Chương VI

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Những cơn sốt và mê sảng. Tôi không biết rốt cuộc là cái nào trong số chúng đã đến trước. Hay là cả hai ập đến cùng một lúc? Những hồi ức tiêu cực đã đưa tới tôi một 'cú rơi nhận thức' hay là nó chỉ đơn giản là bản thân tôi đã kiệt lực khi phải suy nghĩ quá nhiều?

Tôi đã không có một ý thức rõ ràng nào về thời gian khi ấy, tôi không biết mình đã rời khỏi những hồi tưởng khi nào hay đã ngủ quên ra sao—dường như tôi đã chầm chậm đánh mất sự tự chủ của mình và trở nên quá nhập tâm vào những mảnh ký ức năm xưa, tôi đã quay về những năm tháng ấy trong một thoáng chốc. Mọi thứ đều ập đến một cách quá đỗi tự nhiên và bất ngờ khiến tôi không thể phân biệt được.

Và khi đôi mắt màu lục nay đã có chút xám xịt và tăm tối của tôi một lần nữa mở ra, tôi đang đứng ở một vùng đất trũng nọ, hoang vắng, và lạnh lẽo—một nơi mà tôi rõ ràng là chưa hề đặt chân tới trước đây.

Đất đai ngập úng, trọc một vùng không cây cối cũng không cỏ dại, như một vùng thổ địa trống vắng tang hoang trên miền đất chết. Kỳ lạ thay, khung cảnh ấy lại làm rục rịch những ý tưởng rất đỗi xa xưa đã ẩn sâu trong tâm trí tôi về quang cảnh của một địa ngục nguyên thủy, những thời đại không có bắt đầu hay tiếp diễn, không hiện diện bất kể sự tồn tại nào. Một thế giới... đang đắm chìm trong hồi kết.

Có lẽ tôi đang mơ, mơ về một thực tại khác thông qua Đại Hải Tinh Tú mà đã có hơn mười năm rồi tôi chưa ghé qua. Điều đó chắc chắn liên quan tới số phận tiếp tới của tôi, và có lẽ nó là một dấu hiệu. Tôi cố gắng thích ứng với tình hình, và thử suy nghĩ xem điều gì đã khiến tôi bước tới nơi đây một cách vô thức.

Những khung cảnh đột ngột biến đổi làm ngắt quãng dòng suy nghĩ của tôi. Tôi không di chuyển, nhưng đã đặt chân tới một nơi khác, một khu rừng—như những dấu vết còn sót lại của nó. Tôi nói thế bởi lẽ nơi đây giờ đã không còn bóng dáng của một rừng hoang dã với những gốc đại thụ to lớn hay những mảng xanh ngắt của màu lá và cỏ; cây cối nhổ rễ, thân trơ tụi và nứt toác; xác thú vật nằm la liệt bốc mùi hôi thối, mục ruỗng bởi sâu mọt và lũ vi sinh vật phân hủy; và màu máu khô ám lên trên nền đất đã khiến cho thực vật không còn có thể sinh trưởng.

Và không gian lại lần nữa biến đổi, như những hình ảnh trong những cuộn phim lướt qua. Tôi đi đến một tàn tích đổ nát từ một vương quốc xưa đã từng thống trị bốn bể, đi qua những thôn làng đã bị phá hủy trong hỏa ngục, và tới những thành thị đã chỉ còn là phế tích bị chôn vùi dưới những núi xương khô và kiếm rỉ sét cắm thành cọc vung vãi. Bầu trời xám xịt rũ mưa xuống không ngừng, nhưng tiếng rào rào của nước xối không khiến cho không gian này thêm sinh động; trái lại, trong thế giới trải dài đến vô tận nối liền với thời không và mọi vĩ độ ấy, sự hoang vu, tàn tạ và héo úa của mảnh đất như càng được tô đậm thêm.

Cho đến khi... tôi dừng lại trên một hòn đảo lơ lửng giữa hư không. Vẫn cùng là một màu xám xú uế và cái cảm giác hung tà ớn lạnh đó, nhưng tôi có nghe thấy thêm những tiếng trống chiêng và kèn rên vang, những tiếng hét, tiếng gào rú đầy man dại... và cả những tiếng kêu kinh không tả nổi bằng ngữ điệu Ulqthe nối liền, tạo thành một bản nhạc quái đản đau điếng không ngừng. Chúng là dấu hiệu của sự sống, nhưng mặc nhiên không phải là những dấu hiệu mà tôi muốn nghe thấy!

Tôi cảm nhận được mình đang đến gần hơn với khởi nguồn của sự trác táng đầy báng bổ, và rồi đôi mắt tôi thấy, trong những cơn nôn mửa ập đến đột ngột, trong sự run rẩy hãi hùng và bàng hoàng... một nghi lễ phạm thượng điên loạn đến cùng cực hiện ra ngay phía trước.

Giữa mảnh đất trọc không biên giới đầy rạn nứt, có những bệ đá tròn khổng lồ giống như hỗn hợp của đá cẩm thạch và đá cát xếp chồng lên nhau, chậm rãi xoay tròn một cách trầm trọng và nặng trịch nhờ một thứ động lực vô hình nào đó. Chúng được ngăn cách nhau bởi vô số những cột đá Doric và nối liền thành một tổng thể thống nhất thông qua sáu trụ Obelisk lớn đâm xuyên các bệ tròn ở vòng ngoài.

Các bệ đá lớn được chạm khắc chi chít những đường vân xám xanh—mà trên thực tế có lẽ là một loạt các bức tường nổi lên với đầy rêu phong như tạo thành một ma trận không lối thoát. Và chảy dọc trên những trụ Doric và Obelisk... là hàng loạt những sợi thòng lọng bị đóng đinh, treo lủng lẳng vô số các tượng đá hình người, thú vật, và cả những sinh vật dị dạng mà ngôn từ khó có thể miêu tả được.

Những nỗi sợ hiện rõ trên khuôn mặt, trên tư thế quằn quại của mỗi cá thể, những tứ chi cố gắng giãy giụa, cố gắng giật đứt cái thòng lọng trói buộc, hoặc cố để chấm dứt mạng sống của bản thân một cách dễ dàng hơn. Chỉ cần như thế thôi là tôi liền có thể chắc chắn rằng chúng, hay họ—đã từng là những thể sống, nhưng rồi bị tra tấn đến chết, bị hóa đá, bị ăn mòn linh hồn bởi thời gian cho đến khi chỉ còn lại cái vỏ rỗng vẫn lưu giữ lại khoảnh khắc cuối cùng trước khi chết. Và phải có hàng triệu cá thể trong đó đã không còn toàn vẹn về thể hình, mất nửa đầu, nát nửa thân dưới, gãy rời tứ chi... mà tôi thực không dám xem xem liệu đó có phải là những tổn thương do phong hóa phá hủy, hay là họ đã bị như thế từ trước đó.

Tuy nhiên... điều khiến tôi khiếp hãi đến như vậy, không chỉ đơn giản như thế.

Bởi tại bệ đá trên cùng với những cột trụ xoắn ốc dựng đứng cao vút, tôi đã thấy những màu sắc nổi bật so với cái nền xám còn lại của thế giới.

Đó là một đoàn người... một chủng quái vật ngoài hành tinh với cơ thể được lột da, để lộ ra những thớ thịt màu đỏ nóng chảy, bóng loáng và nhơm nhớp một thứ dịch trắng đục chảy dài giữa các khe nứt bốc khí đen. Thân hình của chúng cao gấp ba một con người bình thường, nhưng gãy gập bằng các góc độ dị hình như đứt đoạn. Hai cẳng tay chúng dài bằng một nửa chiều dài của cơ thể với bàn tay là những vuốt sắc như máy chém, và đôi chân là sự tạo hình cực kỳ thô sơ bởi vô số những chiếc xúc tu thịt cuộn lại chi chít.

Khuôn mặt của chúng không có mắt, bởi những cặp mắt trống rỗng con ngươi như hố sâu hút ánh sáng đã được ghim chặt giữa đôi cánh khổng lồ mọc ra từ đỉnh đầu. Lông vũ là những lát thịt mỏng nổi cục, còn xương cánh đâm thủng ra bên ngoài. Và trên gương mặt đó, không còn gì khác ngoài cái miệng như thể tách đôi được cả phần đầu, và lồng bên trong miệng lớn với răng sắc, là những cái miệng nhỏ hơn, xoay vòng bằng những tiếng rít buốt da.

Chúng không giống với bất kỳ chủng loài nào mà tôi đã từng gặp, hay đã từng đọc qua mô tả trước đây; nhưng từ số lượng những bức tượng đá treo lủng lẳng có tương đồng về ngoài hình với chúng đã cho thấy những sinh vật này là chúa tể của mảnh đất, là giống loài cao cấp nhất của thế giới này.

Bọn chúng đứng thành vòng quanh bệ đá, một số đánh trống, một số nhảy điên cuồng, một số cấu xé những đồng bạn bên cạnh. Nhìn loạn lạc, nhưng dường như đã cấu thành một ma trận phức tạp nào đó có chủ đích.

Theo những tiếng kêu rên bằng Ulqthe mà tôi có thể nghe hiểu một cách giản lược:

"Lửa thiêng cháy gốc, sáu trăm sáu mươi sáu lần.

Hỏa ngục đốt trụi đêm, thiêu tận ngày, và thêm sáu trăm sáu mươi sáu,

Người ban cho sự tồn tại mà không có, nằm trong mà vượt ra bên ngoài.

Diệt tận nguồn, cháy rụi mọi ranh giới... hãy đến, cùng những bề tôi..."

—Đó là bài tế lễ kêu gọi Họa Cổ Thần Omakathiepth, Đấng của Lửa mà lũ tín đồ dị giáo của ngài đã từng truy đuổi Iserish V. Himber trước đây ở miền thế giới mà tôi biết! Và cùng với sự kết thúc của những lời ngâm tụng, phần bụng của lũ quái vật bỗng chốc nổ tung ra, bắn tóe máu nhuộm khắp bệ đá lớn.

Nhưng những vũng máu như có tri giác, chúng hội tụ về từng dòng, và chầm chậm chạy xuôi về một hố sâu ở giữa. Tiếng trống và kèn lại lần nữa ngân lên, dồn dập, inh ỏi và cực kỳ đè ép bầu không khí.

Và giờ, không gian chấn động, vạch phá bầu trời âm u mây đen và dẹp yên mưa lớn. Tinh không rũ xuống những dải cực quang làm nhuộm màu vàng đỏ giữa trời cao, như lửa bùng lên, như thiêu đốt mây đen, bốc hơi những làn nước.

Tôi biết điều này có nghĩa là gì, tôi hiểu rõ mọi chuyện đang diễn ra.

Lũ quái vật, chúng muốn kêu gọi một Vị Thần. Một Vị Thần chỉ mang tới hỗn loạn, cái chết và sự hủy diệt. Tôi không thể chạy trốn, và dù sao... đây cũng có thể chỉ là một giấc mơ, tôi có thể xem, dò xét liệu chúng có thành công hay không?

Không. Những ý nghĩ ấy không đúng. Và mọi chuyện chắc chắn không thể xảy ra theo cách này được.

Mọi thứ đang diễn ra hẳn phải liên hệ tới tôi, phải là một dấu hiệu hay điềm báo nào đó cho số phận của tôi, vậy nên nó không đơn giản chỉ là một lễ tế được. Nhưng rốt cuộc thì có gì bất thường ở đây? Trong những thế giới ở Cõi Ảo... trong sự phi phàm của nó so với thực tại... có lẽ, triệu hồi Thần Linh cũng không đến mức khả thi có đúng chứ?...

—"■■■"

Có tiếng chuông vang lên, bỗng chốc, đặc biệt nổi bật giữa khung trời nhuộm màu vàng đỏ như mặt trời lụi tàn lúc hoàng hôn. Tiếng vang vọng của nó ngay lập tức dẹp đi mọi suy đoán của tôi—bởi chính nó là câu trả lời.

Tiếng chuông thờ đã từng mang theo vô số hi vọng, vô vàn tín ngưỡng, đem đến sự yên bình và thanh thản; nhưng nay, nó rũ bỏ mọi sự mờ ảo đẹp đẽ đó mà đem đến một làn gió mới, một sự lạnh buốt thấu xương và đầy rợn ngợp. Tiếng chuông vang như một khúc giao thoa giữa nỗi kinh hoàng và sự tàn bạo, như dành cho những tiếng kêu rên hoảng sợ từ sâu trong lòng địa ngục làm rúng động mãnh liệt toàn bộ tâm thần của lũ quái vật. Sự kinh hoàng đó sâu sắc ám lấy tôi, và tôi cũng cảm thấy cả thần trí của mình đều không yên ổn, nó thậm chí còn mang theo sắc màu đáng sợ hơn tất thảy những giấc mơ trước đó mà tôi đã từng trải qua.

Nó... đúng vậy, nó giống hệt như sự kiện của mười năm về trước—giống như khoảnh khắc tôi và Hohenjun nhìn thấy những Vị Thần vượt quá thường thức!

Tôi nhận ra nó là gì! Tiếng Chuông Thờ—Hồi Chuông của Sự Kết Thúc, khúc đưa tang của chiều tối, như những gì Icaltha đã viết trong cuốn tà thư Amantura bie'Ithwgr, nó sẽ đến khi thời điểm ấy điểm trên mọi sự. Và người thi hành án đó... Hocrux'OshturLord Unlife'Underlife.

Vạn tượng—mọi sự, mọi vật, mọi việc, mọi cái nguồn gốc, phái sinh chúng, phát sinh và luân chuyển của chúng trong toàn bổ tổng thể vũ trụ; và Vạn Pháp—mọi tư tưởng, mọi lý, mọi ý, mọi sự siêu hình, mọi quan điểm, mọi cái tác động qua lại, thống hợp, phân chia và xung khắc giữa chúng trong toàn bộ tổng thể vũ trụ.

Chúng, và Tổng Thể Tuyệt Đối bao bọc lấy chúng; tất thảy đều buộc phải tuân theo các luật lệ khởi nguyên và quay về cội nguồn của họ khi tiếng chuông điểm đến—thứ nằm trên tuyệt đối, ngự trên duy ngã, và trên bất kể hình thức chồng chất hay mở rộng nào của Tổng Thể Toàn Tại; hay nói cách khác, đó là một Nguyên Gốc Toàn Tại, Nguyên Lý Phần Kết. Nhưng, với một số những kẻ vượt quá khuôn khổ mà đòi lấy sự bất tử, ý đồ kết tạo sinh mệnh mới mà trái với lẽ tự nhiên, khám phá cấm kỵ hay truy đuổi những chân lý của vũ trụ cùng cực để đòi lấy những món quà không thuộc về họ, sau cùng đưa tới Viễn Định Trật Tự Đai; những kẻ này rồi sẽ phải đối mặt với ông ta.

Mọi màu sắc đột nhiên biến mất, chỉ còn lại sự thiếu thốn của một khoảng trắng tinh nhưng lại mang theo cái cảm giác nhợt nhạt lạ thường. Từ trời cao, khói đen kéo xuống, những đám mây bị đẩy hẳn ra và để lộ một chỗ hổng lớn đối diện với tế đàn khổng lồ phía dưới.

Những làn khói đặc quánh, xoáy cuộn và lan tỏa khắp không gian trong chốc lát. Chúng bốc lên như một bàn tay vươn ra từ cõi chết, hư hóa mọi thứ xung quanh. Và rồi từ trong luồng khói đen, một cánh cổng mờ ảo hiện ra.

Không có bất kỳ hoa văn nào phức tạp, chỉ đơn thuần là một cánh cổng lớn như trời cao sụp xuống, với vô vàn rễ cây chen chúc nhau hai bên như phủ kín phần đá tảng đen cứng.

Tôi không biết gì về nó trước thời điểm này, chưa từng nhìn thấy, cũng chưa từng cảm nhận hay tiếp xúc một điều gì giống như vậy. Ấy thế mà chỉ bằng một cái nhìn đó thôi, tôi đã ngay lập tức biết rằng nó... đã có ở đó, có ở mọi nơi, ở mọi cung bậc và vĩ độ của mọi cõi giới; bởi nó chính là ranh giới của Tử Vong Tuyệt Đối, là lãnh giới bên kia của mọi 'sinh mệnh' và là thung lũng của hư vô tột cùng. Đó... chính là đường đến hồi kết—Lăng Tẩm Vijinana'akaya.

Nó tồn tại ở đó mà không được ghi nhận, bởi người ta chỉ có thể tiếp xúc với nó khi tiếng chuông vang. Và mặc dù không không ai biết đằng sau cánh cổng là gì, nhưng người ta luôn nhìn thấy nó khi số phận ập đến—như vậy có nghĩa là 'cái chết' đã điểm lên chúng tôi. Lũ quái vật dị dạng, lẫn cả tôi.

Khói đen lần nữa trào mạnh hơn từ cánh cổng, bắn ra từ khe nứt. Bấy giờ tôi cảm nhận được sự bất an dữ dội chưa từng có, kéo theo cơn tuyệt vọng khốn kiếp lần nữa dập tắt mọi ý nghĩ cho việc chạy trốn hay phản kháng—đó chính là ông ấy, Sứ Giả, ông ta đang bước ra từ cánh cổng!

Không một ngôn từ nào có thể miêu tả được tâm trạng của tôi vào ngay giờ khắc này, và tuyệt không có một tâm trí nào có thể tưởng tượng nổi sự khiếp khủng mà tôi đã trải qua. Tôi thậm chí còn chẳng thể để tâm đến sự phản ứng của những tên quái vật. Đứng đó. Chôn chân. Bởi không một hy vọng nào được thắp sáng!

Đây chính là vận mệnh, dù có muốn cũng không trốn được, dù sợ hãi nhưng vẫn phải đương đầu.

Trong bóng tối đen như mực, sâu thẳm như đang hiện thực hóa chính "cái chết", người đàn ông cưỡi trên yên ngựa bước ra.

Xuất hiện như một "Hiện trưng không tồn tại", mang theo giông tố và bóng tối phủ lấy mọi thứ. Đó... là những bước chân nặng trịch của một sinh vật giống ngựa, nhưng trọc xương, mục ruỗng giòi bọ, và bốc cháy.

Người đàn ông cưỡi trên thân nó cao hơn 9 feet, toàn thân mặc một bộ giáp đen tím sần sùi bốc cháy ánh lửa đen với những hoa văn mang đậm sự chết chóc, với những chiếc gai nhọn và từng chiếc xương được chạm khắc tỉ mỉ. Có những lỗ sâu kỳ dị được khoét trên bộ giáp, nhưng phía bên trong không thấy gì cả, thăm thẳm tựa như vô gián địa ngục và chạy dài các đường vân phát sáng như vô số linh hồn đang gào thét.

Khuôn mặt của ông ta là một cái đầu lâu với ba chiếc sừng mọc ra từ đỉnh đầu tựa như vương miện của cái chết. Hai hố mắt loé sáng những ánh lam nhạt nhoà, trộn lẫn với khói đen mờ nhưng sắc bén tới ớn lạnh và ghê tởm không gì tả nổi. Tấm áo choàng mục nát phủ ngoài tung bay trong gió, để lộ ra một thanh cự kiếm rỉ sét được thắt chặt bên hông phải, và một tấm khiên giống như một chiếc quan tài đá được gắn chặt trên bàn tay trái xương xẩu.

Và sự hiện diện của bọn họ, ngay lập tức tuôn ra những hơi thở của cái chết.

Tôi cảm thấy cả cơ thể của mình bị móc rỗng trong chớp mắt, nguồn cội chứa đựng mọi thứ của tôi, thuộc về tôi, tương quan đến tôi, định hình nên tôi đều bị lột sạch như chưa hề có; nhưng tôi vẫn chưa chết đi hoàn toàn. Không phải là tôi đã được tha chết, bởi dù cho Estiatl đã từng nói rằng mọi Sứ Thần đều đã từng là một trong số chúng tôi, nhưng tôi tuyệt không nhận thấy chút sự thân thiết đến từ người đàn ông đó. Ông ta có thể đã từng là Người Ngủ Mơ, nhưng bây giờ, ông ta chỉ là Hóa Thần của Phần Kết. Vô cảm. Không nhân từ. Không khoan nhương.

Và điều duy nhất có thể giải đáp cho thắc mắc này, có lẽ đó là vì tôi, lũ quái vật, chúng tôi là những tên tử tù trong mắt ông ấy, kẻ cần phải bị trừng phạt, chứ không phải chết đi một cách tự nhiên và đơn giản đến thế.

Nhưng thế giới, mọi thứ bên ngoài chính những kẻ bị hành quyết này, chúng thì không được may mắn như chúng tôi. Khí tức của tử vong đi liền cùng với sự xuất hiện của Sứ Giả làm héo tàn tất cả như thể đột ngột chặt đi mọi 'sinh cơ'.

Hòn đảo nổi, bệ thờ lớn, những bức tượng đá, những phế tích của thành trì, các thôn làng bị hủy diệt hay rừng cây đã bị tàn phá... thậm chí ngay cả chính những khái niệm, trật tự và các quan điểm duy trì cho sự tồn tại của thế giới, Vạn Tượng Vạn Pháp, lẫn chính tổng thể của nó; tất thảy đều hóa tro xám, rạn nứt, rồi biến trắng chỉ một khoảnh khắc ngay sau. Thần nhìn tất thảy như nhau, 'một' chết thì 'không' cũng phải chết, 'phần tử' đã đi thì 'tổng thể' cũng không thể còn; không một chút phản kháng nào, không hề dừng lại hay chậm trễ, cuối cùng chỉ còn những sinh vật lạ cùng tôi bơ vơ giữa một miền trống rỗng hoàn toàn, với trên đỉnh đầu vẫn là cánh cổng của Lăng Tẩm và vị Sứ Giả không hề xê dịch.

... Tôi không tài nào hiểu nổi vĩ lực ở một cấp độ như thế. Nhưng tôi biết, Viễn Định Trật Tự Đai mà tôi đã thấy trước đó, giờ đã không còn nữa, là thực sự không còn gì nữa, không một dấu vết gì! Nơi mà chúng tôi đang lơ lửng, không hơn gì ngoài một vùng không hiện hữu, không tồn tại, không nằm trong bất kỳ một cõi giới đơn lẻ nào khác, thể như một câu chuyện đã bị xóa khỏi cuốn sách đã viết về nó vậy. Tôi thậm chí còn không thể tin dù mắt đã thấy rõ những gì diễn ra.

Trước quyền năng kia, làm gì có sự chống trả nào có ý nghĩa nữa chứ?

Ấy thế mà trái ngược hẳn với suy nghĩ của tôi, lũ quái vật kia đã thực sự có ý định phản kháng.

Chúng hét lên một giọng rít kinh tởm bằng thứ ngôn ngữ nào đó mà tôi không biết, như đang chửi rủa kẻ dám can thiệp nghi lễ của chúng, và những tiếng kêu ấy đã thực sự vang vọng trong một khoảng trống không tồn tại 'môi trường' một cách quái lạ vô cùng. Chúng không hề e ngại Sứ Giả, có lẽ bởi chúng đã tôn thờ một vị Đấng cực đoan đã nhuộm kín bản ngã xấu xí của chúng. Rồi tôi thấy tên to xác nhất trong số chúng dùng đôi chân được tạo hình bằng hàng ngàn vạn chiếc xúc tu dị hởm, tách hẳn từng vòi và bắn ra, xuyên thủng người những tên đồng loại.

Bọn chúng để mặc cho những chiếc vòi đâm vào cơ thể, dường như tất cả đã thống nhất một ý niệm nào đó. Rồi những chiếc vòi bắt đầu hút mạnh thứ dịch vô danh nào đó trong cơ thể lũ quái vật, truyền từng cục từng cục về lại tên chủ thể với những tiếng 'ộp ộp' kêu lên. Cứ mỗi một giây như thế trôi qua, cơ thể lũ quái bị rút dinh dưỡng lại teo tóp lại, những mảng thịt bóng loáng cũng khô cạn như đất xơ cứng, sinh cơ mất dần—mà còn quái ở trung tâm thì lại càng bành trướng thể hình của nó hơn. Từ 20 feet, đến 200 feet, 2000 feet, 2 dặm... đến cuối cùng, tôi còn chẳng thể nhìn thấy đầu hay đuôi của con quái vật, hay biết được thớ thịt quá cỡ ngay trước mắt rốt cuộc thuộc về phần nào của con quái. Nó có thể đã bành trướng với kích cỡ to hơn cả một khỏa tinh cầu, hoặc lớn hơn nữa.

Nhưng không chỉ đơn thuần về hình thể, bởi tôi còn có thể cảm nhận được sức mạnh đang sôi sục trong từng tế bào của nó, chắc chắn mạnh hơn nhiều so với con Hydrafon mà chúng tôi đã đối đầu ở Thánh Đường của Bí Truyền N'lahyii.

Không, có lẽ ngay cả Dak'Maat với quyền năng khởi tạo hàng nghìn mô hình đệ quy vô tận của không gian và thời gian cũng không sánh bằng thứ đang đứng trước mắt tôi đây.

Nó vượt ngoài ra khỏi mọi khuôn khổ của thường thức, vượt ra khỏi mọi khái niệm, mọi quan điểm, mọi sự định hình, kết cấu, thông tin, sự tồn tại... Không thể biện tả về hình hài hay bản chất của nó hiện tại, nhưng không phải vì sự hiện diện của nó là chồng chập của nhiều trạng thái kép đến mức nghịch lý, không phải là sự giao thoa vượt ngoài khuôn khổ của một hệ đa ngẫu, mà chính vì nó đã vượt quá mọi hệ chồng chập, giao thoa và mâu thuẫn giữa chúng, lẫn vượt khỏi chúng.

Chứng kiến một thể sống siêu hình đến như vậy, tôi không thể nói gì hơn ngoài những lời cảm thán khiếp sợ, và cũng chắc chắn rằng nó đã là một vĩ lực không thuộc về phạm trù của thực tại mà tôi biết.

Nhưng bất chấp cho kết luận ấy của tôi, vị Sứ giả vẫn để mặc cho những chuyện này diễn ra, không hề động đậy suốt toàn bộ quá trình. Ánh mắt đó, không hề có chút dao động nào.

Con quái vật lần nữa rống lên, làm cho thính giác của tôi hoàn toàn mất đi khả năng thu nhận âm thanh trong chốc lát. Đáng lẽ tôi đã chết chỉ với tiếng rống đó, thậm chí có thể đã chết sớm hơn ngay khi bước vào giữa vùng trắng xóa này, nhưng đặc quyền của một Người Ngủ Mơ đã bảo vệ tôi, đúng như cách mà nó đã làm suốt những lần trước. Cách duy nhất để tôi có thể chết là vì 'sự bành trướng đột ngột của tâm trí' đưa tới một vụ nổ thịt gớm ghiếc, không ngờ lời nguyền đó lại có lúc sẽ cứu giúp tôi như hiện tại.

Một lần nữa lặp lại, tôi đã không thể chạy trốn, và tôi chắc chắn là kẻ sẽ bị hành quyết tiếp theo, trong giấc mơ hay là hiện thực... tôi không rõ. Vậy nên trước khi đó, tôi muốn xem thử liệu con quái vật với sức mạnh to lớn như vậy có thể gây ra một chút khó khăn nào cho vị Sứ giả kia không.

Với tiếng rống chấm dứt, dù không nghe được nữa, và cũng không thể dùng thị giác để phân biệt toàn cảnh—bằng một cách nào đó mà tôi vẫn tinh tế cảm giác được những cái miệng lồng vào nhau của thứ sinh vật lạ đó đồng thời mở rộng ra, da thịt của nó bốc hơi, lấp lánh một dòng chảy nào đó đang sôi sùng sục bên trong cơ thể quá khổ, và những dung dịch trắng đặc sệt bắt đầu hội tụ trên khuôn mặt đang há rộng. Ba giây...

"Xoẹt"—Một tiếng kéo dài như thể xuyên thủng cả hư vô tuyệt đối. Một chùm sáng bắn mạnh hướng xuống Sứ Giả của Cái Chết.

Con quái vật đã tấn công!

Kết quả sẽ là gì? Liệu nó có thể đánh trọng thương được vị Sứ giả? Hay thậm chí, liệu nó có thể làm ông ta có nổi một vết xước được chứ?

Tinh thần tôi đã căng cứng như một sợi dây đàn bị kéo chặt, và đôi mắt hoàn toàn mở rộng ra, nắm bắt mọi chuyển động ngay trước mắt. Tôi sẽ không bỏ lỡ thời khắc này, bởi dù cho số phận đang chờ đợi có nghiệt ngã đến nhường nào đi nữa, đây sẽ là lần gần nhất tôi thấy được một vĩ lực phi phàm đến tột cùng chống chọi lại quyền năng của một Vị Thần! Liệu thế gian này có thực sự vô vọng trước cơn thịnh nộ của họ không—tôi cần phải biết!

Nhưng... vậy mà ông ta vẫn không hề di chuyển!

Ngồi yên trên yên ngựa, ngước nhìn, không cảm xúc. Kiếm treo bên hông, khiên gắn trên tay, nhưng chỉ thế mà thôi.

Cột sáng màu tím chỉ mất chưa tới một phần tỷ giây để vượt qua quãng đường vô biên mà vọt thẳng tới ngay trước khuôn mặt của Hocrux'Oshtur, nhưng vào khoảnh khắc nó chạm vào vị Sứ giả ấy, cái khoảnh khắc mà tôi đã nhìn thấy rất rõ đấy—nó lại đột ngột biến mất, biến mất lạ thường—Không. Là triệt tiêu, không chạm vào được, không thể chạm vào.

Một tia sáng vụt qua trong tâm trí tôi! Vĩ độ—chính nó! Đây chính là bản chất của Đấng Thánh Thần. Là sự khác biệt giữa giấc mơ và những kẻ được mơ!

Dù cho Hocrux'Oshtur có tự hạ thấp Hệ Thứ về 'sự tồn tại' của mình xuống bao nhiêu lần hay bao nhiêu hệ thứ để có thể hiện diện trong những chốn thực tại nhỏ bé này, thì bản chất của ông ta cũng không thể bị ém lại hoàn toàn. Con quái vật có thể vượt quá mọi hệ thống chồng chập và mẫu thuẫn ư? Nó siêu ra khỏi mọi khuôn khổ và định hình, ở bên ngoàiphía trên, bọc lấy mơ tưởng lấy, thậm chí 'tồn tại' cũng không phải mà 'không tồn tại' cũng không phải, trừu tượng hơn tất thảy những khái niệm và quan điểm trừu tượng—đó là lý do nó vẫn có thể tự do bung tỏa sức mạnh trong cõi trống rỗng này. Nhưng như thế thì sao chứ?

Mọi thứ cuối cùng vẫn chỉ hạn hẹp như vậy. Bất kỳ hình thức bản chất nào mà con quái vật ấy có, mà vạn tượng vạn pháp có thể có, Hocrux'Oshtur tất cũng sở hữu, lại còn vượt trội hơn vô vàn, vô số sự phái sinh cũng không diễn tả được. Do đó chính ma pháp Truy Nguyên Sự Tượng của Giới Thần Bí mới trở thành thứ công trình vĩ đại nhất, song cũng là một công trình không có hồi kết, không có tương lai!

Dưới con mắt của Hocrux'Oshtur hiện giờ, dù chùm sáng ấy có thể chấn nổ vô số không gian và thời gian, các mô hình siêu chiều và hàng loạt hệ đệ quy lẫn phái sinh của vũ trụ; chúng cũng chỉ như một đòn va chạm nhẹ nhàng đến hư vô. Tựa như một làn gió nhẹ lướt qua trong hình hài đang thực sự hiện hữu ấy vì mọi thứ đều như nhau, rồi tựa như một viễn tưởng thoáng chốc đâm sầm vào bức tường của hiện thực ngay khi nó chạm tới vì mọi thứ đều là mộng ảo.

'Cũng không bao giờ được phép lầm tưởng rằng ta có thể thoát khỏi hay chống chọi lại Cơn Thịnh Nộ của Các Vị Thần Thờ ơ'—giờ thì tôi đã sâu sắc hiểu được những lời mà Icaltha muốn nói.

Và dường như con quái vật cũng hiểu rõ điều ấy, nó tiếp tục rống giận, hét lớn, rồi lại lần nữa bắn những chùm sáng, liên tục không ngừng. Chỉ có điều, đó là một nỗ lực vô ích, một nỗ lực vô vọng thể hiện rõ sự bất lực và vô năng tột cùng của một tạo vật nhỏ bé đơn thuần khi đối diện với Đấng Sáng Tạo của nó.

Có lẽ là vì không muốn tiếp tục chờ đợi nữa, hoặc cũng có lẽ là vì dù có chờ đợi thêm cũng không thay đổi được gì, vậy nên dưới sự chứng kiến đầy bàng hoàng của tôi, Hocrux'Oshtur cuối cùng cũng di chuyển.

Ông ta nắm lấy dây cương, kéo nhẹ khiến cho con ngựa ma hưởng ứng bằng một tiếng hí dài, đem lại những luồng khói đen tỏa ra và cái cảm giác rợn rợn ngày một lớn. Nhưng chỉ với một cử động đơn giản như thế, nó cũng dường như đã mang theo một loại quyền năng vô hình không thể chống đối.

Phía đối diện có tiếng rống giận, những chùm sáng liên tục xả xuống, thể hình to lớn... tất cả đều ngay lập tức nín bặt, bị phủ định, vô hiệu hóa, quay về với nguyên dạng, về cái hình hài nhỏ bé chỉ cao hơn hai mươi feet và không có chút sức phản kháng nào của nó.

"Không có cách nào để chống cự lại Ta... những sinh mệnh nhỏ bé... Kể cả Đấng Thánh Thần cũng không thể... Ta... là kẻ mang Cái Chết, chứ không phải là kẻ đón nhận Cái Chết... Ta hiện hữu... nhưng không thuộc một sự quan kịch nào.

Kẻ dám mơ tưởng xa vời, kẻ mang ý chí của chủng loài... tại Khoảng Trắng này... Ta sẽ hành quyết ngươi... dưới Tiếng Chuông Chiều chứng giám..."

Giọng nói trầm nặng như đè thẳng vào hai lá phổi vang lên, vị Sứ giả nói bằng thứ tiếng Ulqthe, hoặc ít nhất là bằng một thứ tiếng gần giống với Ulqthe nhưng xen lẫn sự ma quái hơn, kinh dị hơn, khó lường và cấm kỵ hơn—chúng tràn thẳng vào não bộ của tôi, rồi cùng lúc đó được phiên dịch về thứ ngôn ngữ mà tôi quen thuộc.

Con quái vật vẫn có ý đồ phản kháng, tôi nhìn thấy rõ sự không cam chịu trong những cặp mắt vằn máu của nó, và tôi cũng thật sự bội phục trước sự bất khuất mà chỉ một từ cố chấp thôi cũng chẳng thể diễn tả được của nó. Nhưng con quái không thể cử động được, khoảnh khắc con ngựa ma hí lên tiếng kêu kinh hoàng của nó đã phủ định mọi khả năng chống cự có thể diễn ra.

Sứ giả thúc ngựa chầm chậm đến trước mặt con quái, giờ thì lần đầu tiên tôi thấy ông ấy chạm vào thanh kiếm rỉ của mình, rút nó ra và nâng cao nó lên một cách nhẹ nhàng, vừa lúc chạm phải cổ họng của con quái vật.

Cứ như thế, con quái vật giống như mảnh thế giới trước đó, héo tàn, hóa tro xám, rạn nứt, rồi biến trắng, như hòa làm một cõi hư xung quanh. Mọi dấu vết về nó đều đã biến mất, chủng loài của nó, cái thế giới tàn tạ mà nó đã gây nên, tất cả đều biến mất như chưa bao giờ từng tồn tại. Nhưng chỉ có tôi mới biết được chân tướng đằng sau tất cả, chỉ có tôi... là người cuối cùng.

Và, sắp tới, tôi cũng phải chịu một số phận tương tự như thế, tuy nhiên lần này, sẽ không một ai minh chứng cho cái chết của tôi, cho hồi kết của vận mệnh này.

Tôi nhìn vị Sứ giả trong một lúc, rồi nhắm mắt lại, người run rẩy lẳng lặng chờ đợi lưỡi kiếm kề trên cổ mình.

Phải rồi, nếu đây là một dấu hiệu, vậy Hohenjun tương lai cũng sẽ như thế sao. Mặc dù mình đã lo lắng rất nhiều cho anh ấy, nhưng không ngờ, chính mình mới là kẻ phải chết trước tiên... thế cũng tốt, mình chẳng muốn tận mắt chứng kiến cái chết của Hohenjun một chút nào—

Nhưng kết cục mà tôi mong chờ không đến. Tôi nghi hoặc mở mắt ra, và thấy rằng không biết từ lúc nào, vị Sứ giả đã đứng ngay trước mặt.

Khuôn mặt đầu lâu với hai hốc mắt rỗng ánh lam nhạt nhìn chằm chằm lấy tôi, và hàm răng ấy mở nhẹ, nói với tôi như một vị thẩm phán đang đọc lấy bản tuyên án:

"Raaval đã bảo hộ cho ngươi... nhưng Ta sẽ sớm tìm tới... Ahravain Christoph... Nhớ lấy... Hồi Chuông... không chậm trễ với bất kỳ một ai..."

"Và với bạn của ngươi... hắn... Andervista Hohenjun... đã chết rồi!"


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro