Chương V

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Khi tôi hỏi rằng điểm đến đầu tiên của chúng tôi là ở đâu, Hohenjun đã bảo rằng anh sẽ dẫn tôi đến với Ngọn Tháp Viễn Cực—một ngọn hải đăng nằm ngoài khơi của vùng Willdex ở Alaska, với tầm nhìn hướng về phía Bắc Thái Bình Dương. Nó cao lớn, cô độc, gần như biệt lập, với gió và sóng là những vị khách duy nhất của nó trong hơn ba thế kỷ qua. Và đó là nơi mà một Học Giả tên là Samuel de Myrtillière sinh sống và làm việc, người mà chúng tôi cần anh ta giúp để định hướng cho chuyến đi của mình.

Để có thể đến được đó, chúng tôi cần vượt qua một quãng đường hơn bảy nghìn cây số, cho nên, chúng tôi trước tiên đã đến Tháp London để xin Hiệp Hội cấp phép sử dụng Đường Truyền Không Gian. Mọi thứ đối với tôi đều rất mới lạ, đến bây giờ tôi mới biết được các Học Giả trên thế giới hầu hết đều thuộc về một nhóm liên minh do Hiệp Hội Thần Bí đứng đầu và quản lý.

Bọn họ là một tổ chức được thành lập vào năm thứ nhất theo lịch Công Nguyên và sớm đã trải khắp thế giới với nhiều quốc gia thậm chí còn phụ thuộc trực tiếp dưới quyền lực của họ. Có chín bốn trụ sở chính lần lượt nằm ở Tháp London của Anh; Tượng Nữ Thần Tự Do của Mỹ; Núi Côn Lôn của Trung Quốc và cuối cùng là Thành Himeji của Nhật Bản. Hohenjun phản bác thông tin này vì anh ấy cho rằng còn rất nhiều trụ sở ẩn chưa được biết đến, và rất có thể bàn tay của Hiệp Hội đã vươn ra ngoài vũ trụ bao la. Thí dụ như việc Liên Xô và Mỹ có thể bay lên được Mặt Trăng chưa chắc đã không liên quan tới Hiệp Hội khi mà phải có sự chấp thuận của họ thì hai nước mới được đặt tay vào những lĩnh vực phi phàm như vậy. Chính vì quyền lực tối cao rộng khắp này nên các sự kiện siêu nhiên mới có thể tự nhiên mà lẩn giấu khỏi tai mắt của người thường và các Giáo Hội Bí Truyền cũng không dám manh động hay bành trướng thế lực quá mức trong bao nhiên năm qua.

Và về lại với hành trình của chúng tôi, Đường Truyền Không Gian chính là một trong các sáng chế của Hiệp Hội và đóng vai trò như là phương tiện di chuyển trực tiếp của rất nhiều Học Giả. Bằng cách kết nối các tọa độ trong không gian và uốn cong chúng lại, tạo thành một đường hầm xuyên qua giống như lỗ giun, một người có thể di chuyển giữa nhiều nơi cách xa nhau trên bản đồ mà không phải tốn quá một giây. Mọi chuyện đều diễn ra suôn sẻ sau đó, và chúng tôi đi tới một cái bốt điện thoại nơi những người khách liên tục ra vào với nhiều khuôn mặt khác nhau.

Trong buồng là một bản đồ tọa độ và một chiếc điện thoại. Hohenjun quay số, nhập vĩ độ, kinh độ rồi đứng chờ. Chỉ vài giây sau là chiếc điện thoại reo lên, Hohenjun ra hiệu tôi nắm lên vai anh rồi nhấc máy—ngay lập tức, một luồng ánh sáng xanh bao trùm.

Khi lần nữa lấy lại được tầm nhìn, tôi thấy mình và Hohenjun đã đứng trước một ngọn hải đăng màu đen nằm giữa biển lớn, đứng trên một thảm cỏ xanh nhỏ được phủ quanh bởi những bãi đá màu đen ẩm ướt. Hohenjun thuần thục tiến lên, mở cửa ra và đi vào, không quên ra hiệu cho tôi đi theo. Anh vừa bước chân lên những bậc thang vừa giải thích với tôi đơn giản về lai lịch của người mà chúng tôi sắp được gặp.

Samuel de Myrtillière là một Học Giả người Pháp, nhưng đã chuyển đến Willdex sinh sống từ hơn ba trăm năm trước. Có vẻ 'Samuel de Champlain' là một trong những cái tên mà anh ấy đã sử dụng trước đây (tôi không nói là ông ấy vì Hohenjun bảo rằng Samuel luôn giữ một ngoại hình trẻ trung, và anh ấy cũng không thích người khác nghĩ mình lớn tuổi)—điều này cũng đồng nghĩa với việc quá khứ của anh ấy chính là một vĩ nhân trong lịch sử, người đã có công vẽ ra bản đồ ven biển chính xác đầu tiên và thành lập nhiều thuộc địa cùng các khu định cư khác nhau ở Bắc Mỹ trong đầu thế kỷ XVII. Dù vậy, Samuel đã sớm bỏ công việc của một nhà thám hiểm, vì như đã nói, anh ấy là một Học Giả. Cái tên và những công trạng chỉ là một lớp vỏ bọc cho một chuyến du hành thư giãn sau nhiều năm nghiên cứu—như bao Nhà Thần Bí Học vẫn làm.

Và khi tìm tới thị trấn nhỏ Willdex nằm sau những dãy núi băng—một địa điểm tuyệt hảo cho cuộc sống biệt lập, Samuel đã ngay lập tức cho xây dựng một ngọn hải đăng để dành phần đời còn lại của mình ở nơi đây.

Tuy nhiên, điều khiến tôi đặc biệt chú ý chính là Samuel vậy mà cũng cùng một loại người với chúng tôi, những người mộng mơ thực tại. Dù vậy, anh ta chỉ thực sự biết đến những cơn ác mộng sau một thí nghiệm bí ẩn trong quá khứ cách đây không lâu, điều mà anh không bao giờ tiết lộ.

Samuel đã dành phần lớn cuộc đời bất tử để nghiên cứu một thứ gì đó, song chính thí nghiệm đó đã tước đi sự bất tử của anh ta vì lời nguyền của những giấc mơ. Hohenjun nói rằng bản thân lúc ấy đang đi trên chuyến du hành với Enola Taggestern ở Vườn Quốc Gia Kenai Fjoirs thì may mắn gặp được Samuel đang rơi vào tình trạng tuyệt vọng vì những cơn tra tấn khiếp khủng. Người dẫn đạo của bạn tôi đã giúp Samuel bình phục lại, và nhờ đó bọn họ quen biết lẫn nhau.

Hai người chúng tôi nhanh chóng đến được phòng ngủ ngay dưới tầng điều khiển và đèn chiếu. Một người đàn ông trẻ với mái tóc màu vàng nhạt đang đứng chờ chúng tôi ngay trước của. Đó hẳn là Samuel de Myrtillièretôi nghĩ.

Một chàng trai có vẻ ngoài chỉ trạc tuổi với chúng tôi, không khỏe mạnh lắm, và gần như tiều tụy, bởi có những vết nhăn đã bắt đầu in lên trên làn da trắng của anh. Tuy vậy, đôi mắt của anh vẫn tràn ngập niềm vui và sự hân hoan, Samuel tiến đến trao cho Hohenjun một cái ôm sảng khoái như hai người bạn thân lâu năm.

Họ hỏi thăm nhau đôi ba câu rồi Hohenjun liền giới thiệu tôi cho Samuel ngay sau đó, và anh ấy lại tiến đến ôm lấy tôi đúng như cách mà anh ấy đã làm lúc trước. Dường như người đàn ông này rất thân thiện, hoặc có lẽ đó là vì anh đã rất cô độc, và sẽ còn cô độc hơn nữa trong những năm cuối cùng của mình.

Chúng tôi đi vào phỏng ngủ của Samuel—nơi ngập tràn bởi những chồng sách, các tấm phác thảo và những bản giấy vẽ. Dù vậy, mọi thứ trông vẫn đủ ngăn nắp để chúng tôi có thể kiếm một chỗ ngồi tốt với tầm nhìn hướng tới biển xanh qua ô cửa sổ. Bạn tôi đã kể lại sơ bộ những sự việc liên quan đến tôi, sau đó nói cho Samuel về ý định của mình, ngỏ lời mời anh tham gia vào chuyến hành trình của chúng tôi.

Tuy vậy, anh ấy đã khéo léo từ chối và nói rằng vẫn còn một thí nghiệm lớn mà anh cần phải hoàn thành—sứ mệnh của riêng anh. Nhưng Samuel cũng bày tỏ rằng anh sẽ hỗ trợ chúng tôi bằng tất cả những gì có thể. Tri thức của anh sẽ giúp chúng tôi biết những chỗ cần phải đi, còn những lọ dung dịch mà anh chế tạo ra sẽ bảo hộ chúng tôi đôi chút trên con đường hiểm trở của mình. Thêm nữa, Samuel còn có thể giúp Hohenjun điều chế một loại dung dịch mà bạn tôi đã từng nêu ra ý tưởng trước đây—thứ thuốc có thể kết nối những giấc mơ của nhiều người với nhau, chia sẻ cho họ cùng một khung cảnh và trải nghiệm.

Thế là sau cuộc trò chuyện ngắn, chúng tôi liền bắt tay vào công việc. Dịch lỏng Imvlatheo như cách mà Hohenjun đã gọi, tiếng Ulqthe có nghĩa là 'Giấc mơ'đã tiêu tốn của chúng tôi mất mười bảy ngày điều chế, dù thực tế thì cả khoảng thời gian ấy tôi chủ yếu là ngồi một chỗ và nghiên cứu các kiến thức cần thiết.

Khoảng thời gian ấy thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với tôi. Bởi đã phải rất lâu rồi tôi mới có nhiều những cảm xúc tích cực như thế. Samuel thân thiện, hài hước nhưng đôi khi cũng rất hậu đậu. Hohenjun nghiêm túc, cẩn thận và tỉ mị hơn, nhưng anh ấy lại là người pha trò nhiều nhất.

Ở cùng với hai người, nụ cười của tôi dường như chưa bao giờ nhạt đi.

Lòng tôi chưa bao giờ nhẹ bẫng đến thế này. Chúng tôi chỉ là những người bạn, thật vậy, và dù tình bạn của tôi với hai người kia chỉ có thể tính bằng ngày, nhưng mối liên kết giữa cả ba bền vững như thể những người anh em ruột thịt.

Đó có thể là mối liên kết của số phận, số phận của Người Ngủ Mơ tự thu hút những người giống họ đến với nhau. Tôi biết ơn vì điều đó.

Vào hôm thành công điều chế dung dịch, chúng tôi đã quyết định thử nghiệm trực tiếp, và trong những giấc ngủ say, cả ba chúng tôi đã cùng nhau chìm vào biển sâu.

Không có gì ngoài nỗi hoảng sợ, cái chết, cùng những giày vò bất tận ngay lúc ấy; nhưng đến khi tỉnh lại, cả ba chúng tôi đã nhìn nhau, rồi đồng loạt bật cười với những tràng lớn cho đến khi khàn cả giọng.

Tôi không thể nhớ được chúng tôi đã uống bao nhiêu lít rượu vào tối đó, hay chúng tôi đã tiệc tùng bao nhiêu lâu. Dù mọi thứ vẫn tăm tối trong đêm, nhưng ít ra chúng tôi đã có thể san sẻ chúng với nhau, cùng chứng kiến, cùng điên loạn, rồi cùng chết; điều đó thì khiến chúng tôi nhẹ nhõm hơn nhiều so với việc đơn độc một mình trong vòng cung vô tận của những nỗi kinh hoàng.

Ngày cuối cùng trước khi chia tay, Samuel đã vạch ra cho tôi và Hohenjun một lộ trình cực kỳ chi tiết. Anh phân loại các di tích thành những điểm chưa được khám phá, điểm đã được khám phá nhưng vẫn còn bí ẩn, và điểm đã hiểu rõ nhưng vẫn còn khúc mắc nhất định. Anh cũng cẩn thận đề tên một số những Học Giả mà chúng tôi có thể gặp trên đường đi, nói rằng họ sẽ có thể đưa ra một số đề nghị hữu ích. Chúng tôi sau đó tạm biệt nhau tại một quán rượu ở Willdex.

Kế hoạch hiện tại của tôi và Hohenjun là một đường đi thẳng từ Bắc Mỹ đến Nam Mỹ, ghé qua Mesa Verde ở Colorado, Teotihuacan và Yulcatan ở Mexico, Thành Phố Cổ Cópan, Caral-supe và Tiwanaku trước khi băng qua biên giới ở Chile, đến cảng Valparaíso để đi tới Đảo Phục Sinh nằm phía nam Thái Bình Dương. Và khi trở về đất liền, chúng tôi sẽ đi đến Amazon, tìm tới Thành Phố Vàng bị thất lạc của người Inca ở Brazil, Paititi. Hoặc nếu may mắn, chúng tôi còn có thể tìm đến Bảy Thành Phố Vàng Cíbola trong thần thoại Aztec nữa.

Đó là toàn bộ hành trình của chúng tôi ở Châu Mỹ trước khi dong buồm vượt Đại Tây Dương để đến với Châu Phi, cũng là đoạn đường ngắn nhất trong hành trình dài của chúng tôi. Bởi theo như nghiên cứu của Samuel, phần lớn Châu Mỹ từ xa xôi trước kia đều là lãnh thổ của những người Maya, Inca, Toltec cùng một số tàn dư từ thị tộc người Lemuria sau khi Atlantis bị đánh chìm mà sau này đã hình thành Mississippian hay Ancestral Puebloans. Cho nên các di tích cổ hay những truyền thuyết xa xưa ở đây hầu hết đều xoay quanh một thần thoại thống nhất, với cốt lõi là một Vị Thần Kép mang tên Zanurath'o'Kamuranth, sự kết hợp giữa Zanurath'Isthim'Va và Kamuranth'Isthim'On, mà như trong thần thoại Aztec cổ đã gọi, họ là Ometeotl—Ometecuhtli và Omecihuatl.

Tôi có đọc được từ trong cuốn Amantura rằng Ometeotl là Đấng Tối Cao trị vì sự Trung Chuyển, và cấp bậc của ngài còn lớn hơn cả Usmuhu'N'lahyii, tương đương với Yahwkabath mà tác giả của cuốn tà thư là Icaltha thờ phụng.

Ometeotl là Thiện Thần, vì ngài không kết án báng bổ cho bất kỳ ai theo đuổi. Sự thờ ơ của ngài là sự thờ ơ nhân đạo nhất trên thế giới này, cho nên, cũng không có một Bí Truyền Cổ Lão nào được phép đặt theo tên của Ometeotl, dù cho ngài có là Vị Thần được thờ phụng nhiều nhất trong tất cả. Và điều đó cũng có nghĩa là con đường trở thành Sứ Giả hay Thần Tộc đều khép lại đối với Ometeotl, dẫn tới việc chuyến đi của chúng tôi chín phần mười là sẽ không có một kết quả tốt.

Và quả thật vậy, chúng tôi dù đã tìm thấy rất nhiều di vật cổ, tiếp cận tới rất nhiều bí ẩn có dính dáng tới Ulqthe hay các Vị Thần, chạm mặt với không ít những Bí Truyền Cổ Lão thờ phụng Tezcalitpocas hay thậm chí là đã đụng độ với một số chủng tộc ngoài hành tinh, những tên vẫn đang lẩn trốn khỏi ánh nhìn của Hiệp Hội lẫn những tên đã bị các Thần Bí Giả từ xa xưa phong ấn lại. Chúng tôi đã thấy và nghe nhiều đến mức tôi đã làm hẳn một bài nghiên cứu về "Thật Giả trong Những Thần Thoại Châu Mỹ" theo cả phương diện thần bí lẫn khoa học, và nó thực sự đã đem lại cho tôi một bút tiền lớn. Nhưng mặc nhiên sau tất cả những gì mà chúng tôi đã trải qua, không một vết tích gì có thể cởi mở những nghi hoặc cho chúng tôi về con đường mà chúng tôi muốn nhất, một chút tiến triển cũng không.

Có lẽ những bí ẩn trên Đảo Phục Sinh là điều khác biệt so với phần còn lại. Về những bức tượng Moai, những chữ viết Rongorongo hay những người thuộc Birdman Cult—chúng tôi đã phải rất suýt soát mới có thể thoát khỏi đó an toàn. Ai có thể ngờ được những người trên đảo lại là hậu duệ từ những sản phẩm lai tạp của những người ngoài hành tinh đây? Nhưng được rồi, tôi sẽ không nói nhiều về nó nữa vì Hohenjun đã viết hẳn một cuốn tự truyện cho lần mạo hiểm ấy của chúng tôi rồi.

Vậy là thời gian tỉnh thức đã trôi qua mà không thể giúp được gì cho chúng tôi, nhưng còn những lúc đêm đến ngủ sâu?

Bạn tôi lần đầu tiên gợi ý cho tôi đến việc sử dụng Dịch Lỏng Imvla khi chúng tôi đang đi dọc theo Đại Lộ Người Chết ở Teotihuacan, hướng từ Kim Tự Tháp Mặt Trăng tới Đền Thờ Quetzalcoatl. Mục đích của chuyến đi là tìm hiểu những hang động nằm dưới Kim Tự Tháp Mặt Trời tọa lạc ở chính giữa khu phức hợp, xem xem 'ai đã xây dựng nên nó' và 'nó có ẩn chứa những bí mật gì', nhưng khi nhận ra manh mối chỉ đưa tới những lối đi tiến về một đáp án duy nhất là Ometeotl, như những lần trước, Hohenjun đã không kiềm lòng được.

Điều chế một bình dung dịch Imvla là rất khó, thực tế thì dù cho thời gian để hoàn thiện nó chỉ khoảng xấp xỉ một phần hai so với lúc Hohenjun chế tạo Dịch Lỏng Epimetheus, nhưng nên nhớ rằng có tới ba người đã chung tay làm việc này trong điều kiện tất cả những nguyên vật liệu đã có sẵn, hơn nữa trình độ của Samuel còn vượt xa Hohenjun trong lĩnh vực này một mảng lớn. Vậy nên theo kế hoạch, chúng tôi cần phải suy nghĩ kỹ lưỡng lợi và hại trước mỗi lần sử dụng thuốc.

Một lần mỗi hai tháng, sáu lần mỗi năm, và cho đến khi hai mươi tám lọ được dùng hết thì sẽ không còn gì cả. Đó là tất cả những gì mà chúng tôi có, bởi nguyên liệu điều chế Imvla cần phải tích súc rất lâu mới có thể đủ liều lượng để tiến hành tinh lọc và sử dụng.

Tôi còn nhớ rõ hôm ấy mình đã hỏi Hohenjun nhiều lần rằng anh ấy có chắc không khi chỉ mới mười sáu ngày trôi qua, nhưng sau một hồi đắn đo, anh ấy vẫn giữ vững quyết định của mình. Hohenjun không thể chịu được sự trì trệ này khi mà anh ấy còn đang sở hữu công cụ để đi tiếp.

Vậy nên tối đó, chúng tôi đã lần nữa trải nghiệm cảm giác có bạn đồng hành trong khi mơ màng chìm sâu xuống đáy đại dương kinh dị. Trong cùng một giấc mơ, với hai người ngủ mơ, dường như điều đó đã khiến cho Tương Quan Thần Bí giữa tôi và Hohenjun cộng hợp lại với nhau, xoay quanh nhau, thăng hoa mãnh liệt và khiến cho chúng tôi làm được những điều mà chúng tôi đã không thể làm lúc trước.

Sự may mắn mà tôi đã theo đuổi trong lúc say giấc chính là bị 'bóc tách' ra khỏi đáy biển sâu và đi đến một vùng biển được kết nối với nhiều thực tại khác, thay vì phải chứng kiến những Vị Thần khủng khiếp. Nhưng giờ đây, dưới sức mạnh của tôi và Hohenjun, tôi cảm giác được sự may mắn đó đã nằm gọn trong tay chúng tôi; và khi tôi động ý niệm của mình, chúng tôi đã ngay tức thì ngồi trên con thuyền trắng trôi giữa dòng nước trong vắt mênh mông vô tận.

Đêm đầy sao, với tám chòm tinh tú do Icaltha ngự trị đang luân chuyển chính giữa bầu trời. Không có ốc đảo, không thấy đất liền, chỉ có biển lớn, gió nhẹ, và những miền thế giới mới lạ nằm trong Cõi Ảo.

Như Icaltha đã viết, Đại Hải Tinh Tú này chính là một mặt khác trong Cõi Thực, một mặt nông hơn nhiều nơi Chân Thể các Vị Thần không say giấc, và nơi mà những người ngủ mơ thực sự trở thành kẻ mộng mơ thực tại, lạc trôi giữa vô ngần những thế giới không tưởng mà không một kẻ phàm trần nào có thể bước đến.

Đây chính là mục đích của Hohenjun khi điều chế ra Dịch Lỏng Imvla, chúng tôi không chỉ ghé thăm những mảnh phế tích từ thời đại xưa cũ khi tỉnh giấc, mà khi đêm đến, chúng tôi vẫn tiếp tục với công việc của mình.

Nhưng điều đó liệu có dễ dàng như thế?

Thiên Niên Tàng Thư Viện chỉ có thể nhìn từ mặt nước mà không thể thấy trực tiếp, chỉ có thể cảm giác thông qua những lát cắt mà không thể chạm tới trực tiếp. Ở đó có lưu giữ mọi điều mà chúng tôi muốn biết; bởi đó là 'nơi ghi chép tất thảy mọi sự, và chứa đựng tất cả những gì đã định hình và tất thảy những gì tiếp tục định hình cho mọi thứ trên đời'. Nhưng làm sao để chúng tôi đến đó được?

Hohenjun không biết, và tôi thì lại càng không. Cho nên, chúng tôi đã bắt đầu từ những nơi gần nhất, từ những chốn dễ dàng nhất—dù đã chắc rằng điều đó cũng đồng nghĩa với việc những cơ hội sẽ ít hẳn đi. Cuối cùng, chúng tôi đã chết vì sự bất tường trong giấc mơ hôm đó khi chưa khám phá ra được điều gì.

.

Đêm và ngày trôi qua nhanh chóng hơn bao giờ hết khi tôi nhận ra mình đã trưởng thành như thế nào, đã thực sự hòa nhập vào cuộc sống của giới thần bí ra sao.

Tôi gần như đã bỏ lại công việc của một nhà khảo cổ đơn thuần, mang trên mình một cái danh Học Giả mới. Ngay cả mức độ tương thích của tôi với những sự tượng siêu nhiên cũng đang tăng lên một cách chóng mặt mỗi giờ mỗi khắc. Tôi đọc được càng nhiều hơn những trang phía sau của cuốn Amantura, đi nhiều nơi, nhiều thế giới—nhưng nhiệm vụ cốt lõi của chúng tôi vẫn dẫm chân tại chỗ.

Vào hôm qua, chúng tôi đã gần như hoàn thành ba phần tư chặng đường. Mười năm qua là mười năm bất lực, mặc dù nó đã rất vui vào một số lúc. Chúng tôi đã đi qua Châu Mỹ, qua Đại Tây Dương, đi một nửa Châu Phi, đến với Lục Địa Á-Âu, rồi Bắc Băng Dương, Châu Úc, Ấn Độ Dương và một lần nữa tới Châu Phi.

Chỉ còn một phần nhỏ của Ethiopia, sau đó là Kenya và Tanzania nữa thì chúng tôi sẽ có thể lên đường đến với Thái Bình Dương cùng Châu Nam Cực—nhưng cả hai bọn tôi đều đã có dấu hiệu của sự mệt nhọc.

Trung Quốc đã từng là một quốc gia lý tưởng đối với Hohenjun bởi bề dày lịch sử phong phú nhưng cũng không kém phần đa dạng của nó, trước khi anh nhận ra rằng nơi đây cũng là một trường hợp tương tự với Châu Mỹ, bởi hầu hết mọi vết tích đều chỉ đến Wukanzoth—Thiên Đạo trong tín ngưỡng bao đời của họ. Còn tôi thì đã hy vọng rằng Thổ Nhĩ Kỳ hay Iran với tư cách là những cái nôi của hầu hết mọi nền văn minh sẽ cho chúng tôi một món quà bất ngờ nào đó, nhưng chúng cũng không có gì ngoài những điều vốn đã được Iserish V. Himber viết ra trong cuốn 'Rituals of The Octagram'. Ai Cập cũng không khá khẩm gì hơn khi Hiệp Hội dường như đã phong tỏa mọi con đường đi tới những các di tích cổ vô cùng cẩn mật mà không hề đưa ra một lời giải thích.

Ngay cả Đại Hải Tinh Tú với vô vàn khả năng cũng đã trở thành một con đường vô vọng khi chúng tôi hết thuốc từ lúc chúng tôi đặt chân tới nước Đức. Trong mười bốn lọ thuốc cho mỗi người, chúng tôi đã đến được hơn một ngàn thế giới, nhưng chỉ có chưa tới mười nơi là thực sự có manh mối rõ ràng về các Vị Thần. Chúng tôi đã đến những miền viễn tưởng chỉ có trong lời văn của J. R. Tolkien với Chúa Nhẫn, Clive Staples Lewis với 'Biên Niên Sử Narnia' hay L. Frank Braum với 'Phù Thủy Sứ Oz'; hoặc chúng tôi cũng đã ghé thăm những mảnh thế giới với khoa học tân tiến giống như 'Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao'. Chúng tôi đã ghé qua rất nhiều, nhưng như đã nói, gần như chẳng thu hoạch được gì.

Chỉ có những kiến thức về các nghi lễ và các Vị Thần là không ngừng được tăng cường, còn câu hỏi 'làm sao để trở thành Sứ Thần', hay 'làm sao để trở thần Thần Tộc' thì vẫn phải bỏ ngỏ. Tôi thậm chí còn chẳng thấy nổi một nhóm Thần Tộc nào trong hơn một ngàn thế giới đó, ngay cả những Người Ngủ Mơ như tôi và Hohenjun cũng thực sự quá hiếm có. Còn khi những lọ thuốc đã cạn—chúng tôi cũng chẳng làm được gì hơn.

Đáng nhẽ ra sẽ có một thang mới bổ sung vào ba năm trước theo kế hoạch ban đầu, nhưng mọi thứ đã sớm bị xáo trộn hết cả sau cái chết bất chợt của anh bạn Samuel vào năm thứ ba của cuộc hành trình dài.

Chúng tôi còn gì ngoài những mơ tưởng mỏng manh đây? Không gì cả.

Nhưng nếu từ bỏ, vậy chúng tôi phải làm gì nữa khi cái chết đã là điều chắc chắn phải xảy ra?

Sống như một người bình thường và tận hưởng ư? Thôi đi. Với những người ngủ mơ, khái niệm về 'một cuộc sống bình phàm' sớm đã rời xa chúng tôi rồi.

Hay chúng tôi có nên tự kết liễu đời mình trước, để tránh khỏi những cái chết điên loạn đang chực chờ ở một tương lai vô định? Tôi nghĩ mình đủ can đảm để làm thế, nhưng những khúc mắc vô tận đã ngăn tôi lại. Chúng cùng những giọng thì thầm ghê tởm luôn bắt tôi phải đuổi theo, phải dằn vặt, suy nghĩ miên man cho đến khi lạc lối và xẩy chân xuống vực thẳm.

Trong những tàn lửa bập bùng trước mắt, tôi cứ liên tục tự hỏi rằng mình nên, hay phải làm gì trước khi cơn điên loạn hủy hoại hoàn toàn tâm hồn này đây. Nhưng rồi tôi nghe tiếng bước chân, Hohenjun đi ra từ lều ngủ và ngồi cạnh tôi.

"Anh không muốn ngủ à?" Anh ấy hỏi.

"Không. Nỗi sợ về việc ngủ say đang ngày một lớn hơn trong tôi, dần dần lớn như nỗi sợ về các Vị Thần mà tôi đang có. Trước bữa ăn tối, tôi đã uống một liều Kass, nó sẽ giúp tôi tỉnh táo trong chín ngày tới."

"... Nếu anh không kiếm gì đó để giải tỏa những căng thẳng, anh sẽ chết trước khi chúng ta đi khỏi Ethiopia này đấy."

Sau câu nói đó của Hohenjun là một khoảng lặng. Tôi muốn đáp lời với anh, nhưng không biết nên nói gì. 'Kiếm gì đó'? Nhưng phải kiếm gì mới được?

"Xin lỗi, có lẽ tôi nên kiên quyết với ý định ban đầu của mình. Tôi nên từ chối anh khi đó."

"Tôi không hồi tiếc về những điều đã diễn ra, bạn tôi. Anh là một người tuyệt vời, và được đồng hành với anh là một vinh dự lớn. Dù cho không đi cùng anh, tôi cũng sẽ sớm rơi vào tình trạng như thế này, thậm chí còn chết đi nhanh hơn.

Và nếu như có điều gì đó mà tôi vẫn còn hối tiếc, vẫn còn không cam lòng. Thì đó chính là số phận nghiệt ngã của chúng ta. Tôi không hiểu Chúa Trời vì sao lại chọn ra những kẻ để mơ và chết trong mơ, không hiểu sự tồn tại của chúng ta có ý nghĩa gì, nhân loại này, hay thế giới này nữa. Nếu tất cả chỉ là một giấc mơ đối với họ, một suy nghĩ bất chợt trong vô thức, vậy cuối cùng tất cả chỉ là một trò đùa? Liệu trên thế giới này, có thực sự có điều gì có ý nghĩa, đối với họ? Với chúng ta?"

Một lần nữa, không ai nói gì cả. Chúng tôi ngắm trời đêm, ngắm ánh lửa bập bùng; tôi nhìn những con kiến nhỏ chạy dưới đất, rồi thấy một vài con chết đi vì tàn lửa bắn ra, thầm liên tưởng số phận của chúng đối với chúng tôi.

Trên góc độ này, tôi và chúng cũng giống nhau, đều không may chết đi bởi sự vô tình của một vĩ lực cao lớn hơn mà không thể nào phản kháng được. Mọi thứ đều vô nghĩa, có phải không?

"Không đâu. Không vô nghĩa, không có cái gì là vô nghĩa cả." Hohenjun bỗng nói, tôi ngạc nhiên nhìn đôi mắt của anh, một đôi mắt vẫn còn tràn ngập niềm hy vọng và sự tự tin như những ngày đầu chúng tôi gặp nhau.

"Gì cơ?"

"Chúng ta sinh ra để chết đi, và khi chết đi ta sẽ nhận thấy ý nghĩa của cuộc đời mình. Vì thế nên ta cần phải tận hưởng mọi khoảnh khắc, mọi thời gian mà chúng ta có. Tôi và anh không thể tận hưởng thú vui như một con người bình thường, nhưng chính vì vậy nên tôi với anh mới cần phải tìm cách để được như thế.

Tôi đã quyết định rồi, Chris. Tôi vẫn chưa biết cách để vui chơi không lo nghĩ phù hợp với tôi và anh là gì, nhưng tôi sẽ tìm ra. Tôi vẫn còn luyến tiếc với mơ tưởng của mình, dù vậy tôi hiểu rằng mình không nên cố chấp. Có lẽ chỉ có số phận do các Vị Thần quyết định mới được phép thoát khỏi những ràng buộc. Vậy nên, Kim Tự Tháp Đá Phấn Trắng Osolek ở thành phố cổ Mikhan sẽ là địa điểm cuối cùng trong chuyến hành trình này. Sau đó, tôi và anh sẽ đi trên một con đường mới—một chuyến đi với mục đích tận hưởng hết tất cả gì có thể. Chỉ cần có thể cười vui, sống thoải mái, ngày sẽ sống hết mình còn đêm sẽ gồng gánh hết sức để chờ đến ngày mới—như thế chính là thành công của chúng ta!

Nào, Ahravain Christoph, anh có đồng ý với tôi chứ?"—Giọng nói sảng khoái như xưa kia, gương mặt, dáng người, nụ cười đều hệt như vậy. Hohenjun chìa tay ra, chờ đợi câu trả lời của tôi.

Vậy thì tôi còn có thể làm được điều gì khác nữa đây?—Tôi cảm thấy những luồng sống lần nữa cháy trong tim mình, có những báo động, những tiếng nói, đập thình thịch, gào thét nhức nhối, nhưng tôi không để tâm nữa. Bởi trong mắt tôi hiện tại, chỉ có một niềm vui kỳ lạ mà từ lâu tôi đã đánh mất.

Chỉ nhiêu ấy thôi là đủ thôi thúc tôi đứng dậy, sánh vai cùng với anh dưới cùng một mảnh trời đêm, bên ngọn lửa bập bùng làm chiếu sáng hai khuôn mặt. Tôi đưa tay bắt lấy tay anh, nắm thật chặt và trả lời bằng một từ duy nhất, nhưng chắc chắn không nghi ngờ: "Được!"

.

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi đã sớm thức dậy trước khi ánh mặt trời có thể ló dạng trên những miền đất khô cằn của Ethiopia và nhanh chóng lên đường đến với điểm cuối của cuộc hành trình.

Đêm hôm qua tôi và Hohenjun có cùng một giấc mơ, chúng tôi lại đi tới chiếc thuyền trắng trên mặt biển vô ngần ấy, nhưng không đồng hành cùng nhau. Tôi không rõ liệu đó có phải là một điềm báo không, liệu nó có đáng tin hơn những giọng thì thầm trong tâm trí tôi không, nhưng điều kỳ lạ là chúng tôi đều cảm nhận được có ai đó đang nhìn vào chúng tôi trong giấc mơ, và bằng một ánh nhìn chăm chú, nghiền ngẫm vô hại chứ không phải là một sự ác cảm thường thấy nào đó.

Để đến được Mikhan ở Kenya, nơi nằm gần với thành phố Lamu và có tầm nhìn thoáng ra Ấn Độ Dương, chúng tôi cần băng qua Khe Nứt Gregory của Thung Lũng Giãn Tách Lớn; và điều này có nghĩa là chúng tôi đã bỏ qua cơ hội để khám phá một trong những hệ thống đứt gãy địa chất lớn nhất trên thế giới, cùng vô số các bí ẩn về nguồn cội của con người và thiên nhiên. Chúng tôi để qua một bên những sự chú ý về các hóa thạch lâu đời nhất của loài người là nhóm các Australopithecus afarensis, những thung lũng đầy rẫy núi lửa với Kilimanjaro là nơi mà nhóm người ngoài hành tinh Sitnavak bị giam cầm, và cả những bộ xương của người khổng lồ được chôn dưới hồ Victoria và Turkana nữa. Vậy thì Mikhan với tư cách là địa điểm cuối cùng, nó có điều gì để thu hút chúng tôi đến thế?

Thực tế là dù rằng có đi hỏi những bộ não thông tuệ nhất về lĩnh vực này trên thế giới hiện tại, và tất nhiên là bao gồm cả các Nhà Thần Bí Học, thì vẫn sẽ không một ai có thể trả lời được câu hỏi trên—ít nhất là trong vô số những người mà tôi đã biết thì không một ai có thể. Bởi lẽ chính họ cũng chẳng biết đến Mikhan, không ai biết, và cũng không bản đồ nào đánh dấu địa điểm của nó.

Nó là một thành phố nằm ngay trung tâm của vùng hoang mạc nhỏ dị biệt được bao quanh bởi những vùng đất thấp ven biển của Kenya, nơi mà những người Ai Cập, Ả Rập, Oman và Swahili đã thay nhau chiếm đóng qua các thời kỳ trước đây. Nhưng đến hiện tại, nơi này chỉ còn là một chốn hoang vắng lạ thường, bất chấp cho tính giá trị lịch sử phi thường của nó—rằng phế tích ở nơi đây đã tồn tại trong cùng một nhịp thở của thời đại với Xirabreşkê, hay mười một địa danh nổi tiếng khác của Tas Tepeler như hay từ Thời Đồ Đá Mới của Thổ Nhĩ Kỳ.

Đáng lẽ ra mọi ánh nhìn của những nhà sử học và khảo cổ học đều phải luôn hướng tới đây mới đúng, và phải chăng giới Thần Bí có yểm lên nơi đây một thứ kết giới tách biệt nào đó để khiến nó vô hình trong mắt người thường thì cũng cần có những người giám sát của hiệp hội túc trực mới phải. Ấy vậy mà nơi đây hoàn toàn không có sự hiện diện của bất kỳ ai, là thực sự trống vắng và tĩnh mịch.

Nó dường như chỉ thật sự được biết đến bởi một ai đó khi anh bạn Samuel của chúng tôi vô tình đi tới địa điểm này trong một chuyến viễn hành tới Phương Đông của anh ấy cách đây bốn trăm năm, và anh ấy đã dành hơn bốn mươi năm tại đây để nghiên cứu các dấu vết lịch sử, cũng như cố gắng tìm ra một lời giải đằng sau sự 'mờ ảo' của nó trong mắt thế giới ngoài kia.

Tôi vẫn còn nhớ rõ ràng rằng Samuel đã đưa ra kết luận về một nền văn minh cổ đại đã tồn tại trên mảnh đất này trong khoảng 14.000 năm đến 9.000 năm trước. Và theo những mảnh di vật, phong cách xây dựng và hoa văn mà Samuel đã phân tích, có vẻ như người Ai Cập Cổ Đại bằng một cách nào đó đã đi đến đây đầu tiên, sau đó xây dựng một thành phố nhỏ bao quanh các phế tích còn sót lại. Sự bành trướng của Đế Chế Swahili đã đuổi những người Ai Cập viễn xứ ở đây rời khỏi Mikhan, và trong năm thế kỷ tiếp theo, người Oman và Ả Rập cũng làm những điều tương tự. Tất cả đều giao nhau ở Mikhan, và do đó, phải có một bí mật nào đó ở đây đủ lớn để khiến nhiều thế lực phải tranh giành lẫn nhau.

Nhưng rồi đột nhiên mọi thứ bị ngắt quãng đột ngột, trước thời điểm chuyển giao ở giữa thế kỷ XVI và sau thời điểm đó cứ như bị ngăn cách hoàn toàn. Mọi tài liệu ghi chép, những câu chuyện kể, và thậm chí là cả những khu chiếm đóng hay người dân... mọi thứ liên quan tới Mikhan đều biến mất khỏi thế gian như thể nó chưa từng tồn tại. Không ai đặt chân đến đây, không ai biết đến nơi này. Và ngay cả những tổ chức lớn mạnh như HIệp Hội cũng không hề có một sự chú ý nào.

Sự vắng lặng chỉ diễn ra vài chục năm từ khi những người Ả Rập ở Mikhan biến mất cho đến lúc Samuel vô tình lạc tới nơi đây, nhưng sẽ không có một lời giải thích nào hợp lý cho việc mọi người theo bản năng tự nhiên mà bỏ qua sự hiện diện của nơi đây, đặc biệt là trong thời đại khai phá những vùng đất này. Mặt khác, sự biến mất trong dòng lịch sử của Mikhan lại còn là một câu hỏi lớn hơn nữa.

Bạn tôi có được tất cả các thông tin này sau gần một nửa thế kỷ nghiên cứu tại đây, tại chính nơi duy nhất còn lưu giữ các vết tích để chứng minh rằng nó tồn tại. Và cái tên Mikhan chẳng qua là một từ được lặp đi lặp lại rất nhiều trong những văn tự còn sót lại của nền văn minh cổ đại kia, vậy nên Samuel đã dùng từ ngữ ấy để gọi cho cả thành phố và vùng đất.

Hohenjun suy đoán rằng mọi câu trả lời cho những điều ấy đều nằm ở Kim Tự Tháp Đá Phấn Trắng nằm ở trung tâm thành phố—nơi mà Samuel chưa từng đặt chân vào bởi một dự cảm bất án mãnh liệt đã không ngừng mách bảo anh ấy.

Samuel kể lại cho chúng tôi toàn bộ sự việc một cách chi tiết tình hình khi ấy bởi anh đã ghi chép tất cả nghiên cứu của mình rất cẩn thận. Và điểm bất thường đầu tiên chính là cấu trúc kỳ lạ của Osolek. Cao khoảng một trăm mét, với hình dáng rất hoàn hảo, góc cạnh sắc nét và không hề có dấu hiệu mài mòn của thời gian—toàn bộ khung kiến trúc đều tuyệt hảo như thế nó chỉ mới được hoàn thành cách đó không lâu, và sự hoàn hảo của nó cực đoan đến mức Samuel gần như không thể nhìn thấy các lằn ranh phân biệt giữa những cục đá tảng, chúng khít nhau như một thể thống nhất. Và nếu phải so sánh về độ tinh xảo, thì Kim Tự Tháp Giza ở Ai Cập có lẽ cũng chẳng thể nào sánh kịp một góc của nó.

Hơn thế nữa, mặc dù nó được gọi là Kim Tự Tháp Đá Phấn Trắng, nhưng cái tên ấy không ám chỉ tới việc nó được tạo ra từ quá trình trầm tích hàng triệu năm của sự tích tụ và nén chặt những phần xương của Coccolithophores dưới đáy biển, lẽ tự nhiên là Đá Phấn tự nhiên cũng không thể được dùng cho những công trình khổng lồ như thế này. Trên thực tế, thứ vật liệu cấu thành nó chính là một loại đá nào đó giống với Đá Vôi Tura đã được dùng để xây nên lớp vỏ ngoài của hầu hết các Kim Tự Tháp ở Ai Cập; nhưng nó có màu xám tự nhiên và cũng có đầy đủ các tính chất mềm dẻo, hay cứng và bền khi cần thiết nhờ các mạng tinh thể hình sao mười hai cánh đan vào nhau dày đặc, được tạo thành bởi một loại nguyên tố hóa học ngoài hành tinh. Thực sự khó có thể tin được là một loại đá như thế có thể tồn tại trên đời dưới con mắt của một nhà khoa học. Và nếu không phải được làm từ 'đá phấn trắng', vậy điều gì đã khiến chúng tôi gọi nó bằng cái tên như vậy?

Đáp án nói ra trông sẽ thật nực cười và chẳng ai có thể tin nổi, nhưng sự thực là dựa trên những xét nghiệm, Kim Tự Tháp này đã tồn tại từ rất lâu trước khi những người Mikhan cổ đặt chân đến đây, bọn họ chỉ là những người phát hiện, mà không phải kiến tạo. Họ phát hiện ra và bảo tồn nó, thờ cúng nó như nơi ở của một Vị Thần. Nhưng nó đã sẵn ở đó, lâu đời hơn Thảm Họa Núi Lửa Toba của Kỷ Đệ Tứ xảy ra 75.000 năm trước, và xa hơn cả khi một trong những tổ tiên của loài người là Dinkʼinesh trở thành một hóa thạch vào 3,2 triệu năm trước đó nữa.

Nếu phải sử dụng một sự kiện để mô tả về thời đại mà nó thuộc về—như vậy, đó chỉ có thể là vụ va chạm Chicxulub ở Yucatán! Chính vì thế nên nó mới thật không tin nổi, chúng tôi gọi Kim Tự Tháp này là 'Đá Phấn Trắng' bởi lẽ nó đã tồn tại từ những năm cuối cùng trong Kỷ Creta—một ai đó tạo ra nó, nhưng chắc chắn không phải con người, mẹ thiên nhiên hay kể cả là những chủng ngoài hành tinh!

Con người không tồn tại trong thời đại đó, mẹ thiên nhiên không thể đẽo gọt và di chuyển những tảng đá một cách có chủ đích, và người ngoài hành tinh thì không thể đến Trái Đất trước Đại Tân Sinh bởi cái xác nằm dưới đáy Thái Bình Dương chưa biến mất cho đến cuối Đại Trung Sinh vào 67 triệu năm trước!

Không có lời giải đáp cho niên đại phi thường của nó là một chuyện, nhưng đó chưa phải là tất cả khi nói về sự quái lạ của Kim Tự Tháp Osolek, bởi thứ đã khiến cho Samuel sinh lòng cảnh giác và không dám đặt chân vào bên trong, chính là vì mọi loại ma thuật của anh ấy đều bị triệt tiêu ngay khi tiếp cận đến bề mặt của những lớp đá, dù chúng có được tích tụ bao nhiêu lớp kết câu đi chăng nữa. Theo như anh ấy đã kể, ở Mikhan còn có nhiều công trình nhỏ như đền thờ và nhà ở cũng được xây dựng bằng loại đá xám đó, nhưng anh ta vẫn có thể tác động tới chúng một cách thông thường. Vậy nên điều đặc biệt nằm ở bản thân Kim Tự Tháp, chứ không phải là thành phần của nó.

Khi nghe đến đây, cả ba bọn tôi đều nhất trí rằng Kim Tự Tháp Osolek là một kết giới đang phong ấn một thứ gì đó bên trong—tương tự với điều mà chúng tôi đã gặp phải ở Thánh Đường Giáo Hội N'lahyii năm xưa. Mà nếu như ngay cả một người với nhiều năm kinh nghiệm như Samuel cũng không tài nào phát hiện được các dấu vết ma thuật được yểm lên đó, thì hẳn nó phải là thứ nằm ngoài khả năng tiếp nhận của con người, hoặc, cũng có thể là nó được tạo dựng từ bí thuật giấc mơ hay những tà thuật trong các cuốn sách cấm. Dù thế nào đi nữa, chúng tôi cũng cần phải đến đó mới có thể xác định được.

.

Sự thay đổi trong khí hậu khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn nhiều sau khi vượt qua những dãy núi ở Khe Nứt Gregory. Chúng tôi đón nhận những cơn mưa đầu tiên sau nhiều tháng liền sống trong khô cằn.

Và khi tiếp tục tiến bước, xa về phía trước trong tầm mắt, tôi đã có thể lờ mờ thấy rõ một vùng hoang mạc nhô cao, nổi bật giữa những dải đất màu xanh—vậy ra đó chính là Mikhan. Với một chút kích động không chờ đợi được vì mong muốn khám phá, chúng tôi đã tăng nhanh bước chân của mình để vượt qua những khu rừng nhiệt đới ẩm, và chỉ nửa ngày sau là đã tiếp cận với thành phố ở trung tâm, nơi được bao quanh bởi những từng thành bằng đá giờ đây đã sụp đổ phần lớn.

Kim Tự Tháp Đá Phấn Trắng đã hiện ra trước mặt, và chúng tôi chỉ dùng một giờ ngắn ngủi để đi quanh thành phố trước khi dừng lại tại quảng trường được lát đá xám đối diện với mục tiêu của chuyến đi—Osolek. Những kiến trúc Ai Cập cổ và Swahili rất đáng xem xét, các bảng văn tự từ thiên niên kỷ trước đó cũng là một món khó có thể bỏ qua, nhưng thật sự thì bài nghiên cứu của anh bạn quá cố của chúng tôi đã chi tiết đến mức chúng tôi chẳng còn gì để xem thêm nữa.

Nghi vấn duy nhất của tôi chính là tại sao cách sắp xếp của các tòa nhà dường như đi theo những vòng xoắn ốc, với kiến trúc của các bên từng xâm lược nơi đây được phân biệt rõ ràng. Điều này có nghĩa là sau khi đuổi những người đã đến đây trước đó đi khỏi thành phố, hoặc bắt giết, thì những người đến sau cũng không cho xây dựng lại trên những kiến trúc sẵn có, mà thay vào đó, họ đã tạo ra thêm những vòng ngoài để sinh sống. Thật khó hiểu. Dù vậy, tôi đã tạm bỏ qua nó để tập trung vào Kim Tự Tháp Osolek cùng với Hohenjun.

Dưới con mắt của khoa học, chúng tôi không thu hoạch được gì nhiều dù vẫn có các thí nghiệm khá thú vị. Chúng tôi đã biết một số đặc điểm kỳ dị về mặt vật lý của di tích, nhưng những kết luận này đều được thực hiện thông qua các phương pháp thần bí của Samuel. Có nhiều phần trong đó còn bỏ ngỏ vì vào thời điểm ấy, anh không có các công cụ cần thiết để tiến hành nghiên cứu.

Qua cái nhìn sơ bộ, các lớp địa tầng bên dưới Kim Tự Tháp xem ra khá ổn định và phát triển gần như độc lập trong môi trường biến đổi của Mikhan vì những biến động địa chất hay kiến tạo mảng có vẻ không hề tác động tới khu vực này. Điều này xem ra là do sự đặc biệt về mặt thần bí đối với vùng đất, may mắn là nhờ đó mà các lớp trầm tích có chứa hoá thạch không bị đẩy xuống sâu hơn hoặc bị phá huỷ bởi các hoạt động địa chất.

Khi tìm kiếm và phân tích các mẩu hoá thạch, chúng tôi nhận thấy lớp móng dày 10 mét của Osolek được xây dựng trên một lượng lớn xác các động vật nằm dày đặc trong khoảng 15 đến 25 mét, 50 đến 60 mét, và 90 đến 100 mét từ mặt đất—rõ ràng là được xây dựng có chủ đích. Một phần nhỏ là các loài giáp xác, vi sinh vật và nhóm không xương sống; chiếm chủ yếu là các hoá thạch khủng long, bao gồm một số cá thể của chi Saltasaurus, Parathodon và Isisaurus; trong khoảng từ 80 đến 90 mét về độ sâu, một số nhóm bò sát biển Plesiosaur và cá Xiphactinus thuộc về đại dương hay những cá thể Pretanodon không thuộc phạm vi Châu Phi cũng có thể được tìm thấy. Thông qua phương pháp xác định niên đại tuyệt đối bằng phân rã phóng xạ cùng sự thay đổi về địa chất trong quá trình xây dựng, có thể chắc chắn Kim Tự Tháp đã được xây dựng trong cuối kỷ Creta, ước tính vào khoảng 70 đến 65 triệu năm trước—đúng với kết luận của Samuel.

Bằng các thử nghiệm chuyên sâu hơn về thần bí, phạm vi được thu hẹp về khoảng 67 triệu năm trước, có thể là ngay trước sự kiện Đại Tuyệt Chủng của Kỷ Phấn Trắng. Chúng tôi cũng sớm xác định được rằng không có dấu vết của cả ma thuật, bí thuật lẫn tà thuật trên cấu trúc của Osolek, lần nữa xác nhận lại những điều mà Samuel đã nói—điều rõ ràng cho thấy thứ này hiện nằm ngoài khả năng hiện tại của cả hai; và ngay cả những giọng nói vẫn luôn gào thét thì cũng bỗng dưng im bặt đi khi chúng tôi bước vào Mikhan.

Cực kỳ lạ thường.

Chúng tôi cần phải quyết định xem nên làm gì. Thật sự có an toàn không nếu bước vào đó? Thông thường thì những giọng nói, hoặc sự nhạy cảm với những điều bí ẩn của chúng tôi sẽ có thể giúp đưa ra một chút phán đoán nào đó. Nhưng mọi thứ bỗng im ắng đến lạ khiến chúng tôi bối rối, phân vân không biết nên làm gì.

Tôi lấy bộ dụng cụ khảo cổ của mình ra để thử nghiên cứu, trong khi Hohenjun cứ đi đi lại lại quanh Osolek, và quan sát những bệ đền thờ chỉ chính xác bốn phía Đông Tây Nam Bắc nằm cách phần chân của Kim Tự Tháp chỉ vài mét.

Sau một lúc không thu hoạch được bất cứ điều gì, tôi thấy Hohenjun đã quay trở lại và ngồi cạnh tôi. Thấy tôi ngước nhìn, anh ấy liền bảo:

"Thu hoạch được gì chứ?"

"Không hề. Tôi chưa bao giờ thấy một loại cấu trúc tinh thể nào phức tạp như thế này."

"Hừm. Thế thì anh cần phải quyết định thôi, bởi tôi đã tìm ra lối đi vào bên trong Kim Tự Tháp rồi. Anh nghĩ chúng ta nên dừng lại, hay đi tiếp? Dù sao thì đến đây cũng đã là mở mang tầm mắt, còn nếu tiếp tục khám phá thì chắc chắn ta sẽ phải đối mặt với một mối nguy hiểm chắc chắn là lớn hơn nhiều so với Hydrafon, Zurvan-Angra Mainyu, Dak'Maat hay là cả lũ Rohongo mà chúng ta đã chống lại cách đây không lâu."

"Anh đã tìm được lối đi rồi sao? Chỉ trong thời gian ngắn như vậy?" Tôi ngạc nhiên hỏi, đó là điều mà Samuel đã dành ra hàng thập kỷ mà vẫn chưa thể tìm ra, nhưng Hohenjun đã giải quyết nó chỉ trong vòng vài chục phút.

"Không cần ngạc nhiên như thế, Samuel sở dĩ không thể tìm ra được lối đi, là bởi vào lúc đó anh ấy chưa trở thành một Người Ngủ Mơ. Bốn ngôi đền chính là lối đi, tôi đoán ra được là vì trong những căn phòng đá nhỏ chỉ bằng đầu người ấy có phủ xuống một loại bí thuật cực kỳ phức tạp nhằm che giấu những mô hình Pylon, mà nếu không sở hữu lượng Tương Quan Thần Bí đủ lớn, thì sẽ không thể thấy nó được. Và khi tôi nói là 'đủ lớn' thì nó có nghĩa là chỉ mình chúng ta có thể.

Như anh đã biết đấy, Pylon là cánh cổng vào đền thờ thần trong tôn giáo Ai Cập, đồng thời cũng mang ý nghĩa 'xua đuổi tà mà' hoặc 'trấn áp các lực lượng hỗn loạn'—có lẽ nền văn minh cổ Mikhan chỉ đơn giản là xây dựng Osolek, và ban đầu đã có một lối đi vào bên trong, dù sao thì thi thoảng người ta vẫn cần phải kiểm tra sự ổn định các kết cấu thuật thức kết giới. Nhưng khi người Ai Cập đến đây và nhận thấy bí mật bên trong Kim Tự Tháp, họ đã che dấu lối đi và tạo ra các cổng Pylon như vừa là vật trấn giữ trật tự, vừa là cánh cổng mở ra con đường."

"Khoan đã... nếu đúng như lời anh nói thì điều đó có nghĩa là một Người Ngủ Mơ đã xây dựng bốn bệ thờ này trong quá khứ sao?"

"Tôi khá chắc là như thế."

"Nhưng nếu anh ta là một Người Ngủ Mơ, thì anh ta cũng không nên tin vào các Vị Thần trong trí tưởng tượng của con người mới đúng. Thay vì sử dụng những vật biểu tượng như Pylon, sử dụng các ký tự Ulqthe sẽ hiệu quả hơn nhiều."

Rõ ràng là cũng đang thắc mắc về điều đó, Hohenjun lắc đầu, biểu thị rằng chính anh cũng không rõ.

"Đó là điều mà tôi vẫn còn chưa rõ. Nhưng được rồi, tạm thời hãy bỏ qua nó một bên đi, chúng ta cần phải quay lại với vấn đề ban đầu chứ? Nên dừng, hay đi tiếp? Mà thực ra thì theo những gì đã phân tích, tôi nghĩ là nơi này cũng sẽ không giúp được gì cho mộng tưởng trước kia của chúng ta đâu."

Có phải ý anh ấy là đang khuyên tôi dừng lại hay không? Hohenjun cho tôi đưa ra quyết định, đó là vì anh đang tôn trọng suy nghĩ của tôi. Giọng nói của anh ấy rõ ràng vẫn mang theo một chút không bỏ, cũng phải thôi, làm sao có thể dễ dàng như vậy thì bỏ qua được giấc mơ mà mình đã theo đuổi mấy chục năm?

Nếu tiến tiếp thì sẽ rất nguy hiểm. Nhưng có lẽ tôi nên khiến cho điểm kết thúc này thật viên mãn, có lẽ tôi nên chấp thuận—"Hãy cùng—"

"Được rồi, dừng lại ở đây thôi." Một tiếng vỗ tay vang lên ngay sau lưng, cùng một giọng nói bất chợt ngắt lời tôi, khiến chúng tôi giật mình và bật dậy.

Hình dạng của người đàn ông vừa cất tiếng nói hiện rõ trong mắt tôi.

Cao ráo, gầy nhưng rắn chắc, toàn thân toát ra một vẻ rất bí ẩn. Anh ta mặc một bộ trang phục trang nhã rất có phong cách của những quý tộc Châu Âu vào khoảng đầu thế kỷ XX đổ về trước với một bộ tây phục màu đen, áo khoác dài quá gối che đi phần nửa chiếc quần âu, áo sơ mi trắng nằm gọn dưới một lớp vest nhẹ bên ngoài với phần cổ được điều chỉnh gọn gàng bởi chiếc cà vạt đen, tay đeo găng và chân đi một đôi giày da được đánh bóng; tạo thành một sự bất cân xứng kỳ lạ giữa chốn di tích cổ ở hoang mạc này.

Khuôn mặt anh ta già dặn, lập thể, chỉ trạc tuổi chúng tôi; mái tóc có pha một chút màu lam đậm được chải vuốt gọn ra phía sau và chỉ thả xuống một vài sợi bên phải vầng trán rộng, đôi mắt đen sắc sảo cùng chiếc mũi cao đã hoàn toàn lộ rõ sự thông tuệ, nhạy bén, và vô cùng nghiêm nghị của anh ấy. Một vẻ đẹp không hề thoát tục, không tinh xảo đến mức hoàn hảo, nhưng cũng khó có thể nói thành lời—chỉ có thể chắc chắn rằng, anh ta độc nhất với ngoại hình, với khí chất của mình; sẽ luôn nổi bật và sáng chói bất kể ở đâu, bất kỳ nơi nào, đứng cạnh ai, giữa chốn đông người hay giữa muôn vàn những tuyệt tác về hình thể.

Anh ấy nhìn chúng tôi nghiền ngẫm, với một nụ cười mỉm. Và chỉ một cái liếc nhìn như vậy là trong tâm tôi lại trào dâng một thứ cảm xúc thân thiết khôn cùng, giống như khi tôi đã gặp Hohenjun lần đầu tiên, giống như khi tôi đã chạm mặt Samuel ở Ngọn Hải Đăng Willdex, nhưng lớn hơn, hơn như thế rất nhiều lần. Còn ánh mắt đó... chắc chắn rằng anh ta chính là người đã nhìn chăm chú vào chúng tôi trong giấc mơ lúc trước.

Tôi biết điều này có nghĩa là gì, và hẳn Hohenjun cũng biết.

Thực vậy, chỉ một giây ngay sau là bạn tôi đã lên tiếng: "Anh là một Người Ngủ Mơ? Và tại sao anh lại ở đây? Hơn nữa, câu nói đó có ý gì?"

"Andervista Hohenjun và Ahravain Christoph. Đúng vậy, tôi đúng là một Người Mộng Mơ Thực Tại, giống như hai người.

Các anh có thể gọi tôi là Estiatl'Exrekór, hoặc đơn giản hơn thì Quan Kịch Giả cũng được. Vài ngày trước, tôi có xuất hiện trong giấc mơ của các anh vì biết được hai người đã quyết định đi tới Mikhan này, tôi chỉ là muốn nhìn qua một chút.

Về phần những câu hỏi còn lại... các anh có muốn chuyển chỗ chứ? Dù sao thì, cũng không nên cứ đứng ở đây mãi mà phải không?" Anh ta đáp, giọng nói vẫn trầm ấm, rất thoải mái.

Mọi cử chỉ và giọng điệu của anh ấy như có ma lực, khiến cho sự đề phòng hay không thích ứng vốn có nhanh chóng bị xua tan. Hohenjun nhìn tôi, sau đó nhìn lại người tự xưng là Quan Kịch Giả, gật đầu nói: "Chuyển đến đâu?"

Estiatl không đáp, thay vào đó, anh ấy vỗ nhẹ đôi tay của mình, ngay lập tức khiến khung cảnh xung quanh chúng tôi thay đổi.

Chúng tôi đang ở một không gian trắng, không nhìn thấy giới hạn, cả ba ngồi trên những chiếc ghế bành và trước một bàn trà, đối diện nhau. Trong khi Estiatl cầm lấy ấm trà với những hoa văn thoạt nhìn đã được chế tác từ đầu thế kỷ XVIII, tôi không nhịn được và hỏi: "Chúng ta đang ở đâu?"

"Bên ngoài những trang sách."

"Ngoài những trang sách?"

"Đúng vậy, hoặc là ngoài những giấc mơ của các Ar'absus nếu các anh muốn một cách hình dung dễ hiểu hơn. 'Trang sách' là một góc nhìn trực quan dưới bản chất vĩ độ của tôi, vậy nên tôi vẫn hay có thói quen gọi như vậy. Nào, hai người uống trà chứ?"

"Cảm ơn. Vậy nơi đây nằm ngoài mọi vĩ độ của hiện thực và những giấc mơ?"

"Về cơ bản là vậy. Tôi nghĩ rằng ở đây thì chúng ta có thể trò chuyện một cách thoải mái, nếu tôi cứ tự do đi lại ở dưới kia, sẽ có rất nhiều người chú ý." Estiatl vừa nhâm nhi tách trà vừa giảng giải cho chúng tôi. "Về phần tôi là ai? Như trước đó đã nói, tôi là Quan Kịch Giả, và để các anh dễ hiểu hơn, thì tôi cũng là một Sứ Thần, giống như Icaltha, chỉ là Vị Thần của tôi có vĩ lực còn vượt xa hệ thứ của Đấng Nguyên Sơ mà Icaltha thờ phụng.

Tôi đoán là các anh có rất nhiều câu hỏi, nhưng xin lỗi, tôi chỉ có thể giải đáp cho các anh những điều nhất định. Không phải vì tôi muốn che giấu, cũng không phải nó là những cấm kỵ hay gì, chỉ đơn giản là bây giờ chưa phải lúc."

"Thế thì những điều còn lại mà tôi đã hỏi, anh có thể trả lời hết được sao?" Hohenjun tiếp lời.

"Được. Nếu các anh thắc mắc rằng tại sao tôi ở đó, thì tôi có thể nói ngắn gọn là mình đang chờ đợi một Người Ngủ Mơ khác, còn tôi xuất hiện, chính là vì ngăn cản các anh mở ra cánh cổng của Kim Tự Tháp. Đương nhiên, một phần cũng là vì tôi muốn gặp cả hai người nữa, các bạn của tôi ạ.

Các anh không thể bước vào trong đó, vì chỉ có cái chết man rợ chờ đợi phía trước, Kim Tự Tháp đó là một trong mười bảy bức màn của thời đại, cất giữ những bí mật sâu thẳm nhất của Trái Đất từ Tiền Cambri. Rồi sẽ có lúc có người đến đó và mở cổng, nhưng chưa phải là bây giờ, và cho đến khi thời điểm ấy xảy ra, không ai được phép đi vào đó.

Dù vậy, số phận xem ra đã đưa các anh đến đây, tựa như Samuel de Myrtillière cũng từng đến và số phận đã khiến anh ta nảy ra một ý tưởng điên rồ đã đưa anh ta trở thành một trong số chúng ta vào sau này. Nhưng rõ ràng là các anh không thể tìm được bất cứ điều gì khác tại đây nữa, vậy nên điều đó cũng có nghĩa là các anh đến đây để được gặp tôi. Vì lẽ đó, tôi hiện giờ sẽ hóa thân thành người giải đáp, giúp các anh giải hoặc những nghi vấn của mình. Yên tâm đi, các anh có thể hỏi, vì điều mà các anh muốn nhất tôi cũng đã có lời giải đáp, bởi suy cho cùng thì tôi cũng mang cái danh Exrekór mà phải không?—ngay cả những tiếng thì thầm cũng sợ hãi chúng tôi."

Tôi có thể cảm nhận được ba luồng cảm xúc ngay khi lời nói của Estiatl kết thúc. Sự tự tin chắc chắn của anh ấy, sự bất ngờ của tôi trước lời tuyên bố, và cả sự kích động dữ dội của Hohenjun nữa. Bạn tôi quay phắt qua nhìn tôi bằng một đôi mắt rung động mãnh liệt, tôi hiểu những điều mà anh muốn truyền tải. Con đường đen tối ngỡ như đã không có lối ra giờ lại lóe lên những tia sáng chói lòa phía trước, và anh ấy chờ đợi câu trả lời của tôi, bởi anh đã hứa sẽ cùng tôi mở ra một hành trình mới để bỏ lại mọi thứ phía sau. Một lần nữa, anh ấy lại đưa quyền quyết định cho tôi—đó là Hohenjun mà tôi biết, người bạn thân nhất của tôi.

Mặc dù tôi đã nói biết bao nhiêu lần rằng ý muốn của anh cũng chính là mong muốn của Ahravain Christoph này...

Sau khi nhận được cái gật đầu đồng thuận của tôi, gần như ngay lập tức, bạn tôi đã nêu ra những nghi vấn mà anh ấy đã ngày đêm chờ đợi để được giải thoát khỏi sự giày vò của chúng:

"Vậy xin anh hãy cho tôi biết, liệu có còn cách nào khác để thoát khỏi án tử của một Hogog ngoài việc trở thành Sứ Thần hoặc Thần Tộc, hay làm sao để chúng tôi có thể trở thành một phần tử trong số đó? Và liệu có cách nào, để thoát khỏi những giấc mơ đáng nguyền rủa đó hay không? Chúng tôi được chọn để nhìn thấy, nhưng rốt cuộc thì còn có ý nghĩa nào to lớn hơn đối với chúng tôi nữa?—Vì dù là những người được chọn, nhưng không một ai trong số chúng tôi thực sự muốn được biết về những góc khuất của thế giới này! Làm ơn, nếu anh biết mọi điều, vậy thì hãy giúp chúng tôi trả lời tất cả chúng đi!"

Với mỗi một câu nói thốt ra như thế, Hohenjun lại càng kích động hơn, như thể bộc phát, phá nát xiềng xích, và cho đến cuối cùng thì anh ấy đã đứng dậy khỏi chiếc ghế bành, đưa người hướng về vị Quan Kịch Giả kia.

Đáp lại cho điều đó, Estiatl uống hết phần nước trà còn lại trong tách, đặt nhẹ nó xuống và thản nhiên trả lời: "Được thôi. Nếu anh muốn, tôi sẽ cho anh tất cả câu trả lời..."

.


Lần đầu tiên chìm xuống biển đen tăm tối, lần đầu tiên thét gào với những nỗi niềm cảm xúc mà không một người thường nào có thể hiểu nổi, lần đầu tiên chết đi và chết đi vô số lần trong một đêm ấy. Tôi và Hohenjun, chúng tôi thấy rõ những phản ứng hãi hùng của nhau, những cử chỉ điên loạn của nhau trước và sau khi tỉnh giấc, như thể những ký ức vốn đã bị cưỡng ép xua tan đi từ lâu giờ lại hiện lên, rõ mồn một trước mắt và đưa chúng tôi về lại những năm tháng đáng sợ ấy. Dù biết rằng sẽ không quên đi, cũng không thể quen thuộc được, nhưng cảm nhận được sự ác cảm ấy chiếm trọn bản thân dù đang mở mắt như thế này... nó khiến tôi thật khó chịu. Và càng nhiều hơn là hãi sợ và tuyệt vọng, thôi thúc trong tôi một ý nghĩ rằng 'ban ngày cũng chẳng thể cứu rỗi được chúng tôi'.

Nhưng trong sự hồi tưởng liên tục giữa tràng ọc ạch kinh tởm của những tiếng nói giống như 'vô số tôi đã chết' kêu than đầy man rợ ấy, tiếng của Estiatl vang lên đầy trầm thấp đã kéo tôi trở lại với sự tỉnh táo của mình:

"Cách duy nhất để có thể thoát khỏi án tử của một Hogog chính là đưa mình thoát khỏi thân phận đó một lần và vĩnh viễn, cho nên vấn đề ở đây không phải là 'Trở thành cái gì?', Andervista ạ—mà câu hỏi nên là 'Làm thế nào để rũ bỏ cái danh mà các anh đang mang?'.

Tôi đã cho các anh nhìn thấy khoảnh khắc đầu tiên mà các anh phạm thượng, một cái nhìn thôi là tội lỗi đã được xác lập, và cái chết cũng được ấn định ngay lập tức. Dù cho có bằng một cách thần kỳ nào đó mà các anh không nhìn, nghe hay chạm được trong mơ vào đêm đầu tiên, thì chúng vẫn sẽ tiếp tục đeo bám các anh trong suốt phần đời còn lại, và cùng một kỳ tích thì sẽ không lặp lại nhiều lần.

Những Kẻ Mộng Mơ Thực Tại chính là đặc biệt ở điểm ấy, ngay cả một liều Ankintozin trong giới Thần Bí được mệnh danh là 'thuốc đánh cắp giấc mơ' cũng sẽ không giúp các anh tỉnh táo quá mười bảy ngày được. Nhưng cũng chính vì điểm đặc biệt này, mà trước mắt các anh mới mở ra con đường để thích nghi—Sứ Thần, Thần Tộc, và thêm một chủng nữa là Hiện Thần. Không một ai thoát khỏi án tử từ Hồi Chuông trừ những nhóm kể trên, và trong khi Thần Tộc đòi hỏi 'sự khác biệt của chủng loài sẵn có'—chỉ cầu được mà không thể lấy được, thì chỉ những người như chúng ta mới có thể trở thành Sứ Thần."

"—Ra là vậy, chẳng trách tôi và Chris đều có cảm nhận rằng Icaltha là một Người Ngủ Mơ chỉ thông qua trực giác thuần túy. Nói như vậy thì... chúng ta được chọn, không chỉ là để nhìn thấy bản chất thật của thế giới, mà còn được phép tiếp cận những Cấm Kỵ!?"

"Chính xác. Đúng như anh đã nói trước đây, đó quả thực là 'một phương thức để tự vệ'. Nhưng điều đó không có nghĩa là con đường mà các anh đi sẽ rộng mở, chúng ta đều hiểu việc tiếp cận một Vị Thần là nguy hiểm như thế nào rồi đấy. Dù cho Raaval có bảo vệ chúng ta nhiều đến đâu, mối nguy hại là luôn không thể phòng tránh hoàn toàn. Hơn nữa, tuy nói là chỉ Người Ngủ Mơ mới có thể trở thành một Sứ Thần, nhưng Sứ Thần vốn là định mệnh đã được quy định ở một cấp độ số phận còn cao hơn cả những phân tầng của Giấc Mơ, và nếu các anh đã không cảm nhận được nó từ trước, thì các anh cũng sẽ không bao giờ trở thành một trong số họ được. Vậy nên khi nói đến 'tiếp xúc' để tự vệ, nó thiên hướng về việc các anh sẽ có thể sở hữu nhiều sức mạnh hơn và một thế giới quan phù hợp với bản chất của Chân Lý hơn... cho đến một mức độ nào đó, các anh sẽ trở thành những Hiện Thần."

—"Xin lỗi vì đã ngắt lời... nhưng chúng tôi chưa bao giờ nghe về nhóm này." Tôi nói.

"Hiển nhiên thôi, vì chẳng mấy ai biết được. Hiện Thần về cơ bản là nhóm những tồn tại được sinh ra tự nhiên như một phụ phẩm từ Dịch Khởi Nguyên—cái thứ chất lỏng đặc sệt luôn bám đầy thân các Vị Thần ấy, hoặc là nhóm những Người Ngủ Mơ tiếp cận được với các Vị Thần và bị nhiễm một phần Dịch của họ nhưng vẫn không mất đi ý chí. Giới Thần Bí luôn ca tụng các Thủy Tổ như là Đấng Sáng Thế của Trái Đất đúng không? Chính họ là nhóm thứ nhất trong hai loại trên. Còn về phần loại còn lại... thực sự vô cùng hiếm.

Đây cũng chính là lý do tại sao tôi lại nói câu hỏi nên là 'Làm thế nào để rũ bỏ cái danh mà các anh đang mang?' đấy. Rũ bỏ được, thì phải trở thành một trong ba loại trên, nhưng Thần Tộc hay Sứ Thần thì các anh chắc chắn là không có khả năng rồi, còn Hiện Thần nhóm thứ hai cũng là một khe hẹp gần như vô vọng. Để làm được, các anh cần tìm một Vị Thần vừa sức—ý tôi là yếu nhất có thể ấy, sau đó còn phải để Quan Điểm Thuần Túy của bản thân các anh chui vào trong cơ thể của Thần, điều chỉnh nó sao cho tìm kiếm được sự đồng bộ giữa đôi bên.

Như hai người đã biết, Absus là Nguyên Lý Mầm Toàn Tại—tức là Toàn Tại đã phái sinh và diễn sinh vô cùng tận từ họ, nhưng bọn họ thường chỉ đưa biểu hiện của mình hướng tới một hoặc một vài các Quan Điểm Thuần Túy Nhất để có thể ngưng tụ thành Hóa Thân Chân Thể. Đó có thể là 'Cái chết', 'Vực thẳm', 'Lửa', hoặc 'Thời-Không'... nhiệm vụ của các anh là phải tạo hình lại bản thân theo những thứ ấy, và chỉ một sai sót thôi là các anh sẽ bị đồng hóa hoàn toàn. Đến lúc đó, ngay cả Raaval cũng không cứu được hai người."

Sau màn tự thuật của Estiatl, bầu không khí lắng xuống, cả tôi và Hohenjun đều đang cố tiêu hóa hết những gì mà anh ấy nói.

Chúng tôi đã có câu trả lời, và điều này hoàn toàn hợp lý khi không một di tích cổ đại nào trên thế giới có thể giúp chúng tôi trong suốt mười năm qua. Đơn giản là vì chỉ có chúng tôi mới có thể tiếp nhận những câu trả lời đó, và những người giống như chúng tôi hầu như không để lại một vết tích nào trong lịch sử liên quan đến thân phận của mình. Hiện Thần—đó là con đường duy nhất hiện tại... nhưng thành thật mà nói, tôi nghĩ rằng sự nguy hiểm trên con đường này còn khó khăn hơn nhiều những gì mà Estiatl đã kể—có lẽ anh ấy không muốn chúng tôi hoàn toàn tuyệt vọng hay bế tắc.

Hai chữ 'tiếp xúc' ấy mang trọng lượng quá lớn, phải biết là chúng tôi đã phải chật vật lắm mới có thể thoát khỏi nanh vuốt của Hydrafon hay Dak'Maat trước đây, chỉ đi đến gần những sinh vật như thế thôi đã đủ khiến chúng tôi nghẹt thở, một cái nhìn cũng đã khiến chúng tôi gần như phát điên. Vậy mà giờ đây còn phải chạm vào những Đấng quyền năng kia ư? Tôi không nghĩ là có ai đủ khả năng để làm vậy mà vẫn giữ được ý chí của mình, ít nhất thì tôi không thể được.

Tôi nhìn sang Hohenjun, anh ấy vẫn trầm tư, rõ ràng là đang cân nhắc cho quyết định cuối cùng, xem xem liệu có phương thuốc nào hay bí thuật nào có thể khiến cho quá trình ấy đơn giản hơn hay không. Tôi thì không có đắn đo về điều này, bởi tôi đặt toàn bộ niềm tin của mình lên anh ấy—bạn tôi có lựa chọn như thế nào, thì đó cũng là đáp án của tôi.

Estiatl vẫn đang chờ đợi, với sự tập trung hướng tới những khung cảnh xung quanh đang liên tục chiếu lại những cuộc hành trình của chúng tôi như một cuộn phim. Tôi không đoán được suy nghĩ của anh ấy, hay bất kỳ một tâm tình nào ngoài sự nghiền ngẫm gần như hoài niệm vẫn luôn được hiện rõ qua nụ cười mỉm ấy.

Sau một lát, dường như Hohenjun vẫn chưa có câu trả lời chắc chắn, có thể anh ấy cần thêm thời gian. Nhưng không phải hiện tại, vì vậy, anh ấy tiếp tục cuộc trò chuyện:

"Còn câu hỏi thứ hai của tôi thì sao? Những giấc mơ... có cách nào để thoát khỏi chúng không?"

Đáp lại Hohenjun là một cái lắc đầu. Estiatl nói:

"Anh lại không hỏi đúng câu cần hỏi rồi. Điều mà anh muốn thoát khỏi chưa từng là những giấc mơ. Anh không muốn chết vì chúng, nhưng anh vẫn muốn trầm luân trong đó, có đúng chứ—Andervista Hohenjun? Đừng vội từ chối, anh biết là tôi có thể nhìn thấy chúng trong mắt anh mà. Anh là kiểu người khác với anh bạn Ahravain đây, anh khao khát nhiều hơn, muốn được thấy và nhìn nhiều hơn, muốn chạm tới thật nhiều hơn nữa. Đó là lý do trong anh không chỉ có những cảm xúc tiêu cực giống với Ahravain, anh bình tĩnh mà không suy nghĩ tới những tiếng nói khi nhìn lại hồi ức, đó là vì trong thâm tâm của anh vẫn rục rịch của một ngọn lửa—một ngọn lửa mang tên 'ham muốn'.

Nhưng tiếc thay, dù bất kể bản ngã của anh có lớn đến đâu, sự sợ hãi vẫn luôn là thứ có thể dễ dàng đạp tan đi tất thảy. Nỗi sợ không xua tan được, không lắng dịu được, anh hiểu rõ điều đó hơn bất kỳ ai hết, ngay cả Sứ Thần cũng không được—bởi trong cuốn Amantura, chẳng phải Icaltha vẫn viết rất rõ về chúng hay sao? Biển sâu vô tận, vậy nên dù có là Sứ Thần thì cũng sẽ đến lúc anh nhìn thấy những thứ nằm ngoài khả năng của Vị Thần mà mình phụng sự, đấy là chưa kể trở thành Sứ Thần rồi thì tốc độ chìm của anh sẽ càng lớn hơn nữa. Do đó, anh mới muốn bỏ đi hoàn toàn những giấc mộng.

Có điều, nếu số phận vĩ đại đã lựa chọn để anh trở thành một Người Ngủ Mơ thì dù có làm cách nào anh cũng không trốn thoát khỏi chúng, hiển nhiên cũng trốn không được những nỗi sợ—ta chỉ có thể đánh lạc hướng chúng trong một khoảng nhất định mà thôi—" Nói đến đây, Estiatl bỗng dừng lại.

Có một làn sóng nào đó như tràn vào không gian, khiến những khung hình chiếu lại bị vặn vẹo rồi tan biến, đưa chúng tôi trở lại với khoảng trắng ban đầu.

"Có chuyện gì vậy?" Tôi và Hohenjun đồng thanh.

"Chà, xem ra thời điểm ấy đến rồi." Estiatl cười một cách miễn cưỡng, đáp lại bằng một câu giống như đang tự nói với chính mình, rồi anh ấy nhìn tới chúng tôi, "Xin lỗi nhé, tôi biết là hai người vẫn còn nhiều thắc mắc, nhưng e là buổi trò chuyện của chúng ta phải dừng lại tại đây thôi.

Trước khi đi, tôi có lời khuyên cho các anh đây:

Trong khoảng thời gian tiếp tới, hãy đừng đi đâu cả, và cũng đừng làm điều gì manh động. Và, nếu như cái chết là điều không thể tránh khỏi, còn mọi vết tích tồn tại đều bị phủ định hoàn toàn—thế thì các anh tốt nhất là cố gắng làm những điều mà bản thân các anh cho là có ý nghĩa.

Tôi không khuyên hai người dừng lại cuộc truy đuổi với những mộng tưởng, bởi điều gì nên diễn ra thì ắt sẽ phải như thế. Ý tôi muốn nói chính là hãy để cho mình một thứ gì đó, như ghi chép lại những tinh túy trong bộ não của các anh chẳng hạn. Đến khi ấy, nếu như điều không may nhất định phải xảy ra, nếu như các anh không thể trốn thoát được; ít nhất tôi có thể cam đoan rằng di sản của hai người vẫn sẽ được tiếp diễn. Tôi đảm bảo về điều ấy, các bạn của tôi..."

—Trước khi có thể nhận thức được chuyện gì đang diễn ra, tôi và Hohenjun đã về lại với thành phố cổ Mikhan, ngay tại chỗ cũ, còn Estiatl đã biến đâu mất.

Chúng tôi dựng lều trại tại thành phố và quyết định sẽ ở lại đó một vài hôm đúng như lời khuyên của Estiatl. Cả tôi lẫn Hohenjun đều không nói gì nhiều đến sự cố xảy ra ở cuối buổi trò chuyện vì nó hẳn là một điều nằm ngoài sự kiểm soát của chúng tôi.

Những ngày sau đó, cả hai hầu như chìm đắm trong những suy nghĩ của mình, và đương nhiên là không thử đi dò xét Kim Tự Tháp Đá Phấn Trắng trước mặt hay cố gắng làm điều gì quá khích trong giấc mơ vì anh bạn bí ẩn của chúng tôi đã cảnh báo trước. Và thực tế là dù có muốn làm gì thì chúng tôi cũng không có cơ hội để những ý nghĩ đó rục rịch được, khi mà những cơn ác mộng kinh hoàng trong khung cảnh bị chiếm trọn bởi các Vị Thần bất tường bỗng dưng bị thay thế bởi Đại Hải Những Vì Sao—chúng tôi trôi trên mặt nước suốt nhiều đêm, nhưng mặt nước cũng không hề tĩnh lặng như trước. Nó sôi sùng sục, dậy sóng lớn, với những xoáy nước khổng lồ liên tục xuất hiện và cuốn lấy chúng tôi như những hố đen vô tận, nhấn chìm chúng tôi vào những mảnh thế giới tang hoang mà không rõ lý do.

Cùng lúc đó ở thực tại, Tôi và Hohenjun cũng đã nhanh chóng cảm nhận được sự bất thường có lẽ là liên quan tới sự cố kia. Mật độ Thần Bí trong không khí bỗng tăng vọt bất thường, những dòng chảy vốn chỉ có thể cảm nhận được lờ mờ mỗi khi thi triển các loại thuật thức hay điều chế những liều ma dược giờ đây tràn ngập khắp nơi. Thế giới bên ngoài hẳn phải loạn lắm, bởi với một mật độ tăng chóng mặt như này, những Học Giả thông thường có thể dễ dàng đột quỵ ngay tức khắc, còn những người khổng lồ trong giới—sức mạnh của họ sẽ tăng vọt hàng chục lần. Họ sẽ chạm tới mức độ sức mạnh mà những Học Giả hàng triệu năm trước đã từng có được. Và ai mà biết họ sẽ nghĩ như thế nào hay làm gì khi cơ thể trong nháy mắt sở hữu lượng ma tố dồi dào năng lượng như thế?

Chắc chắn là Hiệp Hội sẽ giải quyết mọi tai họa trước khi mọi chuyện vượt quá tầm kiểm soát. Nhưng tôi không chắc là họ có thể duy trì sự bình yên được bao lâu. Dù gì đi nữa, suy đoán trước đó của tôi và Hohenjun là hoàn toàn chính xác khi nói rằng sự cố kia nằm ngoài khả năng của chúng tôi.

Trong sự chờ đợi dài đằng đẵng, Hohenjun thường đi đến trên những tường thành đổ nát của Mikhan vào đêm tối để ngắm nhìn bầu trời sao. Buổi ngày, anh lại loanh quanh bên những cuốn sách mà chúng tôi đã sưu tập được suốt chặng đường dài. Có một vài cuốn tà thư khác bên cạnh Amantura bie'Ithgwr, nhưng bạn tôi chủ yếu chú tâm vào cái sau nhiều hơn. Anh ấy đọc một lượt những mô tả về các Vị Thần trong số hơn một triệu rưỡi số trang sách mà anh ấy có thể nhìn được—gấp mười một lần so với con số của lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Của tôi chỉ được hai phần ba so với anh.

Một số hôm, Hohenjun cũng có chú tâm đến cuốn Nahest'opticus ghi lại mô tả của hơn bốn mươi nghìn loại ma dược trên thế giới. Rõ ràng ý đồ của anh ấy là muốn tìm ra một liều có thể giúp anh ấy giữ được tỉnh táo tối đa ngay cả khi trong giấc ngủ, hoặc thứ có thể tước đoạt toàn bộ cảm xúc, hay là giúp anh nhào nặn lại các Quan Điểm bên trong nguồn gốc của bản thân. Nhưng không thứ gì thực sự hiệu quả cả, tôi có giúp anh ấy thực hiện một vài thí nghiệm dung nạp và khuếch đại đặc tính thuốc, nhưng kết quả vẫn y như vậy—Người Ngủ Mơ là những người đặc biệt, và sự đặc biệt ấy đã ngăn chặn mọi khả năng của chúng tôi. Có thể các phương pháp phức tạp hơn sẽ đem tới một bất ngờ nào đó, nhưng tiếc thay ở chốn hoang vu này, chúng tôi không có nhiều nguyên liệu để thử nghiệm.

Tôi có thể cảm nhận được sự sốt ruột của Hohenjun ngày một tăng dần, nó tăng nhanh cũng như thể sự khuếch trương mạnh mẽ của nồng độ thần bí vậy. Điều đó khiến tôi lo lắng không biết liệu anh có thực sự ổn.

Nhưng rồi sự thay đổi đã diễn ra sau một đêm nọ khi chúng tôi đang ngủ.

Tôi không rõ điều gì đã khiến những luồng Thần Bí đông đặc như hóa thực chất ấy biến mất bởi lẽ chúng tôi ngủ say như chết—và thực sự chết đi sống lại trong một vòng lặp bất tận của những điều đáng ghê tởm, nhưng chỉ sau vài tiếng đồng hồ ác mộng, chúng đã khôi phục lại với một mật độ như nhiều ngày trước đó, như đã từng ổn định suốt hàng triệu năm qua.

Sau sự ngỡ ngàng trước thay đổi đột ngột, điều đầu tiên mà Hohenjun nói với tôi là anh ấy đã không thể chịu được nữa, và rằng anh muốn thử dùng phương pháp mà Quan Kịch Giả đã nói trước đây—trở thành một Hiện Thần.

Tôi có hỏi anh liệu anh ấy có thực sự chắc không, nhưng Hohenjun nói anh tiếp tục chờ đời sẽ không giúp thêm được gì. Anh ấy đã thử mô phỏng những liệu pháp dung nạp ma dược trong tâm trí nhưng cũng chẳng có thứ gì thực sự hiệu quả, vậy nên đường đi phía trước là hành trình mà anh ấy phải tự đi. Mà đã có phương pháp ngay trước mắt, anh ấy lại không tài nào có thể nhắm mắt bỏ qua được—đó không phải là tính cách của anh. Vậy nên, anh chỉ có thể xin lỗi tôi và quyết rằng sẽ thử tiếp cận với một Vị Thần ngay trong đêm tới. Tôi chỉ còn cách miễn cưỡng đồng ý với anh.

Khi hoàng hôn buông xuống, chúng tôi đã chuẩn bị xong những thứ cần thiết. Mặc dù trước đó tôi đã nói rằng ma dược không thực sự giúp ích được gì, nhưng có còn hơn không, và không có thứ gì là vô dụng nếu ta biết phương pháp để dùng nó. Vậy nên chúng tôi đã cố gắng điều chế ra những loại bảo hộ tinh thần và tăng cường sự tỉnh táo trong mơ, nhiều nhất có thể.

Bởi không có Dịch Lỏng Imvla trợ giúp, vậy nên kế hoạch của Hohenjun là để tôi canh gác bên ngoài, dùng một liều Ankh của những người Ai Cập Cổ cùng một vài bí thuật tinh thần phức tạp để mượn góc nhìn thứ ba và quan sát anh ấy trong sự say giấc. Tôi sẽ giúp anh ấy uống thêm thuốc khi cần, dùng giọng nói của mình để nhắc nhở anh ấy không lạc lối và cưỡng chế đánh thức anh thức dậy khi có bất trắc xảy ra. Dù tôi rất muốn kháng cự lại kế hoạch mạo hiểm này, nhưng tôi cũng ý thức được mình không có cách nào để trực tiếp tham gia vào cuộc hành trình tiếp tới của bạn tôi. Con đường phía trước... tôi chỉ là một cái bóng, còn anh ấy là người tự mình bước đi.

Tôi chờ đợi, với Hohenjun chìm vào giấc ngủ...

—Tối đen, trầm trọng và cực kỳ ngột ngạt. Dù chỉ liếc nhìn khung cảnh ấy một cách gián tiếp, nhưng những ấn tượng mà nó đã để lại cho tôi vẫn hưởng ứng mạnh mẽ với hình ảnh hiện lên trước mắt tôi, và ngay lập tức đưa tôi vào những guồng quay điên loạn của biển sâu—hệt như thể chính tôi mới là người bị nó ám lấy. Không có lối thoát... đó là tất cả những gì tôi đang nghĩ, có thể nghĩ, và được mọi ý nghĩ nhắc nhở. Nhưng rốt cuộc nó đang nói về điều gì, hay đang báo hiểu cho điều gì, tôi không biết.

Tâm trí tôi đang cực kỳ rối bời, và ý niệm duy nhất vẫn còn thông suốt đối với tôi chính là có một điều gì đó không ổn, cực kỳ không ổn đang diễn ra. Thế mà tôi không tự chủ được, cũng không thể cố gắng đánh thức Hohenjun tỉnh lại!

Anh ấy có cảm nhận được điều mà tôi đang cảm nhận? Có nghĩ về điều mà tôi đang nghĩ? Có đấy, chắc chắn là như thế! Nhưng anh ấy vẫn tiếp tục mạo hiểm, bởi nếu không phải bây giờ thì không thể là bất cứ lúc nào khác nữa. Tôi đã hiểu vì sao anh ấy lại nhất quyết muốn thực hiện nó ngayđó chính là số mệnh đã bảo Hohenjun.

Nếu từ bỏ... phải, nếu bỏ lỡ cơ hội này thì có lẽ anh ấy sẽ chết trước khi có thể lần nữa tìm được một cơ hội mới, hoặc anh ấy sẽ đánh mất hoàn toàn cái dũng khí mà anh đang có. Cho nên, anh ấy bắt buộc phải nắm bắt từng giây trôi qua.

Tôi thấy được khuôn mặt của Hohenjun càng trở nên cau có hơn mỗi khi chìm xuống sâu, và cơ thể anh đang không ngừng run rẩy. Đó không phải là một phản ứng thường thấy đối với chúng tôi—chết tiệt. Chuyện quái gì đang xảy ra? Tại sao lại là lúc này, ngay thời điểm này chứ?

Anh ấy đã đến gần với ranh giới, và khi cái màu xanh xanh rợn ngợp lan ra từ đáy, để những dị dạng khiếp đản hiện hình, Hohenjun sẽ gắng sức lặn tới một Vị Thần gần với anh ấy nhất, ở phía trước nhất so với tất cả. Nếu độ sâu phản ánh sự khác biệt giữa vĩ độ của những Vị Thần, thì lựa chọn đó sẽ giúp anh ấy tiếp cận với kẻ yếu nhất trong số họ, giúp tăng cường một chút hi vọng nhỏ nhoi cho sự thành công gần như không tưởng. Anh ấy có thể thử nghiệm hợp nhất, có thể được cơ may để trở thành một Hiện Thần, có thể trốn tránh cái chếtnhưng bây giờ, tôi thắc mắc liệu nó có còn là một phương án khả thi khi mà có đủ loại dấu hiệu bất thường ngay trước mắt.

Tuy nhiên, chúng tôi không có thời gian để suy nghĩ, những tiếng trống đánh sóng vang trầm trọng mang theo những thanh âm quái dị cùng màn sáng xanh đã đến!

Chúng tôi ngưng thần và nín thở chờ đợi, không gì ngoài sự dè chừng và tập trung tột độ. Những hình bóng bắt đầu hiện hiển một cách mờ ảo, tôi nhanh chóng tiêm thêm bốn liều thuốc cho Hohenjun và dùng tiếng nói của mình để giữ vững tâm trí của anh ấy, cho anh biết rằng tôi vẫn đang ở đó, ngay bên cạnh anh... Nhưng cái quái gì!?

Đó là thứ gì? Chỉ ba Vị Thần thô

Ý thức của tôi đã tắc nghẽn hoàn toàn ngay thời khắc ấy, chỉ một ánh mắt, dù gián tiếp hay gián tiếp hơn nữa, và không còn một suy nghĩ nào có thể tiếp diễn.

Mọi chuẩn bị là vô nghĩa. Tôi không tài nào hiểu nổi, tâm trí tôi như thể bị bắn nổ tức thì. Đứng máy, chôn chân, tuyệt vọng, hãi sợ trước cái chết, kinh sợ trước sự nhỏ bé của bản thân với sự vĩ ngạn vô cùng của ■■■...

'Yahwkabath ie'quaria o Zanurath'o'Kamuranth o Shur'san'gal o'ErnlgwthÔi, Đấng Nguyên Sơ, Chúa Trung Chuyển, Phần Kết... a'rukanth'

Dường như mọi thời điểm đã ở đó, từ trước những vụ bành trướng lớn, trước sự khai sinh của những thiết kế vĩ đại tạo ra vũ trụ, trước khởi nguyên, trước gốc là những tầng Ký Lục và trước cả giấc mộng là bản chất thực hơn vô cùng. Mọi sự đều từ đó mà sinh, từ đó mà tiếp nhận diễn biến, hoá thành những câu chuyện, những mộng ảo nhỏ bé và mơ hồ chắp nối lại với nhau. Đó là Nguyên Sơ!

Và dường như toàn bộ mọi thứ đã ở đó, mọi cung bậc của không gian, thời gian, và mọi vĩ độ của những cấu trúc siêu chiều, ngoại chiều vượt ngoài toán học. Mọi kết cấu thực và ảo vượt ngoài triết học và tư duy trừu tượng, những hiện thực xoắn ốc, tách biệt và chạy lên cao tới vô tận; những giấc mộng lồng vào mọi hiện thực, và những giấc mộng lớn hơn bao trùm lấy những giấc mộng bé, tóm lấy cả những vực hư vô trống rỗng. Rồi tất cả hoá thành một nấc thang, bị chèn ép dưới vô vàn những nấc thang khác, trong một Sảnh rộng lớn bị đùn đẩy dưới vô vàn những Sảnh vĩ ngạn khác, và Hệ Thứ của Sảnh trong một Đại Sảnh liên tục bị lồng vào những Đại Sảnh lớn hơn và đẩy dưới những Đại Sảnh lớn hơn nữa, toàn vẹn và bao trùm hơn nữa. Đó là một góc của Toàn Tại! Là một góc của Trung Chuyển!

Nhưng. Chỉ có cái chết vẫn tiếp tục đứng đó, chỉ có hồi kết đang chờ đợi, tiếp theo sự luân chuyển là kết thúc, ngay khoảnh khắc ấy, a'rukanth, dồn dập tiếp cận chúng tôi. Đó là ba vị Chúa Tể, đó là ba Nguyên Gốc, Ar'absus, đó chính là sự bất thường, đó lànhưng rồi, trước khi vụ nổ thông tin hoàn tất chuyển tiếp cho bộ não sớm đã vụn nát thành từng mảnh của tôi những bí mật kinh hoàng và làm nó phân rã triệt để... đã có một cánh bướm đen bay qua... trước mắt tôi—những gì còn lại của tôi khí ấy, nó chầm chậm vỗ đôi cánh lấp lánh như hắc diện thạchvà tôi đột ngột lấy lại được nhận thức của bản thân. Cơ thể bị chắp nối lại hoàn chỉnh, linh hồn được hàn gắn, và mọi phán đoán cấm kỵ đều được niêm phong lại trước khi tôi có thể kịp để gợi nhớ.

Tôi không suy nghĩ gì thêm, bởi bản năng nguyên thủy đã giúp tôi đưa ra những phán đoán ngay lập tức. Chỉ ba giây là tôi đã lấy ra con dao đã được chuẩn bị sẵn và quẹt một đường dài trên lòng bàn tay, máu tươi bắn tung toé.

Cùng với những tiếng 'Enuu' và 'Zagal' vang lên đầy khó nhọc, máu từ tay tôi nhỏ dãi khắp khuôn mặt đã tái mét của Hohenjun, nhanh chóng cắt đứt giấc mộng của anh ấy, bẻ gãy nhận thức của anh và lôi anh ấy về với thực tại thông qua liên kết của chúng tôi.

Trong phút chốc, tôi cảm nhận được nỗi quằn quại khó tin mà anh ấy đang phải vượt qua. Mọi tích tắc đều trải dài như một khoảnh khắc vô tận cắn xé lấy tiềm thức của tôi, phủ lên lý trí của tôi một màu đen kịt và như những dãy núi đá cao vút, trơn nhẵn với những mũi nhọn lởm chởm bị dốc ngược, đè lên, ném thẳng, đâm xuyên qua lồng ngực tôi.

Hàng ngàn vạn oán linh đang gào thét bên tai, và hàng ngàn vạn những cái chết hiện về ngay trong mắt tôi, vồ lấy tôi như cái chết. Nhưng cánh bướm đen lại lần nữa cứu tôi thoát khỏi tử vong gần kề. Nó cũng giúp Hohenjun. Ác cảm không biến mất đi, nhưng nó đã được làm dịu lại trong một phạm vi vừa đủ để chúng tôi vẫn còn có thể sống sót khó nhọc.

Và khi nhận thấy hơi ấm trở về với cơ thể của Hohenjun, tôi mới lấy lại được sự bình tĩnh của bản thân. Nhưng tôi biết anh ấy vẫn không ổn hơn chút nào, Hohenjun đã nhìn thấy rõ hơn tôi, ngay sát gần với những thứ ấy. Anh ấy đang rên rỉ, khào khào những tiếng điên dại 'O'SHUR AL-SI'VOL'IR-IN... TRONG VÒNG TAY... KHOẢNG KHÔNG... SHUR'SAN'GAL O'ERNLWGTH'.

Anh ấy nhìn rõ hơn, và có lẽ đã thực sự mặt đối mặt với Đấng của Phần Kết. Tôi không biết nhiều về Vị Thần ấy, nhưng chỉ một cụm 'Hồi Kết của Toàn Tại' là đã đủ để miêu tả sự đáng sợ của Thánh Mẫu, và chỉ với lời cảnh báo của Icaltha trong lời mở của cuốn Amantura là đã đủ khuếch đại sự đáng sợ đó thêm hàng ngàn vạn lần. Lời nguyền đã ám lên Hohenjun, và có lẽ là cả tôi nữa, chúng tôi không còn cơ hội để thoát chết, và sự tử vong của chúng tôi sẽ là hình phạt đáng sợ nhất trong tất cả. Chết tiệt, tại sao mọi thứ lại như thế này?

Rõ ràng là kế hoạch của chúng tôi đã thất bại trước khi nó có thể thực sự bắt đầu. Những biến động gần đây, có lẽ đó chính là nguyên nhân, sự xáo trộn trong mật độ Thần Bí và những cơn lốc xoáy trong mơ bắt nguồn từ sự sai lệch vị trí của các Vị Thần. Đáng lẽ chúng tôi không có khả năng chạm trán những Nguyên Gốc Toàn Tại dù với bất kể độ sâu nào mà chúng tôi có thể đi tới hiện tại; nhưng điều đó đã xảy ra, và chỉ có ba Vị Thần ấy. Và sự lắng xuống của những biến độngcó Chúa mới biết tại sao lại như thế! Chúng tôi đã buộc phải đi vào vũng lầy không lối thoát dưới thứ số mệnh chó chết, đây chính là định mệnh...

Ôi, Hohenjun tội nghiệp, tôi mong là anh ấy không sao. Con đường phía trước... không còn con đường nào nữa, nhưng chỉ cần anh ấy vẫn sống... anh ấy sẽ sống, nhưng liệu đó có còn là Andervista Hohenjun hay không?

.

Năm 1989 đã khép lại với dấu mốc là điểm kết cho chuyến hành trình nghiệt ngã của chúng tôi, giới thần bí có nhiều biến động vào năm ấy, nhưng tôi chẳng buồn quan tâm nữa. Hohenjun đã đánh mất bản thân sau sự việc lần đó, anh ấy trở nên bất thường, điên loạn, gần như là một kẻ tâm thần không còn nhận thức được mọi thứ xung quanh.

Run rẩy, lẩm bẩm, đờ đẫn, với những màn tự ngược khó có thể nhìn nổi.

Anh ấy quên đi tôi, và bị ám ảnh sâu sắc bởi những tiếng chuông, hãi sợ rằng đó là dấu hiệu cho hồi kết đang kề ngay cạnh cổ.

Thi thoảng... anh ấy có thể nhớ lại, nhưng những ký ức đã không còn toàn vẹn.

Thật nghiệt ngã khi phải mô tả anh bằng những từ ngữ này. Tôi đã ngờ tới những trường hợp xấu sẽ xảy ra khi anh ấy chứng kiến những Cấm Kỵ vượt khỏi khuôn khổ, nhưng cũng không thể ngờ rằng nó sẽ gây ra những chuỗi di chứng khiếp khủng như thế. Tôi biết không một ai hay một thứ gì, không một phép thuật, tà thuật hay bí thuật nào có thể cứu giúp được Hohenjun nữa. Và phải chăng có kỳ tích như thế, thì đó cũng phải là một ai đó giống như Estiatl mới có thể giúp chúng tôinhưng anh ấy không xuất hiện, và không một ai có thể giống như Estiatl.

Đó là lời nguyền đến từ Thánh Mẫu của Cái Chết, và nó cũng lây nhiễm cho tôi theo nhiều cách. Tôi đã trở nên hoàn toàn bất lực, không còn ý chí, không còn những mơ tưởng. Không có một nụ cười nào từ ngày ấy trở đi.

Tôi đưa Hohenjun trở về với mái nhà cũ ở Endvich, từ biệt giao lưu, sống một cuộc đời tạm bợ ngày qua ngày, năm qua năm. Cho đến khi cái tên Andervista Hohenjun cùng Ahravain Christoph dần bị lãng quên theo thời gian.

Buồn thay, đó là hiện thực, là hiện thực đã dập nát những hy vọng, trao lại những hy vọng giả tạo để rồi lần nữa giẫm bẹp nó một cách đau đớn hơn, đưa tới những tuyệt vọng lớn hơn, tăm tối hơn.

Sau ngày hôm ấy, tôi đã không còn dũng khí để bước chân vào những miền đất mới nữa. Tôi may mắn hơn Hohenjun rất nhiều... nhưng cuối cùng, về cách mà tôi sống, sự giao tiếp của tôi, công việc của tôi—những bế tắc đó, xem ra cũng chẳng khác anh là bao...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro