Ít nhất là chín người thuộc nhà Taggestern, Iserish V. Himber, Hohenjun và tôi—mười hai người.

Đó không phải là một con số nhỏ.

"Tuyệt vời nhỉ? Chúng ta không chỉ có một mình?"

"Ừ... gặp được anh có lẽ là món quà lớn nhất mà 'Thượng Đế' dành cho tôi—dẫu cho người không tồn tại." Tôi đáp lại câu hỏi của anh ấy bằng một nụ cười.

"Được. Còn lạc quan như thế là một dấu hiệu tốt. Vậy là một câu hỏi lớn đã được giải đáp. Chúng ta là ai? Còn giờ, ta cần phải giải đáp một câu hỏi lớn khác—Cuốn sách này là gì?" Hohenjun chỉ tay vào bản cổ thư.

—Bletchley, còn hơn một tiếng nữa.

"Để bắt đầu, anh phải biết tại sao tôi đi tới Thư Viện Đại Học Cambridge để lấy nó đi. Nhìn này—phần bìa cứng được làm từ da của một loài thú tên là Urikas, lai tạp giữa sư tử, trăn, cá sấu, sứa và một số loài vật kỳ lạ khác. Điều đặc biệt ở chất liệu này chính là da và thịt của chúng có đặc tính bất khả xâm phạm trước tất cả mọi loại tác động vật lý lẫn năng lượng siêu nhiên thông thường, ngay cả một vụ nổ tia Gamma ở ngoài vũ trụ vô biên cũng không thể gây cho nó một vết xước đâu. Có lẽ chỉ có đẳng cấp của một Vị Thần mới có thể phá huỷ được nó, như những vết tích mà anh có thể thấy. Và đây nữa—các trang sách này rất cứng và dày, với khổ sách của một cuốn Từ điển Tiếng Anh thông thường thì nó có lẽ chỉ chứa được chưa tới hai mươi trang. Tuy nhiên, trong này lại có tổng cộng tới sáu trăm chín mươi bảy triệu trang sách. LÀ HÀNG TRĂM TRIỆU ĐẤY, CHRIS! Thật phi lý nhỉ? Nhưng nó sẽ chẳng còn phi lý nữa nếu như chúng được cấu tạo bởi một loại vật chất siêu hình học với bản chất thuộc về một thứ nguyên cao hơn—từ Raahu.

Vậy là không chỉ sở hữu khả năng lưu trữ khổng lồ, mà nó còn có đủ khả năng để ghi chép những điều cấm kỵ bằng ngôn ngữ Ulqthe dù vẫn chưa thể phản ánh mức độ sự thực hoàn toàn của chúng. Nhưng nhiêu đó là đủ, Ulqthe chỉ là một phương trình giải mã, nó vẫn chưa phải chìa khoá thực sự, và chúng ta cũng không cần thiết phải tìm thấy cái chìa khóa kia."

"Đây chính là Amantura bie'Ithwgr. Bên trong nó ghi chép về mọi điều cấm kỵ mà tác giả của nó—cũng chính là người đã trực tiếp sáng tạo ra bảng chữ cái Ulqthe bằng cách phiên dịch thô sơ những 'âm điệu' của các Vị Thần Mộng Mơ—tìm hiểu được và viết ra. Nó có niên đại từ hàng tỷ năm về trước rồi, vậy nên hiển nhiên cũng không thuộc về thế giới này, và có lẽ tác giả của nó cũng giống với chúng ta, chỉ là mạnh mẽ hơn vô số lần mà thôi. Cũng chính vì sự mê hoặc khó có thể cưỡng lại này nên rất nhiều người đều đang truy lùng nó. Trong vài thế kỷ trở lại đây, tôi chỉ biết được rằng có một bản sao được giữ ở BnF, và một bản khác ở Tu Viện Sarnath—Ấn Độ. Cuộc 'Binh biến lính Ấn' năm 1858 chính là một âm mưu của Bí Truyền N'lahyii nhằm chiếm đoạt cuốn tà thư này. Cho tới đầu năm 1961 thì giáo sư Wenger mới được mệnh lệnh đưa nó về Thư Viện Đại Học Cambridge để cất giữ."

"—Giáo sư? Ông ấy được phụ trách trông coi cuốn sách?"

"Đúng vậy. Ông ấy có thể là một trưởng lão hoặc một người phối dược của giáo hội. Và chắc chắn là người nắm giữ quyền chức cao nhất ở phân nhánh Đông Anglia này. Vài ngày trước, trong cuộc thảo luận giữa anh và giáo sư, tôi có bí mật quan sát và nghe lén từ xa—đương nhiên là nhờ vào một loại bí thuật nho nhỏ. Anh biết không, cái lúc mà anh đứng ở một bên và quan sát sự mải mê của ông ấy với bài luận, đó thực tế là ông ấy đang xác thực và bổ sung thêm một số điều đã được anh cung cấp—dù sao thì những người như chúng ta luôn biết rất nhiều mà, đôi khi một giáo hội với hàng trăm năm truyền thống cũng không thể lặn sâu được như chúng ta. Đương nhiên là cùng lúc đó, ông ấy cũng đang từ những phần thông tin đó để suy ra quá khứ của anh, nhìn vào con người thật của anh."

"...Ra là vậy, tôi gần như đã hiểu rõ mọi vấn đề rồi. Giáo hội. Cuốn tà thư, anh và tôi. Chúng ta. Như vậy, bây giờ anh muốn làm gì? Oxford là nơi mà giáo sư đã đến, những hội viên của N'lahyii ở đó hẳn sẽ rất nhiều, chúng ta định đương đầu với họ sao?"

"Ừ. Anh đã tạo một thời cơ thích hợp để tôi có thể lấy được cuốn sách. Tôi cần những kiến thức trong này để giải thoát chúng ta, nhưng trước hết, tôi cần nó để giúp anh đã."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro