Chương III

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Khoảng mười lăm phút còn lại của chuyến đi là lời giải thích của Hohenjun về kế hoạch mà chúng tôi sắp thực hiện. Anh ấy nói rằng trong cuốn sách có một nghi thức 'Lãng Quên' có thể để cho phần nội dung trong bài luận văn của tôi 'biến mất' khỏi ký ức của mọi người. Duy chỉ có 'giá trị' của nó vẫn sẽ được giữ lại trong ấn tượng của tất cả những người đã biết, và sẽ biết tới nó; như vậy là các tác động xấu mà nó mang lại cũng sẽ bị xoá bỏ hoàn toàn và những người thuộc giáo hội sẽ không còn để tâm tới tôi nữa. Trong khi đó, điều kiện để nghi thức diễn ra một cách hiệu quả nhất là chúng tôi cần thực hiện nó tại Oxford—thành phố nơi tọa lạc Thánh Đường Trung Tâm của Hội Bí Truyền N'lahyii.

Sau khi xuống tàu tại ga Oxford, cả hai chúng tôi chia nhau ra theo kế hoạch đã bàn. Hohenjun sẽ đi tìm vị trí cụ thể của Thánh Đường và thám thính, trong khi tôi phụ trách việc chuẩn bị cho nghi thức.

Tôi nghĩ rằng bí thuật này thuộc về phạm trù của các hình lễ khá đơn giản, và thậm chí rất có thể là không có ý nghĩa mấy đối với các Hệ Thống Nghi Lễ và Giáo Điều đã được ghi chép trong cuốn Tà thư Amantura. Bởi xét theo mục tiêu và tính chất của nó, đó chỉ đơn giản là một hình thức 'can thiệp nhận thức sự kiện' trên phạm vi của những kẻ người trần mắt thịt. Mặc dù có thể xoá bỏ đi quá trình được gây ra bởi 'nhân' và tiến thẳng đến 'quả' mà không lưu giữ lại bất kỳ một tác động tiêu cực nào, nhưng sự hạn hẹp trong tinh năng của nó vẫn sẽ không thể giúp nó chiếm một vị trí quan trọng hơn trong hàng ngũ các Lễ Thức được. Hay nói đơn giản hơn là, nghi thức này vô dụng trong phần lớn trường hợp, bởi lẽ nó không hề hướng tới các vĩ lực cao hơn, không đụng chạm gì tới lĩnh vực của các Vị Thần và cũng không là gì so với quyền năng của họ. Và tôi cũng đoán rằng, thể là nghi thức này đã từng được dùng vào những mục đích tương tự từ trước kia giống như trường hợp của tôi hiện tại, có lẽ nó được tạo ra là vì những tình huống như thế này,

Như những mô tả trong cuốn sách đã được Hohenjun phiên dịch và đọc lại cho tôi, tất cả những gì mà tôi cần chỉ là một bình máu tươi đủ to và lớn để vẽ các hoạ tiết Ulqthe cần thiết—bao gồm biểu tượng Yahal ở trung tâm, và sáu lần bộ chín các chữ Rult, Haiti, Nayath, Issthi, Zalphon, Omeketh, Okath, Anaalao'Syingwh bao quanh nó theo những kích cỡ và toạ độ phân bố khác biệt đã được quy định sẵn theo tỉ lệ quy mô—và thêm một bình máu nữa chỉ để đảm bảo rằng chúng tôi vẫn còn thừa đủ một lượng rải đè lên trên những hình vẽ đó nếu như phần máu trước đó bắt đầu khô và thấm hẳn vào nền đất. Để chuẩn bị cho yêu cầu này, tôi đã tìm đến một lò mổ gia súc ở bên rìa thành phố, và 'lịch sự xin phép' những nhân viên ở đấy để mượn lấy lượng huyết tương mình cần. Hiển nhiên, mọi chuyện diễn ra không có một chút khó khăn nào ngoài việc tôi đột nhiên nhận ra rằng dường như tần suất sử dụng những phép lạ được ban cho nhờ "Những Giấc Mơ" của bản thân đã tăng vọt trong những khoảng thời gian gần đây. Đó là một dấu hiệu không mấy tích cực khi mà tôi tin rằng những món quà từ các Giấc Mơ ấy chưa hẳn đã là miễn phí, và cũng chưa hẳn đã là tốt đẹp và được phép tiện lợi sử dụng như vậy. Tuy nhiên, như Hohenjun đã nhắc qua, miễn là tôi vẫn kiểm soát được sự tỉnh táo của mình thì mọi chuyện đều còn nằm trong tầm kiểm soát—thế nên tôi đã nhanh chóng bỏ chuyện này ra sau, tự hứa rằng sẽ xem xét lại điều này vào một thời gian khác.

Khoảng tám giờ tối đó, tôi và Hohenjun tụ họp lại tại dưới chân Tháp Carfax.

"Chúng ta gặp may đấy Chris! Tối nay lũ người của giáo hội sẽ tổ chức cuộc họp cuối cùng để giải quyết về trường hợp của anh, bọn chúng sẽ tập trung hết ở Thánh Đường ẩn phía dưới chân Vườn Bách Thảo Botanic. Là thời cơ của chúng ta đấy."— Hohenjun đã lên tiếng trước tiên, với một vẻ hưng phấn hiện rõ trên khuôn mặt.

"Vậy là chúng ta có thể giải quyết dứt điểm chuyện này. Anh đã có bản đồ chi tiết về Thánh Đường của chúng rồi chứ, Hohenjun?"

Đáp lại câu hỏi của tôi, Hohenjun chỉ nhẹ nhàng móc từ trong túi áo ra một tấm da dê với những đường vẽ chi tiết rồi đưa nó cho tôi. Nụ cười hiện trên khuôn mặt anh, như thể anh đang rất tự hào về thành quả của mình. Đó là bản phác thảo đầu tiên của Vườn Bách Thảo từ những năm đầu của Thế Kỷ XVII, với những đường hầm và các công trình phức tạp ẩn phía dưới như một mê trận khổng lồ đã được chú thích đầy đủ và cực kỳ chi tiết, rõ ràng là đã được Hohenjun tô vẽ lại. Tôi thực không biết anh ấy lấy nó từ đâu hay bằng cách nào mà anh ấy có thể hoàn thiện phần chú thích thêm chỉ trong một thời gian ngắn như vậy—khi mà điều ấy có nghĩa là bạn tôi đã phải lẻn vào phía bên trong những tầng hầm và tra xét từng con đường một—phải thú thật là tài năng và năng suất của anh ấy thực sự rất kinh khủng.

Ngay sau đó, tôi cũng đã bàn giao lại cho Hohenjun hai chiếc túi rượu đeo hông có chứa đựng hai mươi lít máu thông qua một ma thuật không gian chứa đựng nho nhỏ.

Không chậm trễ, chúng tôi quyết định sẽ bỏ qua bữa tối và ngay lập tức lên đường tới Vườn Botanic. Giữa chuyến đi, bạn tôi đã nói cho tôi biết rằng anh ấy đã chạm mặt một vài thành viên của Giáo Hội trong lúc thám thính, và đã moi ra ít nhiều thông tin hữu ích từ chúng, mà chính phần bản đồ kia cũng đã được bọn chúng giúp đỡ hoàn thiện phần lớn. Anh cho biết thêm, việc tôi có thể chìm sâu vào trong Cõi Thực một cách tự nhiên thông qua các giấc ngủ thay vì phải sử dụng đến những Bí Thuật cực đoan và vô cùng khắt khe chỉ để tiềm hành ở đó trong một thời gian ngắn đã khiến những người trong giáo hội nảy sinh một mối quan tâm đặc biệt. Phần lớn mọi người trong giáo muốn bắt tôi về và dùng tôi như một con chuột bạch để thí nghiệm về khả năng phi thường ấy, và các Trưởng Lão đã nảy sinh một số tranh cãi lớn chỉ để quyết định xem ai sẽ phụ trách khâu thí nghiệm này—đó là lí do mà cuộc thảo luận đã diễn ra dài hơn dự tính, khiến cho hai-ba ngày qua ở Cambridge của tôi vẫn trôi qua một cách yên bình. Tôi có thắc mắc rằng tại sao họ không bắt tôi về trước rồi mới tiến hành cuộc tranh giành—dù sao khi ấy tôi vẫn còn có khả năng để chạy trốn nếu chẳng may nhận ra được sự bất thường, và những người như Giáo Sư Wenger thì hẳn sẽ không bất cẩn đến như thế. Đối với điều này, Hohenjun đã đưa ra lời giải đáp là:

"Bởi họ còn bận phải xác thực thêm một điều nữa, một khái niệm mà anh đã giới thiệu rất vắn tắt trong bài luận nhưng lại vô cùng quan trọng. Chính là Phân Kỳ Sự Tượng."

"Chính là cái mà tôi đã viết trong bản thảo đầu tiên ư?"

—Phải rồi, đó là một trong những phần mà tôi đã lược bỏ đi sau khi suy nghĩ thật kỹ xem có nên đưa vào nội dung của phiên bản cuối cùng hay không. Nó là một khái niệm đã được tôi dùng để chỉ tới những hệ thống thế giới khác biệt hoàn toàn so với vũ trụ vật lý của chúng ta, những nơi mà tôi đã có dịp được đặt chân thoáng qua trong những giấc mơ nhưng không thuộc về những địa điểm nằm trong Cõi Ảo—như những gì mà tâm trí tôi đã mách bảo. Ở những thực tại này, đôi khi việc không cần thiết phải tuân theo các quy luật vật lý và những logic thông thường như của chúng ta đã khiến cho những dấu vết từ các Vị Thần đã để lộ rõ ràng hơn.

Tuy nhiên, vì không có khả năng kiểm chứng từ những nguồn khác và cũng không có đủ nhiều những trải nghiệm để rút ra các thông tin cụ thể và kết luận phù hợp, vậy nên tôi đã loại bỏ nó ra, ý định để dành nó cho một nghiên cứu lâu dài khác về Hệ Thống Thế Giới Quan mà tôi sẽ thực hiện trong tương lai. Mặc dù thế, khi đưa bài luận cho Giáo Sư Wenger đọc qua, tôi vẫn nộp thêm bản thảo đầu tiên này với những phân đoạn đã bị lược bỏ đã được chú thích. Một phần vì để cho giáo sư hiểu được thêm về mạch suy nghĩ của tôi, một phần khác là để gợi mở ra những cuộc thảo luận khác xoay quanh chúng; như vì cuộc trò chuyện hôm ấy của chúng tôi đã giành ra phần lớn thời gian để nói về Những Giấc Mơ, thế nên tôi đã không có cơ hội để đề cập về chúng.

"Chính thế. Trong số những Giáo Hội Bí Truyền Cổ Lão mà tôi biết, truy tìm những nền văn minh ngoài hành tinh và xác thực về đa vũ trụ mở rộng là hai trong số những vấn đề được đặt lên hàng đầu, chỉ đứng sau việc truy nguyên và thờ phụng các Chủ Thần của giáo phái; do đó khái niệm mà anh đề cập cũng đã nhận lấy một sự quan tâm không kém cạnh gì khả năng du hành trong Cõi Thực ấy. Trên thực tế, đối với Bí Truyền N'lahyii hay cả Bí Truyền Usmuhu—giáo phái mẹ của chúng, vấn đề về thế giới khác đã tạm thời bị bỏ dở hàng trăm năm do không có tiến triển hay manh mối nào để tiếp tục nữa từ những xa xưa trước kia. Nhưng điều mà anh đã viết ra trong luận văn đó, trước tiên đã khiến cho nhóm Thủ Thư—những người canh giữ các cổ tịch của Giáo Hội—buộc phải lật tìm những tài liệu từ các thế hệ đi trước để đem ra đối chiếu, xác thực, cũng như mở ra các phiên họp để xem xét và bổ sung nó vào tàng thư của chúng; và thêm vào đó là trong quá trình này thì họ vẫn còn phải không ngừng liên tục liên lạc với những người của Bí Truyền Usmuhu từ tận Israel."

"Ra là vậy. Không ngờ rằng việc này té ra lại cho chúng ta thêm một thời gian." Tôi cười trừ.

"Ừm. Thực ra thì bọn chúng đã sớm có nhiều cơ hội để tiếp cận thêm vào những thông tin này đấy, kể từ khi chúng sở hữu thứ này."—Hohenjun nói, rồi chỉ vào cuốn Amantura bie'Ithgwr trên tay—"Trong này cũng có ghi chép đề cập đến Phân Kỳ Sự Tượng, và rõ ràng là nó chi tiết và cụ thể hơn so với cái của anh rất nhiều."

"Vậy tại sao họ lại không biết?"

"Bởi không đọc được. Hiển nhiên mà, phải không? Với một cuốn tà thư viết về những bí ẩn kinh tởm và nguy hiểm nhất trần đời, đâu phải cứ muốn là đọc, cứ muốn là hiểu được?"

Cũng hợp lý—"Thế là chỉ có những người được chọn, với thiên phú, hoặc nói đúng ra là có khả năng chịu tải và cộng hưởng đủ lớn với những cấm kỵ đó thì mới có thể nhìn vào những gì được viết trong cuốn sách, đúng không?"

"Hoàn toàn đúng, anh lí giải nhanh lắm, Chris. Cái đó chúng ta gọi là Tương Quan Thần Bí—một thước đo biểu diễn cho độ phù hợp của một đối tượng đối với 'những điều chưa biết, không biết và không thể biết'. Giá trị tương quan càng cao thì sẽ đọc được càng nhiều, tiếp cận được càng lớn. Hầu hết các Tà Thư tồn tại trên thế giới đều sử dụng nguyên tắc này, cũng vì vậy mà rất dễ để phân rõ cuốn nào là nguy hiểm hơn, quyền năng hơn. Với những Người Ngủ Mơ như tôi và anh thì thuộc loại dị biệt, phần lớn có thể dễ dàng tiếp cận với mọi tri thức cấm trên đời bởi mức giá trị của chúng ta thậm chí nằm ngoài thang đo tiêu chuẩn mà các cổ nhân đã đặt ra, nhưng cho dù thế thì 'điểm' của chúng ta cũng có một giới hạn cụ thể. Như phần tôi, tôi chỉ có thể đọc qua chưa tới hai phần nghìn của cuốn Amantura—dễ thấy được rằng nó kinh khủng đến nhường nào. Và tôi cũng không tài nào có thể tưởng tượng được tác giả của cuốn sách này đã đạt tới một cái vĩ độ không tưởng như thế nào nữa."

"—Ồ đây rồi, đây chính là lối vào mà chúng ta đang tìm." Hohenjun nói, cưỡng ép đóng lại đề tài nói chuyện của chúng tôi.

Tôi và anh ấy hiện đang đứng ở trước sông Cherwell—một khoảng sát ngay phía dưới của cây cầu Magdalen. Có xe cộ và lẻ tẻ một số người đi qua trên đường, nhưng những cái cây cao đã che khuất những hình bóng lướt qua khỏi tầm mắt của chúng tôi; và ngược lại, cũng che dấu thân ảnh của chúng tôi khỏi bọn họ.

Đối diện với chúng tôi ở bờ bên kia là một mạn bên của Vườn Bách Thảo—Khu Vực Glasshouses. Vườn Botanic luôn mở cửa vào lúc mười giờ sáng và đóng cổng khi đồng hồ điểm đến mười bảy giờ chiều, vậy nên phía bên trong khu vườn giờ đây chỉ còn lại các nhân viên an ninh túc trực cùng thêm một vài lực lượng tuần tra khác. Tôi đã nghĩ rằng Hohenjun sẽ bảo tôi 'lội sông' và 'vượt rào' để đi vào phía bên trong khi mà chỗ đứng của chúng tôi hiện tại thực rất phù hợp cho những hành động lén lút như thế. Tuy nhiên, anh ấy đã không làm như vậy.

Hohenjun nhìn về các bức tường ở phía xa, tầm mắt chiếu thẳng đến một góc nơi Nhà Kính Tập Thể nằm ở bên trong, sát liền kề là Khu Vực nuôi trồng các loài thực vật có nguồn gốc từ Nam Phi và Nam Mỹ. Đôi mắt của anh vẫn nhìn chăm chú, nhưng cơ thể anh bắt đầu lùi lại từ từ về phía sau để có thể nhìn lấy toàn cảnh trước mắt. Hai tay của anh giơ lên như đang đo đạc điều gì đó, bước từng bước nhỏ để điều chỉnh chính xác vị trí của mình. Rồi anh tiến lên, dịch qua phải, lẩm bẩm từng bước một.

Bấy giờ thì tôi hiểu ra rằng Hohenjun đang mày mò tọa độ của một lối đi bí mật nằm đâu đó quanh đây. Tôi vội giở ra bản phác thảo sơ đồ khu vườn và nhìn theo. Hẳn Hohenjun đã sử dụng căn Nhà Kính nằm ở góc làm quy chiếu trực tiếp... anh ấy tiến về bên phải... đúng rồi, có một đường hầm đánh dấu đỏ ở đấy, với một đường chạy dài từ vòng ngoài của khu vườn tới thẳng bên trong Walled Gardens. Ở khúc này, đường hầm bắt đầu phân ra thành nhiều nhánh, vòng qua khắp khu vực lớn nhỏ và cuối cùng đổ dồn hết về trung tâm của khu vườn, nơi nằm phía dưới Đài Phun Nước. Cùng với đó, từ phía Tây Nam của Vườn Botanic, tôi cũng có thấy một đường hầm với thiết kế tương tự chạy khắp Lower Garden, cuối cùng hợp lại với cái phía bên chúng tôi.

Dựa trên các nét nhỏ và nhạt hơn đã được Hohenjun chú thích một cách tinh vi, có thể thấy đây là phần đường nằm dưới chót nhất trong các lớp cấu trúc. Cộng thêm với việc phân phối các con đường tới khắp mọi ngóc ngách, nối liền với các điểm tập trung lớn phía trên—tôi đoán rằng đây là một đường vận chuyển vật tư, với đầu vào là nơi nằm phía Tây Nam và đi ra ở mạn trên hướng Đông của chúng tôi. Rất phù hợp cho một cuộc đột nhập. Nếu đêm nay tất cả các tín đồ trong giáo phái đều tập trung ở Trung Tâm của Thánh Đường—nơi rất có thể là căn phòng nằm phía dưới Đài Phun Nước—vậy khi mọi giáo đồ đổ dồn về đó từ khắp mọi đường hầm khác, đây sẽ là nơi duy nhất trở nên vắng tanh hoàn toàn ngay trước khi buổi họp diễn ra.

Tôi tập trung hơn về phần lối ra trước mặt, nơi Hohenjun vẫn đang xác định vị trí. Nó nằm ở phía dưới đáy của con sông, vị trí chiếu thẳng tới gần với tường bên phải của Nhà Kính Trồng Các Cây Vùng Cao. Lối đi rất hẹp, đúng như tôi dự đoán.

Bản thân khu vườn Botanic không phải là một khu vực quá rộng đủ để chứa chấp một Thánh Đường lớn với hơn một ngàn nhân khẩu, cùng những đường lối phức tạp và các trụ sở nhỏ hơn trải ra chằng chịt phía dưới. Và như những gì mà bản phác thảo cho thấy, các lớp cấu trúc này cũng chỉ phân bố trong bốn tầng chồng lên nhau—quá ít. Vậy nên kết luận khả thi nhất để phù hợp với tất cả những điều này chính là Giáo Hội N'lahyii đã sử dụng một Tà Thuật giúp mở rộng phần 'không gian' bên trong Thánh Đường, tương tự như Bí Thuật mà tôi đã sử dụng với cái túi chứa rượu, chỉ là nó nằm ở một quy mô lớn hơn vô cùng mà thôi. Có lẽ bên trong này còn rộng hơn cả Cung Điện Westminster cũng khó nói.

Đã nắm bắt được những thông tin cần thiết, tôi nhìn qua anh bạn của mình—người giờ đây đang bận bịu lục tung chiếc cặp xách nhỏ của mình để lấy ra các chai thuốc và ống nghiệm cất chứa những dung dịch với hỗn hợp màu phát sáng rất đỗi kỳ lạ. Được một lúc, Hohenjun bắt đầu trộn lẫn các hỗn hợp với nhau, cân đo cẩn thận. Khuôn mặt của anh ấy ánh lên vẻ hưng phấn cực kỳ.

"Anh đang làm gì vậy?" Tôi tiến lại gần, hỏi.

"Tạo ra thứ dung dịch sẽ giúp chúng ta thuận lợi vượt qua mọi hàng rào an ninh đã được thiết kế trong đó. Mặc dù chúng ta rất có thể sẽ không cần phải chạm trán với lũ tín đồ, nhưng kể cả thế thì với một Bí Truyền Cổ Lão mạnh mẽ như N'lahyii, chúng vẫn luôn có hàng tá phương thức để bảo vệ, chống kẻ đột nhập và tiêu diệt các mục tiêu tiếp cận trái phép." Hohenjun trả lời, đôi mắt vẫn không rời khỏi những chiếc lọ.

"Có một thứ dung dịch ghê gớm như vậy tồn tại trên đời sao?" Tôi ngạc nhiên.

"Phải, có rất nhiều là đằng khác. Tuy nhiên, hầu hết chúng không thể tìm thấy được ở Trái Đất. Sở dĩ tôi có được, là vì tôi đã lấy nó ra thông qua những giấc mộng. Mộng thì thực hơn cả Hiện Thực, Chris ạ. Mà anh đã được cấp những đặc quyền để tiếp cận tới nó, thì hiển nhiên anh cũng có thể làm ra một số thao tác. 'Bí Thuật' không phải là sức mạnh duy nhất của chúng ta đâu."

Đến đoạn này, Hohenjun đứng dậy, cầm lấy ba ống nghiệm trên tay và lắc nhẹ—"Thứ này là Hiện Trưng Dịch Lỏng Zalphon, hoặc như cách mà những Nhà Giả Kim gọi, đây là Alkahest—Dung Môi của Vũ Trụ.

Bây giờ, chúng ta sẽ dùng hai lọ để thoa chúng lên quần áo, thế là tôi và anh sẽ tạm thời nhận được một vầng bảo hộ khỏi mọi thứ xấu xa trên đời này, giúp ta vượt qua khỏi mọi loại ma thuật hay các tác động tiêu cực tiếp cận đến. Và một chút nữa, khi hai ta lặn xuống sông, tôi sẽ phụ trách việc tìm ra cái cổng; và trong khi tôi dùng đèn pin soi sáng giúp anh, anh sẽ có nhiệm vụ dùng lọ cuối cùng để bôi nó lên đó—chất dung môi sẽ giúp chúng ta hòa tan cánh cổng ra, bất kể nó có được làm từ hợp kim cứng chắc hay được bọc bởi một lớp màng ma thuật nào đi chăng nữa. Hiểu chứ?" —Nói rồi, anh đưa cho tôi hai ống, ra hiệu tôi làm theo hướng dẫn của anh.

Chúng tôi cởi chiếc áo vest khoác ngoài ra, tháo bỏ giày, tất và xắn ống tay áo sơ mi cùng chiếc quần âu lên cao. Hohenjun sau đó tháo nắp ống nghiệm, lần lượt đổ đều những lượng nhỏ lên trên hai lòng bàn tay, mu bàn chân và thêm một phần nữa thoa lên giữa trán—tôi làm theo anh. Ngay lập tức, tôi cảm giác được chất lỏng đặc sệt màu đỏ tươi xen lẫn những ánh hoàng kim lấp lánh lan tỏa ra khắp khuôn mặt, tứ chi, và cuối cùng bao bọc cả thân thể của chúng tôi—rồi chúng nhanh chóng loãng ra, phai nhạt dần, và sau đó biến mất không còn một dấu vết.

Thoạt nhìn không có một sự thay đổi gì, nhưng tôi có thể tinh tế cảm thụ được cả cơ thể dường như có một màng mỏng vô hình nào đó bọc lên, chầm chậm vận động như những làn sóng nhỏ vờn quanh cơ thể. Và tầm mắt của tôi giờ đây dần dần được lấp đầy bởi những màu sắc rực rỡ, tôi thấy sắc sáng bao phủ cả bản thân lẫn Hohenjun, rung động và sôi sùng sục. Trước mặt, khu vườn Botanic cũng lan tỏa những màu sắc tương tự, rộng lớn, dày đặc. Không, là phía dưới khu vườn đang lan tỏa chúng. Đó là những màu sắc đại biểu cho sự hiện diện của thần bí. Thứ dung dịch này thật tuyệt vời.

"Sẵn sàng rồi chứ?"

"Sẵn sàng."

Sau cuộc trao đổi ngắn, chúng tôi đồng thời nhảy xuống nước. Hohenjun lặn phía trước, còn tôi ở ngay sau. Lạnh buốt—nhưng may mắn là nó chỉ vừa đủ rét vừa đủ để mặt nước không có những dấu hiệu kết băng lại.

Mực nước của sông Cherwell vốn không quá sâu, chỉ trung bình khoảng độ chín feet, có những nơi còn thấp tới sáu đến bảy feet hơn; mà điều này hóa ra lại có lợi đối với chúng tôi. Tuy nhiên hiện giờ đang là đêm tối, xung quanh lại không có ánh đèn nào có thể chiếu tới, và cái đèn pin của Hohenjun thì chỉ soi sáng vừa đủ để bọn tôi có thể miễn cưỡng xác định một khoảng không gian rất hạn chế xung quanh; vậy nên công cuộc lặn xuống của chúng tôi vẫn còn phải diễn ra hết sức chậm rãi.

...

Hai phút. Chưa thấy gì cả.

...

Ba phút. Vẫn chưa được. Dưỡng khí của tôi sắp cạn rồi.

...

Bốn phút. Tôi không kìm được mà ngoi lên khỏi mặt nước, thở hồng hộc, miệng và mũi không ngừng tham lam hút lấy những luồng khí mát lạnh. Rét quá.

Công đoạn này khó khăn hơn tôi nghĩ nhiều. Có một lượng lớn các loại rác thải bám cặn dưới đáy sông, mặt nước thì đục, và những đám rêu xanh tua rua rất gây cản trợ cho tầm nhìn lẫn khả năng di chuyển của chúng tôi.

Hohenjun vẫn còn ở phía dưới. Vừa lúc nãy ra hiệu xin phép được lên trước, tôi thấy anh gật đầu với tôi bằng một khuôn mặt không đổi sắc, và sau đó vẫn tiếp tục miệt mài lấy tay vơi đi từng cọng rêu, hất ra những mảnh đất nhỏ như thể bốn phút vừa qua chỉ là bốn mươi giây. Anh ấy quả là rất thành thục đối với những chuyện như thế này—một con người nghị lực, mà cũng thật rắn rỏi ghê gớm, đúng như những gì mà tôi đã cảm nhận được ở anh ngay từ đầu.

Nhưng tạm bỏ qua những suy nghĩ vẩn vơ trong đầu, tôi tập trung hít một hơi thật sâu rồi lần nữa lặn xuống phía dưới, nhìn theo phía nguồn sáng le lói mà tìm đến chỗ của Hohenjun. Anh ấy vẫy gọi tôi lại.

Tìm được rồi—Ánh mắt của anh nói như thế. Tôi nhanh chóng tiến lại gần, thấy được rằng phía trước nơi Hohenjun đang quỳ, có một cái cổng bằng sắt hình tròn đang đính chặt dưới nền đất.

Và như đã thống nhất từ trước, tôi từ từ mở nắp ống nghiệm đã cầm sẵn trên tay, chầm chậm ghé miệng ống lại gần cánh cổng và để dung dịch thấm vào nó trực tiếp. Giống như quy tắc mà Hohenjun đã nói qua, tôi thấm chất lỏng thành từng điểm và nối chúng lại thành một hình ngôi sao—năm cánh, năm bộ phận. Tức thì, dịch lỏng màu đỏ với ánh vàng lần nữa tràn ra từ năm điểm đó, trong chốc lát bao phủ cả cánh cổng hệt như những gì đã xảy ra với chúng tôi vài phút trước. Nhưng vì cánh cổng không phải là một thể sống, thế nên nguyên tắc 'bảo hộ' của Alkahest sẽ không áp dụng lên nó. Thay vào đó, vì nó là một hợp kim, thế nên thứ dịch này sẽ nhận định nó như một hợp chất mục tiêu cần phải hòa tan, và ăn mòn các liên kết phân tử bên trong đó rồi cuối cùng biến cánh cổng trở thành một bãi chất lỏng đồng tính.

Chính như tôi nghĩ, tiếng 'xè xè' vang lên sau đó cùng phần hợp kim đang tan rã với tốc độ có thể thấy bằng mắt thường, đệ lộ phía sau một hố dốc thẳng đứng tựa như vực sâu không đáy, miệng chỉ vừa đủ để cơ thể của một người trưởng thành lọt qua.

Hohenjun ra hiệu cho tôi, rồi anh ấy bắt đầu luồn người mình qua chiếc hố. Tôi theo sát phía sau anh.

Trong phút chốc, tôi cảm thấy cả không gian như bị đảo loạn. Dòng nước đột ngột biến mất khỏi cảm giác của tôi ngay khi tôi khuất bóng sau miệng hố. Cả người tôi như bị dốc ngược lại, đột ngột, rồi rơi tự do trong một khoảng không tối đen thăm thẳm. Nhưng một nháy mắt trôi qua, sự tăm tối ấy bất ngờ bị xâm chiếm mạnh mẽ bởi một luồng sáng trắng, khiến tôi choáng nặng vì sự thay đổi nhanh chóng.

Và cho đến khi lấy lại được tinh thần, tôi nhận thấy bản thân đang ngồi bệt xuống nền đá, vẻ hốt hoảng. Hohenjun đang đứng phía trước, cúi xuống nhìn tôi với một nụ cười:

"Đừng có cười!"

"Tôi đâu hề có ý mỉa mai. Chẳng qua là nhìn biểu cảm của anh trông có vẻ...nhăn nhó quá mức? Nói chung là tôi không kiềm được." Anh ấy đáp.

Mặc cho có chút khó chịu vì dáng vẻ xấu hổ vừa rồi, nhưng tôi quyết định không so đo với Hohenjun nữa. Tôi đứng dậy, nhìn quanh lối đi.

"Nơi này còn lớn hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi."—Phải. Đường đi rộng khoảng ba mươi lăm feet và trần cao tới hai mươi bảy-hai mươi tám feet, thậm chí còn thoáng gấp đôi gấp ba cả những đường chính đi vào một số Thành Đường Công Giáo lớn nhất. Bốn bức tường được lát bằng đá Balsatl đen, và cứ cách khoảng sáu feet là lại có hai chiếc đèn tường đốt lửa bằng dầu chiếu sáng hai bên.

Những hoa văn được in trên những chiếc giá đèn bằng đồng đã ngay lập tức thu hút ánh nhìn của tôi. Đó là một sự ác cảm mà tôi vẫn thường thấy, nhưng bắn ra đầy mãnh liệt hơn, gần ngay trước mắt và có thể chạm vào được. Chứ không giống như những ấn tượng chỉ có trong mơ ấy. Chúng là một tập thể những hình khối nhỏ cực kỳ lập thể, được chạm khắc chằng chịt xung quanh phần giá đèn, với mật độ càng tăng cao hơn khi tiến lên miệng giá; mô tả bằng nhiều góc độ phức tạp về các hình vẽ đầu dê với miệng ngậm đầy rẫy những con rắn tỏa ra tua rua. Điều đặc biệt ở chỗ độ quái dị và kỳ lạ trong cách tạo dựng mô hình hay khắc họa chi tiết của chúng hoàn toàn tách biệt với mọi loại hình nghệ thuật điêu khắc mà lịch sử con người đã ghi nhận một cách phổ biến. Chắc chắn không thuộc về thời đại này, và chắc chắn cũng không thuộc về niên đại của hàng ngàn năm trước trở lại.

Các khối hình vẽ được sắp xếp lộn xộn, không có thứ tự, và thô kệch. Nhưng bằng một cách nào đó mà những hình thù chen chúc như lẫn vào nhau ấy vẫn tỏa ra một cảm giác rất có chủ đích, với góc cạnh tinh xảo như đã được cân đo đong đếm kỹ càng từ trước. Và hơn hết, nhờ vào tác dụng của dung dịch Alkahest mà đôi mắt của tôi còn có thể thấy được một màu sắc hắc ám nồng đậm phủ quanh nó, và tràn lan khắp cả không gian ngay cạnh, thể nó đang chực chờ để nuốt trọn những con mồi xấu số.

"Những biểu tượng cách điệu của Trí Thần Usmuhu'N'lahyii—chúng chính là thứ chịu trách nghiệm cho việc chứa đựng và vận chuyển các tà thuật đã được khắc vào. May mắn là chúng ta đã được bảo vệ bởi dung môi, bằng không thì nhìn vào nồng độ của những sắc đen này...có lẽ cả hai ta sẽ bị biến thành một đống thịt nhão ngay khi bước vào mất." Hohenjun lên tiếng.

Đoạn, anh đưa tay chạm vào vai tôi, rồi nói tiếp: "Đi nào, Chris. Chỉ còn khoảng hai mươi phút nữa là đến giờ cử hành buổi họp. Nhìn qua hành lang rộng lớn này, ta cần phải chạy nước rút một lúc đấy."—

.


Mọi thứ vẫn đang đi theo kế hoạch mà Hohenjun đã vạch ra. Nhưng chỉ hiện tại thôi. Bởi lẽ tôi có cảm giác rằng biến cố sẽ xảy ra trong cuộc hành trình này, những tiếng thì thầm đang nói như thế.

Thú thực, mặc dù Hohenjun đã nói rất chi tiết về những việc mà chúng tôi cần làm, phải làm; nhưng anh ấy chưa từng một lần đề cập về việc chúng tôi sẽ nên hành động ra sao nếu như chẳng may bị phát hiện, lộ diện ngay giữa đám đông nơi kẻ nào cũng là một tín đồ điên cuồng, còn tôi là con mồi mà chúng đang khát khao được xâu xé. Tự tin mù quáng ư? Tôi không nghĩ vậy. Anh ấy rất tự tin, nhưng ngoài tự tin ra thì anh còn thông thái, và kỹ lưỡng nữa; không thể nào anh bỏ qua những trường hợp như thế được.

Như vậy, Hohenjun hẳn phải có một con át chủ bài. Một con át chủ bài có thể hóa giải tất cả những tình huống bất trắc có thể xảy ra—sự đe dọa từ nhân loại sẽ không phải là một vấn đề lớn. Nhưng... những tiếng thì thầm vẫn không dừng lại. Phải chăng như thế có nghĩa là chúng tôi sẽ phải đối mặt với một mối họa đến từ các Vị Thần? Không. Tôi không muốn nghĩ đến trường hợp ấy. Bọn họ sẽ không đủ khả năng để gọi xuống một Vị Thần đâu, dù chỉ là Hóa Thân thôi cũng không được—chỉ có thể mong như vậy thôi.

Rẽ trái, rẽ phải, rồi lần nữa rẽ trái. Chúng tôi đang chạy từng vòng một cuộn vào sâu bên trong. Sau khoảng mười phút bức tốc không ngừng nghỉ, chúng tôi đã đến cuối phần đường có thể đi được.

Phía trước là một cánh cửa đá thô to như lối vào nhà của những người khổng lồ—gần như ngang bằng con đường lớn, với những bức phù điêu mang phong cách điên loạn giống với những gì mà tôi đã thấy trên các giá đèn tường suốt dọc hành lang; được canh giữ hai bên bởi tượng điêu khắc bằng vàng ròng hai con quỷ lực lưỡng, với đầu dê và hình người, phân biệt nắm giữ một cuốn sách và một cán cân trong tay. 'Tri thức''Sự trao đổi'—đó là tín điều của bè lũ thờ phụng Usmuhu'N'lahyii.

Tôi thấy Hohenjun đi tới bức tượng bên phải, nơi có một cánh cửa bằng đá nhỏ hơn, như một lối đi thực sự dành cho con người. Rồi anh ấn vào nút bấm ở một bên, cánh cửa sập chậm rãi nâng lên trầm trọng. Bấy giờ, tôi mới biết được rằng cánh cửa này dẫn tới một căn phòng hoàn toàn khác, chứ không phải là một lối đi phụ bên cạnh cánh cổng lớn kia—bởi bức tường trái bên trong đó nằm sát bên cánh cửa đá, rõ ràng là để chừa ra một khoảng không gian cho căn phòng cận bên.

Tôi nhanh chóng theo bước anh bạn của mình và tiến vào trong—trời đất! Đây là một nhà kho hành xác!

Không khí ngột ngạt, ẩm ướt và hoàn toàn không trong lành. Mùi hôi thối và tanh rình xực mạnh vào mũi làm tôi choáng váng. Nhưng hơn cả thế, cảnh tượng trước mắt mới là thứ khiến tôi khiếp đảm không nói nên lời.

Chỉ có một chiếc đèn trần soi sáng một khoảng không gian ngay giữa, nơi treo đầy các mũi thòng lọng lủng lẳng, vẫn còn thấm máu và nhỏ giọt thành từng vũng dưới nền đất cũ nát; bao quanh bởi những chiếc bàn mổ chất đầy các dao xẻ, kìm bấm, mũi khoan, móc câu và những ống rút dịch. Không có cái bàn nào là sạch sẽ cả! Chúng phủ kín bởi những lớp máu đen xịt được chồng lên bởi những lớp đỏ sẫm, và phía trên nữa là những lớp tươi mới hơn; có một vài điểm lớm chớm vẫn còn ở thể lỏng, đặc sệt và thi thoảng lại có thể thấy một vài mảnh thịt đen đúa bốc mùi đã trong quá trình phân hủy còn vương vãi từng nơi, kẹt từng chút trong khe rãnh, và trên các mặt sắc của những dụng cụ đồ tể gớm ghiếc kia.

Bên ngoài vùng sáng được chất đầy bởi những chiếc lồng gỉ sắt loang lổ, xếp cạnh nhau, chồng lên nhau, chất kín tới thẳng trần nhà và chỉ chừa lại đúng một địa điểm tra tấn ở trung tâm căn phòng, cùng một đường đi chật chội từ khoảng hẹp nơi cửa mà chúng tôi đang đứng, dẫn thẳng tới phía sâu bên trong cái nguồn hắc ám ghê tởm. Trong những chiếc lồng là la liệt những bộ xác khô quặt và không toàn vẹn, của những con thú hoang, của những con gia súc, của người—cả trẻ em, lẫn người già. Bọn chúng...không, bọn họ đang kiệt quệ hấp hối, nằm sõng soài như một mớ thịt và xương gãy gập đâm chặt vào nhau thành từng cục từng bãi, không phân biệt được rốt cuộc đâu là tứ chi, đâu là bụng hay đâu là ngực. Chỉ có phần đầu lòi ra những cặp con ngươi đã hoàn toàn trống rỗng, gần như không có dấu hiệu của sự sống; mà nếu như không phải vì vẫn còn những tiếng kêu khàn nghèn nghẹt thỉnh thoảng vang lên, tôi đã ngỡ rằng tất cả họ đều đã chết dưới những màn tra tấn bệnh hoạn.

Chứng kiến cảnh tượng đó, cơn buồn nôn đột ngột trào dâng trong tôi như lũ quét đã khiến tôi không thể chịu đựng được nữa mà ọe một bãi ra sàn. Cả người tôi như mất sức, run lẩy bẩy khiến cho một tay phải vịn lấy tường để không ngã bệt ra. Cái thảm trạng của bọn họ và sự điên loạn nơi đây đã sâu sắc lây nhiễm cho tôi, khơi gợi cho tôi về những sự cuồng loạn buốt lạnh đến tận cốt tủy và cái hỏa ngục bập bùng ác đọa—nào đâu mà chúng lại có thể làm ra những việc man rợ như vậy?

Nhưng mặc dù thương tiếc cho những số phận đã bị đọa đày không thương tiếc kia, tôi đã không tiến tới để tìm cách trợ giúp hay cố giúp họ nhận lấy sự an tử sau cùng; bởi lẽ tôi không dám, không dám lại gần cái sắc tuyệt vọng vô cùng như có thể thôn tính mọi sự kia. Tôi hãi sợ, và chỉ có thể nghẹn họng trăn trối đứng nhìn cái sự tượng ngay trước mắt.

Ngay cả bạn tôi cũng không nói một lời. Anh chỉ nhíu mày, lắc đầu tỏ vẻ bất lực rồi lại di chuyển thân thể của mình. Hohenjun luồn lách qua những chiếc bàn mổ, và đi vào con đường tăm tối. Tôi miễn cưỡng cố trấn tĩnh lại bản thân mình bằng việc thầm nhủ rằng tôi đang có một mối nguy hại lớn hơn đang chực chờ, và tiếp tục bám theo anh.

Được một lúc, Hohenjun dừng lại.

Thêm một cánh cửa nữa. Nhưng nhìn vào đường đi và cấu trúc, tôi có thể đoán được phía bên kia chính là gian phòng rộng lớn mà cánh cổng khổng lồ vữa nãy dẫn tiến vào.

Tại đây, khuôn mặt của bạn tôi lại càng trở nên cau có hơn.

"Có chuyện gì vậy?" Tôi hỏi.

"...Vách ngăn này vốn không có trong bản phác thảo. Và nếu anh để ý, cả bức tường trước mặt chúng ta cùng cánh cổng ngoài kia đều được xây mới, trái ngược hẳn với vẻ cũ nát của phần còn lại. Căn này và gian bên cạnh đáng lẽ ra phải là một, và chính là Buồng Chứa Chính nằm ngay dưới Đại Sảnh Thánh Đường—nhưng giờ, vì một lý do bí mật nào đó mà cao tầng của giáo hội đã phải âm thầm vận chuyển hết đồ nghề cùng các chiếc lồng qua một bên, đó là lý do phía bên này chật chội như thế." Hohenjun trả lời, lấy tay sờ nhẹ vào cánh cửa gỗ và bức tường như thể muốn cảm nhận điều gì đó, nhưng nó chỉ khiến những nếp nhăn của anh hiện ra nhiều hơn. Anh không thể thu được bất kỳ dữ liệu gì.

Có lẽ tôi có thể giúp anh. Đoạn, tôi cũng áp nhẹ bàn tay của mình vào, cẩn thận cảm nhận—"Có một kết giới đang ngăn cách không gian bên trong với ngoại giới. Tôi quen thuộc với loại ma thuật này, nhưng chưa bao giờ thấy một kết cấu phức tạp như vậy. Các mảng thần bí đan xen với nhau thành ít nhất năm mươi hai lớp—phải, bên trong hẳn ẩn chứa một bí mật động trời nào đó thì bọn chúng mới tốn công sức như vậy."

"Chúng ta cần đi vào bên trong để vẽ trận pháp, vấn đề là ta hiện tại không biết thứ gì sẽ chờ đợi ta bên trong, hơn nữa ta đã hết dung môi, tôi không có khả năng để phá giải hay bước qua kết giới này."

"Cuộc Cuộc hẳn đã bắt đầu tiến hành ngay bên trên. Hohenjun này, anh nghĩ chúng ta sẽ còn bao nhiêu lâu nữa?"

"Có thể là nửa tiếng đồng hồ, cũng có thể hơn nếu bọn chúng đã phát hiện ra anh không còn ở Cambridge nữa. Không. Chắc chắn bọn chúng đã biết rồi, tôi đã đánh ngất những tên được phái đến để giám thị anh trước khi cuộc gặp mặt của chúng ta diễn ra vào lúc sáng. Từ khoảnh khắc đấy thì bọn họ phải biết rằng đã có trục trặc xảy ra. Vậy nên tôi nghĩ là sẽ có một vài cuộc tranh cãi nhỏ trong đêm nay. Chúng ta sẽ có khoảng một tiếng, nhưng sẽ không nhiều hơn nữa đâu."

"Như vậy, tôi có thể mượn của chúng ta hai mươi phút được chứ? Tôi có thể thử phân tích các lớp kết cấu này và dùng Bí Thuật để cạy mở nó ra. Nhưng sau đó, nếu bên kia là một con quái vật nào đó mà bọn chúng đã nuôi nhốt—át chủ bài của anh có thể giải quyết được nó không?"

Hohenjun ngạc nhiên, nửa vì lời tuyên bố của tôi, nửa vì không ngờ tới việc tôi đã chú ý rằng anh vẫn còn giấu nhẻm đi một vũ khí bí mật: "Xem ra anh bén nhạy hơn tôi nghĩ, và tài năng, cũng không phải không có lý do khi mà anh luôn được các giáo sư ở Đại Học khen ngợi mãi không dứt. Không phải ai cũng có thể tự tin nói rằng mình có thể phá vỡ những trật pháp phức tạp như thế này mà không cần dùng tới các dụng cụ bổ trợ đâu.

Nhưng về chuyện vũ khí của tôi...đúng là tôi đã để dành nó cho những trường hợp xấu nhất có thể xảy ra. Đây này—đừng nhìn cái thứ dịch lỏng không màu không mùi không vị này trông có vẻ không có gì đặc biệt, nó đã tốn của tôi hơn một tháng để tinh chế đấy. Bên trong đó là tích hợp của hơn một trăm loại cấu trúc tinh thể cực kỳ phức tạp mà tôi có thể dễ dàng kể đến như Hydrat tinh thể lỏng, Zeolites, khung hữu cơ kim loại MOFs hay các hợp chất Heusler...với mỗi một loại trong số đó đều được đi kèm thêm với một mẫu hồng cầu từ những loài sinh vật khác biệt đại diện cho chúng theo bảng phân phối Zalphon. Tất cả được trộn lẫn với nhau và được kết hợp lại thông qua xúc tác từ Alkahest, tạo thành những mẫu tổng lớn hơn, rồi lẫn nữa được tôi trích xuất, sau đó là tinh lọc tiếp bởi dung môi. Cứ mỗi lần làm như thế là lại tốn của tôi hơn bảy tiếng để quan sát và thêm năm tiếng nữa để đo đạc liều lượng. Như vậy, sau hơn một tháng—chính xác là ba mươi tư và một phần sáu ngày—cuối cùng tôi mới có thể tạo ra một lọ nhỏ 200ml như vậy. Xin nhấn mạnh là 200ML đấy nhé, 200ml từ tám mẫu tổng mười chín lít!"

Những con số rất ấn tượng. Mặc dù xúc tích, nhưng tôi có thể dễ dàng tưởng tượng được bạn tôi đã phải khổ cực như thế nào trong quá trình này, anh hẳn đã phải lên kế hoạch từ rất lâu, có lẽ từ lúc tôi quyết định viết thiên luận văn kia vào gần hai tháng trước thì anh đã có chủ ý sẽ trợ giúp tôi rồi. Dễ hiểu thôi, Hohenjun đã chờ đợi thời điểm này suốt chừng ấy năm mà.

"Thế thì... cái thứ này có thể làm được gì?"

"Hãy gọi nó là Món Quà Thứ Ba của Yahwkabath, nhưng anh có thể gọi là Nguyên Lý chi Đọa: Dịch Lỏng Epimetheus nếu muốn, hoặc Chiếc Hộp Pandora cũng được. Anh biết giai thoại về chiếc hộp trong Thần Thoại Hy Lạp chứ, Chris?"

"Ý anh là câu chuyện về 'Cội Nguồn của Mọi Lời Nguyền, Tội Lỗi và Tai Ương' sao?"

"Đúng, đúng. Chính nó. Những truyền thuyết xa xưa hầu hết đều do những kẻ mông muội viết ra, vì vấn đề tín ngưỡng hoặc niềm tin. Tuy vậy, không phải toàn bộ những thứ ấy đều là giả dối hoàn toàn. Đôi khi một số trong chúng lại thực sự có thật, hoặc ngụ ý cho một sự vụ có thật—câu chuyện về Chiếc Hộp Pandora là một thí dụ. Giờ thì Chris, hãy nói xem anh biết được gì?"

"Về Pandora? Để xem...theo như phiên bản của Hesiod và sự thống nhất đa phần bởi các nhà sử học hiện đại; sau khi Prometheus đánh cắp Trí Hỏa từ Olympus để trao nó cho nhân loại và bị xử phạt bởi hội đồng các Vị Thần, Vua của các Vị Thần là Zeus vẫn chưa nguôi ngoai cơn giận khi bị thách thức, vậy nên ngài đã trả thù bằng cách tặng cho Epimetheus—anh trai của Prometheus một chiếc hộp chứa đựng tất cả những tội lỗi, bệnh tật, tệ nạn và tai họa trên thế giới.

Thời gian trôi qua, mặc dù Epimetheus vẫn cất giữ chiếc hộp rất cẩn thận; nhưng Pandora—vợ của ông, và đồng thời là người phụ nữ nhân loại đầu tiên được tạo ra—đã nảy sinh sự tò mò với thứ ẩn bên trong nó. Cho đến một ngày, cô đã không kìm lòng được mà mở chiếc hộp, từ đó mọi cái ác tuôn trào và tràn ngập khắp thế gian. Và khi Pandora kịp nhận ra lỗi lầm trong những điều mình đã làm để vội vàng đóng chiếc hộp lại, thì bên trong đó chỉ còn chứa đựng lấy một thứ—Hy vọng.

Vậy nên ý nghĩa của câu chuyện này là đằng sau sự tuyệt vọng, sẽ luôn có hy vọng len lói. Hoặc cũng có thể là, chỉ có 'hy vọng' giả tạo nằm sau mọi sự tuyệt vọng khốn cùng?"

"Tuyệt lắm, anh đã tóm tắt toàn bộ câu chuyện một cách hoàn hảo. Phiên bản của Hesiod cũng chính là sự liên kết mà tôi muốn nói tới. Chiếc lọ mà tôi đang cầm cũng giống như Chiếc Hộp Pandora vậy, hoặc đúng ra thì chính nó là Chiếc Hộp Pandora. Tôi đã chế tạo ra nó, nhưng tôi không biết nó có chức năng cụ thể là gì.

Nó rất quyền năng, chắc chắn rồi, và bên trong nó còn ẩn chứa lấy những sức mạnh xấu xa mà ta không tài nào có thể tưởng tượng được. Khi tôi mở cái nắp này ra, chúng sẽ phóng ra bên ngoài, dưới hình dạng một tai ương khủng khiếp, đem tới cái ác có thể hủy diệt tất cả—nhưng bằng hình thức nào thì tôi không rõ.

Về 'cái ác' và 'hy vọng', anh có thể hiểu chúng như thế này. Chúng ta sẽ lấy một 'cái ác chưa biết' để chống lại một 'cái ác chưa biết khác', lấy độc trị độc; và hy vọng ở cuối con đường chính là việc chúng sẽ tự triệt tiêu lẫn nhau để để lại cho ta một con đường thoát. Nhưng vì nó là một điều 'chưa biết', vậy nên trước những lực lượng cấm tri mạnh mẽ nằm ngoài trí tưởng tượng của tôi—tức người chế tạo—thì nó cũng sẽ bị vô hiệu hoàn toàn."

"Vậy ta sẽ không biết liệu chiếc lọ có đủ khả năng để đối đầu với bí ẩn bên kia hay không?"

"Có lẽ thế. Hiện tại bên tai tôi đang vang vọng những tiếng nói, hẳn anh cũng nghe thấy mà phải không, chúng kêu rên từ nãy đến giờ? Ban đầu tôi nghĩ rằng điều đó chính là báo hiệu cho việc ta sẽ phải chạm trán với lũ tín đồ, và có thể bọn chúng sẽ mượn nhờ một nghi lễ nào đó để mang tới lực lượng đến từ bên kia cõi giới. Chiếc Hộp Pandora sẽ không giải quyết được lực lượng này, nhưng miễn là tôi có thể sử dụng nó để ngăn chặn nghi thức ấy trước thì mọi thứ vẫn ổn thỏa thôi.

Nhưng bây giờ nhìn lại, có lẽ tôi đã lầm. Thử thách của chúng ta đang nằm sau bức tường này, và ta sẽ phải đương đầu với nó mà không có sự chuẩn bị nào."

"Ta có thể thử. Nếu những tiếng thì thầm ấy là đúng, thì ít nhất chúng không dồn dập như thể đang nói 'chúng ta ắt sẽ phải chết', tôi nghĩ rằng điều đó có nghĩa là tôi và anh vẫn có thể sống sót nếu biết cách nắm bắt thời cơ, chắc hẳn phải có một mắt xích ẩn nào đó."

"Hiện giờ ta không có thông tin nhiều hơn để kết luận."

"Vậy hãy tìm đi, anh có năng khiếu trong việc này mà. Trong khi đó, tôi sẽ thử phá đi lớp kết giới này trước, và mong rằng dù bên trong kia là thứ gì, nó cũng sẽ không nhạy cảm đến mức thức tỉnh khi kết giới được mở ra."

"Hừm, anh trông có vẻ đang rất hưng phấn, Chris."

"Phải, tôi không biết tại sao nữa. Đáng nhẽ ra tôi nên sợ hãi mới đúng. Nhưng có thể vì thử thách trước mắt chưa lớn mạnh đến mức khiếp khủng như những ác mộng mà chúng ta vẫn thường mơ, vậy nên sự sợ hãi của tôi không lớn đến như vậy. Và có thể vì đây là lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với những thứ như thế này một cách trực tiếp, vậy nên sự hưng phấn của tôi đã lấn át nỗi sợ đó đi."

Hohenjun cười, tôi cũng cười. Chỉ một vài giờ, nhưng tôi cảm giác chúng tôi đã trở thành tri kỷ của nhau, tôi có thể thoải mái kể cho anh nghe về mọi thứ mà tôi đang suy nghĩ. Và có anh đồng hành bên cạnh, điều đó lại càng giúp sức cho tôi hơn. Chúng tôi cần nắm bắt những khoảnh khắc quý giá như này, vì có trời mới biết thứ gì đang chờ đợi chúng tôi ở bên kia bức tường.

"Như vậy—chúc anh may mắn."

"Anh cũng thế."

.

Tôi từng sử dụng các Bí Thuật tạo dựng kết giới nhiều lần trước đây, mà phần lớn được là để tạo ra những khoảng không gian hoàn toàn thanh tĩnh, biệt lập với thế giới bên ngoài—để tôi có thể nghiên cứu và tiến hành các thí nghiệm của mình mà không bị quấy phá, không bị đánh nhiễu hay gây mất tập trung.

Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ tiếp cận với một kết giới có quy mô lớn như thế này. Năm mươi hai lớp màng bọc, với mỗi một lớp đều là các màng cấu trúc khác biệt, và cực kỳ phức tạp. Hơn nữa, chúng không đơn giản chỉ là năm mươi hai lớp chồng lên nhau...có các mắt xích giúp kết nối chúng lại, làm tăng cường vượt bậc từ mỗi một liên kết đơn lẻ giữa các lớp nhỏ cho đến kết cấu tổng thể, khiến cho chúng hoàn toàn trở thành một chỉnh thể thống nhất, mà thoạt qua rất có thể lầm tưởng rằng nó chỉ là một lớp đơn thuần. Một thủ đoạn rất tinh vi.

Nhưng, không phải là không có cách giải. Tôi đoán là mặc dù được thúc đẩy bởi những nguồn lực khác biệt, do đó dẫn tới cách thức vận hành cũng không giống nhau; nhưng dù là Bí Thuật, Tà Thuật hay Ma Thuật thì tất cả chúng vẫn đều sử dụng chung một Nguyên Lý Cốt Lõi. Vì lẽ đó tôi có thể thử dùng những thủ đoạn không chính thống của mình.

Tôi áp hai tay mình lên bức tường, di nó men theo những đường nét của cánh cổng để tìm kiếm một điểm nhìn phù hợp. Tri thức của tôi rất thiếu thốn, hầu hết là những mảnh vụn được sắp xếp có hệ thống, nhưng không hoàn chỉnh. Vậy nên tôi không biết phải mô tả như thế nào về thứ cấu trúc này, song tôi vẫn biết được, thứ ngăn cách giữa chúng tôi và thứ gì đó nằm ở bên kia được dùng cho hai mục đích.

Ngăn cản mọi tác động ngoại lai xâm nhập vào, và đồng thời ngăn cản mọi ảnh hưởng từ môi trường bên trong thoát ra. Giống như một phân chia giữa các lớp thứ nguyên vậy.

Tôi có thể làm gì đây? Tìm kiếm các mắt xích một để hủy đi sự liên kết, sau đó cưỡng ép phá vỡ từng lớp một? Không, như vậy sẽ tốn cả đêm mất. Tôi cần một thủ đoạn trực tiếp hơn, táo bạo hơn...Tri Thức! Đúng rồi, chính là nó.

Việc tôi nhìn thấy các Vị Thần trong những giấc mơ bất tường đã ép buộc tôi phải tiếp thụ rất nhiều những cấm tri báng bổ, và nhờ đó tôi lại có thể sử dụng các Bí Thuật. Chúng đến một cách tự nhiên, đúng với câu nói 'tri thức là sức mạnh'! Và phải chăng như Hohenjun đã nhắc qua—Mộng thì thực hơn Hiện Thực, và nếu tôi đã được ban cho đặc quyền để tiếp cận nó, thì tôi cũng có thể làm ra một số thao tác? Đúng rồi, tôi chỉ cần lý giải toàn bộ kết cấu này là được. Phần còn lại hãy để cho quyền năng từ những giấc mộng giải quyết.

Tôi ấn tay mình mạnh hơn, đưa cả thân thể sát lại như muốn trực tiếp chạm vào cái kết giới vô hình hài đó—Không được. Nơi này nhỏ quá.

Không chậm trễ, tôi bước nhanh ra khỏi Buồng Chứa Chính và về lại với hành lang rộng lớn, đứng đối diện với cánh cổng nặng hàng trăm tấn. Càng tiếp cận với cánh cổng, những ác cảm trong tôi lại càng trở nên cuồng loạn hơn, như sắp phá nát cơ thể mà xông ra—nhưng tôi lờ chúng qua một bên, để mặc cho những tiếng gầm rú của chúng. Một lần nữa, tôi sử dụng lại cùng một loạt các hành động trước đó, tiến lại gần, sờ mó, di cả cơ thể đi theo đôi bàn tay, lướt qua từng mép ngoài của cánh cổng rồi lại tiến vào bên trong. Nhưng cùng với quá trình đó, tôi cố gắng không chế sao cho tâm thần mình ở vào một trạng thái mơ hồ nhất có thể, vừa tỉnh táo, vừa mơ ngủ—thật khó để có thể nói tại sao tôi lại có thể làm được.

Những dữ liệu đến với tôi như vũ bão, còn bộ não của tôi giờ đây như hóa thành một cỗ máy móc chỉ biết thu thập, chọn đọc và phân tích. Tôi cần mô phỏng lại toàn bộ quy trình đã hình thành nên lớp kết giới này, thấu hiểu thứ tà thuật này—mà đó, rất có thể sẽ phải tiêu tốn một dung lượng vô cùng khủng bố, cảm giác như thể đang cuống cuồng đong đưa giữa một biển mênh mông kiến thức.

Chỉ qua vài chục giây, đầu tôi đã đau điếng dữ đội, và miệng bắt đầu ngai ngái vị máu. Tôi cần kiên trì, phải dẹp bỏ hết mọi tâm tư.

Một phút.

Năm phút.

Mười phút.

Mười lăm...Mười chín...Hai mươi...Đây rồi! Mọi mảnh ghép đã vào đúng vị trí của nó. Đâu tôi đột ngột ong ong một tiếng, như nổ đoàng một nguồn lực vô danh trào dâng ra từ biển sâu trong tâm trí, bắn mạnh, thoát khỏi thể xác!

Lực ấy vô hình, nhưng tôi có thể cảm nhận được sự khuếch tán của nó lên trên cánh cổng đá, và lan ra khắp cả cấu trúc của căn phòng. Đến đoạn này thì tôi không biết gì nữa, bởi cơ thể tôi mệt rã rời, máu mũi chảy, miệng cũng thổ huyết, rồi cứ thế cả người mất thăng bằng rơi xuống—

.

Khi tôi mở mắt ra, tôi thấy rằng bản thân đang tựa vào một bên tường của đường hầm. Hohenjun ngồi cạnh, thấy tôi tỉnh lại thì mừng lắm. Anh ấy hỏi: "Tỉnh lại rồi à. Anh không sao chứ?"

Tôi lắc đầu, đáp lại, "Không có chuyện gì nghiêm trọng, chẳng qua là lần đầu tiên thử nghiệm một phương pháp điên rồ như vậy thôi. Tôi đã ngất được bao lâu rồi? Mọi chuyện vẫn ổn chứ?"

"Chỉ mới chưa tới ba phút trôi qua thôi, kết giới đã bị phá, và cái thứ bên trong cũng không tỉnh lại. Anh đã làm rất tốt, Chris. Tôi cũng đã tra được chút ít về thứ mà chúng ta đang phải đối mặt.

Dựa trên vết tích từ Buồng Chứa Chính để suy ngược xem những nguyên liệu mà chúng đã làm cho những nghi lễ gần đây, và kết hợp với những tư liệu đã có sẵn trong đầu; tôi có thể loại suy ra được bọn chúng đang làm gì.

Nhìn xem, có quá nhiều loài được dùng để rút máu, lấy thịt, và cũng có quá nhiều độ tuổi. Chúng đổ hết tất cả nguyên liệu vào một chiếc thùng lớn, mà trên phương diện giả kim, tôi xem đó như là chúng đang mô phỏng lại 'hệ thống sinh thể'. Nhưng theo cuốn Amantura thì Usmuhu'N'lahyii phải không có một nghi thức nào liên quan đến nó mới đúng. Cho nên, tôi đã đọc qua một lượt những trang đầu tiên của cuốn tà thư để rà soát lại phạm vi kiến thức mà lũ tín đồ có thể vay mượn. Và quả thực là bọn chúng đang sử dụng Lễ Trao Đổi mà chúng vẫn thường dùng để mượn lấy các sức mạnh từ Trí Thần, hiến tế 'hệ thống sinh thể' để tạo ra một con quái vật vô biên, một tồn tại có thể gặm nuốt cả thế giới—Hydrafon.

Đến đây thì khá là dễ hiểu khi mà Pandora đã được dự báo trước là không thể chống lại hiểm nguy này. Vì suy cho cùng, Hydrafon vốn là những thực thể không thuộc về chiều không gian này, nó lẫn khuất giữa các vết nứt của thực tại và gặm nhấm những thế giới suy đồi. Nó là những sinh vật biến dị đã nhiễm phải sự ảnh hưởng từ Nguyên Tố Số Ảo Thứ Bốn—một xung lực cốt lõi giúp phân chia các thực tại với nhau; cho nên, dù không phải là một Vị Thần, nhưng nhìn từ góc độ của người trần mắt thịt, nó cũng không khác một Đấng Toàn Năng là bao.

Ồ đừng tỏ vẻ lo lắng quá thế, Chris. Cái thứ mà lũ giáo đồ N'lahyii tạo ra trong kia chắc chắn chưa thể hoàn chỉnh đâu. Nó chỉ mới được sinh ra, hẳn chỉ mới ở giai đoạn nhộng—tôi biết thế là bởi Amantura đã nói kích thước của Hydrafon là vô cùng lớn, lớn hơn cả những cụm thiên hà khi chỉ mới ở độ tuổi dậy thì, khác biệt hoàn toàn so với lúc sinh ra chỉ là một con nhộng với kích cỡ tương đương những tòa nhà hai tầng lầu.

Tôi không biết lũ N'lahyii sẽ định làm gì khi nó lớn lên, nhưng hiện tại, căn phòng kia chỉ đủ để một con Hydrafon mới sinh cư ngụ mà thôi."

"Nhưng kể cả thế thì chúng ta cũng làm sao có thể đối đầu với nó?"

"Không cần thiết. Mắt xích ẩn mà anh nói là ở đây. Con quái vật không phải là quyến thuộc của Thần Linh, nó chỉ là một tồn tại tách biệt mà thôi, vậy nên Quy Luật Vật Lý của thế giới này sẽ kiềm hãm nó phần nào. Hơn hết, nó sẽ không được phép tồn tại ở đây một cách tự nhiên đâu, phải có một Khế Ước Giả điều khiển nó, thu nhận nó dưới chức danh 'nhân loại' của mình để lách luật."

"Vậy, chúng ta chỉ cần giải quyết tên Khế Ước Giả là con quái vật sẽ tự biến mất?"

"Đúng. Tôi có một ý tưởng—"

—Vài phút sau, tôi và Hohenjun đã đứng trước cánh cửa gỗ trong Buồng Chứa Chính. Chúng tôi sẽ lẻn vào từ lối đi này. Chúng tôi có một kế hoạch, và hai gần ba mươi phút tiếp tới sẽ là khoảng thời gian quyết định xem liệu chúng tôi có thành công hay không, liệu ý tưởng của Hohenjun có khả thi hay không.

Hohenjun nhìn tôi bằng vẻ mặt cực kỳ nghiêm túc, tôi biết anh đang muốn hỏi tôi rằng liệu tôi đã sẵn sàng hay chưa—như mọi lần, tôi gật đầu đáp lại anh. Hohenjun quay người, tay anh nắm lên khóa cửa, vặn nhẹ và mở cánh cửa gỗ ra—

.

Màng bọc của Alkahest đang dần mất hiệu lực. Qua cánh cửa gỗ, tôi không nhìn thấy bên trong căn phòng rốt cuộc ẩn lấy điều gì ngoài một mảnh đen kịt, không nghe thấy tiếng mở cửa vọng lại, cũng không cảm giác được bất kỳ một thứ gì khác nữa. Mùi đất đá, những cơn gió, sự ghê rợn thấm đẫm, tiếng đập dữ đội của những báo hiệu bất thường—không một thứ gì. Kỳ lạ thật, rõ ràng là kết giới đã bị phá vỡ, nhưng dường như trong và ngoài gian phòng này vẫn có lấy một vách ngăn quái dị nào đó vẫn đang tồn tại. Như thể rằng cả ánh sáng lẫn những âm thanh đều đang sợ hãi không dám tiếp cận vào khoảng không phía trước.

Hohenjun dùng tay hích nhẹ vào tôi.

Phải rồi, không được lơ là, không được quên. 'Đừng cố gắng nhìn vào nó, cũng đừng cố gắng suy nghĩ gì thêm cả'—anh ấy đã bảo tôi như vậy, chứng kiến một sinh vật kết tinh từ 'nỗi sợ và sự kinh tởm thuần túy' một cách trực tiếp như thế này là một lựa chọn vô cùng rủi ro mà không một ai dám đặt cược tính mạng của mình để thử. Có thể Bí Truyền N'lahyii cũng đã nghĩ như vậy nên mới không chiếu sáng căn phòng này lên, hoặc cũng có thể chính như tôi suy đoán—ngay cả những thứ vô tri ấy cũng phải sợ hãi trước sự hiện diện của thứ đang ngự trị khoảng đêm đen tối cùng cực trong kia. Ai mà biết được sự thật đằng sau nó rốt cuộc là gì? Nhưng dù là cái nào đi nữa, chúng đều có nghĩa rằng tôi không nên làm điều gì mạo muội.

Từ giờ phút này trở đi, sẽ không còn những dung dịch thần kỳ hay những tấm bùa hộ mệnh nào đó có thể phụ trợ cho chúng tôi trong quãng đường phía trước được nữa. Chúng tôi phải cẩn thận hết sức với mỗi một hành động, dùng thính giác và xúc giác thay cho cặp mắt, và dùng sự trực cảm mãnh liệt đối với những cấm tri để đưa ra những phán đoán chính xác cho hành động của mình. Dù chỉ là một sai lầm nhỏ thôi cũng có thể gặt xuống sinh mệnh của chúng tôi, và tệ hơn nữa là nó có thể gây ra một thảm họa chưa từng có đối với thành phố này, với thế giới này.

Mồ hôi đã ướt sũng trên vạt áo sau lưng tôi và những cơn ớn lạnh liên tiếp ập tới mỗi khi tôi liếc nhìn khoảng đen trước mắt, còn tâm trí tôi hiện căng cứng như một sợi dây đàn đang bị kéo mạnh về hai hướng, bất cứ lúc nào cũng có thể đứt đoạn. Tôi đang sợ hãi. Phải, nhưng chưa đến mức khủng hoảng, chưa đến lúc.

Tôi và Hohenjun bước vào bên trong, để một chân của mình vượt qua ranh giới đến vùng cấm kỵ; và chỉ trong một khoảnh khắc đó thôi, tôi ngỡ rằng mình đã đi tới một miền hư ảo đầy xa lạ, hoang dại, một nơi cực kỳ không chân thực và gần như chắc chắn là không thuộc về một cõi giới phàm thường nào đó. Căn phòng vẫn đang ở đây, đang hiện diện trong thực tại này, nhưng bằng một cách nào đó mà tôi cảm thấy rằng mọi thứ thuộc về phạm trù vật lý thông thường trong nó đều không thực sự tồn tại, như thể mọi khái niệm vốn thuộc về không gian này, định hình và cấu trúc nên chính nơi đây đều bị loại bỏ hoàn toàn, chỉ để lại một mảng vô hình và vô danh không thể nào diễn tả nổi. Đến giờ phút này thì tôi chợt hiểu, sự chênh lệch vô cùng về vĩ độ với tồn tại cấm kỵ đang ngự trị bên trong đã khiến cho những kinh tượng này diễn ra. Bọn chúng đúng là đang sợ hãi! Nhưng càng nhiều hơn, chúng buộc phải tán loạn ra bởi sự tăm tối trong đó sẽ nuốt chửng lấy chúng!

Cái màn đen thăm thẳm kia không phải là bóng tối, mà nó chính là cái hắc ám của sự thiếu vắng hoàn toàn mọi sự tượng! Những cái đã định hình rũ bỏ đi những thứ mà chúng đã định hình nên, điều này quả thật quá hoang đường! Chúng tôi vì sao vẫn còn sống? Vì sao vẫn tồn tại được trong nơi này?

Vì chúng tôi là những kẻ báng bổ ư?

Tôi không cảm giác được gì cả ngoài thứ áp lực trầm trọng mà ai cũng biết là do đâu mà tới, chỉ có trực giác là thứ duy nhất mà tôi vẫn còn có thể tin tưởng được, và những giọng thì thầm là những thông tin duy nhất còn có thể chắt lọc. Tôi mơ hồ cảm thấy đó là một dạng kiến trúc hình vòm với những trụ đá khổng lồ cố định được xếp thành những hình vòng bao quanh, một vòng lớn và một vòng nhỏ hơn. Ở trước phạm vi của những chiếc trụ đầu tiên, tôi cảm nhận được có la liệt những vật thể lạ chất đống xung quanh—mà rất có thể, là một lượng vô cùng lớn các xác chết, những cơ thể không toàn vẻn, những bãi dư thừa thức ăn dành cho con quái vật háu đói mà không một bữa tiệc thịnh soạn nào trên trần đời này có thể lấp đầy cái bụng không đáy của nó. Và bởi những vật cản trở mà tôi sẽ không bao giờ muốn lại gần để xác định xem liệu suy đoán của mình có đúng hay không ấy, tôi và Hohenjun chỉ còn cách men dọc theo con đường duy nhất có thể đi, bước qua vùng lãnh thổ trải dài ba mươi mét và vượt qua những cột trụ đầu tiên.

Đến đoạn này, chúng tôi đã gần như không chịu nổi trước áp lực vô hình tỏa ra mãnh liệt từ nơi trung tâm sâu thẳm, hai bọn tôi buộc phải cúi hẳn người xuống, gần như nằm, và xê dịch từng chút một trong khi cố gắng không gây ra bất kỳ tiếng động nào có thể đánh thức con Hydrafon sơ sinh.

Cơn sốt ruột trong tôi bị đẩy lên tới đỉnh điểm, nhưng lý trí và bản năng sinh tồn đang bừng cháy đã nhanh chóng đè ép nó lại. Chúng tôi không có nhiều thời gian, nhưng cũng không thể mau lẹ trong một tình huống như thế này.

Một lần nữa như tôi đã khẳng định, không gian kỳ dị này chính là một miền hư ảo của sự trống rỗng, và như một phần tử đang tồn tại trong nó, bản thân tôi cũng đã mất đi hoàn toàn năm giác quan. Những cảm xúc cũng đang từ từ biến mất, chỉ có nỗi sợ hãi vẫn còn, và do đó lý trí cùng những trực cảm điên loạn cũng vẫn còn đó. Tôi nghĩ rằng chúng tôi đang băng qua những lớp máu khô cực kỳ dày đặc, được vẽ ra theo một vòng nghi lễ gớm ghiếc đã triệu hồi lên cái thứ ấy, bởi những tiếng nói đã nói như vậy... có thêm những tiếng nói vang vọng, những nạn nhân xấu số này nối tiếp những nạn nhân xấu số khác hiển hiện. Những tông giọng sớm đã mất đi bản tính mà chúng vốn có, chỉ còn lại một sự vô cảm gần như thuần túy nhưng vẫn réo lên từng hồi hoảng sợ phun trào và tràn ngập thứ đau đớn khôn cùng.

Tôi gần như muốn thét lên, nhưng sớm nhận ra rằng chính tiếng nói của mình cũng đã bị tước mất. Sẽ không có tiếng động nào... không có tiếng?... Nhưng nếu như thế, phải chăng tôi có thể gục hẳn xuống, co rúm người lại, tay ôm đầu và ọc ọe từng tràng tiếng rên rỉ sẽ không bao giờ được phép thốt ra? Tôi có thể thoải mái thả ra hết những nỗi sợ, những nỗi kinh hoàng khiếp khủng ấy ra bên ngoài mà sẽ chẳng ai có thể biết?—Không được! Tôi đang suy nghĩ gì thế này, làm sao tôi sẽ có những ý tưởng điên loạn đó? Tôi cần phải tập trung hơn nữa, tỉnh táo hơn nữa. Nhưng không được nghĩ! Không được phép nghĩ gì nữa ngoài kế hoạch mà chúng tôi đang thực hiện!

Tôi không biết rằng Hohenjun đã đi vòng qua một cung đường khác đúng như những gì mà chúng tôi đã bàn bạc hay chưa, nhưng tôi biết bây giờ bản thân tôi đang đứng trước một mối nguy cơ chưa từng có, và nguy cơ ấy chính là nhiệm vụ mà tôi cần phải thực hiện. Con quái vật đang ở cách tôi chỉ khoảng vài chục mét, và nhờ vào những tiếng nói, tôi tạm hiểu là nó chỉ vừa mới kết thúc thực đơn dành cho hôm nay. Hiện giờ con Hydrafon ấy đang ở trong một giấc ngủ nông, điều đó sẽ tăng thêm phần nào nguy hiểm cho chúng tôi, nhưng ngược lại thì nó là một lợi thế lớn cho khâu mấu chốt của kế hoạch, một thời cơ mà chúng tôi cần.

'Bắt đầu thôi.'

Đúng vậy. Bắt đầu thôi.

Với câu tự nhủ vang lên trong lòng, tôi ngừng lại những bước lê trườn của mình, từ từ ngửa người dậy và tựa hẳn vào một cái cột trụ trong vòng tròn thứ hai.

Những Bí Thuật được ban cho từ các giấc mộng luôn là một mớ hỗn độn cần những Người Ngủ Mơ tự mình đi gỡ rối, bởi vì chúng vốn là sự kết tinh nhỏ lẻ nhất của vô số các dòng chảy của kiến thức, của kiến thức mà không một người nào biết đến và của kiến thức mà không một ai hay thứ gì có thể xâm phạm. Cho nên nói, việc thực thi Bí Thuật và vận hành nó là không hề có một quy chuẩn chính thức nào cả. Chúng tôi như những người nghệ sĩ, những họa sĩ và các kiến trúc sư ngắm nhìn toàn thể bức tranh của thiên nhiên cùng vật thể trong đó; để rồi từ đấy, trí tưởng tượng, cách thức phân tích-tổng hợp, khả năng quan sát và chắp nối các mảnh thông tin của chúng tôi sẽ giúp chúng tôi hoàn thành tác phẩm của mình—chính là những Bí Thuật. Còn thành quả được sinh ra liệu có đẹp đẽ hay không thì còn phải phụ thuộc vào kỹ năng cùng những kinh nghiệm nữa.

Sở dĩ tôi nói qua như vậy là vì trong những tình huống như thế này, sẽ có rất ít các thủ thuật hữu hiệu để thực hiện những kỳ tích cứu cánh kia. Và may thay, cách làm của tôi lại nằm trong số lẻ ít ỏi đó.

Bốn đồng Halfpenny được tôi lấy ra khỏi túi, vẫn cẩn thận và đặt nhẹ chúng xuống sàn trong tư thế dựng đứng. Và ngay lập tức như đã được cài sẵn chỉ lệnh, chúng chuyển động nhanh chóng, liền mạch. Chúng lăn qua sàn, theo vòng tròn được tạo thành bởi những chiếc trụ lớn và để lại trên đường đi của chúng những vệt máu tươi. Đây chính là bước đầu tiên của nghi lễ, một vòng tròn phủ ngoài.

Quá trình này đã diễn ra như thế nào? Kỳ thực, khi Hohenjun trao lại chiếc túi đeo hông có chứa hai bình máu lớn cho tôi, tôi đã suy nghĩ một lúc và quyết định sẽ thực hiện một chút chuẩn bị trước. Dù không đoán được bên trong gian phòng là một không gian cực đoan như thế này, nhưng ngay từ đầu tôi đã không có ý định sẽ tự mình dùng đôi tay trần để vẽ ra vòng thuật thức. Vì vậy, tôi đã sớm dùng một Bí Thuật khác để liên kết giữa các đồng xu với hai bình máu, cho những đồng Halfpenny ngấm hẳn vào trong đó để phủ lên chúng một lớp máu bên ngoài. Như vậy, khi tôi điều khiển những đồng xu lăn, in vết của chúng lên sàn và khiến cho những lớp máu này vơi dần đi—thì sự liên kết là những lớp ấy, sẽ kết nối với những bình lớn đang được đặt ở bên ngoài kia thông qua một đường hầm xuyên không gian, chậm rãi rút lấy máu từ đó và bù đắp lại vào trên các đồng xu một lớp mới khác. Cứ như thế, các đồng Halfpenny có thể hoàn toàn thay thế tôi trực tiếp thực hiện công đoạn này, việc duy nhất mà tôi cần làm chính là tìm một chỗ ngồi thích hợp và điều khiển chúng mà thôi.

Và bỏ qua một bên những nỗi sợ đang trực trào, nếu như anh bạn Hohenjun có thể chứng kiến toàn bộ những việc đang xảy ra, tôi cá là anh ấy sẽ bất ngờ lắm—mặc dù anh ấy chắc chắn cũng đang thực hiện một số thứ cũng tương đương như vậy. 'Ý tưởng về một vật thay thế đúng là tuyệt vời, nhưng tại sao anh vẫn còn cảm giác được những đồng xu?'—Có thể anh ấy sẽ nói thế. Dù sao thì hiện tại tôi đã mất đi các giác quan của mình, tuy có thể thông qua những giọng nói để xác định vị trí xung quanh, nhưng đâu thể làm điều tương tự với những đồng xu vốn là những vật nằm trong túi của tôi phải không? Hơn nữa, những giọng nói chỉ có thể giúp tôi ước lượng, làm sao tôi có thể biết là mình đang thực sự đi đúng hướng, với chính xác các tỉ lệ mô tả vòng tế lễ?

Đây chính là lý do tôi nói rằng Bí Thuật của tôi sẽ hữu hiệu trong những trường hợp tưởng chừng như vô phương thực hiện thế này. Bởi không chỉ những đồng Halfpenny được liên kết với bình máu, mà chúng còn liên kết với chính tôi, với vô số các quy tắc mà tôi đã khảm lên chúng suốt bấy lâu nay một cách có chủ đích. Tôi có thể cảm nhận được chính xác chúng ở đâu, và làm như thế nào để với lấy chúng, điều khiển chúng, khiến chúng thực hiện theo đúng ý tưởng mà tôi muốn—cho nên tôi vẫn có thể làm được những điều trên mà không cần đến những giác quan của mình, có thể biết được tọa độ mà chúng vẽ ra là chính xác. Đơn giản là vì tỉ lệ đã có sẵn ở trong trí nhớ của tôi, và với điểm bắt đầu là vị trí của tôi hiện tại, nên các đồng xu sẽ tự biết chúng phải làm gì.

—Hai phút trôi qua, chiếc vòng đã được vẽ xong. Hiện giờ là công đoạn khắc họa sáu lần bộ chín tại các vị trí trên chiếc vòng sao cho chúng có thể kết nối thành một ngôi sao lục giác. Mỗi một bộ chín là tập hợp của các ký tự Rult, Haiti, Nayath, Issthi, Zalphon, Omeketh, Okath, Anaalao'Syingwh xoay quanh nhau theo mô hình một vòng sáu ký tự lồng vào một vòng ba ký tự với các phân bố khác biệt. Một tổ hợp bộ ba Rult - Zalphon - o'Syingwh sẽ ở vị trí đầu tiên trên cùng, đại diện cho phạm trù 'Hữu Khả và Bất Khả'; tiếp sau đó ở bên phải là bộ Issthi - Zalphon - Omeketh đại diện cho 'Vật Chất và Năng Lượng'; rồi bộ Omeketh - Okath - Haiti là 'Thần Bí và Thực Tế'; và Rult - Haiti - Nayath, Nayath - Issthi - Anaala, Okath - Anaala - o'Syingwh lần lượt đại diện cho 'Thời Gian và Không Gian', 'Lý Thuyết và Giả Thuyết' cùng 'Thể Sống và Vật Chết'. Cùng nhau, chúng sẽ tổ hợp thành một mô hình mang ý nghĩa tương đương với sự phổ quát Toàn Tại.

Sau đó, ở phân đoạn cuối cùng, với các bộ chín đã được nối liền với nhau bằng dải máu, và cùng nhau luân chuyển quanh biểu tượng 'Lãng Quên' Yahal nằm tại trung tâm—tôi sẽ niệm chú ngữ và hoàn tất nghi lễ này.

Nhưng đó là chuyện của chốc nữa; còn hiện tại, tôi cần tinh chỉnh thật kỹ càng các đồng xu để đẩy nhanh tiến độ thêm một chút, bởi chỉ còn năm phút nữa là sẽ tới thời điểm mà tôi và Hohenjun đã ấn định lúc trước.

Thực sự thì, với những lúc như thế này, thời gian sẽ trôi qua như thể nó bị đưa vào một cái máy gia tốc gấp hàng chục lần vậy. Bởi chỉ một lát trước tôi còn đếm nhẩm từng giây đồng hồ trong đầu, trong khi bên bán cầu não còn lại vẫn đang cảm nhận các đồng Halfpenny lăn nhanh trên mặt sàn; thì một thoáng trôi qua, chúng đã dừng lại trước mặt tôi—các bộ chín đã được vẽ xong.

Tôi còn cần nối chúng lại với nhau và vẽ xuống ở chính giữa ký tự Yahal nữa, nhưng đó là vị trí của con quái vật vô danh kia. Bây giờ, tôi sẽ cần phối hợp với Hohenjun để đánh đuổi nó đi, và như anh ấy đã nói trước đó:

"Nhiệm vụ của anh là thực hiện nghi lễ, còn tôi sẽ đối phó với con Hydrafon cùng lũ tín đồ. Anh sẽ cần hoàn thành những bước đầu tiên trong khi tôi chuẩn bị, khâu này sẽ tốn của chúng ta bảy phút tổng cộng ngay sau khi hai chúng ta tách ra. Và giả sử là trong trường hợp xấu nhất nếu chúng ta không thể giao tiếp hay truyền thông tin cho nhau để ra hiệu được, tôi sẽ cần anh đếm nhẩm thật chính xác từng giây trôi qua, cũng như đảm bảo rằng anh đã hoàn thành xong việc. Để rồi sau đúng bảy phút đó, tôi sẽ mở đầu cho cuộc chiến này."

Như vậy. Đã đến lúc rồi.

"WGRRR!!!..."—Tôi đột ngột nghe thấy một tiếng rống chói tai inh ỏi, nó xé toạc không gian và áp thẳng vào mặt. Âm thanh mạnh mẽ đó, nó phát ra từ miệng con quái vật, vậy nên tôi có thể nghe được! Nhưng sự mù mờ về nhận thức xung quanh đã vô tình giúp tôi thoát khỏi choáng váng và những cơn kinh hoàng có thể xảy ra nếu tôi thực sự nghe rõ. Đây chính là báo hiệu!

Ngay lập tức, tôi cố gắng mở to mắt, nắm bắt toàn bộ khung cảnh phía trước. Vẫn tối đen, vẫn ngột ngạt và tràn đầy những ác cảm. Tuy nhiên... ở đỉnh phía trên bỗng len lói một tia sáng.

"Tôi sẽ kiếm một thứ gì đó và thả nó xuống đầu của con quái. Tiếng rống của nó là hồi kèn báo hiệu. Nó sẽ thức dậy trong cơn cuồng nộ và dùng bản năng của mình để nhanh chóng xác định vị trí của tôikẻ đã dám quấy rầy giấc ngủ của nórồi tấn công về phía tôi. Tôi sẽ cố gắng thoát khỏi đòn đầu tiên này, và nếu may mắn thì nó có thể giúp chúng ta đục một lỗ trên mái vòm, đâm thẳng đến Trung Tâm Thánh Đường ngay trên. Đến lúc đó, tôi sẽ mở chiếc lọ Pandora, hãy cẩn thận nhé."

Tia sáng khuếch trương, để lộ những mảng đất đá bên trên rơi xuống. Tôi không thấy bóng dáng Hohenjun ở đâu, nhưng con quái vật dường như vẫn đang liên tục đánh về phía mái vòm—điều mà tôi có thể dễ dàng thấy được qua những cái bóng đang liên tục di chuyển và làm khuất đi ánh đèn.

Tôi vội vơ lấy những đồng xu và nhổm người dậy, nép hẳn vào sau cái trụ lớn để có thể tránh đi dư chấn, nhưng tiếng gầm gừ vọng lại đau điếng không buông tha cho tôi, tôi đang dần lấy lại trọn vẹn những giác quan của mình, nhưng bây giờ thì tôi không muốn thế, bởi tôi ngờ rằng những tiếng kêu sẽ làm tôi phát điên mất.

Những tảng đá lớn hơn bắt đầu đổ sụp, các cột trụ lung lay dữ dội khiến tôi phải không ngừng thay đổi vị trí của mình, chạy vòng quanh căn phòng nhưng không dám đặt dù chỉ một phần bàn chân vào khu vực trung tâm. Những tia sáng chiếu xuống lớn hơn, và các khái niệm dường như đã không có chỗ trốn, những làn khói mù mờ hơn cả đêm đen từ chiếc lọ Pandora cũng phủ xuống từ phía trên, chen lẫn giữa những tia sáng—tôi bắt đầu nghe thấy những tiếng la hét, những tiếng rống, rên rỉ và hoảng sợ—có lẽ một vài trong số đó thuộc về lũ tín đồ, nhưng càng nhiều là thuộc về làn khói quái dị của Pandora.

Những ánh xám bắt đầu trở nên rõ ràng hơn trong không gian bị thu lại vào tầm mắt, trộn lẫn giữa máu đen và tội ác kinh tởm. Tôi thấy gian phòng được cấu tạo bởi những khối đá xanh đậm, nhưng đã nhuốm đỏ, và với rất nhiều máu tươi đang nhỏ giọt xuống từ bên trên, thậm chí vãi lên trên khắp người tôi. Tôi thấy những cái xác nằm chất đống phía xa, đã tụ cục đến nỗi không phân biệt được hình dạng; và thấy thêm những cái xác không toàn vẹn, mới, đẫm máu, nằm la liệt. Một vài tên vẫn còn đang hấp hối... đó là những tên tín đồ! Những tên mặc trường bào màu xanh với viền vàng đang rên rỉ, nhưng bỗng chốc bị làn khói cắn xé... tôi nhanh chóng bỏ qua chúng, tôi không có thời gian nữa.

Tôi cần phải chạy tiếp, không nơi nào là an toàn ngay bây giờ cả. Với những ý nghĩ cực kỳ thông suốt và tỉnh táo ến mức tê liệt đó, ngay cả khi đây là lần đầu tiên tôi thấy những thảm trạng chết chóc một cách trực tiếp, trần trụi, và tàn bạo đến nhường này; những cơn buồn nôn ói mửa vẫn không xuất hiện.

"Tình hình lúc đó sẽ rất thảm khốc, nên chúng ta phải nắm bắt thật chặt cơ hội của mình. Khi con quái cuồng loạn và Pandora tàn phá khắp nơi, hãy cố gắng hoàn thiện nốt chiếc vòng. Về phần tôi, tôi sẽ lẻn lên phía trên, dùng cách của mình để truy ra tên Khế Ước Giả và giết chết hắn nhanh gọn. Tôi sẽ phải làm điều này trước khi hắn có thể kiểm soát được con Hydrafon. Con quái vật kia rất mạnh mẽ, và điều đó có nghĩa là khế ước chỉ có thể hạn chế nó chứ không thể điều khiển nó hoàn toàn, vậy nên tên Khế Ước Giả hẳn sẽ phải tốn rất nhiều công sức mới có thể kiềm chế nó lạiđiều này sẽ khiến hắn ta để lộ sơ hở của mình."

Đúng rồi—tôi cần hoàn thiện chiếc vòng. Tôi cần tin tưởng vào Hohenjun, do đó cần phải thực hiện thật tốt nhiệm vụ đã được giao.

Nghĩ như vậy, tôi lần nữa lấy ra các đồng xu của mình và đặt chúng xuống. Một bán cầu sẽ phụ trách chuyện này, trong khi bán cầu còn lại phải giúp tôi tiếp tục tránh né, né khỏi những tảng đá rơi, và né ra khỏi tầm nhìn của con quái.

Tôi sẽ không nhìn vào nó, và sẽ cố gắng để nó không nhìn vào tôi. Nhưng dường như tôi đã quá tự tin rồi!

Trong thoáng chốc, tôi nghe được tiếng của giáo sư Wenger la lớn: "Lùi ra sau căn hầm Asmith, và hãy khống chế nó nhanh lên! Chết tiệt, là kẻ nào đang khống chế những con quái vật trong làn khói đen—" và còn nghe thấy thêm một vài tiếng kêu nữa, những giọng già và trầm đục, uy nghiêm nhưng giờ đây cũng đang hoảng loạn vô cùng. Tà thuật của chúng không hoạt động trong phạm vi của Pandora, và chúng đang phải chạy trối chết để giành giật mạng sống của mình, từ cả cái ác của con người lẫn cái ác của vũ trụ.

Những kẻ yếu đuối đã chết, hoặc bất tỉnh và nằm đó như những con mồi chờ bị phán xét; vậy nên những kẻ còn có thể la hét—bọn chúng chắc hẳn phải là những trưởng lão, những thành viên cốt cán của hội, chỉ bọn họ mới có thể là những người duy nhất có thể đứng vững trước một biến cố như thế này, và đồng thời là những người duy nhất biết được chuyện gì đang xảy ra.

Có rất nhiều tiếng kêu nhấc lên cái tên Asmith Johanberg ấy—đó là tên Khế Ước Giả sao? Hohenjun sẽ nhanh chóng xử lý hắn, và mọi chuyện sẽ xong xuôi. Nhưng mọi chuyện làm sao có thể dễ dàng như thế!

Những tiếng nói đột ngột đứt quãng, bị chen ngang bởi một tiếng hống khủng khiếp từ con Hydrafon. Trong chốc lát, sự ác cảm đến từ Pandora bặt tăm khỏi gian phòng. Những tiếng thét gào và sự lượn lờ khắp nơi của làn khói đã khiến con quái vật trở nên giận dữ hơn, vậy nên nó đã rống, một tiếng rống nuốt trọn tất cả tai họa trên thế gian này. Tiếng hống của nó làm nứt toác các mặt tường, chấn động mặt đất và xé nát màng nhĩ của tất cả mọi người. Và ngay khoảnh khắc ấy...

Ngay khoảnh khắc ấy, mặc dù đã rất rất nhiều lần chứng kiến những tồn tại với vĩ độ lớn hơn thế, nhưng giờ đây dưới một cái nhìn trực tiếp—hoặc đúng hơn là tiếng rống đã cho tôi một cái nhìn trực tiếp—một lần nữa tôi đã vô cùng khiếp hãi với sự nghi vấn rằng cớ sao ngôn từ và trí tưởng tượng của con người có thể hạn hẹp đến như thế. Nó nào đâu có vô tận như những gì mà chúng ta vẫn luôn ca tụng trong ảo tưởng? Bởi lẽ chất chứa trong tiếng kêu khiếp khủng của thứ quái vật ấy là hàng ngàn vạn tông giọng khác nhau, nhưng mặc nhiên không một tiếng hét, nói, hay rên rỉ nào phù hợp với nhận thức nhỏ bé của chúng ta, không phù hợp với bất kỳ một sinh vật nào tồn tại trên cõi đời trần tục này, dù cho những thứ tổ hợp nên nó đều là những thứ mà ta đã biết đến! Nó chỉ có hai cánh tay lớn mọc ra ở nửa thân trên, nhưng lại có hàng ngàn vạn khuôn mặt và ngàn vạn các dạng hình phức hợp vô cùng cứng nhắc và quái dị của vô số những sinh vật dị tật khác nhau trùng điệp mọc ra từ tấm thân quá khổ, đùn đẩy và chen chúc như một miệng núi lửa đang chuẩn bị rống lên cơn cuồng nộ của nó. Chỉ có một vài khoảng trống là không có những thứ dị hình mọc ra, nhưng những khoảng như vậy lại nhầy nhụa những dòng dịch lỏng kinh tởm không tên màu đen xám, với vô số những cục mụn nước trồi lên, nổ đôm đốp và tung tóe khắp nơi.

Nhưng mặc dù nói như thế, mặc dù đó chính xác là những chi tiết mà tôi đã thấy được—mô tả kể trên vẫn sẽ không thể giúp bất kỳ một ai khác có thể mường tượng ra chính xác hình dạng của con quái vật mà tôi đang phải đối mặt. Nó là một tồn tại không thể mô tả! Một tồn tại mà chỉ sự hiện diện của nó thôi cũng đã dấy lên những kinh hoàng mạnh mẽ nhất và ám ảnh nhất trần đời, thứ mà chỉ thấy qua dù một khoảnh khắc thôi là bộ não của chúng ta sẽ quá tải và đứng máy, để rồi khi đạt tới giới hạn, ta sẽ trở nên điên loạn và sau đó nổ tanh bành thành những vũng nhão choẹt!

May mắn thay, chỉ có một bên não của tôi là phải chịu đựng thứ cực hình đó. Một bên khác vẫn đang chỉ huy những đồng xu, nó suýt soát thoát được, và vẫn miễn cưỡng giúp tôi duy trì những dòng suy nghĩ này. Tôi không biết liệu bạn tôi có thể thoát khỏi những hình ảnh kinh tởm ấy hay không, nhưng tôi tạm gạt qua một bên những ý nghĩ tiêu cực nhất để tiếp tục với công việc của bản thân.

Con Hydrafon không chân đang rướn người dậy, đứng thẳng bằng chính bệ thân quái dị của mình, với những mớ da thịt kinh tởm của nó liên tục ngọ nguậy và trết bãi dịch đặc sệt lên khắp nơi. Khi đó, tôi mới nhận thấy rằng cơ thể của con quái vật phải rộng tới hai mươi lăm feet và cao đến bốn mươi feet! Nó dễ dàng vươn ra khỏi 'căn hầm' của mình, chui gần nửa thân lên trên Thánh Đường Trung Tâm và quật mạnh đôi tay của mình ra hai bên, khiến cho các kiến trúc lần nữa rầm rầm đổ sập. Rồi bàn tay của nó mở ra, quơ loạn xạ và vơ lấy một nắm các tín đồ xấu số, nhét thẳng vào cái miệng rộng như vực sâu của nó, phần hàm đung đưa cồm cộp với những tiếng rên la và răng rắc vẫn còn vang vọng ngắt quãng. Nhưng khi tôi còn đang ở trong một trạng thái vô cùng ngờ nghệch trước thứ cảnh tượng kinh dị ấy, thì con quái vật lần nữa rống lên một tiếng nhức nhối—mà lần này, tôi không sao hiểu được tiếng rống đó... như có... nhân tính? Một tiếng kêu mà rõ ràng không phải là từ sự cuồng giận, thỏa mãn, hay đơn thuần chỉ là theo bản năng; mà nó là một tiếng đau đớn thảm thiết, như hấp hối. Đó là Hệ Ngữ Ulqthe, nhưng vô cùng hỗn tạp, rì rì khó nghe mà tôi không thể biết được ý mà nó muốn nói là gì.

—Là Hohenjun! Anh ấy thành công rồi. Anh ấy vẫn còn sống.

Trí óc tôi nhanh chóng vận chuyển, lấy lại được sự thanh tỉnh. Con Hydrafon đã di chuyển ra khỏi khu vực của vòng nghi lễ, bây giờ tôi cần phải tăng tốc tối đa công việc của mình. Nghĩ như thế, tôi vội lấy tay quệt xuống sàn đá còn nhuốm máu tươi từ vụ tàn sát vừa nãy rồi nhanh chóng chạy tới trung tâm căn phòng.

Những đồng Halfpenny vẫn đang làm việc của chúng cùng lúc đó, vậy nên chỉ chưa đầy một chục giây sau là tôi đã hoàn thiện vòng nghi thức.

Tôi lùi ra một bên, nhìn thấy cả cơ thể của con Hydrafon giờ đây đang dần tan biến thành tro bụi. Từng phần cơ thể hóa thành tro khiến con Hydrafon biết được rằng sinh mệnh của nó đang đi đến hồi kết. Nó vẫn cố gắng cựa quậy, tàn phá và tàn sát mọi thứ bằng bản năng còn sót lại, nhưng được một nhoáng rồi nó ngã hẳn xuống, hấp hối và không cử động nữa, cứ thế biến mất vào hư không.

"Rlnahw... o'Shurrr ~"—Đó là những trăn trối cuối cùng của con quái vật vô danh. Có thể những lời ấy là Hệ Ngữ Ulqthe, nhưng những tiếng phát ra vô cùng hỗn tạp, rì rì khó nghe mà tôi không thể biết được ý mà nó muốn nói là gì.

Và cùng với những lời cuối cùng đó, phía sau cái chết của con Hydrafon là một khoảng lặng đột ngột ập đến, nói đúng hơn là sự ngỡ ngàng.

Nhưng rồi tiếng thét giận dữ của giáo sư Wenger đã kéo tôi về với thực tại— "AHRAVAIN CHRISTOPH! Là em đã gây ra tất cả những chuyện này!!?"

Giáo sư đang đứng ở miệng hố phía trên, đối diện lấy tôi ở phía dưới và nhìn tôi với một khuôn mặt tái xanh vì giận dữ. Đó là một nét mặt mà tôi chưa từng thấy ở giáo sư bao giờ, là bộ mặt thật sự của ông. Tôi định nói điều gì đó để chất vấn lại thầy ấy, tuôn ra những sự bất mãn của tôi với hành động phản bội của thần, nhưng có thứ gì đó đột nhiên lóe sáng ở căn phòng phía trên và chiếm trọn hết tầm nhìn.

"Đừng tốn phí thì giờ nữa, Chris! Hãy thực hiện nghi lễ đi!!"—Tiếng của Hohenjun vọng ra, và sau đó là một loạt các tiếng chửi rủa khác. Giáo sư Wenger toan lao xuống dưới, nhưng Hohenjun đã chặn trước mặt ông ấy.

Không chậm trễ nữa, tôi chấn chỉnh lại trạng thái của bản thân, lấy ra hai lọ chứa nhỏ đã chuẩn bị từ trước, với máu của tôi và của Hohenjun phân biệt ở hai bên— điều có nghĩa là hai chúng tôi sẽ trở thành chủ thể của nghi thức, và do đó là những người duy nhất sẽ nhớ chính xác mọi thứ đã diễn ra. Tôi trết chúng lên đôi tay của mình và khép chúng trước ngực.

"Hãy lấp đầy, bằng Xích Huyết của thế giới này—"

Vòng nghi thức bập bùng ánh sáng, thắp lên từng bộ chín các ký tự. Tôi nâng đôi tay của mình hướng về phía trước, dang ra hai bên.

"Rult. Haiti. Nayath. Issthi. Zalphon. Omeketh. Okath. Anaala. o'Syingwh. O'Ar'sha YahwkabathO'Yahwkabath ie'quaria. Varwyahii e'shumaliha!!! Yahal o'huvaaaYahal o'Kosfeotl!!!"—Ngay tức khắc, màn đỏ bắn mạnh ra khỏi vòng tế lễ, xông thẳng lên trời, xuyên qua những kiến trúc và phủ khắp toàn bộ không gian, toàn bộ thế giới...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro