Võ lâm phong thần bảng 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 22

Quần Tiên Đại Hội

Trương Vân Trúc ngồi bên cạnh một chiếc bàn gần đó, hình vóc có phần gầy hơn ngày nào, song tinh thần vững lên thấy rõ.

Xưa kia, làn da của lão luôn vàng, một màu vàng bệnh hoạn, nay thì màu vàng đó nhuộm hồng, và có thể trong một ngày gần đây, màu vàng biến mất, nhường chỗ cho màu hồng.

Màu hồng lẫn sát màu vàng, điều đó chứng tỏ Trương Vân Trúc đang phấn khởi tâm tư trên con đường mới khám phá, con đường lên tiên ...

Bởi, vào đây rồi, là lên cảnh tiên chứ còn gì nữa?

Lão là người của tiên cảnh, trong khi Quan Sơn Nguyệt chỉ là một khách nhân bất ngờ ...

Chàng nhìn lão, lão nhìn chàng. Cả hai cùng nhìn nhau độ một phút.

Sau cùng, chàng gọi:

– Trương lão bá! Lão bá cũng ở đây nữa sao?

Trương Vân Trúc không đáp ngay câu hỏi của Quan Sơn Nguyệt chỉ mỉm cười, gật gù:

– Ngươi! Đúng là ngươi! Thoạt đầu, ta ngờ ngợ, không tin lắm là ngươi!

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Lão bá nói sao? Chúng ta chia tay nhau, chưa được tròn năm, chẳng lẽ trong thời gian ngắn ngủi đó, tiểu điệt có thay đổi nhiều?

Trương Vân Trúc lại cười:

– Thay đổi thì có, nhưng nhiều lắm thì không. Bất quá, ta không tin là ngươi còn sống được sau lần đó!

Lão tặc lưỡi, thở dài, tiếp:

– Thì ra, cái bà ấy, ở Côn Lôn Sơn, đã cướp được quyền của tạo hóa, làm nổi cái việc cải tử hườn sanh ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình. Song, chàng giữ vẻ thản nhiên, thốt:

– Tuyết Lão Thái Thái là một thần y đương thời vậy! Lão bá nói phải. Nếu tiểu điệt không gặp bà, thì có lẽ giờ đây mồ hoang của tiểu điệt đã phủ đầy cỏ loạn!

Trương Vân Trúc buông tiếng «ừ» mơ hồ, không biểu hiện một cảm nghĩ nào rõ rệt về Tuyết Lão thái thái cứu sống Quan Sơn Nguyệt. Lâu lắm, lão mới hỏi:

– Còn Thanh nhi? Sao nó không theo ngươi?

Quan Sơn Nguyệt giật mình lượt nữa.

Từ ngày Trương Thanh ly khai đến nay, chàng bị chi phối hoàn toàn bởi những điều khám phá mới mẻ, như Long Hoa Hội. Phong Thần Bảng, Tiểu Tây Thiên cuối cùng là Thiên Ngoại Thiên. Tâm tư chàng dành trọn cho sự nghiên cứu về những thứ mới mẻ đó, chàng quên hẳn thiếu nữ đáng yêu có rất nhiều cảm tình với chàng, từng thí ân huệ với chàng ...

Chàng thấy thẹn là mình không còn tư cách đối với nàng. Nàng ra đi, đáng lý chàng phải để phần nào thời gian, tìm nàng trái lại, chàng bỏ luôn việc đó, rồi đi theo một cuộc tra cứu, đưa chàng xa dần, xa dần nàng ...

Bây giờ, phụ thân nàng hỏi, chàng còn biết đáp làm sao? Đến cái việc hiện tại nàng ở đâu, chàng cũng chẳng rõ, thì làm sao chàng biết an nguy như thế nào?

Chàng sững sờ một lúc, đoạn đáp:

– Sau khi rời Côn Lôn Sơn, Thanh muội cùng tiểu điệt tạm phân ly nhau mỗi người chuyên lo một việc, giờ đây tiểu điệt chẳng rõ Thanh muội ở tai địa phương nào. Cả hai mất liên lạc từ lâu.

Ai nghe như thế cũng phải lo ngại, bởi dù sao thì Trương Thanh cũng chỉ là một thiếu nữ, mà giang hồ là chốn hiểm nguy, muôn vạn cạm bẫy chực chờ, ở mỗi đoạn đường đều có tranh chấp với cái giá sinh mạng của con người, Trương Thanh chưa có kinh nghiệm mảy may, lạc lõng giữa lòng người đầy man trá, là một điều đáng sợ. Nhưng, Trương Vân Trúc chẳng tỏ lộ thắc mắc, lão bình tịnh hỏi:

– Nếu ta không lầm, thì nó yêu ngươi mê mệt, yêu đến độ quên sanh mạng nó, để lo liệu cho ngươi, yêu đến mức quên đi bậc sanh thành, đủ bậc sanh thành ra nó đang ở cái tuổi gần trời xa đất. Thế tại sao nó ly khai được ngươi?

Câu hỏi của lão chừng như có chạm tự ái của Quan Sơn Nguyệt phần nào.

Chàng thoáng lộ bất bình, sự bất bình có lẫn lộn niềm phẫn hận.

Chàng cao giọng thốt:

– Lão bá hỡi, tại sao Trương Thanh hiền muội ly khai tiểu điệt? Nàng ly khai tiểu điệt, chính vì lão bá đó!

Trương Vân Trúc cười nhạt, lắc đầu:

– Làm gì có việc đó, Quan Sơn Nguyệt? Năm trước đây, nó phủ nhận tình phụ tử, nó bỏ rơi cha già, chạy theo tiếng gọi của con tim, nó bất chấp sự bảo vệ của cha, để dấn thân vào vòng nguy hiểm, bằng lòng hy sinh cho người bạn trai lý tưởng của nó mà! Thì, có lý nào nó vì một lão già bị nó bỏ rơi, lại bỏ rơi chàng trai lý tưởng của nó, vì lão già ấy?

Sự bất hòa giữa cha con họ Trương, Quan Sơn Nguyệt biết rất tường tận, bởi biết cái nguyên nhân đó, nên thấy Trương Vân Trúc tỏ thái độ lạnh lùng khi đề cập đến người con duy nhất của lão, chàng hết sức bất mãn.

Dù muốn dù không, chàng nhận ra phải chống đối, để làm cái việc biện hộ cho những kẻ vắng mặt mà chàng cho là có phần nào lẽ phải. Chàng chỉ nhận cái lẽ phải đó phần nào thôi, bởi chàng nghĩ làm con mà đối xử quyết liệt quá độ với đấng sinh thành, thì kể ra cũng quá đáng. Chàng nghiêm giọng, thốt:

– Tiểu điệt nhìn nhận là Thanh muội có phạm tội vì bội ý chí của lão bá, điều đó chẳng qua trong một lúc khẩn cấp, lâm vào cái thế chẳng đặng đừng, nên nàng bắt buộc phải chọn sở đoản bỏ sở trường, chứ thật ra thì luôn luôn nàng hoài niệm lão bá trong thời gian ly khai lão bá. Thiết tưởng lão bá nên rộng lượng xét suy cho nàng.

Trương Vân Trúc lại cười nhạt:

– Vấn đề đâu phải là cái việc nên hay không nên rộng lượng xét suy như ngươi nêu ra? Bởi lão phu chẳng còn tha thiết đến bất cứ việc gì trên đời này, kể cả tình cảm đối với những người thân thiết. Đừng bao giờ nói với lão phu những tiếng cốt nhục thâm tình, bởi lão phu thận ra, tất cả đều giả dối, tất cả đều được trang sức bởi những văn từ đẹp đó, nhưng trong cái văn từ hấp dẫn đó, có biết bao tính toán lợi dụng, biết bao thủ đoạn. Huống chi, bất cứ thiếu nữ nào lớn lên trong cái tuổi dậy thì, khi lòng xuân dấy động, lại chẳng hướng ngoại? Và trung tâm vũ trụ đối với những thiếu nữ đó, là một hình bóng lý tưởng, hình bóng đó có giá trị hơn hẳn cái hình bóng của con người đã tạo ra chúng, chúng có thể quên đi tất cả, quên cha mẹ, quên thân tộc, quên quê hương, quên luôn lễ giáo để tôn thờ hình bóng đó như một kẻ cuồng tính của một giáo phái ... Lão phu hiểu lắm, khi con gái lão phu bắt đầu mơ mộng, là ân tình sanh dưỡng của lão phu đối với nó cũng bắt đầu cáo chung, và lúc đó tìm được bóng hình lý tưởng, thì chính là ân tình thiêng liêng đó được mai táng cẩn thận dưới lớp ba lớp đất lạnh lùng ...

Lão không buông một tiếng thở dài, lão lại gật gù tiếp luôn:

– Lão phu chẳng hề thương tâm trước sự phủ nhận của con gái, và hiện tại thì có thể bảo lão phu với nó, chỉ là hai kẻ xa lạ trên đường đời, lão có đưa tay dìu nó qua vài dặm khó, rồi từ đó nó cứ bước đều theo chiều hướng của con tim, lão phu lại tiếp tục lối đi của mình, đi cho trọn chu kỳ của một kiếp đời!

Quan Sơn Nguyệt rất thẹn. Trương Vân Trúc phê bình con gái, luận thế thác nhân rinh từ khuôn khổ gia đình, rộng ra thế nhân, có bao quát chàng phần nào.

Chàng tự hỏi, sự lạnh nhạt của cha con họ, do đâu? Chàng dự phần, bằng cách quyết dụ Trương Thanh chăng?

Dù sao, chàng cũng phải nhận là Trương Vân Trúc có đạo lý, tuy cái đạo lý có đặt trên một nền tảng nhỏ hẹp. Nhỏ hẹp, là cái đạo lý đó phải nghiêm khắc, lão có quyền suy luận nghiêm khắc đối với con gái lão.

Dù sao, chàng cũng cảm thấy mình cũng có dự phần trong việc chia ly của cha con họ. Bởi, trong gia đình họ, trước đây khá xa, có một hôm, bóng hình thứ ba xuất hiện ... Chính sự xuất hiện của bóng hình thứ ba đó, là nguyên nhân của sự phân tán ngày nay. Người thứ ba, nếu chẳng phải chàng, thì còn ai nữa?

Chàng trầm ngâm một lúc lâu, mới thốt:

– Lão bá nên nhớ đến ân tình ngày trước của Trương bá mẫu, nhớ để cảm thông việc làm ngày nay của Thanh muội ...

Trương Vân Trúc chớp mắt:

– Ngươi cũng có biết đoạn đời dĩ vãng của lão phu?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Phải, lão bá! Tuyết Lão Thái Thái đã thừa nhận Thanh muội là cháu ngoại rồi, đồng thời truyền thụ cho nàng tất cả bí học của họ Tuyết.

Nhưng, điều tiết lộ của chàng không gây một phản ảnh nào nơi Trương Vân Trúc cả. Lão điềm nhiên tiếp:

– Ngoài y thuật ra, Tuyết gia chẳng có chi khác hơn đời ...

Bỗng, lão hỏi:

– Vừa rồi, ngươi nói rằng, Thanh nhi vì lão phu nên ly khai ngươi? Sự tình như thế nào?

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Lão bá có thể tự hỏi mình, cần chi phải hỏi tiểu điệt? Trong mấy tháng gần đây, lão bá đã có hành vi như thế nào?

Trương Vân Trúc lắc đầu:

– Lão phu có làm chi đâu?

Tin hay không tin? Có đúng là trong thời gian gần đây, Trương Vân Trúc không hề hoạt động trên giang hồ?

Dù muốn tin, chàng cũng khó tin. Cho nên, chàng phải hỏi tiếp:

– Trong mấy lúc sau này, lão bá có đến các môn các phái trên giang hồ chăng?

Trương Vân Trúc gật đầu:

– Có chứ! Lão phu có viếng qua các phái, nhưng chẳng phải tất cả, lão phu chỉ tìm đến những môn phái hữu danh nhất trong võ lâm mà thôi.

Lão xác nhận điều đó!

Quan Sơn Nguyệt biến sắc mặt:

– Có thật như vậy à?

Trương Vân Trúc cau mày:

– Sao là giả, sao là thật? Ngươi không thể nói rõ ràng hơn cho ta nghe à?

Quan Sơn Nguyệt cố dằn bất mãn thốt:

– Cứ theo lời truyền thuyết, thì lão bá tìm đến các môn các phái đó, đoạt lấy bí kiếp vũ công của người ta ...

Trương Vân Trúc điềm nhiên điểm một nụ cười:

– Ngươi nói thật khó nghe quá chừng. Sự thật thì đâu đến đổi quá nghiêm trọng như ngươi đã hiểu qua lời truyền thuyết mà ngươi có dịp nghe đó?

Quan Sơn Nguyệt rất bực, vừa bực vừa tức uất, chàng hơi xẵng hơn trước:

– Lão bá biết không, những môn phái bị cướp đoạt vật báu đều xuất phát cao thủ, trinh thám khắp bốn phương trời, quyết tìm cho được lão bá ...

Trương Vân Trúc vẫn cười:

– Giả như ngươi muốn hiểu tận tường sự việc, ngươi cứ đến viếng từng môn phái một, xem sự tình như thế nào? Ngươi sẽ thấy là tại mỗi nơi, không còn ai xao xuyến nữa, trái lại, ai ai cũng hài lòng với sự thu hoạch trong chuyến xuất ngoại theo dấu chân ta! Có thể là một vài nơi tri ân ta, và đang nhắc nhở đến ta đấy! Như vậy, ta làm lợi cho họ, chứ có gây thiệt hại cho họ đâu?

Quan Sơn Nguyệt giận lắm, song cố dằn lòng, tiếp:

– Chẳng những lão bá đoạt bí kíp vũ công của người, mà lão bá còn làm hại đến một số người nữa, như Thống Thiền đại sư trong phái Thiếu Lâm giờ đây như tàn phế, như Thiên Cơ đạo trưởng phái Vũ Đương, vì nhiểm độc mà chết và còn nhiều người khác, cũng bị lão bá hãm hại một cách tàn nhẫn như thế đó, lão bá lại tự hào làm điều đó lợi cho họ, thì thật là tiểu điệt chẳng hiểu nổi rồi!

Trương Vân Trúc không nao núng, đáp:

– Phải có một nguyên nhân chi đó, nên một số người lâm vào cảnh như ngươi vừa nói, người ta thoạt đầu nghi ngờ ta, nên có sự nhận xét bất lợi cho ta, trong lúc tình cờ, ngươi nghe được những lời phê phán lệch lạc đó, rồi đổ lỗi cho ta. May mà ta gặp ngươi để nghe ngươi buộc tội oan như thế, ta có dịp biện hộ cho mình. Nếu ngươi không tin sự biện hộ của ta, thì cứ đến một vài nơi hỏi lại họ.

Hỏi cho biết rồi, ngươi sẽ có cảm tưởng chính xác về ta. Cho ngươi biết, hiện nay tại Thiếu Lâm phái và Vũ Đương phái có sự thay đổi Chưởng môn, và người mới tuân theo di mạng của người cũ, không còn hận ta như ngày nào nữa.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ.

Thế là nghĩa làm sao? Cướp đoạt bí kíp vũ công của người ta, gây tổn hại cho người ta, mà lại cho là làm lợi cho người ta! Có trời mới hiểu nỗi uẩn khúc của sự tình!

Lâu lắm, Quan Sơn Nguyệt hỏi tiếp:

– Về trường hợp hai phái Thiếu Lâm và Vũ Đương, tạm thời tiểu điệt chấp nhận như vậy đi, còn những gì đã xảy ra trong Vô Cực Kiếm Phái tại m Sơn, lão bá giải thích như thế nào?

Trương Vân Trúc chớp mắt:

– Vô Cực Kiếm Phái? Tại m Sơn? Ngươi nói gì, ta không hiểu! Bình sanh, ta chưa hề nghe ai nói đến kiếm phái đó!

Lần này, Quan Sơn Nguyệt không dằn nổi cơn phẫn hận, cao giọng thốt:

– Lão bá đến đó, cưỡng hiếp m Lệ Hoa, con gái của Chưởng môn m Tố Quân, bây giờ nàng ấy điên điên dại dại, ngày ngày cứ kêu gọi lão bá, mong lão bá trở về sum họp với nàng ...

Và, lần này thì Trương Vân Trúc không còn bình thản được nữa, lão biến sắc, cũng cao giọng như chàng:

– Nói nhảm! Ngươi cho ta là hạng gì?

Quan Sơn Nguyệt xì hơi được, mạnh dạn «xì» luôn:

– m Tố Quân hận lão bá cực điểm đó, giả như gặp lão bá ở đâu, bà ta dám liều sống chết với lão bá lắm! Chẳng lẽ bà căm hận như vậy, lại chẳng có nguyên do? Chẳng lẽ việc đó cũng giả luôn?

Trương Vân Trúc trầm giọng:

– Ta bình sanh chưa hề biết mặt m Tố Quân, chứ đừng nói là có gặp gỡ bà ấy. Hẳn là mẹ con bà ta lầm người! Cứ trông ai mà tưởng là ta! Làm gì bà ta biết được ta mà dám đề án một cách quả quyết như vậy chứ? Vô lý quá chừng!

Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:

– Cứ theo lời tường thuật của m Tố Quân, thì người đó đúng là lão bá!

Trương Vân Trúc bình tĩnh trở lại, suy nghĩ một lúc lâu, đoạn thốt:

– Sự việc đó, có nhiều điểm khả nghi, ta phải nghiên cứu kỹ nhất định thế nào ta cũng minh bạch uẩn khúc của nó ... Thật ta không ngờ lại có việc rắc rối như vậy! Đúng là biết người, biết mặt nào ai biết được lòng.

Quan Sơn Nguyệt lại sững sờ! Lão liên tưởng đến ai, mà nói lên câu đó?

Một lúc lâu, chàng hỏi:

– Thực sự, sự tình như thế nào, lão bá có thể cho tiểu điệt biết chăng?

Trương Vân Trúc khoát tay:

– Đừng hỏi gì gấp. Sớm muộn gì, ta cũng phải truy nguyên việc đó rồi ngươi cũng sẽ hiểu.

Lão mơ màng một chút, đoạn tiếp:

– Chắc là Thanh nhi, vì việc đó nên nó ...

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Phải! Thanh muội làm sao chịu nổi tủi nhục khi nghe những lời truyền thuyết đó? Cho nên, nàng quyết tìm cho được lão bá.

Trương Vân Trúc «hừ» một tiếng:

– Làm gì có việc nó quá lo nghĩ về ta như vậy? Nó có khi nào thông cảm tâm tình của cha nó đâu? Ngươi đoán sai đó!

Nhưng rồi lão cũng hỏi:

– Tại sao ngươi để cho nó ra đi một mình như thế? Giả như có điều gì bất trắc xảy đến cho nó thì sao?

Quan Sơn Nguyệt đáp gấp:

– Thanh muội ra đi, có Bành tiền bối Phi Thiên Dạ Xoa đi theo, chiếu liệu dọc đường. Hiện tại, Bành tiền bối đang có mặt kia, lão bá và tiểu điệt đến đó hỏi qua, cho biết sự tình như thế nào.

Trương Vân Trúc lắc đầu:

– Không nên vội. Trước mắt đây, có rất nhiều việc quan trọng cần giải quyết, tạm thời chúng ta bỏ qua việc đó đi, khi nào sự tình tại đây xong rồi, chúng ta sẽ trở lại việc đó cũng không muộn.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút lại hỏi:

– Lão bá đến đây, có việc chi? Chẳng lẽ lão bá cũng là người trong Hội Long Hoa?

Trương Vân Trúc cười nhẹ:

– Cũng có thể như ngươi nói đó! Đến giờ phút này, ta chưa chánh thức là người trong hội, song trong chốc lát nữa đây ... Mà thôi, chúng ta cũng bỏ luôn việc đó đi, nói làm gì khi chưa đúng lúc! Ngươi đã đến nơi rồi, ít nhất ngươi cũng có biết qua một vài quy điều đó, có khoản cấm mọi người nhại miệng lắm lời. Giả như ngươi có thắc mắc, thì ngươi cứ an tịch chờ xem, cuối cùng ngươi cũng tự tìm giải đáp được, chẳng cần phải hỏi ai. Có hỏi, cũng chẳng ai nói cho ngươi hiểu đâu, trái lại hỏi nhiều lại phạm quy điều, thêm rắc rối.

Quan Sơn Nguyệt nhìn lão nửa tin nửa ngờ.

Lão đã là người trong hội, hay chưa chánh thức gia nhập? Lão từ khước, chẳng chịu nói rõ ràng, thì chàng đành phải chờ hiểu, như lão vừa nói.

Chàng ngồi xuống chiếc đôn bằng đá đảo mắt quan sát một vòng.

Không lâu lắm, có tiếng thang la vang lên, thanh la vang lớn chấn động màng tai.

Những người hiện diện đang bàn luận từng nhóm năm, nhóm ba lúc đó bỗng ngưng bặt tiếng nói, tiếng cười, giữ sự bình tịnh hoàn toàn.

Ai đứng sẵn, cũng xuôi tay, chỉnh nghiêm thần sắc. Ai đang ngồi, cũng đứng lên gấp, rồi xuôi tay, rồi chỉnh nghiêm gương mặt.

Vẻ khác thường hiện rõ ở mỗi người.

Trương Vân Trúc cũng như mọi người, đứng lên sửa dáng nghiêm trang, đồng thời đưa mắt ra hiệu với Quan Sơn Nguyệt.

Lập tức, chàng đứng lên.

Lúc đó, nơi đài cao, các đồng nam đồng nữ đã giàn hầu thành hàng ngũ đúng theo nghi thức, tên nào cũng mặc y phục gấm năm màu, trông sặc sỡ lạ.

Một đồng tử cất tiếng:

– Long Hoa Hội sắp khai mạc! Xin mời toàn thể quý vị y theo thứ tự trong bảng, lập thành đội ngũ, để bắt đầu cuộc điểm danh, kiểm nhân số.

Bên dưới đài, mọi người dao động một lúc. Sau cùng, họ đã lập thành ba nhóm.

Quan Sơn Nguyệt nhận ra, trong số những người có tên trên Bảng Tiên, có Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân.

Bảng Tiên rất ít người so với Bảng Ma, nhưng trong bảng này Quan Sơn Nguyệt có nhiều người quen, những người đó là chị em họ Lạc và lão Liễu Sơ Dương.

Phi Thiên Dạ Xoa đứng trong hàng ngũ Quỷ Bảng.

Dĩ nhiên, trong bảng này, có Khôi Y Thị Giả Tiêu Nhất Bình, song chỉ có mỗi một mình y, còn những du hồn kia thì vắng mặt.

Chừng như chỉ có vị thủ lãnh Thập Đại Du Hồn được đứng trong hàng ngũ thôi.

Đồng nữ lại tuyên bố:

– Các vị đầu bảng, hãy bước ra, kiểm điểm nhân số của bảng mình.

Chưa ai nhút nhích, Khổ Hải Từ Hàng từ ngoài cửa, chạy vào, cao giọng thốt:

– Trừ hai vị Lịnh chủ, và hai ngôi khuyết tịch chờ điền vào, Tiên Bảng chẳng thiếu một ai.

Nữ Đồng hỏi:

– Những người chờ điền khuyết, có đến đây hay không?

Khổ Hải Từ Hàng đáp:

– Có! Ngoài ra còn ba người mới, chờ được liệt tên.

Nữ đồng khoát một vòng tay.

Vòng khói che khuất bên trên đài, bỗng tan biến, một chữ «Tiên» hiện ra, chữ đó cũng do khói kết tụ hình, lơ lửng giữa không gian chẳng hề tan biến. Chữ đó, màu xanh nhạt, màu sắc bao hàm cái ý thanh đạm, của những người thích thanh phước hơn hồng phước.

Bây giờ, đến lượt người trong Ma Bảng xuất đầu.

Và, Kỳ Hạo cất tiếng:

– Ma Bảng đủ nhân số!

Nữ đồng lại khoát một vòng tay.

Như lần trước, một vầng khói tan, một chữ «Ma» hiện ra, cũng do khói kết tụ hình, nhưng lại màu hồng.

Kỳ Hạo lại tiếp:

– Người đầu bảng trong Ma Bảng yêu cầu giải tỏa đường dây đã cột nơi cánh tay, để dễ bề xoay trở, hầu điều động nhân số trong bảng cung nghinh tiên giá!

Nữ đồng ngẩng mặt lên không, như chờ đợi một lịnh được từ cung trời ban xuống. Một phút sau, nó nhìn xuống Kỳ Hạo, bên dưới đài, thốt:

– Điều thỉnh cầu được chấp thuận!

Kỳ Hạo thở phào gương mặt nở tươi như ngày nào còn bừng bừng tự đắc.

Hắn nghiêng mình, cung kính tỏ sự tri ân:

– Đa tạ tiên nữ từ bi!

Khi hắn đứng thẳng người trở lại, thì đường dây đỏ quấn quanh cánh tay đã tháo tung ra, song hắn chưa có thể vươn thẳng cánh tay liền, bởi cánh tay đó bị co lâu ngày, quen gân mà chừng như máu cũng ngưng vận chuyển qua cánh chõ, thành ra cánh tay như bị tê liệt.

Vừa lúc đó, từ bên ngoài, một nữ nhân mặt y phục đen, lướt vào, nhẹ nhàng như có vầng mây lót chân nàng đưa vào hội trường. Nữ nhân cũng che kín bằng một lượt sa đen, nếu chẳng có mớ tóc mượt bỏ xõa, phất phất theo đà tiến, thì chẳng ai nhận ra đó là một nữ nhân. Nữ nhân nghiêng mình, cung kính báo cáo:

– Kể cả tân lẫn cựu, nhân số của Quỷ Bảng gồm chín mươi hai người, toàn thể đều có mặt, chờ lịnh trên sai khiến.

Nữ đồng cau mày:

– Tại sao chỉ có chín mươi hai người, không đủ số một trăm.

Nữ nhân bao mặt đáp:

– Nhân tài rất hiếm, không phải mỗi lúc một tìm ra!

Nữ đồng lại ngẩng mặt lên không, chờ lịnh. Một phút sau, nó thốt:

– Tạm thời, chấp nhận cho dự hội, sau này sẽ bàn đến việc bổ sung đủ nhân số.

Nữ nhân bao mặt nghiêng mình:

– Đa tạ Tiên tử từ bi!

Như hai lần trước, nữ đồng phất tay, khói mờ ở một phía đài tan biến, một chữ «Quỷ» to lớn hiện ra, cũng bằng một thứ khói kết tinh thành hình.

Quan Sơn Nguyệt hết sức hoang mang. Dù chàng nghĩ là những người sáng lập cái Hội Long Hoa này, có ý tạo dựng một việc rất hoang đường, song xem ra thì cũng có phần nào huyền ảo mường tượng cảnh tiên, và nữ đồng kia, tuy còn ít tuổi, mà đã tỏ lộ một bản lĩnh tân kỳ, cái thái độ lại chững chạc như bậc cao niên.

Thì ra, cung cách ở đây được nghiên cứu rất chu đáo, và mọi người đều nhiễm phong độ của giới thần tiên đồng như đồng hóa hoàn toàn.

Vẫy tay, sanh khói, điều đó cũng chẳng lạ gì, bởi bất quá chỉ cầm một vật sanh khói nơi tay, tay phát ra là khói vút đi.

Nhưng, cái tuyệt diệu là chỗ ngưng tụ khói thành hình, không tan biến, lại thành chữ, nếu nữ đồng không luyện được môn khí công đó đến mức diệu huyền, thì làm gì tạo được cái kết quả phi thường đó?

Đã ngưng tụ được khói, lại vẽ thành chữ, rồi biến chữ có màu, có sắc, ai không tưởng nữ đồng có tiên thuật?

Và nếu có tiên thuật, nó lại phục dịch một số người tại đây, số người đó hẳn phải là tiên rồi.

Một bằng cớ khác, là cứ mỗi lúc thỉnh ý cái vị tiên, thì nó lại ngẩng mặt nhìn lên trời cao. Trên đó, là thế giới của tiên, lịnh trên đó bang xuống hẳn là lịnh tiên!

Quan Sơn Nguyệt dù không tin tưởng sự huyền bí của Hội Long Hoa này, cũng phải lấy làm lạ ...

Chàng thừa hiểu, màu chất của màu khói kia, là do bản chất của các loại khí trong người phát sanh. Khí từ huyết mạch bốc ra, do tâm can mà thành, do đó có màu hồng. Và «U Minh Khí», thuộc âm, phát ra từ các lỗ chân lông tứ chi, nên hiện qua màu đen.

Nữ đồng, tuổi chưa tròn hai mươi, lại phát huy được các khí dễ dàng, tùy ý, hẳn đã phải tập luyện ngay từ lúc vừa mở mắt chào đời, và tư chất của nó phải đặc biệt lắm. Một người thường học võ, trải hằng mấy mươi năm cũng chưa hẳn đạt được cái kết quả của nó ngày nay!

Khi ba bảng Tiên, Ma, Quỷ đã vào hàng ngũ xong rồi, nhân số kiểm điểm xong rồi, nữ đồng lại cất giọng lên không, cao giọng trình:

– Mọi nghi thức đã được cử hành chu đáo, kính thỉnh Hội Chủ giáng lâm, chủ trì đại lễ.

Từ trên cao, có tiếng nhạc phát ra, nho nhỏ, vắng xuống hội trường.

Quan Sơn Nguyệt khẩn trương vô cùng. Bởi, theo lời những người trong hội mà chàng được nghe, thì ân sư chàng là Độc Cô Minh, là một trong các vị Hội Chủ Long Hoa Hội. Các vị Hội Chủ sắp đến đài, là chàng sẽ gặp lại ân sư chàng.

Trên cao, mây giăng mắc, đột nhiên lớp mây đỏ, bày một lỗ hổng, từ lỗ hổng, có bốn người, lần lượt đáp xuống đài. Họ đáp xuống, gió lồng lên, thổi phồng y phục của họ, tạo cho họ cái dáng phiêu phưởng, chính cái dáng đó làm cho họ giống thần tiên, dù chưa ai biết thần tiên có dáng như thế nào.

Trên đời này, ai tự hào mình có gặp thần tiên?

Trước cảnh tượng đó, nếu lấy con mắt phàm phu tục tử mà nhìn thì phải cho là thần tiên từ cung trời giáng hạ trần gian.

Nhưng, con nhà võ đâu lạ gì với những cái trò như vậy? Nhất là con nhà võ đã đạt đến mức thành tựu học tập khá cao, như Quan Sơn Nguyệt?

Chàng hiểu ngay, họ luyện thuật khinh công đến độ siêu thần nhập hóa, họ có thể đề khí giữ mình lơ lửng giữa không trung một thời gian lâu, và họ bay nhẹ nhàng như những con chim, khi đáp xuống lại chẳng gây một tiếng động nhỏ.

Bốn người đó từ từ đáp xuống, như bốn chiếc lá khô lìa cành, lá rơi không gặp gió, lá từ từ xuống thẳng, chẳng chao mình, chẳng lệch hướng.

Quan Sơn Nguyệt đã chú ý ngay từ lúc họ chui qua lỗ trống của vầng khói kết tụ làm mây. Trong bốn người đó chàng hy vọng nhận diện một, và một đó, hiển nhiên là Độc Cô Minh, ân sư của chàng.

Bởi, cứ theo lời nhiều người trong Hội đã nói với chàng, thì Độc Cô Minh là một trong bốn Hội Chủ Long Hoa Hội. Như vậy, hẳn phải có ân sư chàng trong số đó.

Không!

Khi chàng trông thấy rõ cả bốn người, thì chàng không nhận diện ân sư chàng trong số đó. Tự nhiên, chàng thất vọng nặng nề.

Bốn người đó, tác trung niên, hai người mặc áo xanh, gương mặt rất tròn, mường tượng mảnh trăng rằm, có râu dài, bởi tuổi chưa cao nên râu còn đen nhánh ... Trong hai người còn lại, một mặc áo đỏ, hàm râu ngắn và quăn thuộc loại râu rồng, còn người cuối thì mặt áo đen, thân vóc ốm không râu.

Như vậy, là không có Độc Cô Minh rồi!

Người trong ba bảng, đứng thành nhóm riêng biệt bên dưới đài, thì thầm bàn tán, chừng như họ cũng có ý nghĩ như Quan Sơn Nguyệt, họ cũng lạ lùng như chàng.

Thấy hội trường hơi xôn xao, và khung cảnh có phần nào ồn ào, nữ đồng cao giọng chỉnh:

– Hội Chủ giá lâm, tất cả phải giữ im lặng hoàn toàn!

Mọi người đều im thin thít.

Bên trên đài, hai hàng đồng tử cả nam lẫn nữ đều cúi đầu, cung cung kính kính.

Nữ đồng phát ngôn nghiêng mình thốt:

– Linh Nô xin cung nghinh pháp giá Hội Chủ!

Người mặc áo xanh vòng tay, mỉm cười:

– Không dám! Linh Cô nhọc chi thế! Cái lễ, cốt thành chứ chẳng cần cung cách thái quá!

Nữ đồng, tên Linh Cô, điểm nụ cười tươi, đứng thẳng người lên, rồi bước sang một bên.

Bây giờ, bên dưới đài, mọi người đều nghiêng mình cao giọng chào:

– Tham kiến Hội Chủ giá lâm.

Người áo xanh vội vàng đáp lễ:

– Đa tạ các vị! Mới ngày nào đó, rồi thắm thoát mà đã hai mươi độ xuân tới, xuân đi! Trong thời gian tạm biệt, chắc các vị vẫn được bình an chứ?

Bên dưới đài, mọi người rập nhau thốt:

– Nhờ hồng phúc của Hội Chủ, bọn thuộc hạ đều vô sự suốt mấy năm qua!

Người áo xanh đảo mắt nhìn quanh một vòng, tiếp:

– Cứ mỗi lần có họp mặt nhau, là y như con số người hiện diện đổi thay!

Người cũ đã ra đi, cũng may có những người mới thay vào! Nhân sanh tán tụ sao mà nhanh chóng thế?

Người đó thở dài, để nhớ đến người xưa, rồi cười tươi chúc mừng những khuôn mặt mới. Y tán luôn những người mới có khí thái kiêu hùng, ai ai cũng hiện lộ hoa anh, ai ai cũng có cái vẻ hào hiệp.

Bên dưới đài, quần thần, quỷ, ma đồng loạt thốt:

– Đa tạ Hội Chủ khen ngợi!

Người áo xanh lại cười mấy tiếng, rồi tiếp:

– Đại hội hôm nay, có một vài chuyển biến, ngoài chỗ dự liệu của mọi người, mà lão phu không tiện thông tri trước cho toàn thể đại biểu hội hiểu. Ngoài ra, Hoàng Hạc Tán Nhân vì bận việc phải vắng mặt nên lão phu tạm thay thế, xử lý sự vụ.

Quan Sơn Nguyệt không kịp suy nghĩ, vụt hỏi:

– n sư của tại hạ bận việc gì phải vắng mặt? Người đi đâu?

Toàn thể đại hội đều giật mình.

Người áo xanh cũng kinh ngạc. Lão ta nhìn xuống Quan Sơn Nguyệt, tựa hồ muốn hỏi lai lịch chàng. Nhưng, Linh Cô đã bước tới, thì thầm bên tai lão. Người áo xanh điểm nhẹ nụ cười, thốt:

– Lịnh sư sẽ đến đây trong chốc lát, các hạ nên kiên nhẫn chờ, rồi cũng sẽ gặp người. Xin đừng hỏi gì hơn, gây trở ngại cho sự việc của đại hội.

Quan Sơn Nguyệt nín lặng.

Người áo xanh vẫy tay ra khắp mọi người tiếp:

– Xin tất cả vào ngôi vị, đồng dự tiệc như những kỳ đại hội trước, đợi khi nào các vị Tiên, Ma, Quỷ từ Thiên Ngoại Thiên đến, chúng ta sẽ chỉnh đốn các bảng.

Theo cái vẫy tay của lão, tiếng nhạc vang lên, mọi người đều vào tiệc. Ai muốn ngồi bàn nào, cứ ngồi, không còn phân biệt theo từng bảng nữa. Bây giờ, thì họ được quyền cười, nói lớn cũng chẳng sao, và dĩ nhiên phải ồn ào, bởi có tiệc vui nào lại khai diễn trong lặng lẽ?

Bên dưới, ăn uống vui vầy, bên trên đài, hai hàng đồng nam đồng nữ vẫn cứ đứng im như cũ. Còn bốn vị Hội chủ thì xuống đài, hiệp chung với quần Thần, quần Ma, quần Quỷ.

Cảnh ồn ào càng thêm náo nhiệt với những thị đồng chạy đầu này, vọt sang đầu kia, thêm quả thêm rượu.

Trước đó, khung cảnh trang nghiêm bao nhiêu, thì giờ đây, hỗn loạn bấy nhiêu.

Lạc Tiểu Hồng gọi Quan Sơn Nguyệt:

– Đại ca! Tôi đến gặp mẹ nhé!

Vừa nói, nàng vừa vọt đi, không đợi xem Quan Sơn Nguyệt có ưng thuận hay không.

Quan Sơn Nguyệt toan bước theo nàng, nhưng một bóng người xuất hiện trước mặt, chận chàng lại.

Người đó, chính là người áo xanh, một trong bốn vị Hội Chủ. Lão khoát tay:

– Đi đâu làm chi, thế huynh! Chúng ta đàm đạo nhau đi!

Chính Quan Sơn Nguyệt cũng có ý tìm lão để hỏi tin tức về ân sư, bây giờ lão tự đến với chàng, thì còn gì hơn? Chàng vòng tay chào liền:

– Xin mời tiền bối ngồi! Tại hạ đang muốn bái kiến tiền bối đây!

Người áo xanh mỉm cười, ngồi xuống chiếc đôn đối diện với chàng.

Linh Cô mang rượu và thức nhắm cho lão, đoạn thốt:

– Linh Nô hầu rượu Hội Chủ.

Người áo xanh đưa tay vuốt nhẹ nơi má nó, rồi mỉm cười:

– Tiểu liễu đầu lại muốn giám thị lão phu nữa phải không? Ngươi yên trí, lão phu không hề nói chi phạm quy luật đâu!

Linh Cô chớp chớp mắt cười nhẹ:

– Nói nhiều, thì thể nào cũng có thất ngôn, mà lão gia thì lại thích nói khi rượu vào khá. Cho nên, Y Ảo tiên tử bảo Linh Nô hầu rượu lão gia, thỉnh thoảng đề tỉnh lão gia.

Người áo xanh giật mình:

– Sao lạ thế? Nào có liên quan gì đến Y Ảo tiên tử, mà bà ta lo ngại?

Linh cô chớp mắt:

– Sao lại chẳng liên quan, lão gia? Quan công tử là người do tiên cô thỉnh đến đây mà, nếu chẳng phải vậy thì công tử đâu có mặt tại hội trường?

Người áo xanh cười hì hì:

– Thì ra là thế!

Lão hướng sang Quan Sơn Nguyệt, tiếp:

– Lão đệ may mắn lắm đó nhé! Bình sanh, tiên tử chẳng hề dễ dãi với ai vậy mà bà ta lại có cảm tình với lão đệ, thật là ...

Linh cô «hừ» một tiếng:

– Thấy chưa! Lão gia chưa uống rượu, mà còn nói như vậy, nếu đã uống rượu vào rồi, thì phong túng đến bực nào nữa chứ?

Người áo xanh lè lưỡi:

– Lỗi quá! Lỗi quá! Lão phu quên mất!

Quan Sơn Nguyệt ngồi nghe, chẳng hiểu họ nói gì với nhau, thái độ của họ làm cho chàng hết sức lấy làm lạ. Chàng không được bình tĩnh lắm, bởi lúc đó chàng bị phân tâm rõ rệt.

Tai vừa theo dõi câu chuyện của người áo xanh và Linh Cô, mắt chàng hướng về Trương Vân Trúc, lúc đó lão Trương đang ngồi chung với một người vận áo xanh, cả hai đâu đầu vào nhau, chừng như họ đang tranh nhau luận với nhau về một vấn đề chi đó. Chẳng những thế, một người áo đỏ cũng có mặt, dự thính.

Người áo xanh đối diện với chàng, nắm áo chàng, giật giật, nhắc:

– Uống, lão đệ! Mình làm mấy chén, cho khoái đi, lưu ý đến những trò quỷ chung quanh làm gì? Họ nói gì, làm gì mặc họ. Rắn chuột đâu đầu dụm mỏ với nhau, có gì đáng quan tâm?

Lão thốt với giọng khá cao, cốt ý cho những người bên cạnh nghe lọt.

Nhưng, người áo đỏ chỉ mỉm cười, chứ chẳng sừng sộ.

Người áo đỏ không giận, song người áo xanh, có cái tên là Kích Trúc Sanh, lại phẫn nộ. Lão gọi người áo xanh bên này:

– Nhất u huynh! Yêu cầu nói năng có lễ độ một chút!

Người áo xanh, có cái hiệu Nhất u, bật cười ha hả:

– Kích Trúc Sanh! Ngươi đừng tưởng là ta xem trọng ngươi nên mời ngươi thay mặt Hội Chủ! Trong con mắt của ta, ngươi bất quá chỉ là một con chó chết thúi, không hơn không kém! Nếu chẳng do cái lão Hoàng Hạc gởi gấm, thì ta đã chọn Hải Dị Nhi rồi, làm gì ta nghĩ đến ngươi chứ?

Kích Trúc Sanh sôi giận cực điểm, lập tức đứng lên, định sanh sự.

Nhất u lại cười vang:

– Ngồi xuống! Ngồi xuống đi. Bây giờ, chưa đến lúc đánh đấm với nhau, có nóng nảy cũng vô ích. Ngươi chỉ đợi một chút thôi mà, cơ hội động thủ sẽ đến trong chốc lát đây thôi. Nhưng ta chỉ sợ ngươi vừa vào cuộc là ngươi rơi đài ngay, bởi những người tranh bảng sẽ tìm ngươi trước nhất, và ngươi sẽ bị hạ dễ dàng.

Để chừng đó, ta xem ngươi sẽ chui vào đâu, dấu cái mặt lừa của ngươi!

Hai tiếng «mặt lừa» lão nhấn mạnh, cốt để cho nhiều người nghe lọt, càng có nhiều người nghe, lão càng thích.

Dĩ nhiên, những người ngồi ở các bàn gần đó đều nghe, và ai ai cũng cười, có người cười mỉm, có người cười thành tiếng, có người lại cười vang.

Kích Trúc Sanh vốn có gương mặt dài, mường tượng mặt lừa, ai ai cũng liên tưởng đến một khuôn mặt lừa, khi thấy khuôn mặt lão, song có ai phê phán, châm biếm làm gì? Bây giờ, lão Nhất u nêu lên, thì thật là đúng sự liên tưởng của họ, họ không nói được, nếu nghe ai nói ra, họ phải cười. Cái gì dồn ứ lâu ngày, được Nhất u khơi thông, tự nhiên cái đó phải tuôn tràn. Ai cẩn thận, thì cho nó rỉ ra rí rí, ai cao hứng quá thì tuôn ồ ra ngay.

Kích Trúc Sanh đang giận, hai tiếng đó như những gáo dầu đổ vào lửa, rồi những tiếng cười kia là những thùng dầu đổ thêm, lão chẳng còn chịu nổi nữa.

Lão đưa cao nắm tay đấm xuống mặt bàn, nắm tay ấn vào mặt đá, lún vào thấy rõ. Đồng thời, lão hét:

– Ngươi ...

Nhưng, người áo đỏ nắm áo lão, kéo lại, thốt:

– Việc nhỏ, không dằn, việc lớn phải hỏng. Tiểu bất nhẫn, tất loạn đại mưu.

Ngồi đây, chúng ta không được yên tịnh, thì tìm bàn khác mà ngồi, tai không nghe lời nghịch, thì tâm làm gì uất tức?

Thôi xong, người áo đỏ kéo lão áo xanh đi.

Trương Vân Trúc cũng bị kéo đi theo họ, để tiếp tục câu chuyện dang dở.

Lão áo xanh, có cái hiệu Nhất u, bật cười ha hả, tỏ vẻ đắc ý vô cùng.

Linh Cô cũng cười, thốt:

– Lão gia không sợ người ta liên kết với nhau, ám hại à!

Lão nhân áo xanh ngẩng cao mặt:

– Sợ gì bọn ấy! Chính ta đang muốn so tài với họ đây mà, họ muốn động thủ lại càng hay chứ sao!

Linh Cô khoát một vòng tay, biểu lộ sự lo ngại:

– Lão gia không ngán họ muôi thù?

Lão nhân áo xanh thoáng giật mình.

Suy nghĩ một chút, lão thở dài, từ từ tiếp:

– Ngươi đề tỉnh ta! Đúng vậy, trêu vào họ, ta sẽ phải bị phiền phức mãi mãi.

Nhưng ... tiên ...

Linh Cô nghiêm sắc mặt:

– Lão gia thận trọng một chút!

Người áo xanh giật mình, sững sờ một chút, đoạn thở dài:

– Không nói, là không nói, không nói là hơn, phải vậy chứ hở tiểu quỷ!

Ngươi bảo là đến hầu rượu lão phu, mà lại chẳng rót, thức ăn lại chẳng trao! Thế ngươi định để cho bọn ta hớp gió Tây mà đàm đạo à?

Linh Cô mỉm cười:

– Lão gia ơi! Lão gia là vị khôi thủ trong bảng Tiên, mà tiên thì vẫn uống gió, ăn đá được như thường, lão gia cần chi những món khác, những món của phàm nhân?

Người áo xanh «hừ» một tiếng:

– Bỏ vài tiếng Tiên, bỏ luôn hai tiếng khôi thủ đi!

Lão lại «hừ hừ» liên tiếp mấy lượt, rồi gằn giọng:

– Cái lão Hoàng Hạc thật là thông minh, lão ta đem gánh nặng trao cho kẻ khác!

Lão lại than:

– Ta khổ quá, khổ hơn con ngựa, con chó, con trâu, đưa lưng chịu cho ai muốn làm chi thì làm, cái gánh nặng này, ta cùng lão hòa thượng kia, đảm đang làm sao trọn chứ?

Linh Cô vội xoa dịu, rót đầy chén rượu, cười hì hì, bảo:

– Uống đi, lão gia! Uống đi thôi! Nói mãi những lời vu vơ ấy, chi cho nhọc?

Thay vì nói, cứ uống, như vậy cái miệng phải khỏe hơn!

Người áo xanh cầm chén rượu, mời Quan Sơn Nguyệt:

– Cô bé nói phải đấy, lão đệ! Chúng ta cứ uống cho say, việc gì lớn đến đâu, chúng ta say rồi thì việc đó cũng chẳng quan trọng gì nữa. Chúng ta nên say, say mãi, say dài dài, càng say càng giảm thiểu trách nhiệm ...

Quan Sơn Nguyệt cũng cầm chén lên:

– Xin lão tiền bối cho tại hạ biết phải xưng hô như thế nào?

Uống cạn chén rượu, người áo xanh vỗ tay «bạch bạch» lên đầu, cười hì hì:

– Ta hồ đồ quá! Nói tới nói lui nói mãi mà quên mất tự giới thiệu! Ta là Nhàn Du Giang Thượng Nhất Sa u, cái tên, hay cái hiệu cũng thế, nghe ra dài làm sao, cho nên ta rút gọn lại, chỉ còn bốn chữ Nhàn Du Nhất u. Đã rút gọn vậy rồi, nhiều người còn rút gọn hơn tí nữa, cuối cùng, chỉ còn hai tiếng Nhất u cộc lốc.

Quan Sơn Nguyệt nâng cao chén rượu tỏ vẻ tôn kính:

– Nhất u tiền bối ...

Nhất u bật cười ha hả:

– Đến nơi đây rồi, không ai là tiền bối, không ai là hậu sanh cả, ngươi cứ gọi ta là Nhất u, gọi như thế cũng đủ lắm đó!

Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cười khiêm tốn:

– Tuy vậy chứ tại hạ đâu dám vô lễ, tiền bối đồng hàng với gia sư, tại hạ tôn kính gia sư, tất phải tôn kính tiền bối ...

Linh Cô cười nhẹ, chen vào:

– Lão gia thích sự thẳng thắn, không chịu nổi mọi ràng buộc, người bảo sao, công tử cứ nghe và làm y như vậy, người sẽ rất hài lòng. Lão gia không muốn nghe ai gọi là tiền bối, vì sao công tử cũng biết chứ? Vì hàng tiền bối là những người sắp chết đến nơi, chẳng còn hưởng thọ được gì nhiều nữa, hiện tại còn đi đứng nằm ngồi, ăn và uống đó, song bất quá chỉ để chờ ngày thiên hạ đập xuống lỗ sâu trong lòng đất lạnh. Lão gia sợ ngộp ở trong đất lắm đó!

Nhất u bật cười vang:

– Tiểu quỷ lại châm chích mỉa mai ta đó, phải không? Mỗi một lời nói của ngươi có cái hiệu lực chọc nhột ta, nhột đến khó chịu!

Linh Cô điểm một nụ cười bí hiểm:

– Lão gia nói thế chứ cái chỗ nhột thật sự của lão gia, trên đời này có ai chạm tới được? Bởi, có ai biết chỗ nhột đó nằm tại bộ phận nào trong người lão gia đâu! Huống chi, rất có thể nó nằm ở ngoài cơ thể, và như vậy thì họa chăng chỉ có trời mới biết mà chạm vào!

Nhất u thẹn đỏ mặt, gắt:

– Tiểu quỷ đáng ghét quá chừng! Ta phải đánh ngươi mới được!

Lão đưa tay cao, như sắp sửa giáng mạnh xuống vai nàng, nhưng bàn tay đó chỉ rơi nhẹ nơi đầu vai, rồi vuốt xuống lưng phơn phớt vậy thôi.

Linh Cô cười hắc hắc, cười suýt ngã lộn dưới đất, cười suýt nhào vào lòng Nhất u.

Trẻ đã cười, gì cũng cười theo, một già một trẻ cười điên đảo, trông chẳng còn tôn ti chi cả.

Lúc đó, nơi các bàn chung quanh, gần cũng như xa, mọi người đều cười cười nói nói to tiếng lên rồi, rượu vào thì nguồn lòng mở rộng, họ vui nhộn, bao nhiêu năm dài mới gặp nhau một lần, bảo sao họ không vui? Giả như có thể, họ sẽ hàn huyên liên tiếp cả mấy hôm liền, cũng chẳng hết chuyện để kể cho nhau nghe, nói gì họ chỉ được vui trong một thời gian quá ngắn?

Ai nói, cứ nói, có chuyện cứ nói, vui thì cười trước, buồn thì sầu trước, chẳng ai nghe ai, chẳng ai cười với ai, sầu với ai. Nhưng, họ cười, họ nói với nhau, tuyệt nhiên chẳng ai dám lưu ý đến Nhất u và Quan Sơn Nguyệt.

Thân phận của Nhất u rất cao trong Long Hoa Hội, họ đâu dám cười chen?

Đến liếc mắt nhìn sang lão ta, họ vẫn không dám, nói chi là góp lời?

Quan Sơn Nguyệt bây giờ mới hỏi Linh Cô:

– Cô nương là ...

Linh Cô cúi đầu, thấp giọng:

– Tôi ấy à? Tôi là một thị nữ, một kẻ tùy sai của tiên tử, chẳng có thân phận chi cả.

Nhất u cười hắc hắc:

– Tiểu quỷ khiêm nhường chi lắm thế? Thì cứ bảo ngươi là khắc tinh của toàn thể mọi người trong Tiên Bảng, thế có thành thật hơn không? Trên đời đâu có cái thứ thị nữ gì mà ai ai cũng ngán?

Linh Cô ngẩng mặt lên, nghênh nghênh, như muốn động thủ lắm, từ trên không trung, có tiếng chuông ngân dài, tiếng ngân thì dài nhưng hồi chuông gấp rút.

Tiệc rượu bị tiếng chuông đó ngăn chặn, mọi người ngừng uống ngừng ăn, ngừng cười nói, mọi người cùng ngẩng mặt nhìn lên cao.

Nhất u kinh nhạc, hỏi:

– Bây giờ là lúc nào, mà có tiếng chuông tiên ngân lên như vậy?

Linh Cô khẩn cấp ra mặt:

– Lão gia bước ra xem thử!

Nhất u đứng lên, phất đôi ống tay áo, lướt đi ngay. Lão không đi ngang, đi dọc, lão lên cao, đôi tay áo mở rộng ra như đôi cánh chim âu, quạt quạt, lão từ dưới đất, hướng đôi tay áo bay lên không trung.

Nối tiếp lão, Kích Trúc Sanh và người áo đỏ cũng lên theo.

Cuối cùng, là lão nhân gầy ốm.

Cả bốn người đều có một đặc điểm, thân pháp của họ linh hoạt vô cùng, mỗi người một vẻ, vẻ nào cũng đẹp cả. Quan Sơn Nguyệt buột miệng khen:

– Hay quá! Thân pháp Lăng Vân đó, quả thật tuyệt diệu! Trong vũ lâm ngày nay, phỏng có mấy người luyện được tuyệt kỹ đó?

Linh Cô khẩn trương ra mặt, mắt luôn luôn hướng lên không.

Bốn lão nhân lên cao rồi, tiếng chuông dứt ngay. Không gian trở nên trầm tĩnh, một sự trầm tĩnh quá nặng nề, ai ai cũng cảm thấy khó chịu.

Quan Sơn Nguyệt nhìn Linh Cô một lúc, hỏi:

– Tại sao tiểu muội không lên theo với họ?

Linh Cô đáp:

– Trong ngày hội này, Thiên Ngoại Thiên là nơi cấm địa, chỉ có bốn vị Hội Chủ được lên đó thôi! Lên đó, là lên chốn cấm địa đấy!

Bỗng nàng hỏi:

– Hay là công tử đưa tôi lên đó?

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Tiểu muội còn không đủ tư cách lên đó, tại hạ lên sao được?

Linh cô lắc đầu:

– Chẳng quan hệ, bởi công tử chưa phải là người gia nhập chính thức, dù có lên đó cũng chẳng vi phạm quy luật của hội. Huống chi, có Y Ảo tiên tử che chở cho? Công tử cứ lên, tôi giả vờ đuổi theo công tử phía sau, như vậy là cả hai cùng lên.

Quan Sơn Nguyệt cũng muốn lên đó, xem qua cho biết tình hình, nghe Linh cô bày kế như vậy, trầm ngâm một lúc, rồi lộ vẻ lo lắng:

– Cao quá, biết tại hạ đủ sức lên tới hay không?

Linh Cô đáp gấp:

– Chắc chắc là đủ sức. Bất quá, chiều cao hơn hai mươi trượng thôi, lên đến đó, là có chỗ đứng ngay, nhất định không rơi xuống đâu mà sợ. Giả như công tử không lên nổi, tôi ở dưới tiếp trợ, đẩy lên cho!

Khi nào Quan Sơn Nguyệt lại bằng lòng để cho nàng tiếp trợ?

Chàng vọt đi liền, trong khi bên dưới có người kêu lên kinh hãi.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 23

Hạt Ảnh Kiếm Quang

Lớp khói kết tụ thành mây xem thì dày, nhưng lên đến nơi rồi. Quan Sơn Nguyệt nhận ra, rất mỏng bất quá nó vừa đủ che khuất một đỉnh núi, bên dưới nhìn lên, ai ai cũng có cảm tưởng là người bên trên từ khung trời thốt vọng xuống, bởi chẳng ai thấy được đỉnh núi.

Xuyên qua lớp khói, Quan Sơn Nguyệt đáp xuống mặt đá.

Linh Cô theo sát phía sau chàng.

Nhưng, lên đến đây rồi, chàng đâm ra hoang mang, vì chung quanh chàng, chẳng có một bóng người, mà trước mắt thì đường lối ngoằn ngoèo, lại thoạt lên thoạt xuống, bất đồng, bất ổn. Lên đến đây, đã là một việc khó, việc càng khó hơn nữa, là tìm người. Người đâu mà tìm?

Chàng đứng sững lại tại chỗ.

Linh Cô bước tới nắm áo chàng bảo:

– Do phía bên hữu đây. Đi theo tôi!

Như thế là nàng phải dẫn đường, nàng lách mình thoăn thoắt theo lối hẹp, thân pháp di động rất nhanh, mường tượng bay là là trên mặt đường.

Quan Sơn Nguyệt theo sau, vất vả vô cùng, mồ hôi đổ ra như tắm, chàng phải cố gượng lắm mới khỏi phát thở ồ ồ.

Thì ra, nơi chàng đáp xuống, là một đỉnh nhỏ, cô lập, không cao lắm. Như Linh cô đã nói, từ dưới đất lên đỉnh đó, chỉ độ vài mươi trượng cao. Cái chỗ rất cao, chính là bên trên, từ đỉnh đó lên tận bên trên khoảng cách còn xa lắm.

Chung quanh chỗ chàng đáp xuống, là mây, mây bao quanh, mây trên đầu, nhìn lên, chẳng thấy đỉnh cao, nhìn quanh, thấy mờ mờ những ngọn như thế, rải rác khắp nơi, chẳng khác nào những con cờ xuất hiện mà bàn cờ là biển mây bao la.

Những ngọn đá đó, to hơn nắm tay, vừa đủ một bàn chân, ngọn này cách ngọn kia cũng trên mười trượng.

Trên đó, gió thổi rất mạnh, một người không biết vũ công chắc chắn nếu đứng giữa luồng gió, gió cuốn đi như chiếc lá rụng.

Nguy hiểm thật!

Đứng trên ngọn đá đó, nếu thuật Thiên Cân Trụy còn non, hẳn cũng bị gió bốc đi như thường.

Chạy theo Linh Cô, có lúc theo đường hẹp, có lúc phải nhảy từ ngọn đá này sang ngọn đá khác. Nhảy như vậy, Quan Sơn Nguyệt suýt vỡ tim từng cơn, song chẳng lẽ chịu kém Linh Cô, chàng cố gắng trên sức mình, mới theo kịp nàng.

Vất vả như thế qua một lúc lâu, chàng đến một khoảng đất bằng phẳng, nơi đó gió đã dịu lại, mây mù sương tỏa cũng tiêu tan, vầng thái dương sáng chói trên không, nhả ấm xuống, con người nghe khoan khái phi thường.

Cảnh trí vô cùng tráng lệ, song Quan Sơn Nguyệt làm gì có thời giờ để chiêm ngưỡng vẽ đẹp của thiên nhiên, chàng còn bận thở, lấy lại sự điều hòa trong cơ thể.

Linh Cô nhìn chàng, lè lưỡi, tỏ vẻ sợ hãi, sợ chàng chứ chẳng phải sợ những gì đang chờ đợi cả hai ở phía trước kia. Nàng thốt:

– Lỗi quá, chỉ tại tôi thôi, tôi gấp quá, nên quên mất cho công tử biết lộ trình nguy hiểm, đáng lẽ ra tôi phải ở lại phía sau chiếu cố công tử. Cũng may công tử tiến tới được như thường! Trời ơi! Nếu công tử hụt chân, rơi xuống hố sâu, thì thực là tội của tôi to lớn biết bao nhiêu?

Nàng càng nói, Quan Sơn Nguyệt càng đỏ mặt. Dù sao thì chàng cũng lớn tuổi hơn nàng, dù sao thì chàng cũng là một nam nhân! Thế mà chàng lại kém nàng? Những chàng trai học võ mà nhận thấy mình chẳng bằng một thiếu nữ dưới lứa tuổi của mình! Chàng cười gượng, đáp:

– Tiểu muội muội tài quá chừng! Tại hạ học tập vũ công, ít nhất cũng lâu hơn tiểu muội mươi năm, thế mà sở đắc sánh với tiểu muội, chẳng bằng một phần!

Thuật «Lăng Không Phi Độ» của tiểu muội, quả thật đã đến mức cao siêu, tại hạ khâm phục vô cùng.

Linh Cô chớp mắt:

– Đừng đưa tôi lên mây xanh, công tử, đưa lên cao khi rơi xuống đau cho tôi lắm! Bất quá, do thói quen mà thành thạo việc rồi công tử tưởng là tôi giỏi lắm đấy, thẹn tôi chết đi, công tử ơi! Công tử biết không, con đường này, có ngày nào tôi chẳng đi qua một vài lượt? Đi như thế, năm này sang năm khác, tự nhiên phải quen, còn công tử chỉ mới vượt lần đầu, tự nhiên phải hồi hộp. Trên Tiên Bảng hơn được công tử, tôi chỉ sợ có mấy người đâu, thảo nào Y Ảo tiên tử chẳng mến trọng công tử ...

Quan Sơn Nguyệt hỏi gấp:

– Họ ở đâu?

Linh Cô đưa tay chỉ:

– Phía trước đó, song lần này, công tử phải dẫn đường, y như cái kế mình đã sắp đặt dưới đất đó, công tử!

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Tại hạ dẫn đường? Dẫn như thế nào? Tại hạ có biết đi theo lối nào mà dẫn?

Linh Cô mỉm cười:

– Tôi là kẻ đuổi theo, chẳng lẽ tôi chạy trước? Thì công tử cứ đi, giả như có sai lối, tôi ở phía sau nhắc chừng.

Quan Sơn Nguyệt «ạ» lên một tiếng:

– Tại hạ quên mất chỗ lo ngại của tiểu muội muội! Tuy nhiên nhớ nhắc chừng tại hạ nhé, tiểu muội muội đừng để tại hạ lạc hướng đấy!

Linh Cô gật đầu:

– Không lạc đâu, đường đi bằng phẳng, lại chẳng có cạm bẫy, mà dù có gì đi nữa, tôi sẽ kịp thời cảnh báo cho công tử biết.

Quan Sơn Nguyệt vận tụ chân khí, giở thuật khinh công lướt đi, qua mấy đỉnh núi nhỏ, đến một khu rừng tùng, tùng trên ngàn năm, cây cao, tàng rộng, tàng giao tiếp với nhau tạo thành cái mái lợp một vùng rộng lớn.

Giữa khu rừng, có một con đường nhỏ, con đường chạy xuyên rừng tất cả do con đường đó.

Khu rừng dày, nhưng không sâu lắm, một lúc sau, họ qua đến phía bên kia.

Linh Cô gọi khẽ:

– Cẩn thận công tử! Phía trước ...

Quan Sơn Nguyệt dừng chân ngay. Vừa lúc đó, có gió mạnh từ trên đỉnh đầu quạt xuống, hai bóng trắng tấn công chàng. Chưa kịp nhận định hai bóng trắng đó là người hay vật, Quan Sơn Nguyệt cấp tốc vung hai chưởng lên nghinh đón.

Kinh lực song phương chạm nhau, Quan Sơn Nguyệt nghe đôi tay đau đớn lạ. Chàng ngã ngồi xuống đất, còn hai bóng trắng bay trở lại trên không.

Quan Sơn Nguyệt ấn chân nhảy lên, bây giờ chàng mới thấy rõ hai bóng trắng đó chính là hai con bạch hạc.

Chúng lên cao rồi, liền quạt cánh, như sắp sửa đáp xuống lượt thứ hai.

Linh Cô ở phía sau, vọt mình tới, đồng thời hét:

– Súc sanh! Công tử là khách của Y Ảo tiên tử đó nhé, các ngươi chạm vào là có mất mạng đấy!

Bạch hạc ré lên, thay vì đáp xuống thẳng đỉnh đầu Quan Sơn Nguyệt, chúng lại đáp xuống một cành tùng gần đó.

Linh Cô gấp giọng hỏi:

– Quan công tử có bị thương chăng?

Quan Sơn Nguyệt đưa tay lên xem, nơi lòng bàn tay có máu chảy, máu do một vết thương khá lớn xuất ra.

Linh Cô lấy một chiếc khăn trong mình, quấn ngang bàn tay chàng, tỏ vẻ hối hận:

– Lỗi tại tôi, tôi quên dặn dò công tử ...

Quan Sơn Nguyệt tặc lưỡi:

– Súc sanh lợi hại quá!

Linh cô tiếp:

– Cũng may công tử có nội lực thâm hậu, nếu không thì cái lối xung kích như sấm sét của chúng, dù là sắt đá cũng phải tan ...

Vừa lúc đó, một bóng người chớp lên phía trước.

Người đó chính là Liễu Y Ảo. Bà ta trông thấy Quan Sơn Nguyệt thoáng giật mình hỏi:

– Làm sao ngươi lên đây? Tại sao ngươi thọ thương?

Linh Cô thoái hậu một bước, cung kính đáp thay chàng:

– Quan công tử bị Lôi Nhi đánh trọng thương đó ...

Liễu Y Ảo bước tới, mở mối khăn, soát qua vết thương, đoạn lấy trong mình ra một viên thuốc màu hồng, đắp lên chỗ vết thương.

Quan Sơn Nguyệt hỏi liền:

– n sư của tại hạ ...

Liễu Y Ảo không đáp câu hỏi của chàng, bà quay qua Linh Cô, nghiêm sắc mặt thốt:

– Ngươi to gan lắm, ngang nhiên đưa hắn lên đây! Ngu xuẩn như thế thật ra ta không tưởng nỗi ...

Linh Cô chẳng dám phân trần.

Quan Sơn Nguyệt sợ nàng bị quở trách nặng vội đáp:

– Sự việc không liên quan gì đến cô nương ấy, chính tại hạ tự ý đến đây ...

Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng. nhưng vẫn hướng về Linh Cô:

– Người bên dưới chết rồi sao? Chết hết rồi à? Sao chẳng ai ngăn trở hắn?

Bây giờ Linh Cô mới giải thích:

– Tiếng chuông Cảnh Tiên bỗng vang lên, ai ai cũng giật mình sửng sốt, không kịp chú ý. Quan công tử lại động tác, nhanh khi Linh Cô phát giác ra thì công tử đã lên cao rồi, Linh Cô cấp tốc đuổi theo song không theo kịp ...

Liễu Y Ảo liếc mắt qua Quan Sơn Nguyệt, trầm giọng:

– Khá lắm! Đi trong không gian, vượt mây được như vậy ...

Linh Cô tiếp:

– Nội lực của Quan công tử cũng thâm hậu vô cùng, chỉ bị thương thôi, chứ không nguy đến tánh mạng!

Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng:

– Chắc gì nhờ nội lực mà hắn thoát nạn? Nếu ta đến chậm một chút, thì hắn phải chết với súc sanh rồi ...

Linh Cô không tin:

– Nô tỳ theo sát bên công tử mà, bất quá trong lúc bất ngờ, hai súc sanh mới chạm vào mình công tử được, nô tỳ hay biết rồi, chúng làm gì dám hung hăng nữa?

Liễu Y Ảo trừng mắt:

– Ngươi cho rằng ngươi tài lắm phải không? Liệu ngươi ngăn chặn chúng nổi không? Hừ!

Bà tiếp luôn:

– Móng chân của Lôi Nhi và Đình Nhi có tẩm chất độc đấy!

Linh Cô biến sắc:

– Tại sao lại có tẩm độc? Chẳng lẽ ...

Liễu Y Ảo hét lớn:

– Ngươi cứ lải nhải mãi thế à? Sao hôm nay lại lắm lời thế? Nhỏ người mà gan to, xảo quyệt cũng khiếp! Ngươi định qua mắt ta? Qua được không? Chính ngươi muốn lên trên này, ngươi lôi cuốn hắn theo, cốt dựa vào hắn, tắc trách cái tội của ngươi!

Linh Cô rung người, quỳ xuống ngay, van cầu:

– Xin tiên tử thứ tội! Linh Cô không yên tâm ...

Liễu Y Ảo bỗng thở dài:

– Mà thôi, bỏ việc đó đi! Ngươi đã lên đây, vậy cũng tốt. Ngươi hãy đi vòng về phía hậu, vào phòng đại tỷ ta, lấy thanh Bạch Hồng Kiếm, mang đến cho ta.

Chú ý nhé, đừng để ai bắt gặp ngươi!

Linh Cô càng biến sắc hơn.

Liễu Y Ảo hét:

– Có đi gấp hay không? Ngươi dần đà, hại cả bọn mất mạng đấy!

Linh Cô mang tâm trạng đó, thoát đi liền.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:

– Việc gì sắp xảy ra, hở tiên tử? Hay là trên đó ... có biến cố?

Liễu Y Ảo thở dài:

– Nào chỉ có biến cố mà thôi! Phải nói là đại biến cố, đại đại biến cố mới đúng. Tất cả đều do cái vị ân sư quý mến của ngươi đó!

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:

– n sư của tại hạ làm sao?

Liễu Y Ảo cười lạnh:

– Lão ta chuồn đi, thì cứ đi một mình thôi, có ai nói chi? Lão lại còn dụ hoặc cho đại sư tỷ ta cùng đi, cả hai đi hết rồi, bỏ cái sự việc lớn lao hôm nay lại cho bọn ta! Thật là phiền phức vô cùng!

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc, chẳng hiểu chi cả.

Liễu Y Ảo lại vẫy tay:

– Hiện tại, ta không có thì giờ dư để cho ngươi biết những chi tiết quanh vấn đề, ngươi đã lên đến đây rồi, hãy đi theo ta, ta cần đi ngay, nếu chậm trễ thì họ sẽ liên thủ đối phó với nhị sư tỷ ta, thành ra sự việc càng thêm khó khăn ...

Thốt xong, bà quay mình đi liền.

Quan Sơn Nguyệt vô cùng hoang mang, cấp tốc bước theo bà.

Đi được mấy bước, bỗng Liễu Y Ảo quay đầu lại, hỏi:

– Ngươi có nghe đau đớn gì nơi bàn tay chăng?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Nhờ thuốc của tiên nữ, tại hạ không còn nghe đau đớn chi nữa.

Liễu Y Ảo thở phào:

– Vậy là tốt! Bởi, trong chốc lát nữa đây, nếu sự tình diễn tiến không được thuận lợi lắm, thì ta không thể chiếu cố đến ngươi vẹn toàn, chính ngươi phải tự chiếu cố lấy mình.

Quan Sơn Nguyệt vừa kinh hãi vừa lấy làm lạ:

– Chuyện chi sẽ xảy ra? Tiên tử nói mơ hồ, tại hạ lo ngại quá chừng.

Liễu Y Ảo lại tiếp tục bước, vừa bước đi vừa thốt:

– Ngươi sẽ biết, trong phút giây đây, ta khỏi cần nói.

Dáng dấp của bà ta rất ung dung, song tốc độ thì thật là phi thường. Chẳng rõ khi bà phi hành thực sự, thì bà lướt đi nhanh đến bậc nào.

Quan Sơn Nguyệt phải cố gắng hết sức mình mới theo kịp. Vì bận vận công bước theo Liễu Y Ảo, chàng không thể phân tâm để hỏi gì thêm nữa.

Qua khỏi một gò cao rồi, chàng thấy trước mặt có một tòa kiến trúc óng ánh màu vàng lẫn xanh, hết sức huy hoàng. Nơi vọng lâu, có bốn chữ rất to, còn từ xa, chàng cũng đọc được rõ ràng:

«Tử Hư Tiên Phủ».

Phía trước tòa kiến trúc, có một khoảng đất rộng, trên khoảng đất trống đó, có hai nhóm người đang đối chiếu với nhau.

Trong hai nhóm, có một gồm vỏn vẹn hai người:

một lão bà tóc ngả màu sương, và lão nhân áo xanh, có cái hiệu Nhàn Du Nhất u, người đã đối thoại với Quan Sơn Nguyệt lúc còn ở dưới đất.

Còn nhóm kia có nhân số nhiều hơn, gồm lão áo xanh Kích Trúc Sanh, lão nhân áo đỏ, một người có thân vóc cao, ốm, vận áo đen, ba người này đều có xuống dưới đất, Quan Sơn Nguyệt nhận ra dễ dàng. Ngoài ra, lại có một già một trẻ, vận áo trắng, và thêm một nữ nhân rất xấu, vận áo đen.

Trong mỗi nhóm, có một người thủ kiếm, đối trận với nhau.

Như vậy, là hai nhóm đã bắt đầu khai diễn cuộc tranh chấp và mỗi người đại diện cho mỗi nhóm.

Một bên, là một mỹ phụ, tuổi lớn hơn Liễu Y Ảo, còn bên kia là một người mặc áo đỏ, dung mạo tuấn tú, đôi mắt rất sáng.

Nhất u trông thấy Liễu Y Ảo trở lại, vội bước tới, hỏi:

– Lôi Nhi và Đình Nhi đã phát hiện ra điều gì đó?

Liễu Y Ảo đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Chẳng có việc gì cả. Chính hắn lên đây, là kinh động hai con súc sanh đó.

Nhất u nhìn sang Quan Sơn Nguyệt, thở dài:

– Lão đệ cũng đến cái trường nhiệt náo này nữa! Không khéo rồi chúng ta sẽ là những bạn đồng hành trên con đường về âm cảnh! Lão phu đang hồi hộp lo sợ lão đệ đến, thì lão đệ lại đến!

Quan Sơn Nguyệt hoang mang:

– Việc gì quan trọng thế, tiền bối? Nghe nói gia sư đã đi rồi, có đúng vậy không?

Nhất u gật đầu:

– Đúng chứ! Lão ấy là con người thông minh, thấy rõ sự tình như thế nào, nên lánh mặt tìm cái thú tiêu dao bốn biển năm hồ, hưởng thung dung tự tại.

Nhưng, lão đi, lão bỏ lại bao nhiêu phiền phức cho bọn lão phu! Lão cũng ác, không chịu đi sớm, cũng chẳng chịu để cho xong việc rồi hẳn đi, lão đi đúng lúc sự việc mở màn.

Liễu Y Ảo nóng nảy ngăn lại:

– Đừng nói nhảm nữa, lão u!

Bà hỏi:

– Trong lúc vắng mặt ta, họ đã trao đổi nhau được mấy chiêu?

Nhất u đáp gấp:

– Ba chiêu. Lão phu xem ra, cũng còn một đoạn thời gian.

Liễu Y Ảo gật đầu không nói gì nữa.

Quan Sơn Nguyệt muốn hỏi tiếp, Nhất u đã ra hiệu cho chàng đừng nói gì thêm. Quan Sơn Nguyệt hết sức lấy làm lạ, tự hỏi sự tình quan trọng làm sao, mà tất cả đều nghiêm nghị và giữ vẻ thần bí tột độ như vậy. Nhưng, chàng không có thì giờ suy nghĩ, cuộc chiến giữa mỹ phụ và người áo đỏ hấp dẫn chàng ngay.

Động tác của họ rất chậm, cứ theo lời của Nhất u và Liễu Y Ảo, thì đây là một cuộc chiến định sự tồn vong của mỗi cánh, thế mà họ giao thủ cũng như họ đang luyện võ. Họ từ từ dịch chân, thay đổi tư thế, bộ vị, từ từ đưa tay phát xuất chiêu thức. Lạ lùng hơn nữa, là chiêu thức vừa thành hình, đưa ra được nữa tầm.

là họ thu về ngay.

Nếu không hiểu rõ tình hình căng thẳng giữa song phương thì ai ai cũng phải cho rằng đây là một cuộc biểu diễn vũ thuật hoặc để làm vui, hoặc để học hỏi, sửa chữa những sơ suất.

Những người dự khán, theo dõi cuộc biểu diễn với thần sắc cực kỳ trang nghiêm.

Và Quan Sơn Nguyệt thì chú ý hơn ai hết. Bởi, song phương biểu diễn những chiêu thức cực kỳ ảo, bình sanh chàng chưa từng trông thấy. Cuộc đấu của họ, sẽ mở rộng tầm kiến thức của chàng quan trọng, bảo sao chàng không lưu tâm theo dõi?

Quan Sơn Nguyệt suy đoán, mỹ phụ hẳn phải là sư tỷ của Liễu Y Ảo. Còn người mặc áo đỏ, giao đấu với bà ta, nếu không thuộc Ma Bảng thì cũng là người trong Quỷ Bảng.

Nhưng, chàng tin chắc người đó, thuộc Ma Bảng, bởi người trong Tiên Bảng, thường mặc y phục xanh, người trong Quỷ Bảng, mặc y phục màu đen. Và người trong Ma Bảng, mặc y phục màu hồng.

Từ lúc vào Thiên Tề Biệt Phủ của Kỳ Hạo, chàng chú ý đến sự ăn mặc của mỗi người xuất hiện trước mắt chàng, đến lúc lên Vu Sơn, tham dự Hội Long Hoa, chàng đã có sự nhận xét đó rất vững chắc rồi.

Cho nên, chàng nghĩ rằng sự ức độ này không sai lắm, và người đang đấu với mỹ phụ kia, hẳn là một nhân vật trong Ma Bảng. Và, nếu người đó thuộc Ma Bảng, thì hẳn y lãnh tụ của quần Ma. Chứ nếu không thì làm sao y có đủ tư cách đối trận với người trong Tiên Bảng.

Theo sự tiết lộ của Liễu Y Ảo thì tại Thiên Ngoại Thiên, có đủ ba hạng người:

Tiên, Ma, Quỷ. Họ đồng thuộc một tổ chức, cầm đầu ba bảng, họ chẳng khác nào là những người nhà, thế tại sao họ còn tranh chấp?

Họ tranh chấp với nhau, phải chi họ chỉ áp dụng cái lối ấn chứng vũ công suông, thì cũng chẳng có gì đáng nói. Ở đây, những chiêu thức họ đưa ra, toàn là những chiêu giết người, dù họ đưa ra nửa tầm về thu về, song kiếm khí phát huy vẫn có thể giết người được như thường.

Như vậy, là một trường tử chiến! Họ đang làm một cuộc đồng môn đồng hội tương tàn!

Quan Sơn Nguyệt hoang mang vô cùng, do đó chàng hết sức chú tâm theo dõi cuộc đấu.

Qua những thế công và thủ của song phương, Quan Sơn Nguyệt thức ngộ được chỗ tuyệt diệu của đấu pháp mà họ áp dụng, hơn thế, chàng còn tìm được giải đáp những thắc mắc từ lâu chàng không biết phải hỏi nơi ai. Như thế, chứng kiến những cuộc giao đấu như thế này, chàng thu thập những kinh nghiệm rất quý báu, tưởng chừng suốt đời chàng không có một dịp may nào mở rộng kiến thức một cách đầy đủ bằng dịp này.

Tại cuộc đấu, song phương lại trau đổi nhau thêm năm sáu chiêu nữa. Sử dụng mấy chiêu thức đó, họ cần đến một khoảng thời gian độ nữa khắc.

Theo chỗ nhận xét của Quan Sơn Nguyệt, thì người trung niên áo đỏ có vẻ chiếm ưu thế. Y công nhiều hơn thủ. Còn mỹ phụ thì phòng vệ hết sức cẩn mật, thủ nhiều hơn công nhờ vậy, đối phương dù thắng thế, vẫn chưa làm gì bà ta nổi.

Liễu Y Ảo vô cùng khẩn cấp, chừng như bà không thể chịu đựng nổi cái cảnh dằng dai đó kéo thêm dài, cao giọng hỏi:

– Tại sao sư tỷ không thi triển «Đại La Thất Thức»?

Mỹ phụ tại cục diện như chẳng nghe bà ta gọi.

Người trung niên áo đỏ cười nhẹ, thốt:

– Tuy «Đại La Thất Thức» là một kiếm pháp tinh vi, song do các vị phát xuất thì tại hạ chẳng xem ra gì. Cho các vị biết, trừ Lâm Hương Đình ra, tại hạ chẳng hề ngán một tay kiếm nào cả!

Liễu Y Ảo sôi giận:

– Tạ Linh Vận! Ngươi đừng tự đắc thái quá! Ngươi có thấy khi nào «Tu La Tứ Thức» của ngươi làm cho chị em ta ngã chăng?

Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới biết được người trung niên áo đỏ có cái tên là Tạ Linh Vận.

Tạ Linh Vận bật cười ha hả:

– Các vị không ngán, chẳng phải là kiếm pháp «Tu La Tứ Thức» của tại hạ kém lợi hại. Chẳng qua, tại hạ không muốn cho Lâm Hương Đình thấy chỗ sơ hở, nên không phát huy kiến pháp đó đúng mức tinh vi. Giờ đây, Lâm Hương Đình vắng mặt giả như các vị không phục, thì xin cứ thi triển «Đại La Thất Thức», tại hạ dám quyết là chỉ đến chiêu thứ ba của môn «Tu La Tứ Thức» thôi, các vị sẽ bị đánh rơi kiếm và cúi đầu nhận bại.

Y nhìn thẳng vào mặt mỹ phụ, tiếp nối với giọng ngạo nghễ:

– Lý Trại Hồng! Ta khuyên ngươi nên trao «Tru Tiên Lịnh» đây cho ta, ngươi ngoan cố đến đâu rồi cũng phải trao thôi, tốt hơn nên trao trước, để tránh khỏi cái nhục bại chán chường.

Y giở cái giọng của kẻ thắng thế, không còn giữ lễ dùng sáo ngữ như trước.

Quan Sơn Nguyệt lại được biết thêm tên mỹ phụ là Lý Trại Hồng. Chàng nhận thấy, hơi thở của bà bắt đầu mất điều hòa rồi, điều đó chứng tỏ chân khí của bà tiêu hao phần lớn.

Nghe Tạ Linh Vận bảo thế, bà cắn răng, cố dằn cơn phẫn uất, hỏi:

– «Tru Tiên Lịnh» về tay ngươi, thì liệu chúng ta sẽ còn sống sót được mấy hôm chứ? Ta biết rõ, ngươi nuôi dưỡng tham vọng đó từ lâu lắm rồi, ngày qua ngày, ngươi hằng mơ tưởng chiếm cho được «Tru Tiên Lịnh», song, cho ngươi biết, chẳng phải dễ dàng như ngươi tưởng đâu!

Tạ Linh Vận cười lớn:

– Vì tình đồng môn, ta không nở sát hại các ngươi đó thôi, chứ nếu ta muốn, thì việc đó có khó khăn gì? Tuy nhiên, ngươi yên trí, chiếm được «Tru Tiên Lịnh» rồi, ta sẽ dành cho các ngươi mọi dễ dãi, ta không đến đối xử khắc nghiệt với các ngươi đâu, dù trước kia, các ngươi chẳng xử tốt gì đối với ta.

Lý Trại Hồng cao giọng:

– Đừng nuôi mộng, Tạ Linh Vận! Ngươi muốn đoạt «Tru Tiên Lịnh», thì cứ chờ sau khi ta chết! Chỉ khi nào ta chết đi, ngươi mới thực hiện vọng tưởng của ngươi được! Ta còn một hơi thở, quyết không chịu nhục.

Tạ Linh Vận bĩu môi:

– Sao gọi là nhục được, hở Lý Trại Hồng? Sự giao tình của chúng ta đã trải qua mấy mươi năm rồi, dù muốn dù không chúng ta vẫn là người thân với nhau, đối với người thân, có ai nỡ quyết liệt thái độ. Ngươi quên sao, trước kia chúng ta đối với nhau như thế nào? Từ ngày sư phụ quy tiên, Lâm Hương Đình thừa kế đại quyền, các ngươi đã bắt đầu khinh miệt ta rồi ...

Lý Trại Hồng hét:

– Ngươi còn mặt mũi nào nhắc lại chuyện ngày trước ...

Tạ Linh Vận bật cười ha hả:

– Tại sao ta không thể nhắc đến việc cũ? Trước kia sư phụ còn tại thế, người ức chế ta, chẳng cho ta xuất toàn lực giúp các ngươi, bây giờ thì khác, ta có trọn quyền hành động theo ý muốn của ta, nhất định ta không để các ngươi thất vọng đâu.

Y tiếp trợ gì Lý Trại Hồng? Câu nói của y đầy bí mật, y đang tử đấu với bà, mà y nói rằng đã đến lúc tự do tiếp trợ bà, không để cho bọn của bà ta thất vọng!

Thế là nghĩa gì chứ? Và, trước kia, họ có cảm tình với nhau như thế nào?

Chỉ biết, nghe nói như thế, Lý Trại Hồng lại càng sôi giận, bà vung tay nhanh hơn trước, thanh trường kiếm trong tay bà rít gió vụt vù.

Tạ Linh Vận cử kiếm, hất thanh kiếm của Lý Trại Hồng qua một bên, đoạn cười mỉa, thốt:

– Ngươi chẳng còn chiêu thức gì khá hơn sao, lại đánh ra cái chiêu chẻ củi như thế?

Y quét kiếm một vòng tròn, bật cười ha hả tiếp:

– Đã đến lúc ngươi trao «Tru Tiên Lịnh» cho ta đó! Đừng kéo dài thời gian vô ích, chẳng một nhiệm mầu nào đến với ngươi đâu, mộng thì bao giờ cũng là mộng, mộng chẳng cứu vãn tình hình được!

Y hất kiếm hơi mạnh tay một chút, Lý Trại Hồng nghe chấn động bàn tay, kiếm bay đi, rơi xuống bên ngoài.

Hiện tại, trước vòng tròn kiếm ảnh của địch, bà ta trở thành tay không, cái nguy đã hiện ra trước mắt.

Tuy nhiên, bà quật cường cực độ, bà ta không lùi, không nhẩy qua bên này hoặc bên kia né tránh, bà ngẩng cao đầu, thốt oang oang:

– Ta không giao. Ngươi giết ta, ta cũng không giao!

Bên ngoài, Liễu Y Ảo và Nhất u hết sức khẩn trương, nhưng cả hai không dám vào cuộc.

Tạ Linh Vận vung kiếm uy hiếp không ngừng, đồng thời cao giọng ngạo nghễ:

– Nhất định ta phải lấy cho bằng được «Tru Tiên Lịnh», ta cần chiếm nó để thống trị toàn thể nhân vật trong ba bảng, ta sẽ là bậc chí tôn tại Thiên Ngoại ...

Lý Trại Hồng không sợ, cất tiếng chận y:

– Đừng nuôi mộng! Ngươi có thể giết ta, chứ đừng hy vọng đoạt được «Tru Tiên Lịnh». Không có vật đó, ngươi không thể chỉ huy toàn thể nhân số của ba bảng. Ít nhất cũng có hơn nửa số người, bất luân lịnh ngươi.

Tạ Linh Vận cười lạnh:

– Ngươi muốn chết, ta cho chết! Ta giết ngươi trước rồi việc chi khác ta sẽ giải quyết sau!

Lý Trại Hồng bật cười cuồng dại:

– Giết ta, ngươi thu hoạch được lợi ích gì?

Tạ Linh Vận cười mỉa:

– Giết ngươi, là trừ diệt kẻ chấp chưởng «Tru Tiên Lịnh», ta thay người chỉ huy toàn nhân số ba bảng, dù chẳng lấy được «Tru Tiên Lịnh», ta vẫn chỉ huy như thường, kẻ nào bất tuân, ta hạ sát.

Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:

– Nếu có nhiều người bất tuân? Ngươi cũng giết hết?

Tạ Linh Vận bĩu môi:

– Tại sao ta không thể giết hết? Ta chỉ cần nửa số theo về ta thôi! Với nửa số đó, ta sẽ truy tầm những kẻ bất tuân mà hạ sát, dù họ có trốn lên trời, chưa chắc thoát khỏi tay ta!

Lý Trại Hồng cười lớn:

– Ngươi dám làm một việc như vậy à? Đại sư tỷ ngày nay tuy đã tìm nơi cô tịch, quy ẩn, không còn màng đến những tranh chấp nhỏ nhen, song nếu nghe được ngươi buông lung dã tánh, người sẽ trở về, hỏi tội ngươi! Ta chỉ sợ ngày vui của ngươi quá ngắn, mà rồi ngươi sẽ phải mãi mãi lo âu đến phút thở hơi cuối cùng!

Tạ Linh Vận thoát giật mình. Câu nói của Lý Trại Hồng rất đúng, chính y cũng đã nghĩ đến hậu quả của việc làm hôm nay, dù rằng y có thắng được Lý Trại Hồng, dù rằng y có chiếm được «Tru Tiên Lịnh», chỉ huy toàn thể nhân vật trong ba bảng, giành ngôi vị độc tôn tại Thiên Ngoại Thiên, sự tình đó, bất quá chỉ có tánh cách tạm thời, bởi rất có thể Lâm Hương Đình trở lại trong một ngày nào đó, hoặc gần, hoặc xa, nhưng nhất định phải có và Lâm Hương Đình sẽ đoạt lại chiếc tín phù, phục hồi nguyên vị độc tôn, còn y thì từ ngôi vị độc tôn trở về hàng ngũ quần ma!

Như vậy là nhục!

Y suy tư một lúc lâu, với thái độ ngang ngạnh, thốt liều:

– Ta bất chấp hậu quả như thế nào, ta cứ giết, giết tất cả bọn ngươi, ta lấy được «Tru Tiên Lịnh» rồi, dù sao Lâm Hương Đình cũng phải bái phục trước «Tru Tiên Lịnh» như mọi người, bà ấy dám vi lịnh ta sao?

Lý Trại Hồng cười lạnh:

– «Tru Tiên Lịnh» bất quá là một tín phù, một vật tượng trưng uy quyền điều khiển một tổ chức, một đoàn thể, không hơn không kém! Giả như tất cả bọn ta không tôn trọng vật đó, thì nó sẽ trở thành một vật vô dụng. Ta đưa ra một chứng minh, cho ngươi thấy rõ là tín phù không đảm bảo một uy quyền tuyệt đối, bất di bất dịch. Hiện tại, ta chấp chưởng nó, mà trước mặt ta, ngươi vẫn phóng túng, ngông cuồng, chẳng hề nể trọng ta, thì dù ngươi chiếm được nó rồi, một ngày kia, đại sư tỷ ta trở về, ngươi có đưa tín phù ra, vị tất đại sư tỷ ta tuân phục. Ta giữ lịnh phù, ta không ức chế được ngươi, thì đến lúc ngươi giữ nó, liệu ngươi ức chế nổi đại sư tỷ ta chăng?

Tạ Linh Vận bật cười ha hả:

– Ngươi lầm! «Tru Tiên Lịnh» không hề ước thúc ta trong một giới hạn nào cả, nhưng đối với Lâm Hương Đình thì lại khác, bà ấy dùng Lịnh bài ước thúc người trong ba bảng, bà phải trọng nó, nếu sau này bà không trọng nó, dám chống đối ta, thì chính là bà phá kỷ luật, dù bà chiếm nó lại được từ nơi tay ta, bà cũng chẳng mong dùng nó mà ức chế mọi người, bởi bà phủ nhận cái giá trị của lịnh bài khi nó ở tay ta, tự nhiên nó mất giá trị luôn, khi về tay bà ta! Còn như, quả thật bà còn tôn trọng nó, thì khi ta đưa nó ra, bà phải cúi đầu tuân lịnh ta. Như vậy, ta có sợ gì bà ấy chống đối?

Lý Trại Hồng cao giọng mắng:

– Ngươi đúng là một tên vô sỉ! Ta chẳng hiểu tại sao lúc trước sư phụ lại thu nhận ngươi làm đệ tử! Thật là một tủi nhục cho ta mang tiếng bạn đồng môn với ngươi!

Tạ Linh Vận lộ vẻ đắc ý rõ rệt, bật cười ha hả:

– Ngươi lầm to! Ngươi cứ tưởng sư phụ là một nhân vật quang minh chánh đại, đánh kính, đáng tôn? Ngươi có biết đâu sư phụ lại là người bại hoại nhất trần đời? Bởi là con người bại hoại, nên sư phụ mới sáng lập ra cái thứ hội quái dị như Long Hoa Hội này! Trong giang hồ chẳng có một bang, một hội, một môn, một phái nào có cái tà khí bằng Long Hoa Hội! Tà khí đến quy luật, sư phụ dụ hoặc người ngoài vào hội, lại đưa cả người trong sơn môn vào hội, do đó các ngươi mới thành hội viên Long Hoa Hội! Ngươi biết đâu, sư phụ là một tổ sư ma đạo, chẳng rõ trong những năm sau cùng, người sanh cái chứng tật gì, lại bỗng nhiên thích được liệt mình vào hàng tiên ông, tiên bà rồi gia công tập luyện, gia công nghiên cứu phương pháp thành tiên, tập luyện mãi, nghiên cứu mãi, đến phải lâm vào cảnh tẩu hỏa nhập ma phải mất mạng. Người trao «Tru Tiên Lịnh» cho Lâm Hương Đình, cai quản ba bảng Tiên, Ma, Quỷ, chẳng qua người muốn duy trì cái tà niệm do ma tâm phát sanh. Cho nên, Hội Long Hoa này, sở dĩ còn tồn tại, là chỉ để duy trì cái tà niệm của sư phụ, không hơn không kém! Hội, chẳng giúp ích cho đời, hội chẳng giúp ích cho người, hội còn tồn tại là để làm vui linh hồn người chết!

Lý Trại Hồng biến sắc, hét vang:

– Ngươi đừng bịa chuyện nói xấu sư phụ! Muốn giết ta ngươi cứ hạ thủ, còn về «Tru Tiên Lịnh», ngươi đừng hy vọng vô ích. Ta đã chôn giấu nó ở một nơi an toàn, vĩnh viễn ngươi chẳng bao giờ đoạt được nó đâu!

Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng:

– Đừng nói nhảm! Ta sẽ lục soát kỹ trọn tòa Tử Hư Thiên Phủ, ta sẽ đào sâu xuống lòng đất lạnh, nếu cần, ta đập vỡ từng viên đá, từng mảnh ngói thử xem ngươi giấu «Tru Tiên Lịnh» ở chỗ nào?

Lý Trai Hồng ưỡn ngực, vỗ tay vào đó thình thịch, thách:

– Thì ngươi cứ lục soát!

– Ngươi có bằng lòng trao ra cho ta hay không thì bảo?

Lý Trại Hồng quát trả:

– Không!

Đôi mắt của Tạ Linh Vận long lên, hung quang bắn ra, sáng ngời. Cánh tay y vung mạnh, thanh trường kiếm chớp chớp theo, gió rít vù vù. Kiếm khí bốc bốc ra, cuộn cuộn, ai ai cũng trông thấy rõ. Kiếm khí cuốn vút tới, cuốn vút tới, rọc nát ngực áo của Lý Trại Hồng, bày làn da trắng mịn của bà ta.

Từ lúc song phương giao thủ đến bây giờ, những người đứng bên ngoài lạnh lùng theo dõi cuộc đấu, chẳng ai biểu hiện một cảm nghĩ nào chứng tỏ là cái ý thiên về bên này hay bên kia, chỉ có Nhất u và Liễu Y Ảo lộ vẻ căm phẫn rõ rệt.

Những người lạnh lùng, không nói tiếng nào đã đành, đến những người căm phẫn, cũng chẳng nói chi cả. Thật là một sư kiện quái lạ!

Người trong cuộc, hẳn phải có bằng hữu, ở bên ngoài đứng xem chứ. Thế tại sao chẳng ai có thái độ gì, bênh vực bằng hữu, chống đối kẻ địch? Hay là cái quy luật tà ma bắt buộc mọi người phải im lặng?

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt, là người ngoài hội, không hề bị ràng buộc do bất cứ quy điều nào của cái hội lạ kỳ này, gia dĩ vốn tính cương trực, chàng không chịu nổi thái độ khiếm nhã của Tạ Linh Vận, cao giọng hỏi:

– Ngươi là người, hay là quái vật lại chẳng biết liêm sỉ? Trên thế gian này, tại sao có cái thứ nam nhân như ngươi? Ngươi lăng nhục một nữ nhân mà chẳng thẹn mình à? Khoát cái lốt tu mi nam tử mà hành động như thế, thật là hèn!

Tạ Linh Vận khinh thường, «xì» một tiếng:

– Tiểu tử từ đâu đến, dám nói năng cuồng loạn thế? Ngươi muốn chết gấp phải không?

Quan Sơn Nguyệt cất giọng sang sảng:

– Ta là Minh Đà truyền nhân! Ta là đệ tử của Hoàng Hạc Tán Nhân! Ta đến để trừ diệt một ác ma như ngươi!

Chàng cúi xuống, nhặt thanh trường kiếm do Lý Trại Hồng vuột tay đánh rơi.

Đoạn, chàng khoa thanh kiếm một vòng, nhún chân nhảy vọt tới.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 24

Ba Thước Gương Hùng

Quan Sơn Nguyệt đột nhiên can thiệp, làm cho một số người tại cục trường cả kinh, thất sắc. Và người bị kích thích nhiều hơn hết, chính là Liểu Y Ảo. Bà vừa lướt theo phía sau, vừa gọi to:

– Trở lại mau! Ngươi ra đó là chẳng khác nào tìm đường về âm cảnh!

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt vì nghĩa khí mà sanh phẫn nộ, cái trí làm trai đã bừng dậy rồi, khi nào chàng vì một lời cảnh cáo buông xuôi mà thay đổi thái độ?

Trái lại, lời cảnh cáo đó còn chạm nặng tự ái của chàng, lời cảnh cáo đó không làm chàng chùn lòng, mà có cái tác dụng đẩy mạnh chàng tới bước.

Cách Tạ Linh Vận độ nửa trượng chàng dừng chân, chỉ thẳng mũi kiếm vào mặt đối tượng, cất giọng oai nghiêm, thốt:

– Ác ma! Có thể tài nghệ của ta chẳng sánh bằng vũ công của ngươi.

Nhưng, một con người ác độc như ngươi, phàm ai ai cũng có bổn phận diệt trừ, dù ta không giết được ngươi, ta có thể chết dưới tay ngươi, ta cũng biểu dương cái chánh khí của hạng quân tử!

Tạ Linh Vận sững sờ, không tưởng là một tiểu tử dám buông tính ngông cuồng đến mức độ đó. Tức uất, thì bất quá chàng nói một vài câu, cho đỡ tức, chứ làm gì có can đảm tuốt kiếm thách thức y? Y quay đầu nhìn lại phía sau, hỏi:

– Tiểu tử đó từ đâu đến?

Những người đứng phía sau y chẳng một ai biết Quan Sơn Nguyệt. Họ không hiểu chàng là ai, thì làm sao họ đáp lời Tạ Linh Vận? Dù Quan Sơn Nguyệt có xưng danh rồi, y vẫn còn hỏi như vậy, thế là nghĩa gì? Y không tin lời Quan Sơn Nguyệt sao? Y không tin, những người kia cũng chẳng ai biết Quan Sơn Nguyệt, thì còn ai dám xác nhận lời chàng? Do đó mọi người im thin thít.

Liểu Y Ảo thấy thế, vội lên tiếng:

– Hắn là đồ đệ của Hoàng Hạc Tán Nhân đấy. Ngươi chạm đến hắn, thì đừng trách sau này Hoàng Hạc và đại sư tỷ ta trở lại, hỏi tội ngươi!

Tạ Linh Vận bật cười lớn:

– Hoàng Hạc Tán Nhân xưa nay từng tỏ ra là người rất cẩn thận, cớ sao lại thu nhận một gã vô dụng làm đệ tử ...

Quan Sơn Nguyệt hét chận liền:

– Ác tặc câm miệng lại! Hãy bước gấp tới đây, ta đưa về gấp chầu tiên tổ!

Tạ Linh Vận vẫn cười vang, cười cuồng dại, thanh trường kiếm trong tay, y chỏi mũi xuống đất, y không buồn nhìn chàng đến nửa mắt.

Quan Sơn Nguyệt không chịu nổi cái vẻ khinh khỉnh đó, quát lớn:

– Ác tặc! Thủ kiếm ngay, ta tấn công đây!

Tạ Linh Vận ngưng cười, bây giờ y mới nhìn chàng, lạnh lùng thốt:

– Tiểu tử ơi! Nếu ta so kiếm với ngươi, thì thật là tủi hổ cho cái đời luyện võ của ta quá chừng!

Y cao giọng gọi:

– Kích Trúc Sanh đâu, ta giao tiểu tử cho ngươi đó!

Kích Trúc Sanh ứng tiếng, bước tới cạnh y, y trao thanh kiếm cho Kích Trúc Sanh, cười lạnh, thốt:

– Trong vòng ba chiêu ngươi chẳng làm gì nổi tiểu tử thì ngươi đừng chường mặt tại cái Hội Long Hoa này nữa!

Kích Trúc Sanh thản nhiên tiếp nhận thanh kiếm, cái vẻ dửng dưng của lão ta chứng tỏ lão khinh thường Quan Sơn Nguyệt. Lão bước ra, đối diện với Quan Sơn Nguyệt, gọi chàng:

– Tiểu tử! Xuất chiêu đi! Tu La Tôn Giả hạn định cho ta ba chiêu, ta thấy cái số đó quá thừa! Bây giờ, ta tuyên bố là với một chiêu thôi, ta sẽ lấy đầu ngươi, nếu ta chẳng làm nổi việc đó, thì ta phải nạp mạng cho ngươi!

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Các hạ lui về đi, tại hạ không muốn động thủ với các hạ! Tại hạ chỉ thích sát hại lão ác ma kia thôi, các hạ là người vô can, nên tránh xa ngoài vòng tranh chấp với tại hạ.

Kích Trúc Sanh sôi giận, trầm giọng tiếp:

– Tu La Tôn Giả đâu có cái hứng thú so kiếm với một gã hậu sanh? Chính ta đây, bị bức bách phải trừng trị ngươi, chứ thực ra thì sao có xứng đối tượng mà ta xuất thủ?

Quan Sơn Nguyệt quay nhìn về phía hậu, cao giọng hỏi bâng quơ:

– Có nên giết lão ấy chăng?

Nhất u đáp nhanh:

– Phàm những kẻ đứng về phía đó, đều đáng tội chết cả, càng giết được nhiều, càng hay.

Quan Sơn Nguyệt trở lại nhìn Kích Trúc Sanh gật đầu:

– Cũng được! Ngươi muốn chết, ta cho chết, thu dọn ngươi rồi, ta sẽ tính đến cái lão kia. Bất quá, ta phải chậm lại mấy giây thôi!

Kích Trúc Sanh sôi giận đến xanh mặt, hoành kiếm ngang ngực trả đũa liền:

– Tiểu tử hãy chuẩn bị gấp, nếu không e trễ giờ tốt lên đường về Quỷ Môn Quan đấy!

Quan Sơn Nguyệt không đấu miệng nữa, sang qua giai đoạn đấu kiếm.

Chàng phát xuất một chiêu.

Thanh kiếm dài độ ba thước, kiếm ảnh chớp lên, nối dài thêm một khoảng, cong độ nửa trượng.

Kích Trúc Sanh cười lạnh, vung kiếm nghinh đón.

Hai ánh thép chớp lên, chớp rồi tắt nhanh, song phương lui lại, mỗi người một bước.

Tại sao? Hai thanh kiếm không hề chạm nhau, mà cả hai cùng lùi bước?

Tại cục trường, ai ai cũng kinh dị, trước hiện tượng lạ lùng đó. Giải thích trường hợp, chỉ có mỗi một lý do, là song phương thu hồi chiêu thức khi chiêu thức được phát xuất nửa tầm nhưng lý do đó không vững, bởi bên nào cũng quyết liệt, bên nào cũng muốn hạ sát đối tượng qua một chiêu đầu thôi.

Thực ra, sở dĩ song phương cùng lùi lại, là vì chiêu kiếm của Quan Sơn Nguyệt cao minh trên hẳn chỗ tưởng của mọi người.

Những tay kiếm siêu việt khác, thường sở cậy kiếm khí kích đối phương, chẳng hạn như Tạ Linh Vận vừa rồi, dùng kiếm khí rọc nát ngực áo của Lý Trại Hồng, mà không cần phóng kiếm chạm đích.

Quan Sơn Nguyệt cũng thế, song chàng sở cập kiếm ảnh.

Vung kiếm lên, kiếm ảnh phát sanh, kiếm ảnh và thân kiếm như hoà hợp nhau thành một, vừa hữu hình mà cũng vừa vô hình, biến thanh kiếm thành dài ra, có thể gây thương thế cho địch ngoài tầm thông thường của một kiếm. Như vậy, chàng không cần gần địch trong khoảng cách thông thường đó, cho nên hai thanh kiếm chẳng hề chạm nhau, và chàng vẫn chạm trúng đối tượng dễ dàng. Có điều, chạm trúng địch rồi, chàng lùi lại một bước, bảo trì cái tư thế vững chắc, vì vậy, song phương cùng lùi cả, và người ngoài cuộc chẳng ai biết tại sao.

Còn Kích Trúc Sanh lùi lại là lẽ đương nhiên, bởi lão ta đã lãnh một vết kiếm nơi ngực, máu rỉ ra, thấm đỏ áo nơi đó, vết máu không lớn lắm, nhưng ai ai cũng trông thấy rõ. Lão biến sắc mặt, sững sờ một lúc, sau cùng lão hét to lên:

– Được rồi, tiểu tử! Ta giữ lời hứa, trao tánh mạng ta cho ngươi đây.

Lão hoành kiếm, chỉ mũi ngay ngực, sắp sửa đâm ngược vào.

Tạ Linh Vận nhanh như chớp, vọt mình tới, dùng ngón tay búng bay thanh kiếm.

Kích Trúc Sanh sững sờ, một phút sau, niềm thống khổ hiện lên gương mặt, lão kêu khẽ:

– Tôn giả ơi! Lão phu còn mặt mũi nào sống sót nữa?

Tạ Linh Vận lắc đầu:

– Ngươi không đáng trách. Lỗi tại ta, ta xem thường tiểu tử nên mới có sự đó!

Rồi y tự lẩm nhẩm:

– Không ngờ tiểu tử có vũ học cao thâm như thế! Hắn cũng giỏi che dấu năng lực tiềm tàng, đến ta mà vẫn không thấu đáo, thì còn ai có nhãn lực nhận ra thực tài của hắn? Chiêu kiếm của hắn, nếu chính là ta ở địa vị của Kích Trúc Sanh, vị tất ta tránh khỏi?

Y tự thốt, song Quan Sơn Nguyệt nghe lọt. Chàng cao giọng hỏi:

– Chuẩn bị đi, ta sắp xuất phát chiêu thứ hai đây!

Một tia sáng quái dị chớp lên trong đôi mắt của Tạ Linh Vận. Y «hừ» nhẹ một tiếng, đoạn đáp:

– Tiểu tử đừng vội buông tính ngông cuồng, dù rằng ngươi đắc thủ qua chiêu kiếm đó, song sự kiện không đủ làm cho ngươi hãnh diện đâu. Kích Trúc Sanh sơ suất, mới tạo dịp cho ngươi thành công, chứ gặp bổn Tôn giả rồi, ngươi đừng hòng thi thố một điểm nghệ thuật nhỏ. Cái điều ta lạ lùng, là Hoàng Hạc làm gì tạo được một truyền nhân như ngươi? Ta biết chắc lão ấy chẳng bao giờ lãnh hội được một kiếm pháp cao minh như ngươi vừa thi triển?

Y dừng lại một chút, tiếp hỏi:

– Theo ta hiểu, kiếm pháp của ngươi, chẳng phải do Hoàng Hạc truyền thọ.

Thế ai chỉ điểm cho ngươi?

Quan Sơn Nguyệt cười lớn:

– Ta nói ra, đã chắc gì ngươi chịu tin? Thực sự chiêu thức đó, một phần do ngươi truyền thọ, còn phần kia thì do Lý Trại Hồng Tiên Tử!

Tạ Linh Vận sôi giận, quát:

– Tiểu tử đừng vọng ngôn! Bình sanh ta có biết ngươi là ai đâu ...

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Ngươi quên rằng vừa rồi ngươi giao đấu với Lý Tiên Tử à? Ta đứng bên ngoài xem cuộc đấu, nhận xét chiêu hay, phê phán chiêu dở, ta dung hoà hai kiếm pháp làm một, nghĩ ra những chiêu kỳ lạ, đối phó với các ngươi. Như vậy không phải do ngươi và Lý Tiên Tử truyền thọ, thì là gì chứ?

Tạ Linh Vận biến sắc, ấp úng:

– Tiểu tử ... nói thật?

Quan Sơn Nguyệt cười lớn:

– Không thật thì dễ thường ta đùa với ngươi à? Ta đâu có thì giờ thừa thải để đùa với ngươi? Nghe ngươi nói thế ta đoán ra công phu tu dưỡng của ngươi về kiếm thuật chưa được thâm hậu cho lắm, ngươi còn lâu mới đạt đến mức hỏa hầu!

Chàng dừng lại một chút rồi nghiêm giọng tiếp:

– Ngươi bình tâm, nhận xét chiêu kiếm vừa rồi của ta, tự nhiên ngươi hiểu rõ mà chẳng cần hỏi ta học nơi ai.

Tạ Linh Vận sững sờ, trầm ngâm một lúc. Sau cùng, y gật đầu, thốt:

– Được rồi! Ta muốn xem ngươi học lén lút được bao nhiêu ngón nghề!

Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:

– Câu nói của ngươi chứng tỏ cái trí của ngươi còn thấp quá! Phàm một kiếm pháp cao minh, nào có phải do quy tắc, hình thức mà cao minh. Quy tắc, hình thức, chẳng qua là một phương tiện chỉ dẫn cách tập luyện thôi, còn kiếm pháp có biểu hiện được sự cao minh hay không, là do người lãnh hội, do cái mức lãnh hội của người học tập. Ngươi đánh ra một chiêu, cái chiêu đó có phát huy được chỗ linh diệu hay không là do linh khiếu của ngươi, chứ nào phải tại chiêu?

Ta nhìn hình thức của chiêu, chứ ta có nhìn được chỗ linh diệu đâu? Về chiêu thức, thì ai ai cũng tập được, về linh diệu thì chẳng phải mỗi người mỗi lãnh hội.

Ngươi và ta đánh ra một chiêu giống nhau, cũng như bất cứ ai có học kiếm cũng biết đánh những chiêu thức giống nhau, song điểm linh diệu thì ở mỗi người mỗi có mức độ, do tư chất, ta dù có hơn ngươi, cũng bằng vào tư chất đó, chứ nào phải ta học lén nơi ngươi đâu? Cho ngươi biết, chiêu thức của ngươi đánh ra còn thô sơ lắm đó, ta phải sửa chữa lại cho toàn thiện toàn mỹ mới mang ra xử dụng được!

Chàng kết luận với giọng châm chích:

– Nghĩ cho cùng, kiếm pháp của ngươi ở mức sơ đẳng!

Trước mặt đông người, bỗng nhiên lại bị Quan Sơn Nguyệt chỉ trích, khinh miệt, Tạ Linh Vận phải tức uất, y vung tay, thanh kiếm do Kích Trúc Sanh bõ rơi trên mặt đất bay lên, y chụp thanh kiếm, đoạn quát lớn:

– Tiểu tử khéo khua môi, dùng cường từ toan đoạt lý, cái tội của ngươi khinh thường hạng tiền bối đáng bị trừng trị lắm! Hãy thưởng thức «Tu La Tứ Thức» của ta đây!

Liểu Y Ảo hấp tấp kêu lên:

– Tu La? Ngươi mặt dày mày dạn đến thế à? Ngươi định mang cả «Tu La Tứ Thức» ra đối phó với hắn?

Tạ Linh Vận bật cười hắc hắc:

– Tiểu muội ơi, từ bao lâu rồi ta không hề thấy ngươi đối với nam nhân nào tỏ ra quan tâm như vậy. Hôm nay ngươi cho thấy cái điểm đặc biệt đó! Ta tưởng ngươi cũng biết hắn là đệ tử của Hoàng Hạc, và biết như vậy thì cũng nên giữ sao cho cái tôn ti đừng loạn.

Lão ta nói thế tức nhiên Liểu Y Ảo còn trẻ tuổi, có trẻ tuổi thì Tiên tử mới bị lão ghép với Quan Sơn Nguyệt. Còn nhỏ tuổi Liểu Y Ảo đâu có thể là tiền bối của Quan Sơn Nguyệt?

Thế ra chàng gọi Tiên tử với cái tiếng bà là sai, và chàng phải gọi là cô nương mới đúng.

Chẳng qua con người luyện vũ công thường giữ được cái nhan sắc lúc cao niên như hồi thanh xuân, vũ công càng cao thì nhan sắc càng giữ được lâu dài, cho nên những nữ nhân trong lứa tuổi trên dưới bốn mươi còn trẻ đẹp như lúc trên dưới đôi mươi.

Liểu Y Ảo xanh mặt, nghiến răng ken két, vì giận quá nên Tiên tử chẳng thốt được tiếng nào.

Tạ Linh Vận bật cười hăng hắc, tiếp luôn:

– Trong bao nhiêu năm qua, ta hằng tưởng một biện pháp nào gây cho ngươi một sự thương tâm. Hôm nay cái cơ hội đã đến với ta.

Quan Sơn Nguyệt nghe y càng phút càng nói những tiếng khó để lọt vào tai, bất giác phẫn nộ, hét lên một tiếng, vung kiếm liền.

Kiếm chớp, người chớp, ánh kiếm xẹt ra bóng người cũng vọt theo.

Trong chớp mắt, chàng đánh ra năm nhát, oai lực hùng mãnh phi thường, chiêu thức cực kỳ quái dị.

Tạ Linh Vận tuy đón đở được đủ cả năm chiêu, song không giấu nỗi sự lúng túng. Y hấp tấp kêu lên:

– Tiểu tử! Kiếm pháp gì mà lạ thế?

Quan Sơn Nguyệt luôn tay vung kiếm đồng thời mỉa:

– Đôi mắt của ngươi to thế mà cũng không nhận ra sao?

Tạ Linh Vận vừa hoá giải một chiêu kiếm của Quan Sơn Nguyệt, vừa hét:

– Thì ra tiểu tử dùng «Kim Thần Thập Bát Thức» của lão Hoàng Hạc, sửa đổi một chút để che mặt ta!

Quan Sơn Nguyệt giật mình, thầm phục nhãn lực của đối tượng rất tinh vi.

Đúng như Tạ Linh Vận nói, chàng vừa xử dụng kiếm pháp «Kim Thần Thập Bát Luân» của Độc Cô Minh, song chàng đánh loạn lên, đảo ngược cả quy tắc.

Sở dĩ chàng phải đánh loạn như vậy, chẳng phải do ý muốn mà là vì sự thể chẳng đặng đừng, Kim Thần là vật nặng, kiếm là vật nhẹ, dùng vật nhẹ mà thi triển một môn công của vật nặng, tự nhiên khó dung hoà, và không tránh khỏi vấp váp ít nhiều lộ liễu.

Quan Sơn Nguyệt biết rõ đối phương có vũ công rất cao, nên cố gắng dụng mọi sơ hở, thế mà vẫn không tránh khỏi sự nhận định của Tạ Linh Vận.

Chàng phải kinh sợ đối phương, song ngoài mặt duy trì sự bình tĩnh, cười lạnh thốt:

– Ngươi tự hào là một danh gia, sao lại nói năng nông cạn như thế?

Tạ Linh Vận giật mình:

– Không lẽ ta đoán sai? Hai mươi năm trước đây, Hoàng Hạc đã xử dụng «Kim Thần Thập Bát Luân», vượt qua «Lôi Đình Tam Kích», vào Hội Long Hoa đoạt luôn chức vị Hội Chủ, mãi cho đến nay, ta còn nhớ rõ kia mà!

Quan Sơn Nguyệt bỉu môi:

– Hành trình muôn vạn dặm, mỗi bước đi là mỗi khác, những bước đi sau đâu phải tuyệt đối giống bước đầu tiên lúc xuất hành? Thì cái việc vài mươi năm sau làm gì giống việc vài mươi năm trước? Ngươi quên rằng sao có thể dời, và vật luôn luôn đổi trò biến chuyển là bí quyết của tạo hoá để mãi mãi được thượng tôn. Ngươi đem kiến thức ngày trước mà luận việc đời sau, tự nhiên phải sai.

Tạ Linh Vận bị Quan Sơn Nguyệt chỉnh cho mấy câu, thẹn đỏ mặt. Thẹn quá, hoá giận, y gằn giọng hỏi:

– Tiểu tử còn bao nhiêu chiêu kiếm nữa? Ta hỏi về cái thứ kiếm pháp quái dị của ngươi đó.

Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:

– Học kiếm thuật mà lại đi hỏi đối phương có bao nhiêu chiêu thì thực là ngu ngốc. Ngươi quên rằng vũ học có câu thiên biến vạn hoá chăng? Phàm đã nói đến hai tiếng biến hoá, thì còn hạn định trong một con số thế nào được?

Chàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:

– Tuy nhiên, giúp ngươi khỏi thắc mắc, ta có thể cho ngươi biết như thế này, bỏ ra những biến hoá trùng trùng điệp điệp, kiếm pháp của ta gồm chín chiêu gốc, ta đã thi triển bảy chiêu rồi, còn lại hai chiêu cuối, mà cũng là hai chiêu tối lợi hại, hai chiêu đó bao quát tinh hoa của bảy chiêu đầu, sự linh diệu của hai chiêu đó vượt hẳn bảy chiêu kia hợp lại.

Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng:

– Ta có thể phản công, nhưng nghe ngươi nói thế, ta cũng kiên nhẫn đợi ngươi xử dụng nốt hai chiêu cuối cùng mà ngươi sở cậy, sau đó ta sẽ giở «Tu La Tứ Thức» của ta, giáo huấn ngươi giảm bớt cái thói ngông cuồng. Ta sợ rằng ngươi không thể tránh khỏi thảm bại dưới lưỡi kiếm của ta.

Y ung dung đối thoại, song trong thâm tâm, niềm lo ngại đã dấy lên rồi, y cho rằng tiểu tử trước mặt có dũng khí, can đảm và cơ trí trên hẳn sư phụ của chàng. Y nghĩ, Hoàng Hạc chẳng phải là con người hàm hồ, thì sự chọn lựa truyền nhân hẳn phải cẩn thận, rồi chính y mục kích hành động của Quan Sơn Nguyệt, y phải công nhận chàng cao minh hơn sư phụ chàng.

Nhận xét như vậy, Tạ Linh Vận càng cẩn thận hơn, dù bên ngoài lại tỏ lộ sự khinh thường.

Quan Sơn Nguyệt đánh tiếp một nhát kiếm, thế kiếm kỳ dị vô cùng, không đi thẳng, mà lại ngoằn ngoèo, theo hình chữ chi, một thế kiếm như vậy hẳn phải ảo diệu, mà đối phương cũng chẳng tài nào ước độ được cái đích của thế kiếm ở bộ vị nào trên cơ thể.

Tạ Linh Vận giật mình. Y chỉ nhận ra nửa phần của chiêu thức thôi, phàm nhận định nửa phần, còn nữa phần kia thì lại mơ hồ, gây cho y sự hoang mang như thế làm sao y hoá giải được?

Không hoá giải được, y phải lui, né tránh, thầm nghĩ:

“Cũng may là ta không quá khinh thường như trước, nếu ta sơ suất một chút, thì nguy rồi!”.

Thế kiếm do chính Quan Sơn Nguyệt chế biến ra, chàng dung hợp kiếm pháp của Độc Cô Minh với «Linh Xà Tiên Pháp» của họ Lạc mà tạo thành. Thực ra, chàng cũng không tin tưởng lắm ở chỗ diệu dụng của những chiêu mới mẻ do chàng sáng chế dung hợp, cho nên chàng đánh ra mà không hy vọng hoàn toàn đắc thủ.

Bất quá, nhân dịp này, chàng mang ra thực nghiệm vậy thôi, vì thế phần lợi hại có kém đi, Tạ Linh Vận không đến độ nào bị bức đến độ khoanh tay chịu bại.

Y không phản công, song y vẫn né tránh được.

Sau lưng Quan Sơn Nguyệt, Nhất u cao giọng thốt:

– Bức thoái được Tu La Tôn Giả, khiến cho lão không phương hoàn thủ, ngươi quả là một tay khá đó, tiểu tử, ngươi có thừa tư cách được liệt trên Tiên Bảng ...

Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng. Y mong Quan Sơn Nguyệt đánh tiếp chiêu kế, cái chiêu cuối cùng của kiếm pháp gồm chín chiêu, như chàng đã tuyên bố.

Phàm những tay kiếm cao thâm, gặp được người tài giỏi, ai ai cũng phấn khởi phi thường, phấn khởi vì được dịp nghĩ cách đối phó với những tuyệt chiêu đồng thời sửa chữa những sơ hở của mình.

Thực tâm mà nói, Tạ Linh Vận cũng có ý đó.

Mà chính Quan Sơn Nguyệt cũng vậy. Chàng suy nghĩ một chút, đoạn từ từ đưa kiếm ra, trông thấy thủ pháp của chàng, Tạ Linh Vận giật mình.

Giật mình, không phải vì y khiếp hãi trước một chiêu kiếm kiếm tân kỳ.

Y nghĩ, chiêu đó là chiêu cuối, phàm trong một kiếm pháp những chiêu sau phải là độc đáo hơn những chiêu trước, và chiêu cuối cùng hẳn phải độc đáo hơn tất cả, nó bao gồm tinh hoa của những chiêu trước nó định đoạt cái giá trị của toàn bộ kiếm pháp, nó là chiêu tổng hợp, nếu những chiêu đầu không tạo được thành tích thì chính nó cứu vãn tình hình, chuyển bại thành thắng, thu nhập cái kết quả mong muốn. Do đó, y đinh ninh Quan Sơn Nguyệt phải đánh ra một chiêu hết sức bí hiểm. Y đặt trọn kỳ vọng nơi chiêu đó, để nhân sở năng của đối thủ suy ra sở đắc, rồi tìm cách chế ngự địch. Biết được xuất xứ môn công của địch, là cầm chắc nữa phần thắng lợi, từ cái biết đến hoá giải, chẳng xa lắm.

Ngờ đâu, chiêu thức thứ chín của Quan Sơn Nguyệt rất tầm thường, nếu không nói là một chiêu thô tục, phàm ai học võ đều biết qua, và cũng chẳng ai chịu xuất phát. Chiêu đó, có cái tên là «Biện Trang Thích Hổ»!

Y giật mình, y lấy làm lạ, song chẳng dám khinh thường, thầm nghĩ:

“Sao tiểu tử đánh ra một chiêu như thế? Hay là hắn còn có cách biến hoá quái dị?”.

Y chú mắt nhìn thanh kiếm của Quan Sơn Nguyệt, chực chờ một thay đổi.

Quan Sơn Nguyệt vẫn từ từ đánh ra chiêu đó, đưa nó dần dần trọn đà, và mũi kiếm chong ngực Tạ Linh Vận, chỉ còn cách độ một tấc nữa thôi.

Thanh kiếm đã đến qua gần đích, vẫn chưa có vẻ gì là chiêu thức sẽ biến đổi, như Tạ Linh Vận nghi ngờ.

Bởi chưa lấy chủ ý, Tạ Linh Vận chưa có một động tác nào, bất quá y vận khí toả ra khắp cơ thể, nhất là nơi ngực, biến nơi đó cứng rắn y như kim cương. Y nghĩ, dù Quan Sơn Nguyệt không biến chiêu, cứ cái đà đó mà đâm tới, thì chàng cũng chẳng làm gì y nổi.

Mũi kiếm đã đến sát ngực Tạ Linh Vận. Chàng mỉm cười thốt:

– Ngươi bại rồi! Mũi kiếm của ta đã chạm trúng ngực ngươi rồi đó!

Tạ Linh Vận ngạc nhiên, hỏi:

– Ngươi dùng chiêu gì thế?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Biện Trang Thích Hổ!

Tạ Linh Vận suýt nhảy dựng lên hét to:

– Sao? Chiêu Biện Trang Thích Hổ? Ngươi có thể dùng một chiêu thô tục như vậy à?

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Chiêu thức thô tục thật, song công hiệu của nó phi thường, nó khắc địch dễ dàng.

Tạ Linh Vận nổi giận:

– Câm miệng đi, tiểu tử? Nếu ta biết được ngươi xử dụng một chiêu thối tha như vậy, thì ta đã xuất thủ rồi, ta đã thi triển «Tu La Tứ Thức», biến hoá thành mười hai chiêu phụ, ta hạ sát ngươi từ lâu, xác ngươi phải tan nát ...

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Ngươi nói đúng, nhưng ngươi không làm, bởi ngươi chẳng dám làm. Ngươi không tin tưởng là sẽ thành công, ngươi do dự vì chưa biết rõ thực lực đối phương.

Bởi muốn gây hoang mang cho ngươi, ta dùng một chiêu hết sức tầm thường khiến ngươi chẳng biết suy đoán ý tứ của ta ra làm sao nữa. Ngươi biết không, kiếm pháp quý ở chỗ làm sao cho đối phương không thể ức độ chỗ cao thâm, và những chiêu thông thường lại rất thích hợp cho những lúc muốn gây hoang mang, nó từ cái chỗ thông thường biến thành thần kỳ bí ảo, nó tạo kết quả trên chỗ mong muốn, như ngươi đã thấy. Cho nên, đừng bao giờ khinh miệt những chiêu sơ đẳng.

Nhất u đứng phía sau, hoan hô ngay:

– Cao minh! Cao minh lắm đó lão đệ! Lão phu bội phục! Bội phục!

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Tiền bối quá khen!

Chàng quay qua Tạ Linh Vận, nghiêm giọng tiếp:

– Ngươi hoang mang, do dự, khinh miệt, rồi nghi ngờ, tự nhiên không dám xuất thủ, trong khi đó, ta cứ nhít mũi kiếm tới, còn ngươi thì chờ đợi một biến hoá.

Mũi kiếm đi tới mãi còn ngươi thì bất động, bảo sao kiếm chẳng chạm đích? Bảo sao ta không thành công?

Tạ Linh Vận tức uất đến có thể chết được. Y hét to:

– Ngươi gian hoạt quá chừng, ngươi tàn độc quá chừng! Đã chiếm tiên cơ, sao ngươi không đâm luôn cho ta mất mạng?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Ta chỉ muốn ngươi cúi đầu, chứ ta có muốn ngươi bị lủng ngực đâu?

Tạ Linh Vận cười lạnh:

– Ngươi tưởng việc đó dễ làm lắm sao chứ?

Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:

– Ta biết ngươi đã luyện được cương khí hộ thân, ngươi đạt đến mức độ rất cao cho nên ta không muốn đắc thủ một cách quyết liệt, chắc ngươi cũng nhận ra là ta không dụng lực chuyển qua mũi kiếm chứ? Ta có ý cảnh cáo ngươi, từ nay đừng quá ỷ tài, xem thường đồng đạo vũ lâm.

Tạ Linh Vận thẹn đỏ mặt, vội phân tán vầng cương khí bao bọc quanh mình.

Duy trì kình khí đó, bảo vệ cơ thể, tất y phải có tư thế khẩn trương, mà thân phận của y chẳng phải thấp kém gì, đối với một thiếu niên, y tỏ lộ vẻ khẩn trương, thì còn cho là thể thống? Do đó, y phải phân tán chân ngươn, lấy lại bình thường.

Nhưng, vừa lúc đó, Quan Sơn Nguyệt phóng sang một nhát kiếm.

Tạ Linh Vận chưa phân tán hết chân ngươn, y hoảng hồn, vội nhún chân tung bổng người lên không, phần kình khí còn lại thừa hiệu lực lôi cuốn thanh kiếm của Quan Sơn Nguyệt vuột tay, buông luôn thanh kiếm.

Kiếm vuột tay, đà tay còn đi tới, thân hình lướt theo, chàng chới với, chồm về phía trước.

Tạ Linh Vận tránh được nhát kiếm đó, đáp xuống đất, gương mặt biến xanh dờn. Y kêu lên:

– Tiểu tử! Sao ngươi hèn thế.

Mọi người đứng bên ngoài cũng kinh hãi chẳng ai tưởng là Quan Sơn Nguyệt có thể hành động kém tư cách như vậy.

Quan Sơn Nguyệt chới với, chồm về phía trước, ấn chân đứng lại vững vàng rồi, điềm nhiên điểm nhẹ một nụ cười, đáp:

– Tại hạ hành động, toàn bằng ý trời, trời bảo sao là làm vậy, chẳng hề xử sự theo một thủ đoạn nào. Các hạ là một Ma vương, các hạ làm nhiều tội ác, trời phải tru, đất phải diệt, tại hạ vâng theo ý trời, trừ gian diệt bạo ...

Tạ Linh Vận sững sờ, trong phút giây bất ngờ, chẳng làm sao nói được một tiếng.

Quan Sơn Nguyệt lại cười hì hì, tiếp nối luôn:

– Nghe cái hiệu của ngươi, Tu La Tôn Giả, ta biết ngay ngươi là lãnh tụ quần Ma, mà Ma là gì, nếu chẳng phải là một thứ người có hành động vô thường, chẳng ai lường được, phản phúc, xảo trá, gian đoạt, tàn độc, hung bạo, nham hiểm, có cái gì mà Ma chẳng dám làm? Huống hồ ngươi là một lãnh tụ? Phàm là lãnh tụ, hẳn phải có thành tích hơn bọn dưới tay, hẳn phải tàn độc, nham hiểm, xảo trá, gian đoạt hơn bọn dưới tay, thì chính ngươi phải chết trước! Ta nhân dịp ngươi lơi cảnh giác, định trừ diệt ngươi, ta lấy tư cách Ma, trừ diệt Ma, ngươi có lý do gì mắng ta? Từ bao lâu nay, ngươi hành động như thế, sao ngươi chẳng thấy mình kém tư cách? Trái lại, ngươi còn tự hào, ngươi hãnh diện?

Tạ Linh Vận đuối lý, đâm thẹn, càng thẹn càng tức uất. Tuy y nhảy vọt lên, tuy y làm rơi kiếm của Quan Sơn Nguyệt, song nơi ngực y vẫn bị kiếm gây một vết thương. Y đưa một tay chận nơi vết thương, tay kia vung kiếm, cao giọng quát:

– Không trừ diệt tiểu tử này, thì vĩnh viễn Ma giáo chẳng còn vươn cao đầu lên với người đời nữa!

Y vừa buông đứt câu nói, quần ma đứng phía sau y nhát động thân hình, tất cả đều chuyển bước, tạo thành vòng vây quanh Quan Sơn Nguyệt.

Lý Trại Hồng và Liểu Y Ảo hét lên, vọt mình tới, vào tận trung ương, đến Nhất u cũng chẳng thể thản nhiên, bước theo hai người.

Thế chiến đã phân thành song phương rõ rệt, và bây giờ, nếu có động thủ, thì chắc chắn là họ hỗn chiến, chứ chẳng còn độc tấu nữa rồi.

Cục diện đã dàn thành tư thế đối chiến. Tạ Linh Vận cao giọng quát:

– Các ngươi còn chờ gì nữa?

Lịnh thủ lãnh đã ra, có thuộc hạ nào lại dám bất tuân?

Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:

– Tu La! Ngươi đã thọ thương rồi, chính ngươi mà còn thế, liệu bọn kia sẽ làm nên được việc gì mà ngươi xua chúng vào cuộc?

Tạ Linh Vận giật mình. Lời nói của Lý Trại Hồng có lý lắm. Chính y mà còn bại cuộc, thì bọn kia chắc gì báo cái hận của y nổi?

Đối phó với Lý Trại Hồng và Liểu Y Ão, quần ma chưa hẳn giữ được thế quân bình, hà huống động thủ với Quan Sơn Nguyệt này cho rằng trên hẳn chị em họ một bậc? Y do dự một chút. Sau cùng, y đáp:

– Lý Trại Hồng, ta nhìn nhận hôm nay ngươi gặp may đó! Ta lầm kế của tiểu tử, ta nhận bại, tuy nhiên tạm thời thôi đấy nhé, các ngươi nên cẩn thận ngay từ giờ này là vừa. Chỉ trong ba hôm thôi, vết thương của ta lành rồi, các ngươi sẽ thấy thủ đoạn của ta. Ta xem các ngươi trốn nơi nào khỏi tay ta cho biết!

Lý Trại Hồng cười lạnh:

– Trong ba hôm nữa, ta sẽ có biện pháp đối phó với ngươi. Ngươi yên trí!

Tạ Linh Vận lạnh lùng:

– Được lắm! Ta chờ xem ngươi sẽ áp dụng biện pháp gì!

Quần ma bao vây bên ngoài, tự động giải tán, chẳng cần chờ Tạ Linh Vận ra lịnh. Rồi tất cả ủng hộ Tạ Linh Vận rời cục trường.

Khi chúng rời xa độ một trượng, Quan Sơn Nguyệt trầm giọng hỏi:

– Dịp tốt, trừ diệt quần Ma, sao Tiên tử bỏ qua? Buông tha chúng, là muôi dưỡng hậu hoạn đó!

Lý Trại Hồng lắc đầu, thở dài:

– Ngươi chẳng biết đâu!

Vừa lúc đó, Linh Cô từ phía toà lầu bước đến, nàng đến với hai tay không.

Nàng kêu lên:

– Không xong rồi, tiên tử ơi! Bạch ...

Liểu Y Ảo dững cao đôi mày, hét lớn:

– Tiểu quỷ! Ngươi học ở đâu cái thói hồ đồ hấp tấp thế?

Liểu Y Ảo lập tức quay qua Lý Trại Hồng, thấp giọng:

– Tôi chỉ sợ sự tình diễn tiến không thuận lợi rồi đó, sư tỷ! Có lẽ đại sư tỷ đã mang luôn theo mình thanh Bạch Hồng Kiếm!

Lý Trại Hồng ngưng trọng thần sắc:

– Ta đã biết trước như vậy rồi, cho nên ta liều sanh tử tranh chấp với bọn kia cốt để ...

Liểu Y Ão khoát tay:

– Đừng cho chúng biết chứ, sư tỷ! Bây giờ, mình phải làm sao đây?

Lý Trại Hồng suy nghĩ một chút:

– Thong thả rồi mình nghĩ ra cách ứng biến với tình thế! Cứ giải quyết vấn đề tại chỗ trước, còn việc kia, chúng ta sẽ thương lượng sau.

Vấn đề tại chỗ, là quan sát kỹ xem bọn người của Tạ Linh Vận có còn lẫn quẫn câu đó, âm thầm nghe ngóng câu chuyện của cả hai hay không. Bởi, Tạ Linh Vận đã đi rồi, thì còn lo ngại gì nữa?

Sau đó, Liểu Y Ảo cởi chiếc áo ngoài, trao cho Lý Trại Hồng, Lý Trại Hồng tiếp lấy, mặc vào mình, đoạn cả hai một trước một sau chạy đi liền.

Nhất u bước đến gần Quan Sơn Nguyệt, vỗ tay lên vai chàng, thốt:

– Hôm nay, nhờ có lão đệ, bọn lão phu mới thoát khỏi cơn khó khăn ...

Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:

– Sự tình ra sao? Tại hạ nhìn qua thần sắc của các vị nhận thấy có cái gì nghiêm trọng lắm ...

Nhất u cười hắc hắc:

– Đừng nóng, lão đệ, trong chốc lát đây, lão đệ sẽ hiểu. Long Hoa Hội đã không còn là bí mật đối với lão đệ nữa, thì lão phu sẽ nói rõ cho lão đệ biết những gì lão đệ chưa biết và muốn biết. Bây giờ, lão đệ đi theo lão phu đây, xem việc ấy ra sao!

Thốt xong, lão chạy đi.

Quan Sơn Nguyệt theo sau liền.

Càng đi tới, họ càng lên cao, họ đến một cái đài, đài bằng đá nhô lên rất cao, bên dưới chân dài, có rất nhiều người, dàn thành hai hàng, như đối trận với nhau.

Người trong ba bảng Tiên, Ma, Quỷ có đủ mặt trong hai hàng đó, họ đứng lẫn lộn nhau, không phân biệt hẳn nhóm nào theo nhóm ấy.

Lý Trại Hồng đã đến nơi đó rồi. Nhìn qua cục diện, bà hỏi:

– Ai có chủ ý phân tách họ ra làm hai nhóm thế?

Khổ Hải Từ Hàng đáp:

– Chính bần tăng an bày như vậy.

Lý Trại Hồng giật mình:

– Sao ngươi biết chứ?

Mặt lộ vẻ từ bi, Khổ Hải Từ Hàng tiếp:

– Một tháng trước đây, bần tăng hân hạnh được Hoàng Hạc và Hương Đình cho biết, Long Hoa Hội sẽ giải tán, và thời gian giải tán là hôm nay ...

Lý Trại Hồng nổi giận:

– Ngươi nói cái gì? Thế ra, các ngươi đã thương nghị với nhau?

Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:

– Biển khổ không bờ, quay đầu là thấy bến, Hương Đình Tiên Tử đã giác ngộ những lỗi lầm, còn Lý Tiên Tử sao lại cứ chấp mê, không noi theo gương Hương Đình?

Lý Trại Hồng sững sờ, suy tư một lúc lâu, đoạn hỏi:

– Ngươi nói nghe dễ dàng quá chừng! Bây giờ sự việc đã kết thúc như thế này, ngươi bảo ta phải thu xếp cách nào cho ổn thoả?

Khổ Hải Từ Hàng cứ theo cái lối lo trời lo đất, dùng giọng bao hàm, thực thực, hư hư thốt:

– Làm lành, gặp lành, làm dữ gặp dữ, lành có lành báo, dữ có dữ báo trời phật không đặt để một hậu quả nào cho con người, mà chính con người tự tạo, ai có ra sao thì ra nào phải do một Tiên tử thu xếp mà gọi lẽ ổn thoả?

Tạ Linh Vận cũng có mặt tại chỗ, Khổ Hải Từ Hàng quay qua Tạ Linh Vận, tiếp luôn:

– Lòng hướng thiện thì nơi nào mà chẳng là cảnh Tiên, đợi gì phải đến cảnh xa xôi, rồi sanh ra tranh giành, rồi đưa nhau đến cuộc đổ máu? Lòng dưỡng ác, dù ở cảnh Tiên cũng như ở cảnh Ma, có khi nào trí được tịnh thần được nhàn đâu mà hưởng những thú thanh cao của cảnh Tiên? Tiên và Ma khác nhau ở nơi lòng, chứ chẳng phải cái khung cảnh bên ngoài, chẳng phải ở cái tên do con người tự đặt, ở những thứ bậc do con người bày ra ...

Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng, trầm giọng thốt:

– Ta không tưởng ngươi luôn luôn kiếm cách pá vỡ Hội Long Hoa này! Rồi ngươi sẽ trả giá đắt với việc làm của ngươi! Đừng tưởng cái lý thuyết của ngươi có thể lung lạc được tâm hồn của bất cứ ai ngươi lầm to!

Khổ Hải Từ Hàng điềm nhiên:

– Các hạ cho là lý thuyết, bần tăng lại nghĩ đó là cái đạo từ bi, bần tăng còn sống ngày nào, là chuyên lo cho đạo từ bi ngày ấy. Bần tăng quyết cứu độ Tôn Giả, đưa Tôn Giả từ cõi Ma về cõi Phật ...

Tạ Linh Vận cười lạnh:

– Ngươi cứ chờ, ngươi đưa ta từ cõi Ma đến cõi Phật hay ta đưa ngươi từ cõi Phật trở lại cõi Ma!

Khổ Hải Từ Hàng niệm phật hiệu, cao giọng tiếp:

– Bần tăng không vào địa ngục, vớt độ quần ma, thì còn ai làm cái việc đó cho bần tăng?

Tạ Linh Vận hét:

– Câm miệng đi, nhà sư điên!

Y gọi to:

– Người của ta đâu? Rời ngay nơi này!

Y vẫy tay, đoạn thoát đi trước, các thuộc hạ ồ ạt theo sau.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 25

Đường Về Cõi Mộng

Bọn Tạ Linh Vận đã khuất sau đỉnh Thần Nữ Phong rồi Quan Sơn Nguyệt quay đầu, nhìn lại Nhàn Du Nhất u, chàng không nói gì, song ánh mắt biểu hiện rất rõ cái ý của chàng. Cái ý của chàng là muốn hiểu nội tình Long Hoa Hội.

Sở dĩ chàng có ý đó, là vì sau việc đối thoại giữa Khổ Hải Từ Hàng và Lý Trại Hồng, tất cả mọi người trong ba bảng Tiên – Ma – Quỷ đều tỏ lộ một thần sắc quái dị ...

Qua thần sắc của họ, Quan Sơn Nguyệt suy đoán, có người tiếc nuối, có người man mác mơ hoài, có người lo ngại, mà cũng có người hoang mang, như tiến không đường, lui không nẻo ...

Chàng muốn hiểu tận tường, Long Hoa Hội đã kết thúc như thế này sao?

Và, cái hội quái dị sẽ hợp vào trong thời gian nào, hay giải tán vĩnh viễn, như Khổ Hải Từ Hàng đã tuyên bố?

Nhất u thở dài, lẩm nhẩm:

– Trên thế gian này, chẳng có cái gì trường cửu cả:

Nói tan là tan, nói hiệp là hiệp! Có ai ngờ, một cơ cấu huy hoàng, một cơ cấu có cái thế lực thừa khuynh đảo càn khôn, lại bỗng dưng tan rã như vầng mây trước gió, ngọn sóng giữa trùng dương, mây hiện đó rồi biến, sóng dâng đó rồi chìm ...

Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ:

– Có những cái tan, còn lưu lại lòng người một luyến tiếc, có những cái tan mang hạnh phúc lại cho con người! Sanh ra là hiệp, hiệp để đi dần đến cái tan, có cái hiệp nào vĩnh cửu? Thắc mắc làm chi? Khi con người là công cụ của hóa công, thì phải chấp nhận vai trò của mình, lúc nó chấm dứt thì tấN tuồng đã đến lúc hạ màn đừng mong tái diễn! Huống chi, một tổ chức hỗn tạp? Cái gì hỗn tạp thì chẳng thể lâu dài. Một tổ chức rồng chẳng ra rồng, rắn không ra rắn, rắn rồng lẫn lộn, thiện ác chung chạ, thiện nhiễm ác, ác ganh thiện, một tổ chức quy tụ những người hữu dụng, không chuyên cứu thế độ nhân, mà chỉ phục vụ cho tham vọng, cho tự ái ... Cái tổ chức đó, có thể nào tồn tại lâu dài? Cho nên, tan rã là phải. Càng tan rã sớm, mọi cá nhân càng được giải thoát sớm, giải thoát khỏi cái nhỏ nhen, tầm thường, giải thoát khỏi cái tham vọng đê hèn, vì tham vọng đó, mà ai ai cũng mơ thanh toán lẫn nhau, báo thù, phục hận, giành ngôi vị, đoạt uy quyền ...

Nhất u trừng mắt nhìn lão tăng:

– Lão trọc khá kín đáo đấy! Mãi đến bây giờ, ta mới biết ngươi cao minh, ngươi thấu triệt nhiều việc, ngươi thấu triệt mà lại gán cho ta cái chách vụ Hội Chủ, để trút tất cả phiền não lên đầu ta! Đáng lẽ ngươi không nên làm thế!

Ngươi âm trầm đến độ đã luyện được pháp thân Quang Minh, mà chẳng một ai hay biết! Ta hỏi ngươi, ngươi luyện môn công đó từ lúc nào?

Khổ Hải Từ Hàng điểm một nụ cười:

– Lâu rồi! Sở dĩ ta không dám thi triển là vì sợ phiền não vướng vào mình.

Các ngươi ham danh nên chuốc lấy phiền não, nếu ta cũng đồng quan niệm như các ngươi, thì giờ phút này ta đâu được an nhàn? Và ta đâu có thì giờ thừa thãi để bố trí cho cục diện xoay trở như ý muốn?

Nhất u «hừ» lạnh:

– Thì ra, ngươi đã nuôi dưỡng cái ý nguyện giải tán Hội Long Hoa này từ lâu!

Có cái ý nguyện như vậy, sao ngươi không đảm nhận trách vụ Hội Chủ, mà lại cưỡng ép ta phải tiếp thọ? Là Hội Chủ, dù tạm ngươi cũng dễ hành động hơn chứ? Là Hội Chủ ngươi cũng dễ thực hiện cái ý nguyện đó chứ?

Khổ Hải Từ Hàng điềm nhiên:

– Bần tăng đã giải thích rồi, chỉ vì các ngươi không chịu suy xét tận tường, để hiểu cho bần tăng nhiều hơn thôi! Làm Hội Chủ, phải giải quyết bao nhiêu sự việc, phiền phức vô cùng, bần tăng đâu còn thì giờ an bài cái chương trình đã dự định? Không làm Hội Chủ, bần tăng đứng ngoài vòng, sắp xếp sự việc được chu đáo hơn, ngoài ra còn có thể quan sát mọi hành vi của các ngươi, theo dõi từng biến chuyển để kịp thời ứng phó, hầu thực hiện sở nguyện hữu hiệu hơn! Đứng bên ngoài, bần tăng có nhiều phương tiện nào phải nắm quyền Hội Chủ là giải quyết sự việc dễ dàng đâu? Trong khi các ngươi chẳng biết bần tăng làm gì, thì bần tăng thấy rõ mọi hoạt động của các ngươi. Cái lợi không làm Hội Chủ là ở chỗ đó!

Nhất u «hừ» một tiếng lớn hơn:

– Ta biết mà, ngươi đã thông đồng với lão Hoàng Hạc từ trước ...

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Nào phải chỉ thông đồng với một Hoàng Hạc mà thôi! Bần tăng cũng có hội ý với Hương Đình, cả ba chúng ta đã tiên đoán là sớm muộn gì Long Hoa Hội cũng phải giải tán, tự nó giải tán, chẳng cần ai làm cho nó tan ra. Ngươi có biết tại sao chăng?

Lão dừng lại một chút, đoạn tiếp luôn với giọng trầm trầm:

– Hội, gồm có ba bảng, mà cái đạo tâm càng ngày càng suy nhược, trong khi đó khí thế quần Ma càng lúc càng vươn mạnh lên, cái khí đó một khi thành căn cơ rồi, thì đạo tâm cầm như tiêu diệt hoàn toàn, bần tăng chỉ sợ lúc đó Tiên muốn giải tán mà Ma và Quỷ duy trì, Tiên cũng chẳng làm sao cưỡng lại được?

Ma Quỷ duy trì, để cho Ma chế ngự ngược lại Tiên, vận dụng Ma tâm áp đảo Đạo tâm! Chắc ngươi phải thức ngộ cái nguy hại khi Tâm Đạo bị Tâm Ma chế ngự!

Chắc ngươi thấu đáo cái khổ do một cuộc đảo lộn như thế mang đến cho chúng ta!

Lão kết luận:

– Sao cho bằng nên giải tán lúc còn có thể giải tán, chứ nếu đợi đến lúc bất lợi rồi, dù tất cả chúng ta có hợp sức, cũng chẳng làm sao xoay chiều cục diện nổi!

Lý Trại Hồng tiếp nói:

– Tạ Linh Vận nuôi dưỡng ác tâm, điều đó ta cũng đã biết rồi. Chính đại sư tỷ có thảo luận với ta và Liễu Y Ảo hiền muội về sự tình, ta biết là sớm muộn gì, cục diện sẽ chuyển biến quan trọng! Ta cũng chẳng lạ gì, song ta chẳng khỏi thầm trách đại sư tỷ và lão Hoàng Hạc, nỡ bỏ tất cả mà đi ngay trong lúc tình thế khẩn cấp, trút cả khó khăn lên đầu ta và Ảo muội! Thử hỏi, chị em ta làm sao giải quyết được chứ?

Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:

– Hương Đình Tiên Tử đã có chương trình đối phó, mà bần tăng cũng đã có kế hoạch ứng biến, song không ngờ Tạ Linh Vận lại bộc lộ dã tâm quá sớm, hắn không chờ đợi đại hội khai diễn, hắn hấp tấp giở thủ đoạn, làm bần tăng không kịp đến nơi, tiếp ứng các ngươi. Cũng may có Quan thí chủ ...

Lý Trại Hồng khoát tay:

– Tiếc chi cũng đã rồi. Có nói lại chỉ làm mất thì giờ, chẳng giúp ích gì cả.

Ta hỏi ngươi, đại sư tỷ của ta cùng lão Hoàng Hạc hiện giờ ở tại đâu?

Khổ Hải Từ Hàng lắc đầu:

– Bần tăng không biết đâu. Bất quá, bần tăng hiểu là họ đi đến một nơi xa xôi lắm, xa hẳn người đời, và họ chẳng bao giờ trở lại nhân thế nữa.

Lý Trại Hồng lộ vẻ mơ buồn:

– Cả hai chừng như tâm đầu ý hợp, tương xứng với nhau ...

Khổ Hải Từ Hàng nhìn bà ta, trong ánh mắt có cái ý thâm trầm, một lúc lâu, thốt:

– Hoàng Hạc có nhờ bần tăng chuyển lại Tiên tử hai câu. Nhưng bần tăng nhận ra lúc này bất tiện ...

Lý Trại Hồng nhếch nụ cười khổ:

– Cứ nói đi, bình sanh ta rất thản nhiên đối với bất cứ sự việc gì của ta, lòng ta trống trải như đất bằng, ta chẳng có gì phải che dấu cả.

Khổ Hải Từ Hàng do dự một chút, rồi tiếp:

– Hai câu đó, như thế này:

Ước vọng đã lui về dĩ vãng, đừng tìm trong mộng ý niềm xưa! Hoàng Hạc bảo rằng, tiên tử nhất định thông cảm cho lão ta nhiều.

Lý Trại Hồng điểm một nụ cười, khóe miệng vẽ thành vết ảm đạm thê thảm phi thường. Bà ta lập lại hai câu đó một lượt đoạn thở dài, thốt:

– Lão ấy đã nói như thế, ta còn yêu cầu lão điều chi nữa! Đời ta, là giấc mộng dài, mộng đẹp cũng thế, ác mộng cũng thế thôi, bởi chung quy cũng là mộng! Mộng đẹp dễ tỉnh, ác mộng khó quên, dù là cơn mộng nào, ta cũng chẳng oán trách lão. Đời ta chỉ có mộng, bỏ mộng đi rồi, ta còn gì nữa đâu?

Khổ Hải Từ Hàng điềm nhiên tiếp:

– Phù sanh, nhất mộng! Mấy mươi năm, một cuộc đời, bấm đốt ngón tay, đã thấy mình gần với cát bụi! Mộng cũng thế thôi, tỉnh cũng thế thôi! Tất cả đều giới hạn trong định kỳ, mộng rồi cũng dứt, tỉnh rồi cũng dứt, nào ai vượt quá định kỳ?

Bỗng, Lý Trại Hồng gạt ngang:

– Thôi đi! Đừng giảng lý nhà Phật với ta nữa. Ngươi cũng như ta, ngươi có thông suốt chi hơn ta mà hòng bày vẽ cái trò giáo huấn? Ta chỉ hỏi ngươi một vài câu, ngươi sẽ câm miệng hến, nhưng ta có muốn tranh biện với ngươi làm chi!

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Bần tăng nào dám tự hào mình thông đạt huyền cơ? Bần tăng còn kém Tiên Tử rất xa kia mà! Bởi biết mình ngu, bần tăng không vọng tưởng, và vì không vọng tưởng nên chẳng cần phải lụy cầu, có bao nhiêu, mãn nguyện bấy nhiêu, không có chi hết cũng chẳng cần bận tâm tìm cho có. Bần tăng chủ trương tự mãn nhờ tránh được tự mãn nên tránh được cái tự khổ.

Lý Trại Hồng khoát tay:

– Cho ta xin cái triết lý của ngươi đó đi! Ngươi xuất gia từ lúc nhỏ, nào biết chi đến tình duyên, ngươi hiểu làm sao được những vui buồn sướng khổ của sự yêu đương? Ngươi không đủ tư cách đề cập đến những chuyện đó. Cho ngươi biết, ta không thể nào lượng thứ cho đại sư tỷ của ta!

Khổ Hải Từ Hàng kinh ngạc:

– Tiên Tử lượng thứ cho Hoàng Hạc được, lại cố chấp đối với Hương Đình Tiên Tử hay sao?

Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:

– Ta nói một đàng, ngươi hiểu một nẻo! Cái việc kia, ta chẳng hề lưu ý đến nữa, điều mà ta không lượng thứ cho đại sư tỷ của ta, là ra đi sao lại mang theo thanh kiếm Bạch Hồng làm gì? Suýt chút nữa, ta bị Tạ Linh Vận bức dồn ta vào cảnh chết!

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Thì ra Tiên Tử phẫn nộ vì cái việc đó! Nhưng Tiên Tử trách oan Hương Đình. Hương Đình mang thanh kiếm theo mình là có ý tiếp trợ Tiên Tử chứ chẳng phải cốt tạo phiền phức cho người ở lại đâu.

Lý Trại Hồng nổi giận:

– Ngươi nói nhảm! Bạch Hồng Kiếm là vật duy nhất do sư phụ lưu lại, mọi người đều cố kỵ thần oai của thanh kiếm, bọn Tạ Linh Vận sở dĩ chưa dám phản bội, là vì ngán sợ thanh kiếm đó.

Khổ Hải Từ Hàng cười hì hì:

– Tiên Tử ơi! Đó là một cuộc an bài của Pháp Hoa Thánh Giả, để lừa bọn hậu sanh, chứ thanh kiếm đó, bất quá chỉ là mấy tấc thép tầm thường, nó chẳng có thần oai thánh lực gì cả, chẳng rõ tại sao Tiên Tử lại xem nó là một vật có giá trị to lớn như vậy. Nếu bọn ma đầu kia biết được thì đại loạn đã diễn ra từ lâu trong thiên hạ rồi! Pháp Hoa Thánh Giả an bài cục diện đó, là để ngăn ngừa cơn đại loạn phát sanh, không hơn không kém!

Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo sửng sốt, kêu lên:

– Thật vậy?

Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:

– Sự thật là thế. Trước khi đi, Hương Đình có nói rõ cho bần tăng biết. Bà ta mang thanh kiếm theo, là để cho bọn Tạ Linh Vận luôn luôn hoang mang, còn hoang mang là còn cố kỵ, chẳng dám buông lung dã tánh, tùy tiện hành động điên cuồng.

Lý Trại Hồng thừ người ra đó, bất động như tượng gỗ. Lâu lắm, bà buột miệng thở dài:

– Ba hôm sau, Tạ Linh Vận lại sẽ đến! Lúc đó chúng ta phải đối phó như thế nào?

Khổ Hải Từ Hàng trấn an:

– Tiên Tử bất tất phải quá lo, bần tăng có cách thoái địch.

Lý Trại Hồng thở dài:

– Ta khó tin là thanh kiếm Bạch Hồng được lưu lại, do cái ý phỉnh phờ của sư phụ ta!

Khổ Hải Từ Hàng chỉnh sắc mặt:

– Tiên Tử không tin cũng chẳng được, bởi sự thật là vậy, và Thánh Giả làm thế là vì sự tình bất đắc dĩ phải làm. Ngày trước thu nhận cả năm vị môn đồ, Thánh Giả hết sức hoan hỉ Tu La Tôn Giả, do đó người đem tất cả sở học bình sanh truyền sang cho Tu La Tôn Giả ...

Lý Trại Hồng chận lại:

– Điều đó, ta đã biết rồi, sư phụ ta truyền cho hắn kiếm pháp «Tu La Tứ Thức», đủ chứng tỏ người hết sức hài lòng về hắn.

Khổ Hải Từ Hàng thở ra, tiếp:

– Tình hình lúc ban đầu là thế, nhưng đến lúc vì gấp thành công, Thánh Giả đốt hai đoạn tập luyện, phải lâm vào cảnh tẩu hỏa nhập ma, người mới thức ngộ ra cái dã tâm của Tạ Linh Vận không xứng đáng thừa kế đại nghiệp của người, điều đáng lo ngại là lúc đó người không còn đủ sức chế ngự Tạ Linh Vận, cho nên người mới chế ra «Đại La Thất Thức», cốt khắc chế «Tu La Tứ Thức» truyền lại cho ba vị. Nhưng, «Đại La Thất Thức» lại là môn công thuần dương cương, không hợp với nữ nhân, do đó bần tăng chỉ sợ ba vị ...

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Ngươi nói đúng, cũng vì thế mà đại sư tỷ ta dù cố công tập luyện, chỉ phát huy được bảy thành lực là cùng còn ta và Liễu Y Ảo hiền muội thì lại kém xa ...

Khổ Hải Từ Hàng tiếp:

– Nếu cố gắng lắm, Hương Đình Tiên Tử chỉ cầm cự tương đương với Tạ Linh Vận thôi, chứ không hy vọng gì thủ thắng đối với hắn. Tuy nhiên, đó là vấn đề tương lai, chứ hiện tại thì Hương Đình Tiên Tử có mang «Đại La Thất Thức» ra giao đấu với hắn, cũng chẳng làm sao khắc phục nổi «Tu La Tứ Thức» của hắn.

Dù cả ba vị hiệp sức lại, bần tăng cũng lo ngại là Tạ Linh Vận đánh bại ba vị dễ dàng ...

Lý Trại Hồng cúi đầu, không đáp.

Không đáp, có nghĩa là mặc nhận lập luận của Khổ Hải Từ Hàng.

Khổ Hải Từ Hàng tiếp:

– Bỏ Tạ Linh Vận, tự nhiên Thánh Giả phải tìm người khá để truyền y bát, và người được chọn, là Hương Đình. Song, người lại sợ Hương Đình chưa phải là địch thủ của Tạ Linh Vận, dù có cả hai vị kèm một bên, sẵn sàng tiếp trợ, nên người nghĩ ra một biện pháp. Với biện pháp đó, thanh kiếm Bạch Hồng xuất hiện và tồn tại đến ngày nay. Những gì xảy ra trong ngày long trọng trao kiếm, hẳn tiên tử còn nhớ rõ chứ?

Lý Trại Hồng mơ màng, hồi ức sự việc xa xưa, trầm lặng một lúc lâu, không nói năng gì.

Quan Sơn Nguyệt nóng nghe sự tình, song không tiện thúc giục.

Liễu Y Ảo thấy chàng băn khoăn, liền thốt:

– Lúc đó, ta cũng có mặt ...

Quan Sơn Nguyệt chụp ngay câu nói:

– Thế thì xin Tiên Tử cho nghe những gì xảy ra lúc đó ...

Lý Trại Hồng nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, rồi đảo ánh mắt sang Liễu Y Ảo, điểm một nụ cười, cất tiếng:

– Hiền muội cứ nói, nói cho hắn nghe!

Nụ cười của Lý Trại Hồng có ẩn ý, Liễu Y Ảo như đã đoán ra cái ý thầm kín đó, thoáng đỏ mặt, nhưng liền lấy ngay tự nhiên thuật:

– Lúc đó, ta vừa được mười sáu tuổi ...

Dĩ nhiên nàng dùng cái tiếng ta, là hướng về Quan Sơn Nguyệt. Nàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:

– Ta chưa theo học võ với sư phụ ta được bao nhiêu năm, dù vậy ta cũng được sư phụ cho phép tham dự cuộc đại hội tại sơn môn, quy tụ toàn thể môn nhân, nghe người tuyên bố về tình hình Long Hoa Hội. Người cho biết Hội Long Hoa vừa được thành lập, quy củ chưa chu đáo, cao thủ chưa theo về đông đảo, mà người thì cảm thấy không còn sống được bao lâu nữa, cho nên người ủy trao trách vụ hoàn thành hội lại cho các môn đồ, người trao ra thanh kiếm Tru Tiên, tượng trưng quyền uy tối thượng điều khiển toàn thể hội, ai giữ thanh kiếm lịnh đó, có quyền sanh sát những hội viên nào bất tuân quy luật, phản Hội, lừa bạn. Các môn đồ ai ai cũng đinh ninh là sư phụ sẽ trao kiếm lịnh cho Tạ Linh Vận, và hắn lộ cái vẻ đắc ý rõ rệt ...

Nàng lại dừng thở mấy hơi dài, rồi tiếp:

– Ngờ đâu, sư phụ ta trao kiếm lịnh cho đại sư tỷ Hương Đình, điều đó làm Tạ Linh Vận biến sắc mặt, ánh mắt của hắn tóe lửa sáng ngời. Nếu có thể, hắn dám xuất thủ cướp đoạt thanh kiếm. Huống chi, U Minh Chủ Tể Tây Môn Vô Diệm có mặt tại cục trường, sẵn sàng tiếp ứng hắn, nếu hắn vọng động. Bọn ta thì hồi hộp, lo sợ một biến cố xảy ra. Ngờ đâu, sư phụ đã thấy rõ thâm ý của chúng, lại lấy ra một thanh kiếm, đó là thanh Bạch Hồng Kiếm, cầm thanh trường kiếm trong tay, sư phụ tiếp luôn ...

Nàng dừng lại, nhìn thoáng qua Khổ Hải Từ Hàng và Lý Trại Hồng, rồi tiếp:

– Sư phụ bảo, thanh kiếm Tru Tiên, bất quá chỉ là một thanh kiếm lịnh, cũng như lịnh bài, tượng trưng cái quyền lãnh đạo chẳng có công dụng thực sự, hữu hiệu, giết người, cho nên nó không có đủ oai lực tuyệt đối bắt buộc toàn thể hội viên phải tuân phục, và ai ai cũng có thể khinh lờn, nếu muốn khinh lờn, nếu muốn phản bội. Sở dĩ thế, người trao luôn thanh kiếm Bạch Hồng, để làm hậu thuẫn cho «Tru Tiên Lịnh», kẻ nào khinh lờn «Tru Tiên Lịnh», thì đại sư tỷ cứ dùng Bạch Hồng Kiếm lấy mạng kẻ đó. Để chứng minh oai lực của thanh kiếm Bạch Hồng, sư phụ rút nó ra khỏi vỏ, ánh thép của nó chớp lên sáng ngời, ai trông thấy cũng rợn người. Cạnh cục trường, có một hòn non giả, cách độ hai mươi trượng. Sư phụ ta vung tay, phóng thanh kiếm bay đi, lao vút đến hòn giả sơn đó, đâm thủng vào, sâu đến tám chín thước rồi tự nó bay về tay sư phụ. Đoạn sư phụ trao nó cho đại sư tỷ dõng dạc tuyên bố, từ nay trách vụ làm rạng rỡ Long Hoa Hội thuộc về đại sư tỷ, nếu kẻ nào bất tuân lịnh sai khiến, khinh thường «Tru Tiên Lịnh», thì đại sư tỷ cứ dùng thanh Bạch Hồng Kiếm giết ngay.

Nàng dừng lại, rồi trầm giọng tiếp luôn:

– Đại sư tỷ quỳ xuống, tiếp thọ lịnh dụ. Sư phụ bảo mọi người cùng quỳ xuống, tuyên thệ trung thành với đại sư tỷ, luôn luôn tuân hành lịnh đại sư tỷ. Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm, không phục sự lãnh đạo của sư tỷ, song khiếp đảm vì oai lực của Bạch Hồng Kiếm, nên bắt buộc phải quỳ theo mọi người.

Nàng thở dài, kết thúc:

– Sư phụ điểm nhẹ một nụ cười, rồi đi luôn ...

Nàng thở dài mọi người cũng thở dài, nhưng qua cái thở dài đó, niềm ưu tư trong mọi người như trút bớt ...

Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:

– Tiên Tử nhớ rành rẽ quá, rành hơn bần tăng nhiều!

Lý Trại Hồng hỏi:

– Chính mắt bọn ta trông thấy oai lực của thanh kiếm Bạch Hồng, như vậy làm sao cho rằng có sự lừa gạt?

Từ Hàng thở dài:

– Sự kiện đó, ngoài Hương Đình ra, chỉ có mỗi một mình bần tăng biết được mà thôi! Chính Hương Đình thoạt đầu cũng vẫn tin tưởng cái oai lực của thanh kiếm đúng như lúc Thánh Giả thực nghiệm. Sau này, khi vắng người, bà ta có làm thử mấy lần, qua những lần phóng thử đó, bà mới thấu đáo sự khổ tâm của Thánh Giả.

Lý Trại Hồng hấp tấp hỏi:

– Nhưng mà sự tình như thế nào chứ?

Khổ Hải Từ Hàng tiếp:

– Thử như vậy, rồi, Hương Đình tuy biết là thanh kiếm không có oai lực thần bí như lúc Thánh Giả thực nghiệm, song vẫn còn tin tưởng ở chất thép của nó.

Cho đến một hôm ...

Liễu Y Ảo hấp tấp hỏi:

– Đến hôm nào? Và hôm đó đại sư tỷ gặp chuyện gì?

Khổ Hải Từ Hàng tiếp luôn:

– Lúc đó Hương Đình tiếp nhận quyền lãnh đạo Long Hoa Hội, thì bần tăng và Hoàng Hạc chưa gia nhập. Một hôm Hương Đình gặp bần tăng tại Lữ Lương Sơn, cưỡng bức bần tăng vào hội, bần tăng khước từ, do đó có cuộc động thủ giữa song phương. Hương Đình Tiên Tử sử dụng «Đại La Thất Thức» vẫn không hạ nổi bần tăng. Cuối cùng, bà ta phải rút thanh Bạch Hồng Kiếm ra thị oai với ánh thép chớp ngời. Bần tăng thấy ánh thép, khiếp đảm liền, bái phục ngay. Để biểu hiện oai phong rõ rệt hơn, Hương Đình đâm thốc kiếm vào vách đá, kiếm chọc thủng đá, nhưng chẳng phải vì kiếm báu, mà do chính công lực thâm hậu Hương Đình ...

Lý Trại Hồng trố mắt hỏi:

– Rồi sau đó, có gì xảy ra nữa chăng?

Khổ Hải Từ Hàng nhếch nụ cười thảm:

– Mũi kiếm gãy hơn tấc! Từ đó Hương Đình luôn luôn đeo kiếm bên mình, song chẳng bao giờ rút nó ra khỏi vỏ, cho bất kỳ ai trông thấy!

Lý Trại Hồng tuyệt vọng đến mất thần.

Lâu lắm, bà ta mới thốt:

– Thảo nào, từ lúc đó, đại sư tỷ chẳng hề đề cập đến thanh kiếm Bạch Hồng, và luyện tập vũ công không ngừng!

Khổ Hải Từ Hàng tán:

– Ngày trước, Hương Đình Tiên Tử chẳng bằng ngày nay đâu, ngày nay thì vũ công của bà ấy tiến quá mức tưởng tượng, vì có bẩm chất tốt, bà sẽ thành công quan trọng, trên xa bần tăng dù bần tăng luyện được thân pháp Quang Minh!

Bỗng, Nhất u hỏi:

– Ngươi đã nói là «Đại La Thất Thức» không thắng nổi thân pháp Quang Minh của ngươi, thế thì do đâu ngươi bằng lòng tiếp nhận sự mời thỉnh của Hương Đình Tiên Tử?

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Không cưỡng ép được bần tăng bằng vũ công, bà ấy dùng ngôn ngữ thuyết phục!

Quan Sơn Nguyệt chen vào:

– Chắc những lời lẽ của Hương Đình Tiên Tử cao minh lắm nên lão Thiền Sư mới cảm phục được, Lão Thiền Sư có thể thuật lại cho tại hạ nghe chăng?

Khổ Hải Từ Hàng trầm ngâm một lúc, đoạn lắc đầu:

– Chịu thôi, bần tăng khó tuân lịnh thiếu Lịnh chủ!

Quan Sơn Nguyệt biết không thể nào bức bách lão tăng nói những gì lão không tiện nói, nên thở dài, lộ vẻ thất vọng ra mặt.

Mọi người đều có một niềm suy tư riêng biệt, ai ai cũng mơ màng theo đuổi ý tưởng của mình, chẳng ai nói với ai tiếng gì nữa.

Qua một lúc lâu Quan Sơn Nguyệt hỏi cả bốn người hiện diện:

– Về Long Hoa Hội, tại hạ đã hiểu được ít nhiều chi tiết, tuy nhiên vẫn còn một vài thắc mắc chẳng hay các vị có bằng lòng giải thích cho tại hạ được hiểu.

Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ:

– Về Long Hoa Hội, chưa nghe nói đến thì ai ai cũng tưởng là một tổ chức bí mật, song có thấy rồi, thì chung quy cũng chỉ là một hội tầm thường, cũng bao gồm những tranh chấp nhỏ nhen và hội viên xoay quanh quyền lợi, ngoài ra chẳng có một chủ trương nào cao diệu, có tiện ích thiết thực cho người đời. Nó rất đơn giản như vậy, Quan thế huynh đã biết rõ quá rồi, bần tăng thấy không còn chi tiết nào quan trọng cần giải thích với thế huynh nữa. Giả như thế huynh còn thắc mắc, theo bần tăng nghĩ những thắc mắc đó hẳn phải thuộc về lịnh ân sư, là Hoàng Hạc Tán Nhân. Mà những gì thuộc về lão ấy, thú thật bần tăng chẳng hiểu nhiều bằng hai vị Tiên Tử. Tốt hơn bần tăng xin nhường cho hai vị Tiên Tử làm cái việc giải đáp thắc mắc cho Quan thế huynh.

Lão tăng dừng lại một chút, nhìn thoáng qua Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo điểm một nụ cười bí hiểm, tiếp:

– Quan thế huynh cứ hướng về họ, hỏi gì thì hỏi, chắc chắn là họ sẽ không từ chối phúc đáp đâu!

Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng:

– Lão trọc không muốn nói, thì cứ để cho bọn ta nói, cần gì phải vẽ vời rườm rà?

Khổ Hải Từ Hàng gật gù:

– Nếu Tiên Tử chịu tiết lộ thì còn chi hơn? Hẳn là sự việc phải rành rẽ lắm!

Lý Trại Hồng trừng mắt nhìn Liễu Y Ảo.

Liễu Y Ảo hấp tấp thốt:

– Sư tỷ yên trí! Tiểu muội chỉ nói những gì có thể nói thôi!

Lý Trại Hồng nhếch nụ cười khổ:

– Nói được một, hai, cứ nói trọn, muội cần gì phải giấu phần này phần nọ?

Đã muốn giấu bớt, thì còn nói làm chi?

Liễu Y Ảo bắt đầu tường thuật ...

Nhưng, Khổ Hải Từ Hàng chừng như nhớ đến một sự gì, vội chen lời chận lại:

– Tiên Tử nên cân nhắc lợi hại đấy nhé! Phải biết quanh vùng, ít nhất cũng có mấy trăm mạng người, mà sự an toàn của họ đều do nơi thái độ của Tiên Tử đó, bần tăng vì sanh mạng của toàn thể, mà nhắc khéo Tiên Tử thôi, còn thì tùy Tiên Tử nói ...

Liễu Y Ảo cau mày:

– Thực ý của ngươi như thế nào hả?

Khổ Hải Từ Hàng điềm nhiên:

– Trong mảnh giấy của Hương Đình Tiên Tử lưu lại cho hai vị, có khi rõ ràng những điều quan trọng, bần tăng còn nói gì nữa cho thành thừa!

Liễu Y Ảo trầm ngâm một chút, đoạn tiếp:

– Ngươi muốn đề cập sự việc của đại sư tỷ, để cảnh cáo ta? Ngươi liên tưởng đến hắn à? Vừa rồi, chẳng qua vì may mắn ...

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Đừng tưởng trên đời này có những may mắn! Không đâu, bất cứ sự thành công nào cũng có nguyên nhân. Chính Hương Đình Tiên Tử ngày trước đã nói với bần tăng như vậy, lúc đó bần tăng không tin, xong bây giờ thì ...

Liễu Y Ảo trừng mắt:

– Ngươi đừng lo nhảm, ta bảo chứng với ngươi mà, chẳng hề có việc đó đâu!

Ngươi cứ đi đi, trong hai khắc thời gian trở lại đây, ngươi sẽ biết!

Họ nói gì với nhau, có vẻ bí mật quá chừng?

Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:

– Bần tăng cảm kích thành ý của tiên tử. Thực ra, đối với tiên tử, điều đó chẳng gây một tổn hại nào, bất quá bần tăng chỉ khuyên tiên tử đừng gấp, bởi dục tốc bất đạt mà! Hòa hưởn mà hành sự, thì vĩnh viễn được an toàn, vĩnh viễn chẳng có gì lo nghĩ. Trông cái gương của Hoàng Hạc và Hương Đình đó, họ có cái kết cuộc tốt đẹp quá hẳn Tiên Tử cũng biết tại sao chứ!

Liễu Y Ảo gắt:

– Đừng nói nhảm:

Quan Sơn Nguyệt đứng đó, mà tưởng chừng như ở một thế giới cách biệt muôn trùng, cố lắng nghe, cố tìm hiểu, vẫn không thấu đáo nổi những ẩn ý của họ qua cuộc đối thoại.

Khổ Hải Từ Hàng day qua chàng, mỉm cười, thốt:

– Quan thế huynh miễn cho bần tăng cái việc phải vắng mặt bất ngờ nhé, trong hai khắc sau, bần tăng sẽ trở lại, có sự quan trọng cần nhờ thế huynh ...

Khổ Hải Từ Hàng đi rồi, Liễu Y Ảo còn đứng thừ người ra đó, tâm tư trầm trọng, một lúc lâu, lại nhìn sang Lý Trại Hồng chừng như để hỏi ý kiến.

Lý Trại Hồng thở dài:

– Hiền muội hãy nghe theo lời lão trọc đi! Trước kia, ngu thơ có ý khinh thường lão, nhưng hiện nay thì ngu thơ đã bắt đầu thấy cái chân giá trị của con người lão, lão ta cũng thông minh, sáng suốt, có nhiều kinh nghiệm trên trường đời, những nhận xét của lão rất xác đáng ...

Liễu Y Ảo thở dài, trầm ngâm một lúc, đoạn day qua Quan Sơn Nguyệt, bảo:

– Đi thôi!

Nàng tung mình lên không, như chui vào mây, Lý Trại Hồng theo liền.

Linh Cô nắm tay áo của Quan Sơn Nguyệt, lôi chàng theo luôn.

Ai ai cũng giỏi thuật khinh công, họ lướt đi trong mây mờ, một lúc sau, đến khu rừng tùng, nơi đó, hai con bạch hạc Lôi và Đình còn đậu trên cành cây, chờ họ.

Nơi họ đến, là Tử Hư Tiên Phủ.

Lối kiến trúc đại quy mô, phô rõ vẻ huy hoàng tráng lệ.

Liễu Y Ảo và Lý Trại Hồng vào phủ, Linh Cô đưa Quan Sơn Nguyệt theo sau.

Nhìn qua tiên phủ, Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Tân kỳ quá! Nơi đỉnh núi cao, đường lên hiểm trở như thế này, lại tạo dựng được một cơ sở hoa mỹ, thiết tưởng phải tổn phí công phu và thời gian vô cùng quan trọng!

Linh Cô mỉm cười:

– Đừng nhìn cái vẻ bên ngoài rồi thán phục, tôi chỉ sợ vào trong rồi thiếu hiệp lại thất vọng nặng nề!

Nhưng Quan Sơn Nguyệt chưa thấy cái vẻ gì chứng minh lời nói của Linh Cô, bởi nơi chàng đặt chân là đại sảnh, lối bày trí hết sức huy hoàng. Như vậy thì, bên trong có phản ngược bên ngoài đâu? Tại sao nàng bảo là đừng nhìn vẻ ngoài mà phê phán toàn diện?

Linh Cô lại lôi chàng đi luôn, thay vì dừng lại đại sảnh.

Qua khỏi đại sảnh, cả hai đi theo con đường hành lang, đến trước một gian phòng, Linh Cô vén bức rèm châu qua một bên rồi đưa Quan Sơn Nguyệt vào gian phòng đó.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Bây giờ, chàng mới chịu nhận ra Linh Cô nói đúng.

Đứng bên ngoài nhìn gian phòng ai ai cũng cho đó là cung vàng, các ngọc, nhưng vào trong rồi mới thấy tường loang lổ, bốn bề tơ nhện giăng mắc bịt bùng, nền phòng lợp những bụi, mùi mốc meo lên, khó ngửi vô cùng.

Một tiên phủ huy hoàng làm gì có một gian phòng tiêu điều hoang phế như thế này?

Trong gian phòng, chẳng có vật dụng chi cả, ngoài mấy chiếc chiếu cỏ, hiện tại Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo mỗi người ngồi trên một chiếc chiếu xếp bằng tròn.

Liễu Y Ảo đưa tay bảo Quan Sơn Nguyệt:

– Hãy tạm ngồi trên chiếu đó!

Quan Sơn Nguyệt ngồi xuống, trên gương mặt vẻ kinh dị vẫn còn hiện rõ.

Liễu Y Ảo mỉm cười, hỏi:

– Thiếu hiệp có nhận thấy, nơi đây thô lậu đơn giản lắm chăng?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, đoạn đáp:

– Không hẳn là thô lậu, đơn giản, bởi một cơ sở dù thô lậu, đơn giản, cũng vẫn che mưa đón gió cho con người được như thường. Mình cho là đơn giản, thô lậu, chỉ vì mình có tánh cầu kỳ đó thôi. Có điều, tại hạ lấy làm lạ về chỗ tương phản giữa bên ngoài và bên trong.

Lý Trại Hồng cười nhẹ:

– Thiếu hiệp có biết nơi đây là địa phương nào chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu.

Lý Trại Hồng đáp:

– Nơi đây, là địa phương luyện công của chị em tôi đó! Có thể bảo là suốt một năm dài, chị em tôi ở mãi trong gian phòng này, thời gian ở bên ngoài, cộng lại cho trọn năm, chẳng hơn một ngày!

Vì bắt đầu quý trọng Quan Sơn Nguyệt, cả hai tiên tử phải dùng cái sáo của ngôn ngữ để đối thoại với chàng, do đó họ xưng tôi và gọi chàng là thiếu hiệp.

Quan Sơn Nguyệt lại lắc đầu:

– Thật tại hạ không hiểu nổi! Phàm luyện công, nơi nào lại chẳng thuận tiện? Tại sao phải an bài một địa điểm vừa đơn giản, vừa thô lậu như thế này?

Lý Trại Hồng mỉm cười:

– Đó là bí quyết của cái việc tầm Tiên. Tiên, là thoát tục, Tiên phải dứt khoát mọi cám dỗ trên đời, cho nên bên cái cực đoan phú quý, chị em tôi giam mình trong cái cực đoan nghèo nàn. Tập cho quen chịu đựng cái cực đoan nghèo nàn, thiếu thốn, nhìn cái cực đoan phú quý, thừa thãi mà diệt trừ lòng ham muốn, khi nào đạt được cái tập quán đó rồi, mới có thể sống với cảnh tịch mịch.

Quan Sơn Nguyệt chừng như hiểu, chừng như không, tuy nhiên chàng cũng gật đầu.

Lý Trại Hồng tiếp:

– Hoa nở dù đẹp, chẳng có hoa nào tồn tại ngàn năm. Trăng tròn dù sáng chẳng có trăng nào tròn mãi ngàn năm. Cầu Tiên, là tìm lối thoát, thoát khỏi cái luật thừa trừ của tạo hóa! Cái đạo lý đó, chắc thiếu hiệp hiểu rõ ...

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Cao thâm quá! Huyền diệu quá! Tại hạ không thể nào thấu triệt!

Lý Trại Hồng đột nhiên cười lớn:

– Trong thiên hạ, có cái gì tồn tại mãi với thời gian? Có cái gì chẳng phải là tạm? Mà tạm thì có khác nào là giả tạo? Rời bỏ giả tạo, tìm về chân như, xa cái tạm thời, tìm về vĩnh viễn, trên đời này có mấy ai thừa can đảm làm cái việc đó?

Giọng cười của bà ta nghe sao bi thảm vô cùng!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ ...

Chàng tự hỏi, họ đang mơ màng, hay họ khảo luận với đầy đủ lý trí ...

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 26

Lối Vào Cõi Mộng

Sáu mươi năm trước có một nho sĩ, họ Bá Lý, tên Bất Bình từng nuôi mộng công hầu nhưng mỗi lần lều chõng ra đi, mỗi lần đến trường thi là mộng vỡ tan tành, sau cùng lòng nguội lạnh, lìa quê quán, tầm tiên.

Tầm tiên, cũng là một lối nuôi mộng, mà không nơi nào mộng được thực hiện dễ dàng bằng đỉnh Vu Sơn. Bởi, ngày xưa, có vị Vua từng nằm mộng gặp tiên tại Thần Nữ Phong, thì ngày nay muốn tìm tiên, Bá Lý Bất Bình tự nhiên chọn nơi đó để làm cái đích của chuyến viễn hành.

Vào thời gian đó, Bá Lý Bất Bình, tuổi độ hơn ba mươi.

Lên đến đỉnh Thần Nữ Phong rồi, quả nhiên y thấy bóng dáng một nữ nhân!

Nơi đây tịch mịch, quanh năm suốt tháng chẳng có bóng người, mà trong vòng mấy trăm dặm, phụ cận, chẳng có cư dân làm gì có nữ nhân ở trên đỉnh núi cao? Hẳn nhiên, nữ nhân phải là tiên, y nghĩ như vậy.

Mà tiên nữ thì hầu hết đều đẹp, mặc dù lúc đó nữ nhân đưa lưng về y, y chẳng thấy rõ mặt mày, y vẫn hình dung ra nữ nhân hẳn phải đẹp lắm!

Đẹp như tiên!

Bá Lý Bất Bình không tưởng là đã thành tiên lại để gặp tiên như thế.

Gặp tiên, thế là mộng đã thành. Mộng tìm tiên sao dễ hơn mộng công hầu chứ?

Bá Lý Bất Bình hết sức mừng rỡ, bước nhanh tới, đồng thời gọi to. Gọi, y có biết xưng hô làm sao mà gọi? Bất quá y cất tiếng báo hiệu sự hiện diện của y, cho nữ nhân quay mình lại.

Nữ nhân quay mình thật.

Bá Lý Bất Bình vừa trông thấy gương mặt nữ nhân, bất giác giật mình, thay vì tiến tới, y lùi lại mấy bước!

Nữ nhân xấu xí quá, chẳng khác nào nữ dạ xoa!

Y lùi, nữ nhân bước tới, bắt buộc y phải dừng chân, và cuộc đối thoại miễn cưỡng diễn ra.

Qua cuộc đối thoại, Bá Lý Bất Bình được biết nữ nhân họ Ôn tên Kiều.

Thực sự, nữ nhân cũng chẳng biết tên và họ của mình là chi.

Lúc sanh nữ nhân, cha mẹ thấy con xấu xí quá, đoạn tâm đem bỏ nơi chân núi, nhờ một bậc dị nhân trông thấy, nhặt về nuôi dưỡng đặt cho tên Kiều. Họ Ôn, chính là họ của vị dị nhân đó.

Sau khi truyền hết vũ công cho Ôn Kiều, vị dị nhân đó quy tiên. Ôn Kiều lại trở thành cô đơn quạnh quẽ như trước. Nghĩ mình quá xấu xí, không thể chen đứng giữa dòng đời, nên Ôn Kiều cam phận nương náu chốn non cao, sống cảnh tịch mịch.

Cái nhan sắc của Ôn Kiều dĩ nhiên không khích động nổi tâm tình của Bá Lý Bất Bình, bởi y tầm tiên thì gặp quỷ, làm sao y thích chí nổi? Tuy nhiên, lỡ dở nghề văn, y bắt đầu chú ý đến nghiệp võ, thấy Ôn Kiều có võ công cao, y ngưỡng mộ ngay, do đó, lưu lại đỉnh núi, đàm đạo suốt đêm dài.

Ôn Kiều bình sanh chưa hề tiếp cận nam nhân, mà Bá Lý Bất Bình lại khâm phục vũ công của nàng, cả hai cảm thấy có cái gì ràng buộc họ với nhau. Họ trở thành thân mật không mấy chốc, và cuối cùng thì họ kết thành vợ thành chồng với nhau, cùng sống cảnh tịch mịch bên nhau, qua ngày, đoạn tháng ...

Bá Lý Bất Bình nhờ Ôn Kiều truyền thụ vũ công, y quyết tâm trở thành một tay vũ dũng siêu phàm thì tự nhiên phải cố gắng luyện lập.

Ngoài những giờ tập luyện dưới sự chỉ dẫn của Ôn Kiều, Bá Lý Bất Bình còn nghiên cứu tất cả những pho bí kíp do dị nhân để lại.

Ôn Kiều kém chữ nghĩa, nên dù có những quyển sách vô giá trong tay, cũng chẳng dùng được.

Bá Lý Bất Bình thì muốn mình mau giỏi hơn Ôn Kiều, nên tìm tòi được gì hay, lại giấu vợ, âm thầm luyện tập một mình. Do đó, không lâu lắm, y luyện được một tài nghệ trên hẳn Ôn Kiều. Và bắt đầu từ ngày y giỏi hơn hơn vợ, thì y cũng dần dần lạnh nhạt vợ. Trước kia, y chịu đựng nổi dung nhan xấu xí của Ôn Kiều bây giờ thì y lộ vẻ khinh bỉ ra mặt.

Ôn Kiều cũng biết là chàng không còn giữ tình cảm đậm đà tha thiết như trước, thoạt tiên bà cứu tưởng là vì bà xấu xí, nên chồng mau sanh chán. Mãi cho đến lúc vợ chồng cãi vã nhau, đến phải động thủ với nhau, Ôn Kiều mới thức ngộ ra là Bá Lý Bất Bình ỷ trượng tài cao, định phản bội bà, quyết giết bà, bây giờ y không còn cần nhờ bà nữa, thì y cũng chẳng cần vờ vĩnh nghĩa ân chồng vợ.

Thì ra, bà bị y lợi dụng!

Bà vừa căm hận vừa đau đớn về thái độ của chồng.

Cũng may cho Ôn Kiều, trước lúc lâm chung, vị dị nhân đó có truyền lại cho bà ta một chiêu độc đáo, cái chiêu đó bao hàm trọn sở học của vị dị nhân, cho nên dù Ôn Kiều không tra cứu được bí kíp vũ công, dù Bá Lý Bất Bình có ý xấu, giấu giếm vợ để tập luyện một mình, cuối cùng Ôn Kiều giở chiêu thức đó đánh bại Bá Lý Bất Bình.

Tuy Bá Lý Bất Bình quyết hạ sát bà ta, để dứt khoát đoạn tình duyên bất đắc dĩ, Ôn Kiều trái lại nghĩ đến tình chồng nghĩa vợ, không nở hạ thủ đoạn với lão ta, nên sau khi đánh bại lão rồi, bà dùng lời nghiêm trách nặng nề, đoạn bỏ đi luôn.

Bắt đầu từ đó, Bá Lý Bất Bình ỷ trượng vào sở học, làm bất cứ việc gì muốn làm, dù việc làm có trái đạo lý. Lão cũng ly khai Thần Nữ Phong, dấn bước trên khắp mọi nẻo đường khắp Trung Nguyên.

Lão không hề gặp một đối thủ.

Mang tài cao đi khắp núi sông, cốt tìm kẻ đồng sức đồng tài, để thi thố sở năng, con nhà võ ai ai cũng ham thích điều đó, song đi mãi, chân đã chùn, ý đã chán lão không còn hăng say với cái mộng dọc ngang nữa. Lão trở về Thần Nữ Phong tiếp tục luyện công.

Những bí kíp của vị dị nhân lưu lại, gồm ba bộ.

Bộ thứ nhất, chỉ dẫn cách tu tiên, luyện khí, cho thành bậc siêu phàm, dù không hẳn là được thành tiên, song ít ra cũng thoát tục. Bộ sách đó, có cái tên là «Đại La Tiên Kíp».

Bộ sách thứ hai, tên là «Thiên Ma Bửu Lục», chỉ dạy các loại công phu tà ma, luyện bộ sách này được thành tựu, thì cũng nghiễm nhiên là tay vô địch trong thiên hạ.

Bộ cuối cùng, là bộ «U Minh Huyền Kinh», dạy cách luyện một thứ công phu quái dị, đồng thời nghiên cứu cách thức sử dụng các oan hồn và các xác chết.

Hai bộ sách sau thuộc về Ma và Quỷ, không đòi hỏi khó khăn lắm, cho nên bất cứ ai có chuyên tâm, cũng có thể luyện thành.

Chỉ có bộ sách đầu tiên, bộ «Đại La Tiên Kíp», là vô cùng bí ảo, chỉ nội cái việc tra cứu thôi, cũng đủ phí bỏ cả một đời người rồi, nói gì đến việc có thời gian tập luyện?

Tuy nhiên, Bá Lý Bất Bình nản chí ngao du, chứ không nản chí học tập, lão ta cam tâm trong cảnh tịch mịch, quyết kiêm luyện hoàn hảo đủ ba bộ sách.

Trong thời gian tập luyện đó, lão ta có thu nhận bốn môn đồ, đó là Lâm Hương Đình, Tạ Linh Vận, Lý Trại Hồng và Tây Môn Vô Diệm.

Trong bốn người đệ tử, chỉ có Tạ Linh Vận là nam nhân thôi còn ba người kia thuộc phái nữ.

Lâm Hương Đình và Lý Trại Hồng đều là những trang tuyệt sắc, còn Tây Môn Vô Diệm thì xấu xí hơn nữ dạ xoa.

Sở dĩ Bá Lý Bất Bình thu dụng Tây Môn Vô Diệm, chẳng qua lòng còn hoài niệm Ôn Kiều.

Trong bốn người đệ tử, Bá Lý Bất Bình thích hợp nhất Tạ Linh Vận, đúng như lời Khổ Hải Từ Hàng đã nói trước đó với Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo.

Về tiên đạo, Bá Lý Bất Bình chẳng lãnh hội được bao nhiêu bí quyết, có thể nói là lão luyện dở dang pho «Đại La Tiên Kíp». Riêng về hai pho sau:

«Thiên Ma Bửu Lục» và «U Minh Huyền Kinh» thì lão ta có nghiên cứu tận tường nên lão truyền cho các đệ tử những môn công của hai pho sau nhiều hơn pho trước.

Tạ Linh Vận thông minh, học ít biết nhiều, nên chẳng mấy chốc mà đã tỏ ra tay khá.

Rất tiếc, về hai pho bí kíp sau, muốn học qua, tất phải thực nghiệm cuộc hòa hợp âm dương, tức nhiên nam nữ phải gần nhau để suy ra chân lý. Do đó mà Bá Lý Bất Bình dù muốn dù không cũng phải chấp thuận một cuộc dâm loạn tại sơn môn. Nói đúng hơn, chính lão ta ra lịnh cho các môn đồ phải dâm loạn, bởi có dâm loạn mới thực nghiệm được môn học.

Lão ta dành Lâm Hương Đình về phần mình, còn Tạ Linh Vận vẫn ham muốn Lâm Hương Đình lắm, song làm sao y dám tranh giành với sư phụ? Cho nên y phải xoay qua Lý Trại Hồng và Tây Môn Vô Diệm.

Lý Trại Hồng nào có thích gì Tạ Linh Vận, chẳng qua sự tình bắt buộc, bà ta phải chịu vậy thôi, một là để luyện công, hai là vì có lịnh của sư phụ, bà không dám cải.

Chỉ có Tây Môn Vô Diệm vốn xấu xí, lại được chung chạ với Tạ Linh Vận, và sẵn sàng làm mọi việc theo ý muốn của Tạ Linh Vận.

Lâm Hương Đình cũng chẳng thích gì, dù bà ta được sư phụ chọn và ấp yêu rất mực.

Thực là một môn phái cực kỳ quái dị!

Cả sư lẫn đồ, cộng thành năm người, dần dần chia ra ba nhóm, Lâm Hương Đình và Lý Trại Hồng chung nhóm, nhóm thứ hai gồm Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm.

Nhóm thứ ba, chỉ có độc mỗi một mình Bá Lý Bất Bình.

Cả ba nhóm cùng quây quần nhau, vừa loạn dâm, vừa luyện công, thiết tưởng trên giang hồ, chưa từng có một môn phái nào hỗn tạp gần như quy tụ cầm thú ...

Bá Lý Bất Bình cho phép Tạ Linh Vận muốn làm gì thì làm, trừ cái việc xâm phạm đến Lâm Hương Đình thôi, y có làm điều chi sái quấy Bá Lý Bất Bình cũng đều che chở cả. Do đó, Lý Trại Hồng hết sức bất mãn.

Tuy không thành công về đường tu tiên, Bá Lý Bất Bình vẫn tiếp tục nghiên cứu «Đại La Tiên Kíp» như thường. Nhưng, vào những năm cuối cùng, lão ta bỗng thức ngộ là mình làm một việc vô vọng, bởi trên đời chưa phải bất cứ ai dùng nhân lực mà biến thành tiên được, vả lại biết đâu thực sự có tiên hay không có tiên?

Bỏ cái ý định tu tiên, lão xoay qua việc thành lập Long Hoa Hội.

Hội Long Hoa, là Quần Tiên Hội, do các văn sĩ từ nghìn xưa tạo dựng qua ảo tưởng, phàm một cái gì phát sanh từ ảo tưởng thì khi nào cái đó được thành hình, được thực hiện như một sự thể hiển nhiên?

Thế mà lão vẫn tiến hành, lão quyết dùng nhân lực thực hiện cái điều mà người xưa tưởng tượng ra cho vui vậy thôi!

Cùng với bốn đại đệ tử, lão lại rời Thần Nữ Phong, ra đi khắp các phương trời, mỗi người đi một hướng, tìm hào kiệt anh hùng, kết nạp.

Lão đặt căn cứ địa tại Thần Nữ Phong, đổi tên thành Tiểu Tây Thiên, để làm nơi tụ hội quần tiên không có tiên thật thì dùng tiên giả, cho Long Hoa Hội thành hình.

Một sư bốn đồ lao nhọc hơn nửa năm dài, chung quy cũng quy tụ được một số người, và Long Hoa Hội chánh thức được thành lập, và cuộc lễ đầu tiên được khai mạc, dưới quyền điều khiển của chính lão.

Lần thức nhất đó, chỉ có chín mươi tám cao thủ họp mặt, về phương diện hội thì thành hình, còn về phương diện thế lực thì kém quá bởi nhân số rất ít.

Tiên thì phải là ngàn tiên, vạn tiên, chứ tiên đâu có lưa thưa độ trăm người?

Cuộc hội vì thế không nhiệt náo nổi.

Chẳng qua, tại Bá Lý Bất Bình gấp rút thành lập Hội Long Hoa, nên không thể quyến rũ một số đông như mong muốn trong thời gian ngắn ngủi.

Khổ hơn nữa, là trong số chín mươi tám người quy tụ đó tài mạo phẩm cách bất tương đồng, rắn, trâu, heo, chó, lẫn lộn, Ma Quỷ Thần Thánh hỗn tạp, tự nhiên họp thì có họp, mà mỗi người có mỗi tư tưởng riêng biệt, chẳng ai nhân nhượng ai.

Một cuộc họp như vậy, có kéo dài đến bao lâu, cũng chẳng đưa đến một kết quả nào, và dù hội có thành lập, hội chỉ có danh mà không có thực. Cho nên Long Hoa Hội, vốn là Quần Tiên Hội, người trong hội phải đồng đảng, Bá Lý Bất Bình hoạch định một chương trình, tạm thời theo chương trình đó hành sự, chờ ngày phát đạt ...

Đương nhiên lão ta ở riêng một nơi, tự xưng là Tiên, và cái nơi lão ở có cái tên là Thiên Ngoại Thiên.

Lão tuyển chọn trong số chín mươi tám người, lấy ra mười bảy người, cho liệt danh vào Tiên Bảng. Chính lão ta trực tiếp thống lĩnh người trong Tiên Bảng.

Kế đó, lão lập ra Ma Bảng, trao quyền thống lãnh Ma Bảng cho Tạ Linh Vận.

Ma Bảng gồm một số người, đông hơn Tiên Bảng.

Bốn mươi lăm người còn lại, lão cho lập thành Quỷ Bảng, liệt danh họ trên Quỷ Bảng. Quỷ Bảng do Tây Môn Vô Diệm điều khiển.

Đương nhiên bất luận là về bảng nào, tuy có người trực tiếp thống lãnh, quản suất, song cái quyền tối thượng vẫn còn do lão nắm giữ.

Hội đã thành lập, Bá Lý Bất Bình vẫn còn bất mãn với nhân số quá ít. Lão cho rằng quần hùng trong thiên hạ chưa theo về đông đảo, nên ra lịnh năm năm sau, sẽ khai đại hội một kỳ, và các hội viên phải tìm cách gọi cho thật nhiều người gia nhập, làm thế nào cho tất cả cao nhân trong toàn quốc đều tham gia.

Sau ngày thành lập ba bảng Tiên, Ma và Quỷ, lão cũng có lập ra quy điều, luật lệ, ước thúc hội viên ...

Trong số chín mươi tám người tham dự kỳ đại hội đầu tiên phần đông do Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm đưa về Thần Nữ Phong.

Hành vi của bọn này rất ti tiện, khả ố, họ không đợi Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm phải dùng lắm lời khuyên dụ, chỉ nghe cả hai cho biết sơ lược là họ hoan nghinh liền.

Một ít người có hành vi chánh trực, thì bị bức bách mà theo, Tạ Linh Vận có thâm ý dùng số người do y thu nạp, làm hậu thuẫn cho một chủ trương của y sắp thực hiện trong tương lai ...

Thế lực của Tạ Linh Vận càng ngày càng lớn mạnh, lắm lúc y bất tuân cả lịnh của Bá Lý Bất Bình.

Lâm Hương Đình và Lý Trại Hồng thấy rõ, tình hình mỗi lúc một nghiêm trọng hơn, nếu họ không sớm có viện thủ đắc lực, thì trong một ngày rất gần, họ sẽ bị Tạ Linh Vận khống chế, như y đã khống chế bao nhiêu người. Ai khác thì chịu nổi sự khống chế của y, chứ hai người thì nhất định là không rồi. Do đó, cả hai càng nỗ lực tìm người kết nạp.

Lần hồi, họ gặp Nhàn Du Nhất u, Vạn Lý Vô Vân, Nhất Luân Minh Nguyệt ... nhưng, dù sao thì người chân chánh bao giờ cũng hiếm, do đó, hai bà vẫn chưa tạo dựng được một thế lực vững vàng, tương xứng với cánh đối lập.

Hai bà nỗ lực, Tạ Linh Vận cũng chẳng ngồi yên một chỗ, y càng cố công thu nạp thuộc hạ, bởi y chẳng cần tuyển chọn người theo tiêu chuẩn phẩm cách, nên thuộc hạ của y càng ngày càng đông. Tuy số người của y thu nạp rất hỗn tạp, tựu trung vẫn có tay rất khá, chẳng hạn Thiên Tề Ma Quân Kỳ Thiên Trường, thân phụ của Kỳ Hạo ...

Riêng về Bá Lý Bất Bình, lão ta cũng có thu nhận thêm một người nữ đệ tử.

Nữ đệ tử đó, chính là Liễu Y Ảo.

Lúc nhập môn, nàng chỉ có mười bốn tuổi, Bá Lý Bất Bình rất mực thương yêu nàng. Lão xem nàng như một đứa con, chỉ trong vòng hai mươi năm thôi, lão truyền thọ cho nàng tất cả sở học, đồng thời không cho nàng trà trộn với các nam đệ tử khác, sợ nàng nhiễm cái lối học tập bằng dâm loạn, nói rằng để phối hợp âm dương, chứ kỳ thực là thỏa mãn nhục dục. Nhờ thế, nàng còn giữ được sự trong trắng của nàng.

Cũng trong thời gian đó, Bá Lý Bất Bình chừng như thức ngộ chân lý của pho Tiên Kíp Đại La, tâm tánh của lão thay đổi nhiều, lão định bỏ con đường tà ma, quay về chánh đạo, do đó ngày đêm lão chuyên luyện.

Là con người thành tựu từ Ma đạo, bỗng nhiên trở về Tiên đạo, hai thái cực đó không thể dung hòa nhau được, cuối cùng lão phải lâm vào cảnh tẩu hỏa nhập ma. Trọn phần dưới thân thể của lão hoàn toàn bất động.

Tuy vậy, lý trí của lão vẫn còn sáng suốt, từ lúc tẩu hỏa nhập ma, lão phát hiện ra, không thể làm hưng vượng cái đạo Ma được, lão lại còn biết rõ, Tạ Linh Vận không thể là người nối chí của lão, nếu đặt tin tưởng quá nặng nơi y, thì cầm như sự nghiệp của lão phải tiêu tan.

Nhưng, đã muộn rồi! Chính lão mặc nhiên chấp nhận cho Tạ Linh Vận gầy thực lực bây giờ, rất khó mà loại trừ y. Công khai loại trừ y trong lúc này, là thế nào cũng có biến, Bá Lý Bất Bình sẽ lãnh hậu quả trước hết. Lão phải nghĩ ra một phương pháp an toàn.

Những sở đắc thu thập từ «Đại La Tiên Kíp», lão truyền cho bọn Lâm Hương Đình, đồng thời lại nghiên cứu một chiêu thức khả dĩ ức chế «Tu La Kiếm Pháp» do lão truyền thọ cho Tạ Linh Vận, phòng khi Tạ Linh Vận manh tâm khuynh loát Long Hoa Hội.

Cho nên Tạ Linh Vận có «Tu La Tứ Thức», bọn Lâm Hương Đình có «Đại La Thất Thức», để khắc chế «Tu La Kiếm Pháp» của Tạ Linh Vận.

Lão lại bày ra luôn một tín phù, đặt tên «Tru Tiên Lịnh». Chiếc tín phù, lão trao cho Lâm Hương Đình.

Lão cũng bịa luôn huyền thoại về thanh Bạch Hồng Kiếm, cốt để chế phục dã tâm của Tạ Linh Vận, chứ thực ra thanh kiếm đó chẳng có giá trị gì, đúng như Khổ Hải Từ Hàng đã tiết lộ với Lý Trại Hồng.

Trong cuộc triệu tập môn đồ, trao quyền lãnh đạo cho Lâm Hương Đình, lão vận dụng công lực còn lại biểu hiện cái oai lực của thanh kiếm Bạch Hồng, dằn được mặt Tạ Linh Vận rồi, lão cũng chết luôn ...

Đại khái, huyền thoại quanh Long Hoa Hội là thế!

Quan Sơn Nguyệt nghe thuật rồi, sững sờ một lúc lâu.

Sau cùng, chàng hỏi:

– Khổ Hải Từ Hàng gọi Bá Lý Bất Bình tiền bối là Pháp Hoa Thánh Giả ...

Lý Trại Hồng chận đáp:

– Đó là danh hiệu của sư phụ xưng ta giữa đại hội Long Hoa. Theo mạng lịnh của sư phụ, thì bất cứ ai cũng chẳng được dùng cái tên thật của mình nữa, và mỗi người tự ý chọn lựa một danh hiệu, phù hạp với Bảng của mình ... Như người thuộc về Tiên Bảng, thì chọn Tiên hiệu, còn người trong Ma Bảng, Quỷ Bảng, thì chọn Ma hiệu, Quỷ hiệu.

Bà tiếp luôn:

– Kẻ nào phạm lịnh đó, phải bị trừng phạt nặng nề, có thể thọ tử hình đấy.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Cho nên, ân sư tại hạ mới xưng là Hoàng Hạc Tán Nhân!

Lý Trại Hồng cũng gật đầu.

Quan Sơn Nguyệt hỏi tiếp:

– Cái vị Ôn lão tiền bối?

Lý Trại Hồng lắc đầu:

– Chẳng hiểu rõ nữa! Từ ngày ly khai sư phụ, bà không hề tái xuất hiện trên giang hồ. Nếu tính theo số tuổi thì nếu bà còn sống đến nay, tuổi bà phỏng độ trên dưới số trăm rồi! Rất có thể bà đã ra người thiên cổ!

Quan Sơn Nguyệt nghe u buồn man mác len lỏi vào tâm hồn, dù rằng lão Ôn kia, chẳng mảy mai liên hệ đến chàng, song bi ai của một đồng loại cũng khích động cảm hoài nơi chàng, cũng như nơi tất cả những kẻ có lòng trong thần thế ...

Bà ấy đúng là một con người bạc hạnh, bạc từ dung mạo, bạc đến duyên số, bạc cả vũ công, bà sanh ra trên đời chỉ để chuốc thảm đeo sầu, bà bị ruồng rẫy từ lúc sơ sanh đến khi bạc mái đầu và có lẽ bà đã phơi thây ở một phương trời nào đó, lòng đất lạnh cũng chẳng muốn tiếp nhận bà, bởi bà cô độc đơn côi, lúc chết đi, chắc gì có ai gặp, có ai xót thương nắm xương tàn mà vùi nông vùi sâu?

Suy nghĩ một lúc, Quan Sơn Nguyệt chợt nói:

– Còn mấy pho bí kíp của Pháp Hoa Thánh Giả?

Lý Trại Hồng đáp:

– «U Minh Chân Kinh» và «Thiên Ma Bửu Lục» thì còn đây, bọn này đã học xong toàn bộ, hai quyển đó chẳng còn giúp ích được gì nữa. Quyển «Đại La Tiên Kíp» thì đã bị sư phụ đốt cháy thành tro rồi.

Quan Sơn Nguyệt cao hứng, vỗ tay:

– Đốt là phải! Nên đốt! Chứ nếu vật đó còn tồn tại và vào tay Tạ Linh Vận, thì sẽ có tai hại khôn lường cho thiên hạ về mai hậu!

Lý Trại Hồng nhìn thoáng qua chàng hỏi:

– Giá như pho bí kíp đó vào tay bọn tôi, thì ngược lại tôi và Liễu hiền muội có thể ức chế Tạ Linh Vận chăng?

Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt:

– Dù bí kíp đó có mang cái tên Đại La, và được xem như là một Tiên vật, song tại hạ chỉ sợ đó là một Tiên vật trá hình, và bên trong hẳn ghi chú những phương pháp tập luyện công phu tà ma quỷ quái. Do đó nếu người nào chuyên luyện, thì cũng như kẻ mù đi sai đường, chẳng có lợi cho mình, mà còn có hại cho kẻ khác.

Lý Trại Hồng chớp mắt:

– Tại sao thiếu hiệp biết như vậy?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Bá Lý lão tiền bối bỗng nhiên có cái ý niệm tổ chức ra hội Long Hoa, thiết tưởng cái ý niệm đó phát sanh từ pho bí kíp Đại La. Sở dĩ hai quyển «U Minh Chân Kinh» và «Thiên Ma Bửu Lục» không đề cập đến việc đó, là vì quyển «Đại La Tiên Kíp» có ghi chú rồi, và chính vì «Đại La Tiên Kíp» có ghi chú nhiều điều lạ kỳ, nên Bá Lý lão tiền bối chẳng dám để quyển sách đó cho mọi người trông thấy, lão liền bối sợ các đệ tử đọc qua, sẽ biết cái giả tạo của lão và mất đi lòng tôn phục mà những người nắm quyền lãnh đạo cần có.

Lý Trại Hồng gật đầu, thở dài thốt:

– Thiếu hiệp nói đúng!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Trên cảnh do ảo tưởng mà có, mông lung phiêu diêu, một cảnh giới trong hư vô, tại sao lấy một việc cố định mà làm căn bản cho sự cầu tiến chứ? Tiên đạo, bất quá chỉ là một Ma đạo cao thâm, do đó càng mơ hồ, người ta không cho rằng mơ hồ, mà lại tán tụng là huyền diệu, bởi cái được gọi là huyền diệu, thì dễ hấp dẫn con người hơn! Cũng may Bá Lý lão tiền bối vì thức ngộ, nếu không thì đã lôi cuốn thêm biết bao nhiêu người vào vòng tai hại, và cái hậu quả sẽ không lường cho giang hồ!

Chàng thở dài, thốt:

– Đốt cháy «Đại La Tiên Kíp», mà Bá Lý tiền bối vẫn còn duy trì Long Hoa Hội, đều đó đủ chứng minh cái ma niệm của lão tiền bối đã quá thâm sâu trong tâm não ...

Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo biến sắc mặt:

– Thế ra, chúng tôi đều là người trong Ma đạo, bởi Tiên đạo như lời thiếu hiệp nói đó, thì chỉ là Ma đạo cao thâm?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Đúng vậy! Theo sự nhận xét của tại hạ, thì hai vị tuy đi theo con đường chánh, hành động trong phạm vi chánh đạo, nhưng vẫn không che dấu nỗi cái tà khí bao bọc quanh người.

Lý Trại Hồng nín lặng.

Liễu Y Ảo càng phút càng biến đổi thần sắc. Cuối cùng nàng vụt đứng lên.

Lý Trại Hồng đưa ánh mắt nghiêm nghị, sang nàng, nàng cúi đầu ngồi xuống như cũ.

Quan Sơn Nguyệt lờ đi, như chẳng thấy chi cả. Chàng điểm nhẹ nụ cười, hỏi:

– Trong trường hợp nào, ân sư tại hạ gia nhập Long Hoa Hội?

Lý Trại Hồng suy nghĩ một chút, đoạn đáp:

– Hoàng Hạc Tán Nhân đến Thần Nữ Phong do đại sư tỷ Lâm Hương Đình hướng dẫn. Người có mặt trong kỳ đại hội cách đây độ hai mươi năm. Đại hội lúc đó nhiệt náo phi thường, thiên hạ anh hùng quy tụ rất đông, và bọn tôi thì đều vượt bậc, không còn ai ở trong bảng nữa, mà đã nghiễm nhiên trở thành hoặc Tiên hoặc Ma, hoặc Quỷ. Cả Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm cũng được hưởng đặc cách đó, không ai còn bận lo lắng về việc của đại hội. Bởi, Long Hoa Hội đã được ủy thác cho bốn vị Hội Chủ chiếu quản. Bốn vị hội chủ đó là Hoàng Hạc Tán Nhân, Nhất u, Tây Nhạc Ma Tinh và Bắc Mao Quỷ Sứ ...

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Tại hạ có biết những người đó.

Lý Trại Hồng tiếp:

– Bốn người đó là những người đầu bảng, tuyển chọn họ làm Hội Chủ rồi, thì chức vụ đầu bảng khuyết người, cho nên Khổ Hải Từ Hàng được cất nhắc lên đầu Tiên Bảng, cũng như Thiên Tề Ma Quân làm thủ lãnh quần Ma, và m Phong Quỷ Quân làm thủ lãnh quần Quỷ. Tiên Bảng gồm ba mươi sáu người, Ma Bảng có bảy mươi hai người, và Quỷ Bảng có đến trăm người. Quang cảnh Long Hoa Hội lúc đó náo nhiệt tưng bừng lòng người phấn khởi phi thường.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Cách thức tuyển chọn người vào Bảng, như thế nào?

Lý Trại Hồng giải thích:

– Dĩ nhiên là phải lấy vũ công làm tiêu chuẩn. Dù vậy, người được chọn ở bảng trên, có quyền xin được xuống bảng dưới, chẳng hạn Thiên Tề Ma Quân ...

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Tại hạ biết rõ thâm ý của lão ấy. Chẳng qua, ở Tiên Bảng, sao cho bằng sụt xuống một nấc, tuy nấc thấp, song lão lại được đứng đầu, lão chỉ huy một số đông!

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Đó cũng là một lý do trong nhiều lý do khác. Sự thay đổi của Thiên Tề Ma Quân sở dĩ có, cũng do Tạ Linh Vận, một phần hắn sợ Thiên Tề Ma Quân nhập Tiên Bảng thì lực lượng của nhóm Tiên quá hùng hậu đi, bởi vũ công của Thiên Tề Ma Quân rất cao. Hắn cố thuyết phục lão ta trở về Ma Bảng, để cùng hắn gây phe, kết đảng, hầu chống lại nhóm Tiên của bọn tôi.

Quan Sơn Nguyệt chau mày:

– Như vậy là sai với quy luật của Hội, tại sao Lâm Hương Đình Tiên Tử chấp nhận chứ?

Lý Trại Hồng thở dài:

– Đại sư tỷ đã phát giác ra, Bạch Hồng Kiếm chẳng hề có oai lực như đã tuyên bố. Thanh kiếm đó không còn dùng ức chế Tạ Linh Vận nổi nữa, thì đành phải để cho hắn mặc tình làm chi thì làm, rồi tùy cơ mà tiết giảm lực lượng hắn dần dần ... Cự tuyệt hẳn với hắn, biết đâu có biến cố xảy ra, rất bất lợi cho bọn tôi?

Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt đã hiểu Long Hoa Hội như thề nào rồi. Chỉ còn mỗi một thắc mắc cuối cùng, là sự liên quan giữa ân sư với Lâm Hương Đình thôi.

Lý Trại Hồng tiếp:

– Trong số quần hùng tụ hội, chỉ có Hoàng Hạc Tán Nhân lỗi lạc hơn hết.

Bởi, lão qua khỏi Lôi Đình Tam Kích, không hề bị thương tổn!

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Lôi Đình Tam Kích là sao?

Lý Trại Hồng giải thích:

– Một cách thức trắc nghiệm vũ công của hội đối với người gia nhập. Cách thức đó có ba giai đoạn, nên gọi là Tam Kích. Nhất Kích, do đôi Bạch Hạc bay lơ lửng trên không, bất thình lình nhào xuống tấn công. Đệ Nhất Kích cũng nguy hiểm lắm, tuy rằng đôi hạc là loại thượng cầm song chúng rất lợi hại ...

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Tại hạ có gặp chúng rồi!

Lý Trại Hồng lộ vẻ kinh dị.

Liễu Y Ảo thuật sơ lược:

– Lúc thiếu hiệp lên đây. Thiếu hiệp chống trả đôi hạc, mường tượng Hoàng Hạc ngày trước. Lòng bàn tay của thiếu hiệp bị chân hạc quào, gây một vết thương nhỏ, may mà tôi đến kịp thời lấy thuốc giải độc thoa vào, chứ nếu không thì ...

Lý Trại Hồng chỉnh nghiêm thần sắc:

– Đành rằng Quan thiếu hiệp bị móng chân bạch hạc quào trúng, song chúng ta phải công nhận thiếu hiệp có vũ công cao thâm hơn Hoàng Hạc ngày trước một phần. Vì đại sư tỷ luôn luôn đề phòng bọn Tạ Linh Vận, ngày ngày ra công huấn luyện hai con hạc, hiện tại chúng lợi hại hơn xưa gấp trăm, gấp ngàn lần. Gia dĩ, nơi móng chân của chúng, đại sư tỷ tẩm chất tuyệt độc. Chất độc đó thấm vào máu là người bị quào phải chết ngay, thế mà thiếu hiệp lại chịu đựng nổi mấy phút giây, kể cũng là một sự phi thường đó.

Quan Sơn Nguyệt bỗng dưng lại được ca ngợi, hết sức bối rối. Nếu chàng nói mấy lời khiêm nhường, thì chẳng hóa ra mình muốn người ta xác nhận lại một lần nữa sao?

Lý Trại Hồng đáp:

– Hai cách sau, một do đại sư tỷ, một do Tạ Linh Vận. Thắng được một chiêu «Đại La Thất Thức» do đại sư tỷ thủ và một chiêu «Tu La Tứ Thức» do Tạ Linh Vận thủ.

Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:

– Đệ nhị kích và đệ tam kích, xem ra, rất khó mà vượt qua nổi!

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Đúng vậy! Và chỉ có mỗi một mình Hoàng Hạc Tán Nhân qua lọt mà thôi.

Lão ta là người duy nhất qua lọt, từ ngày Long Hoa Hội được thành lập đến nay.

Quan Sơn Nguyệt cảm thấy vinh hạnh lây với thành tích của ân sư.

Lý Trại Hồng thốt đến đó, rồi nín lặng.

Quan Sơn Nguyệt chờ một chút, không nghe bà ta nói gì, lại hỏi:

– Rồi sau đó?

Lý Trại Hồng tiếp:

– Qua cuộc thực nghiệm Lôi Đình Tam Kích rồi, là đến những cuộc so tài, phô diễn tuyệt kỹ, tranh nhau giành Bảng, giành ngôi vị trong Bảng. Cuối cùng là tiệc rượu vui, tiệc rượu kết thúc ngày đại hội ...

Bà dừng lại một chút, đoạn tiếp luôn:

– Đáng lý ra, theo đề nghị của nhiều người, cứ mỗi định kỳ năm năm là Long Hoa Hội được triệu tập một lần, song riêng một Hoàng Hạc Tán Nhân thì chống đối, lão ta quyết giữ y quy lệ cũ, cứ mỗi khoảng hai mươi năm họp một lần.

Lão muốn thế, đại sư tỷ của tôi vốn có cảm tình với lão, phải giữ lệ cũ. Cho nên trong vòng hai mươi năm qua, chẳng có một cuộc hội họp nào cả, mãi đến hôm nay ...

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Cứ theo lời tường thuật của các vị cũng như của Kỳ Hạo và Khổ Hải Từ Hàng, thì Long Hoa Hội chẳng có gì đáng gọi là bí mật. Thế tại sao người trong hội đối với người ngoài, lại có vẻ thần bí lạ lùng? Đã cho phép hội viên xuất ngoại, kêu gọi, dụ dẫn người gia nhập, mà lại giữ bí mật, thế là nghĩa làm sao?

Còn ai biết mình sẽ tham gia hội gì, sẽ làm gì, mà chấp thuận?

Lý Trại Hồng thở dài:

– Đó là độc kế của Tạ Linh Vận! Chính hắn đã nghĩ ra những điều lệ đó.

Người chấp chưởng đại quyền về hình phạt là Thiên Tề Ma Quân, một người thuộc bè đảng của hắn, giả như người trong Tiên Bảng có phạm quy luật, thì Thiên Tề Ma Quân nhất định áp dụng luật lệ, quyết chẳng dung tình. Chúng cố ý tỉa dần vi cánh của chị em tôi, nên an bài phương thức chế ngự hà khắc như vậy.

Bà trầm giọng tiếp:

– Thiếu hiệp thử nghĩ, suốt thời gian dài hằng hai mươi năm, có ai giữ ý gìn lòng chặt chẽ? Cho nên đã có nhiều người bị cái lệ khắc nghiệt đó hãm hại. Tuy cá nhân của người phạm tội chưa đến đỗi nào, song dù sao Tiên Bảng cũng giảm đi phần nào thịnh thế!

Quan Sơn Nguyệt mơ màng:

– Người trong Long Hoa Hội đông đảo quá, lại rải rác khắp nơi, ai có khả năng nào giám thị toàn thể một cách chặt chẽ nổi?

Lý Trại Hồng đáp:

– Hệ thống trinh sát của chúng rất linh hoạt, chúng huy động rất nhiều thuộc hạ, khắp nơi, âm thầm theo dõi bọn người trong Tiên Bảng, chúng chỉ theo dõi những người của Tiên Bảng thôi, tự nhiên công cuộc của chúng được giản dị hơn, do đó phần hiệu dụng phải tăng gia. Chúng thừa lực lượng giám thị như thường!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc:

– Thế mà từ bao lâu nay, ân sư chẳng hề tiết lộ mảy mai.

Lý Trại Hồng mỉm cười:

– Hoàng Hạc Tán Nhân vốn có tính cẩn thận, nếu lão không tiết lộ với thiếu hiệp, chẳng qua lão đã có chủ trương, lão an bài như thế nào cho thiếu hiệp trước rồi đó! Chẳng hạn, cái chủ trương của lão là sẽ đưa thiếu hiệp đến Long Hoa Hội, thay thế lão ta ở chức vị Hội Chủ. Không ngờ nửa chừng lại có cuộc biến hóa ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình.

Lý Trại Hồng điềm nhiên tiếp:

– Chắc thiếu hiệp còn hoang mang? Nếu cần, thiếu hiệp cứ hỏi Khổ Hải Từ Hàng, nhà sư đó sẽ giải thích cho thiếu hiệp hiểu rõ hơn, hay lão ta xác nhận cho thiếu hiệp biết chắc. n sư của thiếu hiệp giao tình rất trọng hậu với lão ta, họ chẳng giấu giếm nhau một sự gì cả. Chính những việc có liên quan đến đại hội, mà ân sư của thiếu hiệp chẳng cho chị em tôi biết, chỉ bàn luận với một mình Khổ Hải Từ Hàng thôi, đủ biết họ thân mật với nhau như thế nào. Công cuộc hôm nay, dĩ nhiên chị em tôi biết được phần về người và việc, là nhờ mảnh giấy của đại sư tỷ lưu lại.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ trầm trọng.

Mảnh giấy của Lâm Hương Đình lưu lại! Mảnh giấy đó nói gì? Chàng muốn xem mảnh giấy đó lắm, song làm sao mở miệng hỏi Lý Trại Hồng? Biết bà ta sẵn sàng trao cho chàng xem chăng?

Chàng im lặng trầm tư.

Lý Trại Hồng hỏi:

– Bây giờ, thiếu hiệp còn muốn biết điều chi nữa chăng?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Tại hạ muốn biết, Lâm Tiên Tử làm cách nào, mời được ân sư vào hội?

(mất trang) Thượng Xuân, phàm người trong hội, bất cứ thân hay thù, cũng phải xuất lực tiếp trợ Bốc Thượng Xuân, bởi đó là bổn phận của mỗi hội viên, bổn phận tương trợ!

Quan Sơn Nguyệt lại được biết thêm một đoạn sự tình nữa.

Lý Trại Hồng thở dài:

– Thực ra, hơn một trăm người Long Hoa Hội, đối với nhau không ân là oán, không thân là thù, tình thế đã đưa người trong hội vào cái cảnh tranh chấp rõ rệt, và hội viên phân thành hai khối đối lập với nhau ...

Bà dừng lại, cau mày tiếp:

– Ngày thường, hận thù nhau đến đâu, chẳng ai dám khiêu khích ai, ai ai cũng phải nén lòng chờ đến ngày đại hội, lúc đó mặc tình sanh sát nhau, phe nào ủng hộ, bênh vực phe nấy ...

Họ oán thù, hay thân mật với nhau, điều đó chẳng liên quan gì đến Quan Sơn Nguyệt, chàng không cần biết đến. Chàng luôn luôn thắc mắc về trường hợp của Độc Cô Minh. Chàng hỏi:

– Tiên tử nói mãi, chưa đề cập đến sự tình giữa ân sư tại hạ và Lâm Tiên Tử.

Chẳng hay, uẩn khúc bên trong như thế nào?

Lý Trại Hồng suy nghĩ một chút:

– Sau kỳ đại hội hai mươi năm trước, Hoàng Hạc Tán Nhân được đại sư tỷ mời đến biệt phủ. Hoàng Hạc Tán Nhân lưu lại Thần Nữ Phong một thời gian, cả hai hết sức tương đắc. Tạ Linh Vận biết được điều đó, vô cùng bất mãn, cho rằng hắn ghen tức cũng không ngoa, bởi từ lâu, hắn có tình ý với đại sư tỷ rất nặng.

Trước kia, sư phụ tôi còn tại thế, chẳng nói làm gì, sau này sư phụ quy tiên, hắn tưởng là sư tỷ sẽ đổi ý, chưởng hướng tâm tình về hắn, ngờ đâu Hoàng Hạc xuất hiện, chận lối ngăn đường, hắn có ý muốn giết Hoàng Hạc, song còn ngại oai lực của thanh kiếm Bạch Hồng. Không giết được tình địch, hắn nghĩ ra phương pháp khác. Hắn đem cái việc đại sư tỷ ngày trước, dâm loạn với sư phụ tiết lộ cho Hoàng Hạc biết!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– n sư tại hạ có cái tâm sáng như nhật nguyệt, khi nào người lư ý đến điều đó! Người xét việc, xét từ căn nguyên, nhất định không bằng vào hậu quả mà đáng giá trị của bất kỳ ai!

Lý Trại Hồng chớp mắt:

– Thiếu hiệp nói đúng. Hoàng Hạc cười nhẹ, đáp lời Tạ Linh Vận như thế này:

«Sở dĩ có những việc như thế, là do sự tình bất đắc dĩ, viên ngọc dù có bị mang vùi bùn, khi lên khỏi bùn, ngọc vẫn sáng chói như thường, chính cái đức tính của con người, mới là ngọc, còn xác thân chẳng qua là vật hữu loại, quý gì mà phải thiết tha?» Câu đáp của Hoàng Hạc, từng gây cảm xúc đến tôi, huống hồ đại sư tỷ.

Quan Sơn Nguyệt thở nhẹ, khoan khoái phi thường.

Lý Trại Hồng tiếp:

– Lần thứ nhất, Tạ Linh Vận thất bại. Hắn chuyển sang giai đoạn thứ hai.

Giai đoạn phân khai Hoàng Hạc và đại sư tỷ.

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

– Độc kế của hắn như thế nào?

Lý Trại Hồng thoáng đỏ mặt. Lâu lắm, bà ta mới thấp giọng đáp:

– Trong cái kế đó, tôi có dự phần! Và cũng chính tự tay tôi xúc tiến ...

Quan Sơn Nguyệt sửng sốt, giương tròn mắt nhìn bà.

Lấy lại bình tĩnh, Lý Trại Hồng tiếp luôn:

– Nói ra, thiếu hiệp có cười, tôi cũng đành chịu. Tôi thực sự yêu lịnh sư, yêu thầm, yêu trộm, vì đã có đại sư tỷ yêu công khai rồi! Mà cái sự yêu thầm nhớ trộm đó lại không qua lọt đôi mắt của Tạ Linh Vận! Hắn lợi dụng ...

Quan Sơn Nguyệt hết sức chú ý, lắng nghe.

Liễu Y Ảo kêu lên:

– Sư tỷ! Không nói ra lại chẳng được sao?

Lý Trại Hồng thở dài:

– Phải nói mới được, sư muội ạ! Phải nói ra, cho lòng ngu thơ được nhẹ, ngu thơ cảm thấy mình có tội với đại sư tỷ, tuy đại sư tỷ không phiền trách, ngu thơ cũng chẳng thể dung thứ cho mình ...

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 27

Hai Mươi Năm Sau

Dưới ánh trăng, trên đỉnh Thần Nữ Phong, năm người vây quanh một bàn tiệc.

Tiệc rượu, là một trang sức cho tất cả các cuộc hội họp thân mật, người ra chú trọng đến cái gì hơn là những thức ăn, thức uống.

Cái gì đó, sẽ được đem ra thảo luận, thỉnh thoảng có chén rượu chấm câu, đánh dấu giai đoạn, chén rượu được xem như một lý do, che đậy một điều khó nghĩ, chén rượu tắt trách sự chậm trễ trình bày hoặc giải đáp. Bởi, không ai giục kẻ đang uống rượu phải phát ngôn ngay, khi chén rượu nâng lên và chưa cạn.

Trong số năm người dự tiệc rượu, hay dự cuộc họp đúng hơn, có Lâm Hương Đình, với tư thái như tiên nữ. Cạnh Lâm Hương Đình, có Lý Trại Hồng cũng đẹp tuyệt vời, có Liểu Y Ão đang hồi nhan sắc xinh tươi. Hai người còn lại, một là Tạ Linh Vận, thản nhiên như thường, và Độc Cô Minh thần sắc phấn khởi.

Qua vài tuần rượu, Tạ Linh Vận mỉm cười thốt:

– Đời người, có gì thích thú hơn là dưới ánh trăng sáng có rượu nồng quanh mình lại có bạn thân? Bình sanh, tại hạ mỗi khi gặp những đêm trăng như thế này, là nhất định phải có cuộc họp ban, chuốc chén! Càng thích thú hơn cho tại hạ trong đêm nay là Vô Diệm vắng mặt!

Độc Cô Minh cười nhẹ:

– Tạ huynh nói thế là nghĩa làm sao? Tây Môn cô nương đối với Tạ huynh, có cảm tình như sao, còn ai chẳng hiểu?

Tạ Linh Vận cười nhẹ:

– Đó là một vấn đề thuộc phương diện khác, còn như đêm nay, nàng vắng mặt là một sự kiện rất hay, bởi nàng hiện diện thì với gương mặt xấu xí đó, nàng sẽ là một trở lực rất lớn cho chúng ta năm người gồm toàn những tay phong lưu cao nhân.

Liễu Y Ảo trầm giọng:

– Sư huynh không nên quá bất công đối với Tây Môn sư tỷ như vậy!

Tạ Linh Vận điềm nhiên:

– Nàng xấu, tại hạ phải nói là xấu chứ chẳng lẽ tại hạ tâng bốc nàng, cho là nàng có nhan sắc ngư trầm, nhạn lạc, liễu thẹn, hoa nhường? Ngày trước sư phụ đặt cho nàng cái tên Vô Diệm, đó cũng là một đối xử bất công, sao cô nương không trách sư phụ mà lại trách tại hạ?

Hắn xưng tại hạ, và gọi những sư muội bằng cô nương, điều đó cũng hơi lạ.

Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:

– Nữ si tâm, nam bạc hạnh, sư huynh nói thế, không sợ nàng nghe được, nàng đau lòng sao?

Tạ Linh Vận cười ha hả:

– Giả như nàng nghe tại hạ cho rằng nàng xấu xí mà đau lòng, thì đúng là nàng không tự xét mình. Thật ra, tại hạ chỉ biết cảm kích thâm tình của nàng, còn như nàng xấu mà bắt buộc phải nói là nàng đẹp, thì ...

Lâm Hương Đình không muốn mọi người kéo dài câu chuyện đó, vội hỏi:

– Tây Môn sư muội đi đâu?

Tạ Linh Vận mỉm cười:

– Nàng đi đâu, nào ai biết được? Rất có thể nàng hạ sơn, rất có thể nàng đi quanh quẩn trong vùng, nhưng nàng đi đâu mặc nàng, chúng ta không nên quan tâm làm gì.

Vừa lúc đó, từ xa, có tiếng hạc ré lên, vọng lại.

Tiếng hạc ré rất gấp, làm cho mọi người đều kinh dị, cùng lắng tai nghe.

Tạ Linh Vận vụt thốt:

– Chừng như tiếng hạc vang từ phía đơn phòng vọng đến, hạc ré gấp như vậy là có ý cảnh cáo một biến cố gì đó. Nơi đây, còn có kẻ nào to gan dám bén mãn đến? Trừ ra Vô Diệm ...

Lâm Hương Đình hỏi gấp:

– Nàng đến đây để làm gì?

Tạ Linh Vận cười nhạt:

– Nào ai biết được dụng ý của nàng? Có thể là nàng muốn biết qua thanh kiếm Bạch Hồng ...

Lâm Hương Đình biến sắc mặt, bật đứn lên, rồi phi thân vút đi về phía xó tiếng hạc ré.

Tạ Linh Vận cũng đứng lên, trầm giọng thốt:

– Nếu đúng là Vô Diệm định vào đơn phòng, thì tại hạ phải đến đó mới được, tại hạ đến để khuyên giải nàng, đừng sanh sự với Hương Đình sư tỷ.

Hắn phi thân theo Hương Đình ngay.

Liễu Y Ảo vốn thích nhiệt náo, cũng đứng lên, cũng thốt:

– Tôi đến đó xem sao!

Nàng đi liền.

Tại tiệc, chỉ còn lại Độc Cô Minh và Lý Trại Hồng.

Không lâu lắm, tiếng hạc ngưng bặt, nhưng chẳng có việc gì xảy ra. Hay ít nhất, bọn Độc Cô Minh và Lý Trại Hồng chẳng thấy động tịnh gì, chung quanh vắng lặng, ba người đi, chưa một ai trở lại.

Sự im lặng đó không có nghĩa là hoàn toàn vô sự, sự im lặng rất đáng nghi ngờ, bởi nếu là vô sự thì tất cả phải trở lại bàn tiệc chứ. Còn như có sự gì, thì sao lại chẳng động tịnh nào cả?

Độc Cô Minh cau mày, đề nghị với Lý Trại Hồng:

– Chúng ta đến đó xem qua ...

Lý Trại Hồng đưa tay nắm Độc Cô Minh giữ lại, thốt:

– Hoàng Hạc! Đơn phòng của sư tỷ, là cấm địa, tuy ngươi giao tình mật thiết với đại sư tỷ, song ngươi không thể đến đó, hay nói một cách khác, ngươi không nên đến đó.

Dừng lại một chút, bà ta trầm giọng tiếp:

– Huống chi, ngươi không có tư cách can thiệp và việc của các sư tỷ muội của ta.

Độc Cô Minh không biểu hiện một cảm nghĩ nào qua nét mặt hay lời nói.

Chẳng biết, lão có bất mãn vì thái độ lạnh nhạt của Lý Trại Hồng hay không, cái thái độ phủ nhận lão là một người thân của Lâm Hương Đình, mà đã là thân của Lâm Hương Đình, thì đương nhiên đứng về cánh Lâm Hương Đình, cánh của bà ta.

Tại sao Lý Trại Hồng tỏ cái vẻ phủ nhận sư liên minh của Độc Cô Minh?

Xẵng giọng với lão, giữ lão lại rồi, Lý Trại Hồng ve vuốt trở lại. Bà cười, vớt vát, mà cũng để mở màn cho một mưu thâm nào đó:

– Đừng lo nghĩ gì đến việc của họ. Chúng ta cứ uống, có trăng, có rượu, không hưởng cũng hoài!

Độc Cô Minh vẫn thản nhiên, bà lại bảo ngồi lại, lão ngồi, bà ta bảo uống rượu, lão uống, không tỏ vẻ thích mà cũng chẳng lộ ý bực tức. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ một chút, tất thấy lão ta lơ đãng, thân xác tại đó, mà hồn như chơi vơi tận đâu đâu.

Lý Trại Hồng làm gì không nhận ra cái vẻ xa vắng đó của lão?

Cái vẻ xa vắng của lão nói lên rõ rệt cái thừa của Lý Trại Hồng đối với lão, sự có mặt của bà ta chẳng hề làm cho lão chú ý nhất là khi một nam một nữ đối diện với nhau, dưới đêm trăng, trong lòng có chút rượu nóng rồi. Mà, nam thì tài, nữ thì đẹp! Vẻ xa vắng đó nếu không có nghĩa là nam khinh thường nữ, thì còn là gì nữa? Nữ nhân, có nữ nhân nào bị chạm tự ái mà không hận, không tức?

Tuy nhiên, Lý Trại Hồng chưa tỏ lộ khích động quá vội vàng và rõ rệt. Bà chỉ liếc xéo lão ta, hỏi:

– Ngươi không được yên tâm cho đại sư tỷ ta phải không?

Độc Cô Minh thoáng đỏ mặt, đáp nhẹ:

– Làm gì có việc đó?

Lý Trại Hồng mỉm cười:

– Thế thì ngươi đừng làm như kẻ thất hồn lạc phách chứ! Nào, hăng hái lên đi, uống đi, chúng ta cứ uống, bình sanh ta chưa từng thấy có dịp nào cao hứng bằng đêm nay.

Bà hỏi luôn:

– Ngươi có thích cạn chén với ta không?

Độc Cô Minh tự hỏi, trước đó, thì Lý Trại Hồng quá dửng dưng với cuộc rượu, rồi bây giờ bà ta lại bộc lộ cái hứng bừng bừng, điều đó, tại sao mà có? Tại sao bà ta thay đổi thái độ quá nhanh như vậy?

Lão không còn làm sao cự tuyệt Lý Trại Hồng, nhưng lão vẫn còn viện cớ:

– Tại hạ cũng muốn hầu rượu Tiên tử lắm chứ, ngại vì không có chén lớn ...

Lý Trại Hồng khoát tay:

– Miễn là ngươi chấp thuận chuốc chén với ta là được rồi, còn cái việc có chén lớn hay không, ngươi để ta lo liệu. Ta có biện pháp!

Trên mặt bàn, có hai chiếc bình rượu, bằng sắt.

Lý Trại Hồng đưa một ngón tay, vận dụng kình lực, phóng một đạo chỉ phong, quét ngang qua, như một ngọn phảng chém qua đầu cỏ.

Hai tiếng động khẽ vang lên. Chỉ phong của Lý Trại Hồng quét qua, chặt đứt cổ bình, rơi xuống bàn, còn lại hai cái bầu, trong bầu rượu khá nhiều.

Bà ta biến hai chiếc bình thành hai cái chén lớn, đúng ý muốn của Độc Cô Minh. Bà chỉ còn vận công, rà tay quanh chỗ bị chặt, cho miệng bình trơn tru, khi đưa vào miệng không sợ làm trầy môi.

Bà mỉm cười, cầm một cái bầu, trao qua Độc Cô Minh thốt:

– Gặp nhau, hơi muộn, cũng đáng hận lắm chứ, phải không Hoàng Hạc?

Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể uống với nhau một chén, phải vậy chăng Hoàng Hạc?

Độc Cô Minh thoáng lộ vẻ kinh dị hỏi:

– Tiên tử nói thế, là nghĩa làm sao?

Lý Trại Hồng nhếch nụ cười khổ:

– Ta nói thế, là do nơi niềm xúc cảm của ta, ta nhận ra rằng, trên thế gian này, chẳng tìm đâu ra được người thứ hai như ngươi, nhưng đại sư tỷ ta có cái diễm phúc, gặp ngươi trước rồi, ta còn lời gì nói nữa? Ta không nói được gì, thì ta phải hận chứ? Hận vì muộn, hận vì không có diễm phúc như đại sư tỷ!

Chẳng phải đây là lần thứ nhất, Độc Cô Minh bắt gặp ánh lửa nơi mắt bà ta.

Thứ lửa đó, tuy nó vô hình, song nó đốt cháy con người, đốt cháy cả một thành trì, một sự nghiệp, giang san. Nhưng lão cứ tưởng là dù sao, bà cũng phải giữ kín đáo ý niệm, và chấp nhận một việc đã rồi, bà phải biết cái thân phận của mình ở ngoài vòng xúc cảm. Bà phải chấp nhận một sự bất khả kháng mới phải. Lão không tưởng nổi, là bà còn can đảm nói lên một cách trắng trợn như thế!

Bởi không tưởng nổi, nên khi nghe bà tỏ tình, Độc Cô Minh sửng sờ, chẳng biết phải đối đáp làm sao cho thích đáng.

Lý Trại Hồng lại điểm nhẹ một nụ cười, vẻ cười thê thảm hơn trước mấy phần. Bà tiếp:

– Hoàng Hạc! Ngươi yên trí! Ngoài chén rượu này, ta chẳng van cầu ngươi điều gì khác nữa đâu! Ta chỉ mong ngươi uống cạn chén rượu này thôi, một chén rượu kỷ niệm mà ta chẳng bao giờ quên được, uống đi, Hoàng Hạc, uống rồi chúng ta mỗi người đi về một phương trời riêng biệt. Chén rượu không ràng buộc chúng ta, uống chén rượu mà ngươi cầm như tại một tửu quán nào đó, ngươi bỏ tiền ra, mua uống, nó chẳng cam kết mảy mai giữa người mua và người bán ...

Nếu bà đừng nói nhiều, có lẽ Độc Cô Minh đã uống, uống ngay khi bà trao.

Nhưng, bà đã để nhiều ý nghĩa trong chén rượu quá, lão không uống liền. Lão ngưng trọng thần sắc, hỏi:

– Tiên tử, có ý tứ gì?

Lý Trại Hồng thở dài:

– Chẳng có ý tứ chi cả.

Lộ vẻ căm hờn bà tiếp:

– Ta đã tỏ lộ tâm tình, vì quá xúc cảm, không dằn lòng được đó thôi. Chứ làm sao ta chẳng biết tâm tư của ngươi đâu còn chỗ trống để cho bóng hình ta chen vào, dù là giành một phạm vi nhỏ hẹp? Ta nói mỗi người ở một phương trời, chằng qua chỉ là một cách nói mà thôi, chứ dù ta với ngươi ở kề cận nhau, trong gang tấc mà nào có khác nghìn dặm quan hà?

Giọng nói của bà nghe bi thương cực độ.

Thực sự, Độc Cô Minh xót xa vô cùng, không nở nghe thêm, mà muốn cho bà đừng nói thêm, thì lão phải uống cạn chén rượu. Rượu cạn rồi, là bà sẽ không còn lý lẽ dẫn giải dài dòng. Lão nâng bầu rượu lên nốc cạn.

Lý Trại Hồng đợi lão cạn bầu, bà cũng cạn luôn bầu rượu của bà, rồi mạnh tay quăng nó vào vách đá, đáng lý nó phải bẹp dí, song bà quá hận, vận công khá nhiều, chiếc bầu vỡ vụn ra, như bầu bằng sứ. Đoạn, bà ngồi xuống, bà từ từ cởi y phục ra, từng chiếc từng chiếc, chiếc ngoài trước, chiếc trong sau, chiếc trên rồi đến chiếc dưới.

Độc Cô Minh trố mắt nhìn bà làm những việc đó, lão quá sững sờ, không có phản ứng nào ngay lúc đó, hoặc giả lão chẳng dám can thiệp liền, bởi can ngăn bà, là phải bước tới, chạm vào mình bà.

Y phục trút ra, thân hình loã lồ, y phục đó, trải trên đất như chiếc thảm, Lý Trại Hồng lên trên chiếc thảm đó, nằm dài xuống, rồi cất tiếng gọi Độc Cô Minh, tiếng gọi của bà có vẻ dụ hoặc phi thường:

– Ta nghe nóng trong mình quá, Hoàng Hạc! Nằm trên đống y phục này mát lắm. Ngươi có nghe nóng chăng?

Giật mình cơn sửng sốt đã qua, Độc Cô Minh trở về thực tế, lão nghe nóng trong người lạ lùng. Nhiệt bốc mạnh, mồ hôi tuông ra thành dòng.

Lý Trại Hồng đập nhẹ tay xuống một bên chỗ bà nằm, nửa mỉa nửa mời:

– Đừng làm bộ làm tịch, đừng rụt rè nữa, lại đây, lại nằm với ta cho mát, hai chúng ta cùng mát, mát cả thân xác mà cũng mát cả lòng. Nhanh lên, Hoàng Hạc!

Độc Cô Minh không do dự nữa. Lão cởi hết y phục của lão, rồi bước đến cạnh bà, nằm xuống. Đôi nam nữ nghiểm nhiên trong tư thế song song, sát bên nhau.

Mát đâu không thấy, chỉ thấy thân hình càng nóng, nóng lạ lùng, nóng với một thứ lửa quái dị ...

Khi cả hai tỉnh lại thì, quanh họ, nơi bốn góc, có một người ở mỗi góc.

Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm rất hân hoan, Lâm Hương Đình bình thản như thường.

Chỉ có Liễu Y Ảo kêu lên khủng khiếp.

Tiếng kêu của Liễu Y Ảo làm cho Độc Cô Minh giật bắn mình, vụt đứng lên hấp tấp vớ vội y phục, quấn vào mình đúng hơn là mặc.

Tạ Linh Vận điểm một nụ cười nham hiểm, thốt:

– Mừng cho sư muội đó nhé! Con người ta, ai ai cũng nuôi một cái mộng sanh bình. Mộng của sư muội đã thực hiện rồi, còn chi hơn?

Đến bây giờ, hắn mới gọi những người đồng môn bằng cái tiếng «sư» đứng đầu.

Lý Trại Hồng chẳng nói gì cả, song hấp tấp mặc y phục vào mình.

Độc Cô Minh hết lõa lồ rồi, hướng sang Lâm Hương Đình ấp úng thốt:

– Tội quá! Lỗi quá! Không xứng đáng với Hương Đình ...

Lâm Hương Đình khoát tay:

– Chẳng có chi đâu, chính tôi cũng đã dự liệu như vậy từ lâu, Hoàng Hạc không nên hối hận. Trong tình cảnh đó, dù cho ai cũng chẳng tự kềm chế nổi, nếu kềm chế được, thì chẳng hoá ra chúng ta là thánh cả rồi sao?

Độc Cô Minh hết sức hổ thẹn, thở dài, thấp giọng:

– Chỉ vì tại hạ kém định lực, chứ có phải ai ai cũng không kềm chế nổi đâu?

Thành ra ... thành ra ... Thôi! Tại hạ chẳng có lời gì để nói nữa, tại hạ xin ... đi! Sau này hẳn hay ...

Lâm Hương Đình thoáng giật mình:

– Hoàng Hạc không cần phải đi đâu, tôi cam đoan là chẳng hề nghĩ ngợi mảy mai về việc này. Hoàng Hạc từng lấy lượng lớn, xét nét, thứ tha cho tôi, sẵn sàng quên dĩ vãng của tôi, thì tôi cũng phải trả lại cái gì đã nhận, một cách xứng đáng chứ! Không đâu, tôi chẳng hề quan tâm đến việc đã xảy ra, trái lại, tôi còn cao hứng nữa là khác. Sự việc này đã tạo cái thế bình đẳng cho chúng ta đó, Hoàng Hạc ạ!

Độc Cô Minh lắc đầu:

– Không được đâu Hương Đình! Tại hạ xin cảm tạ ý tốt của Hương Đình.

Không thể nào ở lại đây được nữa. Hương Đình tha thứ cho tại hạ, chứ tại hạ chẳng thể tự tha thứ được.

Lâm Hương Đình thở dài:

– Hoàng Hạc cố chấp quá đi thôi! Cũng được, muốn đi, cứ đi, tôi không ngăn trở nữa đâu! Song, tôi muốn biết, đi rồi Hoàng Hạc còn trở lại đây nữa chăng?

Độc Cô Minh nhìn thoáng qua Lý Trại Hồng, không đáp.

Lâm Hương Đình đã hiểu cái ý của lão rồi. Bà cười nhẹ, tiếp:

– Chúng ta lấy cái hạn hai mươi năm làm định kỳ, giả như trong vòng hai mươi năm đó Hoàng Hạc quên được chuyện ngày nay, thì cứ đến, phần tôi, tôi luôn luôn chờ đợi Hoàng Hạc. Giả như suốt thời gian đó, Hoàng Hạc không thể quên được, thì tôi đành chờ đúng ngày khai hội!

Độc Cô Minh trầm ngâm một lúc, đoạn thốt:

– Tại hạ cần phải luyện tập con tim cho cứng rắn hơn, tại hạ cần có một thời gian để quên, để tha thứ cho mình, khi nào tại hạ thành công trên những ước nguyện đó, thì tại hạ sẽ trở lại, hoặc trước hạn kỳ, hoặc ngay trong ngày đại hội.

Còn như tại hạ thất bại, thì vào ngày khai hội, tại hạ sẽ cử một đại diện. Tiên tử nên nhớ rằng nếu vị đại diện của tại hạ đến dự hội, thì tại hạ không còn ở trên nhân thế này nữa!

Lão quay mình, thoát đi liền.

Lão đi, luôn mười bảy năm dài. Mãi đến ba năm trước đây, lão trở về. Lão trở về với con người hoàn toàn thay đổi. Thay đổi, cho nên thần thái của lão chẳng giống ngày xưa. Ý chí của lão kiên định hơn, phong cách trầm ổn hơn.

Trong khi đó, đại sư tỷ cũng giữ nguyên tâm tĩnh ngày trước, cả hai vui cuộc trùng phùng, họ trở thành một đôi Tiên, sống giữa nhân gian ...

Câu sau cùng, Lý Trại Hồng thốt. Sự việc trên cũng do chính bà lược thuật.

Nhắc lại đoạn cố sự, bà man mác trầm buồn, đưa ánh mắt mơ màng, nhìn ra xa thẳm ...

Quan Sơn Nguyệt cũng trầm gương mặt theo dõi câu chuyện. Quan Sơn Nguyệt không ngờ là mình được nghe một đoạn cố sự bi thảm như vậy. Chàng trầm mơ một lúc lâu, đoạn hỏi:

– Tiên tử tường thuật rất rõ ràng, còn gì nữa mà tại hạ chẳng hiểu? Tuy nhiên, tại hạ lấy làm lạ ở điểm này, là trong sự việc đó, tại hạ không thấy có liên quan đến Tạ Linh Vận?

Lý Trại Hồng thở dài:

– Tạ Linh Vận thấu đáo tâm ý của tôi, bày cho tôi cái kế đó. Chính hắn mời mọi người dự tiệc, chính hắn cung cấp cho tôi loại mê dược «Hương Mộng Trầm Huân Tán», phàm những nữ đệ tử trong Long Hoa Hội, hay đúng hơn những đệ tử của sư phụ bị mê hoặc tâm thần, đến đổi phải sanh ra dâm loạn, bại hoại tiết trinh, đều do «Hương Mộng Trầm Huân Tán» cả. Tạ Linh Vận sợ Hoàng Hạc quá tinh ý, minh chánh, phát hiện ra thứ thuốc đó, cho nên hắn bỏ vào bình rượu, nhưng bình rượu có hai lớp vỏ, chất mê đó, hắn bỏ ở khoảng giữa hai lớp, thành thử, lúc rót rượu ra đãi mọi người, thì thứ rượu đó là thứ thường, đến chừng tôi dùng chỉ phong chặt đứt cổ bình, thuốc đó rơi xuống rượu. Còn cái việc Tây Môn Vô Diệm bén mảng đến đơn phòng cũng là do nơi sự sắp đặt của Tạ Linh Vận. Có như vậy, những người khác mới chạy đi, còn tôi thì ngăn chặn Hoàng Hạc ở lại ...

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Chừng như Lâm Tiên Tử không hề quan tâm đến việc đó ...

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Thiếu hiệp nghĩ đúng. Bởi từng nếm qua loại thuốc mê đó, đại sư tỷ biết công hiệu của nó như thế nào, nên không trách Hoàng Hạc. Sở dĩ nhiên như vậy xảy ra, là vì thuốc mê chứ không vì cái ý muốn của người. Chỉ có Hoàng Hạc vốn minh chánh, thành ra cố chấp mà chẳng chịu sự thứ tha, do đó cả hai phải cách biệt nhau suốt mười bảy năm dài, mười bảy năm gián đoạn hạnh phúc của họ!

Nhưng, người lành thì trời giúp, chung quy rồi họ cũng hiệp lại với nhau, chỉ khổ cho tôi là mang niềm hối hận mãi mãi, còn Tạ Linh Vận cũng chẳng thu tập được gì, tuy hắn ly gián Hoàng Hạc với đại sư tỷ, Hoàng Hạc đi rồi, đại sư tỷ cũng chẳng lưu ý đến hắn, hắn vẫn thất vọng như thường!

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Thảo nào ân sư trong thời gian đó, giam mình trong mật thất tại sa mạc!

Chàng thuật sơ lược hành vi của Độc Cô Minh trong thời gian đó.

Vì thẹn với việc làm đó, khi rời khỏi Thần Nữ Phong, Độc Cô Minh đi khắp giang hồ, khiêu chiến với chín phái lớn, ba đại danh gia trong vũ lâm, bảy cốc và mười bốn đảo, cốt gây nên công phẫn, khiến cho toàn thể hào kiệt anh hùng trong thiên hạ oán hận, liên kết nhau mà tìm lão, báo thù, hạ sát lão. Lão không muốn sống với sự hổ thẹn đó, nên quyết mượn tay quần hùng vũ lâm hạ sát lão.

Ngờ đâu, trong vũ lâm Trung Nguyên lúc đó rất ít người tài, thành thử ân sư của chàng đánh bại tất cả, lập nên Minh Đà Lịnh, nghiễm nhiên trở thành Minh Đà Lịnh Chủ, thanh danh hiển hách một thời.

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Vũ công của Hoàng Hạc rất cao, tất cả những người trong Long Hoa Hội chẳng một ai đánh thắng lão ta. Nói gì đến những người trong các phái!

Quan Sơn Nguyệt tiếp:

– Sau khi đánh bại tất cả cao thủ các môn các phái tại Trung thổ người đến sa mạc, sống cuộc đời quy ẩn. Chính trong thời gian đó, người thu nhận tại hạ làm đệ tử, có lẽ là để thay thế người tại đại hội Long Hoa, cho nên người tận tâm truyền thọ tất cả những sở học. Có tại hạ thay mặt rồi, ân sư tại hạ hẳn phải nghĩ đến cái chết, để tạ tình Lâm Tiên Tử, mà cũng để đáp cái ý của Tiên tử.

Chàng dừng lại một chút, rồi lẩm nhẩm:

– Chẳng biết, sau đó, vì nguyên nhân nào, ân sư tại hạ lại hiểu được sự tình ...

Lý Trại Hồng thở dài:

– Hoàng Hạc có hiểu ý hay không, điều đó tôi không được rõ, chỉ biết là lão ta đã trở lại, với tâm tư rất cởi mở.

Vừa lúc đó, từ bên ngoài, có người tiếp nối, âm thinh vọng vào trong:

– Thì cũng tại bần tăng quen thói gánh vác việc người, bần tăng mang bức huyết thơ của Lâm Hương Đình, vượt vạn dặm đường, tìm Hoàng Hạc, bức thơ đó cộng thêm lời bần tăng khuyên giải, dù cho đá, thơ và lời khuyên cũng lung lạc được ngay, huống hồ là con người, mà lại là người đa tình? Nhờ thế, thiên tình sử giữa hai kẻ si tâm có cái kết thúc êm đẹp!

Câu nói vừa dứt, Khổ Hải Từ Hàng cũng vừa vào đến nơi.

Liễu Y Ảo gắt:

– Lão hoà thượng có biết nơi đây là đâu chăng, mà dám loạn chân đi hoang như thế?

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Long Hoa Hội đã tan rã, thì mọi cấm lịnh của Thiên Ngoại Thiên cũng nên giải trừ cho sớm!

Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng:

– Ngươi đã nói là hai khắc sau mới trở lại kia mà?

Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ:

– Bần tăng làm đúng theo lời nói, bởi hơn hai khắc thời gian đã qua rồi. Chỉ Tiên tử không lưu ý đó thôi.

Mọi người giật mình, ngẩng mặt nhìn ra bên ngoài, thấy thái dương đã chếch về Tây.

Họ không ngờ là cuộc đàm thoại kéo dài khá lâu như vậy.

Liễu Y Ảo lộ vẻ bức rứt.

Khổ Hải Từ Hàng nhìn, tiếp:

– Tiên tử bất tất phải khẩn trương. Việc của Tiên tử, bần tăng bảo đảm ...

Liễu Y Ảo chớp chớp đôi mắt:

– Ta có việc gì mà cần ngươi giúp chứ?

Khổ Hải Từ Hàng điềm nhiên:

– Người minh chánh, đâu cần phải dùng ý ẩn, lời ngoa? Việc của Tiên tử, nếu có, thì Tiên tử phải hiểu lấy chứ, Tiên tử có việc, bần tăng cũng hiểu được chứ? Đừng tự dối mình, đừng dối người, Tiên tử ơi! Bần tăng khuyên Tiên tử câu này, là đừng bao giờ nóng nảy. Bởi, dục tốc, thì bất đạt, trường hợp của Quan thế huynh, khác hẳn trường hợp Hoàng Hạc, Hoàng Hạc nhầm lẫn, sự nhầm lẫn đó còn sửa chữa được, nếu có sự nhầm lẫn trong trường hợp của Quan thế huynh, thì cầm như hỏng luôn suốt đời, do đó phải cố tránh sai lầm ...

Liễu Y Ảo nổi giận, toan phát tác.

Khổ Hải Từ Hàng vội bước đến cạnh nàng, thì thầm bên tai nàng mấy câu.

Nàng dần dần dịu thần sắc, sau cùng lại lộ vẻ kinh dị, hỏi khẽ:

– Thật vậy? Ta phải làm sao đây?

Khổ Hải Từ Hàng vẫn cười như bất cứ lúc nào hể mở miệng là cười, lão tiếp:

– Thư thả! Bần tăng đã nói, bất cứ việc gì cũng đừng khẩn cấp, dục tốc bất đạt mà! Giọt nước, tuy nhỏ, chảy mãi cũng thành vũng, thành ao, ao thành hồ, hồ thành biển, Tiên tử vội làm chi? Bần tăng đã tình nguyện phụ trách việc đó, thì nhất định là việc phải thành chẳng để cho Tiên tử thất vọng đâu! Bây giờ thì xin Tiên tử giao Quan thế huynh cho bần tăng, trong một vài ngày thôi ...

Liễu Y Ảo giật mình:

– Một vài ngày? Làm gì lâu thế?

Khổ Hải Từ Hàng đáp:

– Nếu Tiên tử có đọc qua mảnh giấy của Lâm Tiên Tử để lại, thì sẽ thấy là một vài ngày, chẳng những không lâu, mà còn ngắn, rất ngắn đấy!

Liễu Y Ảo chẳng nói gì.

Quan Sơn Nguyệt ngồi nghe họ đối đáp với nhau, chẳng hiểu gì cả.

Khổ Hải Từ Hàng điểm một nụ cười, hướng sang chàng, bảo:

– Đi thôi, Quan thế huynh, chúng ta không có thừa thì giờ đâu, đừng để mất phút giây nào!

Quan Sơn Nguyệt do dự.

Khổ Hải Từ Hàng tiếp:

– Theo bần tăng ngay, thế huynh! Nếu thế huynh trì hoãn thì những gì mà thế huynh bố trí bên ngoài, sẽ hỏng mất. Giả như thế huynh bị phiền lụy, bọn người kia vắng thế huynh, liệu họ sẽ làm nên việc cho chăng? Nếu Tạ Linh Vận gặp họ bất ngờ, thì đúng là đại họa cho họ đó.

Quan Sơn Nguyệt biến sắc, hấp tấp thốt:

– Phải đó, thiền sư. Chúng ta nên đi ngay!

Lý Trại Hồng kinh dị, hỏi:

– Thiếu hiệp bố trí cái gì ở bên ngoài núi?

Khổ Hải Từ Hàng đáp thay chàng:

– Quan thế huynh đến đây lần này, mang theo cái ý định nhận đắm thuyền tận đáy biển, cho nên đã bố trí tử sĩ quanh Vu Sơn, dù biết rằng làm như vậy là đem bầy châu chấu chống xe, cũng vẫn làm ...

Quan Sơn Nguyệt thoáng đỏ mặt:

– Lão thiền sư nói đùa đấy, chứ trước kia thì tại hạ nào có biết mảy mai gì về Long Hoa Hội đâu! Bởi chẳng hiểu Long Hoa Hội như thế nào, nên mới hoạch định một kế sách hầu như ấu trĩ! Bây giờ, nhận ra, sư thực trên xa chỗ tưởng của mình, đương nhiên mình phải làm cái gì nên làm, để tránh hối tiếc. Phải đi đấy, thiền sư ạ ...

Khổ Hải Từ Hàng chỉnh sắc mặt:

– Phía sau núi, có con đường thang, do con đường đó mà đi, chúng ta có thể rút ngắn thời gian một phần quan trọng. Phải gọi tiểu liểu đầu dẫn đường.

Liểu đầu, là Linh Cô, nhà sư phải gọi, bởi nàng có mặt tại đó.

Nàng nhìn nhà sư «hừ» một tiếng:

– Cái lão hoà thượng này làm như rành địa thế Thiên Ngoại Thiên lắm vậy!

Khổ Hải Từ Hàng trừng mắt, vờ nổi giận quát:

– Đừng có trêu vào lão trọc này nhé, lão sanh giận thì trong tương lai, lão sẽ chẳng tiếp trợ gì đâu!

Linh Cô rùn vai, cười mỉa:

– Đừng khoe hay khoe giỏi! Tôi sẽ tuyên bố lên là lão ăn vụng thịt chó cho mà xem!

Thốt xong, nàng lắc chiếc đầu, bính tóc quăng ra sau, nàng thoát nhanh ra cửa, đi luôn.

Liễu Y Ảo sửng sờ, lẩm nhẩm:

– Xem ra, Linh Nô dấu chúng ta rất nhiều việc quá.

Lý Trại Hồng thở dài:

– Đừng trách ai, sư muội, chỉ hận mình mù mờ đến độ bị tất cả mọi người khinh, trá. Đại sư tỷ, rồi đến Tạ Linh Vận, luôn Khổ Hải Từ Hàng, còn có Linh Nô nữa, ai ai cũng giấu chúng ta, không nhiều thì ít!

Từ Hàng chưa đi, nghe nói thế điểm một nụ cười:

– Nhị vị Tiên tử trách người làm gì? Nếu có trách, là cũng phải tuỳ người mà trách, xem kẻ đó là bạn hay là thù, nhiên hậu mới trách chứ, nhiều khi vì một thiện ý mà người ta bắt buộc phải giấu mình chuyện chi đó. Giả như bần tăng đây, nếu không có một vài hành động man trá thì làm sao cứu vãn được sự tình, làm sao an bày cho tất cả được vô sự? Nhị vị cứ vẫy tay gọi, gọi lúc nào, là bần tăng và Quan thế huynh sẽ đến lúc đó, giải quyết tất cả mọi việc cho nhị vị ...

Lão nắm tay Quan Sơn Nguyệt, cả hai cùng bước ra cửa.

Hai nàng ở lại, hoang mang, mơ hồ, chập chờn trong ảo cảnh.

Quan Sơn Nguyệt và Khổ Hải Từ Hàng ra đến bên ngoài đi một lúc gặp Linh Cô chờ đợi.

Thấy họ rồi, nàng thoắt phi thân vút đi, lao mình xuống bên dưới, xuyên qua mây khói.

Khổ Hải Từ Hàng vẫn nắm tay Quan Sơn Nguyệt, nhảy theo Linh Cô.

Nghe gió bên tai rất mạnh Quan Sơn Nguyệt hết sức sợ hãi, vội đề khí cho thân hình nhẹ, rơi từ từ.

Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ, bảo:

– Đừng ngại, thế huynh. Chúng ta không dập xương đâu mà lo, bên dưới có tiểu yêu tinh tiếp ứng, nhất định chúng ta xuống đến đó, vô sự.

Bỗng, họ nghe dội chân, chừng như chân họ chạm phải một vật gì. Thì ra đó là một loại lưới, họ rơi đúng trên chiếc lưới đó. Chiếc lưới như sàng qua một bên, cuốn họ luôn, đưa qua một biển mây.

Họ mở mắt ra, thấy mình đã xuống nơi chân núi rồi.

Nơi đó, Chưởng môn nhân phái Chung Nam là Lữ Vô Úy và Lưu Tam Thái đang đứng, người dưới thấy người trên bỗng nhiên đáp xuống cùng giật mình.

Ngoài họ ra, còn có Linh Cô, nàng nhìn Quan Sơn Nguyệt và Khổ Hải Từ Hàng, cười hì hì.

Nơi đó, Thiên Tề Ma Quân Kỳ Hạo đang suất lĩnh bọn Du Hồn có Khôi Y Thị Giả Tiêu Nhất Bình cầm đầu, đang giao chiến với Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt.

Cuộc chiến giữa song phương đã đến lúc quyết liệt phi thường.

Thực ra, chỉ một mình Kỳ Hạo cũng thừa sức lấn áp hai lão nhân, còn bọn Du Hồn có mặt tại đó, bất quá để tăng gia thinh thế, tạo nên nhiệt náo, gây khẩn trương cho địch mà thôi, chứ chẳng cần phải can thiệp mạnh.

Vạn Lý Vô Vân vừa trông thấy Khổ Hải Từ Hàng xuất hiện vội kêu lên:

– Lão trọc! Ngươi đến chậm một chút nữa, là bọn ta phải ngửa cổ chờ chúng chặt đấy!

Khổ Hải Từ Hàng day qua Linh Cô, bảo:

– Cảm phiền cô nương cho hai con tiểu quỷ đó xuất hiện đi!

Kỳ Hạo thừa hiểu là Linh Cô sẽ làm gì rồi, lập tức hắn dẫn bọn Thị Giả, bỏ cuộc chiến chạy đi.

Lữ Vô Úy bước đến trước mặt Quan Sơn Nguyệt, vòng tay thốt:

– Lịnh chủ! Bần đạo ...

Vạn Lý Vô Vân vừa thở vừa ngăn chặn:

– Đừng nói nhiều, mất thì giờ. Chưởng môn nên đi qua các nơi phục hoả dược, phá huỷ hết tất cả, đồng thời thông báo gấp cho những người khác biết nên nhớ là làm gấp, nếu chậm trễ là bọn ta cầm như hữu hỉ ...

Lữ Vô Úy do dự.

Quan Sơn Nguyệt bảo:

– Chưởng môn cứ đi, lo việc đó cho xong đi, chuyện chi khác, mình sẽ nói sau.

Khổ Hải Từ Hàng tiếp nối:

– Phải đó đạo huynh. Bần tăng có sai sử một số người, ngặn chặn một số ma đầu, biết đâu người của đại huynh sẽ nhận lầm người của bần tăng. Tốt hơn đạo huynh nên đi thông báo sớm đi, đừng để họ chạm nhau, mà thành ra người nhà quật người nhà, bọn ma đầu sẽ cười cho!

Lữ Vô Úy tỉnh ngộ, giật mình, cùng Lưu Tam Thái chạy đi liền.

Vạn Lý Vô Vân hướng sang Quan Sơn Nguyệt, thốt:

– Chủ ý của tiểu huynh đệ khá lắm đó! Nếu lão trọc không phát hiện sớm, thì bọn lão phu cầm như táng mạng tại ngọn núi này rồi! Một chủ ý tuyệt diệu!

Quan Sơn Nguyệt thoáng đỏ mặt:

– Tại hạ tuy chưa biết rõ Long Hoa Hội là cái hội quái gì song bất cứ gặp ai trong hội, tại hạ cũng lấy làm lạ, là ai ai cũng có vẻ hung ác lạ thường ...

Vạn Lý Vô Vân hỏi:

– Một mình ngươi, ngang nhiên lên trên đó, chẳng sợ mất mạng sao?

Quan Sơn Nguyệt khảng khái:

– Chết, ai lại chẳng chết? Làm việc hợp với đại nghĩa, nếu tiếc thân thì mong gì thành công?

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Bây giờ, thế huynh hãy lấy hoả pháo trong tay áo đó, quăng đi là vừa.

Cuộc bố trí của thế huynh dù cẩn mật đến đâu cũng không làm sao thế huynh qua mắt được bọn thuộc hạ của Thiên Tề Ma Quân. Cũng may bần tăng phát giác kịp thời đấy, nếu không thì cái hỏa trận này sẽ bị bọn ma đầu lợi dụng, và thay vì trừ diệt chúng, bọn ta lại tự diệt bọn ta!

Quan Sơn Nguyệt lại một phen đỏ mặt, thẹn quá không thốt nên lời.

Linh Cô cười nhẹ, hỏi:

– Quan công tử cho rằng người trong Hội Long Hoa toàn là hung ác cả, giả như lịnh sư trên núi, công tử cũng phóng hỏa đốt luôn?

Quan Sơn Nguyệt gượng đáp:

– Tại hạ không tưởng là ân sư cấu kết với bọn hung ác, do đó, chẳng khi nào nghĩ là gia sư có mặt tại đây.

Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:

– Dụng tâm thì rất đẹp, song thủ đoạn còn non quá chừng. Vì quá non mà thành mạo hiểm, liều lĩnh. Gì thì chẳng nói làm chi, chỉ nội cái việc dùng người.

Dùng chi mà nhiều người thế, người nhiều thì dễ lộ việc. Huống chi, Kỳ Hạo đã biết trước rồi, hắn chờ thế huynh một mình lên núi, ở dưới hắn chế ngự bọn người của thế huynh dễ dàng, rồi cuộc bố trí của thế huynh trở thành hữu dụng cho hắn, hắn rút bọn ma đầu đi hết, sau đó phóng hoả. Thế huynh thấy chưa, chính bọn bần tăng thọ nạn, chứ người trong Ma Bảng và Quỷ Bảng đã do hắn báo tin mà chạy hết rồi, còn ai đâu nữa mà thọ hại?

Quan Sơn Nguyệt cúi đầu:

– Tại hạ biết mình hành động sai lầm! Rất có thể vì sai lầm đó, tại hạ và bọn người do tại hạ bố trí, cùng chết luôn với các vị! Mà, chung quy, bọn ma đầu vẫn tự tại, thung dung!

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười, tiếp luôn, nhưng hướng sang Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt:

– Hai vị lên núi, tạm thời ở đó, và chịu khó thông tri các bằng hữu của chúng ta, trong ba hôm nữa, Tạ Linh Vận sẽ trở lại, bần tăng có biện pháp ứng phó với hắn, tất cả bằng hữu nên yên trí.

Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt đi liền.

Quan Sơn Nguyệt thất bại trong mưu đồ, lại bị mọi người trách nhẹ, thẹn thùng quá, đứng lặng tại chỗ.

Phần chàng chẳng hiểu Khổ Hải Từ Hàng hành động như thế nào thành ra mơ hồ cực độ, nhìn lão, như chờ giải thích.

Từ Hàng quay qua Linh Cô giục:

– Nhanh lên, không dẫn đường đi gấp, hỏng việc là nguy cả bọn đấy!

Linh Cô chạy đi, Khổ Hải Từ Hàng và Quan Sơn Nguyệt theo sau.

Chạy một lúc, họ đến bờ sông, Linh Cô vào bụi rậm kéo ra một chiếc thuyền nhảy lên thuyền tay chèo sẵn.

Khổ Hải Từ Hàng quay qua Quan Sơn Nguyệt, nghiêm sắc mặt, thốt:

– Mời thế huynh lên thuyền. Trong hai hôm nữa, bần tăng sẽ đợi thế huynh tại đây.

Quan Sơn Nguyệt kinh dị:

– Đại sư không cùng đi?

Khổ Hải Từ Hàng đáp:

– Bần tăng không đi được. Dọc đường, có người chờ đón thế huynh:

hãy tự trọng nhé, thế huynh, đại sự đang đè nặng nơi đôi vai thế huynh đó.

Không làm sao hơn, Quan Sơn Nguyệt đành tạm cáo biệt lão hoà thượng, rồi lên thuyền.

Linh Cô tách bến ngay.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Mình đi đâu đây tiểu muội?

Linh Cô không đáp, cứ chèo thuyền, đến lúc hoàn hôn xuống đột nhiên nàng bẻ lái cho thuyền vào bờ theo con đường bí mật giữa những bụi cỏ, lướt đi.

Thuyền cập bờ, Linh Cô bảo chàng xuống đất, theo con đường mòn trước mắt mà đi, còn nàng thì quay thuyền trở lại.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 28

Cao Núi Thâm Tình

Hoang mang tại đỉnh Thần Nữ Phong trước cuộc đàm thoại của bọn Lý Trại Hồng, hoang mang vì thái độ của Khổ Hải Từ Hàng, hoang mang luôn vì những lời nói của Linh Cô lúc bỏ chàng nơi bờ sông quay thuyền trở lại, Quan Sơn Nguyệt thừ người tại chỗ, bồi hồi ức niệm việc qua, mơ màng việc tới ...

Niềm hoang mang càng phút càng lớn, càng dâng cao, trong hoàn cảnh này, chàng không còn một chủ ý nào rõ rệt.

Dù sao, thì chàng cũng công nhận là những tao ngộ của chàng hết sức ly kỳ.

Chẳng khi nào chàng tưởng là mình có thể khám phá trọn vẹn những bí mật quanh Long Hoa Hội. Mà dù khám phá được đi nữa ít ra chàng cũng phải bí mật một khoảng thời gian quan trọng.

Không, chỉ trong vòng mấy hôm thôi, chàng nắm sự tình trong tay, chưa hẳn là một hội viên chánh thức hiểu tường tận như chàng.

Nhưng, chưa hết. Những bí mật khám phá vừa qua bất quá là những chi tiết của đại cuộc nào đó, và hiện tại thì chàng bắt đầu đi vào đại cuộc ...

Nơi đây là đâu? Khổ Hải Từ Hàng nhờ Linh Cô đưa chàng đến đây để làm gì? Và, những người đón chàng, hoặc tại đây, hoặc trước mặt kia, là ai? Trong chuyến đi này, chàng sẽ có công tác gì?

Tự hỏi, để bắt buộc trí óc hoạt động, tìm một giải đáp, chàng biết rõ là chẳng bao giờ tự chàng tìm được giải pháp. Cho nên, qua mỗi một câu tự hỏi, chàng nhìn thấy mình thêm hoang mang.

Có một điều, chàng chắc là phải có, là trong vòng ba hôm nữa, Tu La Tôn Giả Tạ Linh Vận sẽ huy động toàn lực lượng của y, kéo trở lại Thần Nữ Phong, tranh chấp với bọn Lý Trại Hồng, giành uy thế đã mất. Và lực lượng đó rất hùng hậu, xem ra áp đảo bọn Lý Trại Hồng rất dễ dàng.

Khổ Hải Từ Hàng bằng vào một chủ trương nào đó, tỏ ra ung dung, khinh thường, có chắc là lão giải trừ nổi hiểm họa đang đe dọa bọn Lý Trại Hồng chăng hay là lão nói để trấn an mọi người? Bởi, lão chỉ là đơn thân độc lực, còn cánh của Tạ Linh Vận thì mạnh mẽ như biển càn, bão quét?

Chàng thầm nghĩ:

“Còn ta, ta có thể đánh thắng Tạ Linh Vận chăng?”.

Chàng nhận thấy mình chưa đủ sức nắm cái cơ tất thắng trước Tạ Linh Vận, đành rằng tại Thần Nữ Phong, Tạ Linh Vận có thất bại nơi tay chàng, song đó chỉ là một kết quả của cơ may thôi, chứ luận về thực lực, thì chàng tự xem mình chưa đồng cân lượng đối với Tạ Linh Vận.

Y thất bại lần đó, chẳng qua y quá khinh thường chàng, y không đề phòng.

Mà phàm ai khinh địch cũng đều thất bại như y, thất bại đều vô lý, thất bại ngay cả với những kẻ ngày thường sùng bái họ như thần như thánh.

Thắng vì đối phương sơ ý, khinh thường, không phòng bị, đó đâu phải là một cái thắng đường hoàng, thắng bằng tài cao?

Trong những lần sau này chạm trán với Tạ Linh Vận, liệu chàng còn đắc ý nữa chăng? Đương nhiên, Tạ Linh Vận lúc tái đấu với chàng, sẽ đấu với ý chí phục thù, sẽ đấu với cao độ cảnh giác, khí thế của y phải mạnh, chiêu thức được sử dụng phải độc.

Chàng cảm thấy cái nguy đang chờ đón chàng ở ngày mai ...

Có một kẻ tử thù cỡ Tạ Linh Vận, hẳn chàng sẽ mất đi rất nhiều nhàn hạ!

Cứ theo sự sắp xếp của Khổ Hải Từ Hàng, thì bọn Lý Trại Hồng đặt rất nhiều hy vọng nơi chàng, và chính chàng sẽ là kẻ đứng mũi chịu sào trong công cuộc đương đầu với bọn Tạ Linh Vận ba hôm nữa! Khổ Hải Từ Hàng cũng lo ngại chàng không đủ sức thủ thắng trước Tạ Linh Vận, nên đưa chàng đến địa điểm bí mật này, để có một kỳ ngộ nào đó đến với chàng!

Kỳ ngộ? Kỳ ngộ đó như thế nào? Chàng sẽ gặp một cao nhân chăng?

Chàng nghĩ:

“Dù có gặp cao nhân đi nữa, chẳng cao nhân nào có thể biến ta thành một đại hữu dụng, trong thời gian ngắn ngủi ba hôm!”.

Rồi chàng đi tới, chân bước mà óc suy tư, chàng đi mãi không ngừng, óc cũng suy tư mãi không dừng.

Con đường đi không thoai thoải, dễ dàng, lối là lối mòn, chừng như vắng bóng khách bộ hành, nên cỏ mọc từ ven đường lan rộng giao chuyền nhau, đầu phủ xuống, tạo thành một màn lưới che khuất bên trên cỏ thấp, lưới thấp, có nơi chàng phải khom mình tiến tới.

Chàng cứ đi ...

Lắm lúc, chàng nhận lối sai lầm, bởi có những con đường nhỏ khác, xuyên ngang đâm dọc.

Mỗi khi chàng lạc lối, là trước mặt có một vầng mây mờ hiện lên ngăn lại.

Chàng nghĩ là nơi đây có ai bố trí một trận đồ cao minh lắm. Muốn đi ngang qua nơi đó, phải theo một con đường chính xác trong số hàng trăm bằng ngàn con đường, xuyên chéo nhau như mắc cửi. Theo đúng con đường đó, tất nhiên đến đúng một nơi, và nơi đó hẳn là cái đích mà Khổ Hải Từ Hàng muốn cho chàng đến.

Bởi nghĩ là mình đang quanh co trong một trận đồ, chàng hết sức chú ý những điểm đặc biệt mỗi khi rẽ sái qua một đường khác, nhờ thế, chàng nhận ra được những ký hiệu dọc theo con đường chính xác. Cho nên, sau một thời gian ngắn, chàng nhận định dễ dàng lối đi, chẳng còn nhầm lẫn nữa.

Chàng đi như vậy, suốt đêm đó, khi phương Đông vừa tóe sáng, chàng ra khỏi vùng cỏ loạn, đến một cái gò nhỏ. Sương đêm đã thấm ướt cả y phục của chàng.

Đứng trên gò, chàng nhìn ra chung quanh, bất giác kêu lên một tiếng kinh ngạc.

Từ nơi đó, chàng thấy rõ bờ sông, nơi thuyền đổ, Linh Cô đưa chàng lên bờ, và vùng cỏ loạn chỉ rộng hơn độ ba bốn mẫu. Bờ sông cách gò đất không hơn một dặm! Thế mà chàng phải mất trọn một đêm dài, mới vượt qua được vùng cỏ loạn đó! Đúng là một trận đồ, ảo diệu phi thường, ai lạc lõng giữa trận đồ là không phương tìm lối ra!

Chàng thở dài mấy tiếng, tần ngần tại chỗ một lúc lâu, sau cùng từ từ đi xuống chân gò.

Bên này gò, là vùng cỏ loạn, có trận đồ ngăn chặn bất cứ ai xâm nhập, bên kia gò, là một cảnh trí có đủ hoa, cỏ.

Chen lẫn giữa những luống hoa, có liễu buông tơ, tơ kết mành, đong đưa theo gió sớm.

Rồi ngoài hoa, có trúc, trúc xanh tươi, cạnh trúc có đào, trúc xanh đào hồng tương phản màu sắc, trông đẹp mắt vô cùng.

Một cảnh trí chỉ có ở non tiên, chứ giữa phàm trần làm gì ai tạo nên một cách tuyệt vời như thế?

Quan Sơn Nguyệt nhìn cảnh, một lúc lâu lại thở dài lẩm nhẩm:

– Có một gian nhà nhỏ, giữa hoa cỏ như thế này thì còn mong cầu công danh phú quí mà chi nữa?

Chàng thở dài hơi lớn tiếng một chút, chừng như có làm kinh động người nơi đó.

Một nữ nhân bật cười khanh khách, tiếng cười vọng đến tai Quan Sơn Nguyệt, làm chàng hãi hùng.

Tiếp theo tiếng cười đó, là một câu nói vẫn giọng êm đềm như tiếng cười:

– Tiểu tử đó có niềm hoài bão không khác đại huynh chút nào!

Một nam nhân đáp:

– Hắn còn nặng duyên tình, nhiều sát kiếp, chưa đáng dừng chân hưởng sự thung dung tự tại ở một địa phương như thế này đâu!

Quan Sơn Nguyệt biến sắc. Chàng nhận ra, đúng là âm thanh của sư phó chàng. Niềm khích động trào dâng, bất giác chàng đổ lệ xúc cảm gào qua nức nở:

– Sư phụ! Sư phụ ở đâu?

Suy qua âm thịnh, Quan Sơn Nguyệt ức độ, hai người đối thoại không cách xa chàng lắm, thế mà gào lên rồi chàng hấp tấp chạy đi về hướng đó, tìm mãi, rồi tìm rộng ra, xa hơn, vẫn chẳng phát hiện ra một bóng người.

Tìm không được, chàng uất ức, lại khóc lại gào to:

– Sư phụ! Sư phụ ơi! Đệ tử tìm sư phụ khắp nơi, đệ tử hằng hoài niệm sư phụ, sao sư phụ không cho đệ tử gặp mặt?

Khóc rồi tìm, tìm rồi khóc, chàng khóc, chàng tìm hơn nửa ngày, vẫn chẳng thấy Độc Cô Minh.

Chàng quỳ xuống đất, lại khóc lại van cầu.

Sau cùng, chàng nghe nữ nhân cất tiếng:

– Thôi, đừng đùa tiểu tử nữa, xem hắn cũng đáng thương quá chừng!

Độc Cô Minh đáp:

– Không được. Ngu huynh phải diệt trừ bớt hỏa khí nơi hắn, nếu không thì trong tương lai chẳng còn ai chế ngự hắn nổi.

Nữ nhân cười nhẹ:

– Nói người, sao không nghĩ đến mình? Chứ ngày trước, Độc Cô Minh lại không nóng tính à? Nếu Độc Cô huynh không sớm cho hắn gặp mặt, chỉ sẽ làm cho hắn điên lên, chắc gì là hắn sẽ nguội tính như Độc Cô huynh mong tưởng?

Độc Cô Minh cười vang:

– Lâm muội khẩn cấp cái gì? Thế ra, cái tính nóng vẫn còn và như vậy thì kiếp sát sau này, ngu huynh e cho Lâm muội cũng sẽ không tránh khỏi vòng lôi cuốn!

Thì ra, nữ nhân đó, họ Lâm, mà nếu là họ Lâm và ở cạnh Độc Cô Minh, thì ngoài Lâm Hương Đình ra, còn nữ nhân nào khác?

Đúng vậy, nữ nhân đó chính là Lâm Hương Đình. Bà ta đáp:

– Cái gì muốn đến cứ đến, đến như thế nào, tôi chấp nhận như thế đó, lo sợ làm chi? Tránh được, cũng tốt, mà không tránh được, cũng chẳng sao. Chúng ta đã bị đặt trong hạn định trăm năm, thì dù sao cũng phải đi tròn vòng hạn định đó.

Bỗng Quan Sơn Nguyệt thấy một vầng sáng lóe trước mắt rồi tắt liền.

Chàng nhìn ra hai bóng người xuất hiện, một nữ một nam, nữ đẹp tuyệt vời, nam siêu trần thoát tục.

Chàng không còn sức chạy như trước nữa, cố gắng bước đi, phải vất vả lắm mới đến nơi hai người đang ngồi bên nhau. Đoạn, sụp mình xuống, chàng gọi qua nức nở:

– Sư phụ!

Chỉ gọi được hai tiếng thôi, chàng cảm thấy đầu choáng, mắt hoa rồi ngã luôn tại chỗ hôn mê ngay.

Phần mệt mỏi suốt một đêm, thêm nửa ngày, phần xúc động mạnh, Quan Sơn Nguyệt ngất xỉu luôn, chứ chẳng phải bị tổn thương chi cả.

Lâm Hương Đình bước tới, án bàn tay nơi đỉnh đầu chàng truyền công lực sang, dằn ép áp lực khí huyết nơi chàng đang bốc cao, dồn trở lại đan điền.

Một phút sau, chàng hồi tỉnh, rồi tự mình, cố vận hành khí huyết lưu thông quanh cơ thể, lấy lại bình thường.

Niềm khoan khoái càng phút càng lên cao, chàng có cảm giác như công lực của mình gia tăng dần dần ...

Chàng nhìn sang Độc Cô Minh, thấy lão ngày nay thần nhàn, khí tịnh, khác hẳn ngày nào thường nhật sầu muộn ưu tư, chàng hân hoan vô cùng, toan gọi lão, bày tỏ sự mừng vui đó.

Độc Cô Minh hét:

– Súc sanh, Lâm Tiên Tử đang đem xông phu nội lực bình sanh truyền cho ngươi, sao chẳng chuyên tâm tiếp thọ, còn nghĩ vớ vẩn như thế?

Quan Sơn Nguyệt giật mình, trừ diệt tạp niệm ngay, chú ý vận hành khí huyết, điều hòa tự lực với công lực của Lâm Hương Đình đưa sang.

Một lúc lâu Độc Cô Minh đưa tay ra, xô nhẹ bàn tay của Lâm Hương Đình khỏi đỉnh đầu Quan Sơn Nguyệt, đoạn thốt:

– Đủ rồi. Nếu cứ truyền công lực mãi như vậy, thì chính Lâm muội phải nguy!

Lâm Hương Đình thở phào, vẻ mệt mỏi hiện rõ nơi gương mặt.

Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới dám cất tiếng:

– Sư phụ, đệ tử ...

Độc Cô Minh chỉnh nghiêm thần sắc, bảo:

– Đừng làm lễ theo thói tục, ta chẳng cần ngươi phải chú ý đến ta, hãy cảm tạ Lâm Tiên Tử, bà ấy đã hy sanh cho ngươi rất nhiều đó!

Quan Sơn Nguyệt quay qua Lâm Hương Đình, toan cúi đầu, Lâm Hương Đình mỉm cười thốt:

– Khỏi! Sư phụ ngươi không màng thói tục, ta lại đi thích thấy ngươi lạy ta, lí nhí những lời rườm rà sao? Chẳng có ơn gì cả mà phải tạ, đừng có nghe lời nói nhảm của sư phụ ngươi!

Tuy nhiên, Quan Sơn Nguyệt vẫn làm đủ lễ như thường. Đoạn chàng đứng lên, nghiêm trang như hầu lịnh.

Lâm Hương Đình lại cười, bảo:

– Ngồi xuống đi, tiểu tử! Chúng ta đàm đạo với nhau.

Rồi bà hỏi:

– Ngươi biết ta là ai rồi chứ?

Quan Sơn Nguyệt cung kính đáp:

– Đệ tử có nghe Lý Tiên Tử thuật sơ lược sư tình ...

Lâm Hương Đình gật đầu:

– Phải, ta là Lâm Hương Đình. Ta nhận thấy, lúc ngươi giao đấu với Tạ Linh Vận, cái phong độ của ngươi đáng ngợi vô cùng. Do đó, ta mến ngươi ngay, và có cái ý muốn tiếp trợ ngươi phần nào ...

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc, tự hỏi, làm sao bà thấy được cuộc chiến giữa chàng và Tạ Linh Vận?

Bà đâu có mặt tại cục trường lúc đó?

Lâm Hương Đình biết chàng lấy làm lạ, liền giải thích:

– Ta và sư phụ ngươi lúc đó, vẫn có mặt như thường, nhưng ở tại một nơi kín đáo, nên bọn các ngươi chẳng ai trông thấy chúng ta. Khi Tạ Linh Vận bức bách Lý Trại Hồng cực độ, ta định ra mặt, tiếp trợ Lý sư muội, song may mắn thay, ngươi lại xuất hiện đảm đương phần việc đó, thành thử ra ta khỏi phải xuất đầu lộ diện.

Quan Sơn Nguyệt «ạ» lên một tiếng.

Độc Cô Minh tiếp lời Lâm Hương Đình:

– Vừa rồi, Lâm Tiên Tử sử dụng «Di Ngọc Thần Công», truyền công phu nội lực cho ngươi đó, hiện tại, công lực của ngươi tăng gia quan trọng, phần tiến bộ ngang với kết quả của hai mươi năm khổ luyện trở lên ...

Quan Sơn Nguyệt vừa mừng, vừa cảm động, quay qua Lâm Hương Đình, cung kính thốt:

– Tiên tử thành toàn đệ tử như vậy ...

Hương Đình mỉm cười:

– Ta đã bảo, giữa chúng ta không ai cần phải giữ cái sáo giang hồ, những gì đáng nói, cần nói, thì cứ nói, những gì vô ích, chẳng cần phải nói làm chi. Cho ngươi biết, ta giúp ngươi cũng do nơi một dụng ý nào đó, thứ nào phải duy nhất vì hảo tâm đâu. Ta sẽ còn nhờ ngươi lo liệu cho nhiều việc trong tương lai kia mà!

Độc Cô Minh khoát tay:

– Lâm muội bảo hắn đừng khách sáo, thế mà tự mình lại rơi vài cái sáo mất rồi. Muốn giao phó cho hắn việc gì, cứ nói thẳng ra, cần chi phải dùng đến cái tiếng nhờ?

Quan Sơn Nguyệt tiếp:

– Tiên tử muốn sai bảo điều chi, xin cứ dạy cho biết, dù chết đệ tử cũng chẳng từ! Dù rằng trước khi Tiên tử truyền nội lực, nếu làm được việc gì hữu ích cho Tiên tử, đệ tử cũng sẵn sàng làm, hà huống sau khi thọ ơn trọng của Tiên tử?

Độc Cô Minh mỉm cười:

– Tiểu tử muốn thoái thác cái ơn của Lâm muội rồi đó!

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp thốt:

– Không, sư phụ! Đệ tử đâu có ý đó!

Lâm Hương Đình cười nhẹ, khoát tay:

– Bỏ việc đó đi, Hoàng Hạc huynh! Bây giờ, tôi hỏi Hoàng Hạc huynh có biết tại sao tôi truyền công lực cho hắn chăng?

Độc Cô Minh lại cười:

– Thì vì cái bọn Tạ Linh Vận, chứ còn vì lẽ gì nữa?

Lâm Hương Đình lắc đầu:

– Sai! Chống đối với bọn Tu La, tôi đã có phương pháp rồi, và cái phương pháp đó cũng đã có người nhận lãnh thi hành rồi. Hiện tại tôi không còn phải nghĩ đến việc ứng phó với họ Tạ nữa.

Độc Cô Minh kinh ngạc:

– Thế Lâm muội còn dụng ý gì khác?

Lâm Hương Đình thở dài:

– Chỉ vì tôi lo cho Liễu Y Ảo!

Độc Cô Minh giật mình:

– Sao? Lại có cái việc như vậy nữa à? Ngu huynh từng nói với Lâm muội, là việc đó không thể thực hành ...

Lâm Hương Đình lộ vẻ khẩn thiết ra mặt:

– Hoàng Hạc. Tôi van cầu Hoàng Hạc, bình sanh tôi chỉ có mỗi một điều van cầu Hoàng Hạc thôi, chính là điều đó ...

Độc Cô Minh trầm ngâm một lúc lâu, sau cùng thấp giọng thốt:

– Lâm muội van cầu, nhưng ngu huynh không thể làm chủ được sự việc, thì sao? Tuy hắn là đệ tử của ngu huynh, song chẳng phải vì vậy mà ngu huynh có thể bắt buộc hắn phải làm đúng theo cái ý của mình, bởi phạm vi uy tín của một ân sư không thể lan rộng đến các việc riêng tư của đệ tử. Ngu huynh không có quyền bức bách hắn phải tiếp thọ cái ý của mình, nếu thực sự hắn không đồng cái ý đó, chỉ vì cái việc ...

Lâm Hương Đình vội chận:

– Tôi có van cầu Hoàng Hạc điều chi khó đâu? Xin miễn Hoàng Hạc đừng can thiệp, đừng phản đối là đủ rồi. Còn ra thì do tôi sắp xếp.

Độc Cô Minh lại suy nghĩ một lúc nữa, đoạn thở dài:

– Thôi được! Ngu huynh sẽ chẳng can thiệp, tuy nhiên, trước khi thực hiện ý muốn, Lâm muội nên suy nghĩ thật kỹ, đừng gấp vẽ cọp mà thành hình chó, thì thật là đáng hận vậy. Nên nhớ là chúng ta diệt lụy phiền, chứ không phải tạo thêm lụy phiền đấy nhé!

Lâm Hương Đình thở phào, một nụ cười, đáp:

– Hoàng Hạc huynh yên trí. Tôi sẽ tìm ra cơ hội an bài, chắc chắn là phải có kết quả đẹp!

Quan Sơn Nguyệt lắng nghe hai người đối đáp, chẳng hiểu chi cả. Chàng lặp lại câu hỏi của chàng:

– Tiên tử muốn ủy thác cho đệ tử việc gì?

Lâm Hương Đình mỉm cười:

– Một việc không đòi hỏi ngươi mất một điểm khí lực nào hết!

Quan Sơn Nguyệt khẳng khái:

– Đệ tử đã trình bày ý chí, dù việc khó khăn đến đâu, đệ tử cũng quyết thi hành, dù có mất mạng cũng chẳng sao, huống hồ mất khí lực, nhất định đệ tử chẳng để cho Tiên tử thất vọng đâu!

Độc Cô Minh trừng mắt:

– Đừng đáp ứng vội, tiểu tử. Hãy nghe người ta bảo ngươi làm việc gì, biết được việc người ta ủy thác rồi, sẽ đáp ứng cũng chẳng muộn.

Lâm Hương Đình hấp tấp can thiệp:

– Hoàng Hạc! Nói cái gì thế? Hoàng Hạc quên là mình vừa hứa hẹn như thế nào sao?

Độc Cô Minh buông thõng đôi tay, tỏ cái ý chán nản. Lão thở dài, thốt:

– Được rồi! Ngu huynh sẽ chẳng nói một tiếng nào nữa Lâm muội cứ bày tỏ với hắn đi!

Quan Sơn Nguyệt nhìn sang Lâm Hương Đình, chờ bà ta nói lên việc nhờ chàng thi hành.

Lâm Hương Đình trầm ngâm một chút, rồi mỉm cười, cất tiếng:

– Đây là một việc riêng, ta không thể nhận công mà đề cập đến tư. Ta nghĩ, nên để sau này sẽ nói đến, cũng chẳng muộn. Bây giờ, ta đưa ngươi đến gặp Lão Lão.

Độc Cô Minh tán đồng ý đó.

Nhưng Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:

– Lão Lão là ai?

Lâm Hương Đình cười nhẹ:

– Việc của bọn ta, chắc ngươi cũng có hiểu qua phần nào chứ?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Lý Tiên Tử có thuật cho biết đại khái, về những chi tiết phụ thuộc thì đệ tử chẳng hiểu gì nhiều ...

Lâm Hương Đình hỏi:

– Thế còn những gì mà ngươi muốn biết?

Quan Sơn Nguyệt suy tư một chút, rồi thốt:

– Những điều đệ tử muốn biết thêm, rất nhiều, còn nhiều lắm, giả như tại sao Tiên tử và gia sư đột nhiên bỏ cuộc hội mà đi, tại sao lại ẩn cư nơi này, Khổ Hải Từ Hàng đưa đệ tử đến đây, để làm gì ...

Lâm Hương Đình mỉm cười:

– Ngươi hỏi nhiều quá! Muốn biết gì, đợi lúc gặp Lão Lão rồi, người sẽ giải thích cho mà biết rõ.

Quan Sơn Nguyệt lại muốn hỏi nữa, song chừng như Lâm Hương Đình hiểu là chàng muốn nói chi đó nên chận liền:

– Lão Lão là chủ nhân địa phương này, và là sư nương của ta.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Ôn Kiều lão tiền bối? Lão bà ở tại đây?

Lâm Hương Đình gật đầu:

– Phải! Xem ra, Lý Trại Hồng cũng đã cho người biết khá nhiều việc.

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Lý Tiên Tử không hề hay biết là Ôn Kiều lão tiền bối còn sống trên dương thế, và tự nhiên cũng chẳng hay biết Ôn lão tiền bối ở đâu.

Lâm Hương Đình cười nhẹ:

– Làm sao Lý muội biết được chứ! Trừ ra sư phụ ngươi và ta, ngươi là kẻ thứ ba biết được mà thôi.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Khó tin vô cùng, song lại là sư thật! Bởi, có ai ngờ Ôn lão tiền bối ...

Độc Cô Minh chận lời:

– Ngươi nên xưng hô người là Lão Lão, đừng nói cái gì mà tiền bối hậu bối, khó nghe quá!

Quan Sơn Nguyệt vâng ngay:

– Đệ tử tuân lời sư phụ.

Rồi chàng hỏi:

– Lão Lão năm nay ... hẳn là tuổi thọ rất cao ...

Lâm Hương Đình thởi dài:

– Ngoài một trăm! Sư phụ của ta, nhất tâm cầu Tiên, chưa thành Tiên mà thành thọ yểu! Dù sao thì trong ý chí sư phụ ta, cũng có phần nào tham vọng!

Phàm người nuôi tham vong thì phải ít nhiều nóng nảy, tâm thần phải bất định, có ảnh hưởng lớn lao cho sự di dưỡng cơ thể, tự nhiên phải vắn số. Sao cho bằng sư nương ta, vất bỏ mọi niềm trần tục, không dùng phương tiện đạt cái đích như những người thường trong giới cảm tham lam, sư nương ta chỉ dùng đại trí, đại tuệ, tu thành cái nghiệp Tiên. Nhờ thế, người mới vượt khỏi giới hạn trăm năm, do tạo hóa ấn định cho loài người.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Người cũng có thể thành tiên? Thật vậy sao, Tiên tử?

Lâm Hương Đình mỉm cười:

– Ngươi hỏi ta! Ta nói có, thì thành ra lừa ngươi, mà nói không, thì trường hợp của Lão Lão kia là một bằng chứng cụ thể! Lão Lão đã đạt đến giới cảnh mà ta chưa biết mệnh danh như thế nào!

Độc Cô Minh chen vào:

– Lâm muội không nên gieo hoang mang cho hắn, bởi làm gì mà có Tiên!

Sanh mạng của con người, thực ra có khác nào một ngọn đèn dầu! Đèn càng cháy sáng, thì số lượng dầu càng chóng hao mòn, con người gấp sống, đòi hỏi nhiều nhu cầu trong một lúc, nuôi tham vọng, phục vụ cho tham vọng, có khác nào đèn có bao nhiêu tiêm, đốt cả lên, số lượng dầu phải chóng cạn. Sở dĩ Lão Lão sống lâu, là nhờ biết đạo dưỡng sanh, biết điều hòa ánh sáng và tỷ lệ hao mòn của dĩa dầu, do đó mà đèn vẫn cháy, dầu vẫn còn, tuy nhiên phải có một ngày nào đó. Lão Lão cũng trở về với cát bụi, bởi số lượng dầu nào phải vô tận đâu?

Lâm Hương Đình mỉm cười:

– Hoàng Hạc huynh giải thích cao minh hơn tôi đó nhé! Thế ra, chúng ta tìm nơi ở ẩn như thế này, là một việc làm thừa thãi, vô ích, bởi chung quy rồi, chúng ta cũng chẳng đạt được cái kết quả gì!

Độc Cô Minh lắc đầu:

– Hương Đình lầm đó, chúng ta nào phải chạy theo ảo ảnh mà cho rằng quy ẩn như thế này là làm một việc vô ích? Không, cái sống của con người hiện ra dưới ngàn muôn vạn phương thức, chúng ta còn sống, tất phải chọn một phương thức nào, thích hợp với tâm, với hồn thôi, như ngu huynh đã nói, khi nào dĩa dầu cạn, là chúng ta cũng phải trở về lòng đất lạnh. Vào đây mà sống, đâu phải chúng ta muốn lên tiên giới. Vào đây, là theo đúng cái phương thức thích hợp của chúng ta, sớm hay muộn, dĩa dầu cũng phải cạn. Hương Đình ạ. Cho rằng số lượng dầu vô tận là nuôi ảo ảnh đó!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Cuộc đấu lý của Lâm Hương Đình và Độc Cô Minh gây hoang mang cho chàng không ít. Chàng trầm ngâm, nghĩ ngợ mông lung ...

Chợt, Độc Cô Minh cao giọng:

– Tiểu tử! Đừng suy tư viễn vông mà thành ra mê hoặc, phải biết con người ta, ai ai cũng có cái cơ duyên, chẳng cơ duyên nào giống cơ duyên nào, và cái cơ duyên đó đưa con người đến một cảnh ngộ, bởi có sư khác biệt từ lúc ban sơ, thì khi kết thúc cũng có khác biệt như thường, đừng bao giờ nhìn vào sự tao ngộ của kẻ khác mà lập thành cái hướng cho mình phải tự mình nhận định phương thức thích hợp cho sinh hoạt của mình, cái phương thức đó tự nhiên bất đồng, mỗi người có riêng biệt một phương thức, của ta không thể là của ngươi và ngược lại.

Lão dừng lại một chút, đoạn tiếp:

– Phương thức của ta, lồng khung trong cảnh trí này, còn sinh hoạt của ngươi lấy giang hồ làm phạm vi hành động, phải thấu triệt cái đạo lý đó, can đảm trừ diệt hoang mang, để tránh cái cảnh lạc lõng giữa bất cứ tình huống nào.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên với giọng thành khẩn:

– Sư phụ! Tuy đệ tử xuôi ngược trên giang hồ chưa được bao lâu, song lối sống trên giang hồ gây chán nản cho đệ tử quá nhiều, đệ tử dám quả quyết với sư phụ là nếu có thể, đệ tử sẽ rứt áo phong sương, thoát xuất giang hồ, tìm nơi quy ẩn, đành rằng lứa tuổi của đệ tử không thích hợp với u nhàn, thanh tịnh song đệ tử lập chí như thế từ lâu. Giả như sư phụ chấp nhận cho đệ tử được theo sư phụ, hầu hạ sớm tối ...

Độc Cô Minh «hừ» một tiếng:

– Thời gian còn sớm để cho ngươi có một quyết định. Muốn tránh mọi hối tiếc do thái độ hấp tấp, vội vàng, ngươi hãy xếp việc đó lại một bên, sau đúng hai mươi năm, nếu ngươi còn nuôi dưỡng cái mộng nhàn, thì cứ trở lại đây, ta hân hoan đón tiếp ngươi. Lúc đó, chúng ta sẽ không còn là sư phụ, đệ tử, mà là đôi đạo hữu, hòa mình với thiên nhiên.

Quan Sơn Nguyệt toan đáp, Lâm Hương Đình cười nhẹ, chận lại:

– Sư phụ ngươi nói đúng đó, tiểu tử. Cái khung cảnh này không thích hợp với hạng người dưới lứa trung niên, đừng vì cơn bốc đồng trong chốc lát mà chọn vội vàng, rồi sau đó lại hối hận, đến có thể ly khai mà trở về sinh hoạt cũ. Ngươi đang hồi phương cương huyết khí, ngươi đang cần hoạt động để tiêu pha phần nhựa sống ứ đọng trong cơ thể thì làm sao ngươi giam mình nổi trong cái tinh trầm trầm này? Qua cơn bốc đồng, ngươi sẽ chán!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Đệ tử không hề chán nản!

Lâm Hương Đình mỉm cười:

– Thế để ta nói một câu, ngươi giải thích cho rõ nghĩa nhé! Giải thích được, là ngươi thấy cái động trong cái tịnh! Nhờ thấy thế, mà ngươi sẽ không chán nản, bởi cái tịnh bao giờ cũng chẳng hấp dẫn bằng cái động.

Quan Sơn Nguyệt giục:

– Tiểu tử nói đi!

Lâm Hương Đình nhìn thoáng qua Độc Cô Minh, đoạn cất tiếng:

– Cùng nhìn núi xanh cả hai không thấy chán!

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ không lâu:

– Người, vẫn là người cũ, núi vẫn là núi cũ, nhưng không gian có sự đổi thay, như thái dương xuống, như trăng khuyết rồi tròn, tròn để khuyết trở lại, như hoa nở, hoa tàn, tàn để nở lại, lá sanh, lá rụng, lá mới đâm mầm. Trong cái tịnh của vũ trụ, có cái động của vạn vật, nhận thức được cái động đó, làm gì sanh chán?

Độc Cô Minh nhìn sững chàng, lẩm nhẩm:

– Tiểu tử cũng thức ngộ cái đạo lý đó à?

Quan Sơn Nguyệt cao hứng phi thường:

– Như vậy, đệ tử lưu lại đây được chứ?

Độc Cô Minh vẫn lắc đầu.

Quan Sơn Nguyệt lại thất vọng.

Lâm Hương Đình lại mỉm cười:

– Khá lắm đó tiểu tử! Tuy nhiên, ngộ tánh dù có, căn cơ chưa thâm, hỏa hầu chưa đủ, ngươi phải chờ đợi một thời gian nữa, như sư phụ ngươi đã nói.

Chúng ta cần phải xem diễn tiến cuộc đời thực nghiệm cái tính nhẫn nại của ngươi như thế nào, sau đó sẽ hoan hỷ nghinh tiếp ngươi về đây, mà làm bạn hữu.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Như thế nào mới cho là hỏa hầu đầy đủ?

Độc Cô Minh buông gọn:

– Đến lúc đầy đủ tự ngươi sẽ biết. Hỏi nhiều làm chi?

Lâm Hương Đình tiếp nối:

– Bí mật làm chi với hắn, hở Hoàng Hạc? Chúng ta nên nói rõ cho hắn biết đi!

Bà quay qua Quan Sơn Nguyệt, tiếp luôn:

– Vừa rồi, ngươi nói đúng, song chỉ đúng một phần, phần đó thuộc về người, ngươi lại quên cái phần về núi. Người không chán, đã đành, nhưng núi cũng chán như người!

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Núi cũng biết chán? Thế ra, núi cũng có cảm giác như người?

Lâm Hương Đình gật đầu:

– Hiện tại thì ngươi không hiểu, song sau này, ngươi sẽ thấu đáo cái đạo lý đó. Bất quá, ta chỉ đơn cử một thí dụ thôi, một thí dụ thuộc cảnh giới của tâm linh.

Khi nào tâm linh của ngươi phát huy đầy đủ, là ngươi có hỏa hầu đầy đủ, không cần ai giải thích, lúc đó ngươi cũng minh bạch. Ngươi thông minh đấy, ta chẳng cần phải nói chi nhiều hơn nữa.

Độc Cô Minh cười nhẹ:

– Lâm muội nên ngừng lại chỗ đó là hơn, nếu cứ nói mãi thì sẽ là kẻ có tội mất!

Quan Sơn Nguyệt lại hoang mang.

Tại sao Lâm Hương Đình nói nhiều hơn nữa, lại phải thành người có tội? Ai bắt tội bà ta? Bà ta phạm tội gì?

Chàng nhìn sững Độc Cô Minh và Lâm Hương Đình.

Cả hai cũng nhìn chàng, rồi cũng cười, chẳng ai nói gì thêm.

Chàng cũng không dám hỏi gì nữa.

Từ xa, có tiếng mõ nhẹ nhàng theo gió đưa đến.

Lâm Hương Đình hấp tấp thốt:

– Lão Lão gọi chúng ta đấy!

Độc Cô Minh cười hì hì:

– Lão Lão cảnh cáo Lâm muội thì có! Lão Lão không muốn Lâm muội dè dặt từng lời ...

Lâm Hương Đình cũng cười, chẳng có vẻ gì chứng tỏ là bà bực bội vì câu trách khéo của Độc Cô Minh. Bà thốt:

– Chúng ta trở về nhanh, nếu chậm trễ, hẳn phải thọ phạt đấy!

Bà phi thân, nhảy qua ngọn suối, Độc Cô Minh cũng nhảy theo bà.

Quan Sơn Nguyệt toan nhún chân nhảy theo, Độc Cô Minh gọi lớn:

– Lên cầu mà vượt qua suối, suối rộng lắm, ngươi không nhảy khỏi đâu!

Quan Sơn Nguyệt nhận ra, mặt suối rộng độ hơn trượng, với năng lực hiện tại, chàng vượt khoảng cách đó dễ dàng, hơn nữa chàng thấy Độc Cô Minh và Lâm Hương Đình nhẩy không khó khăn lắm, thành ra chàng cũng hoài nghi lời nói của sư phụ. Do đó, thay vì lên cầu, chạy qua, chàng vận công, để khí thầm nghĩ, ít nhất chàng cũng nhảy xa hơn năm trượng.

Chàng nhảy liền. Khi đáp xuống, chàng hết sức sững sờ, thấy mình chỉ vượt độ nửa mặt suối. Cũng may, chàng phát giác kịp sự tình đó, khi cái đà nhảy đã mãn, và đang đáp xuống, chứ chưa chấm chân đến mặt nước. Chàng hết sức kinh hãi, vội đạp vào không khí, tung bổng người lên không, uốn vòng rồi đáp xuống. Lần nhảy thứ hai này, chàng ước lượng thế nào cũng vượt hơn ba trượng, thế mà vừa đáp xuống, chàng vẫn thấy mình cũng còn ở trên mặt suối.

Dĩ nhiên, chàng càng sợ hãi gấp mấy lần hơn trước đó, bởi chàng đã tận dụng chân khí trong người rồi, bây giờ làm sao tung bỗng mình lên không một lượt thứ ba nữa được?

Trong cơn nguy cấp, chàng phải liều. Vừa xuống đến mặt nước, chàng ấn chân đạp mạnh, định mượn mực nước làm cơ bản bắn mình lên. Chàng hy vọng như vậy.

Ngờ đâu mặt nước của ngọn suối, chừng như chẳng phải là vật hữu thể như nước ở khắp mọi nơi, tuy thấy có nước rõ ràng, song chẳng khác nào chàng ẩn chân vào cõi hư vô. Tự nhiên, chàng phải chìm xuống, và chàng nghe lạnh ở đôi chân. Chân đạp, không thấy nước, thế mà chân lún xuống, lại nghe lạnh, cái lạnh ướt, lạnh do một chất nước chuyển sang. Thế mới kỳ!

Chàng hết sức hoang mang, lòng chàng rối loạn lên ngay.

Đôi chân quầy quậy trong nước, đôi tay cũng khoát lên vung vít.

Trong lúc quơ tay, chàng vớ trúng một vật gì, hình tròn, mường tượng một rễ cây. Chụp được vật đó, chàng bớt sợ, định thần lại, nhìn ra, bất giác kinh ngạc vô cùng, tự hỏi mình ở tại địa phương nào ...

Rồi chàng mơ hồ thấy một chiếc cầu, và chính chàng đang ở trên chiếc cầu đó, vật tròn chàng đang nắm trong tay, là một đoạn gỗ của chiếc lan can cầu.

Chàng lần theo chiếc cầu, đi tới, qua khỏi cầu rồi, chàng còn thấy nước từ chân chàng chảy xuống ròng ròng.

Chàng lấy làm lạ, nhớ lại việc vừa rồi, tự hỏi tại sao nước suối lại không có một sức đẩy, nâng thân xác chàng lên như mọi dòng nước ao hồ sông suối khác?

Nước ở đây, chẳng lẽ lại là Nhược Thủy, chốn non bồng?

Còn chiếc cầu kia, tại sao bỗng nhiên lại xuất hiện? Chính chàng đã nhìn kỹ từ trước, nào có thấy cầu bắc ngang qua suối đâu?

Lòng suối, bất quá chỉ độ hơn trượng rộng, tại sao chàng không nhẩy qua nổi?

Bao nhiêu nghi vấn nổi lên trong tâm tư, chàng vừa hoang mang vừa hổ thẹn, vì lúc đó Độc Cô Minh và Lâm Hương Đình đang nhìn chàng mỉm cười.

Chàng ước độ khoảng cách giữa chàng và Độc Cô Minh, Lâm Hương Đình, không ngoài trượng rưỡi, bất quá chàng chỉ bước mấy bước dài là đến nơi ngay.

Mỗi bước của chàng, ít nhất cũng dài trên hai thước, thế mà chàng phải bước hơn ba mươi bước mới đến. Chàng hết sức lấy làm lạ!

Lâm Hương Đình nhìn chàng, điểm một nụ cười, tán:

– Thuật khinh công của ngươi khá lắm đó! Ta nghĩ, người học võ mà đạt được mức tiến của ngươi thì kể ra cũng mãn nguyện bình sanh lắm rồi!

Trời! Thế là nghĩa gì? Đã hai lần cố gắng vượt mặt suối, hai lần đều rơi xuống suối! Mặt suối, nào phải quá rộng? Khoảng rộng đó, vẫn ở trong cái tầm khả năng của chàng kia mà! Vượt suối, lại rơi xuống suối, tại sao lại được khen?

Chẳng lẽ Lâm Hương Đình mỉa mai?

Không, Quan Sơn Nguyệt tin chắc là chẳng bao giờ Lâm Hương Đình mỉa mai chàng. Thế thì tại sao bà ta khen chàng?

Lâm Hương Đình tiếp luôn trong khi chàng sững sờ:

– Ngươi biết không, mỗi cái nhảy của ngươi, dài hơn mười mấy trượng đó, tạo được một thành tích như ngươi vừa làm, phỏng trên đời này dễ có mấy người học võ làm được?

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:

– Mười mấy trượng? Đệ tử làm gì nhảy xa được như thế?

Độc Cô Minh mỉm cười:

– Lúc theo học với ta, ngươi cũng đã nhảy xa được sáu bảy trượng rồi. Bây giờ Lâm Tiên Tử truyền sang cho ngươi phần công lực ngang với công phu ví trong vài mươi năm, tự nhiên ngươi phải nhảy xa như thế!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ, giương tròn mắt nhìn sư phụ, rồi nhìn Lâm Hương Đình. Dù sự thật là thế, dù chàng biết rõ sư phụ và Lâm Hương Đình không hề nói đùa với chàng, chàng cũng không dám tin tưởng là mình thành công bất ngờ như vậy. Bởi, thành công như thế, có khác nào một niềm nhiệm mầu tiếp trợ chàng? Mà, nhiệm mầu là điều thuộc vào ảo tưởng, ảo tưởng mấy khi biến thành sự thật chứ?

Lâm Hương Đình cười nhẹ:

– Ngươi hoang mang?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Đệ tử có cái cảm giác là mình đang nằm mộng!

Lâm Hương Đình lắc đầu:

– Không phải mộng đâu! Ngươi có thể tự hào là khác! Theo ta ước độ lần thứ nhất, ngươi nhảy được mười hai trượng, lần thứ hai, vì ngươi uốn cầu vòng thành ra cái tầm nhảy phải uốn theo, thu hẹp hơn, nên chỉ vượt độ sáu bảy trượng.

Thử hỏi trong thiên hạ, có được mấy người bằng hai cái nhảy mà vượt đúng hai mươi trượng đường? Cái mức thành tựu đó, hẳn là hy hữu vậy.

Quan Sơn Nguyệt nghi ngờ:

– Mặt suối rộng độ bao nhiêu?

Lâm Hương Đình đáp:

– Độ bốn mươi trượng!

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi.

Trong tầm mắt của chàng, thì mặt suối chỉ rộng hơn trượng mà thôi. Bây giờ, Lâm Hương Đình bảo là khoảng cách đôi bờ độ bốn mươi trượng! Luận theo nhãn quang thì điều đó khó tin, luận về cái nhảy thì hẳn là Lâm Hương Đình nói đúng.

Chàng trầm ngâm một lúc, bỗng kêu lên:

– Có phải là pháp súc địa chăng? Theo huyền thoại thì cổ nhân có cái thuật rút ngắn những con đường ...

Độc Cô Minh «hừ» một tiếng:

– Làm gì trên đời lại có cái thuật đó? Từ cái không, bịa ra cái có, dù muốn tin là có cũng khó tin. Rồi lấy cái thực tại so sánh với hư không, thì biết hư không như thế nào mà so sánh? Chung quy, chúng ta vẫn chới với trong hoang đường!

Quan Sơn Nguyệt thừ người, nín lặng.

Lâm Hương Đình cười nhẹ, tiếp:

– Tiểu tử bị sư phó gây hoang mang rồi đó nhé! Đành rằng là trên đời chẳng hề có cái thuật rút ngắn đường, như cái thị giác của con người lúc gây nên ảo ảnh, chẳng hạn như người vừa vượt qua một vùng cỏ loạn, nơi đó, thực sự có trận pháp hay không, chúng ta chưa đề cập vội, chỉ biết là người đó bị mê loạn tâm thần, đó cũng là thị giác tạo nên mà thôi. Trận pháp, nếu có, nó bị che khuất, ngươi không nhìn thấy, cây cầu kia, cũng như trận pháp, ngươi nhìn, nhưng ngươi không thấy, chính cái chỗ nhìn mà không thấy, người đời cho rằng thuật huyền bí, nhìn mà không thấy, ảo tưởng sẽ phát sanh, nhiều biến hóa tiếp diễn, sự tình trở nên thần kỳ, ảo diệu là vậy ...

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Lúc đệ tử đến đây, nghe tiếng nói của sư phụ rõ ràng, song chẳng nhìn thấy sư phụ đâu cả ...

Lâm Hương Đình gật đầu:

– Đó cũng là một chứng minh sự hoạt động của ảo giác và thị giác.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Còn như cái việc về nước, tại ngọn suối không có phù lực nâng người lên như những dòng nước khác?

Hương Đình không đáp, chỉ hỏi lại:

– Ngươi có nghe nói đến Nhược Thủy chứ?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Đệ tử không thể nào hiểu nổi!

Lâm Hương Đình mỉm cười:

– Khi ngươi gặp Lão Lão rồi, ngươi mới thấy những gì huyền diệu mà lý trí con người dù sáng suốt đến đâu cũng chẳng suy diễn được! Chúng ta đi thôi, đã muộn lắm rồi!

Đúng lúc đó, tiếng mõ vang lên, vọng đến, nhịp đều đều ...

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 29

Cầm Bằng Cơn Mộng

Quan Sơn Nguyệt theo sau Độc Cô Minh và Lâm Hương Đình đến trước một ngôi nhà cỏ.

Đến nơi đó rồi, Độc Cô Minh và Lâm Hương Đình chỉnh nghiêm thần sắc, những nét vui, những nụ cười không còn nơi ánh mắt, nơi khóe miệng, cả hai trở thành những tín đồ ngoan đạo đứng trước bậc giáo tông.

Độc Cô Minh nghiêng mình, từ bên ngoài hướng vọng vào trong cung kính cất tiếng:

– Kính cáo cùng Lão Lão, nghiệt đồ của đệ tử đã đến.

Từ bên trong nhà, một giọng già truyền ra:

– Đưa hắn vào. Ta muốn xem hắn có đúng như ngươi mô tả không!

Độc Cô Minh nhẹ đưa tay vẹt bức rèm bằng cỏ đệm rất khéo, dẫn Quan Sơn Nguyệt vào.

Nghe Lý Trại Hồng thuật chuyện, Quan Sơn Nguyệt đã biết Ôn Kiều có dung mạo rất xấu xí. Nhưng, khi nhìn lên bà, chàng hết sức kinh hãi.

Xấu xí, nghĩa là không đẹp, cái xấu xí gì, cũng chẳng làm cho đối tượng hãi hùng, bất quá đối tượng chỉ cho rằng người xấu xí không được tạo hóa ưu đãi mà dành cho những đặc điểm quyến rũ thôi.

Bây giờ, chàng nhận ra, Ôn Kiều xấu không tưởng nổi! Dùng hai chữ xấu xí, tả cái dung mạo của bà, thiết tưởng còn kém sự thật rất xa. Bởi dung mạo bà hầu như quái dị, chứ chẳng phải là xấu xí suông như người đời gán cho những nữ nhân không đẹp.

Đầu rất to, mặt bạnh như bảng cửa, trên đầu lưa thưa mấy sợi tóc, tóc thì ít, song lông mày lại quá nhiều, lông mày quá dài phủ trùm đôi mắt lòi ra như mắt loài cá, mũi rất to, lại quớt lên không, lông mũi ló ra hơn tấc, môi mỏng nhưng đùn, răng lồi, răng giữa ló như nanh, răng còn đủ, dù bà đã hơn trăm tuổi, nhìn hai hàm răng trắng đục đó, cũng đủ ớn người, không cần phải thấy toàn diện.

Muốn tượng trưng con người bà, thiên hạ có thể đơn cử ra hình tượng dạ xoa ở các ngôi miếu, hoặc những bức họa quỷ sứ.

Q Tuy nhiên, những tượng đó, những hình đó, xem ra còn thấy ít xấu đối với bà.

Trong lòng khiếp hãi, Quan Sơn Nguyệt vẫn giữ vẻ cung kính bên ngoài.

Chàng bước tới, quỳ xuống, cúi đầu thốt:

– Đệ tử bái kiến Lão Lão.

Ôn Kiều đưa bàn tay gầy như chân chim ra vẫy vẫy:

– Bé đừng quá thủ lễ, cứ ngồi xuống đó, ngồi cho già quan sát xem nào.

Bà bảo luôn hai người kia:

– Hương Đình và Độc Cô, hai ngươi đứng mãi sao? Hôm nay, ngôi nhà cỏ của già họp đông người quá! Lần thứ nhất đấy, phải không các ngươi?

Gian nhà, dĩ nhiên, được trang trí rất giản dị, Ôn Kiều ngồi trên chiếc giường trúc, trước mặt có một cái bàn thấp, trên bàn có chiếc mõ kinh, một quyển kinh phật, một xâu chuỗi. Bà bận y phục nhà chùa.

Chẳng có vật gì nơi bốn vách, bất quá dọc theo hai bên vách có mỗi một chiếc nệm cỏ, Độc Cô Minh và Lâm Hương Đình ngồi xuống đó.

Ôn Kiều mỉm cười thốt:

– Bé thấy đó, già không chuẩn bị chỗ ngồi cho người thứ ba, bởi già không mong đợi cái người thứ ba, hẳn bé cũng hiểu và không phiền già. Vậy bé tạm ngồi trên đất đó, nền nhà của già cũng sạch sẽ lắm.

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp đáp:

– Ngồi đâu cũng được, Lão Lão đừng lo. Đệ tử không có hậu ý chi đâu!

Sạch, điều đó, chẳng quan hệ, có điều nền nhà sao ẩm thấp lạnh lẽo ghê!

Ngồi nơi đó, nếu phải ngồi lâu, hẳn là phải khó chịu.

Nhìn Quan Sơn Nguyệt, Ôn Kiều cười nhẹ, hỏi:

– Bé trông già, có đáng sợ lắm không?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Chẳng rõ những người khác nghĩ như thế nào, chứ đệ tử thì không thấy đáng sợ.

Ôn Kiều vẩn cười:

– Ngươi thành thật, cũng như sư phụ ngươi! Lần thứ nhất gặp già, sư phụ ngươi cũng nói là già không quá xấu, già nghĩ, nếu già không xấu, thì tất cả nữ nhân trên đời này đều là giai nhân hết.

Độc Cô Minh thoáng đỏ mặt:

– Lão Lão trách khéo đệ tử đấy, chứ đệ tử chỉ nói ra cảm nghĩ chân chánh của mình, lần đầu tiên bái kiến Lão Lão ...

Ôn Kiều mỉm cười:

– Đừng cãi lý với già, Hoàng Hạc. Già biết cái ý tứ của ngươi. Chẳng qua, ngươi đã biết cái tao ngộ của già ngày trước, dù cho cái cảm nghĩ của ngươi như thế nào, ngươi cũng tự nguyện với lòng, là nên nói ra những lời đầy thương xót, cho già đừng có động tâm, khơi lại niềm bi hoài.

Độc Cô Minh cúi đầu, không nói gì nữa.

Ôn Kiều thở dài, rồi cười khổ, tiếp:

– Bình sanh, già không thường gặp thế nhân, nhưng những người già gặp, có thể phân thành hai hạng:

một hạng, thương xót già, một hạng man trá già. Các ngươi chẳng ai nói lời thật với già.

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, vội phân trần:

– Đệ tử không có cảm nghĩ đó, xin Lão Lão xét cho!

Ôn Kiều cười nhẹ:

– Bé yên trí! Già nhận thấy bé là người thứ nhất, nói những lời thật với già.

Tuy nhiên, bé nói khéo quá, bé chỉ nói là không khiếp sợ, thực sự thì bé cũng nghĩ là già xấu xí đến độ ai thấy cũng phải sợ, chứ còn riêng bé thì không sợ.

Phải vậy không, hở bé?

Quan Sơn Nguyệt lại hấp tấp thốt:

– Người nghĩ sao, đệ tử đâu có biết được, Lão Lão! Đệ tử chỉ nói lên cái cảm nghĩ của chính mình thôi!

Ôn Kiều ôn tồn nói:

– Già ghi ơn ngươi đó! Ngươi nói thật già không thương tâm, bằng ngươi nói dối thì già khó chịu vô cùng. Sự việc của già hẳn ngươi cũng có nghe qua, ngươi hiểu đại khái chứ?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu!

Ôn Kiều lại tiếp:

– Mẫu người của ngươi, trên đời này rất hiếm có. Bình sanh già chỉ gặp được hai người, người thứ nhất, là vị dị nhân thu nhận già, nuôi dưỡng già, vị dị nhân đó thường khuyến cáo già, nên cầm như không có sanh ra trên cõi đời nầy, nên sống cảnh tịch mịch chờ ngày về với lòng đất lạnh. Già không nghe lời, thành ra có cái hậu quả không hay, và già mang cái hậu quả đó mãi đến bây giờ, có lẽ sẽ còn lâu nữa ... Cũng may, trước khi già nhắm mắt lìa cuộc đời dẫy đầy bất hạnh này, già lại gặp được ngươi. Ngươi là người thứ hai đó!

Quan Sơn Nguyệt định nói một câu, Ôn Kiều khoát tay chận lại:

– Đừng cắt đứt câu chuyện của già. Già còn nói nhiều, rất nhiều, mà toàn là những điều trọng yếu. Ngươi hãy tịnh tâm chú ý nghe già nói.

Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm sắc mặt, trịnh trọng thốt:

– Đệ tử cung kính nghe!

Ôn Kiều nhìn chàng một lúc, sau cùng cất tiếng:

– Khá lắm đó, bé! Hoàng Hạc chọn được ngươi, đúng là có nhãn lực vậy.

Độc Cô Minh chen vào gấp:

– Kính mong Lão Lão vun bồi cho hắn trở thành tay hữu dụng trên đời.

Ôn Kiều gật đầu. Bà đưa tay đẩy chiếc ghế trước mặt qua một bên, mở rộng chiếc đệm cỏ bà đang ngồi, lấy một mảnh giấy dầu cuốn tròn, rồi gọi Quan Sơn Nguyệt:

– Ngươi bước lại đây.

Quan Sơn Nguyệt bước tới, nghiêng mình hỏi:

– Lão Lão có điều chi phân phó cho đệ tử?

Ôn Kiều trao cuộn giấy cho chàng:

– Ngươi mở ra.

Quan Sơn Nguyệt tiếp lấy cuộn giấy.

Thì ra, đó là một thanh trường kiếm, cài trong vỏ, kiếm và vỏ bao bọc trong một tờ giấy mỏng, vỏ kiếm có hai lớp, lớp trong là đồng bạch, lớp ngoài là da cá nược, màu xanh.

Thanh kiếm có hình dáng rất cổ quái, nhưng nhìn thoáng qua, chàng biết ngay là một thanh kiếm cực quý.

Cầm thanh kiếm, Quan Sơn Nguyệt chưa hiểu ra làm sao cả, Ôn Kiều mỉm cười, hỏi:

– Bé con! Ngươi biết thanh kiếm gì đây không?

Trên vỏ kiếm, có khắc chữ, song chữ lu mờ, không còn đọc được nữa. Tuy nhiên, vừa thấy kiếm, Độc Cô Minh chợt kêu lên kinh hãi:

– Bạch Hồng Kiếm!

Lâm Hương Đình cũng kinh hãi như y, kêu lên:

– Bạch Hồng Kiếm! Lão thái bà ơi, tại sao thế?

Tại sao? Nghĩa là tại sao thanh báu kiếm đó lại ở trong tay bà.

Ôn Kiều «hừ» một tiếng:

– Đã biết nó tên chi, ngươi còn hỏi là hỏi làm sao?

Lâm Hương Đình vẫn còn kinh ngạc, đáp:

– Tuy sư phụ có trao cho đệ tử một thanh kiếm, bảo là Bạch Hồng Kiếm, lão nhân gia cũng có biểu diễn cho xem những điểm dị thường của nó, nhưng bất quá, thanh kiếm ấy chỉ là một vật giả.

Ôn Kiều gật đầu:

– Đúng vậy, thanh kiếm do sư phụ ngươi trao cho ngươi là một thanh kiếm giả, nhưng những gì y nói với ngươi, liên quan đến thanh kiếm, thì lại hoàn toàn đúng sự thật. Có một bổn kiếm phổ, ghi chú rành rẽ những chi tiết đó.

Lâm Hương Đình nói:

– Bổn kiếm phổ đó, bọn tôi từng xem qua, sở dĩ Tạ Linh Vận khiếp sợ tôi, là vì y cũng có đọc qua bổn kiếm phổ, biết thanh kiếm lợi hại như thế nào. Bất quá, đệ tử đã ...

Ôn Kiều chận lời:

– Ngươi đã làm sao? Đã nghi ngờ bổn kiếm phổ đó cũng giả nốt phải không? Thanh kiếm là vật giả, thì đương nhiên kiếm phổ cũng giả tạo luôn, phải không?

Lâm Hương Đình gật đầu:

– Phải! Đệ tử đã thiêu hủy bổn kiếm phổ rồi.

Ôn Kiều thoáng biến sắc.

Rồi bà thở dài, thốt:

– Cũng được! Thiêu hủy rồi là tốt. Bổn kiếm phổ chẳng những ghi chú những chi tiết của Bạch Hồng Kiếm mà thôi, còn có những chi tiết thuộc về các thanh kiếm khác nữa. Mà những thanh kiếm nầy thì không nên xuất hiện trên đời.

Mất kiếm phổ, không còn ai biết chân giá trị của những thanh kiếm đó, dù cho có kẻ nhặt được, cũng không biết sử dụng đúng cái hay của thanh kiếm. Kể ra, rất đỡ hại cho người đời.

Độc Cô Minh vội hỏi:

– Bổn kiếm phổ đó còn nói đến nhiều thanh kiếm khác nữa sao, lão thái bà?

Ôn Kiều nhìn thoáng qua Độc Cô Minh, rồi hỏi lại:

– Ngươi cũng còn hứng thú nữa sao, Hoàng Hạc?

Độc Cô Minh điểm một nụ cười, thốt:

– Không! Chẳng qua, đối với những việc mà mình chưa hiểu được, thì vãn bối có chút hiếu kỳ vậy thôi.

Ôn Kiều lại thở dài:

– Kiếm phổ đó nói về năm thanh kiếm tất cả. Năm thanh đó là:

Tử Sinh, Thanh Sắc, Hắc Đái, Hoàng Diệp và Bạch Hồng. Trong kiếm phổ, có ghi chú hình dáng của mỗi thanh, cũng như lưu lại các điểm hơn kém, so với những thanh kiếm khác, mà người đời trân quý.

Độc Cô Minh trố mắt, hỏi:

– Tại sao chỉ có năm thanh kiếm thôi? Còn Long Tuyền, Thái A, Ngư Trường, Thanh Minh, Thanh Sương, Tử Điện, Mạc Tà, Can Tương ... những vật nầy không phải là cổ kiếm thành danh sao?

Ôn Kiều giải thích:

– Đó tuy cũng là những thanh cổ kiếm, cũng thành danh lớn chứ, song bất quá, các thanh kiếm đó chỉ được cái bén, nhọn, bền, chắc, trừ ra chém đá, chặt sắt, thì chúng không còn công hiệu nào khác. Chẳng sánh được với năm thanh kiếm nầy.

Cả ba người chú ý lắng nghe bà nói tiếp.

Bà lại thở dài thêm mấy tiếng nữa, mới tiếp luôn:

– Bỏ ra bốn thanh kiếm kia, bởi chính ta cũng chưa thấy chúng có linh diệu như bổn kiếm phổ ghi chú hay không, ta chỉ nói về thanh Bạch Hồng này thôi.

Các ngươi có đọc kiếm phổ rồi, bây giờ ta xác nhận nó linh hiệu đúng như sách đã ghi tải.

Lâm Hương Đình thở ra:

– Thế thì uổng quá! Bổn kiếm phổ đã mất rồi! Và, những gì ghi chú trên đó, đều là sự thật!

Ôn Kiều nhìn sững nàng.

Nàng vội tiếp:

– Không phải đệ tử nói nhảm đâu. Bọn đệ tử đọc qua, chẳng hiểu gì, không nhớ gì, chỉ có Tạ Linh Vận là thông minh mẫn tuệ hơn hết, y đọc đến đâu, nhớ đến đó, nhớ mãi, vĩnh viễn không quên ...

Ôn Kiều cười nhẹ:

– Vì vậy, ngươi sợ hắn tìm ra được một trong bốn thanh kiếm kia? Hắn nhớ rõ các chi tiết trong kiếm phổ, hắn sẽ biết cách sử dụng?

Lâm Hương Đình đáp:

– Chính vậy đó, lão thái bà.

Ôn Kiều mỉm cười:

– Bạch Hồng Kiếm có cái sắc bén quá lộ liễu, không như bốn thanh kiếm kia, chất thép mờ mờ, mới nhìn qua chẳng ai biết là vật báu. Tuy nhiên, ngươi yên trí, chẳng bao giờ Tạ Linh Vận tìm ra!

Lâm Hương Đình trầm ngâm nghĩ ngợi.

Ôn Kiều tiếp:

– Sư phụ ngươi đã suy nghĩ qua nhiều năm, khai thác từng chi tiết nhỏ, song vẫn không thu lượm được một kết quả nào về số phận của bốn thanh kiếm đó.

Cuối cùng, lão ta phải ngụy tạo ra thanh Bạch Hồng.

Bà lại hỏi:

– Ngươi có biết tại sao sư phụ ngươi chọn Bạch Hồng mà không chọn một trong những thanh kiếm kia, để mô phỏng tạo nên một vật giả chăng?

Lâm Hương Đình lắc đầu:

– Đệ tử không hiểu.

Quan Sơn Nguyệt chen vào:

– Đệ tử nghĩ ra cái lý do đó, song chẳng biết có đúng hay không.

Ôn Kiều cười nhẹ:

– Ngươi thử nói cho già nghe.

Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:

– Trong năm thanh kiếm, chỉ có thanh Bạch Hồng là phát huy sự sắc bén lộ liễu, ai nhìn qua cũng biết ngay là báu vật, do đó mà nó còn được lưu truyền đến ngày nay. Chí như, các thanh kiếm kia, dù có giá trị tương đồng với thanh Bạch Hồng, song phải là người có nhãn quang tinh vi mới thấu đáo nổi chỗ quý giá của nó. Cho nên, ai may mắn chiếm được nó, hẳn phải giấu đi, cho nên nó không lưu truyền. Huống chi, những người không sành kiếm, thấy nó lại cứ tưởng là vật tầm thường, như vậy nó không được truyền tụng trên giang hồ, dần dần rồi những thanh kiếm đó được xem như mất hẳn, chỉ còn lại một thanh Bạch Hồng thôi.

Bách Lý tiền bối biết thế, mà Tạ Linh Vận cũng biết thế. Bởi hiểu rõ Tạ Linh Vận, Bách Lý tiền bối mới chọn thanh Bạch Hồng để đưa Tạ Linh Vận vào tròng ...

Ôn Kiều gật đầu, khen:

– Ngươi thông minh quá!

Bà gọi Độc Cô Minh, tiếp:

– Hoàng Hạc! Ta xem, hắn có phần trội hơn ngươi đó nhé!

Độc Cô Minh mỉm cười:

– Bởi thế, đệ tử mới đưa hắn đến đây cho Lão Lão.

Ôn Kiều cười hì hì, nhìn Quan Sơn Nguyệt một lúc. Một ý niệm thoáng hiện lên nơi tâm não, bất giác bà thở dài, gọi Quan Sơn Nguyệt:

– Bách Lý Bất Bình còn một lý do khác nữa, ngoài cái lý do ngươi vừa nêu rất đúng đó. Lão ta biết, thanh kiếm Bạch Hồng ở trong tay già, dù Tạ Linh Vận có nghi ngờ, cũng chẳng làm sao tìm được, như vậy, là cầm như cái sự giả tạo của lão chẳng hề bị khám phá.

Bà dừng lại một chút, rồi thở dài, tiếp luôn:

– Năm xưa, nếu già không nhờ có thanh Bạch Hồng Kiếm trong tay, thì già đã bị Bách Lý Bất Bình sát hại già rồi! Lão ta biết rõ cái oai lực của thanh kiếm, nên vừa thấy già đưa ra, là nhận bại ngay. Tuy nhiên, nghĩ đến tình chồng nghĩa vợ, già không nỡ giết lão. Sau ngày chia ly, già cứ ở tại đây, giám thị lão ta ...

Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ bất mãn ra mặt.

Ôn Kiều biết rõ tâm ý của chàng, thốt:

– Chắc ngươi không tán đồng thái độ của già?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Đúng vậy, Lão Lão! Ít nhất, Lão Lão cũng không nên điềm nhiên để cho bọn tà ác tự tung tự tác.

Ôn Kiều lại thở dài:

– Ngươi nói phải! Nhưng, bên trong còn nhiều uẩn khúc, chính già cũng chẳng giải quyết được thỏa đáng. Đành rằng sở học của Bách Lý Bất Bình do già truyền thọ, song già lại nhờ vị dị nhân đó giáo huấn cho, già không làm gì để tạo nên chút danh về tài nghệ của vị dị nhân, thì Bách Lý Bất Bình làm được. Kể cũng là một điều hay, già để yên cho lão ta lập môn phái, là gián tiếp làm cho cái danh của vị dị nhân được lưu truyền, người đời sẽ biết trong công cuộc chấn hưng vũ thuật, có vị dị nhân góp phần vào ...

Bà nói thế, Quan Sơn Nguyệt còn tranh luận làm sao được nữa?

Ôn Kiều trầm giọng tiếp luôn:

– Huống chi, những gì Bách Lý Bất Bình đã làm, cũng chưa phải là những hành động đại gian đại ác, vả lại sở học của vị dị nhân đó, lại thuộc về Ma Đạo, Bách Lý Bất Bình xuất thân từ cái gốc Ma Đạo, quen với những hành vi tà, tự nhiên không còn xem những hành vi đó là tà nữa.

Quan Sơn Nguyệt thốt gấp:

– Dù sao, công luận cũng phân biệt chánh tà!

Ôn Kiều mỉm cười:

– Già bình sanh không hề tiếp xúc với nhân loại, nên không có cái cảm nghĩ như ngươi, rồi Bách Lý Bất Bình, cũng theo cái chiều hướng của già mà tập luyện, già có cái cảm giác là bên trong có một tâm linh ước thúc mọi hành động, do đó chẳng bao giờ dám làm điều gì bất nhân, phi nghĩa. Vị dị nhân cũng thế, già và Bách Lý Bất Bình cũng thế, nhờ vậy mà từ trước đến nay, chưa có ai hành động quá đáng. Chỉ sợ rằng cái công phu đó sẽ được truyền cho một người có tâm tính cực đoan, vượt qua mọi ước thúc của tâm linh, thì hậu quả tai hại khôn lường!

Quan Sơn Nguyệt chận lời:

– Người đó chính là Tạ Linh Vận!

Ôn Kiều gật đầu:

– Phải! Ngày trước, Bách Lý Bất Bình không quan sát kỹ, thành thu nhận hắn, chừng lão ta thức ngộ sự lầm lạc, thì đã muộn rồi, bao nhiêu sở học của lão được truyền cho hắn, lão không còn ức chế hắn nổi.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Lão Lão có thanh kiếm Bạch Hồng trong tay, hẳn thừa sức chế ngự Tạ Linh Vận chứ?

Ôn Kiều lắc đầu:

– Già không thể làm cái việc đó, bởi có làm cũng chẳng hy vọng thành công. Sự tu vi của già khác hẳn với Bách Lý Bất Bình, dù có thanh kiếm Bạch Hồng cũng chẳng sử dụng nó được.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt, chừng như chàng không tin Ôn Kiều nói thật, chàng nghĩ rằng bà nói thế, để tắt trách một thái độ thôi.

Ôn Kiều chính sắc mặt, tiếp:

– Già không nói dối ngươi đâu. Chẳng những riêng già mà cả Lâm Hương Đình cũng thế, tuy có thanh kiếm Bạch Hồng trong tay, cũng chẳng sử dụng được, già nói là sử dụng đúng cái công hiệu của thanh kiếm. Bởi, sở học của già, không thích hợp cho nữ nhân, và chỉ có nam nhân mới phát huy nổi cái tuyệt diệu của công phu tập luyện. Tạ Linh Vận biết rõ điều đó, hắn toan làm bạo mấy lần, quyết diệt trừ bọn Lâm Hương Đình, Lý Trại Hồng, song hắn chưa dám cử sự, bởi còn ngại thanh kiếm Bạch Hồng. Hắn cứ tưởng thanh kiếm nơi tay Hương Đình là vật thật, mà hắn cũng chẳng biết cái vật đó, dù là vật thật nếu do một nữ nhân sử dụng nó chẳng biểu hiện sự thần diệu bằng một nam nhân sử dụng.

Bà dừng lại một chút, đoạn tiếp:

– Tuy Lâm Hương Đình hết sức cẩn thận, từ lâu cố giữ gìn kín đáo, Tạ Linh Vận chưa hiểu thanh kiếm đó là vật giả. Nhưng trên thế gian này, chẳng có sự bí mật nào được bảo trì vĩnh viễn, thì phải có một ngày nào đó, Tạ Linh Vận khám phá ra ... Già có nghĩ đến sư phụ ngươi, song sư phụ ngươi lại khinh thường sở học của già ...

Độc Cô Minh vội vã phân trần:

– Lão Lão nói thế, oan cho đệ tử quá chừng! Đệ tử nào dám khinh thường vũ công của Lão Lão? Chẳng qua đệ tử chuyên luyện «Càn Thiên Chân Khí», mà môn công đó lại phản ngược với vũ học của Lão Lão, nếu đệ tử miễn cưỡng mà tập luyện, thì cái lợi chưa thấy, cái hại đến gấp hơn!

Ôn Kiều mỉm cười:

– Già biết như vậy, cho nên dù có nghĩ đến ngươi, già cũng chẳng thể cưỡng bức ngươi làm cái việc không nên làm, hay không thể làm!

Độc Cô Minh thở phào:

– Lão Lão xét cho như vậy, đệ tử hết sức cảm kích.

Dừng lại một chút, điểm một nụ cười lão tiếp:

– Còn tiểu tử, tuy hắn là môn đồ của đệ tử, song hắn chẳng giống đệ tử.

Quan Sơn Nguyệt chợt tỉnh ngộ, nghĩ thầm:

“Thảo nào mà sư phụ ta chẳng chịu truyền môn công «Càn Thiên Chân Khí» cho ta!”.

Chàng nhìn sư phụ kêu lên:

– Thì ra sư phụ đã có ý từ lâu ...

Độc Cô Minh mỉm cười:

– Phải, từ lúc ta truyền vũ công cho ngươi, ta đã lưu ý đến cái điểm đó rồi!

Hẳn ngươi không phiền ta sao có hậu ý với ngươi chứ?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:

– Đệ tử thọ ân trọng của sư phó, khi nào đệ tử dám có dị nghị nào đối với sư phụ. Chỉ vì ...

Độc Cô Minh hỏi:

– Chỉ vì như thế nào?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Thiết tưởng sư phụ cũng nên bảo qua cho đệ tử biết đại khái, ngay từ lúc đó, đệ tử chuẩn bị tiếp nhận những bất ngờ trong tương lai!

Độc Cô Minh giải thích:

– Lúc đó, ta đã gia nhập Long Hoa Hội rồi, ta bị quy củ của hội ước thúc, thì đương nhiên là ta không thể nói gì với ngươi. Tạ Linh Vận lại luôn luôn âm thầm theo dõi từng cử động của ta. Nếu ta để lộ một sơ hở nhỏ, hắn sẽ nhân đó, án theo quy củ buộc tội ta và hủy diệt ta để trừ hậu hoạn. Ta chết vì Tạ Linh Vận, chẳng những thiệt riêng cho ta, mà còn làm hỏng đến đại sự sau này. Huống chi, ta có ý định đi quanh một vòng khắp các đại môn phái, sáng lập Minh Đà Lịnh với hy vọng lưu lại cho ngươi. Khi ngươi nổi danh rồi ta sẽ nhờ một người nào đó tìm cách dẫn tiến ngươị. Quan Sơn Nguyệt suy tư một chút, rồi thốt:

– Con trai Thiên Tề Ma Quân – Kỳ Hạo, cũng có sáng lập ra một lực lượng như chúng ta, lấy tên Phi Đà Lệnh, ý chừng Kỳ Hạo định chống đối Minh Đà Lịnh.

Độc Cô Minh gật đầu:

– Ta có biết việc đó. Sở dĩ có Phi Đà Lịnh, là do cái chủ ý của Khổ Hải Từ Hàng.

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

– Tại sao?

Độc Cô Minh giải thích:

– Long Hoa Hội ước thúc hội viên quá cẩn mật, chính quy củ của hội gây trở ngại lớn lao trong việc dẫn tiến ngươi, cho nên lão trọc mới bày mưu cho Kỳ Hạo, lập ra Phi Đà Lịnh, chống đối với Minh Đà Lịnh của ngươi. Vô hình trung, Kỳ Hạo lại làm cái việc dẫn tiến ngươi thay cho Khổ Hải Từ Hàng, Kỳ Hạo làm việc đó, chẳng còn ai nghi ngờ đến ngươi nữa, mà cũng chẳng ai truy nguyên sự hiện diện của ngươi tại đại hội.

Lão kết luận:

– Nếu không có cái mưu kế của Khổ Hải Từ Hàng, nếu Kỳ Hạo chẳng dẫn tiến ngươi đến Long Hoa Hội, thì có thể là Tạ Linh Vận ra mặt đối đầu với ngươi rồi đấy.

Lâm Hương Đình gật đầu:

– Đối phó với Kỳ Hạo, ngươi còn có cơ tất thắng, chứ đối với Tạ Linh Vận thì sự tình khó khăn hơn nhiều, bởi Tạ Linh Vận là con người đa mưu túc trí, vũ công lại trên bậc Kỳ Hạo rất xa. Trong mảnh giấy ta lưu lại cho Lý Trại Hồng, ta có cho sư muội biết, là sẽ có người xuất hiện đối đầu với Tạ Linh Vận tại đại hội. Nhưng ta không thể nói rõ, chính ngươi là người sắp xuất hiện đó. Kế hoạch của ta, chỉ có sư phụ ngươi và lão trọc biết mà thôi.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Thì ra mọi hành động của chàng đều ở trong sự an bài của Lâm Hương Đình, Độc Cô Minh và Khổ Hải Từ Hàng! Chàng lại hỏi:

– Lão hòa thượng đó, là con người như thế nào?

Lâm Hương Đình lắc đầu nói:

– Cả ta và sư phụ ngươi cũng không ai biết rõ lai lịch của lão! Mà hành động của lão cũng có vẻ thần bí như lai lịch của lão. Lần thứ nhất, giao đấu với ta, lão thắng rõ rệt, thế mà lão lại cam tâm khuất phục ta, rồi còn tình nguyện nhập hội, sẵn sàng vâng lịnh ta sai khiến. Lão Lão ẩn cư tại đây, chẳng ai biết, lão trọc lại biết, và cũng chính lão đưa ta đến đây, bái kiến Lão Lão!

Bà tặc lưỡi, buông tiếp:

– Đúng là một con người kỳ bí!

Ôn Kiều mỉm cười:

– Hòa thượng đó có lai lịch phi thường, song chúng ta không nên tìm hiểu dĩ vãng của y làm chi. Chúng ta đã nói qua tất cả các điều cần nói, thì bây giờ hãy trở lại vấn đề chánh yếu.

Bà nhìn Quan Sơn Nguyệt, hỏi:

– Hẳn ngươi cũng biết là già và các vị đây muốn ủy thác ngươi làm việc gì rồi chứ? Ngươi nghĩ sao?

Quan Sơn Nguyệt quỳ xuống, cung kính đáp:

– Nghĩa bất dung từ, đệ tử xin vâng lịnh Lão Lão sai khiến.

Ôn Kiều gật đầu:

– Tốt! Vậy, kể từ hôm nay, ngươi là chủ nhân Bạch Hồng Kiếm, già hy vọng ngươi sử dụng nó một cách hữu hiệu!

Quan Sơn Nguyệt chính sắc mặt:

– Đệ tử phát nguyện là sẽ dùng nó làm phương tiện trừ gian, diệt bạo, và dè lòng giữ ý chẳng lợi dụng nó để thỏa mãn niềm tự ái, vọng sát kẻ vô tội.

Ôn Kiều thở dài:

– Già nghĩ, nên cảnh cáo ngươi về việc nầy, Bạch Hồng Kiếm vốn là một thanh Ma Kiếm, nó xuất hiện trên giang hồ ngày nào, là bắt đầu từ ngày đó, sát nghiệt phát sanh, triền miên, bất tức, vô hạn, dù ngươi có muốn chận ngăn trường kiếp sát, cũng chẳng dễ chút nào! Ngươi không đủ năng lực khống chế ảnh hưởng ma quái của nó!

Quan Sơn Nguyệt gật đầu không nói gì.

Ôn Kiều lại tiếp:

– Tuy nhiên, ngươi không phải quá lo ngại. Già thấy rõ, nơi ngươi, chánh khí bốc bừng, rạng rỡ, biết đâu cái ma lực của thanh kiếm sẽ vì chính khí của ngươi mà hóa giải dần dần, để cuối cùng tiêu tan trọn vẹn rồi nó trở thành một thanh kiếm tốt. Già nói tốt, là muốn nói đến cái oai khí quanh minh do nó phát huy, chứ không như ngày trước, nó chỉ biểu hiện ma lực hãi hùng. Sau nầy rồi ngươi sẽ hiểu bất cứ vật nào cũng có cái tánh của nó, huống hồ kiếm là một linh vật! Kiếm tà, thì hẳn là phải có ma tánh.

Ngừng một chút, bà lại bảo:

– Bây giờ, ngươi hãy lấy kiếm ra đi!

Quan Sơn Nguyệt vâng lời.

Thanh kiếm vừa ra khỏi vỏ, kiếm khí bốc lên, sáng rực, những người có mặt ở đó đều là cao thủ, có nhãn lực rất vững, thế mà vẫn bị chói mắt vì ánh kiếm như thường.

Ôn Kiều chỉnh nghiêm thần sắc, thốt:

– Kiếm pháp của bổn môn, gồm «Tu La Tứ Thức», «Đại La Thất Thức».

Phàm kiếm đạo được truyền lưu trên đời, đến cái mức tinh vi đó là cùng, phần già, già truyền cho ngươi «Tu La Kiếm Pháp», còn Hương Đình lãnh việc truyền «Đại La Kiếm Pháp». Ngươi phải dụng tâm luyện tập, đừng làm sự kỳ vọng của già trở thành tuyệt vọng.

Độc Cô Minh mỉm cười, tiếp nối:

– Ngươi có nghe Lão Lão nói đó chăng, tiểu tử? Đúng là một đại hạnh ngộ của ngươi đó!

Ôn Kiều hướng qua Độc Cô Minh, điểm một nụ cười:

– Khoan nói những tiếng quan trọng, Hoàng Hạc. Về «Tu La Kiếm Pháp», bất quá già còn kém Tạ Linh Vận. Già đặt trọn hy vọng nơi tiểu tử. Hắn có bẩm chất hơn người, hẳn hắn cũng phải lãnh hội hơn người. Ngoài ra hắn, già e ngại trên đời nầy chẳng có ai chế ngự nổi Tạ Linh Vận!

Độc Cô Minh cười nhẹ:

– Lão Lão lo nghĩ xa xôi như thế, là chu đáo lắm! Bây giờ đệ tử xin cáo thoái, để cho Lão Lão và Hương Đình truyền kiếm pháp cho tiểu tử.

Bắt đầu từ phút giây đó, Quan Sơn Nguyệt chuyển qua một khúc quanh quan trọng trên đường đời.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 30

Nhát Kiếm Kinh Hồn

Sát khí hôm nay bao phủ đỉnh Thần Nữ Phong trong dãy Vu Sơn, làm tan mất cái vẻ thanh kỳ tuấn nhã của ngọn núi từng khích động lòng du khách qua những thần thoại huyền diệu mê ly.

Sát khí từng lớp, từng lớp, nặng nề, cô đọng, biến thành mây, trong mây, lảng vảng bóng tử thần, lăm le bàn tay lông lá chực gặt hái từng chiếc đầu người đang tranh chấp về cái lý của chánh và tà.

Chánh toan diệt tà để tạo thanh bình cho nhân loại.

Tà quyết hạ chánh để chứng tỏ tà vẫn mạnh và vẫn có lý do tồn tại.

Chánh và tà giành một thế đứng giữa trần gian, chánh với tà giành một uy lực chế ngự loài người.

Chánh và tà tuy là hai cái thế bất lưỡng lập, song mâu thuẫn thay, chánh và tà vẫn song lập như thường, chẳng khác nào nước và lửa, gặp nhau là xung khắc, phải có nhau để phản ảnh cái tánh chất nhau.

Có tà, chánh mới tỏ rõ cái cao, và có chánh, tà mới phát huy cái bạo để góp phần vào sự biến hóa không ngừng của vạn vật. Nước và lửa, khắc nhau, song thiếu vắng một thứ thì vạn vật không còn hoạt động, cái lẽ xanh xanh hóa hóa vì đó phải chấm dứt ngay ...

Và, sát khí hôm nay, phủ trùm đỉnh Thần Nữ Phong, phát sanh từ Long Hoa Hội.

Nói đến Long Hoa Hội, là nói đến cái bảng Phong Thần, gồm ba loại. Ba loại đó, là Tiên Bảng, Ma Bảng và Quỷ Bảng.

Phong Thần Bảng quy tụ những con người bất đồng, có gian tham, có chánh trực, có nghĩa hiệp, có cường đạo, có quân tử, có ma đầu.

Chính những con đường bất nhất đó đang định diệt trừ lẫn nhau, nấp mình sau một bình phong vũ thuật. Họ ấn chứng vũ công, biểu hiện tinh thần cầu tiến, nhưng thực ra, họ mượn cái cớ chấn hưng vũ đạo, để tương sát tương tàn.

Hai tập đoàn tà chánh, đã dàn thành cái thế đối chiến rồi, nhưng cuộc chiến chưa khai diễn. Họ chờ.

Thủ lãnh tập đoàn tà dĩ nhiên là Tạ Linh Vận, y không giấu sự khẩn cấp, y đang nôn nóng lạ thường.

Thủ lãnh tập đoàn chánh, là Khổ Hải Từ Hàng, lão ta có thần thái mười phần nhàn tịnh.

Cái thế ghìm nhau càng dài lâu, không khí càng nặng nề, sự căng thẳng bên trong mỗi người, lan dần ra đến không gian, đến vạn vật quanh chiến địa ...

Chờ đợi mãi, Tạ Linh Vận mất dần kiên nhẫn, cuối cùng, y cao giọng hỏi:

– Lão trọc, cái người chủ trì của các ngươi thật sự có đến chăng? Lúc nào thì người đó đến? Chẳng lẽ các ngươi bắt chúng ta chờ đợi mãi như thế nầy?

Khổ Hải Từ Hàng ung dung đáp:

– Đến gấp, ngươi đừng nóng chứ, Tạ Linh Vận! Bần tăng bảo đảm là người đó sẽ đến đây trước cuối giờ thìn.

Tạ Linh Vận ngẩng mặt lên, nhìn thoáng qua vầng thái dương rồi hướng mắt sang Khổ Hải Từ Hàng, lại hỏi:

– Người chủ trì mặt trận của các ngươi là ai thế?

Khổ Hải Từ Hàng bình tịnh đáp:

– Không tiện nói trước. Đến lúc đó, là ngươi biết ngay!

Tạ Linh Vận trầm giọng:

– Hắn dám động thủ với ta?

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Có dám động thủ mới dám đảm đương phần việc bảo đảm an toàn cho bọn bần tăng chứ! Trước khi giao đấu, không ai biết được kết thúc như thế nào, song bần tăng hy vọng người đó đánh bại ngươi ...

Tạ Linh Vận bật cười ha hả:

– Ta xem cái hy vọng của ngươi sẽ biến thành mây khói nhanh chóng đó!

Trong thiên hạ ngày nay, kể luôn cả Hoàng Hạc và Lâm Hương Đình, vị tất có người khả dĩ gọi là đối thủ của ta!

Khổ Hải Từ Hàng thản nhiên nhìn Tạ Linh Vận, buông gọn:

– Khoan nói sớm, Tạ Linh Vận! Có những việc mà chúng ta phải nhìn nhận là những lời phê phán sớm thường trái ngược với kết thúc!

Tạ Linh Vận cười lạnh.

Y đảo ánh mắt quét qua một vòng người trong thế trận đối lập, điểm một nụ cười ngạo nghễ, thốt:

– Lão trọc, ta bắt đầu hoài nghi ngươi rồi đấy! Làm gì có kẻ dám đối địch với ta chứ? Bất quá, ngươi bịa chuyện để kéo dài thời gian, trong khi đó, ngươi chờ một nhiệm mầu ứng hiện! Vô ích, lão trọc, chẳng bao giờ nhiệm mầu đến với các ngươi, và cái số phận của các ngươi đã được an bài như vậy rồi! Cái số, là làm một việc ngu xuẩn!

Khổ Hải Từ Hàng điềm nhiên:

– Kéo dài thời gian để làm gì, đến bao lâu? Giả như suốt hôm nay, bọn bần tăng không có một phản ứng nào, thì chắc đâu ngươi sẽ để cho tất cả được yên thân?

Tạ Linh Vận cười lớn:

– Biết đâu ngươi chẳng có cái chủ ý quỷ quái, cố kéo dài thời gian, chờ cho công cuộc bố trí của ngươi hoàn thành, sau đó mới khai chiến với ta? Cho ngươi biết, dù ngươi có chủ ý đó, kết quả sẽ không mang thắng lợi về ngươi đâu. Chung quy, ngươi chỉ chuốc thêm khổ thôi. Ngươi nên hiểu, trước núi, sau núi, trên núi, nơi nào ta cũng an bài chu đáo, bọn ngươi dù có cánh cũng không hy vọng thoát lọt tay ta phen này ...

Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ:

– Bần tăng đâu phải là con người đa trá? Từ bao lâu nay, ngươi có thấy khi nào bần tăng thi thố một thủ đoạn nào chăng? Đối với bất kỳ ai, bần tăng cũng lấy sự chân thành xử sự quanh minh chánh đại, có làm sao, nói làm vậy.

Tạ Linh Vận lắc đầu:

– Ta không thể tin lời ngươi được. Chiếc áo bên ngoài của ngươi đó không đủ bảo đảm một tâm địa phù hợp với nó, từ ngàn xưa, có biết bao nhiêu kẻ cướp mang lốt nhà sư, và hạt chuỗi nơi tay những nhà sư trá hình đó, là những đầu người thu nhỏ lại? Chẳng nói chi xa vời, mới ba hôm trước đây, ngươi đã dùng thủ đoạn ma quái, phá vỡ tan Long Hoa Hội, chứng cứ còn đó, ta làm sao tin ngươi được chứ?

Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ, không đáp. Bên sau lưng lão, khởi sự có dao động giữa mọi người, sự dao động đó do phản ứng về cuộc đối thoại giữa Khổ Hải Từ Hàng và Tạ Linh Vận.

Nhàn Du Nhất u bước tới, thấp giọng hỏi hòa thượng:

– Lão trọc định giở trò gì nữa đây?

Nhiều ánh mắt đổ dồn về hòa thượng, trong những ánh mắt đó, có hảo ý, có địch ý, bất đồng. Tuy nhiên, có một điểm tương đồng, điểm đó là niềm hoài nghi.

Ai có hảo ý với lão, thì lo ngại, ai có địch ý với lão, thì căm hờn, sợ lão khai diễn một trò đùa, đưa mọi người vào nguy hiểm, biết đâu lại chẳng là cuộc tử vong toàn số?

Khổ Hải Từ Hàng điềm nhiên điểm một nụ cười, đáp:

– Chuyện là chuyện sống chết của một số đông người, bần tăng dám đùa trên sanh mạng của tất cả quý vị sao?

Gương mặt của lão thản nhiên quá, trong cái thản nhiên có vẻ kiên quyết, nhưng dù lão tỏ lộ niềm tự tin đến độ nào, mọi người vẫn không an tâm.

Sau cùng, chính cái lúc Khổ Hải Từ Hàng bắt đầu xuống tinh thần, và niềm tự tin hơi lung lay, thì bỗng từ trên không trung có tiếng hạc ré.

Khổ Hải Từ Hàng thở phào, cười tươi trở lại, thốt:

– Kẻ xuất gia khi nào dám nói đùa? Đến rồi đó!

Trăm ngàn ánh mắt hướng lên nền không. Song phương đều muốn biết người đại diện chính nghĩa là ai.

Trên không, có đến hai con hạc, ngồi trên lưng bạch hạc, chính là Linh Cô, Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo. Chưa hết, còn một người nữa, người này là thiếu niên lưng đeo trường kiếm. Thiến niên, là Quan Sơn Nguyệt.

Mọi người vẫn còn đưa mắt tìm xem còn ai nữa chăng, nhưng đợi mãi chẳng thấy gì. Quan Sơn Nguyệt là người cuối cùng của số người mà Khổ Hải Từ Hàng chờ đợi.

Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo lộ cái vẻ bất an rõ rệt, song cả hai cố giữ sự bình tịnh. Họ cố gắng cách nào, cũng không che dấu nổi cái thần thái ưu tư của họ.

Nhìn đoàn người mới đến, Tạ Linh Vận gọi Khổ Hải Từ Hàng:

– Lão trọc, người của ngươi là ai đâu?

Khổ Hải Từ Hàng đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt, điềm nhiên hỏi lại:

– Ngươi không thấy sao?

Bây giờ, những người hiện diện luôn cả hai cánh đều lạo xạo lên. Dĩ nhiên, quan niệm của tất cả phải bất đồng, đừng nói chi bên cánh của Tạ Linh Vận, chỉ trong cánh của Khổ Hải Từ Hàng cũng có sự bất đồng rồi.

Một người kêu lên một tiếng, hoặc kinh ngạc, hoặc thất vọng, hoặc mỉa mai, hoặc khinh thường. Có mấy người không giữ nổi trầm tịnh, bật cười hắc hắc.

Chẳng một ai tỏ lộ niềm tin, chẳng một ai hoan nghinh sự đại diện của Quan Sơn Nguyệt.

Người cười to, cười lâu hơn chính là Tạ Linh Vận. Cười một lúc, y đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt, nhưng lại nhìn Khổ Hải Từ Hàng, y cao giọng thốt:

– Lão trọc ơi! Ngươi biểu dương oai khí suốt nửa ngày trời, để cuối cùng ngươi triển lãm một trò đùa như thế! Ta khen ngươi có tánh khôi hài thật sự đấy!

Quan Sơn Nguyệt không hề biểu hiện một cảm nghĩ nào mặc dù lời châm chích của Tạ Linh Vận khá cay độc.

Linh Cô cất tiếng:

– Tạ sư bá không nên khinh thường Quan công tử, sư bá đừng quên ba hôm trước đây, chính sư bá đã thất bại dưới lưỡi kiếm của Quan công tử mà!

Tạ Linh Vận thoáng đỏ mặt:

– Tiểu liễu đầu, nếu ngươi còn khua lưỡi, ta sẽ vặn cổ ngươi đấy nhé!

Linh Cô lè lưỡi:

– Sư bá ơi! Sư bá không lưu ý đến lời nói của tôi à? Chẳng lẽ tôi nói sai sự thật?

Tạ Linh Vận vươn tay chụp tới, Linh Cô nhanh như chớp tránh qua một bên.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, gắt nhẹ:

– Linh Cô, đừng vô lễ mà phạm vào quy củ đấy!

Đoạn chàng hướng sang Tạ Linh Vận tiếp:

– Tạ Linh Vận, dù sao thì ngươi cũng là lãnh tụ quần ma, một lãnh tụ phải có tác phong hơn người, đối với một cô bé mà ngươi còn nóng nảy, không giữ được trầm tĩnh, thì lúc đối với kẻ ngang hàng, ngươi sẽ như thế nào nữa chứ?

Tạ Linh Vận thoáng đỏ mặt, quắt mắt nhìn chàng hét:

– Tiểu tử thúi, tránh đi nơi khác gấp, ta không thừa thì giờ nói nhảm với ngươi!

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Ta đâu có nói nhảm với ngươi bao giờ!

Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng:

– Ngươi đến đây để làm gì?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Ta đến đây, để ngăn chặn ngươi hành hung, tác ác, ta đến đây để trừ diệt kẻ gian tà. Tuy tâm địa của ngươi ẩn toàn mưu sâu kế độc, song dù sao thì ngươi cũng chưa có hành động quá đáng, trước khi ngươi gây nên tội lỗi, ta khuyên ngươi ...

Tạ Linh Vận quát to:

– Câm cái mồm thối của ngươi lại ngay! Ngươi tài ba chi đó, lại dám buông lời khuyến cáo bổn tôn giả? Ba hôm trước, ta vì khinh thường, nên lầm xảo kế của ngươi, chứ hôm nay thì ngươi nhất định phải táng mạng dưới tay ta. Nếu sợ chết thì cút đi cho sớm, ta sẽ rộng lượng, không đuổi bắt ngươi đâu.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Phải đấy, ba hôm trước, ta thắng ngươi, là nhờ may mắn, nhờ ngươi sơ ý, nhờ ngươi khinh thường, và ta không nên nhân cái may mắn đó mà kiêu hãnh.

Cho nên hôm nay ta đến đây, không với sự kiêu hãnh mà đến.

Chàng có vẻ tự tin cực độ, Tạ Linh Vận trông thấy cũng phải giật mình. Y sửng sốt một phút, sau đó cau mày hỏi:

– Qua khẩu khí của ngươi, ta đoán là trong ba hôm nay, ngươi có tiến bộ quan trọng, có đúng vậy không?

Lạc Tiểu Hồng vội bước tới, gọi Quan Sơn Nguyệt:

– Quan đại ca, ba hôm nay, đại ca đi đâu? Tiểu muội tìm đại ca khắp nơi, khổ sở vô cùng ...

Khổ Hải Từ Hàng cười hì hì:

– Chờ một chút đi, cô nương. Việc hệ trọng sắp sửa khai màn, muốn nói gì hãy đợi lúc hạ màn hãy nói cũng chẳng muộn đâu.

Lạc Hành Quân cấp tốc bước tới, lôi Lạc Tiểu Hồng trở về chỗ cũ.

Tạ Linh Vận trầm ngâm, suy nghĩ, chưa quyết định thái độ. Trước đây ba hôm, y đã thất bại một lần. Đành rằng tài nghệ y có cao, chính y thừa hiểu là Quan Sơn Nguyệt cũng biết như vậy. Đã biết vũ công của y cao mà Quan Sơn Nguyệt còn dám trở lại đây, đối với y hẳn có một sở cậy gì đó. Tạ Linh Vận vốn là tay gian hoạt, thấy rõ điều đó, nên phải đắn đo. Y không thể hành động liều lĩnh, nếu chẳng nắm được cái cơ tất thắng, quyết chẳng khi nào y vọng động.

Phía sau Tạ Linh Vận, Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân điểm một nụ cười gian trá, hỏi:

– Lão phu muốn xuất trận đầu, tôn giả nghĩ sao?

Tạ Linh Vận gật đầu định trả lời, nhưng Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, khoát tay:

– Không thể có việc đó. Chưa phải lúc ngươi xuất hiện mà bất cứ ai cũng thế, chẳng một ai được xuất hiện, trước khi Tạ Linh Vận vào cuộc với ta.

Bốc Thượng Xuân bật cười hăng hắc:

– Tiểu tử ơi! Khoan hợm mình sớm! Dù sao thì ngươi cũng nên xét lại phận ngươi, Tu La Tôn Giả là hạng người như thế nào, lại phải đích thân đối chiến với ngươi? Chỉ có một mình lão phu thôi, lão phu cũng thừa sức thu thập ngươi!

Quan Sơn Nguyệt chưa kịp đáp, Lạc Tiểu Hồng khoa kiếm lướt tới gọi to:

– Quan đại ca để cái lão quỷ đó cho tiểu muội, lão ta là kẻ thù của gia đình tiểu muội, không được làm sứt mẻ gì lão, hãy để nguyên vẹn cho tiểu muội xử trí!

Bốc Thượng Xuân cười vang:

– Hay! Hay! Các nữ nhân trong gia đình ngươi đã biết thủ đoạn của lão phu như thế nào rồi, chỉ còn cô bé, bây giờ cô bé muốn biết thủ đoạn đó, thì lão phu sẵn sàng cho biết.

Hai tiếng quát cùng vang lên, hai bóng người cùng lướt tới, chận trước mặt Bốc Thượng Xuân.

Hai bóng đó, là Lạc Hành Quân và Lạc Tương Quân.

Song phương là những kẻ tử thù, họ nhìn nhau, mắt bốc lửa.

Quan Sơn Nguyệt biết tà công của Bốc Thượng Xuân rất lợi hại, sợ hai bà thất cơ, vội ngăn trở:

– Sự tình do tại hạ ứng phó, xin hai vị lui lại.

Khổ Hải Từ Hàng cũng bảo:

– Huyết La Sát, Bạch Cốt Ma Thần và tiểu cô nương hãy tạm thời lui lại, sự việc hôm nay do Quan công tử giải quyết, chúng ta phải tuân theo sự phân phó của công tử.

Hai bà họ Lạc nắm tay Lạc Tiểu Hồng, kéo nàng về chỗ đứng.

Quan Sơn Nguyệt hướng sang Khổ Hải Từ Hàng, hỏi:

– Đại sư có điều chi chỉ giáo?

Khổ Hải Từ Hàng chấp tay chữ thập:

– A Di Đà Phật! Tùy công tử châm chước hành sự, bần tăng đâu dám tự cho mình cái quyền chủ trì mà đóng vai một người trọng tài? Bất quá con người ấy chỉ là một thỏi sắt, cứng rắn cực độ, mọi lời hay không làm sao cảm hóa y nổi, do đó bần tăng phải bỏ ý niệm đề tỉnh y, để mặc y trầm mình trong biển tội lỗi.

Quan Sơn Nguyệt thừa hiểu cái ngụ ý của nhà sư, chàng day qua Bốc Thượng Xuân, chính sắc mặt, thốt:

– Bốc Thượng Xuân! Đối với gia đình họ Lạc, ngươi đã nhiều lần đắc tội, song nhị vị phu nhân vì từ tâm mà bỏ qua đi cho, ngươi lại chẳng biết ăn năn, tu tỉnh, trái lại càng ngày càng buông lung tính khí, phóng túng ngông cuồng, bắt buộc hôm nay phải mượn ngươi làm vật khai đao, mở một chiến dịch trừ gian diệt ác.

Bốc Thượng Xuân bật cười hắc hắc:

– Tiểu tử! Lời nói của ngươi lớn quá, cái tuổi của ngươi không mang nổi sự khoác lác đó đâu, ta chỉ sợ rồi ngươi phải táng mạng với cái khoác lác của ngươi thôi! Thực ra thì ta cũng chán sống lắm, chán từ lúc ta mở mắt chào đời, song ta tìm mãi cách chết, chẳng có cách nào làm cho ta chết được, thành thử ta miễn cưỡng mà sống, sống đến bạc đầu, có thể là ta sẽ sống mãi mãi. Giả như ngươi có một phương pháp gì giúp ta chết gấp, thì nhất định là về nơi chín suối ta vẫn còn ghi ơn ngươi!

Quan Sơn Nguyệt không hề tức giận, cứ giữ vẽ trang nghiêm, nói:

– Bốc Thượng Xuân! Ngươi cho rằng tà công của ngươi bảo vệ ngươi trọn vẹn, không đao kiếm nào chạm vào mình ngươi được, phải không? Hôm nay, ta làm một cuộc thực nghiệm, cho ngươi thấy, ỷ trượng vào tà công đó mà tự tung tự tác, là ngươi nuôi mộng!

Thiên Tề Ma Quân Kỳ Hạo bật cười ha hả:

– Quan Sơn Nguyệt ơi! Bất cứ lúc nào ta gặp ngươi là y như đều nghe ngươi dùng cái giọng khoác lác muôn thuở! Dù sao thì lão Bốc cũng được liệt danh trên Tiên Bảng, năm xưa từng chịu cuộc khảo nghiệm Lôi Đình Tam Kích, có lẽ nào không đối địch nổi với ngươi qua mấy chiêu sao?

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Đừng nóng, Kỳ Hạo. Rồi ngươi sẽ thấy một sự đáng tiếc cho bọn ngươi ngay!

Chàng bước tới một bước, cao giọng tiếp:

– Bốc Thượng Xuân, nếu ngươi cần có một vũ khí phòng thân, thì cứ lấy ra, ta không muốn ngươi vĩnh viễn ra đi với niềm oán hận.

Bốc Thượng Xuân chớp mắt, lùi lại một bước, chừng như lão có ý khiếp sợ.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười tiếp luôn:

– Ngươi ngán rồi phải không? Cho ngươi biết, mà cũng cảnh cáo luôn Kỳ Hạo, là chỉ với một chiêu thôi, ta sẽ hạ sát ngươi, dễ dàng như chặt một con cá trên thớt!

Bốc Thượng Xuân lại chớp mắt:

– Giả như với một chiêu, ngươi không giết được ta?

Quan Sơn Nguyệt cười lớn:

– Ta sẽ tự cắt đầu, hay tay trao cho ngươi xong, rồi cái xác của ta mới ngã xuống!

Khinh túng quá!

Lời nói đó, chẳng ai dám dùng, đối với bất kỳ ai, huống hồ chàng nói với Bốc Thượng Xuân, một cao thủ từng được Lôi Đình Tam Kích ấn chứng vũ công, từng đứng chung bảng với sư phụ chàng.

Người nào tin tưởng nơi tài năng của chàng, thì thản nhiên như thường, người nào còn nghi ngờ, lại đâm lo. Có một vài người bên cạnh Tạ Linh Vận bĩu môi, lộ vẻ khinh bỉ, họ đinh ninh là chàng dùng thủ đoạn dọa khiếp Bốc Thượng Xuân chứ làm gì chỉ với một chiêu, chàng hạ sát ngay được lão Bốc?

Nhưng, những ai còn hoài nghi tài nghệ chàng, đã bắt đầu lo ngại cho Bốc Thượng Xuân. Bởi, Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cười, vẻ tự tin hiện rõ nơi nụ cười đó, ngoài ra lại còn một vẻ ngụy dị, chính sự ngụy dị đó làm cho Tạ Linh Vận và Kỳ Hạo quan tâm đến cục diện nhiều hơn.

Họ nhận thấy, chàng có ỷ trượng vào một cái gì, và thần thái của chàng nói lên một sự tin tưởng nắm chắc cái cơ tất thắng rõ rệt. Họ tự nghĩ, rất có thể với một chiêu, chàng giết được Bốc Thượng Xuân, dù họ cũng tin rằng Bốc Thượng Xuân là tay có tài.

Cục trường im lặng, tiếng muỗi bay qua cũng nghe được.

Bất quá, có những tiếng cách cách nhỏ vang lên, do Bốc Thượng Xuân vận công, chuyển khí.

Cái lối vận công chuyển khí của lão, kỳ quái vô cùng, mường tượng trong những lúc đó, thì xương cốt của lão gãy, vở, trở thành trăm đoạn, trăm mảnh.

Tạo xong lớp tà khí hộ thể, vận tụ «Xuân Dương Chỉ Lực» nơi tay, đúng mười thành, Bốc Thượng Xuân từ từ bước tới.

Quan Sơn Nguyệt ung dung như kẻ thừa nhàn, chắp tay sau lưng, nhìn lão, điểm nhẹ một nụ cười, hỏi:

– Ngươi không dùng vũ khí?

Bốc Thượng Xuân lắc đầu:

– Bình sanh ta không hề cần đến một món vũ khí nào, nhưng ta chấp đối thủ vũ trang bằng mọi loại.

Thốt xong, lão vươn bàn tay, năm ngón sè ra, chụp tới. Cái đích của năm ngón tay, là bốn đại huyệt nơi phần ngực của địch.

Quan Sơn Nguyệt thừa hiểu «Xuân Dương Chỉ Pháp» của lão rất lợi hại, không kể cái công lực của chỉ pháp, chỉ nói về tà thuật thôi, cũng đủ làm cho đối phương khiếp vía. Tà thuật do chỉ pháp Xuân Dương phát huy, làm cho tâm thần địch tán loạn, đấu chí tiêu tan, biến con người thờ thẫn để cuối cùng thừ ra đó, như sẵn sàng nạp mạng, chờ lão hạ thủ.

Tuy chàng có uống thứ thuốc trừ mê là «Băng Xạ Toàn Mạng Tán», song lần này khác hơn những lần trước, Bốc Thượng Xuân chẳng những phát huy tà thuật, mà lão lại còn dụng lực, chỉ pháp vút đi rất mãnh liệt. Chính cái lực đạo đó làm cho Quan Sơn Nguyệt phải thận trọng, chứ tà thuật đối với chàng chẳng có nghĩa lý gì cả.

Lập tức, chàng tránh qua một bên, đồng thời gian, chàng rút kiếm, khoa lên, liền theo đó, đút kiếm vào vỏ trở lại.

Rút kiếm ra, khoa kiếm lên, tra kiếm vào, đúng là chàng làm ba động tác, song chẳng ai thấy chàng làm như thế nào cả. Thủ pháp của chàng nhanh hơn nháy mắt!

Đoạn chàng lùi lại.

Bốc Thượng Xuân chồm chồm tới trước mấy bước, rồi dừng chân, đứng cứng tại chỗ, hai tay còn đưa ra, lão giữ cái tư thế đó như vậy qua một phút, mặc dù đối phương đã ra ngoài vòng chiến rồi.

Chẳng ai biết lão làm gì mà cứ dang tay ra như vậy mãi.

Trong khi đó, Quan Sơn Nguyệt ung dung lùi lại, khi đến gần bọn Lý Trại Hồng, chàng mới dừng chân.

Tại cục trường, phần đông chẳng ai biết là cục diện diễn tiến làm sao cả, họ chẳng biết thực sự song phương đã giao thủ hay chưa, và bên nào thắng, bên nào bại. Chỉ có một vài cao thủ thượng thặng nhận thấy rõ ràng mà thôi.

Những cao thủ đó, một bên là Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm, bên kia là Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo. Tất cả bốn người cùng kêu lên kinh khiếp.

Bốn tiếng kêu cùng vang lên, cả bốn người cùng im bặt. Toàn thể những người hiện diện cũng im bặt.

Cục trường trầm tịch nặng nề.

Mãi một lúc lâu sau, Tạ Linh Vận trầm giọng, hỏi:

– Ngươi dùng vũ khí chi đó?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Vũ khí gì, đáng lý ra ngươi phải hiểu, còn hỏi làm chi?

Tạ Linh Vận biến sắc, trầm ngâm một chút, y thốt:

– Thảo nào mà ngươi chẳng diệu võ dương oai. Tuy nhiên, dù ngươi có thanh kiếm đó, đã chắc gì ta phải nao núng?

Quan Sơn Nguyệt vẫn điềm nhiên:

– Nao núng hay không, là việc của ngươi, ta cần biết làm gì? Có điều ta khuyên ngươi, nên suy nghĩ, trước khi dứt khoát thái độ.

Tạ Linh Vận gọi Tây Môn Vô Diệm đến gần, cả hai châu đầu vào nhau, thì thầm bàn luận.

Đúng lúc đó, chiếc đầu của Bốc Thượng Xuân bị tung bổng lên, máu từ cổ phun ra thành vòi. Chính vòi máu vọt ra, bắn chiếc đầu lão lên cao.

Đầu bay, máu vọt, thân hình lão chao chao, rồi ngã xuống.

Sự kiện đó, gieo kinh khiếp nơi lòng mọi người. Ai ai cũng biết là Bốc Thượng Xuân luyện thứ tà công, ngăn trở đao kiếm chẳng chạm vào mình. Từ bao lâu nay, lão nổi tiếng là con người bất khả xâm phạm, một con người chẳng ai giết chết được. Thế mà bây giờ, lão bị chặt đầu, và Quan Sơn Nguyệt giữ đúng lời hứa, chỉ xuất phát một chiêu thôi!

Chàng dùng chiêu thức gì? Và vũ khí của chàng là gì?

Người của song phương sững sờ, trên gương mặt của họ, niềm sợ hãi hiện rõ. Bốc Thượng Xuân còn phải chết dưới tay chàng, thì còn ai chống đối nổi chàng?

Lạc Hành Quân và Lạc Tương Quân đột nhiên bước tới, quỳ xuống trước mặt Quan Sơn Nguyệt, vập đầu vừa lạy vừa thốt:

– Thù chồng canh cánh bên mình từ nhiều năm qua không có dịp báo phục, bây giờ công tử đã làm cái việc bọn già dự định từ lâu, cái ơn công tử rất trọng ...

Quan Sơn Nguyệt vội đưa tay nâng hai bà đứng lên, rồi nói:

– Việc đó có chi xứng đáng đâu, mà hai vị phải quá hạ mình?

Lý Trại Hồng trừng mắt nhìn Lạc Hành Quân và Lạc Tương Quân.

Hai bà kinh hãi, không dám nói gì nữa, lùi lại sau đứng vào vị trí cũ.

Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng, hỏi Quan Sơn Nguyệt:

– Công tử dùng Bạch Hồng Kiếm?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu.

Thanh kiếm Bạch Hồng, do Lý Trại Hồng cất giữ, thanh kiếm đó đã mất, bây giờ Quan Sơn Nguyệt lại sử dụng kiếm, mà cũng là thanh Bạch Hồng, tự nhiên Lý Trại Hồng phải ngờ, phải phẫn nộ. Nàng biết sắc mặt liền.

Quan Sơn Nguyệt biết ngay nàng đang có ý nghĩ gì, vội thốt:

– Thanh kiếm của tiên tử khác, còn thanh kiếm của tại hạ khác, chính là hai vật chứ chẳng phải một đâu. Thanh kiếm của tại hạ, do một người tặng ...

Lý Trại Hồng bĩu môi:

– Ai?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Ôn Kiều lão tiền bối!

Lý Trại Hồng suýt nhảy dựng lên:

– Công tử nói gì? Sư nương của tôi còn sống?

Liễu Y Ảo cũng giương tròn mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt.

Chàng từ từ thốt:

– Ôn lão tiền bối ẩn cư trong vùng phụ cận. Và sư phụ của tại hạ cùng Lâm tiên tử có mặt bên cạnh Ôn lão tiền bối.

Lý Trại Hồng sững sờ. Lâu lắm, nàng rít qua căm hờn:

– Tốt quá! Họ ở sát nơi đây, mà họ vẫn thản nhiên được, họ khoanh tay nhìn thiên hạ khinh miệt sư muội của họ, người đồng bảng của họ!

Quan Sơn Nguyệt vội biện hộ cho Lâm Hương Đình và Độc Cô Minh:

– Tiên tử đừng lầm hảo ý của họ. Chẳng khi nào họ quên nhị vị đâu. Trong cái hôm đại hội Long Hoa, họ có mặt bên cạnh các vị, có điều họ không xuất hiện chân tướng thôi. Họ cũng không biết là thanh kiếm Bạch Hồng hạ lạc nơi nào. Họ nấp bên ngoài đại hội, theo dõi diễn tiến tại hội trường, và họ định, nếu bắt buộc, họ phải miễn cưỡng dùng thanh kiếm giả, bức bách bọn Tạ Linh Vận phải nhượng bộ các vị. Sau đó, họ thấy tại hạ xuất hiện, đương đầu với Tạ Linh Vận, dùng kế xảo, đánh bại y, họ thấy không cần thiết phải chường mặt tại hội trường. Chỉ sau ngày đại hội, họ mới biết là thanh kiếm thật do Ôn lão tiền bối cất giữ.

Chàng nhấn mạnh:

– Nhị vị đừng cho rằng Lâm tiên tử và gia sư quên các vị! Điều đó thì tại hạ dám bảo chứng.

Lý Trại Hồng cười lạnh:

– Công tử đừng nói tốt cho họ, vô ích. Tôi biết, trong khung cảnh của họ hiện tại, chẳng bao giờ họ nhớ đến bọn này. Chẳng phải tôi ganh tỵ gì họ, bởi tôi hiểu rằng con người ai ai cũng có cái số, và số của người này không thể giống số của người kia, may thì tao ngộ đẹp, không may thì tao ngộ u buồn vậy thôi!

Dừng lại một chút, nàng trầm giọng, tiếp:

– Mà thôi, bỏ qua việc đó đi, công tử! Hiện tại công tử hãy cho tôi biết điều này ...

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Điều chi, Tiên tử?

Lý Trại Hồng nhìn vào ánh mắt chàng, hỏi:

– Công tử liệu có thể thắng nổi Tạ Linh Vận chăng, dù công tử đang thủ thanh kiếm Bạch Hồng?

Quan Sơn Nguyệt thành thực đáp:

– Tại hạ có biết qua hai kiếm pháp «Tu La Tứ Thức» và «Đại La Thất Thức».

Nhưng thời gian cấp bách quá, tại hạ không tập luyện thuần thục đúng như ý muốn, do đó tại hạ sợ rằng mình chưa đạt đến mức hỏa hầu ...

Chàng dừng lại một chút, đoạn trầm giọng, tiếp:

– Cho nên, trong cuộc chiến hôm nay, tại hạ không dám quả quyết là mình có nắm được cái cơ tất thắng hay không.

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Công tử dè dặt như vậy là phải lắm. Tuy nhiên, nếu bọn Tạ Linh Vận quyết sanh sự, thì công tử cứ tận dụng sức mình, giả như lúc đối địch có điều chi bất cập, thì bên ngoài, đã có bọn tôi, sẵn sàng ứng tiếp. Công tử vững tâm chống địch, đừng để đấu chí phân hóa mà có hại.

Quan Sơn Nguyệt phấn khởi tinh thần, thốt:

– Có các vị ở bên ngoài giám thị, thì nhất định là hôm nay chúng ta phải đánh bại bọn Tạ Linh Vận.

Chàng lại dừng, rồi thấp giọng một chút, tiếp luôn:

– Lâm Tiên Tử từng dặn dò tại hạ, không nên nói sự thật bởi sợ các vị hiểu lầm ...

Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:

– Lâm sư tỷ đã bảo thế, sao công tử vẫn nói sự thật cho bọn tôi nghe?

Quan Sơn Nguyệt chính sắc mặt:

– Chỉ vì, tại hạ không có tánh quen nói dối, huống chi, tại hạ nghĩ rằng chẳng có lý do gì khiến tại hạ phải giấu giếm các vị.

Lý Trại Hồng cảm động, nói:

– Đa tạ công tử có hảo ý đối với bọn nầy. Đại sư tỷ tuy là bạn đồng môn, sống chung qua nhiều năm qua với bọn tôi, vậy mà chẳng có một thái độ đậm đà, cư xử thành thật như công tử! Đáp lại thịnh tình của công tử, tôi có thể làm bất cứ việc gì, dù phải hy sinh táng mạng đó, công tử.

Quan Sơn Nguyệt vốn giàu nhiệt huyết, những lời thành khẩn rất dễ làm cho chàng khích động, nghe Lý Trại Hồng nói thế, chàng cảm thấy mắt cay, mũi nhột.

Nhưng, chàng không còn thời gian biểu hiện một ý niềm nào để đáp lại tiếng nói chí tình của Lý Trại Hồng, bởi bên cánh đối lập, Tạ Linh Vận đã bắt đầu hoạt động.

Chàng lập tức chuẩn bị tinh thần, chực chờ ứng phó.

Lý Trại Hồng cười nhẹ:

– Công tử không cần phải khẩn trương, tôi chắc chắn là Tạ Linh Vận chẳng dám tự mình xuất trận đối đầu đâu. Nếu y dám liều như vậy, thì đâu còn là một tay đại gian, đại trá!

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Y không dám xuất trận đối địch, chẳng lẽ y có một mưu mô gì khác?

Lý Trại Hồng mỉm cười:

– Y có mưu mô gì, mặc y, chúng ta không nên lo. Dù cho y và bọn Tây Môn Vô Diệm, Tây Nhạc Ma Thần và Bắc Mang Quỷ Sứ có cùng xuất thủ đồng loạt, chúng cũng chẳng chống nổi thanh kiếm Bạch Hồng của công tử đâu.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Tại hạ không sợ chúng liên thủ, bởi bên cánh chúng ta, chẳng phải thiếu người tài giỏi, đừng nói chi đến những người khác, chỉ cần Tiên tử, Liễu Tiên Tử, Nhàn Du Nhất u, Khổ Hải Từ Hàng hiệp lực thôi, chúng cũng khó thủ thắng rồi!

Lý Trại Hồng thốt:

– Nhưng, như tôi đã nói, Tạ Linh Vận vốn là tay gian trá, chẳng khi nào y dại dột xuất trận ồ ạt làm một cuộc liều lĩnh như vậy. Y muốn làm gì cũng suy nghĩ chín chắn, có nắm được cái cơ tất thắng, y mới làm. Có thể là y sẽ gọi đến kẻ nào đó, khiêu chiến công tử.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Đến y mà tại hạ còn không ngán, thì một kẻ nào khác có nghĩa gì đối với tại hạ chứ!

Lý Trại Hồng lắc đầu:

– Kẻ đó không giống Bốc Thượng Xuân đâu, công tử đừng nên khinh thường. Huống chi, y sẽ kêu gọi đến nhiều người, và mỗi người có thể cầm cự với công tử ít nhất cũng ba mươi chiêu, dù công tử có thắng tất cả, qua cuộc chiến xa luân đó, công tử phải tiêu hao chân lực, đến lúc đó thì chính Tạ Linh Vận mới xuất trận, lấy cái khỏe chống lại cái mệt của công tử.

Quan Sơn Nguyệt thoáng giật mình.

Lý Trại Hồng lại tiếp:

– Thanh kiếm Bạch Hồng đành là có uy lực phi thường, song khi công tử quá lao nhọc, chân khí không còn dồi dào nữa, khí thế phát huy sẽ kém giảm công hiệu.

Liễu Y Ảo chen vào:

– Chẳng quan hệ, sư tỷ ạ! Nếu có kẻ nào khác, ngoài Tạ Linh Vận, xuất chiến, thì chúng ta đừng để Quan công tử ứng phó, chúng ta sẽ thay phiên nhau, mỗi người chận một địch nhân. Như vậy, Quan công tử vẫn giữ được chân lực nguyên vẹn, chờ đối phó với Tạ Linh Vận.

Lý Trại Hồng cười nhẹ:

– Sư muội nghĩ được như vậy, đương nhiên Tạ Linh Vận cũng nghĩ được như sư muội. Mình lo ngại là cái lý do của Tạ Linh Vận đưa ra, với lý do đó, chỉ có mỗi một mình Quan công tử xuất chiêu thôi, chẳng một ai khác thay thế được. Ngu thơ dám quả quyết là y sẽ nại ra một cái cớ gì đó, và vì danh dự mà Quan công tử chẳng thể khước từ.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm suy tư về lời nói của Lý Trại Hồng.

Bên kia, Thiên Tề Ma Quân Kỳ Hạo hú vọng một tiếng dài, từ phía sau lưng hắn, một con lạc đà lông đen bước tới, trên lưng lạc đà có ngọn trường mâu bằng kim cương.

Kỳ Hạo nhảy lên lưng lạc đà, chụp ngọn trường mâu, khoa một vòng, hét lớn:

– Quan Sơn Nguyệt! Hãy ra đây, đối địch với ta! Hôm nay, là ngày thanh toán vấn đề giữa Phi Đà Lịnh và Minh Đà Lịnh.

Đúng như lời Lý Trại Hồng vừa nói. Với lý do khiêu chiến đó, còn ai thay thế Quan Sơn Nguyệt đối địch với Kỳ Hạo được chăng?

Lý Trại Hồng mỉm cười, nhìn Liễu Y Ảo, nhìn Quan Sơn Nguyệt, thốt:

– Thấy chưa? Tôi nói có sai đâu? Thử hỏi, ai có tư cách đối phó với Kỳ Hạo, nếu không là Quan công tử? Như thế nầy, đấu pháp xa luân khó tránh được rồi đó!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút, bổng chàng hú vọng lên một tiếng.

Minh Đà từ xa cất vó chạy tới, trên lưng nó, có chiếc Độc Cước Kim Thần.

Quan Sơn Nguyệt chụp chiếc kim thần, nhảy lên mình Minh Đà, bật cười ha hả:

– Phải đó, ta nên nhân dịp nầy, dứt khoát những gì còn đọng lại giữa chúng ta, Kỳ Hạo ạ!

Kỳ Hạo hấp tấp thốt:

– Không! Ta không muốn ngươi dùng vũ nào khác, ta chỉ mong được lãnh giáo kiếm pháp của ngươi thôi!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Minh Đà Lịnh thành danh trên giang hồ, toàn bằng một Minh Đà và Kim Thần, thì chẳng có lý do gì ta rời hai vật đó, khi cần phải bảo vệ Minh Đà Lịnh, thanh kiếm của ta, dù có sắc bén, song chẳng phải là vật dành đối phó với ngươi.

Kỳ Hạo không còn bắt bẻ gì được nữa, đành cắn răng, giục hắc đà lướt tới.

Hắn vung tay, phóng ngọn trường mâu sang địch.

Quan Sơn Nguyệt lập tức quét kim thần, đón chận.

Một tiếng chạm vang lên, song phương cùng bị chấn động.

Quan Sơn Nguyệt thầm kinh hãi, không tưởng là Kỳ Hạo có công lực thâm hậu như vậy. Nhưng, chàng đâu chịu kém? Liền theo đó, chàng lấy lại tinh thần, vung mạnh kim thần, đánh luôn trọn mười tám chiêu tuyệt học. Khí thế của chàng ào ào, như cuồng phong như bão tố, cuốn đi mạnh không tưởng nổi.

Kỳ Hạo không nao núng, điểm phớt một nụ cười, tuy Quan Sơn Nguyệt không sử dụng kiếm, hắn có phần nào thất vọng, nhưng chẳng vì thế mà hắn sút giảm phần dũng mãnh, hắn vũ lộng trường mâu, ngang nhiên nghinh chiến.

Quan Sơn Nguyệt đánh đủ mười tám chiêu Kim Thần, song chẳng làm sao áp đảo đường mâu lợi hại của Kỳ Hạo. Tự nhiên chàng phải kinh dị phi thường.

Càng kinh dị, chàng càng khẩn cấp. Tại cục trường, nào phải chỉ có mỗi một mình Kỳ Hạo đâu, nếu không hạ hắn gấp, thì cuộc đấu kéo dài, chàng sẽ tiêu hao chân lực, còn sức đâu nữa mà giao đấu với những kẻ khác, mà kẻ cuối cùng chắc chắn là Tạ Linh Vận và lúc cuối cùng là lúc chàng kiệt quệ?

Chàng hét lên một tiếng lớn, vung Kim Thần vùn vụt.

Một tiếng chạm vang lên, kim thần đánh gãy trường mâu, nhưng kim thần cũng vuột tay của Quan Sơn Nguyệt bay đi.

Gãy mâu, Kỳ Hạo phải hãi hùng, song nhìn thấy Quan Sơn Nguyệt tay không, hắn trấn định tâm thần ngay, điểm nụ cười lạnh. Chuôi mâu, hắn còn nắm giữ, đoạn mâu gãy, hắn nhanh tay chụp, rồi dùng cả hai đoạn công tới.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 31

Đường Gươm Vô Địch

Quan Sơn Nguyệt đã sai lầm trong một dự tính mà thành ra phải lâm vào cảnh chí nguy.

Chàng định vận dụng toàn lực bình sanh vung chiếc kim thân độc cước đánh bay ngọn trường mâu của Kỳ Hạo. Thân vóc của chàng cường tráng, giả dĩ công lực hùng hậu so với Kỳ Hạo, chàng thấy mình phải có khí lực hơn nhiều. Ngờ đâu Kỳ Hạo tuy nhỏ vóc hơn song công lực của hắn vẫn hùng hậu chẳng kém. Tuy chàng đánh gãy ngọn trường mâu, ngược lại chiếc kim thân cũng phải vuột tay bay đi.

Để bây giờ Kỳ Hạo dùng hai đoạn mâu đó, một đâm một đập, cả hai đoạn cùng vút đi, đương nhiên phải nhanh. Chàng làm sao trước thế công của địch?

Trong khi tay chàng chẳng có tấc sắc nào?

Những người đặt kỳ vọng nơi chàng dù còn tin tưởng nơi chàng cũng phải rợn mình.

Đành rằng hai đoạn mâu đó của Kỳ Hạo không thể làm cho Quan Sơn Nguyệt phải chết, nhưng sự tình nào phải chỉ dừng lại ở một Kỳ Hạo mà thôi? Kỳ Hạo bất quá là một tên tướng xung trận lót đường do vị chủ soái phát xuất để đo lường công lực địch, để làm giảm bớt công lực địch, khởi đầu cho một cuộc chiến xa luân.

Thế mà chàng không thắng được thì còn mong gì giao thủ với vị chủ soái của cánh đối lập? Nhất là lúc đó thì chàng kiệt quệ lắm rồi qua cuộc chiến xa luân.

Nếu chàng không thắng nổi Kỳ Hạo, và thắng nhanh chóng thì cục diện hôm nay sẽ kết thúc với cái thảm bại của bọn Lý Trại Hồng, và cái thảm bại đó sẽ tạo thành sự diệt vong của toàn thể đồng đạo.

Bên ngoài, phe của chàng lo ngại như thế.

Bên trong cuộc chiến, chàng cũng lo ngại như thế. Chàng tự hỏi làm cách nào dùng tay không đối phó với Kỳ Hạo! Chẳng lẽ chàng rút thanh kiếm bên mình ra?

Thanh kiếm đó chỉ dành để đối phó duy nhất với một Tạ Linh Vận thôi.

Kiếm pháp Đại La chỉ có bảy chiêu, nếu mang ra dùng một chiêu, hạ được Kỳ Hạo rồi thì chỉ còn lại sáu chiêu, như vậy vô hình trung Tạ Linh Vận có lợi, chàng tạo cái lợi đó cho Tạ Linh Vận. Bởi y đã thấy kiếm rồi thì chàng còn đánh bất ngờ làm sao được nữa? Tạ Linh Vận sẽ nghĩ ra phương pháp hóa giải chiêu kiếm. Còn sáu chiêu sao bằng còn đủ cả bảy chiêu?

Trong khi chàng đắn đo thì Kỳ Hạo không để mất một phút giây nào. Hắn vung tay, đoạn mâu nhọn đâm, đoạn mâu tà đầu một đâm ngang một từ trên đập xuống, cả hai đoạn mâu chỉ còn cách Quan Sơn Nguyệt độ tấc.

Cho đến bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới nghĩ ra cách hóa giải thế công của địch mà chẳng cần dùng đến thanh kiếm Bạch Hồng.

Ép hai gối vào hông lạc đà, kẻ nhún mình, chàng lấy đà vọt thẳng lên cao đồng thời dựng đứng một bàn chân dùng mũi giày đá vào đầu đoạn mâu dưới.

Đoạn mâu đó bị hất mạnh lên, trong khi đoạn mâu đập mạnh xuống. Hai đoạn chạm vào nhau, một tiếng «bốp» vang lên, lửa bắn tung tóe.

Mâu của hắn chạm vào mâu, cũng của hắn luôn, ngọn trên do công lực của hắn giáng xuống, ngọn dưới do công lực của Quan Sơn Nguyệt hất lên, hai kình lực chạm mạnh, Kỳ Hạo không tài nào kềm vững hai vũ khí bất thường đó. Hai đoạn mâu bay đi, hổ khẩu tay của hắn tê buốt.

Hóa giải xong thế công của địch, Quan Sơn Nguyệt dùng «Thiên cân trụy» đáp xuống lưng lạc đà, bật cười ha hả, buông giọng ngạo nghễ khích Kỳ Hạo:

– Bình sanh ta chưa từng thấy một người tự dùng vũ khí của chính mình kích lại mình, hóa giải một vũ khí khác của mình! Đấu pháp đó nghĩ cũng ngoạn mục đó. Nếu ta sớm biết như vậy thì ta có cần xuất trận làm gì, cứ để một mình ngươi tự giao đấu với ngươi, xem cho vui!

Đã đánh hụt địch, lại mất vũ khí, ngoài ra còn bị ê ẩm cả hai tay, dù ai ở trong trường hợp Kỳ Hạo cũng phải thẹn, phải tức, phải hận mà lồng lên hét la vang dội. Nhưng Kỳ Hạo giữ bình tĩnh như thường.

Nhìn hổ khẩu tay rướm máu, máu từ từ rịn thành giọt rơi xuống, hắn lạnh lùng thốt:

– Đừng dùng xảo ngôn mà che dấu một sự thất thế, cái bại sẽ đến với ngươi trong phút giây đây thôi. Họ Quan kia! Hôm nay ngươi không hy vọng gì thoát khỏi tay ta đâu.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Ngươi muốn kết thúc cuộc đấu gấp? Dù ngươi không muốn, chính ta đây cần phải hạ sát ngươi ngay, tuy nhiên, giao đấu tay không thì chẳng có thú vị gì, mà cho ngươi nhặt cái thứ vũ khí vô dụng kia thì hai tay ngươi thọ thương cũng trở thành vô dụng nốt, như vậy làm gì ngươi chiếm được tiện nghi mà hăm dọa ta?

Kỳ Hạo bĩu môi:

– Thế ngươi muốn chúng ta phải giao đấu như thế nào? Về phần ta, nhất định là ta không nhặt hai đoạn mâu đó rồi, mà ta cũng quyết dứt khoát hôm nay trường hợp của Phi Đà Lịnh và Minh Đà Lịnh. Vậy ngươi đưa ra một đề nghị đi.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Giả như ta nhặt chiếc Độc Cước Kim Thân, thế ngươi có dùng tay không mà đối phó chăng?

Kỳ Hạo đáp:

– Trước hết ta cho ngươi biết là chẳng bao giờ ta xuống lưng lạc đà, thì không thể có việc nhặt hai đoạn mâu đó dùng làm vũ khí. Ta đã nói với ngươi cuộc đấu hôm nay phải kết thúc minh bạch với sự mất một bên, còn một bên, và chỉ khi nào ta bị ngươi đánh rơi xuống lưng lạc đà thì ta mới bằng lòng thủ tiêu Phi Đà Lịnh. Còn như ta có giao đấu với ngươi bằng tay không hay bằng một vũ khí nào thì ngươi cứ nhìn nơi lưng ta đây, sẽ rõ.

Nơi đó có chuôi kiếm ló khỏi đầu vai.

Đúng lúc Quan Sơn Nguyệt nhìn sang thì Kỳ Hạo cũng vừa hoành tay chụp chuôi kiếm rút ra khỏi vỏ.

Thanh kiếm sáng lạ lùng, những tia chớp do sự phản chiếu của dương quang làm hoa mắt của số người đứng về phía thuận.

Hắn dùng đến kiếm, hiển nhiên là hắn định bức Quan Sơn Nguyệt phải dùng kiếm đối phó.

Suy nghĩ một chút, chàng thúc lạc đà tiến về phía chiếc Kim Thân rơi, cúi mình xuống nhặt nó cầm tay, đoạn quay lạc đà trở lại đối diện với Kỳ Hạo, thốt:

– Được rồi, ngươi muốn kết thúc trường hợp của chúng ta thì cứ xuất thủ.

Kỳ Hạo không tưởng là Quan Sơn Nguyệt có thể hành động như vậy, trố mắt nhìn chàng một chút, đoạn hỏi:

– Da mặt của ngươi dày đến độ chẳng biết thẹn à?

Quan Sơn Nguyệt thản nhiên điểm một nụ cười:

– Hôm nay là hai đà lịnh tranh chấp với nhau, Minh Đà chống với Phi Đà, mà Minh Đà Lịnh thành danh trên chốn giang hồ toàn bằng chiếc Kim Thân, thì trong bất cứ trường hợp nào cần bảo trì danh dự Minh Đà, ta cũng phải dùng đến Kim Thân. Điều đó rất hợp đạo lý, có chi khiến ta phải hổ thẹn?

Kỳ Hạo sững sờ. Hắn không tưởng Quan Sơn Nguyệt còn dùng đến Kim Thân nữa nên hắn dùng kiếm. Bây giờ Quan Sơn Nguyệt nêu một lý do chính đáng, với lý do đó chàng nhặt Kim Thân mà dùng, chẳng hề sợ ai chỉ trích. Như vậy là hắn chưa đánh đã thấy thất thế rồi, bởi kiếm là vật nhẹ, Kim Thân là vật nặng, kiếm làm sao chống đỡ nổi Kim Thân?

Kiếm hữu dụng là khi nào địch kém thế hoặc địch cũng dùng kiếm, chứ địch là kẻ đồng tài, trên tài, thì hắn mong gì thủ thắng khi địch có ưu thế với một vũ khí nặng cân hơn?

Phía sau Kỳ Hạo, Tạ Linh Vận cười lạnh gọi hắn:

– Kỳ Hạo! Trở vào đây. Nếu Minh Đà Lịnh thành danh nhờ thủ đoạn đó thì ngươi chưa phải là địch thủ của đối phương, ngươi không thể tiếp tục cuộc tranh chấp.

Giọng nói đã mỉa mai, chua chát, lời nói lại bén nhọn, ai nghe cũng phải khó chịu vô cùng, huống hồ kẻ đương cuộc là Kỳ Hạo.

Nhưng hắn làm sao cãi lịnh Tạ Linh Vận được? Hắn lấy chiếc Minh Đà Lịnh trong mình ra, chiếc Minh Đà Lịnh mà Quan Sơn Nguyệt đã trao cho hắn trước kia để ước hội ngày giao đấu, hắn nhổ ra một bãi nước bọt trên mặt chiếc lịnh bài đoạn ghim nó vào mũi kiếm, hắn đưa kiếm tới bảo Quan Sơn Nguyệt:

– Hoàn lại ngươi đó. Cái vật làm cho Minh Đà Lịnh Chủ quang vinh trên giang hồ thì Lịnh Chủ của nó cất giữ mà làm bảo vật!

Thu chiếc lịnh bài rồi, Quan Sơn Nguyệt vô cùng phẫn nộ trước thái độ miệt thị của Kỳ Hạo. Cử chỉ của Kỳ Hạo lăng nhục chàng rõ rệt, người ngoài trong thấy cũng phải tức uất thay chàng.

Nhưng trong trường hợp này, chàng giữ bình tĩnh hơn là cứ mỗi việc bất bình là một phát tác. Bởi sau Kỳ Hạo còn có những người khác sẽ ra trận thực hiện chiến pháp xa luân, để cuối cùng Tạ Linh Vận xuất hiện lấy khỏe đánh mệt.

Chàng có ngu dại gì phí phạm sức khỏe, lại giận dữ cho mất tinh thần.

Thản nhiên, chàng lau mặt chiếc lịnh bài vào vạt áo cho sạch nước bọt của Kỳ Hạo rồi cất nó vào mình. Đoạn chàng nhẹ buông tiếng thở dài, thốt:

– Tạ Linh Vận! Dù cho ngươi dùng trăm mưu ngàn kế, nhất định là ta không mó đến thanh kiếm Bạch Hồng, bởi nó là vật dành cho ngươi, chỉ khi nào ngươi xuất trận thì nó mới ra khỏi vỏ.

Tạ Linh Vận thoáng giật mình. Nếu Quan Sơn Nguyệt giữ đúng lời nói thì cái mưu đồ của y cầm như bị hủy diệt ngay từ trong trứng. Tuy nhiên y chưa tin là chàng thừa bản lĩnh đối phó với một chuỗi người do y sắp xếp mà chẳng cần sử dụng đến thanh kiếm đó. Y đưa mắt qua một bên ngầm ra hiệu.

Một người vận y phục đen, mặt bao kín, bước ra cục trường, sau đó cất giọng khàn khàn gọi Quan Sơn Nguyệt:

– Tiểu tử họ Quan! Nếu ta khiêu chiến với ngươi thì ngươi sẽ đối phó với ta bằng phương pháp nào?

Quan Sơn Nguyệt nhìn qua con người đó, lạnh lùng đáp:

– Ta cự tuyệt! Không khi nào ta chấp nhận giao thủ với ngươi.

Người đó là Bắc Mang Quỷ Sứ, lại bật cười khàn khàn:

– Không ngờ Hoàng Hạc Tán Nhân lại thu nạp một tên vô dụng!

Hắn khích tướng, song Quan Sơn Nguyệt không nao núng. Chàng cười lạnh đáp:

– Ngươi cho rằng ta khiếp sợ không dám nhận lời giao đấu với ngươi?

Bắc Man Quỷ Sứ «hừ» một tiếng:

– Thế cái thái độ của ngươi còn có một giải thích khác hơn à?

Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:

– Ngươi bất quá chỉ là một gã đứng đầu Quỷ Bảng, địa vị của ngươi còn thấp kém dưới xa Thiên Tề Ma Quân, Kỳ Hạo đã không làm gì ta nổi, liệu ngươi có tài năng gì mà ta phải khiếp sợ? Ta nghĩ trước khi nói câu như vậy, ngươi nên biết thẹn và nếu biết thẹn thì câm miệng là hơn!

Bắc Mang Quỷ Sứ nổi giận:

– Nhưng ngươi cự tuyệt vì lý do gì?

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Ta nói ngươi đứng đầu Bảng là nói tâng ngươi đó thôi, bất quá Kỳ Hạo cho ngươi điều khiển một ban nào đó trong Bảng, không hơn không kém. Ngươi đừng tưởng qua sự chọn lựa của Kỳ Hạo, lại cho mình là siêu việt, tài năng hoặc ngang hoặc trên Kỳ Hạo. Rồi ngươi hợm mình mà đòi giao đấu với người đã thắng lãnh tụ của ngươi! Ngươi hỏi lý do? Cái lý do rất đơn giản. Lý do đó là vấn đề thân phận. Ta là người thừa kế gia sư, trong Long Hoa Hội gia sư ta có thân phận gì là ta có thân phận đó. Ngươi không xứng đáng đối trận với ta.

Bắc Mang Quỷ Sứ càng sôi giận, hét to:

– Long Hoa Hội là cái quái gì? Long Hoa Hội đã giải tán rồi, ngươi còn dựa vào nó mà xưng thân phận à?

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Cũng có lý. Nhưng ta đường đường chánh chánh như thế này lại đi động thủ với kẻ chẳng dám để lộ mặt mày với người đời hay sao? Ngươi cũng biết chứ, chỉ có những tên đê tiện mới giấu mặt thật, ta đâu có thể giao đấu với kẻ đê tiện?

Bắc Mang Quỷ Sứ sôi giận cực độ. Hắn hét lên một tiếng, nhảy vọt tới, đồng thời vươn cả hai ta xòe đủ mười ngón tay trắng nhợt chụp vào mặt Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt bĩu môi khinh thường.

Chàng không cần làm một cử động nào cả, nhưng Minh Đà là linh thú, tự nó đối phó với địch thay chàng.

Nó không xuất thủ mà lại xuất cước, nó không đá địch nhân, chỉ nhảy qua một bên tránh cái chụp của Bắc Mang Quỷ Sứ.

Chụp hụt địch, khi nào Bắc Mang Quỷ Sứ bỏ cuộc? Hắn xoay mình nhào theo luôn.

Nhưng một bóng người xám xám đã lướt tới chận đường hắn. Bóng đó là Khổ Hải Từ Hàng. Lão ung dung thốt:

– Quan công tử không muốn giao đấu với ngươi, thì ngươi hãy trở về chỗ cũ.

Bắc Mang Quỷ Sứ nổi giận:

– Lão trọc có cút đi nơi khác hay không thì bảo? Cho ngươi biết, nơi đây không ai cần sự có mặt của ngươi.

Khổ Hải Từ Hàng chính sắc:

– Nếu ngươi phóng túng hung hăng, bần tăng sẽ can thiệp, đó là lẽ tự nhiên, ngươi cần động thủ, bần tăng sẵn sàng hầu tiếp ngươi.

Bắc Mang Quỷ Sứ chợt đổi giọng:

– Việc của ta với Quan tiểu tử, lão trọc cứ để song phương giải quyết với nhau, đừng can thiệp làm gì. Ngươi không được chen vào, ta nói rõ cho ngươi biết như vậy đó.

Khổ Hải Từ Hàng trầm gương mặt:

– Tại sao?

Bỗng Bắc Mang Quỷ Sứ đưa tay giật chiếc khăn đen bao mặt. Chiếc khăn rơi xuống cuốn theo suối tóc dài đen mượt, suối tóc bao quanh một khuôn mặt trắng nhợt. Hiển nhiên người đó là một nữ nhân! Nữ nhân cao giọng bảo Khổ Hải Từ Hàng:

– Tại sao? Ngươi cứ hỏi tiểu tử họ Quan kia thì rõ!

Khổ Hải Từ Hàng giật mình:

– Ngươi! Ngươi chẳng phải là Bắc Mang Quỷ Sứ.

Tây Môn Vô Diệm cười lạnh:

– Bắc Mang không tuân lịnh dụ, ta đã xuất thủ trừng trị rồi, ta chỉ định nàng thay thế, thiết tưởng phàm các sự vụ về Quỷ Bảng ta có quyền định đoạt chứ.

Khổ Hải Từ Hàng cau mày:

– Đành là thế, song ít nhất ngươi cũng thông tri qua đại hội.

Tây Môn Vô Diệm bĩu môi:

– Nếu quy luật của Long Hoa Hội còn hiệu lực thì việc làm của ta là bất hợp pháp. Song theo diễn tiến sự tình thì ta nghĩ sự thông tri đòi hỏi đó chẳng còn cần thiết nữa.

Khổ Hải Từ Hàng thực sự sửng sốt trước sự xuất hiện của nữ nhân.

Quan Sơn Nguyệt từ trên lưng lạc đà, nhảy xuống đến gần Khổ Hải Từ Hàng thốt:

– Đại sư nên tránh qua một bên đi. Nàng ấy nói đúng, việc này chỉ có mỗi một mình tại hạ có tư cách giải quyết mà thôi, chẳng ai thay thế được.

Khổ Hải Từ Hàng do dự.

Quan Sơn Nguyệt tiếp luôn:

– Nàng ấy tên là Khổng Linh Linh, phụ thân của nàng chết nơi tay tại hạ ...

Khổ Hải Từ Hàng lại giật mình lượt nữa:

– Nếu vậy thì ... bần tăng không tiện can thiệp rồi ...

Lão lui về phía hậu.

Khổng Linh Linh nhìn trừng trừng Quan Sơn Nguyệt:

– Bây giờ thì ngươi không còn cự tuyệt động thủ với ta?

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Tuy phụ thân ngươi chết đi là hợp đạo lý, tuy cái chết đó chẳng do ta hoàn toàn chịu trách nhiệm, song phụ thù là điều quan trọng nhất của con người, ta chấp nhận dành cho ngươi một cơ hội bày tỏ hiếu tâm đối với đấng sanh thành.

Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng:

– Giả như ta bắt buộc ngươi phải dùng thanh kiếm Bạch Hồng giao đấu với ta thì ngươi nghĩ sao?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm suy nghĩ. Một lúc sau, chàng hướng qua Tạ Linh Vận thốt:

– Ngươi có thủ đoạn lắm đó Tu La Tôn Giả! Cái biện pháp của ngươi chung quy rồi cũng buộc ta phải thi triển những đường kiếm Bạch Hồng.

Tạ Linh Vận đắc ý phi thường, bật cười vang.

Kỳ Hạo xách kiếm từ từ tiến tới cục trường, chừng như hắn định trao thanh kiếm của hắn cho Khổng Linh Linh.

Nhưng Khổng Linh Linh hoành tay lên đầu vai, nắm chuôi kiếm của nàng đeo nơi lưng rút ra khỏi vỏ. Thanh kiếm của nàng giống thanh kiếm của Kỳ Hạo như hai giọt nước.

Quan Sơn Nguyệt quát:

– Ngươi còn trở lại đây làm gì?

Kỳ Hạo điểm một nụ cười hiểm độc:

– Nàng là vợ của ta, tình chồng vợ đương nhiên phải đậm đà, thì việc của vợ phải là việc của chồng và ngược lại. Huống chi, là con rể ta cũng phải có một phần hàng trong cái việc báo thù nhạc trượng. Ngươi từng tự hào là trọng đạo nghĩa, lại đi hỏi ta một câu ngớ ngẩn như thế được sao?

Thì ra hắn trở lại cục trường chẳng phải để trao kiếm cho Khổng Linh Linh mà chính là để tham gia cuộc chiến, tiếp trợ vợ hắn.

Quan Sơn Nguyệt dù bất mãn song cũng phải nhìn nhận hắn có đạo lý.

Chàng giữ tâm bình tĩnh, cười lạnh thốt:

– Cũng được. Ta chấp cả vợ chồng các ngươi. Cả hai cứ vào đi!

Chàng lùi lại cạnh con lạc đà, đặt chiếc Kim Thân lên yên nó, sau đó nắm chuôi kiếm rút ra khỏi vỏ.

Thanh kiếm ngân lên một tiếng dài. Kiếm quang chớp sáng, kiếm khí tỏa rợn người. Đúng là một thanh kiếm báu, chưa vung lên đã khiếp đảm cho mọi người rồi.

Tại cục trường, ai ai cũng buông tiếng thở dài ngán cái khí sắc của một thanh kiếm thần.

Tại cục chiến, Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh không tránh khỏi chột dạ.

Đôi kiếm của hai vợ chồng vốn là báu kiếm sắc lạnh phi thường, song trước thanh Bạch Hồng Kiếm thì hào quang của hai thanh kiếm đó tan biến mất, chẳng khác nào ánh sao sáng phải mờ đi khi vầng trăng tròn xuất hiện không trung.

Có một thanh kiếm báu là nắm được một ưu thế rồi, tuy nhiên muốn phát uy ưu thế đó cần phải có một kiếm thuật tinh vi.

Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh tin tưởng nơi tài nghệ của họ nên chưa đến đổi thất vọng, cả hai cùng thủ thế, tay giữ kiếm quyết, chân đứng theo bộ vị thất tinh.

Cái tư thế đó đúng theo kiếm pháp Tu La.

Quan Sơn Nguyệt không khỏi giật mình. Chàng nghĩ bọn này cũng biết kiếm pháp Tu La, như vậy chúng cũng lợi hại lắm đấy. Do đó, chàng cũng chẳng dám khinh thường, ngưng trọng thần sắc giới bị chặt chẽ.

Chàng phải phục Tạ Linh Vận có cơ trí hơn người, chẳng những y nghĩ ra được phương pháp bức chàng phải sử dụng đến kiếm, chẳng những thế y còn có cách bắt buộc chàng phải thi triển luôn kiếm pháp Đại La. Bởi chống với kiếm pháp Tu La, chàng chẳng còn cách nào khác hơn là đem kiếm pháp Đại La mà ứng dụng.

Thi triển «Đại La Kiếm Pháp», chàng dù thắng được vợ chồng Kỳ Hạo cũng chẳng thành vấn đề. Vấn đề là ở chỗ Tạ Linh Vận sẽ nhìn vào những chiêu thức của chàng, rồi nghiên cứu cách hóa giải. Đến lúc chàng chánh thức giao đấu với y thì tuyệt học của chàng mất hẳn hiệu dụng mong muốn rồi. Chính với dụng ý đó Tạ Linh Vận mới đem «Tu La Kiếm Pháp» truyền thụ cho Khổng Linh Linh.

Song phương ngưng thần chờ đợi. Bởi chưa bên nào chịu xuất thủ trước và dĩ nhiên chẳng bao giờ Quan Sơn Nguyệt chịu tấn công đầu tiên, dù có phải chờ vợ chồng Kỳ Hạo xuất thủ chờ đến bao lâu cũng phải chờ.

Bỗng từ phía hậu có tiếng quát to:

– Hãy khoan! Song phương chờ một chút!

Phía hậu là hậu phương của Quan Sơn Nguyệt, và người quát lên chính là Liễu Y Ảo. Nàng lướt tới cạnh Quan Sơn Nguyệt, tay nàng cầm một thanh trường kiếm. Nàng thốt:

– Lấy hai đấu một thì bất công, dùng đông toan áp đảo ít là một điều kỵ trên giang hồ. Để có sự công bình, ta tình nguyện chia bớt một địch thủ với Quan công tử.

Sự can thiệp đột ngột của Liễu Y Ảo làm cho Tạ Linh Vận giật mình. Thần sắc của y biến đổi ngay. Lấy lại bình tĩnh sau phút giây sửng sốt, y kêu lên:

– Sư muội làm cái gì thế?

Liễu Y Ảo cười nhẹ:

– Tham gia nhiệt náo chứ còn làm cái gì nữa?

Nàng nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt đoạn tiếp luôn:

– Với lại ta có chủ ý là giúp Quan công tử dành trọn vẹn kiếm pháp Đại La chờ ngươi. Chỉ khi nào ngươi xuất hiện tại cục chiến thì kiếm pháp đó mới được thi triển.

Tạ Linh Vận mỉa mai:

– Người ta là chồng là vợ với nhau, người ta liên thủ là hợp lý, còn sư muội tham gia cuộc chiến với danh nghĩa gì chứ?

Liễu Y Ảo thoáng đỏ mặt nhưng gượng cứng đáp liều:

– Họ là vợ chồng, họ liên thủ là hợp lý, chứ ta đây tham gia cuộc chiến không hợp lý sao? Cho ngươi biết, ta là vị hôn thê của Quan công tử, chính là đại sư tỷ đã hứa tác thành cho ta với Quan công tử đó.

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp gọi nàng:

– Liễu Tiên Tử! Thiếu chi cách đáp lời hắn, sao Tiên tử lại đùa như thế?

Đáng lẽ Quan Sơn Nguyệt nín lặng là hơn, cứ vờ như sự thể đã được quyết định như vậy rồi, cho qua cái trường hợp này. Nhưng chàng lại thanh minh giữa thập mục sở thị, sự thanh minh đó làm cho Liễu Y Ảo cứng trân mình thành trơ trẽn cực độ.

Nàng biến sắc, giọng rung rung:

– Sao gọi rằng đùa? Không lẽ đại sư tỷ chưa nói chi với công tử?

Quan Sơn Nguyệt tình thật toan phủ nhận, song Khổ Hải Từ Hàng đã bước tới khẽ nắm tay chàng thấp giọng thốt:

– Hương Đình Tiên Tử có cho bần tăng biết, quả đúng như Liễu Tiên Tử nói đó, Hương Đình muốn tác hợp cả hai thành đôi bạn với nhau và nhờ bần tăng lãnh phận sự của ông tơ. Hương Đình Tiên Tử cũng có nói là Quan thế huynh đã chấp nhận rồi. Thì giờ đây nếu Quan thế huynh phủ nhận, chẳng hóa ra gây bẽ bàng cho Liễu Tiên Tử mà Hương Đình biết được cũng phiền lòng không ít, không kể là bên kia Tạ Linh Vận sẽ khai thác trường hợp để ngạo tiếu chúng ta.

Quan Sơn Nguyệt suýt nhảy dựng lên vì bực tức.

Khổ Hải Từ Hàng lại tiếp:

– Muốn nói gì, Quan thế huynh hãy ẩn nhẫn, sau này còn có dịp nói, nào phải hết dịp đâu? Thế huynh đừng vì một việc nhỏ mà làm cho kỳ vọng của hằng trăm người sau lưng thế huynh kia phải tan biến. Đại cuộc là trọng, tiểu tiết là khinh, hẳn thế huynh thừa hiểu.

Quan Sơn Nguyệt lặng người như chết. Làm sao chàng thừa nhận công khai?

Mà nín lặng là đương nhiên mặc nhận rồi.

Khổ Hải Từ Hàng đưa ánh mắt ra hiệu với chàng trước, đoạn tuyên bố sau:

– Liễu Tiên Tử nói đúng, chính Hương Đình Tiên Tử và Hoàng Hạc Tán Nhân đã cộng đồng quyết nghị cuộc hôn nhân đó. Cả hai lại ủy thác bần tăng làm công việc mai dong, đồng thời tuyên bố cho mọi người được biết. Đáng lẽ bần tăng đã thông tri cho toàn thể nhân số trong hội Long Hoa từ lâu, song mấy hôm nay biến cố dồn dập bần tăng không có một dịp thuận tiện nào.

Tạ Linh Vận lắc đầu:

– Hoang đường! Ngươi dựng đứng một chuyện hoang đường ta không tin nổi.

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Tôn giá chẳng thấy Liễu Tiên Tử và Quan thế huynh xứng đôi vừa lứa lắm sao? Trai là trai tài, gái là gái sắc, lứa đôi còn có lứa đôi nào hơn? Một cuộc hôn nhân giữa hai người là hợp lý sao lại gọi là hoang đường? Huống chi hôn nhân nào phải một trò đùa, có ai dám xem thường một sự kiện như vậy để có thể tùy cái hứng mà tuyên bố lên, khi hết hứng lại bỏ qua? Thế thì tôn giá đừng tưởng là sự hoang đường.

Lão tăng dừng lại một chút, đoạn tiếp:

– Có lẽ tôn giá định nói rằng Quan thế huynh là người ngoài hội nên chẳng thể kết duyên với người trong hội? Điều đó đúng là tôn giá lầm! Bởi Quan thế huynh là môn đệ của Hoàng Hạc Tán Nhân, sớm muộn gì cũng thừa kế cái thân phận của Hoàng Hạc trong hội. Ngoài ra, Quan thế huynh gần đây đã được một bậc dị nhân truyền thụ võ công, mà bậc dị nhân đó không phải xa lạ gì đối với người sáng lập Long Hoa Hội. Như vậy Quan thế huynh nghiễm nhiên trở thành bạn đồng môn rồi! Chúng ta không còn xem người là ngoại nhân được nữa.

Liễu Y Ảo đắc ý phi thường. Càng đắc ý nàng càng đỏ mặt, tuy nhiên niềm cao hứng làm cho nàng bất chấp dè dặt, cao giọng gọi Tạ Linh Vận:

– Ngươi còn lời chi để nói nữa chăng?

Tạ Linh Vận không biểu hiện một cảm nghĩ nào tiếp theo đó.

Nhưng Kỳ Hạo chớp ánh mắt ngụy dị, ánh mắt đó chỉ có mỗi một mình Tạ Linh Vận hiểu được ý nghĩa mà thôi. Bởi hiểu, y sợ sanh biến, vội hét lên:

– Kỳ Hạo! Cố gắng hết sức mình làm tròn nhiệm vụ! Đã có ta chịu mọi trách nhiệm.

Trách nhiệm gì? Chịu như thế nào? Giả như Kỳ Hạo hoặc vợ hắn là Khổng Linh Linh chết nơi tay Liễu Y Ảo thì y có chết thay để cho họ sống chăng? Cái lối chịu trách nhiệm đó không ai làm được chứ?

Người ngoài hẳn nghĩ thế, song sự tình có uẩn khúc như thế nào chỉ có Tạ Linh Vận và Kỳ Hạo biết được mà thôi.

Nghe câu nói hứa hẹn một sự bảo đảm vững chắc của Tạ Linh Vận, Kỳ Hạo lên tinh thần ngay, vẻ hung hãn hiện nơi gương mặt, khoát thanh kiếm một vòng cao giọng thốt:

– Hai đấu hai cũng chẳng có gì đáng thắc mắc, chúng ta bất đầu gấp đi!

Khổ Hải Từ Hàng lùi lại phía sau.

Khổng Linh Linh mất cái vẻ hung hăng lúc đầu, mường tượng nàng e dè sao đó.

Kỳ Hạo quét ánh mắt sang nàng giọng căm căm, hét:

– Đừng ngây người ra đó, đã có ta ngươi còn sợ gì nữa?

Khổng Linh Linh giật mình trở về thực cảnh, ngưng trọng tinh thần, lăm lăm thanh kiếm chực chờ xuất thủ.

Quan Sơn Nguyệt nhận thấy thái độ của đôi vợ chồng này hết sức kỳ quái, họ tuyên bố là vì báo thù cho Khổng Văn Thông nên khiêu chiến với chàng, song chừng như dụng ý của họ không hoàn toàn vì danh nghĩa đó. Chàng không cần suy nghĩ lâu cũng thức ngộ ra, sở dĩ họ khiêu chiến là vì họ tiếp nhận chỉ thị của Tạ Linh Vận, khiêu chiến để chàng dùng «Đại La Kiếm Pháp» phản công. Tạ Linh Vận đứng bên ngoài theo dõi, nghiên cứu, nhiên hậu thực hiện một mưu đồ.

Song phương ở trong cái thế cung thẳng giây tên lắp sẵn, ngón tay buông là giây bật tên bắn vút đi liền, tình hình cực kỳ khẩn trương.

Nhìn bàn tay nổi gân của Liễu Y Ảo cầm kiếm cũng đủ biết nàng hết sức chú ý đến đối phương.

Không gian trầm đọng nặng nề, tử khí bao trùm cục trường.

Bỗng Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh cùng hét to lên một tiếng, cùng tấn công một lượt.

Chiêu thứ nhất trong «Tu La Kiếm Pháp» có cái tên là «Vân Thảm Vụ Sầu», hai thanh kiếm cùng phát xuất một lượt theo thế liên thủ tạo nên một oai lực khủng khiếp.

Kiếm khí tỏa ra thành một vầng sương mờ xanh xám, kiếm phong rít vi vu, cả màu sắc lẫn thinh âm cấu tạo cho cục trường cái vẻ ảm đạm thê lương, tưởng chừng như cõi ngục u tối dưới đất sâu những âm hồn hiện về oán than rên rỉ.

Liễu Y Ảo tuy được liệt vào hàng Tiên tử trong Long Hoa Hội, song trước chiêu kiếm tân kỳ của địch nàng chẳng dám khinh thường, vung kiếm nơi tay tạo nên một vầng ngân quang bao bọc quanh mình kín đáo. Đồng thời nhận định phương hướng của Khổng Linh Linh, nàng thấy Khổng Linh Linh yếu kém hơn Kỳ Hạo rõ rệt, nàng bèn nhường Kỳ Hạo cho Quan Sơn Nguyệt, nàng chuyên tâm phản công Khổng Linh Linh.

Cái đó không do lánh nặng tìm nhẹ mà là lối phản ứng đương nhiên. Bởi nàng thừa hiểu sau khi Quan Sơn Nguyệt được Ôn Kiều huấn luyện thêm chàng tinh tiến lạ lùng, hiện tại về kiếm thuật chàng hơn hẳn nàng ít nhất cũng vài bậc, thì chàng phải đương đầu với kẻ mạnh bên đối phương, có vậy nàng mới yên tâm công kích đối thủ đồng hạng với nàng.

Khác với nàng, Quan Sơn Nguyệt vẫn giữ thái độ trầm ổn phi thường, mường tượng chàng không xem Kỳ Hạo ra cái quái gì cả, thanh kiếm Bạch Hồng nơi tay chàng nhẹ nhàng bay ra phong trụ kiếm của Kỳ Hạo, hai thanh chạm nhau một tiếng xoảng vang lên nháng lửa, tia lửa bắn tung tóe.

Kỳ Hạo rợn người, không dám hung hăng, thu thanh kiếm lùi lại.

Chiêu thức của Quan Sơn Nguyệt đúng là chiêu sơ khởi của «Đại La Kiếm Pháp» có cái tên gọi là «Càn Khôn Thi Định».

Kiếm pháp Đại La tuy thuộc về võ học tà môn, song nó rất giống võ học chánh phái. Chiêu kiếm do chàng vừa phát xuất bằng vào sự lấy tịnh chế động, lấy giản đơn chế phức tạp, dù nó rất đơn thuần nhưng cũng đủ phá kiếm khí của Kỳ Hạo tỏa rộng khắp cục trường, mường tượng một vùng đen tối âm u bị một tia sáng rực rỡ chiếu vào, bóng tối liền tan biến.

Gia dĩ, Bạch Hồng Kiếm lại sắc bén hơn thanh kiếm cổ màu xanh kia, hai thanh chạm nhau, thanh cổ kiếm màu xanh của Kỳ Hạo mẻ đi một mảnh nhỏ độ bằng móng tay.

Chiêu thứ nhất song phương trao đổi nhau, kết quả như thế đó.

Người xem chung quanh có những phản ứng dị đồng trong tâm tư của họ.

Bọn người ủng hộ Quan Sơn Nguyệt thì không dấu vẻ hài lòng, trừ một Lý Trại Hồng thì nàng lại khẻ buông tiếng thở dài. Còn bọn người do Tạ Linh Vận dẫn đến đây thì tỏ ra ưu tư, nhưng Tạ Linh Vận và Tây Môn Vô Diệm lại điểm một nụ cười.

Liễu Y Ảo đang ngưng thần chú ý điều khiển cuộc đấu với Khổng Linh Linh.

Dù sao thì kiếm thuật của nàng cũng hơn hẳn sở đắc của địch cho nên nàng luôn luôn tạo khó khăn cho địch.

Lúc đó, thấy Quan Sơn Nguyệt tạo thành tích rồi, nàng cũng lộ vẻ ưu uất, không dằn lòng được nàng thấp giọng hỏi Quan Sơn Nguyệt:

– Có đúng là thanh kiếm Bạch Hồng thật đó chăng?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Phải! Tại hạ tin rằng Ôn Kiều lão tiền bối không khi nào lừa dối tại hạ.

Liễu Y Ảo nhếch nụ cười khổ:

– Ta chỉ sợ bên trong có những tình tiết éo le sao đó. Thanh kiếm không thể có sự thần hiệu như ta đã hiểu về thanh Bạch Hồng thật.

Quan Sơn Nguyệt bình tĩnh đáp:

– Oai lực của thanh kiếm tùy người sử dụng phát huy, tại hạ chỉ phát huy đến trình độ đó thôi, nếu cần tại hạ cũng có thể phát huy một uy lực cao hơn, như vậy sự thần hiệu của nó vô cùng, cô nương làm sao hiểu nổi!

Bên kia Tạ Linh Vận nhẹ điểm một nụ cười, lên tiếng thôi thúc Kỳ Hạo:

– Thiên Tề! Phát xuất luôn cả hai chiêu thứ năm và thứ sáu đi, cho hắn giở hết ba chiêu nữa ra mà đối địch.

Trong ánh mắt của Kỳ Hạo niềm oán độc hiện ra, hắn hú vọng một tiếng nhỏ mà dài, rồi vung thanh kiếm mẻ công tới.

Khổng Linh Linh cũng phát động thế công phối hợp với thế đánh của Kỳ Hạo.

Lần này Kỳ Hạo phát xuất hai chiêu «Ma Hỏa Luyện Thiên» và «Liệt Viêm Đằng Tiêu» trong «Tu La Kiếm Pháp».

Hai chiêu thức cùng mang tên Hỏa dĩ nhiên thế đánh phát huy toàn là lửa, lửa màu xanh lục, một thứ lửa ma làm rợn người hơn là thiêu đốt.

Liễu Y Ảo lập tức phản công, kiếm thì nàng phổ cập tinh túy thu hoạch qua bao nhiêu năm luyện tập, còn thân mình thì phát xuất chân khí Băng Y, chân khí đó vừa bảo vệ toàn thân mà cũng vừa chuyền vào thanh kiếm tỏa ra ngoài để chống lại vầng lửa xanh của Kỳ Hạo.

«Tu La Kiếm Pháp» là một môn cực kỳ lợi hại trong các loại kiếm pháp Ma, nhưng Khổng Linh Linh còn kém nàng quá xa nên không phát huy nổi ma lực của kiếm pháp đúng mức.

Dù vậy, hỏa lực từ thanh kiếm của Khổng Linh Linh phát ra cũng có nhiệt độ cao xuyên thấu vầng lãnh khí của Liễu Y Ảo, xâm nhập vào cơ thể nàng làm cho nàng xuất hạn ướt mình.

Ứng phó chiêu thứ nhất Quan Sơn Nguyệt rất ung dung, song lần này thì chàng thay đổi thái độ, hét lên một tiếng, vung thanh kiếm Bạch Hồng tạo thành một đóa kiếm hoa rất lớn, kiếm khí từ mũi phóng ra, dài hơn thước, gây tiếng động vu vu rợn người.

Đạo kiếm khí bắn vào vầng kiếm quang của Kỳ Hạo.

Với thủ pháp nhanh như chớp, chàng phát xuất chiêu thứ hai trong kiếm pháp Đại La, chiêu «Húc Nhật Đông Thăng».

Chiêu của Kỳ Hạo thuộc dương, chiêu của chàng cũng thuộc dương, lấy dương chế dương, song cái dương của chàng cường mãnh hơn, thoáng mắt đã quét sạch lớp mây mờ như khói nóng của Kỳ Hạo.

Tiếp theo đó chàng sử dụng luôn chiêu thứ ba tên «Bạch Hồng Quán Nhật», chiêu thức phát huy tiếng động ầm ầm như sấm gầm lồng lộn giữa không gian.

Kết quả đầu tiên là thanh kiếm của Kỳ Hạo bị gãy, oai lực của chiêu kiếm còn thừa, lấn sang mặt trận giữa Khổng Linh Linh và Liễu Y Ảo, chặt gãy luôn thanh kiếm của Khổng Linh Linh.

Chẳng những thế, kiếm phong lan rộng quét ào ào vào mình Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh, đâm thủng áo của họ khoét thành những lỗ to, đồng thời điểm vào nhiều huyệt đạo nơi mình vợ chồng Kỳ Hạo.

Quanh cục trường mọi người đều im lặng, hồi hộp theo dõi trận đấu.

Bây giờ một bên thắng, một bên bại, hậu thuẫn của bên thắng reo lên oang oang, cánh bại thì tiu nghỉu.

Quan Sơn Nguyệt thu hồi công lực đã phổ vào thân kiếm, nhìn sang vợ chồng Kỳ Hạo, cả hai hết sức phờ phạc tiêu điều qua cuộc thảm bại, trong đáng thương hại vô cùng. Quan Sơn Nguyệt nghiêm giọng nói:

– Đáng lý ta nên giết luôn bọn các ngươi, song ta chẳng thể tàn nhẫn như vậy được.

Kỳ Hạo không nói gì, quay mình dợm bước đi.

Khổng Linh Linh trừng mắt quát:

– Tại sao? Tại sao ngươi không giết bọn ta?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Cái lý do trước hết là ta không tàn độc. Còn tại sao khác hơn thì ta cũng chưa biết rõ. Tuy nhiên cái bại hôm nay cũng có thể báo phục sau này nếu các ngươi muốn. Vì ta nghĩ ngươi quyết báo thù cho phụ thân ngươi, điều đó rất chánh đáng, cho nên ta có thể giết các ngươi nhưng ta lại không giết, bởi ta dành cho các ngươi cơ hội báo thù cho chính các ngươi. Ta cần cảnh cáo cho ngươi rõ là cơ hội đó sẽ không có được một lần thứ hai đâu nhé! Ta chỉ dành cho ngươi một lần duy nhất thôi.

Khổng Linh Linh nghiến răng, tiếng kêu ken két. Nàng nghiến quá mạnh, nứu răng rướm máu, máu rỉ ra hai bên mép miệng. Nàng nhổ một búng nước bọt có máu pha lộn, đoạn cao giọng thốt:

– Trong tương lai ngươi đừng hối hận vì cử chỉ đại phương của ngươi hôm nay đấy. Một ngày nào ta gặp lại ngươi, nhất định là ta chẳng lấy việc hôm nay làm một cái ơn đâu! Ta sẽ giết ngươi như thường.

Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:

– Thì ngươi cứ tùy tiện, gặp ta rồi ngươi cứ hành động theo sở nguyện.

Muốn hành động sớm thì tìm gặp ta sớm, luôn luôn ta sẵn sàng nghinh tiếp ngươi.

Chàng dừng lại một chút, đoạn tiếp luôn:

– Đối với những người chưa đáng tội chết, ta dành cho một khoảng đất lui chân, nếu kẻ đó chẳng biết ăn năn thì lần sau ta bắt buộc phải hạ thủ đoạn để trừ một họa hoạn cho đời. Còn riêng với ngươi, ta không giết ngươi là vì một nguyên nhân nữa. Cái nguyên nhân đó là như thế này, là trong những ngày ta ở tại Côn Lôn Sơn ngươi đã chiếu cố giúp đỡ ta nhiều việc, tuy lúc đó ta hoàn toàn mất tri giác, song sau này ta nghe thuật lại, tự nhiên ta phải nương tay với ngươi.

Khổng Linh Linh biến sắc mặt. Nhưng nàng nín lặng, quay mình bước đi theo Kỳ Hạo.

Liễu Y Ảo đưa tay áo lau mồ hôi mặt, chẳng rõ nghĩ sao nàng lại điểm một nụ cười rồi thốt:

– Tôi cứ tưởng tham gia cuộc chiến là để tiếp trợ công tử, không ngờ lại gây phiền lụy đến công tử, cuối cùng lại được giúp đỡ ngược lại!

Quan Sơn Nguyệt cười, lắc đầu đáp:

– Không đâu, chính Tiên tử giúp tại hạ nhiều lắm đấy.

Liễu Y Ảo không tin, tiếp:

– Rõ ràng công tử có cần chi tôi tiếp trợ đâu.

Quan Sơn Nguyệt thành thực:

– Tại hạ không nói ngoa đâu Tiên tử. Kiếm pháp Đại La tuy ảo diệu, song đây là lần thứ nhất tại hạ sử dụng đến, đương nhiên là phải lúng túng. Nếu chẳng có Tiên tử quan sát, phòng ngừa bất trắc cho tại hạ yên tâm đối địch thì chắc chắn là không thu thập kết quả nhanh chóng như thế đâu.

Liễu Y Ảo trầm ngâm một chút:

– Tôi cứ tưởng là có thanh kiếm Bạch Hồng với kiếm pháp Đại La công tử sẽ nắm vững cái cơ tất thắng. Nếu biết vậy, tôi đã để cho nhị sư tỷ xuất trận rồi.

Quan Sơn Nguyệt lại lắc đầu:

– Việc đã qua rồi Tiên tử, bỏ đi. Còn như việc sắp tới đây, nghĩa là tại hạ sắp sử dụng đến chiêu thứ tư, thì tuyệt đối các vị không nên xuất trận. Bởi cái oai lực của chiêu thức rất hùng mạnh, tại hạ sợ mình kềm chế không nổi lại để xâm phạm đến các vị luôn và như vậy là đáng hận lắm đó.

Liễu Y Ảo xong phận sự rồi, bắt buộc phải lùi lại với niềm luyến tiếc, tuy chẳng phải là xa hẳn Quan Sơn Nguyệt.

Trong khi đó, Tạ Linh Vận từ từ bước tới với niềm tự tin rõ rệt.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 32

Khiếp Quỷ Kinh Thần

Quan Sơn Nguyệt thản nhiên, đứng nguyên tại chỗ, không hề vì sự xuất hiện của Tạ Linh Vận mà khích động tâm thần.

Tạ Linh Vận cứ ung dung, miệng điểm nụ cười. Khi còn cách Quan Sơn Nguyệt độ mươi bước, y dừng chân lại.

Quan Sơn Nguyệt bình tịnh thốt:

– Cuối cùng rồi, ngươi cũng ra mặt.

Tạ Linh Vận vẫn giữ nụ cười:

– Phải đó, ta nhận thấy, làm sao cũng phải tự tay thu thập ngươi mới được.

Ta không thể giao phó phần việc đó cho ai khác.

Quan Sơn Nguyệt mỉa:

– Thế ra, những thủ hạ của ngươi toàn bọn vô dụng! Cái bọn chồn bầy, chó lũ của ngươi đó!

Tạ Linh Vận mất ngay bình tĩnh, nổi giận, dửng cao đôi mày quát:

– Tiểu tử! Ngươi đừng quá ỷ trượng vào thanh kiếm Bạch Hồng và «Đại La Kiếm Pháp» của ngươi! Thực ra, bọn ngươi là chi, nếu chẳng phải là một lũ chồn, một lũ chó? Sao ngươi dám khinh miệt bọn ta? Cho ngươi biết, chưa chắc gì kiếm pháp Đại La của ngươi hơn hẳn kiếm pháp Tu La của ta! Bằng cớ là vừa rồi, ngươi chẳng tạo nên một kỳ công nào cả!

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Ta hiểu lắm! Và ta tin là do ngươi thi triển, kiếm pháp Tu La phải có oai lực phi thường, chứ không như vợ chồng Kỳ Hạo vừa múa may rối mắt đó đâu!

Và, ta cũng tin luôn là ngươi sẽ gây khó khăn chật vật cho ta lắm đó.

Trước cũng như sau, chàng vẫn giữ sự bình tịnh, như chẳng xem đối tượng ra gì. Dù chàng nói là Tạ Linh Vận sẽ gây khó khăn cho chàng, chàng vẫn không tỏ lộ gì lo lắng, sợ hãi.

Cái thái độ của chàng làm cho Tạ Linh Vận phải ngán, và y tự dặn lòng phải hết sức dè dặt. Y khích một câu:

– Ngươi tự biết vậy, nhưng ngươi tự kiểm soát lại xem, có đủ dũng khí giao đấu với ta chăng?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Kiểm soát lấy mình mà làm chi nữa? Dù ta có dũng khí, dù ta có khiếp hãi, ta vẫn giao đấu với ngươi, ta không còn cách nào khác. Bổn phận của ta, là mang lại một bảo đảm cho mạng sống của bao nhiêu người kia, ta không có quyền từ khước bổn phận!

Nghe giọng nói của Quan Sơn Nguyệt yếu quá, Tạ Linh Vận đắc ý vô cùng.

Y cười ha hả, thốt:

– Ngươi buông lời vô lễ, khích nộ ta, chứ thực ra thì ta đâu có thích giết ngươi? Ngươi chẳng biết đó thôi, ta vốn là người có đại lượng lắm, nếu bọn kia đừng làm chi trái ý ta, thì ta sẽ duy trì Long Hoa Hội, mọi người ở bảng nào, theo bảng đó như cũ, tuân theo quy luật mà hành động, giữ hòa khí trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Ta chỉ mong được vậy thôi, tất cả sẽ được vui vẻ như ngày trước, còn ta thì khỏi phải làm cái việc lạm sát.

Quan Sơn Nguyệt cứ giữ vẻ yếu mềm, lắc đầu đáp:

– Khó lắm! Một mình ta không thuyết phục nổi tất cả, ta chỉ sợ sau này có người sanh lòng riêng rẽ, thì chung quy cũng có phiền phức như thường!

Bỗng chàng đổi giọng, pha cái vẻ mỉa mai, tiếp:

– Huống chi, Long Hoa Hội là một tổ chức điên loạn, trước kia, họ bị bức bách mà gia nhập, họ sợ một uy thế nào đó, mà thành cúi đầu chúi vào lao lung ...

Tạ Linh Vận nổi giận:

– Nói nhảm! Trước kia nào có ai uy hiếp sư phụ ngươi đâu, thế tại sao lão ta cam tâm tình nguyện vào hội, và giữ mãi thân phận Hội Chủ suốt hai mươi năm dài? Chẳng lẽ sư phụ ngươi cũng mất lý trí đến độ lao đầu vào một tổ chức điên loạn?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Có gì lạ đâu? Chỉ vì lúc sư phụ ta vào hội, thì hội do Hương Đình Tiên Tử chủ trì, hoạt động của hội còn hợp với chánh nghĩa phần nào. Nhờ Hương Đình Tiên Tử lãnh đạo, hội mới còn tồn tại đến ngày nay, chứ nếu hội do ngươi điều khiển, thì những ai đã lỡ bị ngươi dụ hoặc vào hội rồi, cầm như sống để chờ chết, chết sướng hơn sống!

Tạ Linh Vận phẫn uất cực độ, hét lên:

– Câm ngay cái mõm chó của ngươi lại! Tiểu súc sanh đã chán sống rồi nên khích ta đưa gấp về với tổ tiên phải không?

Quan Sơn Nguyệt thản nhiên như thường, điểm nụ cười nhạt gật đầu:

– Phải! Ta chán sống lắm rồi! Ta chờ ngươi giết hộ đây! Ngươi làm được việc đó, ta vừa phục ngươi, vừa cảm kích vô cùng!

Bổng, Tạ Linh Vận dằn cơn phẫn uất, lấy lại bình tĩnh, từ từ nói:

– Tiểu tử biết không, bình sanh ta không hề làm một việc gì mà chưa tin là thành công chắc chắn ...

Quan Sơn Nguyệt chận lời ngay:

– Điều đó thì ta biết rõ lắm, chả hạn, trước kia, ngươi đâu có chịu cam phận thấp hèn, bởi ngươi không tin là mình thắng nổi Hương Đình Tiên Tử, nên ngươi ẩn nhẫn đến hôm nay!

Tạ Linh Vận thỏa thích vô cùng:

– Đúng quá! Và, gần đây, nhận thấy Lâm Hương Đình không còn đáng sợ nữa, ta định đến ngày đại hội Long Hoa vừa qua, bức bách Hương Đình chuyển nhượng quyền lãnh đạo toàn thể nhân vật trong Phong Thần Bảng, gồm ba hạng như ngươi đã biết. Ngờ đâu, bà ấy cũng khá thông minh ...

Quan Sơn Nguyệt cười mỉa:

– Hương Đình Tiên Tử thấy rõ cái dã tâm của ngươi, tự nhiên bà phải chuẩn bị. Bà cũng hiểu là chẳng thể chế phục ngươi dễ dàng ...

Tạ Linh Vận bật cười ha hả:

– Và bà ta chuồn mất!

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Tránh cái thủ đoạn thứ nhất của ngươi, bà ta bắt buộc phải lánh mặt. Hay nói một cách khác, trước kế hoạch của ngươi gồm nhiều giai đoạn, bà cũng chuẩn bị một chương trình ứng phó gồm nhiều giai đoạn, những giai đoạn của song phương đối chọi nhau, ta nhận thấy, phần hữu hiệu thiên hẳn về Hương Đình Tiên Tử. Cho nên, vắng mặt trong ngày đại hội, Tiên tử đã thi triển một thủ đoạn trong nhiều thủ đoạn đó.

Tạ Linh Vận cao ngạo:

– Rồi kế đó, bà ấy đã làm như thế nào? Bà ta chọn ngươi, đại diện cho bà ta, để chế phục ta?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Đúng vậy! Bà biết rõ, ta thừa sức làm cái việc đó hộ bà!

Thoạt đầu, Tạ Linh Vận có giật mình một chút, song sau đó, y lấy lại bình tĩnh, bật cười cuồng dại, thốt:

– Hương Đình chọn ngươi! Một cuộc tuyển chọn sáng suốt cực độ. Thật không ngờ bà ấy thông minh quá chừng!

Y nói thật, trong câu nói, không hàm chứa một hậu ý gì chứng tỏ y mỉa mai, còn như thái độ cuồng ngạo của y, sở dĩ hiện lộ ra bên ngoài, chẳng qua y khinh thường Quan Sơn Nguyệt thôi. Y tiếp:

– Ta không hiểu ngươi có thấu đáo câu nói của ta chăng, nhân dịp này, ta công bố ra đây, cho toàn thể nhân số trong ba bảng nghe rõ, đồng thời nếu ngươi chưa hiểu, sẽ có dịp hiểu luôn với mọi người.

Y dừng lại một chút, đảo mắt nhìn quanh cục trường một vòng, đoạn tiếp:

– Trước kia ta ngán sợ Lâm Hương Đình, là vì nàng có thanh kiếm Bạch Hồng và kiếm pháp Đại La. Chính Lâm Hương Đình cũng ỷ trượng vào hai lợi thế đó, chế phục ta. Nhưng, sau nhiều năm nghiên cứu, ta biết rõ kiếm pháp Đại La cũng như thanh kiếm Bạch Hồng, thuộc thuần dương, do đó, một nữ nhân chẳng hề đạt đến mức tinh vi của kiếm thuật, dù cố công luyện tập như thế nào ... Một nữ nhân chẳng bao giờ phát huy trọn vẹn tất cả oai lực của kiếm pháp qua thanh Bạch Hồng!

Quan Sơn Nguyệt chận lời y:

– Ngươi nói phải, trước kia, vì ngán sợ Lâm tiên tử, ngươi cố đè nén dã dâm, rồi từ ngày ngươi phát hiện ra cái đạo lý vừa kể thì ngươi bắt đầu buông lung tàn bạo, thực hiện mưu gian. Trước cái dã tâm bừng dậy như sóng cồn của ngươi, Hương Đình Tiên Tử bắt buộc phải lánh mặt. Bà lánh mặt để truyền thọ kiếm pháp Đại La cho ta, bà lại giao luôn thanh Bạch Hồng Kiếm cho ta ...

Tạ Linh Vận cao giọng chận chàng lại:

– Ta cho, Lâm Hương Đình sơ suất một điều rất quan trọng, là hấp tấp truyền thọ sở học cho ngươi, lại hấp tấp sai ngươi xuất trận đối phó với ta!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Sơ suất như thế nào, ngươi giải thích cho ta nghe xem?

Tạ Linh Vận đáp:

– Bất cứ kiếm pháp nào cũng vậy, muốn đạt đến mức tinh vi, người luyện phải cần một thời gian thích ứng, phàm môn học nào, nếu học viên đốt giai đoạn để mong chóng thành công, thì sự thành công đó, dù có, cũng phù phiếm, cái căn cơ rất mỏng manh, do đó mà hiệu lực không được biểu hiện đúng mức. Lâm Hương Đình chọn ngươi là nam để truyền sở học thuần dương, là hợp lý, song làm sao trong thời gian mấy hôm mà ngươi lãnh hội được chỗ ảo diệu của kiếm pháp?

Làm sao ngươi sử dụng thuần thục được thanh kiếm báu? Mới đây, ta thấy ngươi thi triển kiếm thuật đó, tuy ngươi có thắng được bọn Kỳ Hạo, song ta nhận ra thủ pháp của ngươi còn miễn cưỡng lắm, và công lực của ngươi chưa đủ để phát huy cơ năng của một kiếm pháp tân kỳ với một thanh kiếm cổ truyền. Tuy nhiên, ta cũng thành thật khen ngươi, trong vòng ba hôm, mà ngươi tập luyện được như vậy kể ra cũng khá lắm!

Quan Sơn Nguyệt phải phục sự nhận xét của Tạ Linh Vận. Sự khâm phục đó hiện rõ nơi ánh mắt của chàng.

Tạ Linh Vận nhìn vào mắt chàng, hiểu được tâm tư của chàng, y càng đắc ý hơn, bật cười sang sảng:

– Giả như ngươi luyện tập được ba năm trở lên, thì ta phải sợ ngươi. Chứ còn hiện tại thì ta không hề nao núng ...

Y vừa thốt, vừa cười, giọng càng sang sảng, tiếng cười giành tiếng nói, cuối cùng thì tiếng cười lấn át cả tiếng nói, thành ra đoạn sau của câu nói, chẳng ai nghe lọt.

Chưa biết được cái kết quả như thế nào, những người trước đó, hoàn toàn tin tưởng nơi Quan Sơn Nguyệt, bây giờ bị Tạ Linh Vận gieo niềm hoang mang, họ đã bắt đầu lo ngại.

Niềm tin, đặt nơi Quan Sơn Nguyệt giảm sút đi phần nào.

Họ lo ngại cũng phải, bởi họ nhìn Quan Sơn Nguyệt, xem thần sắc của chàng có biến đổi chăng, sau câu nói của Tạ Linh Vận. Họ nhận ra chàng có vẻ suy tư. Chàng càng suy tư, họ càng lo ngại.

Một lúc lâu, chàng đáp:

– Ngươi nhận xét rất đúng, tuy nhiên ngươi quên một điều.

Tạ Linh Vận ngưng cười, hỏi:

– Ta quên điều gì?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Ngươi quên nghĩ đến tín tâm của ta! Phàm làm việc gì, việc đó có thành công hay không, phần lớn là do niềm tin của người làm. Việc khó, mà niềm tin vững, việc hẳn phải thành. Việc dễ, mà mất hẳn niềm tin, thì việc đó cầm như vô công.

Tạ Linh Vận trố mắt:

– Tín tâm? Tín tâm có quan hệ gì trong công cuộc này?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm giọng:

– Tín tâm giúp ta lập những kỳ công, tín tâm có hiệu lực cải biến tình hình, chuyển bại thành thắng, đổi nguy ra an.

Tạ Linh Vận trầm ngâm một chút:

– Hay!

Bỗng, y bật cười ha hả, tiếp:

– Thế ra, nếu hôm nay bọn các ngươi thoát khỏi tay ta, là do một kỳ công, mà cái kỳ công đó do sự tín tâm của ngươi mang lại! Được lắm! Ta muốn thấy sự tín tâm của ngươi có nhiệm mầu gì, cứu bọn ngươi thoát chết dưới tay ta! Vào đi, Quan Sơn Nguyệt, vào mà lập kỳ công, cứu nhân độ thế! Cái nhân thế ở sau lưng ngươi kia!

Quan Sơn Nguyệt không hề mất bình tĩnh trước sự khiêu khích mỉa mai của Tạ Linh Vận. Chàng điềm nhiên nói:

– Bởi ta có cái chách nhiệm lớn lao, bảo toàn sanh mạng hơn trăm người, ta mới nuôi dưỡng tín tâm, nắm cơ tất thắng. Rồi ngươi sẽ thấy những màu nhiệm tín tâm phát sanh, rồi ngươi sẽ thấy kỳ công của ta tạo ra!

Tạ Linh Vận ngưng cười. Y đã thức ngộ một điều gì đó, qua câu nói của Quan Sơn Nguyệt. Y nhận ra, chàng trai đối diện đó quả là một kình địch đáng sợ cho y, y sợ là vì giao đấu với một người chấp nhận sự vong ngả, thì cuộc chiến phải ác liệt phi thường.

Vong ngả, là bất chấp an nguy cho bản thân, vong ngả để thực hiện một lợi ích cho nhiều người, sự vong ngả đó rất kiên định, và phàm ai nuôi dưỡng một lý tưởng, bằng mọi giá, người đó phải thực hiện lý tưởng cho bằng được! Chiến đấu với một lý tưởng chánh đáng, lẻ tất thắng đã hiện lộ trước khi cuộc chiến bắt đầu rồi.

Còn như y, y chiến đấu với cái gì? Y có lý tưởng chăng? Hay là chỉ để thỏa mãn một tham vọng?

Những kẻ có tham vọng, phần đông đều tham sống, sợ chết, nội cái việc đó cũng đủ chứng tỏ là Tạ Linh Vận yếu! Đem tinh thần không dám chết, giao đấu với một kẻ sẵn sàng chết, cái khí hùng đã kém, thì mong gì chiếm tiên cơ?

Tạ Linh Vận không còn dám khinh thường đối phương nữa. Y từ từ rút kiếm ra khỏi vỏ, thanh kiếm chạm vỏ kêu xoang xoảng, ra khỏi vỏ rồi, nó bổng sáng ngời ngời.

Thanh kiếm của y quý hơn hai thanh kiếm của Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh là cái chắc, song dù sao thì vẫn còn kém xa Bạch Hồng Kiếm.

Tạ Linh Vận khẽ búng tay vào thân kiếm, bật lên những tiếng kêu «coong coong», đoạn y trang trọng thốt:

– Thanh Minh Kiếm đây! Nó là vật thường dùng của Tôn Quyền thời Tam Quốc phân tranh. Thanh Minh Kiếm đành rằng không sánh kịp Bạch Hồng Kiếm, song ta tin là nó có thể chịu đựng bảy tám chiêu, mà chẳng gãy!

Quan Sơn Nguyệt nhìn thoáng qua Thanh Minh Kiếm, điểm nhẹ một nụ cười:

– Phải! Một thanh kiếm quý! Càng quý hơn nữa, là kiếm pháp phổ vào thanh kiếm. Nhưng, dù sao «Tu La Kiếm Pháp» có thể bảo trì cho thanh kiếm khỏi gãy, ngược lại nó không bảo đảm nổi chiếc đầu của ngươi còn dính liền nơi cổ.

Tạ Linh Vận cười nhạt:

– Hơn một trăm người trong cánh của ngươi, hoặc sanh, hoặc tử, đều do nơi sự tín tâm của ngươi. Hơn một trăm người trong cánh của ta, ký thác sự tồn vong vào sở học của ta, cuộc đấu giữa ta và ngươi hẳn là công bình đúng mức rồi đó!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Ngươi nói sai! Ta thất bại, là hơn trăm người phải mất mạng. Còn ngươi thất bại, thì bất quá máu chỉ loang trong một địa điểm năm bước tròn, và số người thiệt mạng, chỉ giới hạn với một mình ngươi! Duy nhất một mình ngươi thôi!

Tạ Linh Vận sợ đồng bọn nghe lọt, vội cười to, thốt:

– Đó là chủ trương của ngươi, đối với ta chẳng quan hệ gì. Bởi, ta chết rồi, thì ta làm sao chiếu cố đến ai được nữa? Ngươi cố chấp, họ vẫn chịu, ngươi rộng rãi, họ được nhờ. Đó là việc sau, còn hiện tại thì ta chỉ biết là cuộc đấu giữa chúng ta rất công bình. Ta biết vậy là đủ.

Họ đối thoại, bốn mắt nhìn nhau, bốn chân cùng xê dịch.

Bước đi của họ trầm trọng, đá dưới chân nát nghiền, bật thành tiếng kêu rạo rạo.

Song phương cùng di động, toàn diện cục trường im phăng phắc.

Họ càng đến gần nhau, sự im lặng càng nặng nề.

Trong cảnh im lặng nặng nề đó, đột nhiên một tiếng quát vang lên, rồi một ánh chớp lóe sáng, Thanh Minh Kiếm nơi tay Tạ Linh Vận vút ra. Y xuất phát chiêu đầu.

Chiêu đó, có cái tên là «Vân Thảm Vụ Sầu», kiếm pháp thuộc Ma đạo mà thành, chiêu kiếm cũng có cái tên tà quái, cho nên kiếm vừa xuất phát, là phát sanh mây đen, mây đen che kín ánh dương quang, biến cục trường đang sáng thành tối, nhưng chẳng tối hẳn, rồi trong bóng tối mờ mờ đó, văng vẳng lên tiếng quỷ rú, ma gào. Kiếm pháp Tu La với chiêu thức đó, biến trần gian thành địa ngục, gieo khủng khiếp trọn vùng mờ tối, phàm những ai hiện diện tại cục trường, đều khiếp đảm kinh tâm.

Những người nhát, trong cả hai bên, đều run sợ.

Lo ngại! Đương nhiên là những người đặt trọn tin tưởng nơi Quan Sơn Nguyệt phải lo ngại là cái chắc, những người bên cánh của Tạ Linh Vận, vì vũ đạo cũng lo ngại như thường, bởi những kẻ thực tâm vì vũ đạo, chỉ chú trọng đến vũ công, mà không hề xem thù oán là quan hệ.

Họ tự hỏi:

“Quan Sơn Nguyệt sẽ làm sao đối phó với chiêu kiếm quỷ khóc thần sầu đó?”.

Họ tự hỏi như thế, chứ có ai tìm được câu giải đáp? Bởi chẳng có một dữ kiện nào giúp họ tìm câu giải đáp. Vì, ít nhất họ cũng phải trông thấy Quan Sơn Nguyệt như thế nào, thần sắc chàng ra sao, chàng ứng phó với chiêu thức gì? Họ chẳng thấy gì cả, hiện tại Quan Sơn Nguyệt đang bị một lớp mây đen, không dày lắm, song mờ mờ đủ che khuất chàng trước tầm mắt của mọi người. Lớp mây đen đó, dần dần lan rộng, che trọn ánh dương quang đang chiếu xuống cục trường, lớp mây bao gồm trọn vẹn số người hiện diện của song phương.

Lớp mây đen bây giờ dày lại, bóng tối càng phút càng dày, chừng như người ta không còn nhìn thấy rõ người đứng bên cạnh!

Đúng là một đường kiếm có ma thuật đáng sợ!

Không lâu lắm, lớp mây đen đó vẫn còn dày, còn đen, song từ bên trong, có một tia sáng xuyên thủng ra ngoài, như vầng mây mưa sau cơn trút nước, mỏng dần, rồi ánh dương quang gặp chỗ hở, lóe ngang, rọi xuống trần gian, dương quang rọi tia hy vọng xuống cho người đời là, sau cơn mưa, trời sẽ sáng lại.

Thì tia sáng nầy cũng mang lại một niềm hy vọng cho những kẻ lo ngại về trường hợp của Quan Sơn Nguyệt.

Dương quang, nếu tỏa rộng khắp không gian trống trải, thì chẳng có chi lạ, bởi người ta xem rất thường, xem suốt ngày, xem ngày này sang ngày khác.

Dương quang có lạ chăng, là bỗng dưng lại tắt mất, bỗng dưng lại bị che khuất đi, làm cho con người bực bội khó chịu rồi sau đó bất thình lình lại rọi xuống.

Những tia sáng nào cũng thế, có đẹp là khi nó phát xuất từ chỗ tối chiếu ra.

Thì, giờ đây, tia sáng từ trong lớp mây mờ bắn ra, vừa đẹp, lại vừa gây niềm tin tưởng, một niềm tin tưởng lung lay, bắt đầu củng cố lại rồi.

Tia sáng đó hiện ra rồi, thoạt đầu rất nhỏ, nhỏ như đường tơ, rồi dần dần lớn, từ cổ họng, lớn dần bằng cành cây, một thân trúc, một cội cây to ...

Tia sáng đó hiện ra, là mây đen phải mờ, bóng tối bớt dày, tia sáng càng lớn, mây đen càng tan biến.

Tia sáng lấn át dần dần qua lớp mây đen, cuối cùng thì mây cuốn, sương biến hoàn toàn, trả không gian trở về quang đãng.

Một loạt tiếng thở phào vang lên, những tiếng thở phào cùng phát ra một lượt, nghe như luồng gió đùa qua đầu cỏ, cỏ chạm nhau kêu lào xào.

Họ nhìn vào cuộc chiến.

Thanh kiếm Bạch Hồng vẫn chiếu sáng nơi tay Quan Sơn Nguyệt, tuy nhiên, nơi trán chàng, lâm râm những hạt mồ hôi. Thần sắc của chàng vẫn vững như thường.

Tạ Linh Vận có phần nào thở mạnh hơn trước, tiếng thở của y nghe hơi nặng, điều đó không thể có được nơi những người có công lực tu vi thâm hậu, trừ trường hợp bị chấn động tâm thần quan trọng.

Hiện tại thì bọn Lý Trại Hồng, Liễu Y Ảo, hai bà họ Lạc cũng như Khổ Hải Từ Hàng đều thấy rõ là Quan Sơn Nguyệt đã phá xong chiêu thứ nhất của Tu La Tôn Giả Tạ Linh Vận.

Họ hết lo sợ thì họ cười, nụ cười hàm chứa cái ý thán phục Quan Sơn Nguyệt.

Tạ Linh Vận dường như mất thần sau cái bại đầu tiên, thừ người một chỗ rất lâu, cuối cùng, y mới điểm nụ cười nhạt, từ từ thốt:

– Ta đánh giá ngươi rất thấp. Ta khinh thường sở đắc của ngươi! Thì ra đối phó với Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh, ngươi không vận dụng toàn công lực! Ngươi đã dành một phần nào kín đáo, dấu ta!

Quan Sơn Nguyệt đưa tay lau mồ hôi trán, gương mặt trầm nghiêm, giọng nói cũng trầm nghiêm:

– Đừng nói những chuyện mơ hồ, Tạ Linh Vận! Công lực đâu phải là một vật hữu thể, mà người có cách phát huy từng giọt, từng giọt, nhiều ít tùy ý? Đối với vợ chồng Kỳ Hạo, ta dùng bao nhiêu công lực, thì đối phó với ngươi, ta cũng chỉ dùng bao nhiêu công lực đó thôi, ta đã dùng tất lực bình sanh cho cả hai lần, lần nào cũng như lần nào, thì làm gì có việc dành, để? Không, chẳng có việc đó được. Có điều, đối phó với ngươi, đấu pháp của ta tăng cường bằng cái tín tâm mà ta đã giãi bày cho ngươi hiểu trước đây mấy phút.

Chàng gật gù, tiếp:

– Đúng vậy! Tạ Linh Vận, chính tín tâm chi trì ta, nhờ thế mà ta có đủ sức chi trì cuộc đấu.

Tạ Linh Vận chừng như cười, mà cũng như mếu. Y trầm ngâm một chút, đoạn thốt:

– Cái tín tâm của ngươi có bền không? Nó có thể giúp ngươi chi trì cuộc đấu với những chiêu thức kế tiếp của ta chăng?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Tín tâm tương quan với hơi thở. Hơi thở còn, là tín tâm còn, tín tâm diệt là khi nào hơi thở tắt!

Tạ Linh Vận hét:

– Hay! Hùng tráng thay thái độ của ngươi? Ta sẽ dập tắt hơi thở ngươi qua chiêu này, cho ngươi mang tín tâm về địa phủ mà biểu hiện với ma sầu quỷ đói.

Y vung kiếm. Chiêu thứ hai của kiếm pháp Tu La! Nó có cái tên là «Sưu Hồn Đoạt Phách». Lần này, y không cần biểu dương oai khí, nên cái thế công chẳng mở rộng ra khắp cục trường, y tập trung kiếm khí trên mình Quan Sơn Nguyệt.

Khác hơn lần trước, mọi người đều thấy rõ, song họ chỉ thấy hai vầng kiếm quang chứ không thấy người. Bởi chung quanh Quan Sơn Nguyệt và Tạ Linh Vận, có một vầng kiếm quang bao bọc. Hai vầng kiếm quang của song phương, từ nhỏ, lan dần lớn ra, rồi từ lớn, thu dần dần hẹp lại.

Vầng kiếm quang lớn, là song phương biểu dương oai khí, kiếm quang thu hẹp là xong phương tập trung kiếm pháp để áp đảo lẫn nhau.

Hai vầng kiếm quang nhỏ dần, nhỏ đến vừa đủ cho bao bọc cả hai, như mỗi người mặc một bộ y phục chẹt bằng kiếm quang vậy.

Hai vầng kiếm quang thu nhỏ đến đó rồi ngưng lại.

Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ ung dung, không nói gì.

Tạ Linh Vận cất tiếng:

– Tiểu tử! Ta xem, ngươi đang giả tạo một tư thế rõ ràng! Bởi không lẻ ngươi ỷ trượng vào tín tâm mà chống lại nổi chiêu thứ hai của ta?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Ta không nhờ tín tâm thì nhờ gì chứ? Bất quá lần này thì cái tín tâm phát xuất có phần khác hơn vậy thôi!

Tạ Linh Vận «hừ» một tiếng:

– Khác như thế nào? Tiểu tử ơi, thôi đi, đừng vẽ vời!

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Lần trước, tín tâm của ta ở nơi ý chí, lần này tín tâm ở nơi chiêu kiếm.

Chiêu kiếm của ta, tên là «Sơn Nhạc Vĩnh Tri», hoàn toàn thủ thế, thủ vững vàng, chắc chắn, cái chiêu của ngươi dù lợi hại, cũng không thể thu hồn bạc phách một hòn núi được.

Tạ Linh Vận quát to:

– Giỏi! Cho ngươi giỏi! Ta sẽ đánh luôn ra cả bốn chiêu sau, cùng một lúc, xem ngươi có còn là Sơn, Nhạc nữa chăng. Xem ngươi có nát như tro bụi hay chăng! Dù cho ngươi nấp dưới lòng biển sâu, ta cũng đốt cạn khô cả biển, xem ngươi có vững vàng, chắc chắn nữa chăng!

Câu nói buông dứt, y xuất thủ liền. Và, đúng như lời, y xuất phát đủ bốn chiêu. Những chiêu đó có tên là:

«Cuồng Phong Bạo Vũ», «Nộ Lôi Tật Thiểm», «La Hỏa Luyện Thiên» và «Liệt Việm Đằng Tiêu».

Bốn chiêu phát xuất rồi, là cục trường nổi dậy gió, mưa, sấm, chớp, tất cả trợ oai cho lửa bốc bừng bừng.

Trên đời, có cái chi đáng sợ hơn là Thủy Hỏa Phong Lôi? Bốn chiêu kiếm phát xuất, tập họp tất cả bốn thứ đáng sợ, khuấy động cục trường, dù cho núi cũng chẳng chịu đựng nổi, huống hồ con người?

Tất cả đều tập hợp để đổ ào ào xuống thân hình Quan Sơn Nguyệt.

Thoạt tiên, gió lộng, tóc chàng rối bùng lên, phất loạn, rồi đến y phục bốc lửa. Dần dần, sấm nổ từ trên đầu giáng xuống, chớp sáng dăng dăng trước mắt, gió cuốn, nước đùa, chàng sẽ tan như cát bụi ...

Nhưng, oai lực của Thủy Hỏa Phong Lôi không làm dao động ý chí kiên quyết của chàng nổi. Chàng từ từ đưa thanh kiếm Bạch Hồng lên, trước hết, vẽ một vòng tròn đùa khói lửa và nước ra ngoài, một vầng sáng thoạt đầu còn mờ mờ hiện ra nơi khoảng trống đó, mường tượng ánh bình minh vừa lên, và ánh bình minh thu dọn dần dần màn đen tối, ánh bình minh từ từ rạng rỡ với những màu sắc huy hoàng.

Cuối cùng, trong vầng sáng đó, một điểm đỏ hiện ra, điểm đỏ lớn nhanh, càng lớn càng lan ra, lấn áp màu đen tối đang phủ xuống cục trường.

Cái chiêu đó, chính là chiêu «Hút Nhật Sơ Thăng», chàng có sử dụng qua, lúc giao đấu với vợ chồng Kỳ Hạo, cho nên ai ai cũng hiểu.

Bình minh lên, là Thủy Hỏa Phong Lôi đều phải tiêu tan, bởi thái dương hiện ra, là bao nhiêu mây mờ phải biến mất.

Y như lần giao đấu với vợ chồng Kỳ Hạo, tạo nên vầng sáng rồi, Quan Sơn Nguyệt lại gặt tay. Cái gặt tay đó tạo cho vầng sáng, luôn cả điểm hồng tượng trưng thái dương, sự linh động phi thường.

Vầng sáng chiếu ngời ngời, điểm hồng xoay chuyển, đồng thời gian, một chiếc bóng hiện ra.

Đó là Quan Sơn Nguyệt phát xuất luôn chiêu «Bạch Hồng Quán Nhật».

Kỳ Hạo và Khổng Linh Linh, người bị phong bế huyệt đạo, kẻ lại bị gãy kiếm, do chính chiêu «Bạch Hồng Quán Nhật».

Chiếc mống hiện ra, vút đến Tạ Linh Vận.

Tạ Linh Vận cố vận công lực, loang thanh kiếm Thanh Minh, tăng gia oai thế, song vô ích. Bạch Hồng Kiếm áp đảo Thanh Minh Kiếm rõ ràng, dù Tạ Linh Vận cố gắng đến đâu, cũng chẳng làm sao phát huy một kháng lực hữu hiệu.

Có tiếng ngân dài, loang trong không gian, từ nơi thanh kiếm Thanh Minh, những điểm sáng như những hạt mưa, vừa chớp vừa rơi rụng ...

Tạ Linh Vận hết sức hãi hùng, nhún chân tung mình lên không, chênh đà vọt về phía hậu, đáp xuống, cách vị trí ngoài năm trượng xa.

Quan Sơn Nguyệt không bỏ, thân kiếm hợp nhất, theo ngay.

Tây Môn Vô Diệm rú lên một tiếng, bất chấp hiểm nguy, lướt tới chận chàng.

Bà ta vung tay không, chụp vào kiếm quang của Quan Sơn Nguyệt.

Liều như thế, thà tự tử còn hơn, bất quá bà ta ngăn chận cái thế tiến của Quan Sơn Nguyệt, chứ bà làm gì chàng nổi? Và, cái gì đến, đã đến với bà. Bà rú lên một tiếng thứ hai, lần nầy đúng là tiếng rú thảm.

Máu! Trong vầng kiếm quang của Quan Sơn Nguyệt, máu tươi bắn ra như hạt mưa bị gió bốc quăng đi.

Bạch Hồng Kiếm bám theo Tạ Linh Vận, nhưng Tạ Linh Vận không ngã, mà người ngã chính là kẻ đem xương thịt làm bình phong, người ngã chính là Tây Môn Vô Diệm. Hai cánh tay của bà biến thành hai đống xương vụn, da thịt cũng đồng số phận.

Không ai tưởng nổi hiệu lực của nhát kiếm đó, phàm một nhát kiếm nếu có thành công, thì bất quá chỉ tiện lìa một vật gì, hoặc giả gây nên một vài vết thương mà thôi. Chứ làm gì có một nhát kiếm lại chặt cả hai cánh tay thành da thịt xương vụn vằn?

Hay nhiều nhát kiếm? Nếu là nhiều nhát, sao chẳng một ai nhận định kịp?

Gương mặt của Tây Môn Vô Diệm đã xấu, bây giờ máu vấy khắp nơi, máu nhuộm cả y phục, đỏ ngời, trông bà ta đáng khiếp vô cùng, chẳng khác nào một quỷ sứ từ trong ao máu vươn mình lên đòi mạng ai đó.

Quan Sơn Nguyệt thu kiếm về, nhìn xuống Tây Môn Vô Diệm đang lăn lộn trên mặt đất.

Tạ Linh Vận biến sắc mặt như tàu lá, lâu lắm y mới buông tiếng thở dài:

– Tiểu tử tàn độc thật! Tàn độc không phải ở hành động, mà tàn độc vì cái dụng ý của ngươi! Ngươi che giấu sở đắc khiến cho ngoại nhân tin tưởng ngươi là một tay tầm thường ...

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Phải! Ta đến đây, không ngoài mục đích giết ngươi, tất cả mọi người trao cho ta cái sứ mạng đó, thì thực lực của ta được dành lại, dành để cho ngươi, duy nhất mình ngươi! Chẳng một ai khiêu khích ta để bắt buộc ta phải sử dụng tuyệt kỹ, tiêu hao công lực. Ta trừ diệt ngươi rồi, những kẻ kia cầm như rắn không đầu, dù họ có muốn làm gì cũng chẳng dám làm!

Tạ Linh Vận lạnh lùng:

– Thế sao ngươi còn dần dà? Sao ngươi chưa bước tới kết liễu mạng sống của ta? Ta không bao giờ tưởng là phải bại nơi tay ngươi ... Hừ! Tại ta! Nhãn lực của ta quá kém! Ta khinh thường ngươi chẳng làm sao phát huy nổi uy lực của thanh kiếm Bạch Hồng!

Quan Sơn Nguyệt hiện tại vẫn còn thở gấp. Tuy thắng trận, chàng cảm thấy cái thắng này đánh đổi rất nhiều gian khổ, nếu không nói là chàng đánh đổi giá sanh mạng.

Ngươn khí và tinh thần tiêu hao quan trọng qua cuộc đấu. Mãi một lúc lâu sau, chàng mới lấy lại bình thường.

Trong khi đó, Tạ Linh Vận còn rung người, chừng như y không đứng vững tại chỗ.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, nói:

– Không! Ta không giết ngươi, dù sứ mạng của ta là phải giết ngươi, trừ diệt ngươi như chặt đầu một con rắn, để toàn thân rắn tê liệt muôn đời.

Tạ Linh Vận trố mắt, không tin là chàng nói thật.

Bọn người sau lưng chàng cũng trố mắt hãi hùng, tự hỏi chàng nói thế là nghĩa gì?

Chẳng lẽ chàng buông tha Tạ Linh Vận thật sự?

Bọn Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo, Giang Thượng Nhất u đều lộ vẻ khẩn cấp, Lý Trại Hồng kêu lên:

– Quan công tử! Bây giờ không giết hắn, sau này ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Ai muốn giết hắn cũng được, riêng tại hạ thì ... tại hạ không thể xuất thủ làm cái việc đó.

Liễu Y Ảo hỏi gấp:

– Tại sao?

Quan Sơn Nguyệt vỗ nhẹ tay vào thanh kiếm Bạch Hồng, đáp:

– Lúc tại hạ thọ nhận thanh kiếm này, tại hạ có lập trọng thệ là:

«Nếu không gặp một trường hợp quyết định sự sống chết của hàng trăm, hàng ngàn người thì tại hạ không hề sử dụng đến nó. Và, mỗi lần sử dụng đến nó, thì chỉ cho nó đẫm máu một người thôi», giờ đây, trước khi giao đấu với Tạ Linh Vận, tại hạ đã để nó đẫm máu của một người rồi. Tuy sự đẫm máu đó chẳng phải do ý muốn của tại hạ, dù sao thì sự kiện cũng đã xảy ra, cho nên tại hạ không thể dùng nó mà làm cho máu chảy thêm một lần nữa.

Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo sững sờ, nhìn nhau thừ người ra đó.

Giữ được một lời thề như vậy, dù biết rằng đối phương, nhân sự giữ lời thề của chàng, mà thực hiện một kế hoạch phục thù, trên đời này chỉ có chàng thôi.

Bởi, ai không muốn nhổ cỏ, nhổ tận gốc rễ? Bởi, có ai muốn nuôi dưỡng một hậu hoạn bao giờ?

Hiện tại thì Tạ Linh Vận tin được là Quan Sơn Nguyệt thực sự không có ý muốn giết y. Thần sắc của y biến đổi, song chẳng ai nhận định những ý niệm đang hiện lên trong tâm tư y qua thần sắc đó. Mãi một lúc lâu sau, y bật cười, tiếng cười của y chấn dội màng tai của bọn Lý Trại Hồng.

Cười một lúc, y cao giọng thốt:

– Có ai tưởng tượng được một sự kiện như thế chăng? Ta đường đường là một nhân vật thượng đỉnh trong Long Hoa Hội, lại bị một tiểu tử đánh bại, rồi còn được tiểu tử tha chết cho!

Y lại cười. Tiếng cười của y nghe như tiếng khóc, khóc căm, khóc hận, tiếng cười đó khó nghe hơn tiếng khóc. Y dùng tiếng cười thay cho tiếng khóc, bởi làm sao y khóc được? Khóc là hèn nhát, mà trường hợp này, y phải khóc mới đúng hơn. Y mượn tiếng cười thay tiếng khóc, để tiết bớt niềm phẫn uất, để phôi phai tủi nhục.

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên cất tiếng:

– Tu La Tôn Giả! Đừng khó chịu như thế! Thực ra cái ý giết người của ta, kiên quyết lắm chứ, song ta vì lời thề, không thể thực hiện cái ý đó trong dịp này.

Ngươi nên nhớ, mất dịp nầy ta còn nhiều dịp khác, nếu ngươi còn ham sống, thì từ nay nên lánh mặt ta!

Những đường gân, những thớ thịt trên mặt Tạ Linh Vận giật liên hồi. Song y chẳng nói gì cả, y cúi xuống, vòng tay bế Tây Môn Vô Diệm lên, điểm vào mấy huyệt đạo nơi mình bà, ngăn chận máu chảy, đoạn quay mình, lặng lẽ bước đi.

Y đi được mấy bước, Khổ Hải Từ Hàng lướt tới, chận đầu, vòng tay chào, rồi thốt:

– Tôn giả, biển khổ không bờ, quay đầu là thấy bến, bần tăng hy vọng Tôn Giả nghe cho mấy lời.

Tạ Linh Vận trừng mắt, căm hờn gằn giọng:

– Cho lão trọc biết, linh hồn ta sẽ mãi mãi đắm chìm trong khổ ải, ta cam tâm với cảnh trầm luân, ngươi đừng uốn cái lưỡi mà giở giọng thuyết pháp! Vô ích!

Khổ Hải Từ Hàng thở dài:

– Tôn Giả chấp mê, trong khi thừa khả năng thức ngộ! Được lắm, tùy Tôn Giả, bần tăng chẳng nói chi nhiều, chỉ mong Tôn Giả giải tán cái tổ chức dẫy đầy tội ác kia, còn như cần siêu độ thì nơi nào bần tăng lại chẳng thuyết pháp được?

Nơi nào lại thiếu chúng sanh? Tôn Giả xem kìa, bần tăng chẳng cần phải đi xa hơn địa phương nầy ...

Lão đưa tay về phía hậu, chỉ một số người theo sau lão.

Tạ Linh Vận nhếch nụ cười khổ nói:

– Ngươi yên trí, đường ngươi ngươi đi, đường ta ta tiến, ngươi cảm hóa được bao nhiêu người, mặc ngươi, ta không cần biết đến làm gì, cái điều đáng lưu ý nhất, là sau cuộc thảm bại hôm nay, ta chẳng còn mặt mũi nào lãnh đạo họ như trước kia.

Khổ Hải Từ Hàng vòng tay chào lượt nữa:

– A Di Đà Phật! Tôn Giá có ý niệm đó, cầm bằng một công việc đại công đức với đời.

Bởi, lão yêu cần Tạ Linh Vận giải tán tổ chức phi nhân, bất đạo, mà Tạ Linh Vận thì nói là chẳng có mặt mũi nào lãnh đạo bao nhiêu người cũ, như vậy là y gián tiếp thừa nhận giải tán tổ chức rồi.

Khổ Hải Từ Hàng tán một câu, để tạ cái ý niệm đáng ngợi của Tạ Linh Vận!

Tạ Linh Vận mặc cho lão nói gì, làm gì, bế Tây Môn Vô Diệm tiếp tục bước tới. Y đi, không lưu ý đến phía sau lưng.

Sau lưng y, còn có Kỳ Hạo, Khổng Linh Linh, sau đôi vợ chồng này, có thêm một số người nữa. Ai ai cũng lộ cái vẻ thiểu não, như con gà chọi bại cuộc, xù lông, rũ cánh, cụp đuôi, thất thểu bước.

Một đoàn người rất đông, âm thầm đi, trông như một đám tang ...

Bọn Tạ Linh Vận đi rồi, đến lượt bọn Quan Sơn Nguyệt cũng đi, cục trường trở về im lặng, trong không gian cò phảng phất tử khí ...

Xuống đến chân Thần Nữ Phong rồi, mọi người bao quanh Quan Sơn Nguyệt.

Người ta xem chừng như vị anh hùng vừa tạo chiến thắng đánh đuổi quân thù, đem an ninh về cho đất nước, thoát khỏi cái nạn giẫm nát quê hương. Niềm hoan hỉ hiện lên gương mặt, người ta suýt công kênh chàng lên như một thần tượng.

Riêng Liễu Y Ảo tuy hân hoan, song vẫn còn bất mãn, nàng gằn giọng hằn học:

– Sư phụ sao, đệ tử vậy, chẳng khác tý nào! Cái gì mà lời thề? Cái gì mà không thể? Ngày nay, tha cho hắn, ngày sau, hắn có tha lại cho không?

Lý Trại Hồng cười nhẹ:

– Sư muội nói gì thế? Nói gì thì Quan công tử cũng buông tha cho hắn rồi, nói làm chi khi việc đã rồi? Sư muội phải biết, lời thề đối với nam nhân là cái gì trọng nhất đấy, Quan công tử phải hành động như vậy, là vì lời thề, sư muội không thể trách cứ được!

Liễu Y Ảo vẫn tức:

– Giữ lòng nhân theo phường nữ nhân, câu chấp từng tiểu tiết một, lời thề hảo mà phải giữ! Thế thì còn gọi là anh hùng sao được? Phàm anh hùng là trừ hung diệt bạo, tạo an toàn cho đồng loại, chứ vì cố chấp mà lưu hậu hoạn cho thế nhân thì sao gọi được là anh hùng chứ? Theo tôi, làm như vậy là thả cọp về rừng, là duy trì hậu hoạn cho người đời đấy!

Lý Trại Hồng lại cười:

– Ai thì sợ, chứ sư muội mà cũng sợ nữa à? Đã có hòn núi chở che, sấm sét búa rìu gì hại nổi sư muội chớ?

Liễu Y Ảo thẹn đỏ mặt, kêu lên:

– Sư tỷ đừng đùa chớ! Tôi nói chuyện nghiêm chỉnh mà!

Nhất u nhếch nụ cười khổ:

– Lão phu đồng tình với Liễu Tiên Tử! Tạ Linh Vận còn sống ngày nào, là ngày đó chẳng ai ăn ngon ngủ yên.

Lão cười khổ, Quan Sơn Nguyệt cũng cười khổ:

– Thú thật với các vị, tại hạ chẳng hề phát thệ như đã tuyên bố, tại hạ cũng không tưởng là phải buông tha cho Tạ Linh Vận. Mà ...

Tất cả đều giật mình.

Liễu Y Ảo hấp tấp hỏi:

– Thế thì vì lý do gì, công tử chẳng giết hắn?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Bởi lúc đó tại hạ không giết hắn nổi, chứ chẳng có lý do gì quan trọng cả.

Trái lại, nếu hắn muốn giết tại hạ, thì dễ như trở bàn tay ...

Mọi người đều kinh ngạc.

Quan Sơn Nguyệt giải thích:

– Với công lực của tại hạ, thì tại hạ chỉ phát huy oai thế một lần thôi, lần đầu tiên lại không làm gì nổi hắn, trái lại bị hắn chống trả! Hụt thế công đầu, tại hạ tiêu hao rất nhiều chân khí, nhưng tại hạ cố gắng đánh tiếp chiêu thứ hai, chẳng khác nào đánh liều lĩnh, giả như Tạ Linh Vận hoàn thủ, thì chẳng biết cái hậu quả như thế nào xảy đến cho tại hạ! May thay, Tây Môn Vô Diệm xuất hiện, người ngoài ai cũng cho rằng bà ấy cứu Tạ Linh Vận, song ngược lại thì chính nhờ sự can thiệp của bà ta, mà tại hạ thoát chết dưới tay Tạ Linh Vận!

Một số người đã hiểu, số khác còn mơ hồ.

Quan Sơn Nguyệt giải thích tiếp:

– Oai lực của Bạch Hồng Kiếm hùng mãnh phi thường, nếu phát huy ra, là đối phương phải mất mạng. Tuy vậy, tại hạ chỉ chém đứt hai bàn tay của Tây Môn Vô Diệm thôi. Điều đó chứng tỏ là tại hạ kiệt sức rồi. Nếu Tạ Linh Vận nhận ra, tiến tới tấn công, thì tại hạ cầm chắc cái chết trong tay. Do đó, tại hạ không dám quyết liệt ...

Liễu Y Ảo trố mắt:

– Rồi công tử bịa chuyện để lừa hắn?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Phải! May thay hắn lại tin ngay!

Mọi người đều nín lặng.

Niềm vui kém giảm đi phần nào.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 33

Cái Khổ Sanh Ly

Quần hùng lần lượt ly khai Thần Nữ Phong.

Chẳng một ai thốt lời cáo biệt với Quan Sơn Nguyệt, vì lúc đó chàng quá mệt nhọc, tựa mình vào một khối đá to lớn, nhắm mắt lại.

Chàng ngủ, hay chàng không gượng nổi, mà phải mê man trầm trầm, hay chàng hành công, điều tức?

Quần hùng ly khai, chẳng phải tất số, bởi chàng đang ở trong hoàn cảnh đó, ít nhất cũng phải có một vài người, lưu lại tại chỗ, làm cái việc hộ pháp cho chàng.

Những người ở lại, là Liễu Y Ảo, Lý Trại Hồng, Nhất u và Linh Cô.

Bất cứ cuộc hội họp nào cũng thế, lúc tụ thì vui vẻ bao nhiêu, lúc phân tán càng buồn lạnh bấy nhiêu.

Bốn người còn lại, bên cạnh Quan Sơn Nguyệt, không khỏi bâng khuâng man mác, nhìn qua khung cảnh vừa náo nhiệt đó, giờ đây hoang vắng đến se lòng.

Cảnh vẫn hoang vắng như thường, dù hiện diện có đến năm người, một thì hồn chơi vơi tận phương trời xa, bốn thì nín lặng để giữ an tịnh cho người cần ngơi nghỉ. Họ trầm lặng một lúc lâu, Nhất u khẽ thở dài, thấp giọng thốt:

– Lần này thì giải tán thật sự rồi! Long Hoa Hội! Ba cái tiếng đó từ nay không còn là một bí mật đối với bất kỳ một ai, người trong hội hay ngoài hội. Tất cả đều giã biệt chúng ta để lui vào dĩ vãng! Tất cả bám vào ký ức, để thỉnh thoảng hiện lên qua những phút dây mơ màng của chúng ta! Cái chi cũng thế, dù đến với chúng ta, hoặc dữ, hoặc lành, lúc ra đi rồi, cũng lưu lại cho ta một niềm luyến tiếc!

Xa xa, nơi tàng cây, cũng còn mấy người. Trong số đó có Khổ Hải Từ Hàng, lão nghe Nhất u thở than như thế, nhìn về phía lão, nhà sư điểm một nụ cười, tiếp:

– Trong thiên hạ, làm gì lại có những cuộc họp không tan? Cuộc họp vĩnh cửu hơn hết, là cuộc hôn nhân, dù người không muốn tan, nhưng cái số đã định, kẻ trước người sau, thì không sanh ly cũng tử biệt như thường! Huống chi, có những cuộc hội họp không lành? Lành còn không trường cửu, thì dữ phải tan rã nhanh, là điều rất thường, chẳng có gì phải lấy làm lạ. Long Hoa Hội giải tán được như thế này, đáng cho chúng ta mầng lắm đó, tại sao ngươi còn lưu luyến thiết tha?

Nhất u cười khổ:

– Nào phải ta lưu luyến, thiết tha? Ngay từ ngày ta gia nhập, là ta đã có ý ly khai rồi, ta chỉ mong được ly khai, càng sớm càng tốt, bây giờ, ta dù không muốn, cũng được ly khai rồi, bất quá, ta nghĩ về tương lai, sau cuộc giải tán này, ta sẽ về đâu? Lão trọc, nghĩ hộ ta đi!

Khổ Hải Từ Hàng gật gù:

– Không lưu luyến thiết tha, là thức thời đấy! Bần tăng mầng cho! Song, chứa chấp một Ma Vương như ngươi, trên trời không chỗ, dưới đất không nơi, bần tăng còn biết chỉ bảo ngươi về phương hướng nào? Ngươi đừng hỏi bần tăng, hãy hỏi nơi hắn đó!

Hắn đây là Quan Sơn Nguyệt.

Khổ Hải Từ Hàng thốt xong, đưa tay về Quan Sơn Nguyệt đang trầm trầm bên cạnh khối đá.

Nhất u kinh ngạc:

– Hỏi hắn? Lão trọc có ý tứ gì lại bảo ta hỏi hắn?

Khổ Hải Từ Hàng chỉnh nghiêm sắc mặt:

– Ma chướng, tuy đã được diệt trừ trong hiện tại, song Ma nạn sẽ phát sanh ở tương lai, và trách vụ nặng nề diệt trừ Ma nạn, đều nằm trọn trên đôi vai của tiểu tử. Bần tăng chỉ sợ tiểu tử không đảm đương nổi cái trọng trách đó. Tài, thì hắn có thừa, song cái sức của con người có giới hạn, và sự việc trong tương lai, chẳng phải do một người đơn độc là hoàn thành nổi. Ngươi hiểu cái ý của bần tăng muốn nói chứ? Ngươi phải tiếp trợ hắn, cũng như Lý Tiên Tử phải tiếp trợ hắn.

Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:

– Sao lão trọc ghép ta vào vụ? Tiểu sư muội của ta, bởi cái đạo nghĩa đương nhiên, chẳng thể từ chối sự tiếp trợ hắn, chứ còn ta thì phi lý quá!

Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ:

– Liễu Tiên Tử tiếp trợ tiểu tử, việc làm đó có một ý nghĩa khác. Còn Lý Tiên Tử tiếp trợ, bất quá, nhận miếng trả miếng vậy thôi, bởi Lý Tiên Tử được an nhàn trong phút giây này, thì sự an nhàn đó chính do tiểu tử tạo nên, với cái giá sanh mạng của hắn. Lý Tiên Tử phải làm một cái gì đáp lại mới cân xứng chứ?

Huống chi, một kẻ có lòng nhân, chẳng bao giờ chỉ nghĩ đến mình!

Lý Trại Hồng khoát tay:

– Được rồi, ta biết ngán cái lưỡi của ngươi rồi! Đừng nói nữa! Bây giờ ta hỏi ngươi, ngươi dồn bọn ta vào cuộc, còn ngươi? Ngươi đứng ngoài cuộc để thung dung với ngày tháng, để nhìn người trong thiên hạ tranh chấp nhộn nhàng.

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười bí mật, thốt:

– Có một địa phương an tịnh, địa phương đó được dành cho bần tăng từ lâu lắm rồi. Vì bần tăng còn nặng mang trần vụ, thành ra phiêu lưu ngày tháng, cái thời gian đảm trách đó đã kéo dài đến hai mươi năm. Bây giờ Long Hoa Hội chấm dứt, đồng thời trần vụ của bần tăng cũng chấm dứt, thời cơ đã đến cho bần tăng, về địa phương an tịnh, sống cuộc đời an tịnh.

Lý Trại Hồng cười lạnh:

– Ngươi đừng nuôi mộng, lão trọc. Nuôi mộng đẹp là quyền của ngươi, thực hiện mộng đẹp là một việc còn tùy thuộc nhiều yếu tố, nào phải ngươi tùy tiện mà định đoạt được đâu? Bao lâu nay, ngươi âm thầm bày bố, ngươi hí lộng cả thân lẫn thù, trường nhiệt náo dứt rồi lại nối, nối mãi không thôi, tất cả đều do ngươi, giờ đây, sự việc mới bắt đầu, mà ngươi tưởng là chấm dứt cho ngươi! Đâu dễ dàng như ngươi tưởng! Ngươi chưa rút lui được đâu, lão trọc ạ!

Khổ Hải Từ Hàng chấp tay trước ngực, đầu cúi xuống, điểm một nụ cười, nhưng nét cười không hiện rõ, lão đáp:

– Việc đời, đã được an bài từ trước, cho mỗi người, đến một lúc nào phải gặp cảnh huống nào, đó là cái số đã định, chúng ta chỉ là những con cờ của tạo vật, chúng ta là những kẻ thụ động, không hơn, không kém, đừng ai tưởng là mình có thể tác chủ được cuộc đời của mình. Lý Tiên Tử tin? Lý Tiên Tử không tin?

Điều đó thì tùy Tiên Tử, tin cũng tốt chẳng tin cũng được. Tuy bần tăng thường hội họp với các vị, song vẫn không hề có cái ý tìm nhàn riêng mà để cho các vị gánh trọn trọng trách đâu ...

Nhất u «hừ» một tiếng:

– Ngươi nói cái gì mà ta nghe ra quá mơ hồ như thế, lão trọc? Ngươi vừa nói là có một địa phương an tịnh chờ ngươi, rồi ngươi lại cho rằng không tham nhàn về mình, bỏ lụy cho bằng hữu, ta muốn biết thực sự ngươi có chủ ý như thế nào?

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Bần tăng là con nhà phật, mà phật gia khi đề cập đến mảnh đất an lạc, thì phải hiểu mảnh đất đó không giống với bất cứ khung cảnh nào của trần gian ...

Lý Trại Hồng chận lời:

– Ngươi muốn nói đến khung cảnh viên mãn? Khung cảnh viên mãn của cái tâm?

Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:

– Các vị là người của trần thế, các vị hành động trong khuôn khổ trần thế, bần tăng là kẻ xuất gia, bần tăng có đường lối của Phật gia. Ngày sau gặp nhau, các vị sẽ minh bạch. Bây giờ, đem việc chưa xảy ra mà bàn, mà luận, thì làm sao chúng ta đi đến chỗ hòa đồng?

Lời nói của lão mênh mông quá, kỳ bí quá, chẳng ai hiểu được.

Chẳng ai tiếp nối câu chuyện, chính lúc đó, một bọn người tụ hội bên ngoài, xa xa, cùng rời bỏ vị trí, bước tới.

Những người đó là Huyết La Sát Lạc Hành Quân, Xú Sơn Thần Liễu Sơ Dương và Bạch Cốt Ma Thần Lạc Tương Quân.

Theo sau, Lạc Tiểu Hồng bước chân thất thểu, vẻ sầu muộn hiện rõ nơi gương mặt.

Nhất u nghiêng mình chào, rồi hỏi:

– Tam vị muốn đi?

Lạc Hành Quân gật đầu, rồi thốt:

– Niềm cừu hận mênh mang từ ngày nào, giờ đây đã được thanh toán, cái ơn của Quan công tử rất nặng, chẳng bao giờ họ Lạc quên được. Bọn tôi muốn kính lời cảm tạ, song Quan công tử đang ngủ say, vậy nhờ u lão chuyển lại hộ nhé!

Nhất u không đáp, chỉ gật đầu.

Hai bà họ Lạc và Liễu Sơ Dương chào qua mọi người, rồi quay mình toan đi, Lạc Tiểu Hồng còn lưu luyến, chưa chịu cất bước. Nàng gọi mẹ:

– Mình không thể nán lại một chút sao mẹ? Con muốn chờ Quan đại ca thức dậy, nói lời cáo biệt ...

Lạc Hành Quân thở dài, nắm tay con gái, bảo:

– Con! Tỉnh ngộ đi con! Đừng hy vọng nói gì với công tử! Hiện tại người chẳng còn là đại ca của con nữa, như ngày nào đâu!

Mí mắt của Lạc Tiểu Hồng mọng lên, vì lệ thảm đang cuộn trào ứ đọng chực đổ ra ngoài. Nàng nhìn Quan Sơn Nguyệt một lúc, rồi chuyển ánh mắt sang Liễu Y Ảo.

Liễu Y Ảo giật mình, ngầm giới bị, đoạn nhìn trả lại nàng, ánh mắt của Liễu Y Ảo chẳng có vẻ hiền hòa chút nào.

Lạc Hành Quân thấy thế, vội lôi con gái chạy đi.

Rời xa bọn Lý Trại Hồng rồi Lạc Tiểu Hồng mới òa lên khóc, vừa khóc vừa rên rỉ:

– Con không tin là Quan đại ca thay đổi khác hơn ngày trước! Bất quá, vũ công của đại ca tiến bộ nhiều, chính đó là sự thay đổi duy nhất, còn con người thì vẫn là đại ca của con!

Câu nói của nàng tuy nhỏ, song không gian tịch mịch, vẫn vọng đến tai Liễu Y Ảo.

Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng, hằn học:

– Cái con nhỏ đó đáng ghét lạ!

Lý Trại Hồng liếc xéo nàng, nói:

– Sư muội! Nếu ngươi có một người chồng như thế đó, thì tốt hơn hết đừng bao giờ nói những câu như vậy, mà dù có nói, thì nên tìm những chốn hoang vu mà nói, tuyệt nhiên đừng để lọt vào tai chàng ta!

Bà ta thốt rất khẻ, vừa thốt vừa đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt.

Liễu Y Ảo bất phục, lại «hừ» một tiếng:

– Tại sao chứ? Chẳng lẽ tiểu muội gương mắt to, nhìn cái thứ bé con học đòi yêu đương, làm màu làm mè với chàng?

Lý Trại Hồng thở dài:

– Ngu thơ nói lời phải, đành rằng ngươi là sư muội của ta, cái lẽ là ta phải tiếp trợ ngươi trong mọi việc, đại sư tỷ đã có lời dặn dò, bảo ta thời thường chiếu cố đến ngươi, song ta cảm thấy ...

Bà dừng lại, bỏ lửng câu nói.

Liễu Y Ảo nóng nảy, hỏi gấp:

– Sư tỷ cảm thấy như thế nào?

Lý Trại Hồng trầm ngâm một lúc:

– Người như Quan công tử, chẳng phải chỉ thuộc về ngươi duy nhất đâu!

Liễu Y Ảo biến sắc. Lâu lắm, nàng mới cất tiếng, âm thinh của nàng cũng biến đổi quái dị:

– Nếu có kẻ nào toan chia sớt tình yêu của chàng, thì tiểu muội ...

Đoạn cuối của câu nói, nàng nhốt luôn trong lòng, không cho thoát ra, nhưng thần sắc của nàng thì biểu hiện rõ rệt tâm ý của nàng.

Lý Trại Hồng hiểu, nàng hết sức kinh hãi, day qua Khổ Hải Từ Hàng, đưa ánh mắt cầu cứu. Khổ cho bà, lão tăng không hề có một phản ứng. Lý Trại Hồng thở dài:

– Sư muội chưa được người, sao vội ly khai người?

Liễu Y Ảo càng biến sắc hơn, cứ «hừ hừ» mấy tiếng, rồi cười lạnh mấy tiếng thay vì đáp.

Không gian trầm tịch, tuy ở giữa khoảng không, mà ai ai cũng cảm thấy ngột ngạt vô cùng.

Bây giờ mọi người đã ly khai trọn vẹn, chỉ trừ có bọn họ, bên cạnh một Quan Sơn Nguyệt đang thiêm thiếp giấc nồng.

Bỗng họ phát hiện ra, nơi góc núi, còn có một người. Người đó từ lúc nào đến bây giờ, bất động, thành ra chẳng ai để ý đến, bây giờ, họ khó chịu với cảnh trầm tịch, họ đảo mắt nhìn quanh, nhìn để lơi sự căng thẳng, họ mới phát hiện.

Nhất u vội bước tới gần người đó, nhận ra là ai rồi, lão kêu lên:

– Trời! Ngươi! Ngươi chưa đi à?

Người đó, là Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân, gương mặt bà ta lạnh hơn tiền, đừng ai mong tìm được một nét cảm nghĩ nào nơi gương mặt đó.

Nhất u hỏi, bà bất động một lúc lâu, sau cùng bà đáp:

– Ta còn đợi Quan Sơn Nguyệt!

Liễu Y Ảo đang mang nặng niềm uất tức, không nơi phát tiết, gặp dịp này, khi nào nàng bỏ qua? Nàng lướt tới như bay, đồng thời hét:

– Tại sao ngươi dám gọi tên chàng?

Bành Cúc Nhân điềm nhiên:

– Hắn xưng hô ta là đại nương, tại sao ta không gọi được tên hắn? Trước mặt hắn, ta vẫn gọi như vậy, chẳng có gì lạ thường cả!

Liễu Y Ảo dửng cao đôi mày, nhìn sững Bành Cúc Nhân.

Khổ Hải Từ Hàng hấp tấp thốt:

– Liễu Tiên Tử! Quan thế huynh từng thọ trọng thương, nhờ bà ấy chiếu cố mới khôi phục được nguyên trạng như ngày nay, cái việc gọi họ, xưng tên, chẳng có gì quá đáng đâu!

Bành Cúc Nhân lạnh lùng nói tiếp:

– Long Hoa Hội đã giải tán rồi, giữa chúng ta chẳng còn sự cách biệt nào nữa, hiện tại, trong tương lai, chúng ta ai cũng như ai, chẳng còn ai cao ai thấp!

Liễu Y Ảo cố dằn cơn tức uất, hỏi:

– Ngươi chờ Quan công tử để làm gì?

Bành Cúc Nhân bĩu môi:

– Hỏi hắn một việc! Và cho hắn biết một việc.

Liễu Y Ảo cười mỉa:

– Hỏi việc gì? Cho biết việc gì? Ngươi cứ nói với ta, nói với ta cũng như nói với chàng.

Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng:

– Ngươi thay thế hắn được?

Liễu Y Ảo thoáng biến sắc:

– Tại sao ta không thay thế chàng được? Chẳng lẻ ngươi không nghe ...

Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng lớn hơn:

– Nghe chứ! Nhưng, ta có lưu ý đến làm gì!

Liễu Y Ảo đặt bàn tay lên đốc kiếm, song còn cố dằn lòng chưa rút kiếm ra khỏi vỏ. Nàng gằn từng tiếng:

– Thế phải làm sao ngươi mới lưu ý?

Bành Cúc Nhân so hai vai:

– Khi nào chính miệng hắn thốt lên!

Liễu Y Ảo sôi giận cực độ.

Lần nầy thì nàng rút kiếm khỏi vỏ thực sự, đồng thời nàng quát:

– Mụ già đáng hận kia, ngươi khinh người thái quá ...

Tuy nhiên, nàng không vung kiếm được, bởi Lý Trại Hồng lúc đó đã bước tới nơi, nắm cổ tay nàng giữ lại. Lý Trại Hồng trách:

– Sư muội nóng nảy quá ...

Liễu Y Ảo vùng mạnh, kêu lớn:

– Để cho cái mụ già mạt lưu cùng hạng kia khinh miệt, thử hỏi tiểu muội làm sao chịu nổi chứ? Sư tỷ buông tôi ra, cho tôi trừng trị mụ một phen, nhất định là từ nay, mụ phải kiêng cái mặt nầy, ăn nói có lễ độ hơn!

Khổ Hải Từ Hàng nhẹ giọng khuyên:

– Liễu Tiên Tử, Long Hoa Hội đã giải tán rồi, đâu còn phẩm trật, thứ bậc Tiên – Ma – Quỷ nữa, từ nay ai cũng như ai. Trước khi mình sỉ nhục người ta, cần nhất là mình phải tẩy trừ quan niệm giai cấp. Quan niệm giai cấp hảo kia còn ngày nào, là Tiên Tử vẫn còn khổ ngày ấy!

Đối với vị lão tăng đó, Liễu Y Ảo có phần nào kính phục, lão đã khuyên nàng, tự nhiên nàng phải vâng theo, dằn cơn tức uất, rút tay về, tra kiếm vào vỏ, rồi quay mình trở lại cạnh Quan Sơn Nguyệt, lắc mạnh chàng gọi cho tỉnh lại:

– Thức dậy! Thức dậy chứ!

Quan Sơn Nguyệt mở mắt, đưa tay chà chà cho bớt cay, đoạn hỏi:

– Việc gì mà ...

Liễu Y Ảo còn hận, đang thở mạnh, không thể đáp.

Bành Cúc Nhân và mấy người kia bước tới, tất cả cùng im lặng, chẳng ai mở miệng.

Cái cảnh tượng đó lạ kỳ quá chừng, Quan Sơn Nguyệt trố mắt, cất tiếng hỏi, song chẳng biết hỏi ai:

– Cái gì thế? Chừng như có sự xung đột ...

Bây giờ Bành Cúc Nhân mới đằng hắng, rồi thốt:

– Chính già cũng Liễu Tiên Tử tranh luận ...

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

– Đại nương! Việc gì đến nỗi phải tranh luận với Liễu Tiên Tử?

Nghe chàng gọi Bành Cúc Nhân với hai tiếng đại nương, Liễu Y Ảo biến sắc mặt. Bực tức cực độ, nàng hét lên:

– Quan Sơn Nguyệt! Sự việc giữa chúng ta, có thành hay không thành?

Hãy cho ta biết ngay!

Quan Sơn Nguyệt chợt hiểu. Tuy nhiên, chàng vờ vẻ mơ hồ, hỏi:

– Việc vì giữa tại hạ và Tiên tử?

Liễu Y Ảo tức uất đến chết được. Tay nàng sờ lên đốc kiếm, định rút kiếm ra, nhưng kiếm chưa ra khỏi vỏ nàng ngã xuống liền. Nàng hôn mê vì cơn tức uất khích thích quá mạnh.

Lý Trại Hồng cấp tốc bước tới, nâng nàng, niềm ưu tư hiện nơi mặt, bà thở dài, thốt:

– Quan công tử! Tiểu sư muội vì cái việc hôn nhân, do đại sư tỷ an bài đó, mà ra nông nổi! Sự tình đã được tuyên bố công khai trước mặt nhiều người, công tử còn vờ vĩnh nữa ...

Quan Sơn Nguyệt khẩn cấp vô cùng:

– Điều đó ... tại sao ... do đâu ...

Lý Trại Hồng trừng mắt:

– Tại sao? Chẳng lẽ đại sư tỷ không nói rõ với Quan công tử?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không hề có ...

Đến lượt Lý Trại Hồng biến sắc:

– Thế tại sao giữa đông người, công tử lại mặc nhận?

Quan Sơn Nguyệt đưa mắt sang Khổ Hải Từ Hàng:

– Đại sư! Việc nầy hoàn toàn do đại sư, hãy giải thích cho tất cả được hiểu.

Lúc đó, chính đại sư bảo tại hạ ...

Khổ Hải Từ Hàng há hốc miệng ra, như sửng sốt, lâu lắm mới thốt được thành tiếng:

– Bần tăng vâng chỉ thị của Hương Đình Tiên Tử, tác hợp lương duyên, hơn nữa, Hương Đình Tiên Tử sai Linh Cô đến cho bần tăng biết là Quan thế huynh đã đồng ý ...

Lý Trại Hồng nhìn sang Linh Cô, cao giọng hỏi:

– Tiểu quỷ còn đứng đờ đó à? Sao không giải thích rõ ràng cho mọi người biết sự tình? Đại sư tỷ bảo gì ngươi?

Linh Cô bối rối, lí nhí:

– Được ... được ... tôi nói! Đúng là Lâm Tiên Tử có bảo tôi thông tri đại sư ...

Đúng là Lâm Tiên Tử cho biết, Quan công tử đã chấp nhận ...

Quan Sơn Nguyệt khẩn cấp ra mặt:

– Nói nhảm! Tại hạ đồng ý lúc nào?

Linh Cô đáp:

– Hương Đình Tiên Tử cho biết, Quan công tử đã đáp ứng một việc với bà ấy và công tử còn cam kết là không khi nào hối hận về sự đáp ứng đó ...

Quan Sơn Nguyệt trấn định tâm thần, hồi ức lại những việc đã qua, cuối cùng chàng minh bạch. Chàng hét lên:

– Lầm! Đúng là một sự nhầm lẫn!

Lý Trại Hồng gương tròn mắt:

– Phàm là việc hôn nhân, chỉ có hai lẽ thôi, ưng hoặc không ưng, chứ làm gì có sự nhầm lẫn?

Quan Sơn Nguyệt thở ra:

– Lâm Tiên Tử có yêu cầu tại hạ, giúp làm tròn một việc, bà chỉ nói như vậy thôi, chứ chẳng hề cho biết rõ là vấn đề hôn nhân. Bởi tại hạ cảm kích ơn Lâm tiên tử thành toàn học nghiệp, nên có hứa là sẽ hết lòng làm công việc do bà giao phó. Sự tình như thế đó ...

Linh Cô chen vào:

– Quả đúng như vậy. Song, công tử nghĩ lại xem, Lâm Tiên Tử đã lánh xa trần tục, thì còn có sự việc gì dính dấp với thế gian nữa đâu mà phải nhờ công tử thanh toán?

Lý Trại Hồng giậm chân:

– Khổ chưa! Chung quy cũng tại Lâm đại sư tỷ hồ đồ. Tại sao không nói rõ mà chỉ mơ mơ màng màng?

Linh Cô cãi:

– Không thể trách Lâm Tiên Tử được! Bà có quyết định như vậy, song bà có nói với tôi là thời cơ chưa đến, có thể vì vậy mà bà chưa tiện nói ra chăng?

Tuy nhiên, bà bảo tôi thông tri với đại sư, nhờ đại sư lo liệu, tiến hành.

Mọi người đổ dồn ánh mắt về Khổ Hải Từ Hàng.

Lão hòa thượng thở dài một tiếng:

– Bần tăng nào có muốn gấp tuyên bố đâu? Chỉ tại Liễu Tiên Tử bỗng dưng tham gia cuộc chiến, gây nên khó khăn ... Liễu Tiên Tử nóng nảy quá!

Lý Trại Hồng cũng thở dài:

– Ta cũng có một phần trách nhiệm trong việc nầy! Trước khi ra đi, đại sư tỷ có lưu lại cho ta một phong thơ, đại sư tỷ cho ta biết về cuộc hôn nhân của Liễu sư muội thì người đã an bài rồi. Tuy người chưa nói rõ cái người được chọn làm chồng cho tiểu sư muội là ai, song bằng vào những diễn tiến vừa qua, ta đoán là đại sư tỷ đã đặt vấn đề nơi Quan công tử. Ta muốn tạo nên cái hứng cho tiểu sư muội sớm một chút, thành ra bao nhiêu rắc rối phát sanh ...

Quan Sơn Nguyệt thừ người tại chỗ một lúc lâu, từ lâu lắm rồi bây giờ như chợt tỉnh, trở về thực tại, cũng nhẹ buông tiếng thở dài:

– Lý Tiên Tử ... Tiên tử ...

Nghĩ cũng lạ lùng!

Một cuộc hôn nhân, chẳng biết sẽ có thể kết thúc hay chăng, lại khởi đầu bằng những tiếng thở dài, những vẻ sửng sốt, những bất bình, hằn học.

Người bàn qua, kẻ luận lại, ai ai cũng lắc đầu, cũng tặc lưỡi, ai ai cũng khổ sở quanh vấn đề!

Lý Trại Hồng nhìn nghiêng chàng, gằn giọng:

– Công tử lại định trách cứ tôi lộng giả thành chân, nhân đùa mà đưa mọi người vào cảnh khó xử, phải không?

Quan Sơn Nguyệt không đáp bằng lời, song thái độ, thần sắc của chàng còn rõ rệt hơn lời nói.

Lý Trại Hồng tiếp nối với giọng u buồn có ẩn ước niềm oán hận:

– Thực ra thì lần thứ nhất, tiểu sư muội gặp công tử tại Thiên Tề Biệt Phủ của Kỳ Hạo, con tim của tiểu sư muội đã hướng về công tử rồi. Sư muội trở về cứ nhắc nhở mải đến công tử, chính đại sư tỷ cũng có nghe, và người chẳng hề khiển trách. Có lẽ vì thấy tình ý của tiểu sư muội như vậy, mà đại sư tỷ an bài chăng? Xưa nay, đại sư tỷ có khi nào hành động hồ đồ đâu?

Sự tình càng được diễn giải, càng rõ rệt hơn, nhưng lại càng phức tạp hơn.

Phàm sự việc rõ rệt, thì dễ giải quyết, song ở đây, thì trái lại sự tình càng rõ rệt, mọi người càng nhận thấy càng rối rắm hơn.

Lý Trại Hồng luôn miệng thở dài. Sau cùng, nàng nhìn Quan Sơn Nguyệt, tiếp:

– Tôi hy vọng Quan công tử cho biết thái độ rõ ràng.

Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ khó khăn.

Lý Trại Hồng lại nói tiếp:

– Tiểu sư muội sở dĩ tình nguyện xuất trận tiếp trợ công tử, là vì quá lo lắng cho sự an toàn của công tử. Bởi đại sư tỷ đã cho tất cả biết cái ý định tác hợp cuộc hôn nhân đó, nên tiểu sư muội mới dám công khai nhận là vợ của công tử.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Tại hạ biết như vậy, nên tại hạ rất cảm kích Liễu Tiên Tử khẳng khái tiếp trợ ...

Lý Trại Hồng thở nhẹ:

– Thế là tốt! Tôi chỉ ngại công tử khinh thị Liễu sư muội thôi!

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp đáp:

– Tại hạ chẳng hề có ý đó.

Lý Trại Hồng trang trọng hỏi:

– Bây giờ, công tử tính sao?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc:

– Tại hạ ... tại hạ không thể kết hôn với Liễu Tiên Tử!

Giọng chàng rất nhẹ, trừ một Bành Cúc Nhân đứng ngoài xa xa, tại đó ai ai cũng nghe rõ.

Và dĩ nhiên ai ai cũng sững sờ, bầu không khí đã nặng nề, càng thêm trầm trọng.

Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:

– Tại sao? Tiểu sư muội không xứng đáng?

Quan Sơn Nguyệt buông được câu nói khó khăn rồi, cứ tiến tới luôn, chàng chính sắc mặt, đáp:

– Vấn đề không ở nơi người có xứng hay không xứng. Vấn đề là ở nơi tình cảm. Tại hạ không thể lấy một người vợ thiếu hẳn tình cảm, có thế thôi!

Lý Trại Hồng cao giọng:

– Nói nhảm! Tình cảm của tiểu sư muội so với bất cứ thiếu nữ nào, cũng chẳng kém phần nồng nàn, không thể cho rằng tiểu sư muội thiếu hẳn tình cảm!

Điều đó, tôi dám bảo chứng.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tiên tử hiểu lầm! Tại hạ nói tình cảm, là chỉ về cá nhân, tại thiếu tình cảm đối với Liễu Tiên Tử, chứ còn Liễu Tiên Tử có như thế nào, thì điều đó tại hạ chưa có dịp nhận xét.

Lý Trại Hồng u buồn ra mặt:

– Thế thì thôi! Không ai có quyền cưỡng ép ai làm một việc trái ý muốn!

Huống chi, về hôn nhân, lại càng không nên cưỡng ép!

Quan Sơn Nguyệt đinh ninh là Lý Trại Hồng phải sôi giận về lời tuyên bố của chàng, song lạ lùng thay, nàng hết sức bình tịnh, bất quá, nàng chỉ để lộ vẻ u buồn, vậy thôi, và cũng chẳng phiền trách chi chàng.

Chàng tưởng cần phải nói một câu xoa dịu:

– Lý Tiên Tử! Tại hạ hết sức áy náy ...

Lý Trại Hồng lắc đầu, điểm nụ cười khổ:

– Tôi là người ngoại cuộc, công tử nói sao, tôi nghe thế, chẳng có gì quan hệ đến tôi cả. Bất quá ...

Nàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:

– Tôi có mấy lời thành thật muốn tỏ bày với công tử!

Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm thần sắc:

– Xin Tiên tử cho nghe.

Lý Trại Hồng đưa mắt nhìn qua Liễu Y Ảo lúc đó còn đang đứng sững như chết lặng. Với giọng rung rung, chứng tỏ nàng bị khích động mãnh liệt, Lý Trại Hồng tiếp:

– Công tử không thể lấy Liễu sư muội, thì tốt hơn hãy giết nàng ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình trố mắt nhìn Lý Trại Hồng. Chàng tự hỏi, nàng nói thế là có ý tứ gì? Oán hận chàng mà nói hay thực ra nếu chàng từ chối thì sẽ có điều tai hại xảy đến cho Liễu Y Ảo, chẳng hạn như nàng quẩn chí rồi tìm cách quyên sinh? Hay Lý Trại Hồng muốn đùa chàng? Đùa để mỉa mai chứ chẳng phải để phôi pha một sự bẽ bàng?

Lý Trại Hồng lại tiếp:

– Không đâu, công tử! Tôi không thốt những lời nông nổi! Trong tình cảnh nầy, còn ai có tâm tư nghĩ đến những lời đùa? Trừ ra những người phi phàm thì phần đông thiếu nữ, khi đã yêu hay khi hận, họ đều đi đến chỗ cực đoan, họ có thể làm bất cứ việc gì, kể cả những điều mà họ biết là sẽ mang tai hại đến cho họ.

Riêng về Liễu sư muội thì, theo tôi hiểu, còn vượt qua cái mức cực đoan, có thể bảo nàng hiện tại ở cái chỗ tuyệt đoan rồi đó. Công tử đương diện khước từ, chẳng khác nào dùng ngọn roi mà quất mạnh vào đầu nàng, nàng vừa thất tình, vừa bị chạm tự ái, niềm hận bốc cao, nàng sẽ mất bình tĩnh, nàng sẽ trở nên đáng sợ hơn Tạ Linh Vận nữa đó.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu.

Chẳng ai hiểu cái lắc đầu của chàng có nghĩa gì. Lắc đầu vì chạnh nổi niềm dang dở của Liễu Y Ảo, hay chàng muốn xác nhận lại một lần nữa là chàng không thể miễn cưỡng làm một việc chiếm trọn cuộc đời nàng? Hôn nhân là quan trọng, do đó ai ai cũng phải thận trọng, đâu có thể xem như trò đùa, muốn cột thế nào tùy thích, rồi khi cái hứng lắng xuống lại mở ra?

Lý Trại Hồng tiếp luôn:

– Tuy nàng là sư muội của tôi, mối liên quan giữa tôi và nàng rất mật thiết, tôi cũng không oán trách công tử, mà bất cứ ai có hảo tâm với nàng, cũng không thể vì nàng mà oán trách công tử.

Nhất u khẻ gật đầu.

Khổ Hải Từ Hàng không gật đầu theo những người đó, song lão tăng không tỏ thái độ phản đối.

Bành Cúc Nhân chớp chớp ánh mắt, ánh mắt đó có ẩn ước ít nhiều ý chí khích lệ Quan Sơn Nguyệt.

Lý Trại Hồng ngưng câu chuyện lại một lúc lâu, chờ xem Quan Sơn Nguyệt quyết định như thế nào.

Nhưng, chàng vẫn bất động.

Bắt buộc, nàng phải cất tiếng:

– Cho rằng công tử không nỡ xuống tay, song bọn chúng tôi lại muốn công tử phải dứt khoát sự tình bằng cách hạ sát nàng. Trên đời nầy, một Tạ Linh Vận đã đủ gây khổ cho bao nhiêu người, thì khi mình biết là sẽ còn một họa hoạn lớn hơn sắp sửa phát sanh, tại sao mình không hủy diệt cái hậu hoạn đó?

Phụ họa với lời nói, nàng đưa cao một bàn tay, như chuẩn bị đánh vào tử huyệt của Liễu Y Ảo.

Quan Sơn Nguyệt nhanh chân, vọt mình tới, ngăn chận:

– Không nên! Đừng, Tiên tử!

Lý Trại Hồng trầm giọng:

– Tại sao? Công tử đã bằng lòng lấy nàng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, tỏ vẻ kiên quyết:

– Điều đó thì không! Tại hạ không thể kết hôn với nàng, mà tại hạ cũng không thể giết nàng. Cả hai điều, không thể thực hiện được, tuy nhiên, tại hạ sẽ ngăn trở bất cứ ai gây tổn thương cho nàng.

Lý Trại Hồng buông tay xuống, thở dài:

– Công tử đã nhất định cái hậu quả như thế nào chứ?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:

– Dù hậu quả như thế nào, tại hạ xin một mình đảm trách, giả như Liễu Tiên Tử vẫn là con người tốt, thì tại hạ sẽ nhận lỗi của mình, dù thực sự tại hạ chẳng có lỗi chi cả, bởi không thể yêu ai đó, là có lỗi với kẻ đó sao? Còn như vì bất mãn, mà nàng trở nên tàn độc, thì lúc đó, tại hạ sẽ giết nàng cũng chẳng muộn.

Dù sao, tại hạ mong muốn thanh kiếm Bạch Hồng nầy sẽ chẳng bao giờ có dịp sử dụng cho trường hợp của nàng.

Lý Trại Hồng suy tư một chút:

– Tôi chỉ sợ, đến lúc đó thì cầm như quá muộn rồi.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Cũng có thể là muộn, song chúng ta đâu có thể vô cớ mà giết người, huống chi người đó lại cùng một cánh với chúng ta? Phải chờ xem nàng có phạm tội như Tiên tử dự đoán. Dù nàng phạm tội, là một điều đáng tiếc cho cả nàng lẩn nạn nhân, song chúng ta phải chờ.

Lý Trại Hồng lại trầm ngâm một lúc nữa. Nàng nhìn Liễu Y Ảo một thoáng, đoạn thở dài, thốt:

– Tôi chưa biết cách an bài như công tử có kết quả như thế nào, song tôi cảm thấy kính phục công tử vô cùng. Về đạo lý, thì tôi không tranh luận được với công tử. Cho nên, tôi giao nàng cho công tử đó.

Quan Sơn Nguyệt nhận ra, tuy nàng nói thế, song ánh mắt của nàng ngời lên cái sát ý rõ rệt. Chẳng những sát cơ hiện nơi ánh mắt nàng, mà trong tia nhìn của Nhất u và Linh Cô, sát khí cũng bốc bừng quá lộ liễu.

Khổ Hải Từ Hàng niệm phật hiệu, thốt:

– Bần tăng xin mang nàng theo!

Lão cúi mình xuống, nắm áo Liễu Y Ảo, tay kia lão áp nơi huyệt tâm khẩu của nàng.

Nhanh như chớp, Quan Sơn Nguyệt đánh ra một chưởng, trúng cánh tay lão hòa thượng.

Bàn tay của lão hòa thượng rời ngay huyệt tâm khẩu của Liễu Y Ảo.

Chàng hét:

– Đại sư làm gì thế?

Qua cái chạm đó, Khổ Hải Từ Hàng bị dội lại ba bước, còn Quan Sơn Nguyệt cũng bị đẩy lui về phía hậu, xa hơn nửa trượng.

Không chậm trễ, Khổ Hải Từ Hàng dùng phách không chưởng đánh xuống Liễu Y Ảo đang nằm mê man dưới đất.

Không thể can thiệp kịp thời, Quan Sơn Nguyệt hét lên một tiếng lớn.

Ngờ đâu, Liễu Y Ảo lăn qua một bên, lấy thế tung bổng mình lên không, lộn luôn một vòng, đáp xuống. Nàng nhìn mọi người, ánh mắt bốc lửa căm thù, gằn từng tiếng:

– Tốt lắm! Các ngươi cho rằng chỉ có các ngươi hiểu ta, chứ ta lại chẳng hiểu các ngươi sao? Thái độ của các ngươi đã rõ rệt lắm rồi!

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Tiên tử ... không hôn mê ... thực sự ...

Liễu Y Ảo cười lạnh:

– Ta có hôn mê thật đấy, song chỉ một thoáng thôi, ta tỉnh lại ngay! Cũng may là ta tỉnh lại sớm, nhờ thế mới nghe rõ các ngươi nói với nhau những gì! Hừ!

Sư tỷ, chúng ta cùng sống bên nhau qua nhiều năm, sư tỷ quên đi chăng? Hừ!

Ngươi! Ta cùng ngươi thường sóng đôi nhau, dạo khắp các ngọn đồi, đỉnh núi quanh vùng! Hừ! Ngươi nữa, mở miệng ra là nói toàn những lời đạo đức, luôn luôn nhắc nhở đến chúng sanh! Hừ!

Nàng trách luôn bà người, Lý Trại Hồng, Linh Cô và Khổ Hải Từ Hàng!

Lý Trại Hồng và Linh Cô thẹn đỏ mặt.

Chỉ có Khổ Hải Từ Hàng, giữ vẻ mặt thản nhiên, đáp:

– Bất cứ hành động nào của bần tăng, cũng dựa vào cái đạo từ bi, bác ái.

Cho nên, làm một việc gì, bần tăng chẳng bao giờ thẹn với lương tâm, bất quá, cái quan niệm của mỗi người mỗi khác, do đó sự nhận xét phải bất đồng!

Liễu Y Ảo không buồn lưu ý đến lão nữa, nàng hướng qua Quan Sơn Nguyệt, những biểu lộ trên gương mặt nàng vô cùng phức tạp, chứng tỏ tâm tư nàng đang có ngàn ý niệm dâng lên.

Nàng nhìn chàng một lúc lâu, rồi buông nhẹ tiếng thở dài, thốt:

– Còn ngươi! Ta biết nói sao bây giờ! Ngươi là kẻ mà ta hận nhất trong thế gian này, ngươi là kẻ mà ta kính phục nhất trong thiên hạ, giữa hai cực đoan đó, từ nay ta áp dụng một chủ trương! Cái chủ trương của ta, là tận dụng mọi thủ đoạn, đối phó với ngươi, quyết trừ diệt ngươi khỏi dòng đời, cho đến khi nào ngươi ngã gục dưới chân ta mà chết, ta sẽ vì ngươi khóc lên cho vơi niềm uất hận, rồi ta tự tuyệt để đáp lại thịnh tình của ngươi! Cái thịnh tình do ngươi dành cho ta hiện tại, có mọi người chứng kiến!

Quan Sơn Nguyệt thừ người ra đó, chẳng biết phải đối đáp làm sao với nàng.

Nàng thốt xong, còn nhìn chàng một lượt cuối, một phút sau, nàng quay mình nhún chân tung bổng người lên không, thoát đi nhẹ nhàng như con chim lướt gió ...

Nàng đã đi lâu rồi, những người tại cục trường vẫn còn bất động.

Mãi một lúc sau, Bành Cúc Nhân bước tới nắm chéo áo của Quan Sơn Nguyệt, thốt:

– Quan công tử, nếu hiện tại công tử chẳng còn việc gì bắt buộc phải lưu lại đây, thì xin đi theo già, đi gặp một người!

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

– Ai? Ai?

Bành Cúc Nhân thở dài:

– Trương Thanh! Vị cô nương đáng thương hơn bất cứ ai trên trần gian nầy!

Nàng vì công tử mà trải qua chẳng biết bao nhiêu gian khổ mà giờ đây hầu như chẳng còn là một con người ...

Quan Sơn Nguyệt biến sắc, cấp tốc hú vọng một tiếng dài, con Minh Đà từ đâu đó chạy bay đến.

Chàng không thốt một tiếng cáo từ, nắm tay Bành Cúc Nhân, cùng nhảy lên lưng Minh Đà.

Con thú chẳng đợi chủ nhân giục, cất vó chạy đi ngay ...

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 34

Tình Là Dây Oan

Minh Đà lướt vó xuống núi như bay, gió chiều từ đồng nội cuộn về, mang cái mát dịu xoa mệt cho khách lữ hành, song riêng Quan Sơn Nguyệt không nghe nhiệt độ trong người lắng xuống mảy mai.

Chàng nôn nóng cực độ, Minh Đà vừa rời cục trường là chàng hỏi ngay Bành Cúc Nhân:

– Đại Nương! Việc gì đã xảy đến cho Trương Thanh?

Bành Cúc Nhân thở dài:

– Bịnh! Cơn bịnh đến hồi nguy kịch!

Chừng như Quan Sơn Nguyệt không tin như vậy, lại hỏi:

– Làm sao mà nàng thọ bịnh?

Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng:

– Bịnh đến, là thọ bịnh, là mang bịnh, chứ còn làm sao nữa? Chẳng lẽ con người ăn ngũ cốc, ăn đủ loại vật thực, trong một cơn bất thường nào đó, không thể ngã bịnh à?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tiểu điệt đâu có ý nghĩ như thế đâu, đại nương! Chẳng qua, tiểu điệt lấy làm lạ là, ngoại tổ nàng, thân phụ nàng, đều là những bậc danh y, nàng phải được hai vị đó truyền cho ít nhiều tri thức về y học, nàng phải biết cách bảo dưỡng, dù có lâm bịnh đi nữa, hẳn nàng cũng hiểu phương pháp chữa trị hữu hiệu chứ! Tại sao lại để cho cơn bịnh chuyển sang giai đoạn nguy kịch?

Bành Cúc Nhân nhếch nụ cười khổ:

– Dược liệu chỉ chữa trị những chứng bịnh về cơ thể, chứ còn về tâm bịnh thì dù cho Hoa Đà, Biển Thước có sống lại cũng phải chào thua!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Một lúc lâu, chàng hỏi tiếp:

– Nàng còn thắc mắc về thân phụ của nàng à? Nàng uất hận về phong thinh quanh phụ thân nàng à?

Bành Cúc Nhân gật đầu.

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Lạ thật! Gia gia nàng làm sao thì làm, hành vi của lão ấy có quan hệ gì đến nàng đâu! Huống chi, tại đại hội Long Hoa vừa qua, tiểu điệt có gặp Trương Vân Trúc, cứ theo lời lão thuật sơ lược thì bên trong sự tình có nhiều uẩn khúc, và chừng như những việc đó, chẳng phải do y làm nên ...

Bành Cúc Nhân gật đầu:

– Nàng cũng có nghe như vậy. Chính nàng có đến từng môn phái một, những nơi có bị thiệt hại ít nhiều, người ta cũng cho nàng biết là không hẳn Trương Vân Trúc đã hành động như vậy, và ai ai cũng nghi ngờ có một bàn tay bí mật nào đó gây ra tội tình ...

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

– Thế thì Trương Thanh còn lý do gì mà uất hận đến độ, phải mang bịnh nặng?

Bành Cúc Nhân lộ vẻ buồn thảm ra mặt:

– Hầu hết các môn phái đều không tin quyết là Trương Vân Trúc có làm điều thiệt hại cho họ, riêng tại m Sơn thì ...

Bà thở dài, rồi tiếp:

– Vô Cực Kiếm Phái lại quả quyết là người dụ hoặc thiếu nữ tiên m Lệ Hoa, chính là Trương Vân Trúc!

Quan Sơn Nguyệt giật mình, lắc đầu luôn mấy lượt:

– Không! Không thể có điều đó! Chính tiểu điệt có hỏi qua Trương Vân Trúc, lão cực lực phủ nhận việc ấy. Và tiểu điệt rất tin tưởng Trương bá bá không thể có hành động quá hèn đến mức độ đó!

Bành Cúc Nhân cười lạnh:

– Công tử dễ tin người quá chừng! Trương Thanh cô nương đã điều tra đích xác sự tình rồi, nhất định không thể lầm.

Quan Sơn Nguyệt vẫn không tin:

– Bằng vào đâu mà Trương Thanh dám quả quyết là Trương bá bá có tội?

Bành Cúc Nhân lắc đầu:

– Già nói làm sao được? Công tử muốn biết, cứ hỏi nàng thì biết! Già thú thật không được hiểu rành cho lắm, bất quá, già dám đoán định là Trương Vân Trúc không nói đúng sự thật với công tử. Nếu lão ta là con người tốt, thì chẳng khi nào lão lại chịu giao tiếp với bọn sứ giả Ma Cung.

Quan Sơn Nguyệt nín lặng. Chàng không cãi lý, song chàng vẫn tin tưởng là Trương Vân Trúc không bao giờ làm cái việc quá khốn nạn đó được. Còn như, lão ta có theo bọn sứ giả Ma Cung, thì điều đó hiểu nhiên rồi, lão có dụng ý gì, chỉ có lão mới biết được mà thôi. Chàng không biết, thì làm sao biện hộ cho lão được, trước lời trách cứ của Bành Cúc Nhân?

Chàng trầm ngâm lâu lắm, lại hỏi:

– Trương Thanh hiện tại ở tại Đại Ba Sơn? Nàng làm gì ở đó?

Bành Cúc Nhân «hừ» lạnh:

– Già chẳng đã nói với công tử là nàng mang bịnh sao? Mang bịnh thì tự nhiên dưỡng bịnh, chứ còn làm gì nữa?

Quan Sơn Nguyệt cười gượng, mặc nhận là mình hỏi vớ vẩn nên chàng không lấy làm khó chịu về thái độ của Bành Cúc Nhân trong thái độ mỉa mai chàng. Chàng có vẻ mơ màng, suy tư một lúc, đoạn lắc đầu thốt:

– Thật là kỳ quái! Tiểu điệt chẳng làm sao hiểu nổi! Dưỡng bịnh, ở đâu lại chẳng được, vì lý do gì, nàng lại tìm đến Đại Ba Sơn, cam với cảnh tịch mịch giữa chốn hoang vắng lạnh lùng ...

Bành Cúc Nhân «hừ» một tiếng:

– Điều đó không đáng trách! Bởi, ngoài Đại Ba Sơn ra, trong trần gian rộng lớn bao la nầy, chẳng còn nơi nào cho nàng dung thân được!

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc, toan hỏi gì đó, Bành Cúc Nhân vội khoát tay ngăn chận:

– Công tử đừng hỏi già nữa, già không thể nói, dù là về vấn đề gì, già cũng không thể giải thích cho công tử hiểu. Khi gặp nàng rồi, tự nhiên công tử sẽ hiểu.

Thú thật với công tử, cả cái việc đi tìm công tử, với công tử đến đó gặp nàng là do chủ ý riêng của già đó thôi, chứ nàng không còn tưởng là gặp mặt công tử.

Quan Sơn Nguyệt lại càng mơ hồ, đôi mày cau lại, kêu khẽ:

– Đại nương càng nói, tiểu điệt càng hoang mang ...

Bành Cúc Nhân thở dài:

– Hoang mang là phải, bởi công tử chẳng cần hiểu làm gì.

Bà tiếp luôn:

– Hiểu cho nàng, cũng tốt, không hiểu cho nàng cũng chẳng sao! Tình trạng của nàng ngày nay cầm như vô cứu rồi, tuy nhiên, già nghĩ rằng, sự chí tình của công tử có thể giúp nàng thoát ly vòng thống khổ ...

Trước kia, thì chàng còn hiếu kỳ, gặp một bí mật nào, quyết khám phá cho kỳ được bí mật đó. Song từ lúc tham dự cuội đại hội Long Hoa, giữ một vai trò trọng yếu trong những diễn tiến của tổ chức ma quái đó, chàng đã tạo cho mình một tập quán tiếp xúc với mọi bí mật, cái tập quán đó giúp chàng giữ được thản nhiên, và đè nén mọi hiếu kỳ. Và, chàng cũng thu thập luôn một kinh nghiệm, là đừng bao giờ hỏi nơi ai một sự bí mật nào, muốn hiểu một bí mật, chẳng khác gì hơn là tự mình khám phá, có hỏi ai cũng vô ích.

Cho nên, hiện tại, chàng không hỏi gì thêm nơi Bành Cúc Nhân, chàng thừa hiểu, có hỏi bà, vị tất bà lại chịu tiết lộ với chàng? Chàng im lặng, suốt một quãng đường dài.

Bành Cúc Nhân chừng như lấy làm lạ về thái độ của chàng, qua một lúc, lại hỏi:

– Sao công tử không nói gì?

Quan Sơn Nguyệt cười khổ:

– Biết nói gì bây giờ, đại nương? Mà nói gì để làm gì? Điều mà tiểu điệt muốn hỏi, muốn biết, thì đại nương lại chẳng thể nói ra, tiểu điệt nghĩ, nên nín lặng là hơn! Cứ đi, khi nào đến rồi, chạm trán với sự tình rồi, nhìn sự tình, hiểu được cũng tốt, không hiểu được thì đành vậy thôi, đại nương ạ!

Bành Cúc Nhân căm hờn:

– Không hỏi thì đành đi, song ít nhất công tử cũng phải nói gì chứ? Ít nhất công tử cũng phải biểu hiện một vài cảm nghĩ nào đó, chứng tỏ từ ngày chia tay đến nay, công tử vẫn dành cho nàng một điểm nhỏ quan hoài ...

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Vừa nghe đại nương cho biết về tình trạng của nàng, tiểu điệt chẳng kịp giã từ ai, cấp tốc lên đường, như vậy chưa đủ sao, đại nương?

Bành Cúc Nhân cười lạnh:

– Đủ à? Bao nhiêu đó mà cũng cho là đủ à? Công tử có hiểu được đâu, từ lúc đó đến bây giờ, nàng đã hy sinh như thế nào cho công tử? Mà thôi, những gì nàng đã làm, sau lưng công tử, công tử không hiểu, cũng chẳng đáng trách. Hãy nói đến cái việc nàng trải qua bao nhiêu gian lao, nguy hiểm, đưa công tử từ Lạc Hồn Cốc đến Côn Lôn Sơn, đem sanh mạng của nàng, thử thách với bất thường trên quãng đường vạn dặm, công tử sống lại, nếu không nhờ nàng thì nhờ ai chứ?

Nàng đã khóc cho công tử lúc đó, nàng dùng những hạt lệ bi sầu tẩm liệm lúc công tử mê man như chết, nàng liệm công tử bằng cái tâm thành, trước khi gởi công tử nằm vĩnh viễn trong đất lạnh! Công tử sống lại nhờ nàng, bây giờ nàng hấp hối, thử hỏi vì ai, mà cũng thử hỏi ai có nghĩ đến nàng, ai sẽ cứu nàng?

Quan Sơn Nguyệt hoảng hốt:

– Sao đại nương nói là nàng chỉ thọ bịnh, chứng bịnh có phần nặng, mà thôi?

Thế tình trạng của nàng nguy kịch đến mức độ đó à? Nàng hấp hối?

Bành Cúc Nhân có cái dáng như kẻ lỡ lời, thốt ra rồi là hối hận ngay. Bà hối hận, nên bà sửa chữa:

– Công tử hỏi nhiều, cũng thế thôi, già chỉ tóm lược là nàng hiện tại thống khổ phi thường, nàng đã từ bỏ tất cả những gì đáng tha thiết nhất trên đời chỉ vì công tử đó!

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Nàng đã dành cho tiểu điệt một mối tình tha thiết, thế sao nàng không tưởng gặp lại tiểu điệt?

Bành Cúc Nhân rơi vào mâu thuẫn:

– Ai nói là nàng không tưởng gặp công tử?

Quan Sơn Nguyệt nhìn lại bà:

– Đại nương quên rằng chính đại nương vừa nói đó sao?

Bành Cúc Nhân thở dài:

– Phải! Già có nói như vậy! Già hồ đồ quá chừng! Bởi hồ đồ nên nói đầu xuôi đuôi ngược! Thì ra thì, nàng có nói là không muốn gặp lại công tử, tuy nhiên, già hiểu, miệng nàng thốt, mà lòng nàng nghĩ trái ngược. Già hiểu rõ là nàng đang trông chờ công tử, từng phút, từng giây, từng ngày, từng tháng đó, công tử!

Chừng như, nàng nghĩ là thà chết chứ không chịu tỏ ra tha thiết trông chờ!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu. Sau cùng chàng cất giọng u buồn, thốt:

– Tiểu điệt minh bạch rồi, đại nương! Tiểu điệt trước sau, vẫn gìn giữ một sự chân thành đối với nàng, đại nương đã thấy là tiểu điệt từ khước Liễu Y Ảo.

Bành Cúc Nhân chận lời:

– Cũng vì công tử biểu hiện tâm tình như thế, già mới tiết lộ hành tung của Trương Thanh với công tử đó!

Quan Sơn Nguyệt chính sắc:

– Đại nương! Giả như đại nương tin tưởng nơi tiểu điệt, thì hãy tỏ thật tình hình cho tiểu điệt hiểu. Hiện tại, nàng ra sao? Nàng ở tại Đại Ba Sơn ...

Bành Cúc Nhân lắc đầu, thấp giọng đáp:

– Công tử lượng xét cho già. Già không thể nói những gì khó nói. Đưa công tử đến gặp Trương Thanh, là già làm một điều sái quấy rồi đó, làm sao già dám bép xép hơn? Già biết là sái quấy, song vẫn làm, bởi già thọ ơn Tuyết Lão Thái Thái, già mến cái nghĩa của Trương Thanh. Già phải làm một cái gì cho họ. Nếu không vậy, thì đừng mong già hở miệng đối với bất kỳ ai.

Để biểu lộ sự cương quyết, bà cắn môi, nín lặng.

Trước thái độ đó, Quan Sơn Nguyệt còn hỏi han gì được nữa? Chàng thất vọng đến chán chường, cúi đầu, giục lạc đà chạy nhanh.

Đường đến Đại Ba Sơn, dài ngàn dặm, một con đường hầu như hoang vắng, lâu lâu mới có khách lữ hành đi qua, đường hoang vắng thì không được phẳng bằng cho lắm, tuy nhiên Minh Đà vốn quen cất vó trên những nẻo đường gồ ghề, nên không lâu sau, họ cũng đến nơi.

Minh Đà vừa đến chân núi, Bành Cúc Nhân bổng lộ vẻ bất an. Bà nhìn qua Quan Sơn Nguyệt, thốt:

– Già không thể cùng đi với công tử lên đó, thôi thì công tử cứ lên, rồi tùy cơ mà xử trí. Cần nhất là công tử phải kiên tâm, trì chí, vô luận làm sao, công tử cũng phải nghĩ đến Trương Thanh, vô luận làm sao, công tử cũng đừng khinh phụ nàng. Thôi, công tử đi đi, già vái van hoàng thiên phù hộ, trợ giúp công tử thành công!

Bà thốt xong, nhảy xuống đất, rồi phóng chân chạy đi, không đợi nghe Quan Sơn Nguyệt nói gì.

Thái độ của bà kỳ lạ quá, chàng đâm lo, song chàng chẳng chút nghi ngờ về tâm ý của Bành Cúc Nhân. Qua phút giây sửng sốt, chàng giục Minh Đà vượt qua dòng suối trước mặt, rồi tìm đường lên núi.

Con đường trải ra trước mặt, thoạt đầu rất rộng rãi, nhưng càng lên cao, càng hẹp lại, hẹp đến độ chỉ vừa vặn cho một người lách mình mà đi mới lọt.

Đường lên lại nằm giữa hai vách đá, trên đường rêu xanh mọc dày, trơn trượt.

Người chỉ lách mà đi, thì còn lạc đà, to lớn làm sao qua được? Bắt buộc chàng phải để con vật lại, rồi lấy chiếc Độc Cước Kim Thần giắt vào mình, dè dặt bước đi.

Qua hơn bảy tám dặm đường, chàng trông thấy một khoảng trống vừa cao, vừa bằng phẳng, bên trên có mây che phủ.

Mồ hôi đổ ra ướt đẫm cả mình chàng.

Lên đến bình đài rồi, chàng thở mệt một lúc, rồi nhìn về phía trước, bất giác chàng lắc đầu, cau mày. Thì ra, con đường đến đây là đoạn cuối, nếu muốn tiếp tục lên cao, thì chẳng còn cách nào khác hơn là biến thành con vượn, chuyền cây.

Cây cao chi chít, dây leo chằng chịt, giây khá lớn, có thể chi trì sức nặng một người đeo. Như vậy, đối với chàng, có gì khó khăn đâu? Thế tại sao chàng cau mày, lắc đầu? Phải có một nguyên do nào đó, khiến chàng cau mày lắc đầu.

Nguyên do, chẳng phải khó leo, chẳng phải thân thể chàng quá nặng, sợ dây leo không chịu nổi chi trì. Nguyên do, là chiếc Kim Thần Độc Cước sau lưng chàng. Chiếc Kim Thần nặng lối ba bốn trăm cân, sức nặng của nó, cộng với sức nặng của thân thể chàng, phải là quan trọng.

Đường dây kia có chịu nổi hay chăng?

Dây leo đứt, tự nhiên phải rơi xuống, mà bên dưới thì đá nhọn tủa lên chơm chởm, như ngàn muôn lưỡi gươm giáo chong lên, xương thịt nào rơi xuống mà còn nguyên vẹn với những mũi nhọn đó? Giá như chàng lừa thế, rơi êm được, thì làm sao chàng trở lên bên trên? Lòng hố sâu gần như trăm trượng, vách đá lại không có chỗ vịn, làm sao chàng trở lên được?

Trong khung cảnh đó, chàng dù có học được một thân bản lĩnh, cái bản lĩnh của chàng cũng cần như vô dụng.

Chàng trầm ngâm một lúc lâu, suy tư, tìm biện pháp vượt qua đoạn đường đó. Sau cùng, chàng phải dùng đến biện pháp cuối cùng, một biện pháp mà ai ai cũng có thể dùng, chẳng cần vận dụng trí óc tìm kiếm.

Chàng lấy chiếc Kim Thần, vận thần lực ấn xuống mặt đá dưới chân, đến khi Kim Thần lún sâu ngang cổ, chàng dừng lại, đoạn chàng lấy chiếc Minh Đà Lịnh, quấn dây quanh cổ kim thần. Sau đó, chàng dùng chỉ lực, viết mấy chữ lên mặt đá, cạnh kim thần:

«Minh Đà Lịnh Chủ để lại».

Cái ý của chàng là chẳng hề có một người nào lấy nổi chiếc Kim Thần. Giả như có người thừa công lực lấy ra, thì người đó hẳn phải là một nhân vật siêu phàm, và nếu là nhân vật siêu phàm, thì chẳng khi nào lại tham cái vật đó. Còn nếu ai lấy lên được rồi, mà lại muốn đoạt luôn thì, người ấy quả có ý muốn chống đối chàng. Kim Thần mất đi, người nào có chống đối chàng, hẳn phải để lại bút tích, cạnh mấy chữ của chàng, và do theo bút tích đó, chàng tìm thấy dễ dàng.

Bởi, người ta dám chống đối, tất phải lưu bút khiêu khích, chỉ rõ địa chỉ.

Làm xong các việc đó, chàng thở phào. Thở phào rồi, chàng ngẩng đầu lên, bất giác chàng giật mình. Bởi, chẳng rõ xuất hiện từ lúc nào, một người đang đứng trước mặt chàng.

Người đó có thân pháp nhẹ nhàng quá, đến gần chàng, mà chàng chẳng hay biết gì cả. Người đó từ nơi nào đến? Từ một nơi bí ẩn dưới hố sâu, hay từ trên cao xuống?

Người đó tuổi độ ba mươi, dung mạo đoan chính, mặc y phục nho sinh, nhìn thoáng qua cũng thấy rõ cái vẻ tư văn thanh nhã.

Nhưng, cái dáng đó không đánh lạc hướng nghĩ của Quan Sơn Nguyệt, vì chàng nhận ra, con người đó phải là một nhân vật hữu danh trên giang hồ, một nhân vật mà cái dáng nho nhã bên ngoài không che dấu nổi một công phu tu vi thâm hậu bên trong.

Ít nhất, Quan Sơn Nguyệt cũng nhận xét như vậy, và chàng tin tưởng nơi nhãn lực của chàng lắm. Bởi, đánh bại được Tạ Linh Vận, chàng tỏ ra là một tay lợi hại lắm rồi, nhãn quang, thính giác của chàng phải linh diệu vô cùng. Thế mà người đó xuất hiện bên cạnh chàng, chàng chẳng hề hay biết! Nếu người đó chẳng có một bản lãnh tân kỳ, thì làm sao có thân pháp nhẹ như chiếc lá rơi?

Người đó đằng hắng một tiếng, hỏi:

– Tôn giá là «Minh Đà Lịnh Chủ»?

Quan Sơn Nguyệt vòng tay nghiêng mình chào lại:

– Phải, tại hạ là Quan Sơn Nguyệt.

Người đó như không lưu ý đến tên họ của chàng, y cứ nhìn xuống mấy chữ trên mặt đá, buộc miệng tán:

– Khắc chữ được như thế, quả thật đáng phục!

Quan Sơn Nguyệt khiêm tốn:

– Huynh đài quá khen!

Người đó chớp mắt, tiếp:

– Hay thì có hay, song cái cách viết chữ chưa đúng mức hỏa hầu. Điều đó, hiện tại tôn giá không thể nhận ra được, mà chính tại hạ cũng chẳng biết phải giải thích làm sao cho tôn giá hiểu. Sau ba mươi năm, nếu tôn giá có dịp trở lại đây, nhìn bút tích cũ, sẽ thấy rõ là tại hạ phê bình không sai, cho nên, phàm tả tự, cũng phải mất lắm công phu mới luyện được một thủ pháp khả quan!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Đa tạ các hạ chỉ giáo những sự khuyết kém, song tại hạ học viết, bất quá chỉ để dùng thay lời, dùng chữ để lưu cái ý lại mà thôi, chứ chẳng phải với niềm kỳ vọng trở thành danh gia ...

Người đó «hừ» một tiếng:

– Tôn giá nói thế là tự mình xem rẻ lấy mình rồi! Tả tự như tôn giá, là có thiên tài đó, có điều cái thiên tài chưa được trau dồi đúng mức thôi. Như một viên kim cương, nó còn nguyên hình, nguyên trạng, là cái giá của nó không được trọng lắm, nó cần phải qua tay thợ khéo đẽo, chuốt, giũa mài, nó mới trở thành một vật ngang giá trị liên thành. Các hạ có thiên tài, không trau dồi thiên tài, thì uổng biết bao? Các hạ xem rẻ thiên tài, là điều đáng tiếc vậy! Phải làm mọi cách để phát huy thiên tài chứ!

Bất ngờ mà bị người chỉnh như vậy, bất ngờ mà tiếp thọ một sự giáo huấn như vậy, Quan Sơn Nguyệt dở khóc, dở cười. Chàng có thích cái đề tài thảo luận này đâu mà phải bàn bạc dài dòng?

Chàng không biết phải giải đáp làm sao cho xuôi, vừa tránh phí phạm thì giờ, vừa không thất lễ độ.

Người đó chưa chịu buông tha chàng, trầm gương mặt tiếp luôn:

– Tại hạ không có ý mạo phạm đến tôn giá đâu, chỉ vì tại hạ có cái tâm liên ái thiên tài, thấy tôn giá không khai thác thiên tài, nên tiếc vậy thôi. Chúng ta là hai kẻ xa lạ, khi nào tại hạ dám vô lễ với tôn giá?

Quan Sơn Nguyệt bắt buộc phải đáp:

– Các hạ có hảo ý, tại hạ hết sức cảm kích ...

Người đó khoát tay:

– Chẳng cần phải khách khí. Tại hạ rất tinh tường về pháp tả tự, bình sanh rất thích xem nét bút của thế nhân, cho nên gặp tôn giá, tại hạ nhận thấy quả có thiên tài, thành hứng khởi, khuyến khích, hy vọng tôn giá trở nên danh gia, mình sẽ cùng nhau nghiên cứu ...

Quan Sơn Nguyệt chán lắm rồi, để chấm dứt câu chuyện, chàng hứa liều:

– Được rồi, ngày sau tại hạ sẽ nhờ các hạ chỉ điểm, hiện tại thì ...

Người đó cười tươi, không đợi chàng dứt câu, chận ngay:

– Hay lắm! Tại hạ ngụ trên đỉnh núi kia, lúc nào các hạ thấy hứng, xin cứ đến đó.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Các hạ ở trên đó?

Người đó cũng giật mình:

– Tôn giá lấy làm lạ? Thế ra, tôn giá cũng ở trên đó? Thế ra chúng ta ở gần nhau, mà từ lâu không ai hay biết?

Quan Sơn Nguyệt khoát tay nhanh:

– Không! Tại hạ là người viễn phương, có một bằng hữu trên đó.

Người ấy thở nhẹ:

– Ạ!

Rồi y tiếp luôn:

– Người ở trên đó không nhiều, chẳng hay vị bằng hữu của tôn giá là ai?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Một thiếu nữ, nàng tên là Trương Thanh.

Người đó thoáng biến đổi thần sắc, chú mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt kỹ hơn một chút, đoạn hỏi:

– Đúng rồi, trên đỉnh núi, có một nữ nhân. Tôn giá đến tìm nàng ấy? Có việc chi chăng?

Tại sao y lại hỏi việc riêng tư của người? Mà lại là việc liên quan giữa một nam một nữ?

Tự nhiên, Quan Sơn Nguyệt bất bình, nhưng nghĩ lại, chẳng phải lúc chàng tranh luận với kẻ xa lạ, và lại điều đó không mang lại cho chàng một mảy mai tiện ích nào cả. Chàng dằn lòng đáp:

– Trương cô nương là người quen biết của tại hạ, hôm nay tiện đường qua Đại Ba Sơn, dừng chân lại thăm viếng nàng ...

Người đó nhìn xuống, lắc đầu:

– Trương tiểu thơ không tiếp khách.

Lần này thì sự bất bình tăng lên một phần và cái phần tăng đó là giọt nước làm tràn cái chén đầy. Chàng trầm gương mặt, lạnh lùng thốt:

– Lời nói đó, chỉ có mỗi một mình Trương cô nương thốt được mà thôi, chính nàng nói mới hợp lý.

Người đó «hừ» một tiếng, so vai:

– Tại hạ thốt, cũng như Trương tiểu thơ thốt, cả hai cùng thốt được cả và vẫn hợp lý như thường. Bởi từ ngày lên đỉnh núi ẩn cư, Trương tiểu thơ biểu hiện ngay cái ý tạ khách. Bất quá, nàng còn giao du với những người trên đỉnh, chứ khách phương xa thì đừng hòng được nàng tiếp kiến.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Tại hạ không tin! Nàng có thể từ khước tất cả mọi người, nhưng nàng phải dành cho tại hạ một ngoại lệ. Nhất định là nàng sẽ tiếp kiến tại hạ.

Người đó liếc xéo qua chàng, rồi lạnh lùng nói:

– Tại hạ chỉ thay mặt Trương tiểu thơ, biểu lộ cái ý của nàng, với bất cứ ai muốn tìm gặp nàng. Các hạ không tin thì cứ tìm đến nàng. Nàng có tiếp kiến hay không, điều đó chẳng liên quan gì với tại hạ.

Biết là đối tượng có ý mỉa mai chàng, bởi y nghĩ rằng không có đường lên núi, chàng làm gì lên trên đó được mà hòng gặp Trương Thanh? Y thách thức chàng rõ rệt. Chàng cười nhạt, thốt:

– Tuy không có đường lên đỉnh, nhưng chẳng có gì ngăn trở nổi tại hạ, khi tại hạ muốn làm một cái gì.

Người đó cười mỉa:

– Tự nhiên! Các hạ đến được đây rồi, thì còn một đoạn đường ngắn nữa, hẳn cũng thừa khả năng vượt qua. Vậy xin mời các hạ!

Núi, đâu phải là giang san riêng biệt của y? Quan Sơn Nguyệt có cần chi y mời? Giả như chàng cứ tiến tới, thì liệu y ngăn chặn chàng được sao? Chẳng qua, y buông lời mời thỉnh, là có cái ý xác nhận lại một lần nữa sự thách thức đó.

Xác nhận lại sự thách thức, là y tin chắc chẳng bao giờ Quan Sơn Nguyệt lên được.

Quan Sơn Nguyệt trừng mắt nhìn y một phút, đoạn nhún chân, nhảy cao hơn hai trượng, hai tay chụp vào sợi dây cỏ leo.

Chụp dược đường dây rồi, chàng nhìn trở xuống, thấy người đó rút chiếc kim thần từ trong lòng đá ra, cầm nơi tay, quan sát. Chàng kinh hãi, buông tay, đáp xuống chỗ cũ, hét:

– Đó là vật của tại hạ, các hạ không được phép mó đến.

Người đó điểm một nụ cười, tay vẫn cầm chiếc kim thần. Quan Sơn Nguyệt vừa đáp xuống thì y nhún chân nhảy lên, chụp đường dây. Qua mấy lượt uốn mình, y biến mất trong vùng sương mù bên trên đầu Quan Sơn Nguyệt.

Thân pháp của y rất nhẹ, rất nhanh, nhanh đến độ làm cho Quan Sơn Nguyệt phải kinh hãi, bình sanh chàng chưa gặp một nhân vật nào luyện được thuật khinh công đến mức đó.

Từ lúc người đó xuất hiện, chàng đã nhận xét y là người có tài nghệ phi thường, song bất quá chỉ ở trong mức độ mà chàng tưởng tượng nổi. Nhưng, bây giờ, chàng phát hiện ra, cái tài của người đó trên xa chỗ ức đoán của chàng.

Không nói chi đến việc khác, chỉ nội cái việc y rút dễ dàng chiếc kim thần khỏi lòng đá, cũng là phi thường rồi. Trên giang hồ, luyện nội lực được như y, phỏng có mấy tay?

Y là người ẩn cư trên đỉnh núi, mà trên đó, chẳng phải chỉ có một mình y, thế thì trên đó có những ai? Họ sống riêng biệt nhau hay hợp thành tổ chức, chẳng hạn như, Long Hoa Hội?

Cái gì thì chưa biết chắc làm sao, chứ có thể hiểu là những người trên đó có bản lãnh đáng sợ lắm vậy.

Tại sao Trương Thanh lại hòa hợp với những người đó, và cam tâm tình nguyện sống đơn độc trên đỉnh Đại Ba Sơn, quên hẳn những người cũ, vui vầy với những người mới?

Quan Sơn Nguyệt nhớ lại những ngôn từ úp mở, những cử động ngập ngừng của Bành Cúc Nhân, chàng không còn phiền trách Bành Cúc Nhân như trước nữa.

Bởi chàng nghĩ là bà ấy khó nói rõ sự thật, dù biết, dù không biết, bà cũng không thể nói ra với chàng. Nói, để gây hoang mang, chứ có ích gì? Vì, chính bà cũng chẳng tạo nên một ảnh hưởng nào đối với nàng, thì thà câm lặng là hơn, sự thế đã vậy rồi, bà câm lặng là phải. Thà để dành cho chàng nhìn tận mắt, nghe tận tai, rồi tùy chàng liệu định.

Nhưng, điều thắc mắc quan trọng của chàng hiện tại, chẳng phải hoàn cảnh của Trương Thanh, dù chàng tha thiết với nàng. Điều đáng được chàng lưu ý là cái nhóm người đang ở trên đỉnh núi. Họ là những ai?

Xưa nay, những bậc ẩn cư không hề thích để lộ hành tung, họ chẳng muốn người đời nhắc nhở đến tên tuổi của họ nữa, họ tuy còn sống, song chỉ muốn tất cả những ai từng tiếp xúc với họ trong quá khứ, cầm như họ đã chết rồi. Có như vậy, họ mới tiêu dao ngày tháng, sống nốt chuỗi đời còn lại giữa trăng gió, trời mây ...

Bằng cớ, là những người trong Long Hoa Hội, ai không thường đến Thần Nữ Phong, ai không ở trong cái hội kỳ hoặc đó, thì khi nào lại biết được bao nhiêu cao thủ chôn chặt tiếng tăm tại Thần Nữ Phong chứ?

Còn như họ ẩn cư vĩnh viễn, hay họ tạm thời lánh xa trần thế, để chờ một thời cơ nào đó, tái hiện trên giang hồ, thì lại là một việc khác, chỉ có họ biết cho họ mà thôi. Không ai quan tâm đến họ.

Những người trên đỉnh Đại Ba Sơn là ai? Chắc chắn phải là những bậc cao tài, nếu vị nho sinh vừa rồi là một đại biểu. Họ là những bậc cao tài, họ ẩn cư, tự nhiên họ không muốn cho Bành Cúc Nhân tiết lộ sự gì.

Chàng tin chắc là Bành Cúc Nhân cũng ở trên đó, như Trương Thanh và cả hai đều bị một luật lệ quái dị chi phối, như những người trong Long Hoa Hội. Song, Bành Cúc Nhân đã có chân trong Long Hoa Hội, sao lại cũng có liên quan đến nhóm người trên đỉnh Đại Ba Sơn?

Qua khỏi cái khó khăn tại Thần Nữ Phong, Quan Sơn Nguyệt lại cảm thấy chàng sẽ đương đầu với một khó khăn khác, có lẽ không kém quan trọng.

Chàng đắn đo, thầm hỏi:

“Lên? Hay bỏ tất cả, để quay trở về?”.

Lên, chắc chắn là chàng không được hoan nghinh rồi, mà biết đâu lại chẳng nhân đó mà phát sanh ra nhiều cừu hận vô lý.

Còn như không lên? Nếu bỏ dở chuyến đi này, thì làm sao chàng tái ngộ Trương Thanh? Nàng lại đáng thương quá chừng, huống chi nàng lại có ơn với chàng, có thể bảo đó là cái ơn tái sanh, cũng chẳng ngoa, bởi không có nàng thì hẳn là chàng đã chết vì chất độc của Lạc Hồn Cốc chủ. Chàng không có quyền phụ phàng nàn! Chàng còn sống đây, sự sống thừa do nàng ban cho, chàng phải dành nó, để làm bất cứ điều gì hữu ích cho nàng.

Nàng có lâm bịnh thật chăng? Điều đó, chàng chưa biết thế nào mà đoán.

Tuy nhiên chàng nghi ngờ là nàng đang sống trong một sự uy hiếp rõ ràng, dù Bành Cúc Nhân không nói ra cho chàng hiểu. Và cũng vì bị uy hiếp, mà nàng thống khổ triền miên. Bởi lẽ đó, Bành Cúc Nhân mới cố công phiêu bạt khắp bốn phương trời tìm chàng đưa về đây.

Nếu chàng không đến Thần Nữ Phong, thì Bành Cúc Nhân đến bao giờ mới gặp chàng?

Sau một lúc đắn đo, chàng quyết định lên núi.

Lên, trước hết để biết thực trạng của Trương Thanh như thế nào, tình cảm của chàng đối với nàng, cũng nồng nhiệt như của nàng đối với chàng, có khác chăng là khác ở chỗ Trương Thanh lộ liễu còn chàng thì kín đáo.

Kế đó, chàng truy tầm luôn vị thanh niên nho sinh kia, người đã lấy mất chiếc Kim Thần của chàng. Bằng mọi giá, chàng phải giữ vật đó bên mình, chỉ trừ khi nào chàng chết đi, thì ai muốn chiếm lấy, tùy thích.

Nếu còn một lý do thứ ba, là bất quá để quan sát sinh hoạt trên núi thôi.

Trước khi đi, chàng giậm chân phá hủy mặt đá có ghi mấy chữ của chàng, bởi chiếc Kim Thần mất rồi, thì những chữ đó còn lưu lại làm gì? Quái dị thay, hàng chữ của chàng được xóa mất rồi, bên dưới lại có một hàng chữ khác. Chàng trố mắt đọc:

«Trên Vọng Nguyệt Phong, có một gã thơ cuồng, tạm thời lấy chiếc Kim Thần, chờ hội ngộ với Lưu Lang. Tự tích này lưu lại cho khách viễn phương là Minh Đà Lịnh Chủ, cuồng sinh đang chờ để cùng thưởng trăng sáng nơi đồi cao.» Vọng Nguyệt Phong! Hẳn là đỉnh núi mà chàng sắp sửa vượt lên.

Thơ Cuồng! Hẳn là danh hiệu của vị nho sinh trước đó. Thảo nào mà hắn chẳng thích thơ, thích chữ ...

Bút tích lưu lại, chẳng biểu hiện một ác ý nào. Bất quá, hai chữ Lưu Lang làm cho chàng phần nào hoang mang thôi, bởi, chàng không tìm được một sự giải thích nào thỏa đáng.

Nhưng, suy nghĩ một chút, chàng chợt tỉnh ngộ, có lẽ Thơ Cuồng định mượn chuyện xưa, nói đến chuyện nay. Lưu Lang, nếu chẳng phải là Lưu Thần ngày trước, ngẫu nhiên lạc lối đến Thiên Thai, thì là gì?

Đem việc hiện tại, so với việc vừa qua, bất giác Quan Sơn Nguyệt nhếch nụ cười khổ.

Thần tiên! Tại sao người đời lại thích đắm chìm trong mộng ảo?

Long Hoa Hội, là một tổ chức quy tụ những người nuôi mộng thần tiên, họ đang còn là người, bằng xương, bằng thịt, song họ tập dần lối sống của thần tiên, lâu rồi họ cứ tưởng mình là thần tiên thật sự!

Họ si mê đến độ điên dại, họ cho rằng họ hóa kiếp vẹn toàn rồi!

Giờ đây, rời Thần Nữ Phong, chàng lại đặt chân đến Vọng Nguyệt Phong!

Rời Long Hoa Hội, chàng lại chạm phải một tổ chức cũng giống Long Hoa Hội, có điều thành phần của tổ chức khác hơn thôi, còn cứu cánh thì cũng lồng trong khung mộng ảo!

Ngoài ra, người trong Long Hoa Hội thì vũ công kém, còn bọn người tại đây chừng như tài nghệ rất cao.

Người ở đây cũng tự ví mình như bậc thần tiên, họ tập luyện ngôn từ, cử động như thần tiên, họ sống cái nếp sống của thần tiên, quên cả thực tại quanh mình, mơ mộng về không gian siêu trần thoát tục. Họ cũng đọc sách, họ cũng làm văn, song về văn, thì họ dốt rõ ràng, bằng cớ là thanh niên nho sinh vừa rồi lưu lại một câu rất dốt.

Lưu Thần vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, thì hắn đâu có thể xem chàng là Lưu Thần, và hắn đang đợi Lưu Thần? Một nam nhân, chờ đợi một nam nhân, thì đâu có thể dùng cái điển tích Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai? Huống chi, Lưu Thần vào động tiên, với trọn niềm thích thú, còn chàng lên đỉnh núi với bao nhiêu suy tư trầm trọng, hai cảnh ngộ khác biệt bởi hai con người có những hoài bão khác biệt!

Đem sánh với Lưu Thần là sự đáng buồn cười! Không nói đến trường hợp của Lưu Thần là thung dung, tự tại, còn chàng thì đôi vai hằn nặng bao nghĩa vụ, trên đường trần còn phải xuôi ngược nhiều năm ...

Qua những nhận xét đó, Quan Sơn Nguyệt nghĩ rằng ở đây cũng như tại Thần Nữ Phong, tổ chức trên đỉnh núi kia, cũng chỉ là một tổ chức của bọn điên dại, có điều cái lối điên hơi khác, đối với Long Hoa Hội thôi.

Chàng tự hỏi sao con người quá u mê đến độ xa rời thực tế, chạy theo cái bóng ma xa xôi? Họ đang làm người, lại cứ mơ tiên, tưởng mình là tiên, rồi khi họ là tiên thực sự, thì họ sẽ mơ điều chi nữa? Họ muốn thoát tục, siêu phàm, song họ cứ đào sâu cái đáy tham vọng. Lòng tham không đáy họ lại đào sâu lòng tham hơn, như thế là họ còn đam mê tục vị, phàm danh, chứ đâu phải là siêu nhiên, ngoại vật?

Tại sao có một số người mơ vọng thành tiên?

Quan Sơn Nguyệt suy tư mãi về một Long Hoa Hội đã giải tán rồi, và một tổ chức nào đó, trên đỉnh Vọng Nguyệt Phong nầy mà chàng sắp sửa tiếp xúc trong chốc lát nữa đây. Cuối cùng, chàng cho rằng nguyên nhân rất giản dị, bởi họ là những người sợ chết. Họ muốn sống lâu dài, sống như trời đất, thiên thu bất diệt mà con người được cấu tạo bằng xương, bằng máu, con người là vật hữu hoại, thì làm gì thọ ngang với đất trời? Chỉ có những bậc thần tiên mới trường tồn với vũ trụ. Do đó mà họ tầm tiên. Tầm chưa gặp tiên, họ tự ví mình là thần tiên, rồi phỏng theo cái lối sống của thần tiên qua truyền kỳ mà tạo cho họ một khung cảnh dị biệt, khác hẳn lối sống của thế nhân.

Họ cũng hiểu, thần tiên là những nhân vật huyền hoặc, song họ nuôi mạnh niềm tin, và niềm tin đó biến họ thành những kẻ tuy chưa điên, song không còn tỉnh nữa.

Tà dương nhuộm những áng mây chiều thành muôn màu rực rỡ, trên nền trời, mây lơ lửng trôi, sáng lạn, huy hoàng, dưới núi cây cỏ mờ dần theo hoàng hôn đậm bóng, rồi từng cơn gió nhẹ cuốn về, trên cao, một vầng sương mỏng phủ giăng ...

Tất cả đều huyền ảo, đúng là cái huyền ảo của cảnh tiên.

Niềm tin của những kẻ ở trên cao kia, được cái khung cảnh ấy khuyến khích hàng ngày, và họ luôn luôn mơ mộng cũng chẳng có gì đáng lấy làm lạ.

Quan Sơn Nguyệt đã quyết định rồi thì cứ lên, lên cho biết không gian bao bọc quanh Trương Thanh có cái gì khác biệt hơn đời ...

Chàng nhún chân, tung mình lên cao, với tay nắm lấy đường dây, thử đu mình, xem giây có chắc lắm không. Rồi chàng phăng lần lên.

Đường dây có chỗ lớn, chỗ nhỏ, đoạn nào lớn thì chi trì thể xác của chàng rất vững, đến đoạn nhỏ thân hình chàng chao chao mường tượng đường dây sắp đứt.

Bây giờ, chàng nhận thấy cái ý kiến lưu chiếc Kim Thần lại, rất hay, nếu chàng mang nó theo mình, thì chắc chắn là hai sức nặng cộng lại sẽ quan trọng và đường dây không thể nào chịu đựng nổi.

Nhưng, chàng giật mình, bởi tự chàng cho là không thể mang chiếc Kim Thần theo, thì tại sao cái gã thơ cuồng kia lại mang được? Xem đó, đủ biết y có vũ công ghê gớm, y hóa trọng làm khinh được như thế, hẳn phải dày công tu vi.

Phàm, vật đồng tính, thường quy tụ nhau, thì những kẻ cùng chung sống với gã, hẳn cũng là những tay phi phàm ...

Chàng cứ lên, càng lên càng cao giới bị, bởi chàng biết rõ hạng người mà chàng sắp sửa tiếp xúc chẳng phải tầm thường.

Lên mãi thì cũng có lúc phải đến đích.

Trăng đã lên, trăng sáng vô cùng, dưới chân chàng, sương mù kết đọng thành một vùng biển mênh mang, nhuốm đen dần dần.

Trước mắt chàng, một thân cổ tùng hiện ra, ngoài cây cổ tùng chẳng có một cái gì khác. Chung quanh là khoáng đãng, là mông lung man mác như vùng trời vô tận ...

Đong đưa đường dây, lấy tư thế, Quan Sơn Nguyệt quăng mình sang cành tùng, chụp cứng.

Cành tùng đó không lớn lắm, chỉ to độ cánh tay, bởi khoảng cách từ đường dây đến cành tùng khá xa, chàng không quăng mình sát thân cây nổi, đành phải với lấy cành ngoài.

Cành tùng đó làm sao chịu đựng nổi sức nặng của thân thể chàng, gia dĩ cái sức nặng đó lại được tăng gia qua sự trìu níu của chàng, vì nhảy sang đó là chàng hỏng chân rồi, thân hình đu xuống phải nặng hơn ...

Một tiếng «rắc» vang lên, cành tùng gãy. Cành gãy, là chàng phải rơi, rơi từ khoảng cao ngàn trượng, gần đỉnh, rơi chẳng biết đến đâu, bởi bên dưới là biển sương mù đen đen, tuy không thấy gì qua biển sương mù, song cứ tưởng tượng cũng đủ sợ rồi.

Sự tình xảy ra ngoài sở liệu của Quan Sơn Nguyệt. Bởi không dự liệu nên chàng không đề phòng. Rơi xuống ba trượng, cảnh giác của chàng mới thức tỉnh, cơ trí động, phản ứng sanh, tay còn cầm đoạn tùng gãy, chàng quăng mạnh nó ra xa, mượn cái quăng đó lấy phản lực, rồi nương theo phản lực, đạp không khí vọt vào vách núi.

Đồng thời gian, chàng vận công lực vào bàn tay, năm ngón cứng như cái móc sắt, năm ngón chụp vào vách đá.

Nhưng, nếu là vách cứng, thì năm ngón tay đó bám sâu vào, giữ chàng như năm cái móc câu treo chàng nơi vách. Khổ thay, vách là đá núi, sao đá lại quá mềm? Tay chàng chạm vào, chẳng khác chạm bùn, thì làm sao chịu nổi sức nặng của chàng? Chàng hết sức kinh khiếp, mồ hôi lạnh toát ra đẫm ướt mình.

Thế là nguy vẫn hoàn nguy. Và chàng cứ rơi như trước ...

Cũng may, từ mấy lúc sau này, từng gặp nhiều nguy hiểm, chàng luyện được tâm tính bình tịnh, bất cứ trong trường hợp nào, chàng cũng không hề bối rối, lý trí vẫn sáng suốt, nhờ thế mà chàng đã vượt qua bao khó khăn suýt mất mạng mấy lần.

Bàn tay không bám víu vào vách đá được, chàng rút thanh kiếm Bạch Hồng chém loạn vào nơi đó. Trong khi đó, chàng giở thuật Du Long bò dần lên, chui mình vào khoảng sâu.

Bò trên một chất nhão, chẳng phải là việc dễ, nếu không lún xuống thì đã khá lắm rồi, huống hồ trườn tới khi hai tay, hai chân chẳng có chỗ chịu?

Vào chỗ trũng đó rồi, Quan Sơn Nguyệt không còn sợ rơi tuột xuống dưới nữa. Chàng thở mệt một lúc.

Nơi đó, cách cây cổ tùng ba trượng, khoảng cách ba trượng đối với chàng chẳng nghĩa lý gì.

Chân đạp lên đất cứng, chàng nhún mình, vọt lên, lần này chàng cẩn thận hơn, nhắm trước cành nào khả dĩ nắm cứng mà không sợ gãy như trước, chàng hướng về cành đó.

Chàng không dùng tay chụp, mà lại đáp chân xuống. Theo sự ức đoán của chàng, thì dù chàng có nhún mạnh đến đâu, cành cùng đó không thể gãy nổi. Trừ ra, có người nào đó ẩn mặt, ngầm giở trò quỷ quái gì ...

Lên đến cành tùng rồi, chàng nhún chân, thân hình vừa tung cao, cành tùng lại gãy như trước.

Cũng may, chàng đã rời nó rồi, chứ nếu không thì chẳng làm sao chàng có chỗ chịu chân lấy đà nhảy lên.

Đồng thời gian, chàng thấy một vệt sáng chớp lên, vệt sáng xuất hiện rồi lại tắt nhanh. Bất giác chàng sôi giận, buông giọng khinh bỉ:

– Ám toán là một thủ đoạn hèn hạ! Nếu cho mình có tài, cứ xuất hiện so tài, bằng sợ chết, thì lủi như chuột đi, đỡ bẩn mắt ta.

Chàng đáp xuống một khoảng đất bằng, cách đó độ năm, sáu trượng.

Không một tiếng người đáp lại.

Chàng chờ đợi một phút, chẳng thấy động tịnh gì, ngẩng mặt nhìn ra phía trước, một khu rừng trúc giăng mắc, ngăn chận nhãn tuyến của chàng.

Gió quét qua, khua động cành trúc, có tiếng kẽo kẹt hòa lẫn với tiếng xạc xào do cành lá phát lên.

Quan Sơn Nguyệt nghĩ, người ám toán chàng hẳn nấp trong khu rừng trúc đó, chứ chẳng lẽ kẻ ấy từ dưới lòng đất chui lên, phóng ám khí rồi lại chui xuống ẩn trốn? Chàng cất cao giọng, mắng luôn:

– Bọn hèn nhát nào đó, làm gì ẩn mặt như chồn? Chẳng biết hành động như vậy, kém hẳn nhân cách sao?

Từ trong rừng trúc, một âm thinh vọng ra, đáp lời chàng:

– Cái gã ngu xuẩn kia, sợ quá rồi thành mất trí phải không? Một trò đùa chào nhau lúc ban đầu, đùa cho vui với nhau, cớ sao lại phẫn nộ rồi dùng lời thô tục, la hét vang rền? Lên đến đây mà còn mang theo lòng tục, thì thà đừng lên là hơn!

m thinh vang lên, nghe rất gần.

Quan Sơn Nguyệt càng sôi giận, quát lên một tiếng lớn, vung thanh kiếm Bạch Hồng, vừa tạo một bức bình phong với kiếm quang, che trước mặt vừa lướt tới.

Kiếm quang đến đâu, cành trúc rơi ào ào, vòng kiếm quang dần dần lan rộng, chiếm một khoảng tròn độ bốn năm trượng.

Nhưng, chẳng có một bóng người!

Xông xáo một lúc, chẳng phát hiện ra được gì, Quan Sơn Nguyệt hết sức lạ lùng, chàng tin chắc là chẳng bao giờ nghe lầm hướng, nhưng tại sao lại có sự thể như vầy được?

Chàng dừng lại, đảo mắt nhìn ra bốn phía, trông thấy một phiến đá xanh, bằng phẳng như mặt bàn, hai bên bàn có hai chiếc đôn, trên bàn có một bàn cờ đen trắng còn bày ra đó, chứng tỏ cuộc cờ đang bỏ dang dở. Như thế, là vừa rồi có người chơi cờ, và hiện tại, người chơi cờ đã thoát đi, có lẽ còn lẩn trốn đâu đây.

Và, như thế, là chàng không nhận định lầm phương hướng.

Chàng nghĩ, tại vì chàng đến chậm một phút, thành ra không phát hiện kịp thời, chàng lại suy tư, chưa biết làm thế nào sưu tra tung tích người đó ...

Bỗng, có âm thinh vang lên, từ đâu đó vọng đến tai chàng:

– Tư Kỳ! Cái lối đùa đó, cũng thích thú chứ! Tuy nhiên ngươi gây ra một thiệt hại không nhỏ! Ngươi nghĩ, một khu rừng trúc tốt đẹp, bị ngươi đùa ác mà thành ra khuyết mất một khoảng lớn, khiến cho mười cảnh đẹp của cung Quảng Hàn lại mất đi một, còn chín! Làm sao chúng ta đối đáp với Nguyệt Hoa Phu Nhân đây?

Câu nói buông dứt, hai bóng người bước ra ...

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 35

Nguyên Nhân Tội Lỗi

Dưới ánh trăng khi mờ khi tỏ, Quan Sơn Nguyệt cố nhận xét hai người vừa đến để hiểu nhân phẩm của họ, cũng như ức đoán tâm tư của họ để lấy thái độ thích ứng.

Hai người đó cùng đội mão cao, cùng vận nho phục, hình vóc thì một người cao, một thấp, họ suýt soát tuổi nhau, cả hai vào trên dưới năm mươi.

Người cao có râu dài đến ngực, người thấp thì râu ngắn quẳng ngược lên, cả hai có nhãn quang sáng rực.

Quan Sơn Nguyệt thầm nghĩ trong hai người hẳn phải có một là kẻ đã ám toán chàng vừa rồi, nhưng may mắn thay chàng lại thoát nạn. Và cứ theo lời nói của một trong hai người thì kẻ đó chính là Tư Kỳ. Nhưng trong hai người, ai là Tư Kỳ? Người cao hay người thấp? Chàng nghiêm giọng nói:

– Vị nào vừa rồi ám toán tại hạ?

Người thấp trừng mắt nhìn chàng đáp:

– Ta! Ngươi là chi? Bất quá là một tiểu tử, ngươi lỗ mãng quá chừng, ta chỉ đùa với ngươi, ngươi lại không dằn được tính khí, chẳng những mắng ta lại còn phá hủy một góc rừng trúc! Ta nghĩ ngươi đã gây thiệt hại thì ngươi phải bồi thường.

Quan Sơn Nguyệt càng sôi giận, chàng biết người thấp là Tư Kỳ. Dung mạo hình dáng của Tư Kỳ không gây nổi một hảo cảm nào nơi chàng rồi, cái giọng nói của lão ấy lại còn làm cho chàng khó chịu hơn.

Tư Kỳ không tạo nổi một ấn tượng tốt đẹp nơi chàng, thì chàng cần gì phải đối xử lễ độ? Giả dĩ chính lão ám toán chàng kia mà? Đùa cái gì mới được chứ?

Giả như chàng không tránh kịp thì đã mất mạng rồi! Nhưng thế mà gọi là đùa được sao? Đùa trên sanh mạng người ta à?

Chàng mắng luôn:

– Vô lý! Các hạ xem mạng người như cỏ rác, dám đem sự sống chết của người ra làm trò đùa. Con người như vậy liệu có tư cách đáng trọng chăng?

Lão thấp đưa tay vuốt qua hàm râu ngắn, cao ngạo tiếp:

– Tiểu tử, ngươi đừng có mở miệng là mắng người ta, ta đã nói ta đùa, là đùa, nếu ta có ác ý muốn giết ngươi thì hai quân cờ vừa rồi không nhắm vào cành tùng đâu.

Quan Sơn Nguyệt thấy lão ngoan cố dùng cưỡng từ để đoạt lý, bất giác sôi giận phừng phừng toan phát tác, nhưng người cao khoát tay, điểm một nụ cười thốt:

– Thế huynh không nên phẫn nộ làm gì. Thật sự thì Tư Kỳ muốn đùa thế huynh đấy, điều đó tại hạ dám bảo chứng. Giả như thế huynh không nhảy được xa, dù có vì cành cây gãy mà rơi ngay xuống bên dưới vị tất phải mất mạng mà lo.

Quan Sơn Nguyệt trừng mắt:

– Đừng nói nhảm! Từ trên cao như thế đó ...

Người cao mỉm cười tiếp:

– Xem thì bên dưới rất sâu, song khi nào thế huynh rơi đến đáy được? Bởi bên dưới có lưới hứng, bất quá thế huynh phải một phen khiếp hãi thôi.

Quan Sơn Nguyệt giật mình. Cái lão cao này xem ra cũng là con người thức thời vụ, tánh tình hòa dịu, đáng tin tưởng được. Như vậy là lão nói đúng sự thật, chàng không còn căm hận lão thấp nữa.

Một phút sau, chàng lẩm nhẩm:

– Các hạ nói sao tại hạ hay vậy, chứ tại hạ nào biết được.

Lão thấp «hừ» một tiếng:

– Nếu ngươi hiểu được thì trò đùa của ta còn thú vị gì nữa?

Quan Sơn Nguyệt không thể có thiện cảm đối với lão thấp, lập tức chàng trả miếng:

– Dù cho bên dưới thật sự có lưới hứng đi nữa, các hạ cũng không nên đùa như thế, bởi núi thì cao trăm trượng hố thì sâu chẳng biết bao nhiêu trượng, cao và sâu cộng lại, cái khoảng cách đó quan trọng như thế nào chứ? Nếu gặp một người không biết võ công mà các hạ đùa như vậy, thì có khác nào giết chết người ta chăng?

Lão thấp cười lạnh:

– Người không biết võ công thì chẳng bao giờ lên được nơi đây, đường dây đó đâu phải mỗi ai cũng phăng theo lên được? Như vậy thì làm gì có việc hại chết kẻ không biết võ công? Còn những kẻ biết võ công thì khi nào lại ngã mà chết được? Thị Thơ có nói là ngươi mường tượng thông minh, bây giờ ta nhận ra ngươi chẳng thông minh chút nào, trái lại ngươi ngu xuẩn thì có.

Thị Thơ? Có phải là Thơ Cuồng chăng?

Cái lý của Tư Kỳ vững quá, Quan Sơn Nguyệt không đánh đổ nổi, chàng đành nín lặng.

Lão thấp đắc ý, nhìn chàng trừng trừng, tiếp:

– Tiểu tử! Sao không tranh luận nữa? Ngươi hồ đồ quá, tưởng là vung kiếm sẽ gây trọng thương cho người, không ngờ chỉ có tài chém trúc. Trúc của ta ngã đổ hết rồi, ngươi làm sao bồi thường cho ta? Phải biết, trên núi cao, trồng được một khu rừng trúc là cả một sự khó khăn không tưởng nổi đấy.

Quan Sơn Nguyệt tức uất, lại muốn phát tác.

Lão cao cười nhẹ chen vào:

– Tư Kỳ, đừng quy trách nhiệm về ai cả. Đành rằng trúc do vị thế huynh kia chém ngã, song truy ra căn nguyên thì lỗi về phần ngươi bởi ai bảo ngươi đùa?

Lão thấp kêu lên:

– Cầm Khiêu! Ngươi bênh vực người ngoài toan bức hiếp ta ...

Lão cao cười hì hì:

– Ta chỉ luận theo đạo lý, việc làm sao, ta luận như vậy, ngươi lỗi, ta phải nhận xét là ngươi lỗi, tốt hơn ngươi nên nhận lỗi, dù sự tình này có được đưa đến Nguyệt Hoa Phu Nhân, ta dám chắc phu nhân cũng phán đoán lỗi về ngươi thôi.

Lão thấp tặc lưỡi:

– Nguy! Thế thì nguy cho ta rồi. Cứ như thế này thì ta phải đến tận Đại Thanh Sơn, nói khó với lão Bạch Đà làm khổ công cho lão ta ba tháng, xin một bình nước Tái Sanh Tuyền đem về đây tưới mấy đoạn trúc ngã cho sống lại.

Lão cao lại cười:

– Sự việc đâu có đơn giản như vậy. Điều thứ nhất là cái lão Bạch Đà đó khó thương lắm, xưa nay lão ta có dễ dãi với ai bao giờ đâu? Lão bằng lòng hay không thì sự đó cũng chẳng cần nói làm gì. Chính cái điều thứ hai mới rắc rối hơn, là ba tháng khổ công đó ngươi có chịu nổi hay không?

Lão thấp kêu khổ:

– Thế thì ta phải làm sao? Tự ta làm, ta phải chịu, khổ ơi là khổ!

Lão cao lại cười hì hì:

– Còn điều thứ ba nữa là dù ngươi xin được Tái Sanh Tuyền Thủy mang về đây, những đoạn trúc đó hẳn là khô thành gỗ mất!

Lão thấp gãi đầu, gãi tai, kêu lớn:

– Làm sao bây giờ? Tiểu tử ơi, ngươi hại chết ta!

Trước đó, Quan Sơn Nguyệt thấy lão đáng ghét lạ, bây giờ thì chàng thương hại lão vô cùng. Bất giác động tính hùng, chàng cao giọng thốt:

– Vị tiên sinh đó không nên khẩn cấp, tại hạ đã chém ngã bao nhiêu trúc, nghĩ ra cũng có lỗi phần nào.

Lão thấp kêu lên:

– Nói làm gì? Ngươi có nói cũng vô ích. Bởi chẳng lẽ ngươi dám vỗ ngực nhận lỗi khi Nguyệt Hoa Phu Nhân trách cứ ta?

Nguyệt Hoa Phu Nhân! Chàng đã nghe hai lão này nhắc đi nhắc lại mãi danh xưng đó, đã thành phu nhân thì hẳn là nữ nhân.

Thị Thơ là Thơ Cuồng, hẳn chuyên về thơ. Cầm Khiêu hẳn chuyên về cầm, mà Tư Kỳ thì dĩ nhiên là chuyên về kỳ.

Cầm, Kỳ, Thơ là ba nhã thú, còn Họa?

Cả ba có thể là những người thường tiếp cận Nguyệt Hoa Phu Nhân. Và Nguyệt Hoa Phu Nhân hẳn phải trên bậc cả ba người này. Họ có quan hệ gì với nhau?

Chàng buông gọn:

– Chẳng sao. Tại hạ có lỗi, dù đến nơi nào, trước mặt người nào tại hạ cũng nhận lỗi như thường.

Lão thấp hấp tấp hỏi:

– Ngươi nhận lỗi như thế nào?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Tại hạ nói rằng chính tại hạ đã chém ngã những thân trúc đó, tại hạ tuyệt đối không hề đề cập đến việc tiên sinh đùa cợt.

Lão thấp tươi ngay nét mặt:

– Ngươi khẳng khái như vậy thì tốt quá! Tốt quá! Mà tại sao ngươi lại chặt ngã một khoảng trúc như thế?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Tại hạ nói rằng khi lên đến đỉnh núi, tại hạ nghe hai vị đàm đạo với nhau.

Tại hạ hỏi han chi đó, ngôn ngữ đối chọi nhau, tại hạ nổi nóng động thủ với các vị nên chém ngã bao nhiêu thân trúc.

Lão cao cười nhẹ:

– Như vậy là thế huynh giúp Tư Kỳ một việc vô cùng quan trọng đó! Tại Quản Hàn Cung có tất cả là mười cảnh đẹp, riêng về khu rừng trúc này thì Nguyệt Hoa Phu Nhân ưa thích hơn hết. Nếu Tư Kỳ hủy hoại một số trúc như thế, hẳn phu nhân phải trách cứ nặng nề, lão ta không làm sao chịu nổi hình phạt. Bây giờ thế huynh đảm nhận trách nhiệm, mà thế huynh lại là ngoại nhân, có lẽ vì lý do đó phu nhân sẽ khoan hồng không bắt tội. Ngoài ra, tại hạ và Tư Kỳ sẽ hết lòng van cầu phu nhân châm chước cho thế huynh ...

Lão thấp không còn khẩn trương nữa, tâm tư lão cởi mở dần dần, niềm vui hiện rõ nơi gương mặt. Lão gật đầu:

– Phải đó! Nhất định là chúng ta sẽ cố hết mình thuyết phục phu nhân bỏ qua. Chẳng lẽ phu nhân không vị tình chúng ta?

Quan Sơn Nguyệt khẳng khái:

– Hai vị không phải thắc mắc. Dù sự việc kết thúc như thế nào, tại hạ đã hứa rồi thì sẵn sàng gánh chịu hậu quả!

Dừng lại một chút, chàng hỏi:

– Bất quá tại hạ muốn biết Nguyệt Hoa Phu Nhân là người ra sao?

Hai vị đó sững sờ. Họ không tưởng là Quan Sơn Nguyệt đột nhiên hỏi như vậy. Một phút sau, lão thấp thốt:

– Không biết Nguyệt Hoa Phu Nhân là ai, thế mà ngươi lên đỉnh núi cao tìm gặp?

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp giải thích:

– Tại hạ lên đây chẳng phải có ý đi tìm Nguyệt Hoa Phu Nhân, mà chính là muốn gặp một người quen họ Trương.

Cả hai đồng thanh kêu lên:

– Trương Thanh.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Phải. Nghe nói nàng đang ở tại đây!

Người thấp cau mày lẩm nhẩm:

– Quái chưa. Tại sao Thị Thơ không nói rõ?

Người cao đưa tay ra hiệu rồi thấp giọng:

– Đừng bàn luận gì cả, ta đã biết cái ý của hắn rồi.

Đoạn hướng qua Quan Sơn Nguyệt, lão hỏi:

– Làm sao các hạ biết Trương cô nương hiện ở đây?

Thoạt đầu Quan Sơn Nguyệt định đáp là chính Bành Cúc Nhân cho biết, nhưng chàng kịp suy nghĩ, Bành Cúc Nhân có cố kỵ như thế nào đó nên đã nửa úp nửa mở với chàng, bây giờ tiết lộ ra thì thành phụ lòng tốt của bà ấy. Biết đâu sự tiết lộ đó chàng sẽ đẩy Bành Cúc Nhân vào cảnh khó, và bà sẽ gặp sự bất lợi sau này?

Người cao không chờ nghe chàng đáp lại tiếp luôn:

– Tại hạ nghĩ rằng có thể là mụ họ Bành tố cáo với các hạ, mà các hạ nhất định là họ Quan, các hạ là người mà Trương cô nương thường nhắc nhở qua ba tiếng Quan đại ca.

Quan Sơn Nguyệt không thể không thừa nhận, đành gật đầu:

– Đúng vậy, tại hạ là Quan Sơn Nguyệt.

Người cao chỉnh nghiêm thần sắc, thấp giọng tiếp:

– Gặp Nguyệt Hoa Phu Nhân, tốt hơn hết là các hạ đừng tiết lộ danh tánh mà cũng đừng đề cập đến mụ họ Bành, ngoài ra cũng không nên hỏi han gì đến Trương cô nương.

Quan Sơn Nguyệt kinh dị:

– Tại sao thế?

Người cao lại tiếp:

– Các hạ đừng hỏi gì cả, tại hạ chẳng thể giải thích rõ ràng hơn được, bởi sự tình bắt buộc phải vậy thì đành chịu vậy. Nếu các hạ muốn gặp Trương cô nương, thư thả rồi bọn tại hạ sẽ nghĩ ra biện pháp giúp các hạ.

Quan Sơn Nguyệt hoang mang vô cùng.

Mặc dù cho người cao đã bảo chàng đừng hỏi gì nhiều, song làm sao chàng im lặng với sự hoang mang đó nổi. Chàng toan cất tiếng yêu cầu người cao cho biết lý do, chàng nhất định phải biết mới được, chàng chưa kịp mở miệng thì người thấp đã chen vào, thần thái của y khẩn trương thấy rõ:

– Có người đến rồi đó, ta phải chận đầu họ, có lẽ bọn này đi tìm cảnh để vẽ vời chắc. Cầm Khiêu, ngươi hãy chỉ điểm thêm cho vị thế huynh này mấy điều cần thiết nhanh lên đi, đừng để dở dang mọi việc.

Thốt xong y bước đi liền.

Người cao hấp tấp chỉ thanh trường kiếm của Quan Sơn Nguyệt, bảo:

– Dấu thanh kiếm trước đi, rồi các hạ chú ý ghi nhớ những gì tại hạ dặn dò thêm.

Quan Sơn Nguyệt tra kiếm vào vỏ, kéo tà áo phủ bên ngoài.

Người cao vẫn với giọng gấp, tiếp:

– Trong cung Quản Hàn của Nguyệt Hoa Phu Nhân có tất cả bảy thị giả, tại hạ là Cầm Khiêu và hai người nữa là Tư Kỳ và Thị Thơ thì các hạ đã biết rồi, còn lại bốn người:

Chử Trà, Nhập Hoạch, Đạn Kiếm, Phi Thương, trong bốn người đó chỉ có Đạn Kiếm là nam nhân, y có thể giúp các hạ, còn ba người kia đều là nữ nhân, đối với những lão phụ đó, các hạ phải hết sức cẩn thận giữ gìn từng cử động từng ngôn từ, tuyết đối không nên tiết lộ lai lịch với ba mụ ấy. Ngoài ra còn một ...

Lão chưa dứt câu, từ nơi rừng trúc Tư Kỳ đằng hắng một tiếng, người cao lập tức nín lặng, lại còn lắc nhẹ một đầu vai ra ý bảo Quan Sơn Nguyệt hãy đề cao cảnh giác.

Liền theo đó có giọng nói của một nữ nhân vang lên:

– Phu nhân truyền lịnh đưa tiểu tử đến gấp, các ngươi còn dần dà ở đây, ý muốn giở trò gì phải không?

Câu nói vừa dứt âm vang, hai bóng người xuất hiện. Hai người đó là Tư Kỳ và một nữ nhân tuổi chưa tròn ba mươi, nhan sắc cực kỳ xinh đẹp, trong cái đẹp có vẽ xảo chứng tỏ con người không có tính tình hiền dịu.

Vừa đến nơi, nữ nhân quắc mắt quan sát Quan Sơn Nguyệt liền, từ đầu đến chân, rồi gượng cười rộng miệng, rồi thốt:

– Thị Thơ khoe khoang là tiểu tử có nghi biểu phi phàm, ta không tin, bây giờ thấy hắn rồi, ta phải nhìn nhận hắn đúng là một mỹ nam tử.

Nàng gọi Quan Sơn Nguyệt tiếp:

– Tiểu huynh đệ. Có phải tiểu huynh đệ tên là Minh Thiên Lý chăng?

Quan Sơn Nguyệt giật mình. Cái tên đó nàng tìm ở đâu mà gán cho chàng?

Tư Kỳ hấp tấp đáp:

– Phải. Minh lão đệ quả thật là một nhân tài trong thiên hạ ngày nay, con người tuấn tú thanh kỳ mà võ công cũng siêu quần bạt tụy, vừa rồi Minh lão đệ chỉ thi triển mấy chiêu kiếm mà ta và Cầm Khiêu suýt thảm bại.

Y vừa đáp thay Quan Sơn Nguyệt vừa láy mắt ra hiệu. Đến lúc đó chàng mới tỉnh ngộ là cái tên Minh Thiên Lý do y bịa ra mà, mà cũng có lẽ Thị Thơ bịa ra trước mặt Nguyệt Hoa Phu Nhân.

Cởi Minh Đà vượt thiên lý đến đây, nhân sự kiện đó mà đặt tên, quả thật bọn này cũng cao nhã.

Thay họ đổi tên là điều tối kỵ đối với Quan Sơn Nguyệt, song trong trường hợp này chàng không thể không thừa nhận mình là Minh Thiên Lý. Chàng vòng tay chào nữ nhân, đoạn gật đầu:

– Tại hạ là Minh Thiên Lý, dám hỏi ...

Tư Kỳ lại chận lời:

– Nhập Hoạch đấy, Minh lão đệ chỉ nhỏ hơn nàng mấy tuổi, có thể dùng hai tiếng đại thơ xưng hô nàng.

Nhập Hoạch cười duyên, hơi uốn éo thân hình, buông nhẹ:

– Đâu dám nhận hai tiếng đại thơ. Tuổi tác có chênh lệch bao nhiêu đâu mà dám làm lớn chứ.

Nàng biểu lộ phong tình quá rõ rệt, Quan Sơn Nguyệt cảm thấy xốn mắt vô cùng. Có thể là chàng phản ứng ngay, song Tư Kỳ không ngớt ra hiệu bảo chàng nhẫn nại thành thử chàng miễn cưỡng gọi:

– Đại thơ ...

Nhập Hoạch bật cười khanh khách:

– Thôi thì ta cũng cam chịu với thân phận đại thơ vậy, tại ta lớn hơn ngươi một chút, chính cái một chút đó hại ta đấy nhé.

Rồi nàng hỏi:

– Thị Thơ khoe rằng ngươi có lối tả tự rất đẹp còn hai gã quái vật này lại khoe ngươi có kiếm pháp rất cao, ngươi còn sở trường nào khác nữa chăng?

Cầm Khiêu cười nhẹ:

– Cái gì Minh huynh đệ cũng hay, có thể bảo Minh huynh đệ quán trường chứ chẳng phải chỉ sở trường về một vài điểm mà thôi. Văn cũng quán tuyệt, võ cũng quán tuyệt. Cầm là thánh thủ hoặc là truyền thần, kỳ là vô địch, thi là thần cú, mà tửu thì bậc trưởng thượng của Lưu Linh.

Nhập Hoạch «ạ» lên một tiếng:

– Thế thì hay quá, Quản Hàn Cung có thêm Minh huynh đệ thì thật là hoàn toàn. Ta phải chạy về báo cáo ngay với phu nhân mới được.

Tuy nói thế, nàng chưa đi ngay, nàng suy tư một chút rồi lẩm nhẩm:

– Chúng ta mỗi người có một sở năng nên tùy theo khả năng mà đặt tên, bây giờ Minh huynh đệ lại đến và là người vạn năng, thế chúng ta phải xưng hô làm sao?

Tư Kỳ cười khanh khách:

– Điều đó thì tùy phu nhân chứ, ngươi nghĩ đến làm chi cho mệt?

Nhập Hoạch gật đầu:

– Phải. Chúng ta không có quyền quyết định, cứ để tùy phu nhân là phải hơn. Đi, Minh huynh đệ, chúng ta đi thôi.

Nàng quay mặt lại. Đến bây giờ nàng mới phát hiện ra một khoảng rừng trúc bị chém ngã, thân trúc nằm ngổn ngang trông điêu tàn vô cùng. Bất giác nàng kêu lên thất thanh:

– Ai? Ai dám phá hoại khu rừng trúc như thế này? Nếu phu nhân biết được thì ... thì ...

Tư Kỳ đâm lo nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, sợ chàng thay đổi chủ ý.

Nhưng chàng ưỡn ngực bước tới một bước, dõng dạc đáp:

– Chính tại hạ.

Nhập Hoạch hoảng hốt hỏi:

– Trời! Tại sao ngươi gây nên đại họa?

Tư Kỳ thở phào, cười khan mấy tiếng:

– Ta và Cầm Khiêu có ý muốn trắc nghiệm võ công của Minh huynh đệ nên vờ ngăn trở, Minh huynh đệ chẳng hiểu, sôi giận lên vung kiếm phản công, hai chúng ta chạy thoát kịp, thành để khổ bao nhiêu thân trúc ...

Nhập Hoạch giậm chân thình thịch:

– Các ngươi quả là một lũ vô dụng! Muốn sanh sự, sao không đưa nhau đến một nơi nào khác lại chọn ngay chỗ này?

Tư Kỳ vờ nhếch nụ cười khổ:

– Nào có ai ngờ Minh lão đệ dễ nổi tính khí như vậy đâu! Một con người ở lứa tuổi đó, lại có kiếm pháp rất cao, thiết tưởng trong một thời gian nữa tài nghệ của Minh lão đệ sẽ siêu việt không lường nổi!

Nhập Hoạch đưa hai tay lên trời kêu lớn:

– Bây giờ phải ăn nói làm sao với phu nhân? Minh huynh đệ vừa đến lại gây nên cớ sự ...

Quan Sơn Nguyệt thản nhiên đáp:

– Việc đã xảy ra rồi, tại hạ cứ chờ cái hậu quả đến làm sao nhận làm vậy, các vị không nên quá quan tâm!

Nhập Hoạch khoát tay:

– Đừng, Minh huynh đệ. Gặp phu nhân rồi, tuyệt đối Minh huynh đệ không nên buông tính quật cường. Tôi khuyên Minh huynh đệ nên ăn nói nhún nhường một chút, bên ngoài còn có bọn tôi, tất cả sẽ tùy cơ mà cầu tình với phu nhân, may ra phu nhân khoan dung không nỡ bắt tội Minh huynh đệ.

Tư Kỳ mỉm cười:

– Phải đấy. Phu nhân từng tỏ ra là thiên vị ngươi lắm, ngươi chịu khó nói giúp là cầm chắc phu nhân nghe liền. Ngươi cứ khoe khoang Minh huynh đệ có nhiều tài năng, hẳn phu nhân liên tài trọng đãi.

Nhập Hoạch trầm ngâm một chút đoạn thở dài:

– Thì đành là vậy rồi chứ còn cách nào khác hơn đâu. Tại ta! Ai bảo ta nhận là đại thơ của Minh huynh đệ làm chi, đã là đại thơ thì phải lo chu toàn cho tiểu đệ chứ.

Nàng hướng qua Quan Sơn Nguyệt, điểm nụ cười duyên dáng tiếp:

– Minh huynh đệ đừng cười nhé, chứ ... sự thật thì ... vừa trông thấy Minh đệ là ... ta ...

Nàng đưa ánh mắt lơi lả quá chừng, Quan Sơn Nguyệt gớm đến buồn nôn, nàng lại buông cái giọng đẩy đưa, chàng càng bực, tưởng chừng như ai lấy mũi nhọn mà chích chích màng tai. Tuy nhiên chàng cũng phải ỡm ờ phụ họa:

– Mới thấy nhau mà mường tượng như có quen nhau từ muôn thuở! Xin đại thơ chiếu cố cho tiểu đệ!

Nhập Hoạch cười hì hì:

– Tự nhiên! Phải vậy rồi, tiểu huynh đệ! Chúng ta trước đây chưa biết mặt biết mày nhau, bây giờ thì có khác nào đôi bằng hữu thân nhau từ thuở bé?

Tư Kỳ sờ hàm râu, vừa vuốt vuốt vừa thốt:

– Chúng ta sống bên cạnh nhau từ lâu rồi, sau ngươi không thân mật?

Minh huynh đệ mới đến mà ngươi tha thiết quá chừng!

Nhập Hoạch đỏ mặt, vẩu môi mắng:

– Lão quỷ lùn, ăn nói dè dặt một tí chứ, liệu hồn, ta sẽ bứt đứt râu cằm của ngươi đấy nhé!

Tư Kỳ rụt cổ lè lưỡi.

Nhập Hoạch hướng sang Quan Sơn Nguyệt thốt gấp để khỏa lấp sự đùa cợt của Tư Kỳ:

– Minh huynh đệ không khinh đại thơ ...

Nàng bỏ lửng câu nói.

Quan Sơn Nguyệt dở khóc dở cười, biết đáp làm sao cho thích hợp với xử cảnh?

Cầm Khiêu chen vào:

– Nhập Hoạch về gấp đi, đừng để phu nhân chờ đợi, phàm ai chờ đợi cũng phải nóng nảy, phu nhân nóng tính lên là bất lợi cho cả bọn đấy.

Nhập Hoạch gật đầu:

– Phải! Ta trở về mà các ngươi cũng theo ta về luôn, phu nhân bảo ta đi gọi các ngươi, ta quên cho các ngươi biết.

Cầm Khiêu cười nhẹ:

– Thì ngươi cứ về trước báo cáo với phu nhân, ta và Tư Kỳ đưa Minh huynh đệ về sau, nên nhớ là khéo ăn khéo nói một chút đấy nhé. Cố gây một ấn tượng tốt cho Minh huynh đệ, có như vậy phu nhân mới dành một mỹ cảm rất lợi cho chúng ta.

Sợ Nhập Hoạch không hiểu hết ý của lão, lão đưa tay chỉ khoảng trúc bị chặt ngã.

Nhập Hoạch gật đầu:

– Ta hiểu. Phu nhân nổi giận lên rồi, hai ngươi cũng chết luôn!

Nàng quay mình thoát đi nhanh hơn trốt lốc.

Nàng đi rồi Quan Sơn Nguyệt thở phào xem như thoát nạn, song nhận thấy thân pháp nàng linh diệu vô cùng chàng không khỏi kinh hãi.

Tư Kỳ mỉm cười, bước đến gần chàng thốt:

– Lão đệ có số đào hoa thật. Cái mụ điên đó vừa thấy lão đệ là si tâm ngay, có nàng tiếp trợ thì trong cung Quản Hàn lão đệ sẽ là người được ưu đãi nhất!

Quan Sơn Nguyệt thẹn đỏ mặt.

Cầm Khiêu trách:

– Tư Kỳ đừng ăn nói hồ đồ như thế. Người ta đã nhận tội thế cho ngươi, ngươi không ghi ơn lại còn châm chích, thế là nghĩa làm sao?

Nhìn qua Quan Sơn Nguyệt, lão tiếp:

– Quan thế huynh, tại hạ thấy rõ cái nàng đó có ý tứ với thế huynh lắm đấy!

Tại hạ biết là thế huynh không thích những trò lẳng lơ, song dù sao thì thế huynh cũng nên chịu khó một chút, đừng quá lạnh nhạt với nàng, chẳng những nàng được phu nhân tin cậy mà nàng có võ công rất cao, trong cung nàng chỉ nhường có mỗi một mình phu nhân thôi!

Quan Sơn Nguyệt bất bình, trầm giọng:

– Tại hạ bắt buộc phải đóng kịch với nàng à? Không được đâu, vừa thấy mặt nàng là tại hạ lợm giọng rồi, bảo tại hạ làm hơn thế, tại hạ làm sao kham nổi chứ? Còn các vị nữa, bỗng dưng lại đặt cho tại hạ một cái tên! Đặt tên rồi lại bày vẽ đủ điều, bảo tại hạ làm thế này tránh thế kia.

Cầm Khiêu thở dài:

– Xin Quan thế huynh nhẫn nại một chút. Việc thay tên đổi họ là do chủ ý của Thị Thơ chớ nào phải bọn tại hạ tự chuyên? Thế huynh nên tin là bọn tại hạ thành thật tiếp trợ thế huynh, tiếp trợ Trương cô nương. Hiện tại thì bọn tại hạ không đủ thì giờ giải thích rõ ràng cho thế huynh hiểu, sau này có cơ hội chúng ta sẽ trở lại vấn đề.

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Về những gì khác, tại hạ không cần hỏi đến, chỉ muốn biết Nguyệt Hoa Phu Nhân là con người như thế nào! Tại hạ cần biết bà ta, để chốc lát nữa đây lấy thái độ thích ứng đối phó với bà ta. Mong quý vị đừng từ khước sự thỉnh cầu của tại hạ.

Cầm Khiêu thở dài:

– Nguyệt Hoa Phu Nhân là một nữ nhân vĩnh viễn chẳng ai hiểu nổi. Bất quá tại hạ chỉ thế huynh biết đại khái là bà ấy có võ công rất cao, cao đến mức độ vô lường. Biết như vậy cũng đủ lắm rồi đó thế huynh! Thôi, chúng ta đi, đừng để phu nhân chờ lâu sanh giận mà thành bất lợi cho chúng ta.

Dừng lại một chút, lão tiếp luôn:

– Nhập Hoạch tuy có thái độ cử chỉ không thuận nhãn thế huynh, song thực ra nàng là con người rất tốt, có tâm địa thiện lương, nàng cũng như một viên ngọc tốt nhưng chẳng được trau dồi, hoặc giả cũng có thể ví nàng như một kẻ thông minh nhưng kém học, nàng thẳng thắn lắm, chẳng bao giờ nuôi dưỡng một mưu cơ nào đối với bất kỳ ai. Thế huynh có thể tín nhiệm nàng ...

Lão lại thở dài rồi vẫy tay giục mọi người:

– Đi thôi, có lẽ trễ lắm rồi đấy.

Tư Kỳ nắm chéo áo của Quan Sơn Nguyệt, lôi chàng đi, xuyên qua khu rừng trúc.

Quan Sơn Nguyệt nhận ra khí lực của y rất hùng mạnh, chàng muốn cưỡng lại song không cưỡng nổi, bắt buộc phải bước theo y.

Khí lực của Tư Kỳ phát huy hết sức quái dị, y nắm tay phía trước nhưng Quan Sơn Nguyệt lại nghe như một lực đạo ở phía sau đẩy tới, chàng bước thì thôi, chàng cố dừng lại thì lực đạo đó như hốt chàng hổng đất quăng tới.

Qua hết khu rừng trúc đến khu rừng hoa, trong rừng hoa có đài có các, nhưng họ không dừng chân lại những đài những các đó, họ đi hết rừng hoa đến một dãy nhà khác ở phía sau, lối kiến trúc cực kỳ hoa lệ.

Nơi cổng chánh có tấm biển, bốn chữ to lớn hiện trong tầm mắt của Quan Sơn Nguyệt từ xa xa:

«Quảng Hàn Cung Khuyết». Hai bên có đôi câu liển, đại khái tả cái đẹp của trăng nhưng phảng phất cái ý niệm tịch mịch của người trong trăng.

Bên trong cửa ẩn ước có bóng người, Quan Sơn Nguyệt nhận ngay chính là Thị Thơ. Hắn chạy tới nghinh đón bọn Cầm Khiêu.

Hắn muốn nói gì đó, Cầm Khiêu vội khoát tay bảo:

– Ta biết nỗi khổ tâm của ngươi rồi Thị Thơ! Khỏi cần nói!

Thị Thơ thấp giọng:

– Tại hạ chỉ biết làm tròn những gì có thể làm cho các hạ, về cái việc đổi họ thay tên thì bất đắc dĩ lắm tại hạ mới mạo muội như vậy. Gặp phu nhân rồi, các hạ cứ nói là chúng ta gặp nhau nơi chân núi, tại hạ đưa các hạ lên đây yết kiến phu nhân, chứ đừng bao giờ nói là các hạ vì Trương ...

Cầm Khiêu chận lời:

– Bọn ta đã giải thích điều đó với Quan thế huynh rồi, ngươi chẳng cần dặn dò thêm.

Quan Sơn Nguyệt chưa kịp tỏ thái độ, từ trong hoa sảnh Nhập Hoạch bước ra cao giọng thốt:

– Phu nhân truyền lịnh Minh Thiên Lý vào ngay.

Nàng nhìn chăm chú Quan Sơn Nguyệt, trong ánh mắt ẩn ước có sự van cầu chàng nên có thái độ cung kính đối với phu nhân.

Quan Sơn Nguyệt vốn tính quật cường, dù biết rằng Nguyệt Hoa Phu Nhân là một nhân vật siêu phàm, song bảo chàng hạ mình đối với một người xa lạ khi chưa biết tư cách người đó ra sao thì khi nào chàng vâng theo! Do đó chàng ngẩng cao mặt chững chạc bước tới.

Khi đi ngang qua Nhập Hoạch, chàng nghe nàng buông nhẹ một tiếng thở dài.

Khách sảnh đúng là một cung điện trần thiết hết sức huy hoàng.

Nơi trung ương có một đài khá cao, trên đài có một chiếc ghế dài và ghế cẩn vàng chạm ngọc, trên ghế có một phụ nhân tác trung niên đang ngồi, thần thái ung dung.

Tự nhiên, phụ nhân chính là Nguyệt Hoa Phu Nhân.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 36

Kiếm Quang Cầm Điệu

Nguyệt Hoa Phu Nhân trác độ tứ tuần, tóc vấn cao, mặc áo lụa trắng, tuổi tuy cao, sắc còn đẹp, một vẻ đẹp trang nghiêm, ai nhìn qua cũng sanh lòng tôn kính.

Sau lưng bà, có hai nữ nhân, ngoài ba mươi tuổi, trang phục y như Nhập Hoạch, Quan Sơn Nguyệt thầm nghĩ hai người nầy hẳn là Phi Thương và Chữ Trà.

Bên tả, có một đại hán trung niên, thần thái oai mãnh, râu ngắn đen ngời bọc quanh hàm, mặc y phục võ sĩ, mang giày cao ống, đeo trường kiếm nơi hông.

Người ấy hẳn là Đạn Kiếm.

Cái ngạo khí của Quan Sơn Nguyệt bốc bừng từ bên ngoài tiêu tan phần lớn khi chàng chạm mặt với Nguyệt Hoa Phu Nhân. Vô hình trung, chàng trở nên khiêm tốn, không còn cao hãnh như lúc còn ở bên ngoài cửa hoa sảnh. Chàng vòng hai tay, cung kính thốt:

– Tại hạ là Minh ... Thiên Lý, kính tham kiến phu nhân.

Suýt chút nữa, chàng đã buông tiếp Minh Đà Lịnh Chủ theo sau tiếng Minh, và nếu xưng được là Minh Đà Lịnh Chủ, thì chàng cũng có thể tiết lộ luôn tánh danh thật của mình. Cũng may là chàng thức ngộ, kịp thời đổi lại.

Bọn Tư Kỳ đi theo sau chàng, buộc miệng thở phào, như thoát nạn.

Nguyệt Hoa Phu Nhân bình thản đến lạnh lùng, chưa nói gì, một trong hai nữ nhân đứng sau lưng bà, hét lớn:

– Sao ngươi chưa quỳ xuống?

Chỉ một câu nói ngắn đó đủ làm cho tính khí quật cường của Quan Sơn Nguyệt sôi động trở lại. Chàng ngẩng cao mặt, hỏi:

– Tại sao tại hạ phải quỳ?

Nữ nhân đó trầm gương mặt, định phát tác, Nguyệt Hoa Phu Nhân vẫy tay ngăn chận:

– Phi Thương, không nên lắm lời. Hắn mới đến, tự nhiên hắn chưa hiểu rõ nghi lễ trong cung, thư thả rồi sẽ giáo huấn hắn dần dần.

Bà gọi:

– Minh Thiên Lý! Ngươi bước lại gần đây một chút nữa đi!

Nữ nhân đó im lặng, Quan Sơn Nguyệt thì bước tới, gần hơn mấy thước.

Hiện tại, chàng cách bình đài độ nửa trượng.

Phu nhân quan sát chàng một lúc lâu, gật gật chiếc đầu, tỏ vẻ hài lòng, thốt:

– Được lắm! Một thiếu niên hùng tráng, có khí thái hiên ngang, tinh hoa hàm túc sung mãn! Tương lai hẳn phải huy hoàng! Thị Thơ thì bảo ngươi có nét bút thần kỳ, còn Nhập Hoạch thì nói là ngươi có kiếm pháp linh diệu, một con người kiêm toàn văn võ, gẫm rất hiếm trên đời nầy!

m thinh của bà rất dịu dàng, nhưng trong cái dịu dàng đó, ẩn ước một cái oai, người nghe không vì chỗ dịu mà dám lờn. Bởi, oai phong của bà, không nương nơi cái đạo, cái oai của bà xuất từ cái đức của bậc thức ngộ hoàn toàn đạo lý của nhân sinh.

Tuy nhiên, đối với một người chưa hề quen biết, trong lần gặp gỡ đầu tiên, mà bà đưa ra một nhận xét như vậy, có khác nào bà tự xem mình là bậc trưởng thượng? Bà quen tánh bắt buộc mọi người phải cúi đầu khuất phục trước mặt bà sao? Bà quở trách, là lẳng lặng nghe, bà khen tặng, là quỳ lạy tạ ơn, bà muốn ở cao mà nhìn xuống như vậy sao?

Chỉ nội cái chỗ ngồi của bà cũng đủ nói lên tánh cách tự cao của bà. Trên thế gian nầy, trừ bậc vua, chúa ra, có ai tiếp khách mà phải ngồi trên ngai cao vòi vọi chứ?

Bà lập dị đến độ giữa khách sảnh, tạo cho mình một chiếc bình đài, trên bình đài lại có ghế cao, bất cứ ai vào đây yết kiến bà, cũng đều đứng dưới chân bà!

Như thế, Quan Sơn Nguyệt khi nào chịu nổi trước cái ngông nghênh của bà?

Huống chi, chàng vốn tính quật cường, lại từ lúc xuất thân hành hiệp đến nay, chàng đã tạo nhiều thành tích phi thường, gần đây nhất, chàng đã nổi bật rõ ràng giữa đại hội Long Hoa, đánh bại Tạ Linh Vận. Dù muốn dù không, chàng cũng phải cao hãnh phần nào. Cho nên, hai cái cao hãnh gặp nhau, đương nhiên chẳng thể dung nhau được.

Chàng bật cười ngạo nghễ, đáp:

– Tại hạ có xứng đáng chi đâu mà bà quá khen! Văn, bất quá tại hạ có một số vốn gồm vài trang sách, vũ thì cầm như biết múa may một vài cách thức đủ tạo cười cho bọn trẻ con vậy thôi! Bà không nên tin lời bịa của kẽ khác mà lầm nhận xét tại hạ!

Lời nói thì thấp, khí khái thì cao, sự mâu thuẫn đó được biểu hiện do chàng cố ý, chứ tuyệt nhiên không vì khiêm cung, từ tốn. Và, như vậy là vô lễ rồi!

Nhập Hoạch hoảng hốt, kêu lên:

– Minh ... Thiên Lý! Sao ngươi ăn nói như thế trước mặt phu nhân?

Suýt chút nữa, là nàng gọi chàng với ba tiếng Minh huynh đệ! Nàng không thể nói tròn ý bằng lời, ánh mắt nàng thay lời, làm nốt cái việc đó.

Quan Sơn Nguyệt lờ đi, cứ tiếp với thái độ ngạo nghễ:

– Chứ tại hạ phải ăn nói như thế nào mới hợp lý?

Nhập Hoạch càng khẩn cấp, giậm chân, toan nói chi đó, Nguyệt Hoa Phu Nhân nở một nụ cười, cất tiếng:

– Nhập Hoạch! Không phải việc của ngươi, đừng nên lắm lời! Thái độ của hắn chứng tỏ niềm bất phục, mà hắn bất phục tất nhiên phải có lý do, cái lý do đó, cái lý do khiến hắn bất phục, phát xuất từ nơi các ngươi đó! Cho đến phút giây nầy, các ngươi chưa làm được cái gì khiến cho hắn phục, đáng trách là các ngươi chứ không phải hắn đâu!

Bà không giận vì thái độ ương ngạnh của Quan Sơn Nguyệt, bà giữ vẻ bình tịnh như thường, điều đó làm cho bọn Nhập Hoạch bảy người vô cùng kinh ngạc.

Bà lại cười, rồi tiếp:

– Quanh ta, có tất cả bảy người, mỗi người có một sở trường, và sở trường của chúng cầm như tuyệt kỹ, chắc chắn là chẳng có ai hơn chúng. Ngươi có biết như vậy chăng?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Tại hạ có nghe nói!

Nguyệt Hoa Phu Nhân tiếp luôn:

– Nhân tuyệt kỹ của chúng, mà thành danh, gọi đến tên người nào là biết ngay người đó sở trường về môn gì. Ta công nhận chúng đã đạt đến mức siêu việt, giữa cõi đời nầy, tìm được một người siêu việt về một tuyệt kỹ như chúng, hẳn không phải dễ đâu! Thế mà chúng lại cho rằng ngươi cao minh hơn chúng ...

Quan Sơn Nguyệt lần này thì khiên tốn thực sự:

– Bà nói quá lời, tại hạ đâu dám tiếp nhận? Về nét bút, tại hạ làm sao sánh được Thị Thơ tiên sanh? Còn như kiếm pháp, kỳ pháp, hoạch pháp, bất quá tại hạ biết qua vậy thôi, mong phu nhân đừng quá tặng, tại hạ thẹn lắm!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn sang Thị Thơ.

Thị Thơ hấp tấp trình bày:

– Thực ra thì, Minh huynh đệ chưa tả tự đúng mức hỏa hầu, song y là một thiên tài đó, phu nhân! Nếu y chịu khó trau dồi, chắc chắn một ngày nào đó, y sẽ vượt xa thuộc hạ ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười nhẹ:

– Thì ta cũng nghĩ như thế, chứ làm gì ở cái tuổi của hắn, hắn lại có nét bút thần kỳ, hơn hẳn ngươi được? Còn như trong tương lai, hắn thành tựu ra sao, điều đó chưa phải lúc cần bàn đến. Có điều, từ bao lâu nay, ngươi tự hào là trong thiên hạ, chẳng một ai tập luyện được như ngươi, mà có những nét bút thần, do đó ta nghĩ dù hắn khổ công trau dồi đến đâu, cũng khó theo kịp ngươi. Chí như Cầm Khiêu và Tư Kỳ thảm bại dưới tay hắn, thì ...

Tư Kỳ vội nghiêng mình, cung kính thốt:

– Quả thật kiếm pháp của Minh huynh đệ rất cao minh ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:

– Ta không nói đến kiếm thuật, ta chỉ ...

Tư Kỳ cười gượng:

– Về cầm điệu và cầm lý, thuộc hạ chưa được biết Minh huynh đệ lãnh hội như thế nào, song bằng vào cuộc đàm luận giữa nhau, thuộc hạ đoán là ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân khoát tay:

– Được rồi! Ngươi bất tất phải giải thích. Ta lấy làm lạ, bình sanh các ngươi không hề nhận kém một ai, thế mà giờ đây bỗng nhiên đối với một thiếu niên, các ngươi lại thừa nhận bậc dưới! Thừa nhận mà không cần có cuộc so tài!

Bà vụt chỉnh nghiêm thần sắc.

Bọn Tư Kỳ Cầm Khiêu rợn người, Thị Thơ vội phân trần:

– Bọn thuộc hạ nhận thấy Minh huynh đệ có bẩm chất hơn người, do đó mạo muội dẫn kiến với phu nhân.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười lạnh:

– Thật vậy à? Các ngươi hiệp nhau nói tốt cho hắn, tuy nhiên ta thấy khó tin.

Bà gọi:

– Đạn Kiếm! Hãy thực nghiệm hắn qua một vài chiêu xem sao!

Đại hán vận y phục võ sĩ vâng một tiếng, rút thanh trường kiếm bên hông ra khỏi vỏ, thanh kiếm màu xanh nhạt, thép mờ mờ, không chớp lên như các loại kiếm khác. Thanh kiếm lại có hình thức cổ quái.

Quan Sơn Nguyệt giật mình, thốt:

– Tại hạ đến đây, không vì mục đích so kiếm!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hừ nhẹ:

– Thế ngươi đến với mục đích gì?

Thị Thơ đổ mồ hôi lạnh.

Quan Sơn Nguyệt biết rõ, hắn sợ chàng nói lên sự thật. Chàng cười nhạt, đáp:

– Thị Thơ tiên sanh mời tại hạ đến đây, để tiếp xúc với mấy vị cao nhân!

Thị Thơ thở phào:

– Thuộc hạ thấy Minh lão đệ có nhân tướng phi phàm, nên nảy sanh cái ý đưa đến đây, giới thiệu với phu nhân ...

Phu nhân «hừ» một tiếng, lớn hơn tiếng trước một chút:

– Thế là vừa rồi, ngươi nói dối với ta!

Thị Thơ rung người.

Cầm Khiêu vội biện bạch:

– Thị Thơ khi nào dám lừa dối phu nhân! Thị Thơ tuy không nói rõ tình hình tại đây cho Minh huynh đệ biết, song có ủy thác bọn thuộc hạ làm hộ cái việc đó.

Và bọn thuộc hạ đã tỏ bày cho Minh huynh đệ hiểu rồi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hướng sang Quan Sơn Nguyệt:

– Ngươi đã biết tình hình tại đây, tại sao ngươi từ khước cuộc trắc nghiệm?

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

– Cuộc trắc nghiệm gì?

Cầm Khiêu vội giải thích:

– Tại sao lão đệ mau quên thế? Tại hạ đã nói với lão đệ, phàm muốn lưu lại Quảng Hàn Cung, tất phải có một sở trường, một tuyệt kỹ chi đó. Phu nhân bảo Đạn Kiếm so tài với lão đệ, là muốn trắc nghiệm cái sở trường về kiếm pháp của lão đệ vậy.

Thấy lão ta có vẽ khẩn cấp cực độ, Quan Sơn Nguyệt không nở gieo thất vọng cho lão, nên liền điểm một nụ cười, đáp:

– Thì ra là thế! Chỉ vì tại hạ không hiểu rõ ràng cái ý của phu nhân, cứ tưởng đấu kiếm là sát phạt nhau, quyết tranh thắng bại, thắng thì sống, bại thì chết, bởi nghĩ như thế, tại hạ phải từ khước. Huống chi dù là một cuộc trắc nghiệm đi nữa, tại hạ cũng không thấy hứng chút nào, bởi dù sao thì đao kiếm vẫn là vật vô tình, vô duyên vô cớ mà động thủ, biết đâu may rủi sẽ như thế nào, và ai tránh được khỏi gây ra điều tiếc hận?

Chàng có cái vẽ thanh thản vô cùng, giả như có một cuộc đấu trí mạng, chàng cũng xem thường, huống hồ là một cuộc trắc nghiệm xuông? Vẽ thanh thản đó chứng tỏ chàng tự tín tột độ, chàng nắm chắc cái thắng trong tay.

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng, không biểu thị ý kiến nào nữa.

Đạn Kiếm sửa dáng nghiêm trang, bên trong dáng nghiêm trang đó, ẩn ước có chiều tự đắc. Hắn vòng tay, thốt gọn:

– Mời!

Vung tay, hoành thanh kiếm ngang ngực, hắn chờ.

Nhìn tư thế của hắn, bất giác Quan Sơn Nguyệt giật mình. Chàng nhận ra tư thế đó không lạ gì với chàng, bởi đó là một trong bảy tư thế của «Tu La Kiếm Pháp».

«Tu La Kiếm Pháp», là một tuyệt học, Bách Lý Bất Bình chỉ truyền dạy độc một mình Tạ Linh Vận, thì làm sao đại hán nầy lại biết được để hôm nay mang ra sử dụng đối phó với chàng?

Tư thế thì đúng vậy rồi, song chiêu thức chưa được phát xuất, Quan Sơn Nguyệt trước khi thấy chiêu thức, không thể đoán định quả quyết.

Chàng từ từ rút thanh kiếm Bạch Hồng, ánh kiếm chớp lên, chàng nhìn qua phu nhân, thấy bà ta hơi biến đổi thần sắc.

Chàng cầm thanh kiếm nơi tay, có nghĩa là chàng chấp nhận cuộc đấu.

Đạn Kiếm nhẹ giọng thốt:

– Xin Minh huynh xuất thủ!

Bởi muốn thấy rõ chiêu kiếm của đối phương như thế nào, để chàng đoán định, chàng mỉm cười, lắc đầu đáp:

– Không! Tiên sanh nên xuất thủ trước là phải hơn.

Đạn Kiếm không khiêm nhượng quá độ, bước tới một bước, phát chiêu ngay.

Đúng rồi! Hắn sử dụng đúng kiếm pháp Tu La! Hắn đang phát xuất chiêu «Vân Thảm Vụ Sầu». Tuy nhiên, có điểm bất đồng là thanh kiếm không phát sanh vân thảm vụ sầu, như lúc Tạ Linh Vận đánh ra, mà cũng chẳng có tiếng ma gào quỷ hú. Có điều, oai lực thì hùng mãnh hơn nhiều.

Không do dự, Quan Sơn Nguyệt sử dụng ngay kiếm pháp Đại La, ứng phó với địch. Chàng đánh ra chiêu «Càn Khôn Thỉ Định».

Hai đạo kiếm khí chạm nhau, quấn vào nhau thành một khối, không gây nên một tiếng động nhỏ. Một phút sau, hai đạo kiếm khí rời nhau ra.

Quan Sơn Nguyệt thở phào, chừng như chàng kiêu hãnh phần nào, bởi chàng nhận thấy, cái oai lực do Đạn Kiếm phát huy, đành là hùng mãnh, song hắn không biểu hiện nổi những hiện tượng ma quái như Tạ Linh Vận đã cho thấy.

Hơn thế, chàng cũng nhận rõ từng sự biến hóa nơi thanh kiếm của đối phương, mà «Đại La Kiếm Pháp» lại chuyên khắc chế những biến hóa đó. Nhờ vậy, chàng tiếp nhận nổi chiêu đầu.

Nhưng, sự nhận xét của những người đứng bên ngoài lại bất đồng.

Bất đồng, chẳng phải là dị đồng; Nguyệt Hoa Phu Nhân âm thầm thán phục, còn bọn Cầm Khiêu và Nhập Hoạch thì không trầm lặng như phu nhân, họ tỏ lộ rõ sự thán phục, họ suýt reo hò.

Đạn Kiếm cũng tán thưởng đường kiếm của Quan Sơn Nguyệt vô cùng.

Một phút trôi qua, Đạn Kiếm phát xuất chiêu thức thứ hai, cũng là một trong những chiêu của «Tu La Kiếm Pháp», có cái tên là «Sưu Hồn Lạc Phách».

Quan Sơn Nguyệt đưa liền chiêu «Sơn Nhạc Vĩnh Kỳ» ra nghinh đón.

Hai đạo kiếm khí lại quyện vào nhau, tuy nhiên Quan Sơn Nguyệt cảm thấy công lực của Đạn Kiếm mường tượng thâm hậu hơn Tạ Linh Vận, bởi công lực của hắn quá mạnh, thành ra luồng khí của Quan Sơn Nguyệt bị kiếm khí của hắn từ từ đè nặng, như bị kềm cứng lại, không còn linh động như lần chạm kiếm đầu tiên.

Cũng may, chiêu «Sơn Nhạc Vĩnh Kỳ», là một chiêu chuyên về thế thủ, do đó, chàng cố gắng giữ vững tư thế, cũng chẳng đến đổi nào. Giả như chàng sử dụng một chiêu chuyên tấn công, thì lúc đó hẳn chàng không làm sao phát huy thế công nổi.

Song phương lại rời nhau ra.

Đạn Kiếm lùi lại hai bước, thần sắc ngưng trọng, tựa hồ hắn không tin là sự thật như thế.

Nguyệt Hoa Phu Nhân không còn giữ vẽ bình thản như cũ, buột miệng kêu lên một tiếng «ạ» rất nhẹ.

Sau chiêu kiếm thứ hai, Quan Sơn Nguyệt bắt đầu thở mạnh, hơi thở mạnh, hơi thở của chàng nghe rõ ràng.

Tuy nhiên, thay vì nghỉ mệt, chàng lập tức bước tới, tấn công. Với thủ pháp cực kỳ nhanh, chàng đánh ra luôn cả hai chiêu cùng một lúc, chiêu «Húc Nhật Đông Thăng» và chiêu «Bạch Hồng Quán Nhật».

Hai chiêu đó, thuộc về thế công, chàng đánh ra, kể cũng hợp lý, bởi đúng là chiêu công, chứ không phải chiêu thủ. Song, đánh như vậy, là sai với tuy tắc của kiếm pháp. Vì «Đại La Kiếm Pháp» chỉ được dùng với cái thế thụ động, phải chờ khi địch tấn công, chàng mới thi triển, tuyệt đối không nên xuất thủ trước. Rồi tùy ý, lúc phản công, chàng dùng chiêu công, hay chiêu thủ, mặc chàng, do theo sự ức độ của chàng. Bây giờ, chàng bỏ cái thế thụ động, không chờ địch tấn công, chính chàng tấn công trước.

Sở dĩ chàng vi phạm quy tắc, là vì chàng nhận ra, Đạn Kiếm có đấu pháp rất kín đáo, khi hắn xuất chiêu, là cái thế rất chặt chẽ, chẳng có một sơ hở nhỏ nào, chàng có chờ hắn xuất thủ trước cũng không lợi dụng một thời cơ nào được.

Hơn nữa, công lực của hắn quá mạnh, chàng ước lượng sức mình, không làm sao giữ vững thế thủ nổi, nếu bình lặng mà chờ hắn tấn công, đúng theo quy tắc, thì cầm chắc là bị hắn đánh bay, rời xa vị trí. Do đó, chàng phải liều.

Thà liều mà còn có cái may, hơn là đứng một chỗ với cái bại chắc chắn.

Chiêu thứ nhất, «Húc Nhật Đông Thăng» vừa bay sang, Đạn Kiếm khoa kiếm một vòng, tạo thành bức tường phong vững, kín che chở toàn diện. Hắn hóa giải dễ dàng chiêu kiếm đó của Quan Sơn Nguyệt.

Nhưng chiêu kế tiếp lại đến liền, vừa nhanh, vừa ảo diệu, Đạn Kiếm không làm sao xoay kiếm, biến thế, ngăn chặn, thành ra phải để kiếm Bạch Hồng xuyên vào màu kiếm quang của hắn.

Một tiếng «rẻng» vang lên.

Ngàn tia lửa bắn ra, chớp ngời, hai vũ khí chạm nhau, Quan Sơn Nguyệt lùi lại một bước, tay cầm kiếm tê dại, chàng phải cố gắng lắm mới giữ cho nó khỏi rơi.

Vẻ hãi hùng hiện ra nơi gương mặt chàng.

Chàng hãi hùng, không vì chiêu kiếm kỳ ảo của đối phương, mà vì công lực quá thâm hậu của Đạn Kiếm.

Đúng là chàng đâm trúng nhược điểm của đối phương, đối phương cũng không làm sao hóa giải kịp. Thế mà trong cơn nguy cấp, Đạn Kiếm vận dụng kình lực, dồn vào kiếm, thanh kiếm phát huy một áp lực kinh hồn đẩy bật Bạch Hồng kiếm trở về, hắn thoát nạn, mà Quan Sơn Nguyệt lại bị chấn dội đến tê dại cánh tay, suýt buông rơi kiếm.

Chàng còn nhận ra, thanh kiếm màu xanh của Đạn Kiếm rất quý, Bạch Hồng Kiếm chạm vào, nó chẳng hề sứt mẻ, đừng nói là gãy.

Đạn Kiếm không đến đổi mất bình tĩnh như Quan Sơn Nguyệt, hắn vòng tay hướng lên không vái một lượt, rồi tra kiếm vào vỏ, sau cùng quay nhìn Quan Sơn Nguyệt, lại vòng tay thốt:

– Minh huynh có kiếm thuật tuyệt luân, tại hạ không dám sánh!

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc cực độ, câu nói đó, đáng lý phải do chàng phát xuất, sao hắn lại thốt lên, bởi rõ ràng là chàng kém hắn xa kia mà? Dù bên ngoài, không ai thấy rõ, chàng cũng phải tự ức lượng sức mình chứ? Tại sao hắn nhận bại?

Suy nghĩ một lúc, Quan Sơn Nguyệt chợt tỉnh ngộ.

Trước khi đến đây, chàng được nghe Cầm Khiêu cho biết là Đạn Kiếm là con người rất tốt, sẵn sàng tiếp trợ bất cứ ai nếu hắn có dịp làm, huống hồ chàng đã được bằng hữu của hắn là bọn Cầm Khiêu, Tư Kỳ, Thị Thơ, luôn đến Nhập Hoạch dành cho nhiều hảo cảm? Có lẽ vì thế nên trong lúc đấu kiếm, hắn vờ kém thế, rồi khi dứt cuộc hắn lại tuyên bố phục tài chàng.

Tuy nhiên, chàng đâu phải thuộc hạng người chấp nhận một hư danh khi chẳng có thực tài làm hậu thuẫn? Cái tánh đó, tốt thật, song chàng không thể tiếp nhận được. Chàng cười lạnh, đáp:

– Tiên sanh khách khí quá chừng, tại hạ còn giữ được kiếm trong tay, là nhờ tiên sanh châm chước cho đấy, chứ nếu không thì ...

Đạn Kiếm nhếch nụ cười khổ, không đáp.

Nhập Hoạch bổng nói:

– Thật không tưởng nổi, Minh huynh đệ đã luyện kiếm pháp đến mức cao minh như vậy! Đạn Kiếm từng khoe khoang là ngoài phu nhân ra, chẳng một ai tiếp được mấy chiêu kiếm của hắn! Thế mà Minh huynh đệ lại đánh bại hắn không khó khăn gì.

Quan Sơn Nguyệt quay mặt sang nàng, mắt hơi trừng, hỏi:

– Tại hạ đánh bại Đạn tiên sanh?

Nhập Hoạch bật cười khanh khách:

– Chứ sao! Lão đệ nên kiêu hãnh mới phải! Nếu hắn không nhờ diệu năng của thanh kiếm thần đó thì hắn đã mất đầu trong chiêu kiếm thứ nhất của lão đệ rồi. Ta dám quả quyết là kiếm pháp của lão đệ xứng đáng được coi là thiên hạ đệ nhất kiếm khách!

Chừng như nàng tỉnh ngộ là mình lỡ lời, vội chữa:

– Đương nhiên là tôi không gồm phu nhân trong cái gọi là thiên hạ đó!

Vừa thốt câu bổ túc, nàng vừa liếc sang Nguyệt Hoa Phu Nhân, chỉ sợ bà ta không ưng ý câu đó.

Ngờ đâu, phu nhân mỉm cười nói:

– Nhập Hoạch, ngươi lầm rồi đó nhé! Có thể là ta dựa vào công lực thủ thắng trước hắn, nhưng luận về chiêu thức thì ta còn kém Đạn Kiếm một phần, kém Đạn Kiếm thì ta phải bại nơi tay hắn là cái chắc!

Không ai tưởng là bà ta thốt một câu như vậy, và có lẽ đây là lần thứ nhất, bà nhận kém trước một người.

Ai ai cũng kinh ngạc, Quan Sơn Nguyệt trái lại chẳng lấy đó là một vinh dự, chàng thản nhiên như thường. Hay đúng hơn, chàng không lưu ý đến ai, chàng không nghe phu nhân nói gì, đôi mắt chàng chăm chú nơi thanh kiếm trong tay Đạn Kiếm.

Kiếm đã tra vào vỏ rồi, tay Đạn Kiếm bất quá sờ lên vỏ, có gì lạ mà chàng nhìn?

Chàng đang suy nghĩ về cái tên của thanh kiếm! Cái tên kiếm là Thanh Sách Kiếm!

Lúc học kiếm với Ôn Kiều, chàng có nghe lão bà kể tên vài thanh kiếm, ngoài thanh Bạch Hồng. Chẳng hạn, thanh Tử Sính, thanh Thanh Sách ...

Những thanh kiếm đó, có oai lực trên hẳn thanh Bạch Hồng. Giờ đây, chàng gặp một trong hai thanh, hiện ở nơi tay Đạn Kiếm.

Chàng cũng hiểu, chiêu thức «Bạch Hồng Quán Nhật» rất tuyệt diệu, đối phương không làm sao tiếp nhận nổi.

Sở dĩ Đạn Kiếm thoát khỏi áp lực của thanh kiếm Bạch Hồng qua chiêu thức đó, là nhờ sự thần hiệu của thanh Thanh Sách!

Thảo nào hắn chẳng nhận bại?

Nguyệt Hoa Phu Nhân điểm nụ cười thốt:

– Minh Thiên Lý! Bắt đầu từ phút giây này, ngươi là một phần tử trong cung Quảng Hàn đấy ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình, hấp tấp đáp:

– Không! Không thể được!

Nguyệt Hoa Phu Nhân vẩn cười tươi:

– Tại sao?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Tại hạ không thể làm một người tùy hầu cho phu nhân ...

Phu nhân gật đầu:

– Đương nhiên! Khi nào ngươi là kẻ thị giả của ta được? Ngươi học rộng tài cao, bắt một kẻ như ngươi sung vào hàng ngũ tùy hầu, thì có khác nào mai một bậc anh tài? Phải vậy chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tại hạ không nghĩ như vậy, phu nhân đoán sai!

Nguyệt Hoa Phu Nhân không cho chàng nói tiếp, chận lại liền:

– Ta hiểu rõ ý tứ của ngươi rồi. Tài năng của ngươi phát hiện trên nhiều phương diện, mà sung vào hàng ngũ thị giả, bất quá ngươi chỉ đảm trách một đặc vụ nào đó thôi, ngươi không làm sao biểu hiện hoặc trau dồi những ưu điểm khác cho được tận thiện tận mỹ. Tuy nhiên, ngươi thử nghĩ xem, bất quá về kiếm pháp, ngươi có phần nào cao minh hơn cả bọn kia, chứ về cầm, kỳ, thi họa, đã chắc gì ngươi vượt bọn Cầm Khiêu, Tư Kỳ, Thị Thơ, Nhập Hoạch? Ta cho rằng với sở trường của bọn đó, họ thừa khả năng chỉ điểm ngươi, họ không là sư, cũng là trưởng! Hạng thanh thiếu, quật cường, cao hãnh, tự đắc, ngạo mạn, là sự thường, có thể là cần phải có những tính đó nữa là khác, song quật cường, cao hãnh tự đắc, ngạo mạn, nếu giúp ngươi bảo trì phẩm cách, khí thái thì hay, trái lại nếu khuyến khích ngươi nuôi cuồng vọng, thì rất dở!

Bà nói có lý lắm, song bà nói sai quan niệm của Quan Sơn Nguyệt. Dĩ nhiên, chàng bất bình, khi nào chàng chịu nổi những lời phủ đầu của Nguyệt Hoa Phu Nhân? Chàng cau mày, toan tranh biện, Nguyệt Hoa Phu Nhân lại chận tiếp:

– Ta biết ngươi bất mãn, song ta còn biện pháp nào hơn? Có thể ... bởi ta nhận thức ngươi quả là một nhân tài, có thể ... ta bổ nhậm ngươi làm một hộ pháp trong cung, với chức hộ pháp, người cai quản cả bảy thị giả của ta, như vậy là thích hợp với ngươi lắm rồi!

Nhập Hoạch thấy rõ là Quan Sơn Nguyệt còn phản đối, vội ngăn:

– Minh huynh đệ! Phu nhân đã dành cho lão đệ một vinh dự lớn lao lắm đó, tuy cai quản bọn ta, lão đệ chẳng thu hoạch ích lợi gì, song tiếp cận với phu nhân thường xuyên, lão đệ sẽ học hỏi được những điều hay, lão đệ sẽ trở nên bậc đại thành ...

Nàng vừa thốt, vừa nheo nheo mắt, ngầm truyền cái ý cho chàng, cái ý đó là niềm khuyến khích chàng nên tiếp thọ đề nghị của Nguyệt Hoa Phu Nhân.

Đồng thời bọn Thị Thơ, Cầm Khiêu, Tư Kỳ, cũng ra hiệu bằng ánh mắt với chàng như vậy.

Quan Sơn Nguyệt dở khóc dở cười, tiến thoái lưỡng nan. Nếu chàng chấp nhận? Thì biết đến bao giờ chàng giải thoát được sự ràng buộc tại nơi nầy? Và, trong khi chờ đợi sự giải thoát, chàng sẽ có những tao ngộ như thế nào? Lợi hay hại? Không hiểu được ngày mai cái gì sẽ xảy đến với chàng, thì làm gì ức độ được một hậu quả xa xôi?

Bất giác, chàng lấy một chủ ý. Thực hiện chủ ý đó, chàng phải khoác một thái độ trái ngược với tư cách của chàng. Chàng biểu hiện vẻ cao ngạo cực độ, bật cười ha hả, cười một lúc, lại cất giọng sang sảng:

– Lời nói, là như vậy, sự sắp xếp, xem ra thì rất đẹp, rất hợp lý, tuy nhiên, dù sao, phu nhân cũng vẫn xem tại hạ là kẻ dưới tay, một kẻ tùy sai, bất quá là một thị giả có chút vinh diệu hơn các thị giả khác, huống chi cái quyền cai quản các thị giả kia, chỉ là một hư quyền, bởi cai quản họ, mà tại hạ được lợi lộc gì, ngoài cái khổ nhọc giám thị họ phục vụ phu nhân tận tụy? Tại hạ chẳng biết được, khi phu nhân nhận tại hạ làm một hộ pháp trong cung thì phu nhân đã định dành cho tại hạ những đặc huệ gì?

Nhập Hoạch biến sắc, kêu lên:

– Minh huynh đệ điên rồi! Làm sao bỗng nhiên lại xúc phạm phu nhân?

Quan Sơn Nguyệt chỉ cười không đáp.

Trái với sự lo sợ của tất cả, Nguyệt Hoa Phu Nhân nở một nụ cười, thốt:

– Chẳng có gì phải trách hắn. Nếu ta không biểu lộ một vài tuyệt kỹ cho hắn thấy trong trường hợp nầy, thì chẳng khi nào hắn phục! Gã trẻ tuổi kia, ngươi định tranh cao thấp với ta, phải không?

Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:

– Tranh cao thấp, thì hơi quá đáng, phu nhân đừng nói thế, bất quá, khi chưa thấy sở học, sở năng của phu nhân như thế nào, thì tại hạ không thể đi sâu vào vấn đề, và đương nhiên là không đáp ứng được.

Nguyệt Hoa Phu Nhân vẩn giữ nụ cười:

– Ngươi cứ nêu cái ý, muốn thử thách ta như thế nào ta sẽ cho ngươi thấy cái giải pháp thích ứng của ta.

Quan Sơn Nguyệt cao ngạo gần như ngông cuồng, bà ta cũng cao ngạo không kém. Gặp kẻ cao ngạo ngang độ, Quan Sơn Nguyệt càng nâng cái độ ngông lên cao hơn, bật cười ha hả, thốt:

– Tại hạ nhận thấy, có thể miễn cưỡng ứng phó trước sự thi triển mọi sở năng của phu nhân!

Nguyệt Hoa Phu Nhân giật mình. Từ lâu lắm rồi, trong Quảng Hàn Cung, chưa có một ai dám thốt câu đó. Lần thứ nhất, phu nhân mới nghe nói như vậy, và là một thiếu niên nói lên! Tự nhiên bà phải sững sờ.

Bảy thị giả cũng sững sờ như bà. Một phần, họ lo ngại cho Quan Sơn Nguyệt, phần khác họ kinh dị, không tưởng nổi Quan Sơn Nguyệt là con người như thế nào, thành ra họ đâm hoang mang, chẳng hiểu sự lo ngại cho chàng đó, có thừa hay không?

Một lúc lâu, Nguyệt Hoa Phu Nhân cười nhẹ, thốt:

– Hay quá! Hay vô cùng! Đại khái, cái tài của ngươi bao gồm mọi mặt, thế mà ta cứ tưởng ngươi chỉ có một vài tuyệt kỹ thôi! Vậy thì, bảy ngón nghề trong Quảng Hàn Cung, ta sẽ biểu hiện cho ngươi thấy rõ, bảy ngón nghề đó là cầm, kỳ, thi, họa, kiếm, trà, tửu, ta sẽ cho ngươi thấy chỗ tuyệt diệu của mỗi thứ, có như thế, ngươi mới khẩu phục, tâm phục.

Bà gọi:

– Cầm Khiêu, lấy đàn đem ra đây!

Cầm Khiêu vâng một tiếng, bước vào một góc đại sảnh, mang ra túi đàn.

Lão ta lấy chiếc đàn trong túi, đặt trên bàn.

Nguyệt Hoa Phu Nhân đứng lên, bước đến cạnh chiếc đàn, điểm một nụ cười, thốt:

– Nói rằng làm một cuộc so hơn kém với ngươi, thì đúng là một chuyện đáng buồn cười quá chừng. Song ngươi đã muốn thấy cái chỗ hơn kém, thì ta cũng chẳng quản công, biểu hiện cho ngươi thấy. Ta sẽ dạo lên bản Ỷ Lan, nếu nghe rồi mà ngươi chẳng xúc động tâm tình, thì ta công nhận ngươi là một danh cầm, hoặc giả ngươi muốn xưng là đệ nhất danh cầm trong thiên hạ, ta cũng chấp nhận cho luôn!

Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt muốn thoái thoát để chấm dứt một sự việc lạ lùng, cũng chẳng còn kịp nữa!

Chàng hết sức lạ lùng, tại sao chàng có những tao ngộ như thế này! Long Hoa Hội vừa dứt, liền theo đó, lại gặp cái tổ chức quái dị cho rằng điên cũng chẳng sai lắm!

Ngày trước, chàng từng nghe sư phụ là Độc Cô Minh dẫn và giảng qua cầm lý cho chàng hiểu. Nhưng sự hiểu biết của chàng còn trong một phạm vi nhỏ hẹp, chàng chưa xứng đáng là một tay cao minh về cầm lý cũng như cầm điệu.

Tuy nhiên, chàng cũng rõ, cao thủ dạo đàn, có phổ hóa công lực theo tiếng đàn, nếu người nghe không cẩn thận, sẽ bị kình lực do tiếng đàn phát huy, vô hình trung thọ thương ngay. Thương thế tinh thần, nguy hại hơn là thương thế thể xác.

Tuy nhiên chàng biết rõ, Nguyệt Hoa Phu Nhân không thực tâm sát hại chàng, mà chàng cũng biết luôn là thinh âm của đàn cầm có thể gây tại hại cho người nghe, cái tai hại đó bắt đầu từ sự rối loạn thần trí, rồi vì không tự chủ được, phải rơi vào vòng thao túng của người gảy đàn.

Đại khái chàng biết như vậy.

Chàng nghĩ, nếu chàng giữ được cái tâm thanh tịnh, cái ý kiên cường nghe mà như chẳng nghe, thì tiếng đàn kia làm gì dụ hoặc chàng nổi?

Chàng ngồi xuống, xếp bằng tròn, hai tay đặt lên gối, mắt nhắm hờ, mường tượng một nhà sư nhập định. Chàng thốt:

– Xin phu nhân cho nghe nhả tháo!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn tư thế ngồi của chàng, gật gù tán:

– Xem ra, ngươi cũng hiểu biết đôi chút! Hãy chú ý, ta bắt đầu đàn đây!

Chàng có quyết tâm nghe đâu mà bảo chú ý?

Có lẽ phu nhân thách thức chàng, bảo chàng chú ý giữ mình dù cho cảnh giác của chàng có đề cao tột độ, vị tất chàng không bị ảnh hưởng của tiếng đàn.

Bà bắt đầu so dây. Mới so dây, bà cũng tạo nên một âm thanh huyền hoặc rồi!

Quan Sơn Nguyệt giật mình, thầm sợ âm điệu của phu nhân phát huy. Do đó, chàng cố trấn định tâm thần, ngồi yên như tượng gỗ.

Phu nhân lấy làm lạ. Bất cứ ai không thể nghe nổi những âm thanh đầu tiên của cung đàn Ỷ Lan của bà. Người khác thì rung rẩy mình, nhưng Quan Sơn Nguyệt bất quá chỉ lộ vẻ kinh dị rồi bình tĩnh lại ngay.

Chính bọn thị giả, nhất là Cầm Khiêu cũng hết sức hãi hùng, không tưởng nổi chàng định tâm vững chắc như vậy.

Phu nhân bắt đầu dạo bản Ỷ Lan thực sự.

Quan Sơn Nguyệt vẫn trơ trơ như tượng gỗ, ai ai cũng lấy làm kỳ. Chính phu nhân cũng lấy làm kỳ.

Bà bực tức, bởi bực tức nên bà đàn gấp, trong âm điệu ẩn ước có sát ý, sát ý càng phút càng bốc mạnh.

Bọn thị giả bên ngoài càng phút càng kinh sợ, nhưng Quan Sơn Nguyệt càng phút càng vững hơn, nơi mép miệng, thoáng hiện nở nụ cười.

Phu nhân nổi giận, thay vì đàn gấp, bà đàn chậm lại, cái ý trầm trầm, chứng tỏ sát ý bốc mạnh hơn trước.

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt vẫn bình lặng như cũ.

Phu nhân sôi giận thực sự. Bà bỏ luôn cung điệu Ỷ Lan, định đàn sang một bản khác.

Trong ánh mắt của bà, hiện lộ rõ sát cơ.

Cầm Khiêu kêu lên thất thanh:

– Không được đâu, phu nhân!

Phu nhân không cần dè dặt nữa, nạt ngang:

– Ngươi muốn ta cúi đầu nhận bại trước tiểu tử à?

Cầm Khiêu không dám nói gì hơn.

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng, nhếch mấy ngón tay, sắp sửa đàn tiếp. Vẽ cương quyết hiện rõ nơi gương mặt bà.

Cầm Khiêu sợ hãi quá chừng, nhắm mắt lại, nhưng lâu lắm rồi, lão ta chẳng nghe tiếng đàn nổi lên.

Bất giác, lấy làm lạ, lão mở mắt ra, nhìn phu nhân. Vừa nhìn qua bà, Cầm Khiêu càng kinh hãi.

Bà không đàn, mặt bà xanh lại, bàn tay còn đưa cao trên chiếc đàn, những dây đàn đứt hết, đứt tất cả.

Dây đàn đứt một cách lạ lùng, không gây lên một âm vang nào cả!

Bất thình lình, bà đưa tay chỉ ra ngoài cửa.

Tất cả bảy thị giả đồng một loạt, tung mình vọt ra ngoài. Nhập Hoạch nhanh chân hơn đồng bọn, dẫn đầu.

Họ vừa nhích động thân hình, thì bên ngoài có tiếng cười vang vọng vào, tiếp theo là một câu nói, cũng oang oang:

– Khách không mời, cho đến là hân hạnh lắm rồi, đâu dám nhận sự tiếp đón long trọng như thế!

Nhập Hoạch giật mình, nhận ra người đến, bất giác kêu lên:

– Lão Đà đã đến!

Người mới đến, là một lão nhân gù lưng, lão đưa tay véo vào má Nhập Hoạch, cười hì hì, thốt:

– Liễu đầu dám vô lễ với lão phu à? Cái tiếng lão Đà, ngươi xưng hô thế nào được?

Bị lão véo má đau quá, Nhập Hoạch đau quá song không dám thoát chạy.

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm gương mặt, lạnh lùng thốt:

– Đà Ông nên thận trọng một chút, cái bọn đó đâu phải ngang hàng đùa cợt với chúng làm chi!

Lão nhân gù bật cười ha hả:

– Tốt! Tốt! Lịnh đã ban ra rồi, lão phu đâu dám chẳng tuân!

Lão buông tay.

Nhập Hoạch trừng mắt nhìn về chỗ cũ, trừng mắt nhìn lão hận phừng phừng, nhưng chẳng dám nói gì.

Phu nhân vẫn với giọng lạnh lùng, hỏi:

– Đà Ông cao hứng thế nào, bỗng dưng lại cất công đến đây?

Lão nhân gù đáp:

– Nghe nói phu nhân không được an khương, lão phu đến tận vùng Tây Tạng, tìm nước của Tửu Đạt Mộc Hà, mang về tặng phu nhân.

Phu nhân cười lạnh:

– Đa tạ thạnh tình của Đà Ông, hiện tại già cảm thấy khỏe như lúc thường.

Lão nhân gù mỉm cười:

– Lão phu cũng biết vậy, lúc đến Vọng Nguyệt Phong, nghe tiếng đàn, lão phu nhận ra phu nhân đã bình phục rồi.

Phu nhân chặn lại:

– Cái việc tìm thánh thủy, già xin tri ân, chỉ vì Đà Ông ...

Lão nhân gù vội phân trần:

– Hẳn là phu nhân trách cứ lão phu làm gián đoạn cao hứng ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười lạnh, không đáp. Mặc dù lão nhân ngưng câu nói chờ bà ta xoa dịu một tiếng. Phu nhân không nói gì, lão nhân gù lại tiếp:

– Phu nhân cũng nên lượng thứ cho lão phu. Đã lâu lắm rồi, lão phu không được nghe phu nhân buông nhả tháo, may mắn thay hôm nay lại có cơ hội lắng nghe âm diệu huyền, bất giác tâm thần phấn khởi, không kềm hãm được xúc cảm, ca lên mấy câu, hòa lại, thiết tưởng đó cũng là sự thông thường, bởi âm nhạc có sức truyền cảm nhiệm mầu ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân trừng mắt, nhìn lão rồi nhìn qua Quan Sơn Nguyệt, trừng mắt thốt:

– Già biết lắm, có kẻ thứ ba làm trò quỷ chi đó, chứ nếu không thì tiểu tử làm sao khống chế nổi áp lực của bản Ỷ Lan của già.

Bây giờ Quan Sơn Nguyệt mới vỡ lẽ. Thì ra, sở dĩ chàng giữ sự bình tịnh được là nhờ lão nhân gù đã phá hấp lực của điệu đàn. Thoạt đầu, chàng nghe tiếng đàn, như xói lỗ tai, suýt vùng lên, nhưng liền sau đó, có tiếng ca đâu đây vọng tới, tuy nhỏ song nghe rất rõ, tiếng ca rất dịu, xoa dịu ngay niềm khó chịu do tiếng đàn gây lên. Nhờ thế, chàng thản nhiên được, trái lại còn khoan khoái đến nở nụ cười sung sướng.

Lão nhân gù thốt:

– Bản Ỷ Lan là một bản êm dịu, nhưng lúc dạo lên, phu nhân tỏ lộ cái ý sát phạt. Do đó, lão phu mạo muội ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân lạnh lùng:

– Đà Ông bứt đứt dây đàn của già!

Lão nhân gù mỉm cười:

– Lão phu biết là phu nhân phẫn nộ, bắt buộc phải phát xuất «Chấn Thiên Thần m», tuy biết đó là hạ sách, song không còn cách nào khác hơn!

Phu nhân hừ một tiếng:

– Đà Ông khách khí quá đi thôi! «Chấn Thiên Thần m» dù lợi hại, vẫn chẳng làm gì nổi Đà Ông ...

Lão nhân gù lại cười:

– Phu nhân khỏi phải đấu khí với lão phu, bởi lão phu có muốn tranh hơn giành thắng với phu nhân đâu? «Chấn Thiên Thần m» vốn là một bản bất tường, gây thương tổn cho thiên hạ mà phu nhân bình nhật lại tu tâm dưỡng tánh, thiết tưởng không nên dạo đến khúc đàn đó!

Nguyệt Hoa Phu Nhân toan phát tác. Nhưng, bà có ý đắn đo, chừng như bà có đố kỵ lão nhân gù mấy phần, sau một phút, bà dằn cơn uất, lấy lại bình thường.

Đoạn, bà lạnh lùng thốt:

– Đà Ông đến đây, chỉ để mang thánh thủy đến cho già, hay còn chỉ giáo điều chi nữa chăng?

Lão nhân gù chỉnh nghiêm thần sắc:

– Ngoài việc đem thánh thủy đến cho phu nhân, lão phu còn muốn cho phu nhân biết là đã khám phá ra sự tình.

Phu nhân biến sắc mặt, hấp tấp khoát tay, bảo bảy thị giả bước ra ngoài.

Cầm Khiêu đến gần Quan Sơn Nguyệt, định lôi chàng ra luôn nhưng lão nhân gù vội ngăn:

– Để hắn ở lại đó!

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 37

Tình Yêu Và Luân Lý

Suy qua thái độ của bọn người trong Quảng Hàn Cung, đối với lão nhân gù, Quan Sơn Nguyệt tuy chưa có ấn tượng gì về lão, cũng có thể hiểu đại khái, lão là một nhân vật phi thường.

Bắt đầu từ khi tiếp xúc với Đạn Kiếm, Quan Sơn Nguyệt tin chắc là những người trong cung đều có tài nghệ siêu phàm, và vị thủ lãnh là Nguyệt Hoa Phu Nhân thì hẳn là một tay cao minh tột bậc. Cái tài của bà vừa được biểu hiện qua một khía cạnh, là âm điệu của đàn cầm.

Tiếng đàn của bà thừa làm điên đảo chàng, thì đủ hiểu căn cơ tu vi của bà thâm hậu đến đâu.

Nhưng lão nhân gù lại phá vỡ hấp lực đó thì ra lão nhân còn trên bà một bậc.

Cho nên, chẳng những bọn thị giả chẳng dám vô lễ với lão, mà chính Nguyệt Hoa Phu Nhân cũng phải nhân nhượng mấy phần.

Những sự kiện đó, thực sự không làm Quan Sơn Nguyệt chú ý cho lắm, bởi võ đạo mênh mang, người học võ chẳng biết học đến đâu cho cùng, và trên giang hồ cái câu cao nhân tắc hữu cao nhân trị được thực nghiệm nhiều nhất.

Thì, chàng không lạ gì cái sự hơn kém của khách giang hồ. Có lạ chăng đối với chàng là sự tiết lộ của lão nhân gù. Lão ta đã nói là khám phá được sự tình, thế ra, sự tình gì mà lão khám phá được? Và sự tình đó có liên quan đến chàng chăng?

Hẳn là có, không nhiều thì ít, cũng vì vậy mà lão nhân gù bảo Cầm Khiêu để chàng ở lại.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cũng kinh ngạc như chàng, không hiểu sao lão nhân muốn cho chàng ở lại, trong khi bà ta chỉ muốn đàm thoại riêng với lão nhân.

Bà trừng mắt, hỏi:

– Tại sao lưu hắn lại đây?

Lão nhân gù điểm một nụ cười:

– Phải có đạo lý chứ, nếu không thì lão phu giữ hắn lại đây làm gì? Bởi vì, sự tình phu nhân muốn biết, tiểu tử này biết rõ hơn lão phu!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nghi ngờ hỏi:

– Đà Ông nói sao? Hắn vừa lên đây chưa được một khắc ...

Lão nhân gù lại cười:

– Sao phu nhân không để cho lão phu nói hết ý?

Phu nhân cắn môi, rồi buông gọn:

– Thế thì Đà Ông nói đi.

Lão nhân gù đưa tay xoa lên hàm râu thưa, từ từ thốt:

– Trước hết, lão phu cho phu nhân biết một cái tin không vui lắm. Cái người mà phu nhân đang muốn biết hành tung đó, hiện tại không còn nữa! Y đã chết hai mươi bốn năm rồi! Y chết tại Hàng Ái Sơn!

Nguyệt Hoa Phu Nhân khích động mãnh liệt, song bà cố nén cơn xúc cảm, hỏi:

– Thật chứ?

Lão nhân gù gật đầu:

– Trăm lần thật, ngàn lần thật!

Lão lấy trong mình ra một chiếc vòng ngọc, nửa phần tròn, trao cho bà, đoạn tiếp:

– Để chứng minh sự việc, lão phu tìm đến ngôi mộ của y, quật mộ lên, lấy chiếc vòng ngọc này, chiếc vòng nằm giữa đống xương tàn của y!

Tiếp chiếc vòng, cầm nơi tay, phu nhân nhìn nó, ánh mắt của bà ngời lên, lệ thảm đã cài mi, bà chớp mắt, vài hạt nhỏ rơi xuống.

Tuổi già, lệ như sương, còn đâu đọng thành hạt lớn như hàng thanh thiếu có cả một hồ lệ trong lòng?

Lâu lắm, bà thở ra, cao giọng u buồn thốt:

– Già biết! Y không thể sống lâu! Lúc ly khai già, y đã mang trọng bịnh ...

Bổng, Quan Sơn Nguyệt biến sắc mặt, bước tới, van cầu:

– Phu nhân cho tại hạ được nhìn qua chiếc vòng!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nạt ngang:

– Bước ra xa đừng làm rối trí ta!

Lão nhân gù mỉm cười:

– Chờ một chút, tiểu tử! Cái phần câu chuyện có liên quan đến ngươi, chưa tới, ngươi hãy đứng ngoài vòng, bình lặng mà nghe lão phu kể giai đoạn đầu với phu nhân, giai đoạn đầu không dính dấp đến ngươi.

Quan Sơn Nguyệt nổi tính quật cường, cao giọng gắt:

– Không được! Tại hạ muốn xem chiếc vòng, phu nhân không cho không được! Chỉ vì ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân toan phát tác, lão nhân gù nhướng đôi mày, hỏi:

– Tại sao ngươi nhất định đòi xem cho bằng được?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Bởi vì tại hạ cũng có một chiếc giống chiếc đó.

Lão nhân gù và phu nhân cùng giật mình. Lão nhân gù vội hỏi:

– Chiếc vòng của ngươi hiện ở đâu?

Quan Sơn Nguyệt lại suy nghĩ một chút:

– Tại hạ không biết, lúc tại hạ lên chín, sư phụ tại hạ lấy chiếc vòng cất luôn, từ đó đến nay, không hề trao lại cho tại hạ.

Lão nhân gù hấp tấp hỏi:

– Sư phụ của ngươi là ai? Hiện tại ở đâu?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Gia sư ngày trước là Minh Đà Lịnh Chủ, họ Độc Cô, tên là Minh, hiện tại hành tung bất định.

Chàng suýt tiết lộ hành tung của sư phụ, cũng may chàng kịp cảnh giác.

Chàng biết rõ, ngày nay sư phụ chàng đang sống cảnh thanh tu, rất ghét bị quấy nhiễu.

Lão nhân gù nhìn chàng, không nói gì.

Nguyệt Hoa Phu Nhân bỗng đổi thái độ, giọng nói của bà trở nên ôn nhu, bà trao chiếc vòng cho Quan Sơn Nguyệt, đồng thời thốt:

– Ngươi xem đi, có giống chiếc vòng của ngươi chăng?

Quan Sơn Nguyệt tiếp chiếc vòng, quan sát một lúc. Vì bị chôn hơn hai mươi năm dài trong đất, nó mất cái vẻ sáng của nó. Tuy nhiên, chàng cũng nhận rõ những nét chạm trên mình nó. Xem một lúc, chàng trao trả nó lại cho phu nhân, rồi thốt:

– Hình thể không sai bao nhiêu, có điều nó khác hơn chiếc vòng của tại hạ.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lộ vẻ khẩn trương:

– Khác ở chỗ nào? Ngươi nói cho ta nghe!

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ về thái độ của bà. Tuy nhiên cũng giải thích:

– Tại hạ không nhớ rõ lắm, đại khái thì trên chiếc vòng của tại hạ, có khắc sơn cảnh, trên sơn đầu, có một vầng trăng. Còn của phu nhân thì khắc những hoa cúc ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân kêu lên một tiếng, bà đang ngồi, thế mà bà chao chao, như chực ngã xuống.

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, kêu lên:

– Phu nhân làm sao thế?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cố gượng trấn định tâm thần, khẻ lắc đầu, đáp:

– Chẳng sao cả.

Rồi bà giục:

– Nói nữa đi, nói tiếp cho ta nghe. Do đâu, ngươi có chiếc vòng đó?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Tại hạ cũng chẳng biết do đâu có nó. Tại hạ nhớ mang máng là lúc nhỏ từng đeo nó nơi cổ, lúc đó tại hạ không chú ý đến những hình khắc trên mình nó có ý nghĩa gì. Mãi đến năm tại hạ được chín tuổi, đột nhiên nhớ ra tên mình là Quan Sơn Nguyệt, do đó tại hạ liên tưởng đến cảnh nơi chiếc vòng, và nghĩ rằng tên mình có liên quan với chiếc vòng, nên đem điều thắc mắc hỏi sư phụ. Sư phụ nổi giận, mắng luôn mấy câu, lấy luôn chiếc vòng, giữ mãi đến nay, không trao lại cho tại hạ.

Nguyệt Hoa Phu Nhân vội hỏi:

– Thế ngươi không phải là Minh Thiên Lý?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không, tại hạ là Quan Sơn Nguyệt, cái tên Minh Thiên Lý do Thị Thơ cải biến mà thành.

Nếu là trước đó, thì việc chàng thay đổi tên họ sẽ gây nên phẫn nộ nơi phu nhân rồi, song hiện tại thì bà hỏi để mà hỏi, hỏi nhưng không lưu ý đến câu đáp.

Bà hỏi luôn:

– Sư phụ ngươi có giải thích điều thắc mắc của ngươi chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không hề! Gia sư chỉ khuyên tại hạ không nên nghĩ ngợi viển vông.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cau mày:

– Ngươi họ Quan? Thân thế của ngươi như thế nào, ngươi có biết rõ chứ?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Tại hạ không rõ. Từ lúc nhỏ, tại hạ được sư phụ nuôi dưỡng mãi đến lúc trưởng thành, cái tên Quan Sơn Nguyệt sở dĩ có là do gia sư đặt cho.

Phu nhân nhìn sững chàng:

– Lý do gì khiến sư phụ ngươi đặt cho ngươi cái tên đó?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tại hạ không rõ.

Phu nhân bực tức:

– Cái gì ngươi cũng không rõ! Sao ngươi không rõ chi hết?

Quan Sơn Nguyệt cười khổ:

– Đúng như vậy đó, phu nhân! Gia sư dạy tại hạ tất cả, trừ một việc, là thân thế của tại hạ, chẳng bao giờ người đề cập đến việc đó. Người chỉ cho biết đại khái, tại hạ là một kẻ mồ côi, cha chết, mẹ chết, người đem tại hạ về nuôi dưỡng, giáo huấn ...

Phu nhân hấp tấp hỏi:

– Năm nay ngươi được bao nhiêu tuổi? Hẳn điều này ngươi cũng phải hiểu chứ?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Tự nhiên, ít nhất một con người cũng biết được tuổi của mình. Tại hạ năm nay được hai mươi sáu tuổi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân co ngón tay tính.

Bổng, bà để rơi mấy giọt lệ thấp giọng thốt:

– Đúng! Hai mươi sáu năm rồi! Ta biết! Mãi đến lúc chết y vẫn còn hận ta!

Bà thốt xong câu đó, tự thốt với chính bà, chẳng hướng về lão nhân gù hay Quan Sơn Nguyệt.

Tuy nhiên, cả hai đều nghe rõ.

Lão nhân gù chợt kêu lên:

– Hay! Xảo diệu thay! Lão phu không tưởng là trong thiên hạ lại có sự tấu xảo lạ lùng như thế này!

Nguyệt Hoa Phu Nhân ngẩng mặt lên:

– Đà Ông! Việc này, cần phải được truy cứu rất kỹ!

Lão nhân gù khoát tay:

– Khỏi! Còn truy cứu gì nữa chứ? Lão phu dám bảo đảm là chẳng hề sai!

Sự thật là vậy, phu nhân ạ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

– Không được đâu, Đà Ông! Già nghĩ, phải thận trọng để tránh những bẽ bàng sau này. Hiện tại, tâm tình của già rối loạn tơi bời, vả lại ...

Lão nhân gù hiểu ý bà, vội gật đầu, chận lời:

– Lão phu biết rồi, vậy phu nhân nên hồi tỵ một lúc, để mặc cho lão phu xử trí. Lão phu sẽ làm một cuộc phối kiểm thật kỹ, sau đó kết quả như thế nào, lão phu sẽ thông tri phu nhân.

Dừng lại một chút, lão tiếp:

– Có điều, lão phu tự hỏi, chẳng biết nên thuật hết sự tình chăng, hay lại phải giấu giếm?

Nguyệt Hoa Phu Nhân suy nghĩ một chút:

– Hiện tại, già không còn cố kỵ điều chi nữa, sự tình ngày cũ, Đà Ông có nhắc lại, kể cũng chẳng quan hệ gì. Xin Đà Ông lưu ý, nếu cuộc phối kiểm đem lại kết quả tốt đẹp, thì lập tức cho già biết nhé!

Lão nhân gù gật đầu:

– Tự nhiên! Phu nhân yên trí, và tự tiện!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn Quan Sơn Nguyệt lượt cuối, đoạn bước ra ngoài.

Quan Sơn Nguyệt hoang mang, chẳng hiểu phu nhân và lão nhân gù nói gì với nhau.

Nhưng, chàng đâu có thì giờ để suy tư, phu nhân ra khỏi cửa rồi, lão nhân gù bắt chuyện với chàng liền.

Giữ thần sắc trang trọng, lão gọi Quan Sơn Nguyệt:

– Ngồi xuống đi, tiểu tử, lão phu sẽ cho ngươi biết một đoạn cố sự, có liên quan trọng đại đến ngươi, ngươi hãy chú hết tâm thần nghe lão phu thuật.

Quan Sơn Nguyệt hết sức lấy làm lạ, tự hỏi lão gù sẽ giở trò gì với chàng đây, xem có vẻ huyền huyền ảo ảo quá chừng. Chàng muốn hỏi, song thấy lão gù nghiêm nghị trở lại, nên thôi, chỉ ngồi xuống chờ nghe.

Lão nhân gù trầm ngâm một lúc, chừng như sắp xếp những gì sẽ nói, theo thứ tự thời gian. Sau cùng, lão đằng hắng mấy tiếng, rồi bắt đầu thuật:

– Sự việc đã xảy ra ba mươi năm trước, lúc lão phu còn là một thanh niên, bởi lúc đó, lão phu chỉ có năm mươi tuổi ...

Một con người ở lứa tuổi năm mươi mà xưng mình là thanh niên, thì hẳn lạ lùng, nếu không là muốn thốt một câu khôi hài.

Chàng điểm một nụ cười.

Lão nhân gù gắt:

– Tại sao ngươi cười? Tuy lão phu đã có năm mươi tuổi, nhưng tóc còn xanh, râu chưa dài, cũng xanh nốt, như vậy có khác chi bọn niên thiếu các ngươi?

Tóc xanh, râu xanh, thì cái tuổi xanh luôn chứ?

Rồi lão thuật tiếp:

– Ba năm trước đó, lão có kết giao với một người bằng hữu, người ấy với ngươi hiện tại, có rất nhiều điểm hơn người, văn tài rộng, vũ học cao, tuổi độ ba mươi. Chúng ta vừa gặp nhau, là có cảm tưởng là trời sanh ra cả hai để mà kết tình bằng hữu, đúng với câu ý hợp, tâm đồng ...

Lão mơ màng, như hồi ức lại thời xa xưa, tưởng niệm bóng hình người cố hữu. Một phút sau, lão tiếp:

– Lúc đó, lão phu có hai kẻ tử đối đầu, họ là một đôi vợ chồng, sánh với lão phu tuổi thì kém, song vũ công tương đương, trước sau, lão phu và họ giao đấu với nhau hơn mười mấy lần, mỗi lần giao đấu là mỗi lần lão phu nhận bại ...

Quan Sơn Nguyệt nhếch môi, như sắp sửa cười.

Lão nhân gù trừng mắt:

– Ngươi đừng tưởng là lão phu kém họ nên nhận bại như vậy! Chẳng qua, lão phu đơn độc, mà họ lại đủ đôi, ít phải thua đông. Tuy nhiên, không phải cả hai cùng liên thủ, nghinh chiến với lão phu. Một đấu một, nhưng lão phu thì trường kỳ, còn họ thì luân phiên với nhau, ai mệt thì ra ngoài vòng chiến, để cho kẻ khỏe thay vào, còn mình thì ngơi nghỉ, dù thân hình ta có là sắt cấu tạo thành, ta cũng phải phờ người. Làm sao ta không bại được chứ?

Lão lại dừng, vẻ tưng tức hiện nơi gương mặt, rồi lão tiếp:

– Đương nhiên, chúng ta không phải giao đấu vì thù. Chúng ta muốn so kém về vũ công, duy nhất vì vũ công, thuần túy mà giao đấu, cho nên bại rồi là nhận bại ngay, hẹn ngày tái đấu, trở về tập luyện, đúng kỳ lại gặp nhau ...

Lần này thì Quan Sơn Nguyệt cười thành tiếng:

– Càng giao đấu, càng bại, thế mà lão tiền bối cứ giao đấu luôn đến mười mấy lần, thật là cái chí khí hết sức kiên cường, tại hạ vô cùng khâm phục.

Lão nhân gù trầm giọng:

– Một đấu hai, ai bại mà không tức? Lão phu không phục nên tái đấu mãi.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Người ta hai, lão tiền bối một, sao tiền bối không tìm một viện thủ?

Lão nhân gù «hừ» một tiếng:

– Tìm đâu? Ngươi tưởng lão phu không tìm à? Ngươi biết không, vào thời gian đó, tìm được một người có vũ công xuýt xoát với lão phu là tìm kim đáy biển đấy!

Quan Sơn Nguyệt đồng ý, chàng không cho rằng lão nhân khoác lác, bởi chàng biết rõ cái thực tài, và cái tài của lão, đừng nói là ba mươi năm về trước, dù cho là ngày nay, có lắm nhân tài xuất hiện, vị tất có một vài người đạt đến mức thành tựu của lão ta?

Lão nhân gù tiếp:

– Tuy nhiên, lão phu cũng cố làm một việc cầu may, đi khắp sông hồ, đến tận núi sâu, rừng thẳm, động vắng, hang cùng, tìm một viện thủ, bất ngờ lão phu gặp một người, lập tức lão phu đưa người đó đến luôn nơi ước đấu ... Song, khi bọn lão phu đến nơi ...

Quan Sơn Nguyệt chận hỏi:

– Thì sao? Đôi vợ chồng đó có bằng lòng cho viện thủ của tiền bối giao đấu với họ chăng? Kết quả như thế nào?

Lão nhân gù thở dài:

– Lão chồng đi vắng, chỉ có một mụ vợ ở nhà, cuộc tái đấu bất thành.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Sao lại bất thành được? Trái lại đó là một dịp may cho lão tiền bối chứ?

Trước, họ lấy hai đấu một, thì sau họ phải chịu một đấu hai, họ đâu có lý do gì từ khước cuộc tái đấu? Chính là cái cơ hội cho lão tiền bối phục hận vậy!

Lão nhân gù nổi giận:

– Ngươi hèn quá! Ngươi đánh giá bọn lão phu thấp quá!

Quan Sơn Nguyệt không phiền:

– Theo ý tại hạ thì đó là một sự chí công! Bởi họ đã từng lấy hai đấu một, họ phải chấp nhận một đấu hai!

Lão nhân gù càng giận hơn:

– Đành là họ luôn luôn lấy hai đấu một, song hai của họ là hai vợ chồng, một nam một nữ, còn hai của lão phu là hai bằng hữu, hai nam. Hai nam đấu với một nữ, thì còn thể thống gì? Phải chi vợ vắng mặt, chồng ở nhà thì ngươi nói như vậy cũng được cho!

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Lão tiền bối có lý! Nhưng, ít ra lão tiền bối cũng có thể một đấu một chứ?

Chẳng lẽ đến nơi rồi lại trở về không?

Lão nhân gù thở dài:

– Thoạt đầu lão phu cũng nghĩ như ngươi, ngờ đâu, sau cuộc đàm thoại, vị bằng hữu của lão phu và nữ nhân đó lại có vẻ tâm đầu ý hợp quá chừng, cho nên ...

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Thế là chưa giao đấu, lão tiền bối lại bại nữa rồi! Khi người chồng trở lại, thì dù có tái đấu, lão tiền bối vẫn đơn độc như thường, bởi vị bằng hữu của lão tiền bối nghiễm nhiên trở thành đồng minh của đôi vợ chồng đó. Giả như có một cuộc tái đấu hai chống hai, thì người bằng hữu của lão tiền bối cũng không thể xuất toàn lực đánh bại người mà y nhận ra ý hợp tâm đầu. Như vậy, trước thì hai đấu một, sau thì ba đấu một.

Hận vì việc cũ, lại hận vì chàng cứ chận lời mãi, lão nhân gù phát cáu, gắt:

– Nếu ngươi nghe đoạn cố sự của lão phu mà không thấy hứng, thì thôi vậy, lão phu không thuật tiếp.

Quan Sơn Nguyệt lại cười:

– Lão tiền bối nghĩ oan cho tại hạ rồi, trái lại, tại hạ cao hứng vô cùng! Bởi quá cao hứng cho nên nóng nảy nghe, nóng nảy biết, do đó cứ hỏi chận lão tiền bối mãi. Tại hạ không có ý bắt bẻ chi đâu!

Lão nhân dịu tính khí lại, rồi tiếp:

– Vị bằng hữu của lão phu không trở mặt, bỏ mặc lão phu một mình, để bước sang cánh đối lập, giúp vợ chồng họ. Y chỉ đề nghị là nên chờ người chồng trở về, rồi một đấu một, cặp đấu cặp cho công bình. Lão phu phải nghe theo y và cả hai cùng tìm một địa phương cư trú, chờ người chồng trở về ... Bọn lão phu đợi đúng một tháng ...

Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:

– Lúc đó, người chồng trở về?

Lão nhân gù lắc đầu:

– Nếu lão ta trở lại, thì còn nói làm già Lão thở dài.

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

– Không lẽ lão ấy gặp biến cố gì trong thời gian xuất ngoại?

Lão nhân gù gật đầu:

– Suốt một tháng, chúng ta chờ đợi, người chồng vẫn không trở về. Trong khi đó, có người mang tin của lão đến, cho biết là vì một việc quan trọng, lão ta đến một địa phương rất xa, ngày về không hẹn trước được, lão phu và vị bằng hữu không thể chờ lâu hơn nữa, phải cáo biệt người vợ. Lão phu có biết đâu trong một tháng đợi chờ cuộc tái đấu, người bằng hữu của lão phu và người vợ của lão kia lại yêu nhau, tình yêu của họ đậm đà đến độ họ không rời xa nhau, nhưng vị bằng hữu của lão phu không thể bỏ lão phu trở lại một mình, bắt buộc phải theo lão phu mà về, về đến nhà rồi y tìm cách trở lại, hội hiệp với nữ nhân đó ...

Quan Sơn Nguyệt không chận lời lão nữa.

Lúc chàng chận, thì lão gắt, rồi lão thuật, khi chàng bình tịnh chờ nghe, thì lão lại im bặt. Thành ra, Quan Sơn Nguyệt không dằn được tánh hiếu kỳ, phải hỏi:

– Rồi sau đó, sự tình diễn tiến như thế nào, lão tiền bối?

Lão nhân gù lại thở dài:

– Sau đó, những gì đã xảy ra, lão phu không được rõ lắm. Bởi lão phu tìm được một bí kíp, để luyện thành một môn công phu kỳ diệu, lão phu dành tất cả thời giờ, chuyên luyện môn công đó trên đỉnh Đại Thanh Sơn. Sau đó, lão phu tìm đến chốn cũ, thì hay ra, nơi đó đã phát sanh lắm việc ...

Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:

– Lão tiền bối có gặp đôi vợ chồng đó chăng? Việc gì đã phát sanh?

Lão nhân gù thở ra:

– Người vợ thọ thai, do mối tình vụng trộm với vị bằng hữu của lão phu.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:

– Còn người chồng? Lão ấy có trở lại không?

Lão nhân gù lắc đầu:

– Không! Tuy nhiên, lão ta cũng có đưa tin về, là không lâu lắm, lão sẽ trở lại nhà ...

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Đúng là một việc khó! Bà ấy xử trí như thế nào, lão tiền bối?

Lão nhân gù đáp:

– Bà ta và vị bằng hữu của lão phu bối rối phi thường, họ chẳng biết phải làm sao, lại hỏi kế nơi lão phu.

Quan Sơn Nguyệt nóng nảy:

– Lão tiền bối sắp xếp cho họ làm sao?

Lão nhân gù lộ vẻ thương tâm:

– Lão phu còn biết làm sao? Trong hoàn cảnh đó, lão phu chỉ còn có cách là hỏi bà ta, trong hai người bà tha thiết với ai, giả như bà yêu vị bằng hữu của lão phu, thì ngay từ lúc đó phải thu xếp hành trang, cùng người tình rời quê hương, tìm đến một phương trời xa lạ, chung sống với nhau may ra còn kịp, chứ nếu không thì khi người chồng trở về, sóng gió sẽ dấy lên, tang tóc sẽ phủ trùm. Còn như bà không chịu nghe người tình trốn tránh chồng bà, thì dù muốn dù không, cũng phải diệt cái bào thai lúc nó chưa lớn lắm. Dù là một hành động vô nhân đạo, song cần bảo vệ hạnh phúc của bà, thì bà phải vô nhân đạo, trong tình thế đó bà không cưỡng lại được.

Quan Sơn Nguyệt tặc lưỡi:

– Không thể làm khác hơn những lời của lão tiền bối, trừ ra bà tự tử! Bà ấy có nghe lời lão tiền bối chăng?

Lão nhân gù đáp:

– Tự nhiên là bà ta tha thiết với vị bằng hữu của lão phu, điều đó thì bà có thừa nhận với lão phu, cho nên bà ta và vị bằng hữu của lão phu chấp nhận giải pháp thứ nhất, cùng bỏ nhà ra đi đến một địa phương hoang vắng ...

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Họ đến nơi nào, hắn lão tiền bối biết chứ?

Lão nhân gù gật đầu:

– Đại Ba Sơn! Họ xây tổ uyên ương tại đó.

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Và bắt đầu từ ngày ấy, họ thỏa thích yêu nhau, họ hưởng thụ trong khi người chồng ...

Chàng không dứt câu, bỏ lửng như thế rồi kết thúc bằng một tiếng tặc lưỡi, đệm thêm một cái cau mày.

Lão nhân gù càng lộ vẻ buồn hơn:

– Người muốn, mà sự muốn không lành, thì khi nào cao xanh chấp thuận?

Khi người chồng trở lại, biết vợ ra đi, tự nhiên lão ta phải đi tìm. Một năm sau, lão biết bà ta trú ẩn nơi nào, lão biết bà đã làm gì, trong thời gian lão vắng mặt. Lúc đó, bà ta đã sanh đứa bé, nó vừa tròn năm tháng ...

Quan Sơn Nguyệt khẩn trương ra mặt:

– Rồi việc gì xảy ra nữa?

Lão nhân thở ra:

– Còn việc gì nữa, nếu không phải là một cuộc ác chiến? Rất tiếc, lúc đó lão phu không có mặt tại cục trường!

Quan Sơn Nguyệt hỏi gấp:

– Kết quả cuộc chiến như thế nào?

Lão nhân gù đáp:

– Người chồng không thủ thắng nổi trước vị bằng hữu của lão phu, đang lúc lão ta đang bị dồn vào nguy cảnh, thì đột nhiên bà ấy xúc động tình chồng nghĩa vợ của những ngày nào, vội nhảy vào vòng chiến, tiếp trợ chồng, phản công lại người tình ...

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Lòng dạ nữ nhân! Không ai hiểu được lòng dạ nữ nhân như thế nào!

Lão nhân gù gật đầu:

– Đừng ai mong hiểu nổi một nữ nhân! Ngươi thấy không, lão phu may mắn có một tướng mạo xấu xí, cũng nhờ thế mà nữ nhân buông tha cho, cũng thế mà lão phu được an nhàn sống đến tuần tuổi này!

Quan Sơn Nguyệt mơ màng:

– Nữ nhân là nguồn gốc của mọi sự phiền lụy trên đời!

Rồi chàng hỏi:

– Sau đó, còn gì nữa chăng, lão tiền bối?

Lão nhân gù đáp:

– Tự nhiên, vị bằng hữu của lão phu hết sức kinh ngạc trước sự thay đổi của người tình. Tuy vậy, y không hề nao núng, chấp cả hai vợ chồng liên thủ, y một mình nghinh chiến ung dung. Nhưng qua mấy chiêu đầu, y bỏ cuộc, có lẽ vì chán ngán, y bắt đứa bé mang theo, ly khai Đại Ba Sơn, về một phương trời xa lạ ...

Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:

– Đoạn cố sự lão tiền bối chấm dứt tại đó?

Lão nhân gù lắc đầu:

– Việc cũ còn dài, song lão phu không hiểu rõ ràng giai đoạn tiếp nối. Bất quá lão phu hiểu mang máng là đôi vợ chồng đó làm lành trở lại, sống luôn tại Đại Ba Sơn không trở về cố hương nữa. Độ hai năm sau, người vợ hạ sanh một nam hài nhi, rồi sau mấy năm nữa, người chồng chết. Người vợ ở luôn tại Đại Ba Sơn, nuôi dưỡng hài nhi, tuyển dụng một số người quanh quẩn bên mình cho đỡ tịch mịch ...

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Tại hạ biết, nữ nhân đó hẳn là Nguyệt Hoa Phu Nhân! Còn người bằng hữu kia ...

Dừng lại giây lát, chàng lại hỏi:

– Sau đó, y ra sao? Và, hiện tại y còn sống hay đã chết rồi?

Lão nhân gù đáp:

– Y ra đi, biền biệt, chẳng ai biết rõ y hạ lạc ở địa phương nào, lão phu có đi khắp nơi tìm y song không hiệu quả. Mãi đến mấy hôm trước đây, nhân có việc đi ngang qua Hàn Ái Sơn, lão phu mới biết được tin tức của y. Thì ra, sau ngày xa lánh người tình, y đến Hàn Ái Sơn dựng nhà ở đó, sống cuộc đời quy ẩn, không được mấy năm, y chết, còn đứa con thì y trao cho một trung niên thơ sanh, nhờ nuôi dưỡng ...

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

– Người trung niên thơ sanh là ai?

Lão nhân gù đáp:

– Sự việc cách nhiều năm, những người tại địa phương nào còn nhớ rõ lắm, bất quá họ nhớ mang máng là người thơ sanh đó, một hôm, từ xa đến, làm khách của vị bằng hữu của lão phu, cả hai tương đồng thinh khí, thành dễ thân nhau.

Chính thơ sanh mai táng thi hài vị bằng hữu của lão phu. Không ai biết tên họ của người thơ sanh đó.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Người thơ sanh đó có đặc điểm gì chăng? Cư dân không biết tên họ, ít nhất cũng thấy hình dáng, tướng mạo của người thơ sanh như thế nào chứ?

Lão nhân gù gật đầu:

– Cư dân còn nhớ là người thơ sanh đó có một ngón thừa nơi bàn tay tả.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Thế là gia sư rồi!

Lão nhân gù cũng kêu lên:

– Vậy ngươi là đứa bé lão mang đi!

Quan Sơn Nguyệt khích động phi thường. Trong phút giây thảng thốt, chàng chẳng nói được tiếng nào.

Lão nhân gù thở dài:

– Thực ra, ngay từ lúc ngươi cho biết là ngươi cũng có một chiếc vòng ngọc như chiếc của Nguyệt Hoa Phu Nhân, lão đã đoán sự tình như thế rồi. Vòng ngọc đó, vốn là một đôi, một chiếc chạm hoa cúc, một chiếc chạm núi và trăng, cúc và trăng tượng trưng tên của Nguyệt Hoa Phu Nhân và vị bằng hữu của lão phu, mà cũng là phụ thân của ngươi. Phu nhân tên là Lê Thu Cúc, còn phụ thân ngươi tên là Vạn Tân Nguyệt. Sở dĩ phu nhân chọn cái hiệu Nguyệt Hoa là vì bà muốn tưởng niệm mãi phụ thân ngươi!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ, thừ người một lúc lâu, cuối cùng chàng khóc.

Khóc một lúc chàng lẩm nhẩm:

– Đáng lý ra là tại hạ phải mang họ Vạn mới phải! Chẳng hiểu tại sao gia sư lại dùng họ Quan mà đặt tên cho tại hạ!

Lão nhân cười khổ:

– Điều đó, ngoài sư phụ ngươi ra, còn ai biết được?

Bỗng từ bên ngoài, Nguyệt Hoa Phu Nhân xô cửa, lách mình bước nhanh vào. Mặt bà đầm đìa lệ thảm, bà thốt:

– Khỏi cần hỏi sư phụ hắn! Già đã biết rồi. Tân Nguyệt hận già vô cùng, đến chết cũng còn hận, vì muốn hận nên không muốn cho già sau này tìm con, nhìn con, do đó, y đổi họ. Tuy nhiên cái tên Quan Sơn Nguyệt tự nó cũng nói rõ lai lịch của kẻ mang nó, bởi Quan Sơn Nguyệt, ám chỉ sự quan hệ của thân thế một người đối với vầng trăng núi! Còn như cái việc chôn luôn chiếc vòng ngọc bên mình, đúng là Tân Nguyệt muốn hủy một chứng tích!

Lão nhân gù điểm một nụ cười bước tới mầng:

– Phu nhân! Sự tình đã khám phá, mẫu tử trùng phùng, phần việc của lão phu cầm như hoàn tất, lão phu kính mầng cho phu nhân và xin cáo từ!

Lão vái chào đoạn quay mình bước ra cửa.

Phu nhân gọi gấp:

– Khoan đi, Đà Ông, già xin đa tạ ơn trọng của Đà Ông và mời Đà Ông lưu lại nơi biệt xá, cho già bày tiệc mừng, thết đãi Đà Ông.

Lão nhân gù cười lớn:

– Phải! Nói là cáo từ, chứ khi nào lão phu đi ngay cho, ít nhất cũng uống một vài chén rượu rồi sẽ đi chứ!

Lão nhân gù ra ngoài rồi, còn lại trong phòng, hai mẹ con nhìn nhau, họ nhìn nhau, họ nhìn nhau song chẳng ai nói một lời gì trước.

Mẫu tử trùng phùng, tất phải vồ vập, thổ lộ tâm tình, hoài niệm đó là lẽ thường, nhưng họ không vồ vập, không kể lể ngay như những người khác, là vì dù sao họ cũng bỡ ngỡ, bởi từ lúc nào đến bây giờ, họ có gặp gỡ nhau đâu?

Hiện tại, họ như hai kẻ xa lạ, do một tình cờ, biết được quan hệ giữa nhau như thế nào, và riêng về Quan Sơn Nguyệt thì chàng không thấy bi hoài về sự xa cách qua nhiều năm tháng. Từ nhỏ, chàng không hưởng được sự âu yếm của mẹ, từ nhỏ chàng không được ấp ủ bởi tình mẫu tử, thì giờ đây mọi sự đối với chàng quá lạ, bất quá thiên luân bừng dậy, mà chàng khích động, chứ thực ra, sự xa cách của mẹ con chàng, chẳng có một ảnh hưởng nào đối với chàng. Chàng có biết mẹ mình ra sao mà nhớ nhung, mong tưởng?

Nếu có một người nhớ nhung một người, thì chính là Nguyệt Hoa Phu Nhân nhớ chàng. Cho nên bà phải cất tiếng trước:

– Con! Sao con thừ người ra thế? Con không thể gọi một tiếng mẹ được sao?

Quan Sơn Nguyệt mấp máy môi, lâu lắm chàng mới để thoát lọt được hai tiếng:

– Mẫu thân!

Đến lúc đó Nguyệt Hoa Phu Nhân mới ôm chầm lấy chàng.

Nguồn lòng tuông ra, tình cảm bốc rạt rào, qua một lúc lâu Nguyệt Hoa Phu Nhân thốt:

– Bây giờ, mẹ con đã gặp nhau, con nên đổi họ lại đi, bởi cái họ con đang mang đó, chẳng phải họ của phụ thân con!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không nên đâu mẹ, cái họ của con đang mang, sở dĩ có là do ý muốn của phụ thân, dù sao con cũng tôn trọng ý muốn của phụ thân.

Nguyệt Hoa Phu Nhân giật mình:

– Phụ thân con chọn họ đó cho con, là vì hận mẹ, con muốn giữ luôn họ đó, thế ra con cũng hận mẹ sao?

Quan Sơn Nguyệt không đáp được.

Chàng không đáp được, bởi sự tình diễn tiến ngoài chỗ tưởng của chàng!

Bỗng nhiên mà có một người mẹ, trong khi chàng chưa biết thân thế ra sao, trong khi chàng không hề nghĩ là sẽ gặp bất ngờ, chàng chưa hiểu nổi cái cảm giác thực sự trong lúc này như thế nào.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 38

Vân Tiêu Nguyệt Xuất

Theo lịnh của Nguyệt Hoa Phu Nhân, bọn Cầm Khiêu bảy người trở vào hoa sảnh của Quảng Hàn Cung.

Vào đến nơi, cả bảy người cùng lộ vẻ kinh dị. Bởi, từ nhiều năm qua, họ xem phu nhân như thần như thánh và chính phu nhân cũng giữ khoảng cách quá đáng đối với mọi người, chẳng riêng gì đối với bọn họ. Tuy bà chấp nhận những cuộc đối thoại, song không một ai được tiếp cận bà.

Giờ đây, cái khoảng cách đó không còn nữa, giữa bà và Quan Sơn Nguyệt, dù Quan Sơn Nguyệt chỉ là một kẻ mới đến, dù chàng ta chưa tiếp thọ một chức vị nào trong cung.

Hiện tại, bà đặt tay lên đầu vai của Quan Sơn Nguyệt, một cử chỉ mà bọn Cầm Khiêm chẳng hề trông thấy bao giờ.

Tại sao bà có vẻ thân mật với Quan Sơn Nguyệt như thế? Bà vừa hận chàng kia mà? Nhiệm mầu nào đã xảy ra, làm tan niềm hận đó nhanh chóng thế?

Còn lão nhân gù, miệng không cười nhưng toàn gương mặt hân hoan, ánh mắt của lão sáng rực lạ thường.

Bảy người cùng sửng sốt như nhau, cùng im lặng chờ một sự giải thích. Họ tin chắc thế nào rồi họ cũng hiểu được nguyên nhân của sự thay đổi thường thái của chủ nhân.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn quanh bảy người một vòng, đoạn cất tiếng:

– Chữ Trà! Ngươi theo ta từ lâu, những việc gì của ta, ngươi hiểu khá nhiều.

Ta tin rằng, trong những lúc cao hứng, ngươi cũng có thuật lại cho các thị giả kia nghe!

Chữ Trà kinh hãi, hấp tấp thốt:

– Tiểu tỳ đâu dám ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười, chận lại:

– Chẳng có gì đâu, ngươi không phải hoang mang! Ta chẳng trách cứ chi ngươi, bất quá ta muốn biết ngươi có nói gì với chúng hay không vậy thôi!

Chữ Trà mất mấy phút mới lấy lại bình tĩnh, tuy nhiên giọng nói của nàng vẫn còn rung rung:

– Thật sự thì, trong những lúc nhàn rỗi, đàm đạo với Nhập Hoạch và Phi Thương, tiểu tỳ cũng có nói qua ...

Lão nhân gù cười lớn:

– Bất cứ việc chi, vào lỗ tai Nhập Hoạch rồi là lập tức thoát ra khỏi miệng nàng ta! Do đó, ta quyết chắc tất cả bảy người cùng biết như nhau cả!

Bảy thị giả giật mình, chính Nhập Hoạch sợ hãi hơn hết.

Nhưng, Nguyệt Hoa Phu Nhân không hề biểu hiện vẻ phẫn nộ, bà chỉ thoáng đỏ mặt, rồi cười tiếp:

– Các ngươi đừng sợ hãi, ta không tra cứu, trừng phạt đâu. Các ngươi đã hiểu việc tư riêng của ta rồi, thế thì càng hay, ta khỏi phí công giải thích. Các ngươi cũng biết, ta có một đứa con trai, mẹ con ta cách biệt nhau hơn hai mươi năm dài ...

Bảy thị giả cùng đưa mắt nhìn nhau, như muốn hỏi nhau là phu nhân có dụng ý gì mà đề cập đến việc đó.

Lão nhân gù không để cho họ hoang mang lâu, thốt ngay:

– Đứa con của phu nhân, ngày nay phu nhân đã tìm được rồi, và chính là hắn đó!

Lão đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt.

Bảy thị giả sững sờ.

Một lúc lâu, Nhập Hoạch kêu lên:

– A! Minh huynh đệ! Không ngờ Minh huynh đệ lại là đại công tử! Từ nay Nhập Hoạch nầy không còn dám gọi là Minh lão đệ nữa rồi!

Quan Sơn Nguyệt vội chữa:

– Tại hạ là Quan Sơn Nguyệt ...

Nhập Hoạch trố mắt:

– Cái gì? Quan Sơn Nguyệt?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:

– Phải!

Bà nhìn Thị Thơ, tiếp:

– Thị Thơ, ngươi đừng lo sợ, ngươi thay hắn, đổi tên để lừa ta, ngươi cũng to gan lắm, song lần nầy ta tha cho, tuy nhiên ngươi cũng phải giải thích cho ta biết, vì lý do gì, ngươi đổi tên hắn?

Bổng, bà nhớ đến một việc, thần thái hơi biến đổi, bà lẩm nhẩm:

– Quan Sơn Nguyệt ... Quan Sơn Nguyệt! Trương Thanh nhắc mãi ... Cái người Trương Thanh nhắc đó, có phải là con chăng?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Phải! Con đến đây, không ngoài mục đích tìm nàng.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp hỏi:

– Tại sao con biết nàng ở tại đây?

Quan Sơn Nguyệt dợm đáp, lại thôi.

Phu nhân mỉm cười:

– Không quan hệ gì, con cứ nói, hôm nay gặp con, mẹ vui, mẹ có thể bỏ qua lỗi lầm của bất cứ ai.

Quan Sơn Nguyệt do dự một chút rồi nói:

– Chính Bành Cúc Nhân đại nương mách cho con biết.

Tuy đã nói là không bắt tội ai, nghe Quan Sơn Nguyệt tiết lộ rồi, phu nhân cũng biến đổi sắc mặt.

Thị Thơ bước tới một bước, cất tiếng biện bạch thay Bành Cúc Nhân:

– Sở dĩ Bành Cúc Nhân nhạy miệng như vậy, là vì bà ta có ý tốt đó, phu nhân. Bà ta thấy Trương cô nương ngày ngày ưu sầu, phiền muộn ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân trừng mắt nhìn Thị Thơ, gạt ngang:

– Ta biết!

Thị Thơ nín lặng, không dám tiếp tròn câu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cau mày, chừng như bà gặp một việc khó xử vô cùng.

Lão nhân gù lộ vẻ kinh dị, hỏi:

– Tại sao thế? Trên núi còn có người ngoài à?

Nguyệt Hoa Phu Nhân không đáp.

Thị Thơ lên tiếng giải thích:

– Bốn tháng trước đây, bỗng nhiên Trương cô nương lạc bước đến chốn nầy.

Lúc đó, phu nhân bị bịnh cũ tái phát hoành hành dữ dội, may thay, Trương cô nương đến kịp lúc, trổ tài y thuật chữa trị cho phu nhân lành mạnh ...

Lão nhân gù ngạc nhiên:

– Hừ! Vị tiểu cô nương đó trị lành chứng bịnh kinh niên của phu nhân? Thế thì tài thật!

Thị Thơ đắc ý, quên dè dặt:

– Chẳng những y thuật cao minh, Trương cô nương lại là một trang quốc sắc thiên hương, trong thế gian rất hiếm thiếu nữ nào sánh bằng.

Lão nhân gù day qua Quan Sơn Nguyệt:

– Làm sao ngươi quen được Trương cô nương, hở tiểu tử?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Tiểu tử nhờ nàng cứu mạng hai lượt ...

Lão nhân gù cười lớn:

– Lão phu thấy các ngươi có cảm tình với nhau quá nặng đấy! Chứ nếu không thì làm gì ngươi vượt ngàn dặm đường đến tận nơi này, tìm nàng?

Quan Sơn Nguyệt chưa kịp nói gì, Thị Thơ chen vào:

– Trương cô nương có cảm tình thâm hậu đối với công tử, cho nên thời thường cứ nhắc nhở đến công tử luôn!

Lão nhân gù càng cười lớn hơn:

– Lão phu nghĩ cái điều đó cũng là thường, bởi phụ thân hắn ngày xưa chẳng như thế sao? Cha con hắn quả thật có cái sức hút người! Cha chết rồi, còn con. Lão phu cao hứng có một vị cố hữu thú vị quá chừng ...

Lão chợt nhớ là có Nguyệt Hoa Phu Nhân bên cạnh, chừng như bà có cau mày một chút, lão ngưng bặt tràng cười, đổi giọng liền:

– Phu nhân có vẻ không vui thì phải? Người ta, tìm đặng con thì mầng chứ, huống chi, vừa đặng con lại đặng luôn dâu, như vậy là phước đến có đôi, một sự hy hữu trên đời ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài, không nói tiếng gì.

Bà không vui, bảy thị giả cũng chẳng dám vui, tất cả đều trầm gương mặt.

Lão nhân gù lấy làm kỳ.

Quan Sơn Nguyệt cũng không khỏi thắc mắc.

Một lúc sau, lão nhân gù không kềm chế nổi tính hiếu kỳ, hỏi:

– Việc gì thế, phu nhân?

Phu nhân lại thở dài, buông nhẹ:

– Thư thả rồi sẽ biết.

Bà lảng sang chuyện khác:

– Già có hứa là đãi Đà Ông một tiệc rượu, bây giờ chúng ta bắt đầu khai cuộc đi!

Bà gọi to:

– Phi Tràng, lựa thứ Bách Hoa Lộ lâu năm của ta đó, còn Nhập Hoạch tìm thức nhắm. Gấp lên nhé!

Hai nàng vâng lịnh đi ngay.

Lúc đó, Chữ Trà bước đến cạnh Quan Sơn Nguyệt, giọng có phần nào khích động:

– Nhất định là công tử nhận ra tôi! Lúc nhỏ, công tử được tôi bế rất thường ...

Lão nhân gù cười hì hì:

– Lúc đó, hắn mới được năm tháng gì đó, nếu hắn nhớ được ngươi, thì đúng là hắn là thần tiên rồi!

Chữ Trà bạo dạn một chút, nói:

– Công tử lớn lên dáng dấp hùng tráng, có phần khôi ngô hơn lão gia, chắc lão gia vẫn được mạnh như ngày nào chứ?

Phu nhân trầm gương mặt:

– Chữ Trà, khép bớt cái miệng ngươi lại!

Lão nhân gù thở ra:

– Vạn lão gia đã chết rồi, còn đâu mà ngươi hỏi mạnh với chẳng mạnh!

Chữ Trà thoáng biến sắc, mắt chớp chớp hạt lệ sầu, nàng lẩm nhẩm:

– Chết rồi? Vạn lão gia là con người tốt, tại sao những người tốt lại không được sống lâu? Giả như người còn sống, hẳn ngày nay còn tốt hơn xưa nhiều, nhiều lắm ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân vổ bàn kêu bốp một tiếng, hét:

– Ngươi muốn chết phải không, Chữ Trà?

Chữ Trà ngưng khóc, rung rung giọng đáp:

– Phu nhân thứ cho! Trong cơn xúc động, tỳ nữ mất bình thường, thành ra kém dè dặt. Thực ra, gặp công tử, tỳ nữ cao hứng quá chừng ...

Lão nhân gù khuyên giải:

– Phu nhân không nên trách nàng. Năm xưa, Tân Nguyệt đối với nàng rất tốt, động niềm cố cựu, thấy con như thấy cha, tự nhiên nàng phải xúc động, phàm con người trong cơn xúc động thì còn ai giữ được trạng thái trầm tĩnh? Nàng khóc là hợp lý lắm đó, phu nhân!

Lão hướng qua Quan Sơn Nguyệt, tiếp:

– Ngươi có thể gọi nàng là sư tỷ, bởi ngày xưa, Vạn Tân Nguyệt thường nói là muốn thu nhận nàng làm đồ đệ. Giả như ngươi muốn hiểu mọi chi tiết về sinh hoạt, hành vi của phụ thân ngươi thì không ai đủ tư cách hơn Chữ Trà. Nàng sẽ cung cấp cho ngươi nhiều giải đáp xác thực.

Quan Sơn Nguyệt thấy có hảo cảm ngay đối với nữ nhân chân thành chất phác đó.

Chàng cung kính gọi:

– Sư tỷ!

Chữ Trà suýt đổ lệ như trước, nhưng gương mặt của Nguyệt Hoa Phu Nhân khác hẳn ngày thường, nàng không đám để lộ xúc cảm nữa, chỉ vái chào đáp lại tiếng gọi của Quan Sơn Nguyệt thôi, thay vì bước tới hoặc vuốt ve chàng, hoặc nắm tay chàng, biểu hiệu niềm thân mật.

Nàng khiên tốn, thốt:

– Công tử khách khí quá, làm sao tôi dám nhận là sư tỷ của công tử!

Lão nhân gù nói:

– Tiểu tử! Lão phu tìm cho ngươi một người mẹ, ngươi chẳng có gì để tạ ơn lão phu à? Cho đến một cái gật đầu suông cũng không?

Quan Sơn Nguyệt lại quỳ xuống, cúi đầu:

– Tiền bối ...

Lão nhân gù cao giọng:

– Sao lại tiền bối? Lão phu với phụ thân ngươi, tình đồng thủ túc, ngươi không thể dùng hai tiếng bá bá được sao?

Quan Sơn Nguyệt vừa lạy vừa gọi:

– Bá bá ...

Lão nhân gù vói tay kéo chàng đứng lên nói:

– Thôi được rồi, vậy cũng đủ lắm rồi. Bá bá đùa với ngươi cho vui, chứ một vài lạy của ngươi không đem dùng làm thức nhắm rượu được, thì bá bá cần chi?

Bây giờ, nghe bá bá hỏi ngươi đây? Công phu tập luyện của ngươi như thế nào?

Bá bá có thể thay cố nhân, chỉ điểm ngươi một vài cách múa may chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:

– Về kiếm pháp, hắn thừa gây khó khăn cho Đạn Kiếm đó, kể ra cũng khá lắm chứ! Đà Ông muốn chỉ điểm cho hắn ...

Lão nhân gù cười lớn:

– Con trai của Vạn Tân Nguyệt đương nhiên phải khá mới được chứ! Lão phu giao tình với Tân Nguyệt rất thân, mà lão phu chẳng có truyền nhân, cái công phu của lão phu rồi chẳng lẽ bỏ theo mây gió? Nói thật với phu nhân, hắn rất hạp nhãn lão phu lắm đó! Chứ còn cái đứa con trai kia của phu nhân, lão phu không làm sao thích nổi, có cố gắng lắm là không ghét thôi, mỗi lần nhìn là mỗi lần lão phu cảm thấy xốn mắt!

Nguyệt Hoa Phu Nhân biến đổi thần sắc.

Lão nhân gù vội tiếp:

– Nói thế chứ, con cũng đồng con, chỉ có người ngoài mới thấy khác, chỉ có người ngoài mới chọn lựa, chứ còn mẹ thì nên xem tất cả như nhau ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

– Già biết, Đà Ông còn hận Lưu Dật Phu!

Lão nhân gù cười nửa miệng:

– Lão phu hận, nên không thể nào nói tốt cho cái người mình hận được!

Hẳn phu nhân cũng biết, đó là một sự thông thường!

Nguyệt Hoa Phu Nhân u buồn ra mặt:

– Hận làm chi đến người chết, thế nhân bảo rằng chết là hết. Đà Ông nên quên đi cho người chết!

Lão nhân gù cười gằn:

– Bảo Bạch Thiết Hận này quên cho lão ta? Cũng được đi, lão phu quên cho người chết, nhưng còn người sống? Còn con của lão ta kia chi? Con trai lão giống lão như cùng đúc một khuôn, giống thể xác, giống tâm hồn ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt:

– Thôi thì Đà Ông cứ rèn luyện cho hắn, về kiếm pháp thì Đà Ông khỏi phải bận tâm, nếu Đà Ông sẵn sàng, thì giúp cho hắn có khí lực dồi dào hơn, hắn học được «Quan Sơn Quyền Pháp» rồi, là thừa sức đối phó với mọi bất trắc trên đời.

Bạch Thiết Hận cười lớn:

– Lại phải cần đến phu nhân nhắc nhở à? Lão phu có những môn công dằn túi, cái túi công phu ấy mà! Lão phu sẽ tặng hắn trọn chiếc túi đó, nhất định không dành lại một món gì, lão phu không để hắn kém Lưu Ảo Phu!

Nguyệt Hoa Phu Nhân không nói gì. Bà suy nghĩ một lúc, bỗng thốt:

– Đà Ông, còn một việc nữa, đáng lẽ Đà Ông cho già biết luôn, việc đó cũng có liên quan đến hắn.

Bạch Thiết Hận giật mình, lắc đầu:

– Không! Không còn gì nữa cả!

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng:

– Nói nhảm! Lúc đó, Đà Ông chưa biết hắn là con của Vạn Tân Nguyệt, cho nên Đà Ông bảo hắn lưu lại, điều đó chứng tỏ ...

Bạch Thiết Hận suy nghĩ một chút, đoạn thừa nhận:

– Ạ! Có! Và sự tình liên quan đến việc thứ hai, do phu nhân nhờ lão phu truy cứu hộ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân biến sắc, hỏi gấp:

– Đà Ông nói sao? Đà Ông đã biết người đó hạ lạc ở đâu?

Bạch Thiết Hận gật đầu:

– Phải! Việc đó thì, thực sự lão phu không quan tâm, song vì phu nhân có điểm nghi ngờ về Vạn Tân Nguyệt, thành thử lão phu phải lưu ý đến, để chứng minh sự vô cô của vị cố hữu. Tân Nguyệt đã chết hơn hai mươi năm, điều hiềm nghi quanh lão ta tự nó hóa tiêu theo thời gian, thì lão phu không cần can dự vào nữa!

Nguyệt Hoa Phu Nhân cau mày:

– Không lẽ Đà Ông không tiếp trợ được già?

Bạch Thiết Hận mỉm cười:

– Nào phải là tiếp trợ phu nhân? Mà chính là tiếp trợ Lưu Dật Phu đấy!

Tiếp trợ Lưu Dật Phu, phải khác hơn tiếp trợ phu nhân chứ? Huống chi, sự tình có liên quan đến tiểu tử đó, lão phu không thích nói gì nhiều hơn. Phu nhân tưởng là con trai của Tân Nguyệt sẵn sàng tiếp trợ Lưu Dật Phu à?

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm gương mặt, nín lặng một lúc lâu.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Mẫu thân và Bạch bá bá đề cập đến việc gì thế?

Bạch Thiết Hận vội đáp:

– Chẳng có gì cả, lão bá khuyên tiểu tử đừng tìm hiểu, phải nhớ là phụ thân ngươi ngậm hận mà về lòng đất lạnh, dù ngươi không có ý báo cừu, thì ít nhất ngươi cũng không nên gây nguy hại gì cho người thay thế phụ thân ngươi báo cừu.

Người ta đã làm cái việc đáng lẽ ngươi phải làm, làm cho phụ thân ngươi, thì ngươi nên để yên cho người ta, đừng chen vào, phá hoại!

Quan Sơn Nguyệt ngơ ngác:

– Mà việc gì chứ? Tiểu điệt chẳng hiểu làm sao cả, Bạch bá bá!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trừng mắt nhìn Bạch Thiết Hận, dùng ánh mắt ngăn chặn lão, rồi bà thốt:

– Con nghe mẹ đây, Đà Ông đem việc xưa nói lại cho con biết rõ rồi, thiết tưởng mẹ không cần giải thích thêm, con cũng hiểu. Vạn Tân Nguyệt là phụ thân của con, Lưu Dật Phu là người chồng trước của mẹ ...

Bà trầm giọng hơn, hỏi luôn:

– Theo ý của con, con có hận Lưu Dật Phu chăng?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút rồi đáp:

– Con nghĩ chẳng nên hận, mẫu thân ạ! Bởi, ở vào địa vị của vị lão nhân đó, ai ai cũng phải hành động như vậy!

Bạch Thiết Hận kêu lên:

– Vô lý! Tiểu tử nói nhảm không nghe được! Lão phu nào đã nói hết cho ngươi nghe đâu? Năm xưa, phụ thân ngươi mang niềm uất tức mà ly khai Đại Ba Sơn, hơn nữa, lão ta thọ thương. Thương thế đó, do thanh kiếm nơi tay Lưu Dật Phu gây ra! Lưu Dật Phu đánh đuổi phụ thân ngươi chạy đi, lại còn lưu vết thương làm kỷ niệm! Cho ngươi biết rõ như vậy!

Đến lượt Quan Sơn Nguyệt biến sắc mặt.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn sang Chữ Trà, cười lạnh:

– Có phải tại ngươi ngứa miệng chăng?

Chữ Trà kinh hãi:

– Chính ... Bạch lão gia ... bức tỳ nữ nói:

Nguyệt Hoa Phu Nhân vẫn cười lạnh:

– Ngươi nên nói cho rõ ràng hơn mới phải.

Hai lần cười lạnh, chứng tỏ bà hận, nhưng hận trầm, không thể phát tác, bởi bà phát tác với ai? Chung quanh bà nếu không là người thân tín, thì cũng là người ơn!

Chữ Trà hấp tấp thốt:

– Tỳ nữ đâu có thì giờ để nói cho đầy đủ lúc đó! Đang nói dở chừng thì phu nhân đến, mà Bạch lão gia cũng chẳng hỏi gì thêm!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm giọng:

– Thế thì giờ đây, có mặt công tử, ngươi nên nói tiếp, cho sự tình được rõ ràng hơn ...

Chữ Trà suy nghĩ một chút rồi nói:

– Năm xưa, trong lúc giao đấu, Vạn lão gia nhờ có kiếm pháp cao minh hơn, nên bức bách Lưu lão gia luôn luôn thoái hậu. Sau lại, phu nhân xuất hiện, đứng giữa, ngăn chặn cả hai, Vạn lão gia sợ kiếm chạm trúng phu nhân, hấp tấp thu kiếm về, ngờ đâu Lưu lão gia nhân dịp đó, đâm qua một nhát kiếm, trúng đầu vai của Vạn lão gia. Vạn lão gia không nói một lời nào, quăng luôn kiếm rồi hoành thân đoạt công tử trong tay tỳ nữ, chạy đi.

Bạch Thiết Hận cười lạnh.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hướng qua Quan Sơn Nguyệt, hỏi:

– Con có tin lời nàng chăng?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu.

Bạch Thiết Hận nổi giận:

– Vạn Tân Nguyệt tức uất, mang vết thương mà đi, vết thương nơi vai không quan trọng bằng vết thương nơi lòng, lão ta chạy, chạy mãi trên đường dài ngàn dặm, máu từ vết thương chảy ngày, chảy đêm, chảy đến khô cạn máu trong người! Chạy như vậy, máu chảy như vậy, làm sao lão ta không chết? Thêm vào đó, vết thương lòng càng lúc càng xoáy đau! Thế có phải là lão ta bị bức tử chăng? Không bị bức tử thì là gì chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân buột miệng thở dài:

– Trừ ra Tân Nguyệt từ lòng đất chui lên, cáo tố với các vị, thì vĩnh viễn các vị không hiểu nổi nguyên nhân chân chánh của cái chết mà y tiếp nhận!

Bạch Thiết Hận trố mắt:

– Chẳng lẽ cái chết của lão ta có một nguyên nhân khác?

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại thở dài:

– Đúng vậy! Y chết, là do thương tâm, nhưng một thứ thương tâm khác với dự đoán của các vị. Y thương tâm vì sự thất bại! Đà Ông hẳn cũng hiểu tánh khí của y chứ, khi nào y chịu nổi một sự khuất nhục?

Bạch Thiết Hận thốt:

– Tự nhiên là lão ta không chịu nổi khuất nhục rồi, cho nên lão phải chết!

Giả như phu nhân quy cái nguyên nhân chết của lão vào sự thất bại, thì chính phu nhân gây nên sự thất bại cho lão ấy, phu nhân làm cho lão thất bại trên địa hạt cảm tình!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

– Không! Không phải vậy đâu, Đà Ông lầm rồi! Trên địa hạt cảm tình, y là người chiến thắng, nếu y thất bại là thất bại về kiếm pháp mà thôi. Giờ đây già dám nói mà không sợ thẹn, là năm xưa, già mong Vạn Tân Nguyệt đánh bại Lưu Dật Phu, giết luôn Lưu Dật Phu ...

Bạch Thiết Hận kêu lên:

– Thế tại sao phu nhân tham gia cuộc đấu?

Nguyệt Hoa Phu Nhân đáp:

– Chỉ vì già muốn cứu Tân Nguyệt!

Bạch Thiết Hận giật mình.

Quan Sơn Nguyệt cũng giật mình.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài tiếp:

– Đà Ông và con, hẳn không tin lời nói đó. Sự thực thì, lúc đó già không xuất đầu lộ diện, thì Vạn Tân Nguyệt đã thành cái xác không hồn, nằm trong vũng máu rồi. Bởi lúc đó, Lưu Dật Phu dùng một chiêu kiếm rất lợi hại, công thì mạnh, mà có thủ, chiếm phần thắng dễ dàng, đó là một chiêu chuyển bại thành thắng. Già xuất hiện bắt buộc Lưu Dật Phu lệch mũi, tránh già, nhờ thế mà thay vì bị trúng chỗ nhược, Vạn Tân Nguyệt chỉ bị điểm nơi đầu vai thôi.

Bạch Thiết Hận không tin, thốt:

– Với kiếm pháp, làm gì có việc Vạn Tân Nguyệt kém Lưu Dật Phu? Chính điểm đó không làm cho lão phu tin được thiện chí của phu nhân! Biết Vạn Tân Nguyệt còn ai hơn lão phu? Là bằng hữu với nhau, lão phu biết tài nghệ của y rõ ràng hơn. Phu nhân thì bất quá là biết y về mặt cảm tình, không hơn không kém!

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười khổ:

– Đà Ông nói cũng có lý, song đã là vợ chồng, thì ít nhất già cũng phải hiểu phần nào tài năng của chồng chứ! Kiếm pháp của Vạn Tân Nguyệt, nhẹ và nhanh, bởi nhanh, nên thắng địch dễ dàng và vì nhẹ nên dù có thắng cũng chẳng làm hại địch quan trọng. Đó là nhược điểm kiếm pháp của Tân Nguyệt.

Bạch Thiết Hận gật đầu:

– Nhận xét rất đúng! Vạn Tân Nguyệt thường nói, kiếm pháp của y khác hơn người thường, y hướng cái mục đích dụng kiếm về con đường nhân đạo hơn là dùng kiếm làm một phương tiện thực hiện một tham vọng.

Nguyệt Hoa Phu Nhân mơ màng:

– Bởi cảm mến cái khí chất thanh nhã của y, già bỏ chồng, quyết theo y đến tận vùng xa, để sớm hôm kề cận y, nhưng nghĩ lại, y đã nghĩ sai phần nào, bởi lòng nhân không bảo vệ được sanh mạng con người, mang lòng nhân mà dấn thân vào kiếp sống giang hồ, nơi trùng trùng cạm bẫy, có khác nào tìm đường tự tử? Trước thép kiếm của địch, lòng nhân sẽ làm được gì? Kiếm pháp của Vạn Tân Nguyệt từ nhân đạo mà ra, trái lại kiếm pháp của Lưu Dật Phu tàn độc không tưởng nổi, như thế bảo sao Tân Nguyệt không bại?

Bạch Thiết Hận nín lặng.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại nói tiếp:

– Cho nên, khi cuộc giao đấu bắt đầu, Vạn Tân Nguyệt biết ngay là phải bại.

Lúc chạy đi y bỏ kiếm lại tại cục trường, phàm một kiếm khách bỏ kiếm như vậy, là hiển nhiên kiếm khách có biểu hiện cái ý vĩnh viễn không hề cầm đến kiếm nữa.

Quan Sơn Nguyệt không đồng ý về quyết định đó của Vạn Tân Nguyệt, dù cho là một dự đoán của Nguyệt Hoa Phu Nhân. Chàng thốt:

– Về vũ công, thất bại là sự thường, bởi người cao vẫn có kẻ cao hơn. Một lần thất bại có nghĩa gì đâu? Thất bại lần này thì tìm dịp khác mà chuộc bại.

Phàm bậc anh hùng lấy cứu cánh làm tiêu chuẩn, há đặt tiến thủ trong phạm vi thành bại hay sao?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười khổ:

– Phụ thân con đã có cái thành kiến đó mất rồi, muốn hành động như con vừa nói, thì phụ thân con phải bỏ tất cả, bắt đầu học tập trở lại điểm ban sơ.

Nhưng phụ thân con lúc đó đâu chịu nghĩ như con! Bởi cái tâm thanh khiết, nên đem lòng nhân vào kiếm đạo, phụ thân con đã đi lầm đường, cứ cho rằng cầm kiếm mà dạy người, chứ không hiểu là cầm kiếm lên là kêu gọi địch giết gấp. Học làm chi cái thứ kiếm pháp giết đời? Trước khi cảm hóa được ai thì mình đã ra ma rồi!

Bạch Thiết Hận thở dài:

– Dù sao thì lúc đó, phu nhân không ra mặt là phải hơn! Thà cứ để cho Vạn Tân Nguyệt bị Lưu Dật Phu giết chết như thế mà hay cho y, vì ít nhất y cũng khỏi phải đau đớn cả tâm hồn lẩn thể xác trong một thời gian sau đó ...

Bây giờ Bạch Thiết Hận đã tin lời nói của Nguyệt Hoa Phu Nhân rồi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhếch nụ cười thảm:

– Phải! Đáng lẽ già không nên ra mặt. Cho nên y hận già, hận vì già can thiệp cứu y, y thà chịu chết dưới lưỡi kiếm địch hơn là bị mang tiếng có già cứu, con người của y, thà chịu cứng mà chết chứ không mềm mà sống. Huống chi bảo y van xin sự sống thì khi nào y lại chịu?

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Con không thấy có điểm nào chứng tỏ phụ thân con van xin sự sống!

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

– Phụ thân con tuy không van xin nhưng đối phương đã dung tha cho, như vậy cũng đủ rồi, còn mong phụ thân con mở miệng nữa sao? Đáng lẽ phụ thân con phải chết vì nhát kiếm của Lưu Dật Phu, song vì có mẹ can thiệp, Lưu Dật Phu bắt buộc phải lệch mũi kiếm, tránh chém trúng người của mẹ. Mẹ đã gián tiếp van cầu Lưu Dật Phu, cho nên Vạn Tân Nguyệt mới mang thương thế mà bỏ đi!

Bà thở dài luôn một tiếng nữa, rồi tiếp:

– Mang niềm hận đó mà đi, thì làm sao sống lâu với niềm hận? Cho nên, khi biết là phụ thân con chết, mẹ không xúc động mạnh, chẳng qua mẹ hiểu như thế nào rồi cha con cũng chết với niềm hận đó ...

Một lúc lâu sau, Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

– Lưu Dật Phu có truyền nhân chăng?

Bạch Thiết Hận đáp nhanh:

– Có chứ, truyền nhân của lão ta, chính là con trai lão, tên Lưu Ảo Phu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn lão, như trách móc:

– Có lẽ Đà Ông muốn cho anh em chúng nó đánh nhau một lần?

Bạch Thiết Hận chỉ cười, không đáp.

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Điều đó thì khó tránh rồi vậy, mẹ ạ! Bất quá ... mẹ yên trí, chỉ cần con không bại thì thôi, máu sẽ không đổ trong cuộc chiến đâu mà mẹ sợ. Tuy con không học kiếm đạo nhân nghĩa của phụ thân, nhưng kiếm pháp của con cũng vẫn có tinh thần nhân nghĩa như thường.

Bạch Thiết Hận kêu lên:

– Phải! Có như thế mới xứng đáng là giọt máu của Vạn Tân Nguyệt.

Lão lại nói với Nguyệt Hoa Phu Nhân:

– Thử hỏi cái con chó con của phu nhân có được khí độ đó hay không chứ?

Lão lại day qua Quan Sơn Nguyệt, tiếp luôn:

– Hiền điệt làm cho bá bá khoan khoái vô cùng! Như vậy mới phải chứ, nên luôn luôn làm cho bá bá mở mày mở mặt, hiền điệt nhé!

Nào phải chỉ mỗi một mình lão ta cao hứng mà thôi, đến bọn thị giả Cầm Khiêu, Thị Thơ, Tư Kỳ, Đạn Kiếm đều thích thú như lão ta.

Còn Chữ Trà thì cảm kích đến rơi lệ.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài, nhìn quanh mọi người một vòng, nhẹ giọng thốt:

– Con đến đây, chưa tròn một ngày, mà chừng như Quảng Hàn Cung đã thuộc về con rồi đó! Con xem kìa, ai ai cũng hướng vọng tâm tư về con ...

Bạch Thiết Hận cười hì hì:

– Đương nhiên rồi! Quản Hàn Cung phải thuộc về hắn! Sự nghiệp nầy, do Vạn Tân Nguyệt dựng nên, thì hắn thừa hưởng là hợp lý lắm chứ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm buồn gương mặt, lâu lắm, bà thở ra, nhìn Quan Sơn Nguyệt nói:

– Tiểu đệ của con, có thể nó kém con, điều đó cũng chẳng lạ gì, bởi nó còn nhỏ tuổi quá, cho nên mẹ mong con chiếu cố nó ...

Quan Sơn Nguyệt khích động, niềm khích động phát sanh, không phải vì xúc cảm, mà là vì bất mãn, chàng gằn từng tiếng:

– Mẹ! Con chẳng có tiểu đệ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân sa sầm gương mặt. Bà im lặng một lúc rất lâu, sau cùng mới thốt với giọng buông trôi:

– Cũng được! Chúng ta tạm thời hãy đặt vấn đề đó qua một bên, chỉ nói đến điều cần nói bây giờ thôi. Điều cần nói, là con cho mẹ biết cái người đó là ai.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Người đó? Ai chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân lạnh lùng:

– Cái người đã giết Lưu Dật Phu!

Quan Sơn Nguyệt biến sắc! Nguyệt Hoa Phu Nhân tiếp luôn:

– Phải, người đã giết chết Lưu Dật Phu năm xưa. Bởi Lưu Dật Phu chết vì bị người hãm hại, sự việc đó đã xảy ra cách đây hai mươi năm, mẹ và Lưu Dật Phu đang du ngoạn bên bờ sông, bỗng một người bao mặt xuất hiện, người đó có kiếm pháp cực kỳ lợi hại, y và Lưu Dật Phu giao chiến ngay, đến chiêu thứ bảy thì Lưu Dật Phu bị y chặt đứt cánh tay tả, trở về núi thì Lưu Dật Phu chết luôn. Mai táng Lưu Dật Phu rồi, mẹ có dọ hỏi khắp nơi, tìm tung tích của người bao mặt đó, nhưng suốt một thời gian dài, mẹ không thu hoạch được một kết quả nào, chẳng ai biết con người đó cả. Con đừng lấy làm lạ sao mẹ tìm tung tích một người mà mẹ không biết mặt, vì lúc đó y bao mặt. Mẹ không hỏi về người, mẹ chỉ hỏi về kiếm pháp thôi. Tìm lai lịch một người trong võ lâm ai ai cũng bắt đầu từ vũ công mà dọ thám, bởi vũ công cũng nói lên xuất xứ của một người.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Mẹ hỏi về một người mà con không biết, thì làm sao con nói được?

Bạch Thiết Hận mỉm cười:

– Tuy vậy, hiền điệt vẫn biết được như thường. Bởi vì hiền điệt từng đối kháng kiếm pháp của người đó, loại kiếm pháp mà ngươi đã gặp một lần trên Vu Sơn, và một lần nữa, tại đây, trong khi so tài với Đạn Kiếm.

Lão lại tiếp luôn:

– Trong cả hai lần, ngươi đều thắng!

Nguyệt Hoa Phu Nhân gấp giọng, nối lời:

– Kiếm pháp đó, mẹ nhìn y thi triển, còn nhớ được mấy chiêu, về núi rồi, mẹ bảo Đạn Kiếm tập luyện.

Bà nhìn chàng, hỏi:

– Thế cái người sử dụng kiếm pháp đó trên Vu Sơn là ai?

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 39

Cốt Nhục Khó Thân

Nguyệt Hoa Phu Nhân đề cập đến «Tu La Thất Thức», Quan Sơn Nguyệt hết sức lạ lùng. Chàng tự hỏi:

“Làm thế nào Bạch Thiết Hận lại biết được sự tình diễn tiến trên đỉnh Thần Nữ Phong?” Miên man với niềm tâm tư, chàng không đáp câu hỏi của phu nhân.

Phu nhân thất vọng, tiếp:

– Con! Có thể là con không muốn nói! Con không nói, là cái quyền của con, mẹ không trách ...

Quan Sơn Nguyệt vội thốt:

– Không phải đâu, mẹ! Chẳng phải con không muốn nói, bởi thực sự thì làm sao con biết rõ ai đã giết Lưu Dật Phu? Theo con hiểu thì trên thế gian nầy, người am tường kiếm pháp đó rất ít.

Nguyệt Hoa Phu Nhân trố mắt:

– Họ là những ai?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Những người biết kiếm pháp đó, hầu như quy tụ lại một nơi. Và họ lập thành một tổ chức, lấy tên là Long Hoa Hội, hội đó có ba hạng người:

Tiên, Ma và Quỷ. Người trong hội đều biết kiếm pháp đó.

Nguyệt Hoa Phu Nhân càng kinh dị hơn:

– Long Hoa Hội? Tiên, Ma, Quỷ? Con nói cái gì thế?

Quan Sơn Nguyệt nhận ra, nếu giải thích rõ ràng, thì phải mất một thời gian dài.

Chàng suy nghĩ một chút, rồi nói:

– Mẹ không cần phải tìm hiểu, bởi sự tình dài dòng lắm, khi nào rỗi rảnh, con trình bày cho mẹ rõ. Hiện giờ, mẹ hãy tả hình dáng của người bao mặt đó, con sẽ suy đoán xem y là ai, rất có thể là một trong các hội viên của Long Hoa Hội, và như vậy thì con nhận thức được liền.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hồi ức việc xa xưa, đoạn nói:

– Người đó tác không cao lắm, giọng nói hơi ồ ề, mẹ nghe rồi không đoán được là nam hay nữ, song bằng vào cử động của người đó, thì mẹ nghĩ là một nữ nhân.

Quan Sơn Nguyệt giật mình. Người trong Long Hoa Hội rất ít nữ nhân, mà chẳng phải tất cả nữ nhân trong hội am tường «Tu La Kiếm Pháp». Huống chi, luận về niên kỷ, thì lại càng ít người có thể hoạt động trong thời gian hai mươi năm về trước.

Về tuổi, Lâm Hương Đình cao hơn tất cả các nữ nhân kia, mà lúc đó bà lại chưa tiếp nhận chức hội trưởng. Lý Trại Hồng thì không hề luyện tập kiếm pháp đó. Liễu Y Ảo lúc ấy chỉ là một cô bé con. Chỉ còn lại một Tây Môn Vô Diệm, mà bà nầy cũng chẳng đáng được nghi ngờ cho lắm. Thế thì, là ai?

Thấy chàng trầm ngâm mãi, Nguyệt Hoa Phu Nhân hỏi giục:

– Con đã đoán được là ai chưa?

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Khó quyết định lắm, mẹ! Con có biết mấy nữ nhân, song nghĩ ra thì họ chẳng đáng cho chúng ta chú ý ...

Bạch Thiết Hận gật đầu:

– Đúng vậy! Những nữ nhân đó, đành là có vũ công khá, song tất cả chưa phải là địch thủ của Lưu Dật Phu.

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:

– Bá bá nhận thức họ?

Bạch Thiết Hận mỉm cười:

– Làm sao lão phu nhận thức được họ?

Quan Sơn Nguyệt hoang mang:

– Tại sao bá bá biết được tiểu điệt đã làm gì tại Vu Sơn?

Bạch Thiết Hận cười hì hì:

– Lão phu nghe nói lại thôi! Cái người nói với lão phu đó là một bằng hữu của lão phu, người ấy biết rất rõ về ngươi, lúc lão phu hỏi y về việc của phu nhân và Lưu Dật Phu, thì y có đề cập đến ngươi, y cho biết là chỉ có ngươi mới hiểu rõ sự tình. Tự nhiên, lão phu đâu biết ngươi là ai, bất quá, lúc lên đây, lão phu trông thấy con Bạch Đà ...

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Người bằng hữu đó là ai?

Bạch Thiết Hận đáp:

– Cho ngươi biết, người bằng hữu đó là một lão hòa thượng.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Khổ Hải Từ Hàng!

Bạch Thiết Hận lại cười:

– Cái lão trọc đó dám làm những trò quỷ lắm! Với đức tách của lão ta, làm sao lão dám xưng một danh hiệu như thế chứ!

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

– Cái lão hòa thượng đó kỳ quái thật, chừng như bất cứ việc gì cũng có lão ta dự phần! Thực sự thì, con người của lão như thế nào?

Bạch Thiết Hận mỉm cười:

– Lão phu không hiểu rõ lắm, vì một cuộc đánh nhau với lão trọc, mà song phương trở thành bằng hữu của nhau. Một hôm, trên đường vân du, lão trọc đến Đại Thanh Sơn là vùng lão phu cư trú, định trộm nước trong Tái Sanh Linh Tuyền của lão phu, lão phu bắt gặp, cuộc chiến diễn ra liền, lão phu dùng «Khai Sơn Huyền Công», lão trọc dùng «Đại Lực Kim Cương Chưởng Pháp», lão trọc kém thế, bị lão phu đánh trúng gây thương thế nơi nội phủ, sau đó lão phu nhận thấy con người của hòa thượng cũng chẳng đến đổi nào nên chữa trị cho lão. Lão cảm cái ơn của ta, bằng lòng kết giao, lão gọi ta là lão gù, ta gọi lão là lão trọc ...

Lão nói mãi, toàn là những việc ngoài đề, Nguyệt Hoa Phu Nhân nóng nảy vội chận:

– Đà Ông không nói đến việc của già ...

Bạch Thiết Hận cười hì hì:

– Lão phu chỉ có biết bao nhiêu đó thôi, còn thì phu nhân cứ hỏi tiểu tử!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Con ... con cũng chẳng biết được chi nhiều, bất quá, con có quen mấy nữ nhân, đành là họ cũng có tập luyện qua kiếm pháp đó, song con dám chắc là họ không thủ thắng nổi trước Lưu Dật Phu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm tư một phút, bổng thốt:

– Người bao mặt đó, chẳng những công lực rất cao thâm, mà tuổi lại rất lớn, vóc ốm cao gầy như que củi, làn da đen ...

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Con biết rồi! Đúng là bà ta!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp hỏi:

– Ai, con? Ai?

Biết đã lỡ kêu lên rồi, Quan Sơn Nguyệt cảm thấy khó khăn vô cùng. Chàng liên tưởng đến Ôn Kiều, căn cứ vào sự mô tả của Nguyệt Hoa Phu Nhân, thì đúng là Ôn Kiều rồi, chẳng còn nghi ngờ chi nữa. Nhưng làm gì có việc Ôn Kiều sát hại Lưu Dật Phu chứ? Bà đã ẩn cư từ nhiều năm qua, hầu như bà tịnh tu, thì khi nào bà rời nơi ẩn cư, tìm người mà sát hại?

Nguyệt Hoa Phu Nhân giục:

– Ai thế, con? Con nói cho mẹ nghe đi!

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ giây lâu, đoạn đáp:

– Con nhớ đến một vị tiền bối, nhưng bà ấy từ lâu rồi xa lánh hồng trần, không thể là bà ấy gây thù kết oán với bất cứ ai ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân khoát tay:

– Không cần biết là chính bà ta hay không phải là bà ta gây ra cuộc sát hại đó, con cứ chỉ chỗ ở của bà, mẹ sẽ tìm đến nơi gặp bà, mẹ có cách dọ xét xem có đúng bà ta là người bao mặt năm xưa hay không.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Mẹ! Thứ cho con ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân trừng mắt:

– Sao? Không lẽ con giấu mẹ?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không! Nào con có muốn giấu mẹ đâu? Chỉ vì, con thọ ơn trọng của bà ấy, con đã hứa với bà ta chẳng khi nào tiết lộ hành tung của bà với bất cứ ai, hơn nữa, chỗ ở của bà, chính con cũng chẳng hiểu đích xác thuộc địa phương nào, thì làm sao con nói được với mẹ? Giả như bây giờ, con muốn tìm lại bà, con cũng chẳng biết phải làm sao nữa đó mẹ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân biến sắc, một lúc lâu, bà thở dài, thốt:

– Thật tình, mẹ không biết tâm ý chân chánh của con như thế nào, mẹ nghĩ là mẹ không có quyền bức bách con phải tiết lộ những gì con không thể tiết lộ.

Nhưng, cần gì, con! Miễn là mẹ biết được có người đó, trước sau gì mẹ cũng tìm ra!

Quan Sơn Nguyệt nói:

– Đừng mẹ! Bởi con đã hứa với bà, thì con không thể giúp mẹ tìm bà, tuy nhiên, con sẽ giúp mẹ truy nguyên việc đó. Con sẽ tự mình điều tra, mẹ khỏi phải động thân, bởi mẹ không lam sao tìm gặp bà ấy được đâu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hỏi:

– Con có biện pháp gì?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút, nói:

– Thì còn cách nào bây giờ, hở mẹ? Con sẽ hồi ức lại, trong trường hợp nào, con gặp bà, con sẽ phăng lần, dọ dẫm, xem bà ở đâu, tìm đến, hỏi ngay nơi bà.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại hỏi:

– Giả như bà ấy xác nhận?

Quan Sơn Nguyệt chính sắc mặt:

– Con sẽ mời bà ấy xuất hiện, đối thoại với mẹ, rồi tùy mẹ, tùy mẹ có thái độ với bà ấy.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn thẳng vào chàng:

– Nếu song phương động thủ, con sẽ đứng về phía nào?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Con sẽ chẳng tiếp trợ bên nào cả!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm giọng:

– Nếu mẹ thất thế? Con điềm nhiên nhìn mẹ bị người đánh bại?

Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ khổ sở:

– Phải vậy rồi, mẹ! Bởi, mẹ vì chồng mà báo cừu, điều đó thì chỉ liên quan đến mỗi một mình mẹ mà thôi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

– Đủ lắm rồi, mẹ không thể đòi hỏi ở con nhiều hơn!

Quan Sơn Nguyệt nói:

– Mẹ còn sống, con không tiếp trợ mẹ, bởi con không có bổn phận báo thù cho một người hoàn toàn xa lạ đối với con, song nếu mẹ chết đi, thì con sẽ báo thù cho mẹ, vì con có lý do chánh đáng để hành động.

Bạch Thiết Hận vổ bàn kêu bốp một tiếng, hét lên:

– Hay! n oán phân minh! Như vậy ngươi mới đáng mặt trượng phu! Lão đệ của ta nơi suối vàng, hẳn phải hài lòng về ngươi lắm đó!

Nghe Bạch Thiết Hận nhắc đến cha, một người cha mà chẳng bao giờ chàng biết mặt, lòng chàng nao nao, song thực sự chàng chẳng hiểu cái tư vị nao nao đó như thế nào.

Trong cảnh sanh ly, cha mẹ tìm con, con tìm cha mẹ, còn có thể gặp nhau, dù con không biết mặt cha, gặp nhau rồi cũng biết.

Nhưng Quan Sơn Nguyệt trong cảnh tử biệt, thì mong gì còn gặp lại cha?

Dù chàng có muốn tìm cha nơi suối vàng, không biết mặt cha thì chàng cũng chẳng làm sao tìm được người giữa cõi mênh mang lạnh lùng của hồn ma bóng quỷ? Vĩnh viễn, chàng không biết mặt cha, thì cái ân tình phụ tử không lưu một ấn tượng nào trong lòng chàng. Cho nên, chàng khó thấy cái tư vị nồng đượm thâm trầm của một mối tình thiêng liêng nhất.

Nếu giờ đây, chàng có một phản ứng nào thích hợp, quanh sự tình có liên quan đến tiên phụ chàng thì chẳng qua cái ý thức bừng dậy mà thôi. Từ lâu, chàng chấp nhận sự đơn côi, thì đơn côi vẫn còn ảnh hưởng mãi mãi nơi tâm hồn chàng. Một Nguyệt Hoa Phu Nhân kia, còn sống sờ sờ đó, là mẹ chàng, gặp nhau rồi, chàng cũng chưa có một cảm xúc của trùng phùng, thì nói chi với người chết từ lâu? Chung quy, chàng vẫn thấy mình đơn độc, xa vắng quá, đối với phần còn lại trong nhân loại, trong cái phần đó, có mẹ chàng!

Nhập Hoạch đã mang thức ăn lên, bày biện trên mặt bàn xong, nàng rỉ vào tai Nguyệt Hoa Phu Nhân:

– Công tử sắp đến nơi!

Công tử, là Lưu Ảo Phu, con trai của Lưu Dật Phu, người em cùng mẹ của Quan Sơn Nguyệt!

Bạch Thiết Hận hét to:

– Ai bảo ngươi thông tri cho hắn chứ? Tiểu tử đó đến đây là lão phu lợm giọng ngay, còn ăn uống gì được chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân khẽ cau mày:

– Nhập Hoạch! Ngươi thật là lắm chuyện! Thế ngươi không biết là Đà Ông không ưa thích nó sao chứ?

Nhập Hoạch thấp giọng:

– Nào phải tôi thông tri đâu mà phu nhân quở trách? Chính Phi Tràng đấy, tôi ngăn trở thế nào cũng không được.

Bạch Thiết Hận nổi giận:

– Phu nhân lập tức sai người ngăn chặn tiểu súc sanh, nếu không thì lão phu cáo từ ngay.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cau mày:

– Đà Ông nên vì Sơn Nguyệt, nán lại một chút!

Bạch Thiết Hận chưa kịp nói gì, từ bên ngoài cửa, có giọng nói vọng vào:

– Mẹ! Lão gù có muốn đi, cứ để cho lão đi!

Câu nói chưa dứt âm vang, một thiếu niên bước vào.

Thiếu niên vận y phục lam, hông đeo trường kiếm, thân tình cực cao ngạo.

Quan Sơn Nguyệt đoán là Lưu Ảo Phu, chàng chú ý đến hắn kỹ hơn, nhận ra tướng mạo hắn cũng thanh tú, có điều vẻ thanh tú đó che dấu một sát khí như chực chờ bốc mạnh bất cứ lúc nào.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hét gấp:

– Ảo Phu! Sao ngươi vô lễ với khách như thế?

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

– Từ nhiều năm qua tại Quảng Hàn Cung, chẳng hề có hạng khách lỗ mãng như vậy, mẹ không nhận thấy à?

Bạch Thiết Hận quát:

– Tiểu súc sanh! Ngươi định ám chỉ ai chứ?

Lưu Ảo Phu trừng mắt về phía lão:

– Còn ai nữa chứ, lão gù, nếu không là lão?

Bạch Thiết Hận giận quá thở phì phì, hơi thở của lão vừa mạnh vừa gấp, thổi bay lất phất chòm râu bên dưới cằm, mà cũng có lẽ vì thịt giật, da rung, mà râu lung linh như vậy. Lão mắng lớn:

– Tiểu súc sanh, nếu lão phu không nghĩ ngươi là kẻ hậu sanh, thì sớm đã cho ngươi một bài học rồi đó!

Lưu Ảo Phu bật cười hắc hắc:

– Lão gù ơi, đừng sừng sộ, trong Quảng Hàn Cung, không có việc thừa nhận cái thứ tiền bối như lão đâu nhé, cảnh cáo lão đó!

Nguyệt Hoa Phu Nhân không tưởng hắn vô giáo dục đến mức độ đó, vội đập tay xuống bàn vang lên bốp bốp, rồi hét:

– Ảo Phu! Ta có còn là mẹ của ngươi không chứ?

Lưu Ảo Phu vẫn cao ngạo như thường, dù mẹ hắn đã hai lượt chỉnh hắn.

Hắn đảo mắt sang Quan Sơn Nguyệt, hắn bĩu môi, rồi hỏi mẹ:

– Mẹ vừa có đứa con nữa đây mà? Đứa con nầy khá lắm, mẹ có cần gì con nữa đâu? Đáng lẽ con phải hỏi là con có còn là con của mẹ nữa không, mới phải chứ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân sững sờ.

Lưu Ảo Phu lạnh lùng tiếp:

– Hắn mới đúng là đứa con yêu quý của mẹ, mẹ có thấy không, hắn khôi ngô, anh tuấn, hắn lại có khí khái hào hiệp, hắn là hình bóng của người tình của mẹ năm xưa, từ nay khi nào mẹ nhớ đến người xưa, cứ nhìn hắn cũng đủ khuây niềm tương tư ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân rung người lên, trong cơn tức uất cực độ, bà không nói được một tiếng nào.

Bạch Thiết Hận đột nhiên bật cười ha hả:

– Phu nhân ơi! Lưu Dật Phu có một đứa con như thế, nghĩ cũng đáng kiêu hãnh đấy chứ.

Lưu Ảo Phu nổi giận:

– Im đi, lão gù! Ta cấm lão nói chạm đến cha ta! Cha ta chết là vì cái tâm tiểu nhân của lão đó, hãy nín lặng cho ta đỡ tức, ta có quên lão, thì ta mới không nói những tiếng vô lễ với lão! Đừng buộc ta vào điều mà ta chưa muốn làm!

Bạch Thiết Hận quát:

– Tiểu súc sanh! Ngươi nói gì? Cha ngươi chết là vì cái tâm tiểu nhân của lão phu?

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

– Đừng tưởng là ta chẳng hiểu chi cả! Lầm! Chính ta mới hiểu rõ hơn ai hết, lão gù ơi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân vụt đứng lên, đưa tay chỉ thẳng vào mặt Lưu Ảo Phu, rung rung giọng hỏi:

– Ngươi hiểu gì? Hở? Ngươi có nó nhanh đi cho ta biết hay không chứ?

Lưu Ảo Phu lạnh lùng:

– Chuyện, là chuyện của mẹ, chính mẹ không biết, lại chờ con nói cho mẹ nghe à? Mẹ có ý tứ gì chứ? Con nghĩ, chúng ta nên dành lại một chút nào danh dự cho gia đình đó mẹ à! Sao mẹ giục con nói?

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hự» lên một tiếng, phun ra một búng máu tươi. Rồi bà rơi xuống ghế trở lại, như một trái cây chín muồi, sút cuống. Nhập Hoạch và Chữ Trà cấp tốc bước tới đỡ bà. Bà vung tay hất cả hai ra ngoài xa, đoạn cao giọng thê thảm thốt:

– Được! Được lắm đó, Ảo Phu! Lúc phụ thân ngươi chết, thì ngươi vừa lên bốn thôi, ta trải qua bao nhiêu gian lao, tân khổ, nuôi dưỡng ngươi đến ngày nay, ngươi đã trưởng thành rồi, lại đáp ơn ta bằng thái độ đó!

Lưu Ảo Phu chỉ cười lạnh, không hề xúc động trước tình trạng của mẹ.

Quan Sơn Nguyệt hết sức bất mãn, chịu không nổi tánh cách của Lưu Ảo Phu, cao giọng hét:

– Ngươi ăn nói thế mà nghe được à? Có quỳ xuống trước mặt mẹ hay không, tên nghịch tử?

Lưu Ảo Phu liếc xéo qua chàng, nhếch môi cười mỉa:

– Đừng to tiếng với ta, tuy ngươi lớn hơn ta một vài tuổi, tuy ngươi và ta đồng một mẹ sanh ra, ta chẳng hề nhìn nhận ngươi là huynh trưởng. Ngươi đừng nuôi mộng, vô ích!

Quan Sơn Nguyệt trừng mặt, quát:

– Ta có thích là huynh trưởng của ngươi đâu?

Lưu Ảo Phu cười ngạo nghễ:

– Thế là tốt! Thế là giữa chúng ta chẳng có một liên hệ nào! Vậy ngươi hãy lấy lại lời nói vừa rồi đi, nghĩa là ngươi không có quyền năng gì bảo ta phải quỳ xuống.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Ta muốn giáo huấn ngươi về đạo lý làm người, ta sẽ chỉ cho ngươi biết cách tôn kính mẫu thân!

Lưu Ảo Phu cười lớn, đưa tay chỉ Nguyệt Hoa Phu Nhân nhấn từng tiếng một:

– Mẫu thân của ngươi mới đúng hơn! Bà ấy có phải là mẹ của ta đâu?

Hắn lại bật cười, tràng cười của hắn vang dội, rồi hắn tiếp:

– Chính ngươi mới là con của bà, vì ngươi là kết quả của một cuộc tình đầm ấm của đôi bạn tâm đồng ý hợp, chính ngươi là kết quả của ái tình nồng nhiệt.

Còn như ta ... ha ha ha! Ta là sản phẩm của sự bội phản, sản phẩm của sự bất đắc dĩ mà bà ta dành cho phụ thân ta! Vì không thể để ta ở trong bụng, bà bắt buộc phải sanh ta, sanh ta rồi, chẳng lẽ bà đem giết, do đó bà bắt buộc phải nuôi dưỡng ta! Ha ha!

Nguyệt Hoa Phu Nhân rú lên một tiếng, hôn mê ngay!

Bạch Thiết Hận cực kỳ phẫn nộ, vổ bàn kêu bốp một tiếng, đứng lên liền.

Lưu Ảo Phu lấy trong mình ra một vuông lụa, bạc màu, hắn quăng nó xuống đất, cao giọng thốt:

– Bạch Đà! Bức huyết thơ của cha ta đó, người viết lên, khi chết, cha ta bí mật giao cho Phi Tràng, gìn giữ đến khi nào ta lớn lên rồi giao lại cho ta. Các ngươi xem đi, xem cho biết những điều tâm sự đau buồn của một người bạc phước, song giữa sự phản bội của thân nhân, các ngươi xem rồi tức khắc hiểu cái thái độ của ta hôm nay! Và, có thể là thái độ nầy sẽ tồn tại mãi mãi cho đến khi nào ta hắt hơi thở cuối cùng!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ, bước tới một bước, đưa tay toan nhặt bức lụa, song Lưu Ảo Phu cấp tấp tuốt kiếm loang xuống một đường, chận bàn tay chàng.

Bắt buộc, Quan Sơn Nguyệt phải thu tay về.

Lưu Ảo Phu tiếp luôn:

– Riêng về ngươi, đừng vội xem, trước khi xem phải giải quyết vấn đề chúng ta. Chẳng muộn chi đâu!

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Vấn đề gì giữa chúng ta?

Lưu Ảo Phu cười lớn:

– Tuy chúng ta chưa hề gặp nhau lần nào, tuy chúng ta là hai kẻ hoàn toàn xa lạ, song chừng như số mệnh đã an bài cho chúng ta một cuộc tử chiến, không cần gì phải có tình cừu ân oán làm hậu thuẫn, cuộc chiến đó vẫn đã được an bài từ lâu. Cho ngươi biết, ta chờ đợi cuộc chiến nầy ngay từ hôm ta biết trên đời nầy có ngươi, ngay từ hôm ta biết, bà ấy còn có một đứa con riêng!

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Không lẽ phụ thân ngươi di ngôn trong mảnh huyết thơ kia, bảo ngươi phải quyết đấu với ta một lần?

Lưu Ảo Phu lắc đầu:

– Làm gì có? Chẳng những phụ thân ta không hề bảo ta cùng ngươi quyết tử chiến, trái lại người còn dặn dò ta phải tìm cho được ngươi, cùng ngươi hóa trừ mối hiềm khích ngày trước, người chúc phó ta phải xem ngươi như đồng bào cốt nhục ...

Quan Sơn Nguyệt vô cùng kinh ngạc, vụt kêu lên một tiếng «ạ», chàng chưa kịp nói gì, Lưu Ảo Phu lộ vẻ đanh ác, tiếp:

– Nhưng giờ đây, gặp ngươi, ta khiêu chiến, điều đó hoàn toàn tùy thuộc lý do cá nhân của ta. Bình sanh, ta nuôi cái chí quyết đấu với hai người, may mắn cho ta là ta khỏi phải tìm đủ hai người, bởi hai người mà ta quyết tử đấu đó, lại tập trung làm một, và người đó, chính là ngươi! Sự việc của ta cầm như được giản dị nửa phần.

Quan Sơn Nguyệt hết sức hoang mang. Nhưng, bản tính quật cường, khi nào chàng chịu kém, kẻ kia ngang nhiên khiêu khích, thì chàng cứ động thủ, sợ gì chứ?

Chàng rút thanh kiếm Bạch Hồng ra khỏi vỏ, cầm sẵn nơi tay, cao giọng thốt:

– Muốn đánh nhau, cứ đánh, hà tất phải là hai người, một người ...

Lưu Ảo Phu «hừ» một tiếng:

– Ta phải nói cho rõ ràng chứ, ngươi không muốn nghe, cũng có người khác muốn nghe!

Hắn giải thích luôn:

– Bình sanh, ta chỉ nhắm vào hai người mà thôi! Hai người đó, một là con trai của Vạn Tân Nguyệt, người con trai được cấu tạo bởi mối tình vụng trộm của mẹ ta, cái lý do rất giản đơn, bởi nhân sự có mặt của người đó trên đời nầy, mà ta mất chỗ tựa nương trong con tim của mẹ ta!

Nguyệt Hoa Phu Nhân đã tỉnh lại rồi, nghe hắn nói thế, vội thét lên:

– Ảo Phu, ngươi hồ đồ mất rồi! Những gì ta dành cho ngươi từ bao nhiêu năm qua, chưa đủ lắm sao?

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

– Đối xử tốt, là một việc, dành cho một chỗ nhỏ trong tim, là một việc khác, trong bao nhiêu năm qua, đành là mẹ có lo cho con, song cái lo đó rất tổng quát, người ta có thể đối xử với một dưỡng tử hơn thế nữa, mẹ ạ. Nhưng lòng của mẹ thì luôn luôn hướng về kẻ xa xăm, sở dĩ trong bao nhiêu năm qua, con còn được mẹ lo lắng cho, là vì kẻ xa xăm chưa về với mẹ. Ngày nay, kẻ xa xăm đã đoàn tụ với mẹ rồi, thì cái bóng của con vốn đã mờ, kể từ phút giây nầy, phải tiêu tan mất luôn. Nếu có một cái gì còn miễn cưỡng ràng buộc chúng ta, thì đó là lòng thương hại của mẹ và sự van xin của con. Con chỉ chực chờ những thừa thãi nơi mẹ.

Hắn mỉm cười, nụ cười chua chát làm sao, hắn tiếp:

– Sự thật là thế, có phải vậy chăng, mẹ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân sững sờ.

Lưu Ảo Phu hướng sang Quan Sơn Nguyệt, lạnh lùng tiếp:

– Người thứ hai, ta quyết tìm, mang cái tên Quan Sơn Nguyệt! Sự đời tấu xảo cho ta một cách lạ lùng, là con của Vạn Tân Nguyệt lại mang tên Quan Sơn Nguyệt!

Quan Sơn Nguyệt trố mắt nhìn hắn:

– Ta có làm gì ngươi, mà ngươi phải tìm ta, quyết tử đấu? Chúng ta từ trước chưa hề gặp nhau lần nào kia mà?

Lưu Ảo Phu càng lộ vẻ hung ác, gằn từng tiếng:

– Đành là chỉ mới hôm nay chúng ta chạm mặt nhau, song cái tên của ngươi chẳng phải lạ gì đối với ta, bởi ít nhất mỗi ngày, ta cũng có nghe Trương Thanh nhắc nhở đến tên ngươi năm bảy lượt. Ta có thể mở tung lồng ngực, cắt lấy quả tim trao cho nàng, nàng vẩn lẩm nhẩm cái tên của ngươi mãi, trong con mắt nàng, chỉ có một con người thôi, và con người đó chính là ngươi, là Quan Sơn Nguyệt, là Quan đại ca của nàng! Cho nên, một hôm ta phát trọng thệ, là nếu ta gặp ngươi tại đâu, ta nhất định khiêu chiến, ta quyết tử đấu với ngươi một lần thôi, qua cuộc tử đấu đó, phải có một người còn, một người mất ...

Quan Sơn Nguyệt đã hiểu.

Và Thị Thơ thay tên đổi họ cho chàng, cũng có dụng ý và Cầm Khiêu luôn luôn dặn dò chàng đừng bao giờ tiết lộ lai lịch, cũng có dụng ý. Thì ra, những dụng ý đó do một sự tình phát xuất từ lời thề nặng của Lưu Ảo Phu mà có!

Bất giác, chàng thở dài thốt:

– Lưu Ảo Phu, ta sẽ không từ khước một cuộc đấu với ngươi, nhưng ta có đấu với ngươi thì cuộc đấu đó dựa trên một nguyên nhân nào khác, chứ tuyệt nhiên không vì hai lý do mà ngươi vừa nêu ra. Bởi ...

Chàng nhấn mạnh:

– Ta không tranh giành lòng thương của mẹ, ta không tranh giành tình yêu của một thiếu nữ. Ta có thể chết vì bất cứ một sự việc nào, nhưng ta không liều mạng bởi những lý do mà chỉ bọn tiểu nhân nại ra để hậu thuẫn cho một cuộc tranh chấp!

Lưu Ảo Phu hét lớn:

– Thế ngươi có lý do gì?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:

– Nếu là ngày trước, thì có thể vì ngươi là con của Lưu Dật Phu, còn như hiện tại thì, ta thay mẹ mà giáo huấn ngươi, ta thay mẹ trừng trị một nghịch tử.

Lời nói của chàng rõ rệt một chánh khí, Lưu Ảo Phu nghe ra bất giác phải khiếp hãi.

Nhưng, sự khiếp hãi qua nhanh, hắn trở lại với cái tánh hung tàn, hắn cất cao ngọn kiếm quát:

– Dù cho ngươi dựa vào lý do nào, cuộc chiến giữa chúng ta không thể không diễn ra! Trong hai chúng ta, phải có một chết một sống! Nào cứ vào đi, ta chờ đây!

Hắn không chờ, chính hắn vung kiếm tiến tới.

Quan Sơn Nguyệt khoa kiếm, chận lại, cất giọng sang sảng:

– Ngươi lầm! Nếu trong hai chúng ta, có một chết một sống, thì người chết là ta! Hôm nay, ngươi có thể giết ta, chứ ta thì không hề giết ngươi! Ngày xưa phụ thân ta sử dụng một kiếm pháp lấy nhân đạo làm căn bản, ngày xưa, phụ thân ta đã dung tha cho phụ thân ngươi, thì ngày nay, ta không thể làm khác hơn phụ thân ta! Ta cũng dùng một kiếm pháp nhân đạo, ta cũng dung tha cho ngươi!

Lưu Ảo Phu sôi giận, chém luôn một nhát. Đồng thời, hắn rít lên:

– Câm ngay! Ta rất chán cái thứ giả nhân giả nghĩa! Nếu cha ngươi là người quân tử, thì chẳng bao giờ đi quyến rũ vợ người! Chỉ có hạng lưu manh mới dụ dỗ gái có chồng, ngươi biết chưa?

Lời nói đó phải làm cho Quan Sơn Nguyệt tức uất. Hắn nói chạm chàng, chàng còn tha thứ được, hắn nói chạm đến kẻ khuất mặt, lại là bậc sanh thành, thì khi nào chàng dung tha?

Cuộc chiến bắt đầu khai diễn thực sự.

Kiếm pháp của Lưu Ảo Phu cực kỳ ngụy dị, công lực của hắn cũng mãnh liệt vô cùng, Quan Sơn Nguyệt chống đỡ mấy chiêu đầu, cảm thấy chân khí tiêu hao quan trọng. Chẳng đặng đừng, chàng phải giở đến tuyệt kỹ «Đại La Tứ Thức» ra, đối phó với Lưu Ảo Phu.

Tuy «Đại La Kiếm Pháp» chuyên đối địch với «Tu La Kiếm Pháp», song vẫn có công hiệu như thường đối với bất cứ kiếm pháp nào.

Đưa ra hai chiêu «Càn Khôn Thỉ Định» và «Sơn Nhạc Vĩnh Kỳ», Quan Sơn Nguyệt dồn đối phương trở về thế thủ ngay, và Lưu Ảo Phu cảm thấy đường kiếm mất hẳn sự linh hoạt.

Kế đó, Quan Sơn Nguyệt phát xuất luôn chiêu «Bạch Hồng Quán Nhật».

Kiếm khí tỏa rộng ngoài nửa trượng tròn, bao bọc hẳn Lưu Ảo Phu.

Lưu Ảo Phu kinh hãi, không tưởng là đối phương tài nghệ cao siêu đến mức độ đó. Tự nhiên, hắn không có cách ứng phó kịp thời, và hắn đứng đờ ra đó, như chờ chết.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hoảng sợ, thét lên một tiếng lớn.

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt đâu có ý gây thương tổn cho Lưu Ảo Phu, nên chiêu thức vừa đưa ra, là chàng thu ngay lại.

Rồi chàng trầm giọng bảo:

– Quăng kiếm đi!

Lưu Ảo Phu cười lạnh, thay vì buông kiếm, hắn lại cử cao lên, từ thanh kiếm, phát xuất một luồng kình lực mãnh liệt vô cùng.

Hắn cử kiếm rất nhanh, trong lúc Quan Sơn Nguyệt dừng tay, thành ra Quan Sơn Nguyệt không làm sao xoay trở kịp, thanh kiếm Bạch Hồng bị bắn vuột khỏi tay chàng, bay đi rất xa.

Liền theo đó, Lưu Ảo Phu hoành kiếm, công tới.

Bắt buộc, chàng phải lùi lại.

Lưu Ảo Phu tiến lên, quát:

– Nằm xuống ngay!

Nhát kiếm của Lưu Ảo Phu đã xuống quá gần.

Quan Sơn Nguyệt nhắm mắt chờ chết.

Đang cơn chàng tất tử vô sanh, một bóng người từ xa lao vút đến, một đạo thanh quang chớp lên, một tiếng xoảng vang theo, thanh kiếm của Lưu Ảo Phu bị ngăn chặn, bật trở về.

Nghe tiếng xoảng, Quan Sơn Nguyệt giật mình, mở mắt ra thấy Đạn Kiếm can thiệp cứu chàng.

Lưu Ảo Phu phẫn nộ cực độ, hét to:

– Đạn Kiếm! Ngươi to gan lắm đấy!

Đạn Kiếm không thốt tiếng nào, cứ vung kiếm tấn công luôn.

Lưu Ảo Phu cười lạnh, hoàng ngang ngọn kiếm, quét một vòng. Ánh kiếm vừa chớp, máu bắn tung tóe, nhát kiếm của hắn chém đứt người Đạn Kiếm làm hai đoạn.

Lưu Ảo Phu hạ sát Đạn Kiếm rồi, chẳng dừng tay, thuận thế chém luôn Quan Sơn Nguyệt.

Một loạt tiếng rú vang lên, Cầm Khiêu, Tư Kỳ, Nhập Hoạch, Thị Thơ đồng thời xuất thủ, quyết cứu Quan Sơn Nguyệt.

Lưu Ảo Phu không hề nao núng, vung kiếm ngăn chặn bốn phía.

Trong khi đó, Nguyệt Hoa Phu Nhân và Bạch Thiết Hận cũng phát động rồi, họ đâu có thể điềm nhiên ngồi chờ một kết cuộc thê thảm?

Cái chết của Đạn Kiếm đã quá đau thương, họ không thể để cho cảnh đó tiếp diễn nữa!

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhanh hơn, bà vừa lướt tới, vừa phất ống tay áo.

Tay áo bay ra, quấn ngọn kiếm của Lưu Ảo Phu, bà khẽ giật, bạt ngọn kiếm lệch ra ngoài.

Bạch Thiết Hận tiếp nối, vung tay đánh ra một quyền, quyền phong đẩy Lưu Ảo Phu thoái hậu hai bước.

Lưu Ảo Phu cười rợn, nghiến răng, trầm giọng:

– Tốt lắm! Tất cả đều chống đối ta!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hét lớn:

– Ảo Phu! Ngươi ...

Lưu Ảo Phu chẳng nói gì nữa, quay mình, thoát ra ngoài cửa.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 40

Những Nỗi Bất Bình

Bạch Thiết Hận lập tức phóng mình lao vút theo ra, vượt qua mặt Lưu Ảo Phu, chận hắn lại, đồng thời vung tay đánh một quyền.

Lão ngăn chặn, chưa chắc gì Lưu Ảo Phu chịu dừng chân thoái hậu, chính tay quyền của lão bắt buộc Lưu Ảo Phu phải lùi lại.

Hắn quắc đôi mắt bắn hàn quang sang Bạch Thiết Hận, lạnh lùng hỏi:

– Lão gù quỷ, ngươi muốn gì?

Bạch Thiết Hận hét:

– Lão phu muốn đánh chết tiểu súc sanh!

Lưu Ảo Phu bĩu môi:

– Phải đấy! Nên nhân dịp hôm nay có đông người, các ngươi ra tay là hợp lúc lắm! Chứ để cho ta sống sót thì hẳn là trong tương lai tất cả sẽ khổ vì ta!

Bạch Thiết Hận thét lớn:

– Câm ngay, tiểu súc sanh! Giết ngươi là việc dễ dàng như lão phu trở một bàn tay, cần gì phải có đông người trợ giúp!

Lưu Ảo Phu bật cười ha hả:

– Lão gù ơi, đừng khoe khoang cực độ, ta nghĩ nếu ngươi quả có thực tài thì ngày trước hẳn không bại liên miên nơi tay phụ thân ta, ta vẫn thừa sức tiếp nhận một cuộc tử chiến với ngươi! Ta có sợ chi ngươi đâu mà hòng dọa nạt?

Niềm phẫn nộ bốc mạnh, đôi mắt đổ lửa, Bạch Thiết Hận không còn nhìn rõ sự vật gì trước mặt, đúng hơn là lão không nhìn vật gì khác ngoài Lưu Ảo Phu, lão cứ nhắm cái duy nhất hiện ra nơi tầm mắt lão mà vung quyền đánh tới tấp. Quyền phong rít vù vù, quyền ảnh chớp chớp, ngàn muôn nắm tay tạo thành một màng lưới bao bọc quanh Lưu Ảo Phu.

Lưu Ảo Phu khi nào chịu kém, lừa thế thoát ra khỏi vòng áp lực của quyền phong, đoạn vung tay phản kích kịch liệt.

Bạch Thiết Hận kinh ngạc, thoái hậu mấy bước, hét to:

– Tiểu súc sanh! Ngươi học ở đâu cái công phu đó chứ?

Lưu Ảo Phu cười lạnh, không đáp, cứ phản kích đều đều. Không đầy một phút, hắn đánh trả hơn mười chiêu. Những chiêu thức của hắn đưa ra, cực kỳ ngụy dị, lại nhanh không tưởng nổi.

Tuy nhiên, Bạch Thiết Hận không ngán gì môn công của Lưu Ảo Phu, bất quá lão kinh ngạc nhận ra ngày nay Lưu Ảo Phu đã tiến bộ lạ lùng vậy thôi, so với trước, hiện tại hắn hầu như hoàn toàn khác biệt, mường tượng là hai người.

Lão thi triển quyền pháp cũng linh động phi thường, giữ thế quân bình, rồi thừa một sơ hở của Lưu Ảo Phu, đánh tới một chiêu độc. Nhưng, cái chiêu đó có hình thức thông thường, gia dĩ Bạch Thiết Hận lại đánh ra rất chậm.

Lưu Ảo Phu bật cười khanh khách:

– Cái chiêu dằn túi áo của ngươi đó phải không? Ngươi mang nó ra dùng, chẳng sợ sạch túi hay sao chứ?

Hắn đứng đờ ra đó, khinh thường, không buồn làm một động tác gì khi chưa cần thiết lắm.

Tay quyền của Bạch Thiết Hận dù chậm, mà vẫn kích tới từ từ, cuối cùng còn cách Lưu Ảo Phu không hơn hai thước.

Dùng quyền pháp, trong một khoảng cách đó, đương nhiên là chẳng cần để tay chạm vào mình đối phương. Đánh như thế, là bằng vào quyền phong, chính quyền phong mới làm cho đối phương thọ thương. Và cái đích của quyền phong phải là một huyệt đạo yếu hại, chứ chẳng thể trúng vào bất cứ một nơi nào.

Khoảng cách đó vừa tầm dự định của Bạch Thiết Hận, lập tức lão phát xuất kình đạo. Kình đạo tuy vô hình, song lúc phát ra lại bật thành âm thanh ầm ì như sét, như sấm động xa xa, gầm chuyển trong không gian. Kình đạo dồn không khí, biến thành sóng, xao xao dợn dợn, nhìn ngang qua lớp không khí dao động, người ta có cảm tưởng đất trời lung linh.

Bỗng, Lưu Ảo Phu ngã ngửa thân mình, nằm dài theo mặt đất, nhường cho đạo kình lực lướt qua.

Kình lực trượt bên trên cái đích, quét tới mảng tường gần đó, làm rung chuyển luôn bức tường.

Bằng một thân pháp cực kỳ ảo diệu, Lưu Ảo Phu chỏi tay xuống đất lấy đà, vọt xuôi mình theo mặt đất, đến Bạch Thiết Hận, đồng thời dang hai chân ra tạo thành một miệng kềm, khép lại hai bên chân Bạch Thiết Hận. Hai chân của hắn hơi lệch chiều, hai chân đó siết vào nhau như hai lưỡi kéo nhấp.

Nếu Bạch Thiết Hận không có biện pháp tránh khỏi cái nhấp đó, thì đôi chân của lão phải bị tiện lìa.

Đúng là một chiêu công hy hữu, bình sanh Bạch Thiết Hận chưa hề thấy nhân vật nào sử dụng đến nó. Dĩ nhiên, lão không thể suy nghĩ ngay cách hóa giải, chỉ một thoáng sững sờ lão cũng bị Lưu Ảo Phu kẹp cứng đôi chân.

Cũng may, hắn chưa dụng lực siết ngược đôi chân, nhưng hắn kẹp như vậy cũng đủ làm cho Bạch Thiết Hận ngã ngang người qua một bên.

Nhờ ngã xuống, lão rút đôi chân khỏi gọng kềm của Lưu Ảo Phu, lão phải lộn người thêm mấy vòng nửa, rời xa vị trí hơn sau thước, cố gượng lắm mới dừng lại. Tuy bị quật ngã, Bạch Thiết Hận vẫn không việc gì.

Lưu Ảo Phu lúc đó đã đứng lên rồi, thấy Bạch Thiết Hận vô sự hắn hết sức lấy làm lạ. Hắn nhếch nụ cười lạnh thốt:

– Khá lắm đó, lão gù! Ta không ngờ ngươi cũng có một chút ít tài năng, ngươi lại thoát chết được với cái chiêu «Kim Giao Tiễn Cước» của ta!

Bạch Thiết Hận nghiến răng, niềm căm phẫn sôi bừng, râu tóc dựng ngược, không biết lão vận kình thế gì mà xương của lão bật kêu lên rắc rắc.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thấy thế, rút thất thanh:

– Đà Ông! Xin nể mặt già, buông tha cho súc sanh ...

Bạch Thiết Hận cười gằn:

– Hắn đã quật ngã lão phu, có ai nghĩ đến lão chăng? Hắn cũng là tay khá, hắn thi thố bản lĩnh của hắn, chứ đâu phải cuồng vọng? Hắn có lý do tự hào, thì cứ để hắn tự hào luôn, đừng nói đến hai tiếng buông tha, phu nhân!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp thốt:

– Dù sao thì hắn cũng còn nhỏ tuổi, Đà Ông ơi! Đà Ông không thể vì tình già mà nương tay một chút sao?

Bạch Thiết Hận «hừ» một tiếng:

– Ai đền bù cái ngã cho lão phu chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhận ra điều đó, vội quay sang Lưu Ảo Phu, gọi hắn:

– Súc sanh, bước lại tạ lỗi với Bạch bá bá đi! Ngươi chưa phải là đối thủ của Bạch bá bá đâu, nếu để cho bá bá phát xuất «Phá Ngọc Quyền Pháp», thì cầm chắc là ngươi mất mạng đó nhé!

Dù là thốt với con trai bà, bà lại có vẽ khẩn cầu, điều đó chứng tỏ bà rất hiểu «Phá Ngọc Quyền Công» của Bạch Thiết Hận rất lợi hại, bà không muốn Lưu Ảo Phu chuốc lấy thảm bại. Nhất là cuộc tranh chấp hôm nay không có lý do chánh đáng, thì bằng mọi giá, tất cả mọi người phải cố tránh sự đáng tiếc xảy ra.

Bà cũng biết, cái quyền của mẹ đối với con chẳng còn hiệu lực trước một Lưu Ảo Phu ngoan cố, ngỗ nghịch, cho nên bà phải dùng đến giọng tha thiết van cầu.

Nhưng, làm gì Lưu Ảo Phu nghe bà? Đang lúc huyết khí phương cương, mọi hoạt động đều do lòng hiếu thắng chi phối, nghe mẹ ca tụng đối phương, bảo hắn tạ lỗi là có khác nào mẹ khinh thường hắn? Cái gì, hắn cũng chịu nổi, chứ cho rằng hắn kém đối phương, là chẳng làm sao hắn tiêu hóa được.

Hắn bật cười ngạo nghễ:

– Con trai của Lưu Dật Phu chỉ biết có mỗi một việc chết mà thôi, chứ chẳng bao giờ khuất mình tạ tội trước bất cứ ai!

Bạch Thiết Hận quát to:

– Phu nhân có nghe hắn nói đó chăng? Thế thì đừng trách lão phu hạ độc thủ đấy!

Lão đánh ra một quyền, chiêu thức đưa ra, rất bình tịnh, không gây một tiếng động nhỏ.

Lưu Ảo Phu nói cứng, song hắn vẫn gờm lão. Hắn biết là chiêu quyền đó rất lợi hại. Trước khi Bạch Thiết Hận xuất thủ, hắn đã chuẩn bị rồi. Chiêu thức của Bạch Thiết Hận vừa phát xuất, hắn chúi mình tới, tay nắm chắc đầu bàn chân, đưa lưng chịu cho Bạch Thiết Hận đánh trúng.

Cách biểu hiện một kháng lực trước chiêu công của đối phương, kể ra cũng ngụy dị.

Bàn tay của Bạch Thiết Hận chạm lưng hắn, như chạm vào một lớp lông dày.

Lạ lùng thay, lão không nghe một phản ứng nào cả!

Còn Lưu Ảo Phu sau khi bàn tay của Bạch Thiết Hận chạm trúng lưng, liền lăn tròn trên mặt đất, như cái quay.

Bạch Thiết Hận rít lên:

– Được lắm! Tiểu tử! Hãy tiếp thêm một chiêu nữa.

Nhưng, lão chưa kịp tấn công, Lưu Ảo Phu từ mặt đất tung mình lên không, cao hơn trượng, từ bàn tay hắn, bắn ra một đạo hồng quang, rực sáng chóa mắt, đạo hồng quang chiếu xuống đầu Bạch Thiết Hận.

Thì ra, nhân lúc hứng chiêu quyền của Bạch Thiết Hận, Lưu Ảo Phu đã liếc về nơi thanh kiếm của hắn bị Nguyệt Hoa Phu Nhân dùng ống tay áo cuốn văng ra xa, hắn ức độ khoảng cách, cấp tốc lăn mình đến đó, chụp thanh kiếm, lấy đà vọt lên cao, đoạn vung kiếm chém xuống.

Hắn thừa hiểu quyền pháp Phá Ngọc của Bạch Thiết Hận cực kỳ lợi hại, bằng mọi cách hắn phải chiếm tiên cơ mới có hy vọng áp đảo lão ta.

Bạch Thiết Hận khinh thường, cười lạnh, ung dung phát xuất chiêu thức.

Lưu Ảo Phu chưa đáp xuống vội xoay chiêu kiếm, quét rộng ra một vòng, định hóa giải chiêu quyền của Bạch Thiết Hận. Ngờ đâu, cái chiêu của lão ta, là một hư chiêu, thành thử Lưu Ảo Phu quét vòng kiếm vô ích.

Nếu hư chiêu đi trước, thì thực chiêu sẽ nối theo liền, biết vậy nên Lưu Ảo Phu đâm lo. Chiêu thực bay ra, hắn không đón đỡ kịp, bắt buộc hắn phải liều đâm thẳng mũi kiếm tới.

Bạch Thiết Hận giữ vững ấn quyết, hét lớn:

– Ngã!

Lưu Ảo Phu bị quyền phong hất tung trở lên không, mà Bạch Thiết Hận cũng hú vía vì suýt chết.

Thanh kiếm của Lưu Ảo Phu chưa đến gần Bạch Thiết Hận, kiếm khí từ mũi kiếm bắn ra, Bạch Thiết Hận đã đoán trước như vậy, nên đánh xong quyền là lùi lại nhanh, thế mà vẫn không kịp, kiếm khí phớt qua hàm râu, cắt mất một đoạn.

Bị quyền phong bật tung lên, uốn cầu vồng, Lưu Ảo Phu thấy trước mắt có bức tường chắn ngang, nếu không kịp tránh là hắn phải chạm người vào đó. Hắn vội vươn kiếm, đâm tới, kiếm khí bay ra, bắn vở một mảng tường, theo lỗ trống, hắn vọt mình luôn ra ngoài.

Bạch Thiết Hận nổi giận, lao mình vút theo.

Quan Sơn Nguyệt và Nguyệt Hoa Phu Nhân cũng cấp tốc theo sau.

Lưu Ảo Phu đang gắng gượng đứng lên giữa đống gạch vụn, hai bên miệng hắn, máu hắn rỉ dài xuống cằm.

Bạch Thiết Hận hét to:

– Tiểu súc sanh! Lão phu không thể tha ngươi được!

Lão vung tay, toan đánh ra một quyền.

Một bóng người chớp lên, hiện ra trước mắt lão, ngăn chặn chiêu phát xuất.

Người đó chính là Quan Sơn Nguyệt.

Bạch Thiết Hận nổi giận, quát:

– Ngươi làm gì thế, tiểu tử?

Quan Sơn Nguyệt nhẹ nhàng:

– Buông tha cho hắn đi, bá bá!

Bạch Thiết Hận gắt:

– Ngươi nói sao? Ta phải buông tha cho tiểu súc sanh?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên, gật đầu:

– Phải, bá bá! Tiên phụ bại nơi tay gia gia hắn mà ôm hận về chốn suối vàng, nếu bá bá giết hắn, tiên phụ không thể nào nhắm mắt!

Bạch Thiết Hận chẳng hiểu chàng muốn nói gì, cao giọng hỏi:

– Ý tứ của ngươi như thế nào? Ngươi nói hồ đồ thế, lão phu làm sao hiểu chứ?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:

– Thọ nhục vì kiếm, chỉ có kiếm mới rửa được cái nhục đó. Lưu Dật Phu chết, may mắn thay, lão ta còn có một đứa con và đứa con đó hiện còn sống, giả như tiểu điệt không giết hắn nổi, thì tiểu điệt có tội với người khuất mặt, và cái nhục của tiên phụ phải do lưỡi kiếm của tiểu điệt rửa sạch, chắc bá bá cũng hiểu như vậy và đồng ý chứ?

Dĩ nhiên, Bạch Thiết Hận phải hiểu, và cũng đồng ý. Nhưng rồi lão hỏi:

– Mà ngươi liệu có làm nổi việc đó chăng?

Quan Sơn Nguyệt vẫn dùng giọng trang nghiêm giãi bày:

– Bá bá đã chứng kiến cuộc động thủ giữa tiểu điệt với hắn vừa qua, hẳn bá bá cũng thấy rằng, về kiếm pháp, tiểu điệt không kém hắn, bất quá hắn dùng một kiếm pháp rất quái dị, lần đầu tiên tiểu điệt chưa nhận định những chiêu thức của hắn biến hóa như thế nào, do đó hắn đắc chí vậy thôi. Nếu tái đấu, tiểu điệt nhất định không thất thế như trước nữa đâu! Huống chi, tiểu điệt đã nương tay cho hắn khi tiểu điệt tạo được áp lực kia mà!

Bạch Thiết Hận buông xuôi tay xuống, thở dài:

– Được! Lão phu đáp ứng tạm thời buông tha cho hắn, dành hắn lại đó cho ngươi. Ngươi nên nhớ là tiểu súc sanh cực kỳ gian trá, phải đề phòng cho lắm mới không mắc kế hắn đấy. Nếu ngươi khinh thường thì hậu quả rất tai hại, mà cũng đừng oán trách là lão phu không đề tỉnh ngươi trước.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Tiểu điệt hiểu. Bá bá yên trí, tiểu điệt chẳng bao giờ oán trách bá bá đâu!

Lưu Ảo Phu xốc thanh trường kiếm cho thuận tay, sẵn sàng chờ Quan Sơn Nguyệt tấn công.

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, thốt:

– Ngươi thọ thương rồi, nếu tái đấu bây giờ, ta có thắng ngươi, ngươi cũng bất phục. Đừng nóng nảy, cứ lo dưỡng thương thế đi, khi nào ngươi cảm thấy công lực dồi dào như cũ, thì chúng ta sẽ tử chiến với nhau một lần!

Lưu Ảo Phu không nói gì, lặng lẽ quay mình bước đi. Thoạt đầu, hắn còn vững bước, đi độ mấy bước, hắn chao chao mình, chừng như thương thế của hắn nặng lắm, hắn không còn đủ sức chi trì.

Nguyệt Hoa Phu Nhân chạy tới dìu hắn, hắn hoành kiếm chận lại, trầm giọng thốt:

– Bà đừng lại gần tôi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân sửng sốt:

– Ảo Phu! Đến mẹ ngươi mà ngươi cũng không nhìn nhận nữa sao?

Lưu Ảo Phu há miệng phun ra một búng máu tươi, cao giọng đáp:

– Đợi khi nào bà chết rồi, tôi sẽ đến trước mộ bà, cúi đầu đáp tạ công ơn sanh dưỡng của bà. Một ngày bà còn sống, là một ngày tôi không muốn thấy bà.

Nguyệt Hoa Phu Nhân khóc ròng. Trước thái độ của Lưu Ảo Phu, bà còn nói gì được nữa?

Lưu Ảo Phu cố gắng dằn cơn đau đang sôi động càng phút càng dâng cao, vẫy vẫy tay:

– Phi Tràng! Lại đây, dìu ta xuống núi!

Phi Tràng bước tới, gương mặt sầu thảm nặng nề, đưa tay nắm lấy cánh tay Lưu Ảo Phu, hỏi:

– Công tử muốn xuống núi?

Lưu Ảo Phu hừ một tiếng:

– Đương nhiên là xuống núi! Ngươi tưởng ta còn có thể lưu lại đây được nữa sao?

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp hỏi:

– Ngươi nói gì thế, Ảo Phu?

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

– Nơi đây, là tổ ấm của bà và Vạn Tân Nguyệt, nơi đây chứa chất biết bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của bà và Vạn Tân Nguyệt, đâu còn chỗ nào trống trải cho tôi dung thân? Họ Lưu nầy không có tư cách ở đây đâu, bà!

Nguyệt Hoa Phu Nhân khóc rống lên, thê thảm cực độ.

Trong khi đó, Phi Tràng bước từng bước, từng bước, đưa Lưu Ảo Phu xuống núi. Nàng không hề quay đầu nhìn lại.

Nguyệt Hoa Phu Nhân bừng tỉnh trở lại, bà toan chạy theo, gọi Lưu Ảo Phu, khuyên hắn không nên đi đâu cả. Cầm Khiêu ôn tồn khuyên ngăn bà:

– Nên để cho công tử đi là hơn, phu nhân! Công tử không muốn ở lại đây, có lẽ vì một lý do khác, chứ chẳng phải quyết liệt với phu nhân đâu!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lấy làm lạ:

– Lý do gì?

Cầm Khiêu thở dài:

– Vì Trương cô nương, công tử mới bỏ đi như thế!

Nguyệt Hoa Phu Nhân giật mình. Bà day qua, nhìn Quan Sơn Nguyệt, gương mặt đượm vẻ u buồn, bà lắc đầu, thở dài lẩm nhẩm:

– Tại sao con không là Minh Thiên Lý thật sự đi, tại sao con lại là Quan Sơn Nguyệt?

Bà hỏi như thế, chỉ có trời mới đáp được, Quan Sơn Nguyệt còn biết ăn nói làm sao?

Nếu chàng không là Quan Sơn Nguyệt, thì làm gì có việc nhận con, nhìn mẹ, làm gì có việc Lưu Ảo Phu hận thù? Làm gì có tất cả những việc vừa rồi, xảy ra?

Mà cũng làm gì có việc chàng phải vượt nghìn dặm dài, tìm đến đây? Tuy nhiên, chàng cũng biết cái ý của bà!

Bà thở than tại sao con của Vạn Tân Nguyệt và người yêu của Trương Thanh, chẳng phải là hai người, mà lại tập trung vào mỗi một mình chàng! Chàng thông cảm nổi niềm của mẹ, trái lại Bạch Thiết Hận hết sức hân hoan.

Lão cười hì hì, mặc cho phu nhân sa sầm giận mình, lão thốt oang oang:

– Phu nhân ơi! Phu nhân hằng nhớ nhung, mong đợi đứa con, lão phu chẳng quảng gian lao, tìm đến cho phu nhân, từ bao lâu nay, phu nhân vẫn sống với một đứa con, bây giờ đứa con ngỗ nghịch bỏ đi, liền có đứa khác thay vào, phu nhân có tổn thất chi đâu mà phải ưu tư sầu khổ? Huống chi, mất một đứa vô dụng, được một đứa hữu tài, như thế phu nhân có lợi chứ không thiệt hại ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân lau lệ, thở dài:

– Đà Ông không hiểu già đâu! Già, là một nữ nhân, là mẹ, có mẹ nào cầm lòng được khi mất một đứa con, cho dù nó là một đứa ngỗ nghịch? Bởi nó là giọt máu mà già cưu mang suốt mấy tháng dài, già nuôi dưỡng qua bao nhiên năm gian khổ, già giáo huấn nó với trọn vẹn thiết tha ... Không có cái gì thay thế trong lòng người mẹ khi tấm lòng đó trống vắng hình bóng một đứa con!

Bạch Thiết Hận trừng mắt:

– Nói như thế, là phu nhân không thừa nhận tiểu tử này!

Phu nhân hấp tấp khoát tay:

– Sai! Đà Ông không hiểu câu nói của già.

Đoạn, bà thở dài, tiếp:

– Đối với đứa con cách biệt từ ngày nó còn bé bỏng, già nầy luôn luôn tha thiết mong chờ ngày trùng phùng. Bây giờ mẹ con gặp lại nhau, đương nhiên già cao hứng lắm. Nhưng, cao hứng vì một đứa con, chẳng có nghĩa là phải bỏ một đứa con, sự cao hứng không thể là một cuộc đổi thay, bằng lòng với con mới, quên đi con cũ. Do đó, già không thể để mất Ảo Phu, bởi dù nó có ra sao đi nữa, nó vẫn là giọt máu của già, do già cưu mang, già sanh hạ, già nuôi dưỡng, giáo huấn qua bao nhiêu năm dài. Nó là cốt nhục của già, nó là con của già, phàm trên đời từ cổ chí kim, chẳng có mẹ nào lại không thương con, dù là một đứa con bất hiếu! Hận nó thì có, ghét bỏ thì không! Nếu có trường hợp cha mẹ từ con, thì chẳng qua đó là một hình thức chứng minh sự phủ nhận hành vi của đứa con, bất bình tư cách đứa con, chứ trong thâm tâm, cha mẹ nào cũng tưởng nhớ đến con, dù nó hư hỏng cực độ!

Bạch Thiết Hận giật mình, đưa tay vuốt chòm râu đã đứt mất một phần, thốt:

– Phu nhân nói thế, lão phu tạm thời chấp nhận như thế, chứ thực ra, lão phu cũng chẳng hiểu làm sao cả. Bởi, lão phu là một con người đơn độc, cha mẹ không còn, suốt đời không lấy vợ, nên chẳng sanh con, thì cái sự ân tình cha mẹ đối với con và ngược lại, lão phu không thông cảm được! Bây giờ, chúng ta nên xem qua bức huyết thơ của Lưu Dật Phu, xem lão ấy lưu lại lời gì?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cúi đầu, mặc cho lệ thảm tuôn tràn, chân nặng như đeo đá, bà đứng nguyên tại chỗ, đôi mắt mơ màng vọng qua màn lệ, xuống chân núi xa xôi.

Lưu Ảo Phu và Phi Tràng đã khuất dạng từ lâu.

Và bà đứng đó đã lâu lắm, mới đặt tay lên vai Quan Sơn Nguyệt, theo chàng trở lại đại sảnh.

Vuông lụa do Lưu Ảo Phu quăng ra, còn nằm tại chỗ, trên nền. Vuông lụa ngả màu, vàng vàng, chứng tỏ nó được giữ gìn từ lâu lắm rồi, nó có cái số tuổi suýt soát với Lưu Ảo Phu.

Họ đã vào đến đại sảnh, song chưa ai nghĩ đến việc nhặt nó lên xem, mặc dù Bạch Thiết Hận có nhắc đến nó.

Bạch Thiết Hận do dự một chút, gọi Quan Sơn Nguyệt:

– Hiền điệt nhặt lên, đọc cho biết ...

Quan Sơn Nguyệt nhìn qua Nguyệt Hoa Phu Nhân.

Phu nhân gật đầu, chàng bước tới, nhặt vuông lụa lên, trao qua phu nhân.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

– Mẹ không xem được đâu, con cứ đọc cho mọi người nghe.

Cầm Khiêu, Thị Thơ, Nhập Hoạch, Tư Kỳ chuẩn bị bước ra ngoài.

Nguyệt Hoa Phu Nhân khoát tay:

– Việc ngày xưa, các ngươi đã biết rõ, có ở lại đây mà nghe, cũng chẳng quan hệ gì.

Năm người vâng một tiếng, rồi đứng lại, giữ sự nghiêm trang.

Quan Sơn Nguyệt từ từ đọc:

«Lưu bút cho Ảo Phu con!

Cha chết, cha mang theo một nỗi bất bình nặng nề, nếu cha cần nói rõ vì sao cha chết, thì cha phải nhắc lại sự việc xa xưa, mà nhắc đến việc xa xưa, là lòng cha thêm đau đớn, trong khi ngàn cái đau đớn đang dày vò cha, tất cả đều giục cha chết gấp!

Con muốn biết rõ sự thực? Con cứ hỏi Phi Tràng! Nó biết tận tường, nó trung thành với cha, nó sẽ nói hết cho con hiểu.

Đời cha, cha có ba điều hận.

Vạn Tân Nguyệt là đầu mối họa, mà Bạch Thiết Hận lại trợ giúp kẻ hung ác, loại trừ cha!

Song, cả hai dù sao, cũng là ngoại nhân, con ạ.

Ngoại nhân, họ có quyền chống đối lại cha, họ có quyền giở mọi thủ đoạn, để đoạt thắng lợi, họ vẫn là cừu nhân của cha, song họ có cái lý do trở thành cừu thù của cha, cho nên trong việc báo thù, con có thể giết họ, chỉ giết họ là đủ.

Cái điều mà cha không tiêu hóa nổi, cái điều mà dù chết ngàn kiếp, cha không quên được là mẹ con! Cha nói cái điều, chứ không nói cái người, là vì người dù sao cũng là mẹ con, người đáng hận nhưng cũng có thể dung tha. Còn như cái điều mà mẹ con đã làm, thì thật là không thể tha thứ được. Giả như, cha có thể giết được mẹ con, thì thật ra, cha không phải giết một người, mà chính là cha giết chết nguồn cội phát xuất ra cái điều đáng hận đó. Mẹ con là nguồn cội của cái điều đó, thì đúng là cái kiếp số của bà ta! Mỉa mai chưa con?

Cha lâm bịnh, nằm giường, mẹ con một lòng vì kẻ khác, thiết tha tưởng nhớ kẻ khác, khiến cha phải phẫn nộ, ôm bịnh đến ngày cuối cùng không phương chữa trị nổi!

Cha giận bà ta, song cha còn thương bà ta, nên không muốn con hạ thủ giết mẹ, bởi làm thế là con bội nghịch luân thường, trời sẽ tru, đất sẽ diệt. Cha bảo với con như thế nầy:

Mẹ con lấy Vạn Tân Nguyệt, sanh hạ một đứa con trai, hắn lớn hơn con hai tuổi. Bà ta nhớ thương đứa con đó lắm, bà ta cũng nhớ luôn người tình ấy lắm, vậy con hãy sát hại Vạn Tân Nguyệt, mang lão ta đến trước mặt bà, mổ bụng móc tim lão ta, chà đạp tim lão ta trước mặt bà, cho bà vĩnh viễn khổ đau và sống trong khổ đau đến ngày cuối đời.

Lúc cha dạo chơi miền hải ngoại, cha có thu nhặt được những pho bí kíp chỉ dẫn về quyền và kiếm, trở về nhà, cha không có thì giờ luyện tập, nên giấu kín một nơi, chỉ có mỗi một mình Phi Tràng biết được chỗ dấu mà thôi. Khi con được mười lăm tuổi, gân cốt cứng rồi, hãy tìm nơi vắng vẻ y theo những pho bí kíp đó mà tập luyện, trong mười năm, con sẽ thành công. Đến lúc đó, con hãy nghĩ đến việc báo thù. Nên nhớ là khi học nghiệp chưa xong, thì đừng nên vọng động. Bởi, Vạn Tân Nguyệt và Bạch Thiết Hận có bản lĩnh siêu phàm, con tuyệt đối phải ẩn nhẫn, ngược lại là con sẽ mất mạng với bọn đó đấy nhé! Con mất mạng, là thù cha không được báo, là cha sẽ ôm hận vĩnh viễn nơi tuyền đài! Nhớ nghe con!

Cái người gây thương thế cho cha, là một lão bà tướng mạo cực kỳ xấu xí, kiếm thuật rất cao, khi nào con học thành tài rồi, hãy tìm bà ấy, báo thù một nhát kiếm cho cha. Gặp bà ấy, con dùng Tam Dương Thần Công của Xích Hà Giáo, con khắc chế bà ta dễ dàng ...» Quan Sơn Nguyệt đọc xong, mọi người còn mơ màng, nghĩ ngợi xa xôi.

Mãi một lúc lâu, Nguyệt Hoa Phu Nhân buông nhẹ tiếng thở dài, thốt:

– Không ngờ Lưu Dật Phu căm hận sâu xa như thế! Trước khi chết, còn an bài cho con trai, làm những điều y không có thời gian làm!

Bạch Thiết Hận lộ vẻ ngạc nhiên, nói:

– Thảo nào mà vừa rồi tiểu tử chẳng chống trả nổi hai chiêu «Phá Ngọc Quyền Pháp» của lão phu! Thì ra, Lưu Dật Phu đã để lại cho hắn mấy pho bí kíp kỳ diệu! Lưu Dật Phu ức độ cho hắn một kỳ hạn mười năm, hắn bắt đầu tập luyện từ lúc lên mười lăm tuổi, năm nay hắn vừa đúng hai mươi bốn tuổi, thế là chỉ còn một năm nữa thôi, công phu của hắn sẽ thành tựu. Lúc đó, chỉ sợ lão phu không làm sao thủ thắng nổi, nếu hắn quyết tìm lão phu mà giải quyết chuyện ngày xưa!

Nguyệt Hoa Phu Nhân thừ người một lúc:

– Từ lúc nhỏ, hắn vẫn ở bên cạnh già, khi hắn được mười lăm tuổi, bỗng nhiên hắn yêu cầu ở riêng một mình, hắn lên đỉnh Chiết Quế Phong dựng nhà tại đó, già thấy hắn cũng đã lớn rồi, không tiện lưu hắn lại mãi mãi ở bên mình, nên không ngăn trở chi. Ngờ đâu, hắn tìm chỗ vắng vẻ, để luyện công!

Nhập Hoạch chen vào:

– Phải đó, phu nhân! Công tử cấm bọn tỳ nữ bén mảng đến đó, chỉ chấp thuận cho mỗi một mình Phi Tràng tới lui thôi! Cả hai ở tại đó, âm thầm luyện công.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

– Ngươi nói sai! Chỉ một mình Ảo Phu luyện tập, chứ Phi Tràng thì không!

Nhập Hoạch không tin:

– Không lẽ suốt mười năm dài, nàng ta bỏ dở vũ công, không hề luyện tập?

Nguyệt Hoa Phu Nhân thốt:

– Sau ngày từ hải ngoại trở về, Lưu Dật Phu tinh tiến lạ lùng, vũ công của y như đã đạt đến mực thập thành. Già có hoài nghi về điểm đó, song biết có hỏi, y cũng chẳng chịu nói thật cho ngươi. Lưu Dật Phu chết rồi, già tìm cách dọ thám nơi Phi Tràng, Phi Tràng cũng im lặng như Lưu Dật Phu. Nàng ấy cùng Lưu Dật Phu, rất thân cận nhau, mãi về sau nầy, già mới biết, họ giữ rất kín đáo sự thân mật đó suốt mấy năm qua ...

Nhập Hoạch trố mắt:

– Tại sao có sẵn những pho bí kíp vô giá như vậy, Phi Tràng lại không luyện?

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

– Có gì đâu, chẳng qua nàng quá thông minh, nàng thừa hiểu nếu có tập luyện môn công kỳ lạ, hẳn già sẽ khám phá ra ngay, nàng không tập luyện, cốt để bảo tồn trọn vẹn bí mật cho Ảo Phu.

Nhập Hoạch cau mày:

– Phi Tràng là thị tỳ của phu nhân, thế tại sao nàng ngầm giúp Ảo Phu, man trá cả phu nhân?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười khổ:

– Trong bọn các ngươi, Phi Tràng là người nhập môn trước hết! Trước khi Lưu Dật Phu chết, nàng ở cái lứa tuổi mười tám, mười chín, nàng là một cô nương, không còn nhỏ, nhưng chưa lớn lắm!

Nhập Hoạch giật mình:

– Phu nhân! Phu nhân muốn nói là Phi Tràng và Lưu ...

Nàng không dứt câu, song ai ai cũng hiểu nàng muốn nói gì ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân điểm một nụ cười:

– Phải! Nàng tư tình với Lưu Dật Phu! Lưu Dật Phu rất yêu nàng!

Nhập Hoạch phẫn nộ:

– Tại sao nàng làm như vậy được chứ? Sánh với phu nhân, nàng chỉ là một đóm lửa đem sánh với vầng trăng sáng ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại thở dài:

– Ái tình và nhan sắc là hai việc, Nhập Hoạch ạ! Lưu Dật Phu không tìm được ưu ái nơi già, tự nhiên y phải nhìn sang Phi Tràng, nếu Phi Tràng yêu y, thì ngược lại y cũng chẳng yêu gì nàng một cách chân chánh! Chúng ta cứ chấp nhận, Phi Tràng có vẻ ưa nhìn đối với Lưu Dật Phu đi, chính cái ưa nhìn đó mà mê hoặc Lưu Dật Phu, chứ thật sự không hẳn là Lưu Dật Phu yêu nàng tha thiết.

Nhập Hoạch hỏi:

– Phu nhân có biết việc đó chăng?

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:

– Biết!

Nhập Hoạch «hừ» một tiếng:

– Thế tại sao phu nhân dung dưỡng ...

Phu nhân trầm buồng gương mặt:

– Già tuy là vợ Lưu Dật Phu, song lại là vợ không tròn tiết hạnh, thì già còn nói làm sao được đến sự đổi thay của lòng người? Luôn luôn, già có mặc cảm của con người tội lỗi, càng nhìn mặt Lưu Dật Phu, già càng hổ thẹn. Hơn nữa, biết được Vạn Tân Nguyệt rồi, già nhận ra không còn yêu Lưu Dật Phu như trước. Nếu có kẻ nào thay thế già, bên cạnh Lưu Dật Phu thì già càng mầng, cầm như được thoát nợ, già khỏi phải miễn cưỡng làm phận sự một người vợ trong vấn đề ân ái, già có lợi chứ! Cho nên, già không phản đối, trái lại còn ngấm ngầm khuyến khích họ yêu nhau, càng công khai càng tốt!

Nhập Hoạch gật đầu:

– Thảo nào mà Phi Tràng chẳng dành trọn tâm tình đối với công tử! Nàng nhìn công tử, như thấy người xưa ...

Mọi người lại im lặng.

Thời khắc trôi qua ... lâu lắm, Bạch Thiết Hận cất tiếng:

– Hiện tại, đừng ai nói gì nữa về những việc đã qua, bởi có nói nhiều đến đâu, cũng chẳng ích lợi chi! Lưu Ảo Phu đã đi rồi, là cầm như hắn đi luôn, vĩnh viễn hắn không hề trở lại bên cạnh phu nhân đâu!

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:

– Nếu không có mặt Trương Thanh tại đây, thì may ra hắn còn trở lại, thăm già ...

Bạch Thiết Hận hấp tấp hỏi:

– Trương Thanh là ai? Mà việc gì đây chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

– Trương Thanh là một tiểu cô nương có dung nhan cực kỳ lộng lẫy, am tường y thuật, nàng cùng mụ họ Bành một hôm bất thình lình đến vùng núi non nầy, lúc đó, bịnh tim của già tái phát, Trương Thanh trổ tài, chữa trị cho già, phước cho chủ, mà cũng may cho thầy, già được lành bịnh. Nàng có nết na thùy mị, ăn nói dịu dàng, Ảo Phu si mê nàng cực độ. Già cũng rất mến nàng. Con thì mê, mẹ thì mến, đó là hai lý do khiến già cầm nàng ở lại núi. Già định sẽ thuyết phục nàng bằng lòng kết hôn với Ảo Phu. Ngờ đâu, con tim nàng đã có chủ ...

Bạch Thiết Hận cười lớn:

– Lão Phu hiểu rồi! Nàng yêu Quan Sơn Nguyệt là cái chắc! Phải mà, nàng không yêu hiền điệt của lão phu làm sao được chứ! Nhân phẩm của hắn như vậy đó, bảo sao nàng chẳng chọn hắn chứ! Còn như tiểu súc sanh Lưu Ảo Phu kia, thì có nghĩa gì bên cạnh Sơn Nguyệt? Có họa chăng Trương Thanh mù cả đôi mắt mới yêu tiểu súc sanh được!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại thở dài:

– Lưu Ảo Phu thì quá tha thiết với nàng, còn nàng thì luôn luôn mơ hoài đến Quan Sơn Nguyệt! Già chẳng còn biện pháp nào làm cho nàng xiêu lòng, đàng nhờ mụ họ Bành xuống núi tìm Quan Sơn Nguyệt ...

Bạch Thiết Hận cười lạnh:

– Phu nhân cho mụ Bành đi tìm Quan Sơn Nguyệt, hẳn là để giết hắn cho tuyệt tích luôn! Mục đích của phu nhân là thế?

Nguyệt Hoa Phu Nhân nín lặng, không thốt một tiếng nào.

Bạch Thiết Hận hỏi dồn:

– Sao phu nhân không đáp?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cắn răng:

– Phải! Quả thật lúc đó, già có ý ấy! Chỉ vì già không nỡ để cho Ảo Phu thống khổ. Làm mẹ, ai cũng thế, không ai muốn cho con phải khổ cả! Có người mẹ nào lại chẳng muốn tạo hạnh phúc cho con chứ?

Chừng như Quan Sơn Nguyệt có phần nào hận về cái ý của Nguyệt Hoa Phu Nhân, dù cái ý đó thuộc về dĩ vãng. Chàng trầm giọng thốt:

– Thào nào mà các vị đó chẳng bảo con dấu hẳn lai lịch!

Nguyệt Hoa Phu Nhân đảo mắt nhìn sang Cầm Khiêu, Tư Kỳ và Thị Thơ.

Cả ba cúi đầu, tránh ánh mắt của bà.

Quan Sơn Nguyệt cảm thấy hận lên nhiều hơn trước. Chàng tiếp luôn:

– Mẫu thân! Có lẽ con không nên phê bình mẫu thân, song mẫu thân hành động như vậy là không phải lắm! Phàm vấn đề tình cảm, chẳng phải miễn cưỡng mà nên chuyện, hơn thế, mẫu thân lại dùng đến một thủ đoạn bất chánh, nhân ưu thế mà toan lợi dụng ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân có ý thẹn:

– Mẹ làm sao biết được Quan Sơn Nguyệt chính là con của mẹ!

Quan Sơn Nguyệt buông luôn, lần này thì chàng để lộ liễu niềm căm hờn, không cần dè dặt, như đang đối thoại với một kẻ thù, chứ chẳng phải với một người sanh ra chàng:

– Không kể là mẹ có biết hay không biết, hành vi của mẹ rất đê hèn, giả như mẹ có giết được con đi nữa, giả như mẹ dùng quyền uy cưỡng ép sự kết hợp Lưu Ảo Phu và Trương Thanh, cái kết quả bao giờ cũng bi thảm, con dám chắc như vậy đó mẹ. Chính mẹ từng sống qua sự thử thách đó rồi, sao mẹ không rút kinh nghiệm của bản thân, mẹ lại toan tái diễn sự lầm lạc đó lên số phận của những người khác?

Nguyệt Hoa Phu Nhân biến sắc.

Bạch Thiết Hận thích chí bật cười ha hả. Cười một lúc, chưa đủ biểu hiện hứng thú, lão lại thốt:

– Cũng may! Lão phu đến đúng lúc! Chứ nếu không thì bao nhiêu việc đáng tiếc đã phải xảy ra rồi! Và thêm một lần nữa phu nhân ôm hận ngàn thu!

Nguyệt Hoa Phu Nhân còn nói gì được chứ?

Quan Sơn Nguyệt cảm thấy tức uất đến nghẹn ngào:

– Trương Thanh bây giờ ở đâu?

Nguyệt Hoa Phu Nhân đáp nhẹ:

– Tại biệt phủ! Con hãy đến đó gấp, để gặp nàng!

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Biệt phủ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:

– Lưu Ly Biệt Phủ.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» tiếp một tiếng:

– Mà ở đâu?

Thị Thơ bước tới:

– Thuộc hạ xin dẫn đường, cho đại công tử đến đó!

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu.

Quan Sơn Nguyệt vòng tay hướng về Thị Thơ:

– Đa tạ đại ca ...

Thị Thơ đi trước, Quan Sơn Nguyệt theo sau, vào phía hậu đại sảnh, đến con đường núi nhỏ, đi hơn dặm còn xa xa, Quan Sơn Nguyệt đã thấy một tòa kiếm trúc huy hoàng lồ lộ trên đỉnh non cao.

Tòa kiến trúc đó, huy hoàng vì sắc thái chứ chẳng do quy mô, bởi nó chỉ là một lâu các nhỏ, nó lại được dựng lên đơn độc hầu như chơ vơ giữa vùng mây trắng lững lờ.

Thị Thơ đưa tay chỉ:

– Tòa lâu các đó, là Lưu Ly Biệt Phủ đấy, công tử cứ lên một mình, thuộc hạ không tiện theo.

Giọng nói của Thị Thơ có vẻ khác thường, một giọng nói ẩn ước niềm phấn khởi song chừng như cũng có cái ý u buồn.

Quan Sơn Nguyệt nhìn thoáng qua y, thấy đôi mắt y long lanh, một vài hạt lệ vừa tan qua cái chớp của đôi mi, lệ biến thành một màn sương mờ che đôi mắt sáng. Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Đại ca làm sao thế?

Thị Thơ đưa bàn tay gạt vội mấy hạt lệ cài mi, thấp giọng đáp:

– Không có chi! Thuộc hạ cao hứng vì công tử, vì Trương cô nương, công tử và Trương cô nương là một đôi trời sanh ra để kết hợp với nhau, không có một lý do nào mà không gặp nhau được, không một động lực nào chia rẽ nhau được!

Công cuộc hôm nay, do tấu xảo mà thành, cũng do ý trời mà nên đó công tử ạ!

Thuộc hạ cao hứng vô cùng ...

Y vừa thốt, vừa rơi lệ, dù bàn tay y vét qua, lệ vẫn rơi, y vét hết hạt nầy, thì hạt khác lại trào ra, lệ trào mãi, lệ thấm âm thinh, tiếng nói của y dần dần sệt sệt ...

Quan Sơn Nguyệt thay vì cảm động, trái lại chàng lấy làm lạ, giục:

– Đại ca hãy nói thật với tại hạ đi! Lúc ở dưới chân núi, đại ca đã biết tại hạ là Quan Sơn Nguyệt, nhưng lại không hiểu sự liên quan của tại hạ và Nguyệt Hoa Phu Nhân, tuy vậy đại ca vẫn tìm cách giúp đỡ tại hạ lên núi, đại ca còn mạo hiểm bịa một tên giả cho tại hạ, che dấu lai lịch của tại hạ. Như vậy là phải có một nguyên nhân đặc biệt chứ?

Thị Thơ giật mình, trầm ngâm một chút, buông tiếng thở dài, đáp luôn:

– Nói cho công tử biết, cũng chẳng quan hệ gì. Cả Cầm Khiêu, Tư Kỳ và Đạn Kiếm cũng có tình cảm với Trương cô nương, chứ nào chỉ riêng một thuộc hạ ...

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

– Các vị ...

Thị Thơ nhếch nụ cười khổ:

– Bọn thuộc hạ hết sức ngưỡng mộ tiên dung của Trương cô nương, chứ không hề có một ý tưởng xấu xa, vô lễ. Chỉ vì Trương cô nương dành cho công tử một chân tình sâu hơn biển, cao hơn núi, do đó bọn thuộc hạ quyết liều sống chết, giúp cho cả hai được hội ngộ với nhau. Trương cô nương hoài niệm công tử ngày đêm, đã đến đây rồi, công tử hãy gấp lên đó gặp người xưa, an ủi nhau cho thỏa niềm tương tư mơ vọng ...

Y cúi đầu chào, rồi quay mình, bước đi liền.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 41

Cái Phút Trùng Phùng

Quan Sơn Nguyệt nhìn theo bóng Thị Thơ, lòng rộn lên vạn ý niềm, mạch cảm hoài lai láng đưa chàng vào man mác bâng khuâng.

Những ngày xa xưa tiếp nối hiện lên trong tâm tư, tuy thời gian qua lâu, đã lâu lắm rồi, chàng xem như mới hôm qua, hôm kia thôi!

Cùng ân sư sống cuộc đời bình lặng tại sa mạc của miền Đại Qua Bích, công việc hằng ngày của chàng tiếp diễn đều đều, những công việc đó là chăn ngựa, luyện công, học võ, đọc sách ...

Rồi chàng đại diện sư phụ, dự đại hội quần hùng, cũng tại vùng sa mạc đó, lần thứ nhất, chàng cỡi con bạch đà, chàng cầm Minh Đà Lịnh, nhiệt huyết bốc bừng, hiếu thắng dâng cao, chí khí hùng anh sôi lần như núi lửa há miệng phun tràn.

Chàng trúng độc, chàng thọ thương, thiếu sống, thừa chết, may mắn thay lại gặp Trương Thanh, nàng săn sóc chàng, chàng cảm kích nàng, từ cảm kích đi đến mến yêu, chỉ là con đường gang tấc. Tuy nhiên, chàng chưa hề tỏ ý, mà nàng cũng chẳng biểu lộ gì, cả hai tình trong như đã, mặt ngoài còn e ...

Sau đó, chàng trúng độc lần thứ hai. Và cũng Trương Thanh chiêu liệu cho chàng. Và cả hai lại càng khắng khít hơn ...

Nhưng, một hình bóng mới chen vào cuộc sống của chàng, dù chàng không tiếp nhận.

Tại đại hội Long Hoa, chàng gặp Liễu Y Ảo, dù ân sư là Độc Cô Minh và Lam Hương Đình Tiên Tử quyết tác hợp chàng với Liễu Y Ảo, chàng vẫn khước từ, bởi tâm tư chàng đã dành trọn cho bóng hình nàng thiếu nữ có nhiều ân đối với chàng, mà cũng là người đã mang lại cho chàng mối tình đầu. Do đó, chàng bất chấp những bất ngờ chờ đợi trước đoạn đường, sẵn sàng đi theo Bành Cúc Nhân, để tái ngộ người xưa cũ.

Đến đây, chẳng phải là hoàn toàn vô sự, có thể bảo là chàng mạo hiểm phi thường.

Và, bây giờ, mọi việc tạm thời lắng dịu, đương nhiên chàng nôn nóng gặp mặt Trương Thanh.

Trước mặt chàng, cách độ vài mươi trượng, tòa tiểu các hiện rõ, Quan Sơn Nguyệt vừa phóng chân chạy đi, vừa gọi to:

– Trương Thanh! Thanh muội! Ngu huynh đây, ngu huynh đã đến rồi đây!

Quan đại ca của Thanh muội đến rồi đây!

Chàng đinh ninh là Trương Thanh sẽ chắp đôi cánh mà bay ra tiếp đón chàng. Nào ngờ, chàng gọi đến khàn giọng mà chẳng có tiếng đáp lại, cũng chẳng có bóng người chạy đến nghinh đón chàng. Chỉ có những tiếng dội vang lên, từ bốn phía vách núi vọng về, âm u, lơi lỏng ...

Quan Sơn Nguyệt hết sức kỳ quái. Dừng mấy phút, chàng gọi tiếp:

– Trương Thanh! Thanh muội! Ngu huynh đến đây! Quan Sơn Nguyệt đây!

Vẫn như trước, chung quanh vắng lặng đến hãi hùng, ngoài những tiếng vang từ vách núi vọng, chẳng còn nghe thấy gì khác.

Chàng khẩn trương ra mặt, gấp bước tiến lên. Đến cửa tòa tiểu các, chàng không cần nhìn trước nhìn sau, xem tả xem hữu, cứ chạy vào.

Không một bóng người ở từng dưới.

Quan Sơn Nguyệt lên từng trên, đảo nhanh mắt quanh một vòng, thấy màn còn rủ xuống, ngọn đèn đốt sáng, nhưng vẫn không một bóng người!

Chàng sững sờ, đứng lại, cất tiếng gọi to:

– Thanh muội ở đâu?

Chàng vòng ra phía sau, đến một gian phòng nhỏ, thấy hai nàng tiểu tỳ, tuổi độ mười bốn, mười lăm, đang nằm trên nền nhà!

Một nàng bị chém vở sọ, máu còn rỉ chảy, nhưng hơi thở đã dứt từ lâu. Nàng kia mường tượng bị điểm huyệt.

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, biết ngay là có biến cố vừa phát sanh tại đây, lập tức chàng nâng nàng tiểu tỳ chưa chết đó, khám nghiệm nàng một lúc, nhận ra nàng bị điểm huyệt với một thủ pháp khá nặng.

Muốn biết sự gì đã xảy ra tại đây, thì trước hết phải giải cứu tiểu tỳ này. Giải cứu nàng, chàng phải cỡi y phục nàng ra, tìm đúng huyệt đạo, y theo phương pháp, cấp cứu.

Quan Sơn Nguyệt mất mấy phút giây cứu chữa cho tiểu tỳ, dần dần nàng tỉnh lại.

Vừa mở mắt ra, trông thấy Quan Sơn Nguyệt, nàng thét lên khủng khiếp.

Quan Sơn Nguyệt dùng giọng hết sức dịu dàng, hỏi:

– Đừng sợ, tiểu cô nương! Tại hạ vừa cứu tiểu cô nương hổi tỉnh lại đó, chứ chẳng có ác ý gì đối với cô nương đâu! Hãy cho tại hạ biết, Trương cô nương đã đi đâu rồi?

Tiểu tỳ nhìn chàng, niềm sợ hãi vẫn còn vương nơi đôi mắt, nhưng nàng không nói gì cả.

Quan Sơn Nguyệt khẩn cấp cực độ, giục:

– Nói đi chứ, tiểu cô nương! Trương cô nương đi đâu rồi? Tiểu cô nương và vị cô nương kia, làm sao mà ra nông nổi như vậy?

Tiểu tỳ vẫn nín lặng.

Quan Sơn Nguyệt cứ tưởng là nàng chẳng biết chàng, nên không chịu nói, vội xưng tên:

– Tại hạ là Quan Sơn Nguyệt ...

Tiểu tỳ biến sắc, vụt đứng lên, đưa tay chỉ về khung cửa hậu hấp tấp thốt:

– Đại ca Quan Sơn Nguyệt đây sao? Đại ca Quan Sơn Nguyệt của tiểu thơ!

Tiểu thơ từng nhắc nhở đến tướng công ...

Quan Sơn Nguyệt chận lại:

– Mà Trương cô nương đi đâu rồi?

Tiểu tỳ nói:

– Tiểu thơ vừa bị Phi Tràng đánh đuổi, chạy ra ngã đó! Tôi là Tiểu Hồng, còn một chị nữa, tên là Tiểu Lục. Tiểu Lục bị dì Phi Tràng chém chết ...

Quan Sơn Nguyệt giật bắn mình, không còn lòng dạ nào đứng nghe tiểu tỳ nói thêm, lập tức phóng mình qua cửa sổ, chạy đi về hướng do Tiểu Hồng đã chỉ.

Tiểu Hồng đứng trên cửa sổ nhìn theo chàng, bỗng kêu lên:

– Rẽ qua bên tả, tướng công ơi!

Quan Sơn Nguyệt nghe gọi, dừng chân ngay. Nhưng chàng không tin, bởi trước mắt chàng chỉ có mỗi một con đường duy nhất, mà hai bên thì vách núi đứng sừng sựng.

Tòa Lưu Ly biệt phủ nầy được kiến tạo ngay trên đỉnh cao, chỉ có con đường đó là lối lên xuống thôi.

Tiểu Hồng gọi tiếp:

– Không sai đâu, tướng công. Phi Tràng đuổi đến đó, tiểu thơ nhảy xuống hố, Phi Tràng cũng nhảy theo.

Quan Sơn Nguyệt bước đến cạnh gành đá, nhìn xuống, ức độ chiều sâu nhận ra từ trên xuống dưới, phỏng độ ba bốn mươi trượng.

Hố sâu quá, làm gì có người dám nhảy xuống đó, nếu không là tự tử?

Chàng càng không tin hơn, Tiểu Hồng lại gọi:

– Quan tướng công ơi! Tôi không lừa tướng công đâu! Sự thật là Phi Tràng xách kiếm đến, bức tiểu thơ phải theo, tiểu thơ thoạt đầu không chịu đi, sau bị uy hiếp, nên phải chạy đến đó. Tiểu Lục có ra ngăn cản Phi Tràng, bị Phi Tràng chém vở sọ, còn tôi cũng bị điểm huyệt luôn.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Cô nương bị điểm huyệt, ngã bất tỉnh, thì làm sao trông thấy tiểu thơ chạy về ngõ nầy và nhảy xuống hố chứ?

Tiểu Hồng giậm chân:

– Tôi bị điểm huyệt, song không hôn mê, tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy như thường. Tiểu thơ nhảy qua cửa sổ ra ngoài, Phi Tràng cấp tốc theo sau, tôi còn nghe Phi Tràng thốt:

«Dù ngươi nhảy xuống hố, ta cũng quyết nhảy theo ngươi, đừng tưởng xuống hố mà thoát khỏi tay ta!» Đến lúc đó, tôi khiếp quá chừng, mới bất tỉnh luôn ...

Quan Sơn Nguyệt nhận ra, nàng có vẻ thành thật, liền hỏi:

– Bên dưới hố là đâu?

Tiểu Hồng đáp:

– Bên dưới là một khu rừng, qua khỏi khu rừng có một ngọn suối, ăn thông đến vùng ngoài núi ...

Quan Sơn Nguyệt không còn thì giờ hỏi thêm gì nữa, nhún chân tung bổng người lên, uốn cầu vồng, lao xuống hố sâu. Lần thứ nhất, chàng lao mình xuống hố sâu như vậy, dù sao thì chàng cũng rợn người, song nghĩ Trương Thanh đang gặp cảnh nguy, chàng còn cố chi đến thân mình nữa chứ?

Nơi chàng đáp xuống, là một mô đá nhô lên, cao hơn khoảng chung quanh và bên dưới mô đá đó là một sơn cốc.

Lạ lùng thay, chân chàng vừa chạm trúng mô đá, thì mô đá tụt xuống, như là một vật lỏng chân, bị sức nặng của chàng ấn mạnh, lún nhanh vào lòng đất.

Dĩ nhiên, Quan Sơn Nguyệt không hề tưởng là có sự kiện như vậy. Và tự nhiên, chàng không thể có một phản ứng kịp thời.

Cả người lẩn đá rơi xuống một dòng suối, mà suối lại sâu cực độ, chừng như không đáy, nước chảy gấp. Người và đá rơi xuống, nước bắn lên thành hoa, nước chảy đi, mặt suối bình lặng lại như cũ.

Đá, dĩ nhiên chìm luôn, còn người cũng chưa nhô lên.

Tiểu Hồng đã rời Lưu Ly Biệt Phủ, ra đến bên cạnh gành đá, nó chưa kịp nhìn xuống bên dưới, xem sự thể ra sao, đột nhiên Phi Tràng xuất hiện bên cạnh nó, nàng nhìn xuống, thấy Quan Sơn Nguyệt chìm trong dòng suối, khẽ đập tay lên đầu vai Tiểu Hồng, thốt:

– Khá lắm, Tiểu Hồng! Ngươi làm xem được quá chừng! Bây giờ thì chúng ta ly khai nơi nầy gấp!

Cả hai đến bên cạnh một tảng đá gần đó, bế Trương Thanh lên.

Trương Thanh hôn mê trầm trầm, để mặc cho Phi Tràng rút dây lưng, ràng rịt chắc chắn rồi, phóng chân chạy theo con đường mà trước đó, Quan Sơn Nguyệt định chạy đi, nếu Tiểu Hồng không ngăn cản.

–––– oo –––– Tại Quảng Hàn Cung, người nào cũng lộ vẻ trầm trọng nơi gương mặt. Họ ngồi như thế mãi chẳng biết được bao lâu rồi, từ cái phút Quan Sơn Nguyệt rơi xuống suối.

Bạch Thiết Hận cuối cùng, không dằn được cơn uất hận, gằn từng tiếng:

– Sự tình như thế đó mà phu nhân vẫn còn bênh vực, chở che tiểu súc sanh được à? Lão phu nghĩ là hắn sẽ âm mưu với Phi Tràng, định làm một cái gì phi thường đó nhé! Rồi phu nhân sẽ tiếp đón hậu quả!

Nguyệt Hoa Phu Nhân cau mày:

– Có thể nào Quan Sơn Nguyệt âm thầm đưa Trương Thanh ly khai nơi nầy chăng?

Bạch Thiết Hận cười lạnh:

– Phu nhân lấy cái tâm tư khỉ mà đo cái tâm của người để khi người! Quan Sơn Nguyệt đã biết mình là con của phu nhân rồi, thì hắn cũng biết luôn là chẳng có gì trở ngại cho hắn cùng sum họp với Trương Thanh, biết như vậy, hắn mang Trương Thanh đi đâu làm chi nữa chứ? Vả lại, dù đi hay ở, hắn cần gì phải giết người?

Cầm Khiêu cau mày, chen vào:

– Thuộc hạ tin chắc là chẳng hề có việc mang người trốn đi. Lẽ thứ nhất, công tử không cần phải làm như vậy, lẽ thứ hai, là Tiểu Hồng cũng mất tích, chính điều đó khó hiểu hơn hết. Tiểu Hồng và Tiểu Lục, là hai tỳ nữ của phu nhân, phu nhân sai phái đến Lưu Ly Biệt Phủ hầu hạ Trương cô nương, theo sự hiểu biết của thuộc hạ thì cả hai nàng chẳng hòa hiệp gì với nhau cho lắm. Bây giờ, Tiểu Lục chết, Tiểu Hồng mất dạng, như thế là có mưu mô gì đó, có mưu mô cướp Trương cô nương mang đi ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp hỏi:

– Còn Quan Sơn Nguyệt?

Cầm Khiêu trầm gương mặt, thở dài:

– Có hai giải thích về trường hợp Quan công tử. Hoặc, công tử phát hiện ra Trương cô nương thất tung, suy đoán qua tình hình, biết là có biến cố, nên lập tức truy tầm. Còn ... giải thích thứ hai thi ... thuộc hạ không dám nói rõ ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân giục:

– Nói đi, cứ nói! Trong trường hợp nầy mà ngươi còn gìn giữ đắn đo nữa sao chứ?

Cầm Khiêu lại thở dài:

– Quan công tử có thể bị mưu hại!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hét:

– Nói nhảm! Nếu hắn chết, hắn phải còn cái xác của hắn chứ ...

Cầm Khiêu tiếp tục thở dài lượt nữa:

– Dưới đỉnh Lưu Ly Phong, có dòng suối sâu rộng, xuyên qua rừng trúc, nước chảy xiết, mà hòn đá nổi giữa suối mất luôn! Thuộc hạ thấy rằng, giải thích thứ hai gần sự thật hơn ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm gương mặt, nín lặng.

Bạch Thiết Hận kêu lên:

– Nếu đúng là Quan Sơn Nguyệt bị ám toán, thì lão phu nhất định không tha thứ cho tiểu súc sanh!

Nguyệt Hoa Phu Nhân bối rối:

– Đà Ông! Chưa có gì rõ rệt mà ...

Bạch Thiết Hận căm hờn chận lại:

– Cả hai, cùng là con của phu nhân, đúng ra thì lão phu không cần quan tâm đến sự việc của chúng làm gì. Nhưng, Quan Sơn Nguyệt là giọt máu của vị cố hữu, lão phu đâu có thể để cho bất cứ ai muốn khinh thường hắn thì khinh?

Dù hắn chết, cái chết của hắn cũng phải minh bạch ...

Lão thốt xong, đứng lên liền.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp kêu lên:

– Đà Ông đi đâu đó?

Bạch Thiết Hận nói:

– Lão phu ngay từ bây giờ, đi tìm tiểu súc sanh, nếu Quan Sơn Nguyệt chẳng việc gì, thì lão phu sẽ dung tha hắn, ngược lại thì hắn phải chết với lão phu.

Lúc đó, phu nhân đừng trách lão phu sao nở hạ thủ đoạn tàn độc! Lưu Ảo Phu cũng là con, Quan Sơn Nguyệt cũng là con, song một gã thì do phu nhân nuôi dưỡng từ nhỏ đến lớn, sống quanh quẩn bên phu nhân qua nhiều năm tháng, còn một người thì mẫu tử vừa trùng phùng, phu nhân đã bỏ hắn bơ vơ nơi quê người xứ lạ. Cũng đồng con nhưng một lại hưởng trọn ân tình mẫu tử, một thì bị phó mặc cho dòng đời cuốn, như thế đủ chứng tỏ sự thân sơ, hậu bạc. Bình sanh lão phu chỉ có mỗi một điệt nhi, tự nhiên lão phu phải chiếu cố đến Quan Sơn Nguyệt.

Dù phu nhân có ý nghĩ như thế nào, lão phu không thể cãi biến chủ ý của lão phu.

Lão phu phải làm sao cho xứng đáng với cái tình thâm trọng của người cố hữu nơi suối vàng, y luôn luôn nhìn về lão phu, chờ thấy một chứng cứ của sự tương tri!

Thốt xong, lão bước đi liền.

Nguyệt Hoa Phu Nhân không ngăn chặn, mà cũng chẳng nói gì thêm nữa.

Mãi đến khi Bạch Thiết Hận khuất dạng rồi, bà mới buột miệng than:

– Hoàng thiên! Hoàng thiên! Tại sao lại an bài cho già một số kiếp quá chua cay như thế nầy? Tại sao lại dành cho già quá nhiều ngang trái? Ảo Phu ơi!

Con hành động như thế, con có biết là đã làm cho mẹ thương tâm cùng cực chăng?

Bà khóc! Bà khóc nhẹ nhàng, nhưng cái tâm của bà nát nhừ không còn một mảnh nhỏ.

Lâu lắm, bà mới lau lệ, gọi bọn thị giả:

– Cầm khiêu! Tư Kỳ! Hai ngươi theo dòng con suối của khu rừng trúc, tìm xem có chi khả nghi chăng. Giả như Quan Sơn Nguyệt bị hãm hại, thì ít nhất cái xác của hắn cũng còn đó. Chữ Trà lưu lại đây bảo vệ Quảng Hàn Cung, còn Thị Thơ và Nhập Hoạch thì đi theo ta.

Chữ Trà kinh hãi:

– Phu nhân định ly khai ngọn núi nầy?

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:

– Ta phải xuất ngoại, bởi làm sao ta ngồi yên một chỗ khi những sự việc quan trọng như vậy đã xảy ra? Ta phải tìm cho được Lưu Ảo Phu trước khi Bạch Đà Tử gặp hắn. Ta sẽ hỏi hắn rõ ràng, nếu quả thật chính hắn đã làm cái việc đó, thì ta chẳng để cho Bạch Đà Tử giết hắn đâu!

Cầm Khiêu biến sắc:

– Phu nhân muốn ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm giọng:

– Các ngươi yên trí, ta sẽ tự tay giết hắn! Khi nào ta che chở cho hắn được nữa, khi lương tri của hắn đã táng tận hoàn toàn?

Những thị giả nghe phu nhân nói thế, đều sững sờ. Nhưng tất cả đều thấy nhẹ người, bất quá, họ không ngờ chính phu nhân lại có thể nói được câu đó. Bởi ai cũng căm hận Lưu Ảo Phu, ai ai cũng muốn giết chết hắn. Hắn là con người nguy hiểm, vô tình nhất trước con mắt của họ. Hắn là cây đinh trong con mắt của họ từ lâu, và mãi đến hôm nay, niềm phẫn hận đó đã được đưa lên cao độ qua những gì Lưu Ảo Phu vừa làm.

Tuy nhiên, dù sao thì họ cũng là người ngoài, họ chẳng có liên quan mật thiết với hắn, họ có thể thù hận hắn, đến sát hại hắn được. Chứ còn phu nhân, là mẫu thân hắn, mẫu thân lại có thái độ quyết liệt với một đứa con như vậy, nghĩ ra cũng là một điều thương tâm! Cho nên, hận Lưu Ảo Phu, họ vẫn hận như thường, mà thương hại phu nhân thì đương nhiên họ cũng thượng hại quá chừng.

Trong phút giây thông cảm sự khó khăn của Nguyệt Hoa Phu Nhân, họ sững sờ, chẳng một ai dám nói tiếng nào, hoặc tán đồng, hoặc ngăn chặn, hoặc an ủi bà.

Lâu lắm, Cầm Khiêu mới cất tiếng:

– Bây giờ, thuộc hạ xin đi thi hành công tác do phu nhân vừa giao phó.

Quan công tử là người lành, hẳn trời cao phù hộ, thiết tưởng chẳng đến đổi nào ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:

– Ta hy vọng được như lời ngươi nói! Nếu hắn thoát chết thì thôi, bằng chẳng may hắn vắn số, các ngươi hãy mang thi hài của hắn, lên đỉnh núi an táng.

Bất cứ kết quả phần việc của các ngươi như thế nào, các ngươi cứ xuôi về Nam, tìm ta, báo cáo cho ta biết sự tình. Ta độ Lưu Ảo Phu sẽ đi về miền Điền Nam Nhĩ Hải chứ không đi nơi nào khác. Bởi, nơi đó là sanh quán của phụ thân hắn.

Cầm Khiêu gật đầu.

Rồi mọi người cùng phân công phần việc ai nấy lo!

–––– oo –––– Trên con đường về Nam, gần địa phận Điền Trấn, có ba bóng người, tuy là ba người chứ không đơn độc, song họ tịch mịch làm sao.

Họ vượt lộ trình, nhưng họ chẳng khác nào những kẻ lạc loài, lạc mạc đến thê lương, họ có ba người, song ngựa thì đến bốn con.

Nguyệt Hoa Phu Nhân Lê Thu Cúc ngồi trên lưng con ngựa đen, dẫn đầu.

Nhập Hoạch cỡi con ngựa màu yên chi, đi giữa. Thị Thơ ngồi ngựa cũng màu đen, đi sau. Cuối cùng, là con Minh Đà của Quan Sơn Nguyệt, chứ chẳng phải là một con ngựa, trên lưng Minh Đà, có cây Độc Cước Đồng Nhân.

Minh Đà, Đồng Nhân là tín hiệu của Minh Đà Lịnh Chủ. Đà và vật còn đây, mà người đi đâu? Cho nên dọc đường, khách giang hồ gặp cảnh đó, không khỏi thắc mắc, và nghi vấn phát sanh trong tâm tư mọi người. Ngoài ra, khách giang hồ còn chú ý đến đoàn người dẫn dắt Minh Đà vượt lộ trình dài hầu như vô định.

Chẳng ai hiểu lai lịch của đoàn người đó.

Bởi phu nhân ngày nay là con người mới lạ đối với hào kiệt vũ lâm, sau mấy mươi năm vắng bóng trên giang hồ.

Bà ngồi ngựa quý, hông đeo kiếm, y phục huy hoàng, tuy tuổi về chiều mà phong độ vẫn chưa tàn phai.

Thị Thơ và Nhập Hoạch cũng có phong thái siêu trần, họ là những phần tử được ưu đãi nhất trong thế nhân.

Một đoàn người như thế, vừa có vẻ hiên ngang, vừa phiêu nhiên thoát tục, ai trông vào mà chẳng hâm mộ! Song, hâm mộ là một việc, hiếu kỳ lại là một việc khác, huống chi, đoàn người đó lại có dẫn con Minh Đà theo.

Nói đến Minh Đà, là nói đến một bộ phận của sinh hoạt vũ lâm, bởi ngày nay ai ai cũng nghe danh Quan Sơn Nguyệt.

Đoàn người nầy có liên quan gì đến Minh Đà Lịnh Chủ? Mà Minh Đà Lịnh Chủ xuất hiện là trong vũ lâm phải có một cục diện xoay chiều.

Giờ đây, thú và vật dụng còn đó, mà người lại đi đâu?

Đoàn người nầy, xem thì ung dung, phiêu dật, song tại sao họ lại lạc mạc thê lương như thế?

Người ta lấy làm lạ, người ta bàn tán, suy luận đủ điều, nhưng làm gì có người biết được họ xuất phát từ Quảng Hàn Cung tại Đại Ba Sơn?

May ra, chỉ có mỗi một mình Bành Cúc Nhân là hiểu được mà thôi.

Hiện tại, họ đã ly khai Đại Ba Sơn được mười lăm hôm rồi, và họ sắp sửa vào đất Điền.

Sở dĩ họ lạc mạc thê lương, mất hẳn niềm phấn khởi, bởi gần đến đất Điền, họ cảm thấy tình hình không thuận lợi như họ dự đoán lúc khởi hành.

Họ vừa qua huyện Nghi Tân, thì phía sau họ, có một đoàn người khác, theo dõi. Song, họ không tỏ lộ một hành động nào, cứ để cho đoàn người đó âm thầm theo sau.

Họ vượt Bạch Thủy, qua Oai Ninh, đến Tuyên Oai, trên con đường lớn đã nhiều lượt rồi, có một vài người mấy lượt vượt qua mặt họ, nhưng vượt rồi lại đi luôn, chứ không hỏi han gì, không nhìn họ. Dĩ nhiên, những người đó đều ngồi ngựa, và phần đông thuộc hạng cao niên. Cũng có những tiểu tử vào lứa tuổi mười ba, mười bốn.

Trong con mắt của Nguyệt Hoa Phu Nhân, những người đó dù già dù trẻ, đều có vũ công rất cao, kiêm luôn cả nội ngoại công phu. Nguyệt Hoa Phu Nhân luôn luôn đề cao cảnh giác, bởi bà biết ngay họ đã chuyển sang giai đoạn hành động rồi đó. Bất quá bà chưa biết họ sẽ hành động như thế nào, nhưng chắc chắn là bất lợi cho bà.

Từ âm thầm theo dõi, họ đã bắt đầu dàn mặt, thì từ sự dàn mặt đến hành động, hẳn không xa lắm.

Lần sau hết, trong số các người vượt ngựa qua mặt phu nhân, có một trung niên phụ nhân.

Thấy người đó rồi, phu nhân giật mình, gọi Nhập Hoạch và Thị Thơ, thốt:

– Ta tin chắc, có sự phiền phức chờ đợi chúng ta ở phía trước!

Nhập Hoạch hấp tấp hỏi:

– Làm sao phu nhân biết được?

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» nhẹ:

– Hôm nay, có rất nhiều người vượt qua mặt chúng ta. Những người đó chẳng phải là bọn tầm thường, họ lại đặc biệt chú ý đến ta, dù sự chú ý không lộ liễu lắm. Như vậy là bọn họ quan tâm đến bọn mình rồi đó. Vừa rồi một phụ nhân lại qua mặt chúng ta, mà người nầy có vẻ cao minh hơn bọn kia nhiều. Cứ theo sự suy đoán của ta thì tất cả đều thuộc một tổ chức nào đó, mà phụ nhân kia là vị chỉ huy tối thượng. Nhất định họ đang chờ chúng ta ở một địa điểm phía trước!

Nhập Hoạch lấy làm lạ:

– Hơn hai mươi năm qua, chúng ta có bôn tẩu trên giang hồ đâu, thì làm gì có cừu, có oán, mà có kẻ đón chận chúng ta, gây sự?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười lạnh:

– Cần gì phải có lý do rõ rệt mới sanh sự được? Người trên giang hồ, có lối hành động gần như hồ đồ, và họ có ngàn lẻ một lý do gây khó khăn cho bất cứ ai, nếu họ muốn, dĩ nhiên những lý do được tạo dựng trắng trợn, rồi nhân tranh biện mà thành xô xát! Ngươi đừng quên khi người ta có ý, thì dù muốn dù không, ngươi cũng phải rơi vào tròng, trừ ra ngươi không làm con người nữa, và ngươi sẵn sàng thọ nhục để cầu an. Vì dĩ ta biết như vậy, cho nên trong hai mươi năm qua, ta thoái xuất giang hồ, ta chỉ sợ câu dẫn những điều ngoài ý muốn.

Bà thởi dài tiếp:

– Thế mà ta vẫn không tránh thoát! Và giờ đây, ta sắp sửa đón nhận cái vô lý của sinh hoạt giang hồ đó!

Phía trước, là một rừng táo, trước rừng táo, có một khoảng đất rộng, trống trải. Nơi đó, có mấy con ngựa, cương cột vào cội cây. Trên khoảng đất, có rất nhiều người đang quy tụ.

Từ xa xa, Nguyệt Hoa Phu Nhân đã trông thấy rõ những người đó, gồm cả già lẫn trẻ, cũng có mặt luôn phụ nhân sau cùng vượt qua mặt bọn Nguyệt Hoa Phu Nhân. Phụ nhân đó đang ngồi tại trung ương, những người kia bao bọc bên ngoài.

Đám người đó vừa thấy bọn Nguyệt Hoa Phu Nhân xuất hiện, lập tức đứng lên, tản ra, chừng như định ngăn chặn đường.

Nguyệt Hoa Phu Nhân bảo Nhập Hoạch và Thị Thơ:

– Ta nói có sai đâu!

Vốn tính háo sự, Nhập Hoạch cho ngựa vọt lên, qua mặt Nguyệt Hoa Phu Nhân, tự nguyện làm cái việc xung phong, đồng thời kêu lên sang sảng:

– Tránh ra! Tránh! Đừng có chặn đường người ta như vậy!

Nàng cứ rong ngựa thẳng vào đám người đó, họ có tránh hay không, mặc họ, chứ nàng thì nhất định không tránh rồi. Bởi, từ cổ chí kim, chẳng có luật lệ nào cho phép nhiều người nhóm họp ngay giữa đường bao giờ, trừ khi những kẻ đó cố ý.

Ngựa của Nhập Hoạch đến rất gần đám người.

Bỗng một bé gái nhanh nhẹn lướt tới, nắm giây hàm ngựa của Nhập Hoạch, cao giọng bảo nàng:

– Nhảy xuống mau! Bọn ta có việc cần hỏi ngươi!

Ngựa thuộc loài quý, lúc chạy nhanh, hẳn cái đà chạy phải mạnh, bé gái nắm giây hàm nó, giữ lại, đứng liền. Đứng như thế, hẳn phải khó khăn cho nó lắm, cũng may là bé gái giữ chặt, nếu không thì nó phải ngã hoặc con ngựa sẽ lộn mình, cất cao hai chân sau lên ...

Trong trường hợp đó, Nhập Hoạch có thể bị hất tung lên không, nếu nàng không có phản ứng kịp thời.

Nhưng, cũng may luôn cho nàng, là con bé đưa tay kia nắm luôn nàng lôi xuống đường, nhờ thế mà nàng khỏi bị ngựa hất.

Nhập Hoạch nổi giận, vung roi ngựa quất vào đầu con bé. Nó lập tức hụp, chui qua cổ ngựa, sang bên kia.

Chính con ngựa lãnh ngọn roi đó nơi cổ, Nhập Hoạch quất mạnh ngọn roi đó làm tét một đường da nơi cổ ngựa, máu chảy ròng ròng.

Con bé sang bên kia ngựa, quay mình lại, trông thấy máu ngựa chảy ra, nó lại bước đến gần con thú, đưa tay chặt vào chỗ thọ thương của thú, thú lập tức nhủn bốn chân, rồi ngã xuống. Con bé cười hì hì, thốt:

– Ngựa của ngươi là thứ ngựa chứng, cỡi nó mà đi đường xa, không tốt đâu.

Bỏ đi, hãy tìm con khác mà dùng.

Tự nhiên, Nhập Hoạch phải hiểu là sắp có sự phiền phức cho bọn nàng rồi và con bé nầy xuất thủ chế ngự ngựa của nàng, bất quá là một cuộc mở màn cho biến cố nào đó. Con bé là người trong nhóm kia, nó hành động như vậy, mà chẳng một ai can thiệp ngăn chận nó, đã thế, cũng chẳng ai tránh đường. Thì ra là họ cố ý gây sự thật rồi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân và Thị Thơ từ phía hậu tiến lên, còn trong khoảng cách vừa tầm, cùng dừng ngựa lại, song cũng như đám người kia, cả hai không biểu hiện một thái độ nào, mường tượng sự tình vừa xảy ra chẳng mảy mai liên quan đến họ và Nhập Hoạch là con người hoàn toàn xa lạ đối với ho.

Qua thái độ của Nguyệt Hoa Phu Nhân, Nhập Hoạch biết là bà không cấm chỉ nàng gây sự, do đó, nàng phấn động oai khí, hầm hầm gương mặt, bước tới, không nói năng một tiếng nào, rút thanh trường kiếm dưới yên ngựa cầm tay, quắt mắt nhìn con bé, quát:

– Tiểu quỷ, tại sao ngươi sát hại ngựa của ta?

Con bé cười hì hì:

– Ta đã nói rồi mà, con ngựa của ngươi không có giá trị, nó là con ngựa chứng, ngươi không thấy sao? Ngươi điều khiển nó, nó bất tuân, chạy loạn, suýt đạp bừa vào bọn ta, cũng may mà ta có học qua cách thức chế phục ngựa, ta ngăn chặn nó kịp thời đấy. Ta giết nó là để cứu bao nhiêu người khỏi bị nó giẫm đạp. Ngươi còn dùng nó nữa là mang họa đấy nhé! Ta giết nó để tránh cho ngươi cái họa trong tương lai, ngươi phải biết ơn ta chứ, sao lại còn trách cứ ta là nghĩa gì? Nếu ngươi hẹp hòi, ta sẽ tìm con ngựa khác, đền bù cho ngươi.

Nhập Hoạch nổi giận:

– Được! Được! Thế thì ngươi đền đi! Ngươi phải biết nó trị giá bao nhiêu đấy, đền ngựa thì ít nhất cũng ngang giá trị, đền tiền thì đương nhiên phải có khoảng thiệt hại tinh thần cho ta!

Con bé đảo mắt quan sát ngựa yên chi của Nhập Hoạch, lại cười hì hì:

– Ngươi mua con ngựa nầy dùng thay thế cước lực, thì đúng là hồ đồ quá, thứ nầy chỉ được đưa vào lò sát sanh, cho bọn đồ tể banh da, xẻ thịt, bán ra thiên hạ dùng, cứ năm phân tiền một cân thịt, nó không ốm lắm, có thể bán thịt được vài lượng bạc ...

Nhập Hoạch hét to:

– Vài lượng bạc? Ngươi đánh giá nó bằng một con gà phải không? Cho ngươi biết, ta mua nó với số tiền đúng một ngàn lượng đấy!

Con bé cười vang:

– Nói khoác quá đi thôi, dù cho nhập ngươi lại với ngựa, người và ngựa cũng chưa trị giá được một ngàn lượng, huống hồ chỉ một con ngựa suông!

Nhập Hoạch đang tìm cớ để phát tác, thì con bé khinh miệt nàng như vậy, đúng là nó cho nàng một cái cớ rồi. Nàng chụp ngay cái cớ đó, vung kiếm dứ dứ trên đầu con bé, quát:

– Tiểu quỷ! Ngươi dám ăn nói như thế với ta à?

Con bé rút thấp cổ, tránh xa xa lưỡi kiếm, nó làm như quá sợ, nó lùi lại, kêu lên:

– Oái cha cha! Cướp! Kẻ cướp đây rồi! Cướp bà chứ chẳng phải cướp ông.

Cướp cái ơi! Ngươi định giết người sao chứ?

Thực ra, nó rút cổ, nó lùi, nó làm đúng theo một cái thế võ cực kỳ ảo diệu, dĩ nhiên nó tránh nhát kiếm của Nhập Hoạch rất dễ dàng.

Nhập Hoạch cười lạnh, vung tay lượt nữa, kiếm quang chớp lên, lần nầy thì con bé không tránh, bởi kiếm quang của Nhập Hoạch bao phủ quanh mình nó, nó muốn lùi cũng không lùi được. Nhập Hoạch gằn giọng:

– Đừng lừa đảo, ngươi phải đền cho ta ngàn lượng, không có ngàn lượng thì nạp mạng thay tiền.

Con bé nhảy qua tả, trở sang hữu, choi choi qua lại mà vẫn không thoát khỏi vần kiếm quang, bắt buộc nói phải dừng chân, rồi như liều, nó lướt vào gần Nhập Hoạch, bất chấp những mũi kiếm tua tủa chỉa về phía nó. Nó rít lên:

– Giết ta đi! Giết ta mà trừ ngàn lượng bạc! Ta đem sanh mạng của ta đền cho ngươi đó!

Thực ra, Nhập Hoạch đâu có muốn gây tổn thương cho nó? Cho nên, nàng thu kiếm về.

Ngờ đâu, con bé lợi dụng cơ hội nàng thu kiếm, vọt tới luôn, đồng thời hét lên:

– Nữ cường đạo! Nữ tặc! Ngươi tùy tiện vung kiếm uy hiếm người, thì ngươi có ác ý rõ rệt đó!

Thu kiếm về, Nhập Hoạch sơ ý, không dè dặt, bởi nàng chỉ tưởng là con bé liều mạng khi biết không thoát chết, nhưng nó không lùi, trái lại tiến tới luôn, thành ra, nó xuất thủ thình lình, nàng lãnh đúng một quyền nơi hông, quyền lực của nó khá mạnh, tuy không làm cho nàng đau đớn lắm, cũng đủ bức nàng lùi lại mấy bước.

Nàng sôi giận, vung kiếm chém loạn, tuy là chém loạn chứ nàng cũng bao gồm đủ ba bộ phận thượng trung hạ của con bé.

Chiêu thức của Nhập Hoạch đưa ra, vừa nhanh vừa độc, con bé mường tượng không tưởng là đối tượng lợi hại như thế, nên nó hấp tấp ngã ngửa về phía hậu, lăn mình mấy vòng, mới thoái khỏi áp lực của kiếm pháp đối phương.

Nhập Hoạch toan đuổi theo, con bé lăn luôn đến cạnh một nữ nhân tác trung niên, rối rít kêu lên:

– Tiên tử ơi! Tiên tử cho phép tỳ nữ xuất thủ nhé!

Nữ nhân trung niên gật đầu:

– Linh Cô, cứ tự tiện. Nên nhớ là đối phương có kiếm pháp tân kỳ, ngươi phải cẩn thận đấy nhé!

Con bé «vâng» một tiếng, trở lại chỗ nó ngồi trước đó, rút đôi đoản kiếm cầm tay.

Ánh thép chớp lên, một thứ ánh sáng xanh của những thanh kiếm báu, nhìn qua ai ai cũng hiểu đoản kiếm sắc bén lạ thường. Đôi kiếm dài độ hai thước, so với những đoản kiếm thường xuất hiện trên giang hồ, thì ngắn hơn độ thước.

Cầm đôi đoản kiếm, nó bước tới, đối diện với Nhập Hoạch, nó vươn đôi kiếm ra, chỉ thẳng vào mặt Nhập Hoạch cao giọng thốt:

– Nữ tặc! Đừng tưởng trên đời nầy chỉ có mỗi một người biết dùng kiếm mà thôi! Ngươi hãy thưởng thức cái tài múa kiếm của ta đây, xem có bằng ngươi hay chăng!

Liếc mắt qua đôi đoản kiếm của con bé, Nhập Hoạch có ý khinh thường.

Nàng bĩu môi, thốt:

– Ta có thừa công đâu để giáo huấn những trẻ nít như ngươi? Hãy gọi các vị trưởng thượng của ngươi lại đây, đối thoại với ta!

Con bé cười lạnh:

– Vừa rồi, ta tay không, thì ngươi tỏ vẻ hùng hùng hổ hổ, tưởng chừng có thể nuốt sống ta vậy. Rồi bây giờ, ta có vũ khí, ngươi lại không dám cùng ta so kiếm, thế có đúng là ngươi hèn nhát không chứ? Yên trí đi, nếu ngươi thắng được đôi kiếm nầy thì sẽ có người trưởng thượng của ta ra mặt, hỏi tội ngươi. Giả như ngươi khiếp quá, thì ta cũng có thể chấp thuận cho ngươi nghiêng mình trước mặt ta, cúi đầu lạy ba lượt, gọi ta là tiểu tổ mẫu, ta sẽ cười ba tiếng và tha ngay.

Nhập Hoạch nóng tính hơn hết tại Quảng Hàn Cung, khi nào tiêu hóa nổi câu nói hỗn hào của con bé, hét lên oang oang, vung kiếm chém liền.

Con bé ngang nhiên múa đôi đoản kiếm nghinh đón, nó dùng song kiếm nên có lợi hơn, gia dĩ nó lại nhanh tay, một kiếm hất vẹt kiếm của Nhập Hoạch, kiếm kia thừa trống công vào. Nó nhắm ngay huyệt Tướng Đài của Nhập Hoạch mà đâm kiếm kia phá thế công của địch rồi lại quay về thủ hộ phía trước ngực.

Chạm kiếm lần thứ nhất, Nhập Hoạch nhận ra con bé có công lực đáng sợ, nàng giật mình, không ngờ nó mới có bao nhiêu tuổi đó mà mức tu vi của nó rất thâm hậu như vậy. Nàng hấp tấp thu kiếm về, giữ thế thủ. Tuy nàng ngăn chặn được chiêu kiếm của con bé, song không khỏi bối rối phần nào.

Con bé cười hì hì:

– Sao? Ngươi thấy chưa? Ta đã nói lợi hại lắm mà!

Nhập Hoạch thẹn quá hóa giận, bỏ ngay thế thủ, chuyển sang thế công, vung kiếm chém tới, kiếm quang chớp chớp, ngàn ánh sao hiện lên, rơi ào ào xuống đầu con bé.

Con bé khoa song kiếm tạo thành một bức tường vững chắc, ngăn chặn trận mưa sao, ngàn tiếng va chạm vang lên xoang xoảng, nghe rợn người.

Kiếm chạm kiếm, lửa bắn tung tóe, tia lửa đua nhau chớp với ánh sao, trông rất ngoạn mục, mà cũng rất kinh hồn.

Trong khoảng khắc, song phương đã trao đổi hơn mười chiêu.

Cục diện vẫn ở trong thế quân bình.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 42

Trò Đời Tuyệt Xảo

Đấu thủ, không đồng tuổi tác, nhưng tài nghệ hầu như ngang nhau, nhỏ không kém lớn, lớn không hơn nhỏ, một lớn một nhỏ giao chuyền qua lại như hai thoi dệt, tay vung vung, kiếm chớp chớp, càng đánh càng hăng say, càng mãnh liệt, tưởng chừng họ có thể giết nhau qua một chiêu thức, dù cái lý do giết người không mảy mai quan trọng.

Người bên ngoài của song phương chăm chú nhìn vào cuộc đấu lộ vẻ kinh dị. Họ kinh dị vì bên nào cũng quá tin tưởng vào người của họ, họ cầm chắc là cuộc đấu khai diễn rồi thì chỉ trong một thoáng sau, người của họ phải thắng, và thắng gấp. Nhưng, tình thế lại diễn ra ngược với dự đoán của họ, họ không ngờ đối phương cũng lợi hại như họ.

Từng chiêu, từng chiêu qua, Linh Cô và Nhập Hoạch đã trao đổi nhau hơn ba mươi chiêu rồi.

Đến lúc đó Nguyệt Hoa Phu Nhân mới cất tiếng. Bà trách Nhập Hoạch:

– Nhập Hoạch ạ, già xem ra công phu của ngươi chừng như dưới mức tự hào của ngươi thường ngày đó! Đối với đứa bé con, mà ngươi phải chật vật như thế lại không làm gì nổi nó, thì nghĩa là sao chứ?

Tự nàng, hạ không nổi con bé, nàng đã nổi nóng lên rồi, bây giờ phu nhân vừa trách vừa mỉa, thì nàng càng tức uất hơn, bất giác phấn động oai khí, múa kiếm vụt vù, công lực gia tăng gấp bội. Nàng phát xuất một chiêu, thanh kiếm quét ra, có tiếng gió khác lạ, như tiếng hú, rồi kiếm khí phát sanh liền, tỏa rộng, mờ mờ như sa mù rơi xuống, vầng sa mù đó bao phủ quanh con bé.

Con bé «ạ» lên một tiếng nhỏ, chập hai thanh đoản kiếm làm một, từ bên trên chặt mạnh xuống, đến ngang ngực, nó quét ra ngoài.

Một tiếng chạm vang lên, chuyển động không gian quanh cục trường. Nhập Hoạch lùi lại ba bước, sững sờ, không nói được một tiếng nào.

Đôi đoản kiếm của con bé vuột khỏi tay, bay đi xa, nó đứng lặng người tại chỗ, đôi tay không, xem rất thừa.

Ai ai cũng thấy rõ là với chiêu kiếm đó, con bé thắng Nhập Hoạch, song kiếm pháp của nó chưa được thuần thục lắm, thành ra khi phát xuất, chiêu kiếm hơi chậm, mà cũng kém ảo diệu, chính cái chận đó giúp cơ hội cho Nhập Hoạch kịp thời bổ cứu khuyết điểm của nàng. Với lại, dù sao thì con bé cũng còn bé bỏng quá, công lực chưa được dồi dào, tài thì thừa mà sức lại kém, không thể tương trì với kẻ có căn cơ như Nhập Hoạch. Bởi thế, nó không nắm chắc nổi song kiếm, đành để song kiếm vuột tay, bay đi.

Tiếng gọi của song phương cùng vang lên một lượt:

– Nhập Hoạch! Trở lại đây!

– Linh Cô! Trở lại đây!

Đồng thời gian, Nguyệt Hoa Phu Nhân và nữ nhân trung niên cùng cất tiếng, triệu hồi người của họ. Đồng thời gian, cả hai cùng bước tới cục trường.

Thị Thơ nhảy xuống ngựa, giữ chung trong tay cương ngựa của y và của Nguyệt Hoa Phu Nhân, y có vẻ kinh ngạc vô cùng.

Phu nhân và nữ nhân kia cùng bước tới, nghịch chiều, khoảng cách giữa nhau thu hẹp còn độ một trượng, cả hai dừng chân, cùng nhìn nhau. Tuy phu nhân cao tuổi hơn nữ nhân, song thần thái của bà ung dung hơn nữ nhân nhiều.

Nữ nhân nghiêng mình hỏi:

– Dám xin phu nhân ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân chận lời, bởi bà đã biết nữ nhân muốn hỏi gì:

– Già là Lê Thu Cúc!

Nữ nhân cúi đầu suy nghĩ. Từng phút giây trôi qua, một lúc lâu, nàng vẫn không nhớ được là cái tên Lê Thu Cúc có xuất hiện trên giang hồ hay không! Và, cái tên đó có liên quan đến một nhân vật nào hay không!

Đối với phu nhân, bất cứ một danh tự nào trên đời cũng không tạo nên ấn tượng rõ rệt nào nơi bà, cho nên bà không cần hỏi lai lịch của đối phương, bà chỉ đi ngay vào vấn đề:

– Các ngươi cố ý ngăn chận hành trình của già như thế nầy, thì đúng là muốn gây sự với già đó. Vậy, các ngươi muốn gì?

Nữ nhân không ai khác hơn là Lý Trại Hồng.Nàng chưa đáp câu hỏi của phu nhân, lại hỏi ngược lại:

– Vị đại thơ kia là chi của phu nhân? Kiếm pháp của vị đại thơ đó, có phải do phu nhân truyền thọ chăng?

Và nàng tự giới thiệu luôn cho tròn lễ:

– Tôi tên là Lý Trại Hồng!

Phu nhân điềm nhiên đáp:

– Nàng ấy là thị nữ của già. Chính già truyền kiếm pháp cho nàng.

Lý Trại Hồng thoáng biến sắc, lẩm nhẩm một lượt hai tiếng thị nữ, đoạn hỏi tiếp:

– Giữa phu nhân và Tạ Linh Vận, có liên quan như thế nào?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười lạnh:

– Già không quen với người mang tên đó. Mà già cũng không hề nghe nói đến cái tên đó.

Lý Trại Hồng lại biến sắc lượt nữa. Chừng như nàng không tin lắm, nên tiếp liền:

– Kiếm pháp của vị đại thơ đó, là «Tu La Thất Thức», trên đời nầy, chỉ có mỗi một mình hắn là biết sử dụng mà thôi. Phu nhân nói rằng, không quen, không biết Tạ Linh Vận, thì thật là phu nhân khinh người lắm đó!

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng:

– Không quen biết thì phải nói là không quen biết, già lừa dối các ngươi làm gì? Ngươi đã đề cập đến người biết kiếm pháp đó, thì già nảy sanh cái ý muốn gặp một lần, cho biết con người đó như thế nào.

Lý Trại Hồng nghiến răng:

– Hắn là một ác nhân ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân chận lại:

– Già không cần biết người đó là tốt hay xấu, già muốn biết người đó là nữ hay nam!

Lý Trại Hồng chẳng hiểu thâm ý của phu nhân như thế nào, cứ sự thật mà đáp:

– Tôi đã gọi là hắn thì tự nhiên phải là nam nhân. Hiện tại, hắn đang ở tại Ngũ Đài Sơn, vùng đất Tấn, lập nên Thiên Ma Giáo, hắn tự xưng là Giáo chủ.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lộ vẻ thất vọng, lạnh lùng hỏi:

– Một gã nam nhân thúi tha, già không dư công đi tìm. Bây giờ, các ngươi hãy cho già biết lý do ngăn trở hành trình của già. Các ngươi làm thế, có dụng ý gì?

Lý Trại Hồng đưa tay chỉ con Minh Đà không chủ hỏi:

– Con vật đó, về tay phu nhân, thế còn chủ nhân của nó ở đâu?

Nguyệt Hoa Phu Nhân hỏi lại:

– Ngươi muốn biết sự đó, để làm gì?

Lý Trại Hồng đáp:

– Chúng tôi đang muốn gặp người. Thiên Ma Giáo đã gây thành thế lực quan trọng, ngoài Quan Sơn Nguyệt ra, chẳng còn ai ngăn chận sức bành trướng của giáo phái đó nổi ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu, chừng như bà có phần nào hân hoan với sự nhận xét của Lý Trại Hồng. Tuy nhiên, bà không để lộ ý niềm đó ra ngoài, bà giữ vẻ điềm nhiên, hỏi:

– Quan Sơn Nguyệt có tài nghệ ra sao? Chắc gì hắn đảm đương nổi việc đó?

Lý Trại Hồng nghiêm sắc mặt:

– Chắc chứ, phu nhân! Minh Đà Lịnh Chủ có thinh danh chấn dội giang hồ, hào tâm rộng, hiệp khí cao, chuyên trừ ma, diệt tà, phàm ai có lòng lo nghĩ về chánh nghĩa cũng đều đặt hy vọng nơi Quan thiếu hiệp cả.

Dừng lại một chút, nàng tiếp nối với giọng khẩn thiết:

– Nếu phu nhân biết Quan thiếu hiệp ở đâu, xin nói ngay cho bọn tôi hiểu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

– Già không biết hiện nay hắn đã đi đến phương trời nào!

Lý Trại Hồng biến sắc rõ rệt:

– Phu nhân nói lạ! Minh Đà còn đó, mà từ bao lâu nay người không rời thú, bây giờ thú ở nơi tay phu nhân, phải biết người hạ lạc nơi nào chứ? Huống chi, chiếc Độc Cước Đồng Nhân kia, là vũ khí độc môn của Quan thiếu hiệp cũng ở trong tay phu nhân luôn! Phu nhân bảo rằng không biết Quan thiếu hiệp ở đâu, thì thật là khó tin quá! Trừ ra, chính phu nhân đã mưu hại Quan thiếu hiệp rồi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân chưa kịp đáp, Nhập Hoạch đã cất tiếng:

– Các vị ăn nói hồ đồ quá chừng! Quan công tử là con của phu nhân tôi, khi nào mẹ lại giết con?

Lý Trại Hồng, Linh Cô và tất cả những người ở phía sau đều lộ vẻ kinh ngạc.

Dĩ nhiên, họ không tin nổi lời nói của Nhập Hoạch.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

– Quan Sơn Nguyệt chính là con trai của già đó!

Bây giờ, bọn Lý Trại Hồng mới hết hoài nghi, thần sắc của nàng cũng biến đổi theo niềm tin tưởng, và trên gương mặt nàng, sự tôn kính bắt đầu hiển hiện.

Nàng nghiêng mình, vòng tay chào, đoạn tạ lỗi:

– Tiện nữ không biết sớm phu nhân là từ mẫu của Quan thiếu hiệp, thành ra có thất lễ với phu nhân. Tại vì Quan thiếu hiệp không hề đề cập ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm buồn gương mặt, nói:

– Mẹ con già thất tán từ nhiều năm qua, mẹ mất tin con, con không biết mẹ, mãi đến nửa tháng trước đây, mẫu tử mới trùng phùng. Nhưng, thời gian sum họp không đầy hai khắc, rồi lại phân ly! Con trai già đã thất tung sau đó!

Lý Trại Hồng kêu lên:

– Thất tung?

Niềm kinh hãi hiện lộ nơi ánh mắt nàng.

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:

– Già hy vọng con già thất tung, chứ nếu không thì chẳng khi nào già dung thứ được tiểu súc sanh!

Tiểu súc sanh!

Bà đề cập đến Lưu Ảo Phu với Lý Trại Hồng làm gì chứ? Nội tình của bà, hiện tại, chỉ có Nhập Hoạch và Thị Thơ biết mà thôi, bọn Lý Trại Hồng làm sao thấu đáo mà bà thở than với họ?

Lý Trại Hồng toan hỏi, Nhập Hoạch vội vã chận lại:

– Đừng hỏi, đại thơ! Sự tình dài dòng lắm, không ai có thể giải thích tận tường trong nhất thời được!

Nhưng, Lý Trại Hồng khẩn trương cực độ, gấp giọng thốt:

– Bọn chúng tôi cần gặp Quan thiếu hiệp ngay, bởi không có Quan thiếu hiệp thì cả bọn cầm như đếm từng ngày chờ chết vậy. Tạ Linh Vận đã tạo dựng nên Thiên Ma Giáo rồi, thế lực của hắn càng ngày càng lớn mạnh, nếu không kịp thời chế ngự hắn, thì trong tương lai gần đây, giang hồ sẽ thuộc về tà ma thống trị, chúng sẽ mặc tình thao túng ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân hơi chú ý về câu chuyện của nàng:

– Cô nương nói rằng kiếm pháp của họ Tạ nào đó, tương đồng với kiếm pháp của thị nữ kia?

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Đúng vậy đó, phu nhân! Đành là cũng có một vài người biết «Tu La Thất Thức», song sử dụng được linh ảo kỳ diệu thì chỉ có một mình Tạ Linh Vận thôi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu, tỏ vẻ không tin:

– Chưa chắc như vậy đâu, cô nương! Già có nghe Quan Sơn Nguyệt nói đến một nữ nhân ...

Lý Trại Hồng lắc đầu:

– Không thể có sự trái ngược đâu, phu nhân! Nhất định là trên đời nầy độc nhất chỉ có mỗi một mình Tạ Linh Vận là am tường kiếm pháp đó! Tạ Linh Vận là sư huynh của tôi, mà trong hàng sư huynh sư tỷ, sư muội của tôi, chẳng có một ai thành tựu như hắn. Chứ nếu một đồng môn của tôi luyện kiếm pháp đó đến mức nhập diệu như hắn, thì bọn tôi cần gì phải bôn ba vất vả tìm Quan công tử? Như tôi đã nói, chỉ có mỗi một mình Quan công tử là thừa sức đối phó với hắn thôi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm ngâm một chút:

– Già tin rằng con trai già không hề nói dối với mẹ! Tuy nhiên, các vị đã cho là như vậy, thì già cũng muốn đi theo các vị gặp họ Tạ nào đó, xem sao! Có thể là hắn cho già biết được tung tích của nữ nhân mà già đang có ý tìm!

Lý Trại Hồng mơ hồ vô cùng, nàng chẳng hiểu rõ rệt những gì Nguyệt Hoa Phu Nhân nói cả. Tiểu súc sanh nào? Rồi nữ nhân nào nữa? Nàng không biết phải đáp làm sao, trong khi nàng bối rối, Linh Cô bước tới một bước, hỏi:

– Nữ nhân nào, phu nhân muốn tìm?

Nguyệt Hoa Phu Nhân suy nghĩ mấy phút, đoạn trầm giọng đáp:

– Nữ nhân đó là ai, thực sự thì già cũng chưa hiểu rõ, sở dĩ già tìm người ấy là vì người ấy năm xưa đã dùng một kiếp pháp kỳ lạ, sát tử trượng phu của già.

Linh Cô lêu lên kinh hãi:

– Trời ơi! Nữ nhân đó đã sát tử phụ thân của Quan công tử?

Nguyệt Hoa Phu Nhân không đáp, chỉ trừng mắt hỏi lại:

– Tiểu cô nương biết nữ nhân đó?

Linh Cô khoát tay mấy lượt:

– Không! Không!

Nguyệt Hoa Phu Nhân chỉnh nghiêm thần sắc:

– Già tin là tiểu cô nương biết!

Ánh mắt của bà nghiêm lạnh, biểu hiện một oai khí kinh người, Linh Cô lúng túng, thốt không rõ tiếng:

– Bà ... bà đừng hỏi ... tôi! Chẳng lẽ Quan công tử không nghĩ đến mối phụ thù?

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

– Già xin nói thật cho các vị hiểu! Quan Sơn Nguyệt là con của già thật đấy, song trượng phu của già lại chẳng phải là phụ thân của hắn. Các vị đã rõ là già có đến hai chồng rồi chứ? Khổ thay, hai chồng của già lại cừu hận với nhau! Một mối hận cừu nan giải! Nội tình rất phức tạp, già không thể trong nhất thời nói rõ cho các vị nghe được. Quan Sơn Nguyệt không chịu nói với già, là vì hắn thù hận trượng phu già, mối thù truyền tử đó mà! Thì, già làm sao bức bách hắn phải trợ giúp già báo thù cho kẻ thù của hắn?

Linh Cô thở phào, thốt:

– Phu nhân! Nếu sự tình đúng như vậy, thì tôi có thể giúp bà tìm nữ nhân đó. Bởi chính nữ nhân ấy cũng đang chờ dịp để giải quyết theo chiều hướng ý muốn của bà.

Nguyệt Hoa Phu Nhân kinh ngạc:

– Tiểu cô nương nói sao?

Linh Cô khẻ thở dài:

– Lão Lão bình sanh chỉ gây thương tổn cho một người duy nhất, và vì việc đó, Lão Lão áy náy mãi suốt thời gian dài, mấy năm gần đây, bà có nghiên cứu Phật môn tâm pháp, nên thức ngộ cái đạo lý của oan cừu quả báo. Nếu bà không giải quyết được sự tình ngày trước, thì bà không làm sao yên tâm tu Phật. Bà từng nói với tôi như vậy, và ủy thác tôi tìm hộ bà cái người năm xưa bị bà chặt đứt một cánh tay. Bà nghĩ rằng, người ấy là một tay kiếm thuật siêu phàm, chắc chắn là không cam tâm mai một tài ba để trở thành một kẻ vô danh. Ngờ đâu người ấy lại là ...

Lý Trại Hồng chận lời:

– Linh Cô! Ngươi muốn nói đến sư nương ...

Linh Cô gật đầu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn nghiên qua Lý Trại Hồng, Lý Trại Hồng hấp tấp tiếp:

– Phu nhân! Bình sanh tôi chưa hề gặp mặt sư nương lần nào. Bất quá, tôi chỉ nghe Quan công tử cho biết là bà còn sống trên đời nầy vậy thôi! Do đó, khi phu nhân hỏi, tôi chẳng biết phải đáp làm sao!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại hướng qua Linh Cô:

– Thế là tiểu cô nương biết! Tại sao lúc già hỏi, tiểu cô nương không thừa nhận ngay?

Linh Cô bối rối:

– Thoạt nghe phu nhân hỏi, tôi thấy sự tình có liên quan đến Quan công tử nên không dám phúc đáp hấp tấp.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

– Được rồi! Đã vậy, già không hỏi gì nhiều hơn, nhưng già muốn biết, bà ấy hiện nay ở đâu? Có thể là già sẽ không truy cứu đến việc đó nữa.

Linh Cô suy nghĩ một chút:

– Lão Lão không hề thay đổi cư sở, suốt trong mấy mươi năm qua, thì đến sớm cũng thế, đến muộn cũng thế, chẳng quan hệ gì, bởi đến lúc nào là gặp lúc ấy. Bây giờ, chúng tôi cần phải giải quyết vấn đề của Tạ Linh Vận, chẳng hay phu nhân có thể tiếp trợ bọn tôi hay không?

Nguyệt Hoa Phu Nhân không khẳng khái lắm:

– Già không tưởng là mình nên can dự vào sự việc trên giang hồ.

Linh Cô vội chận:

– Người trong Thiên Ma Giáo, bất cứ ai, cũng có mối thâm cừu đối với Quan công tử, chúng xem Quan công tử là người tử đối đầu, và Quan công tử là mục tiêu thứ nhất của chúng đó. Phu nhân là mẹ của công tử, thì cái lý đương nhiên là phải làm cái gì cho con ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng:

– Tiểu cô nương định giáo huấn già?

Linh Cô chớp mắt:

– Tôi đâu dám vô lễ như vậy, phu nhân! Chẳng qua, trước khi sự tình về Thiên Ma Giáo chưa kết liễu, tôi không thể giúp phu nhân được gì cả. Phu nhân có thể chờ đến lúc đó chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhìn nàng, chợt điểm nhẹ một nụ cười, hỏi:

– Tiểu cô nương cho rằng, già nhất định phải nhờ tiểu cô nương dẫn đường?

Linh Cô cũng cười:

– Trừ tôi và Quan công tử, trên đời nầy chẳng một ai đưa được phu nhân đến cư sở của Lão Lão cả. Nếu phu nhân quyết tìm Quan công tử, nhờ công tử dẫn lộ, thì chẳng nói làm gì. Còn như không có công tử, thì cái chắc là phu nhân phải gọi đến tôi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân suy nghĩ một chút, lại cười, tiếp hỏi:

– Tiểu quỷ giảo hoạt lắm đấy nhé! Xem ra, già chỉ còn có cách là đáp ứng các ngươi thôi! Nhưng, ngươi hãy suy nghĩ già có thể đối phó với họ Tạ hay không?

Bây giờ, phu nhân không gọi Linh Cô với mấy tiếng tiểu cô nương, mà lại dùng tiếng ngươi với nó, chẳng phải bà khinh khi nó, chỉ vì bà nhận thấy có thể thân mật với nó. Bởi, dù sao thì nó cũng có liên quan với Quan Sơn Nguyệt, gần nó, bà như nghe cái hơi hướm của đứa con trai bà.

Linh Cô đáp:

– Tạ Linh Vận không có gì sở trường ngoài «Tu La Thất Thức», mà trượng phu của phu nhân thì thất bại trước kiếm pháp đó. Bây giờ, phu nhân xuất ngoại báo thù, tìm ngay cái người sử dụng kiếm pháp đó, sát hại trượng phu của phu nhân năm xưa, thiết tưởng phu nhân cũng có nghiên cứu kỹ cách hóa giải kiếm pháp đó. Chứ nếu không thì, đi tìm thù như phu nhân, có khác nào đi nạp mạng đâu? Cho nên, tôi nghĩ là phu nhân không còn ngán «Tu La Thất Thức» nữa, và chắc chắn là phu nhân đánh bại Tạ Linh Vận.

Phu nhân phải chịu sự lý luận của Linh Cô rất xác đáng, bà không còn lời gì để bẻ lại lý luận đó của nó. Bà gật đầu, thốt:

– Được rồi, tiểu quỷ! Già sẽ đi cùng các ngươi đến Ngũ Đài Sơn.

Bà day lại bọn người nhà, tiếp:

– Thị Thơ, sự tình đã bắt đầu ra manh mối rồi đó, chúng ta chẳng cần phải đi hoang như nửa tháng vừa qua, hành trình của chúng ta trong tương lai phải theo một kế hoạch rõ rệt. Ngươi hãy đi tìm gấp bọn Tư Kỳ, Cầm Khiêu, bảo chúng theo ngươi, cùng hội họp với ta một chỗ. Ta cần dặn dò ngươi điều này, gặp Ảo Phu, các ngươi không nên xung đột với hắn, cứ bảo hắn đi thẳng đến Ngũ Đài Sơn, nơi đó hắn sẽ có dịp báo phục phụ cừu.

Thị Thơ «vâng» một tiếng, trao cương ngựa của phu nhân cho Nhập Hoạch giữ, rồi lên ngựa của y, quay đầu đi ngay.

Linh Cô động tính hiếu kỳ, hỏi:

– Phu nhân còn một người con nữa?

Nhập Hoạch vọt miệng hớt lời:

– Phải! Và cái việc Quan công tử thất tung, có liên quan đến hắn!

Nguyệt Hoa Phu Nhân khi nào để cho nàng nói nhiều hơn, quắc mắt nghiêm lạnh nhìn nàng. Thành thử Nhập Hoạch nín luôn.

Linh Cô càng lấy làm lạ, đoán lờ mờ là sự việc phức tạp như thế nào đó, nhưng người ta không muốn nói nữa thì còn hỏi làm gì, bởi có hỏi cũng chẳng ai đáp cho. Nó bước tới gần con ngựa, vỗ tay lên mình thú, cho thú hoạt động trở lại, nó dẫn đến trước mặt Nhập Hoạch, điểm một nụ cười, thốt:

– Đại thơ ơi, vừa rồi tôi hành động hơi vô lễ đấy, đại thơ đừng trách tôi nhé.

Ngựa quý của đại thơ, tôi xin trả lại cho đại thơ đây. Chứ, nó thuộc loại quý, ai nỡ nào đem nó giao cho đồ tể?

Nhập Hoạch không giận, nắm lấy tay nó, cười hì hì, đáp:

– Cái miệng của tiểu muội lợi hại lắm nhé! Mà kiếm pháp cũng khá nữa, như thế nầy thì ngu thơ phải kết giao với tiểu muội mới được!

Linh Cô cười nhẹ:

– Phải đó, đại thơ! Chúng ta phải thân cận với nhau, tôi đây cũng khâm phục kiếm pháp của đại thơ lắm chứ, trừ ba vị tiên tử của tôi và Quan công tử ra, không một người nào trên đời nầy hạ nổi đại thơ đâu, tôi dám chắc như vậy.

Nhập Hoạch thấy vui vẻ vô cùng, từ ngày rời Đại Ba Sơn đến nay, nàng mới thấy lòng cởi mở. Nàng hỏi:

– Ba vị tiên tử của tiểu muội là những ai?

Lý Trại Hồng gọi giật Linh Cô:

– Đừng nói nhảm nhé! Công việc gấp, không lo, chỉ lo đấu hót! Hãy chuẩn bị lên đường đi cho ta!

Linh Cô lè lưỡi, nhăn nhó mặt, làm cái vẻ khỉ.

Lúc đó, mấy người cao niên trong bọn Lý Trại Hồng bước tới. Lý Trại Hồng giới thiệu từng người.

Những vị đó, là Nhàn Du Nhất u, Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lần thứ nhất nghe những danh hiệu quái dị vô cùng, cau mày hỏi:

– Tại sao các vị chọn những tiếng quái dị như thế, đặt thành danh hiệu?

Lý Trại Hồng giải thích hộ cho mấy người đó:

– Họ là những người được liệt tên trong Tiên Bảng, mà quy luật trong hội Long Hoa thì chỉ cho phép xưng hiệu chứ không được gọi tên, do đó chẳng một ai dùng tên của mình, và ai ai cũng chọn một ngoại hiệu, miễn sao cái hiệu đó nói lên chất tiên, chất thần là được.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại cau mày:

– Già có nghe Sơn Nguyệt nói đến Tiên Bảng, Ma Bảng, Quỷ Bảng gì đó, song chẳng rõ sự thể như thế nào?

Lý Trại Hồng thở dài:

– Câu chuyện dài dòng lắm, phu nhân ạ! Phu nhân cứ lên ngựa đi, dọc đường tôi sẽ thuật từ từ cho phu nhân nghe.

Trước đó, người đi, người đuổi, đoàn người hai nhóm cùng về Nam. Giờ đây, hai nhóm hỗn hợp lại, đoàn người duy nhất bỏ dự định về Nam, chuyển hướng ngược lên vùng Bắc.

Dọc đường, Lý Trại Hồng kèm ngựa bên cạnh Nguyệt Hoa Phu Nhân, Linh Cô sóng vó với Nhập Hoạch, họ cùng phô bày tâm sự.

Đại khái, đầu đề câu chuyện vẫn xoay quanh Quan Sơn Nguyệt và Long Hoa Hội.

Họ thở dài, có lúc họ kêu lên kinh ngạc, có lúc họ cười tít vì cao hứng, niềm cảm khái rạt rào.

Và cuối cùng, ai ai cũng lo ngại cho số phận của Quan Sơn Nguyệt.

–––– oo –––– Qua khỏi đất Tần, họ vào vùng Tấn, Ngũ Đài Sơn nằm tại nơi giáp giới Tấn và Ký, họ đã đi độ tháng trường rồi, và còn một ngày nữa, là họ đến Ngũ Đài Sơn.

Thiên Ma Giáo, đúng như lời Lý Trại Hồng, bành trướng thế lực rất mạnh, rất mau, như ngọn lửa lan tràn, gặp cỏ khô bắt cháy nhanh. Cho nên, chẳng phải đợi đến tận Ngũ Đài Sơn mới gặp người trong giáo phái đó. Ngay trong những địa phương phụ cận, ngoài xa xa, cũng có tai mắt của Thiên Ma Giáo.

Dọc đường, bọn Nguyệt Hoa Phu Nhân, Lý Trại Hồng gặp nhất nhiều khách giang hồ ngẩng mặt, giương mắt nhìn họ đi qua, họ đã bị người ở đây chú ý đến rồi. Và như vậy, là hành tung của họ đã bị phát giác.

Phát giác, bất quá, bọn kia thấy họ là những người lạ, đến vùng này, chứ thực ra, đã chắc gì những người đó biết họ là ai?

Giả như, trong bọn tai và mắt của Thiên Ma Giáo đó, có những người ngày trước từng được liệt danh trong ba bảng Tiên, Quỷ và Ma, thì những người đó còn nhận ra bọn Lý Trại Hồng và con Minh Đà của Quan Sơn Nguyệt. Chứ như Nguyệt Hoa Phu Nhân và Nhập Hoạch, là những người hoàn toàn xa lạ đối với bọn Tạ Linh Vận, chúng làm sao hiểu cả hai là ai?

Đến đây rồi, đoàn người hết sức dè dặt, tuy nhiên họ vẫn không tránh khỏi phiền phức.

Một hôm, họ đến một sơn thôn, thuộc vùng Kỳ Sơn, nơi đây chẳng phải là thị trấn, họ không tìm được khách sạn, họ phải xin ngủ nhờ trong nhà dân cư. Bởi họ đông người, nên họ tìm một ngôi nhà khá rộng, đủ dung chứa toàn bọn.

Nhà tuy rộng, song chỉ có thể dành cho họ hai phòng thôi, họ phân nhau nam, nữ, chiếm hai gian phòng đó.

Đêm xuống, Nguyệt Hoa Phu Nhân, Lý Trại Hồng nhắm mắt dưỡng thần, Linh Cô ngồi xếp bằng tròn điều tức, chỉ có Nhập Hoạch là nằm dài, ngáy như sấm.

Vừa lúc đó, bỗng có tiếng vó ngựa vang lên bên ngoài, tiếng vó ngựa vọng đến thoạt đầu rất khẽ, chứng tỏ kỵ sĩ còn xa.

Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng cùng mở mắt.

Linh Cô có phản ứng rất nhanh, vụt đứng lên vọt ra ngoài. Phu nhân và Lý Trại Hồng cũng theo ra ngoài.

Khi họ ra đến bên ngoài, thì một bóng trắng lướt đi rất nhanh, như tên bắn, phía sau có một bóng đen đuổi theo.

Bóng trắng chính là Minh Đà, còn bóng đen chính là Linh Cô, nó chạy theo con Minh Đà, có lẽ là để bắt con vật lại.

Còn tiếng vó ngựa kia đâu? Hay là kỵ sĩ đã lẻn nơi nào?

Minh Đà là con vật rất thông linh, chẳng khi nào nó chạy hoang như vậy. Nó chạy đi, hẳn phải có duyên cớ gì. Và Linh Cô đuổi theo, hẳn là để bảo họ nó, mà cũng để truy nguyên cớ sự khiến nó chạy hoang.

Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng cùng đưa mắt nhìn nhau, rồi cả hai cùng chạy theo Linh Cô.

Đêm đó, không trăng, chỉ có ánh sao chiếu mờ mờ, cả hai vận dụng nhãn lực, nhìn hai bóng trắng đen phía trước làm mục tiêu mà đuổi, thật vất vả vô cùng.

Đường phía trước càng lúc càng lên cao, chừng như con đường dẫn lên đỉnh núi. Nhưng, khi họ đến một khúc quanh, thì hai bóng trắng đen phía trước mất hút.

Chỗ đó, chừng như là cuối đoạn đường, trước mặt có vách núi chắn ngang, họ tìm mãi chẳng thấy lối.

Bắt buộc, Nguyệt Hoa Phu Nhân phải dừng chân.

Lý Trại Hồng kinh hãi, thốt:

– Lạ thật! Chúng ta vượt qua một đoạn đường dài, lại chẳng gặp một bọn nào mai phục cả!

Nguyệt Hoa Phu Nhân không đáp, dùng mắt quan sát khắp nơi, luôn đến mặt đường, dùng tai nghe ngóng. Sau cùng, bà đưa tay chỉ một khe hở nơi vách núi, thốt:

– Già nghĩ, súc sanh đó đã chui qua khe hở kia mà đi!

Lý Trại Hồng trố mắt:

– Phu nhân nói sao? Minh Đà to lớn hơn con ngựa, mà khe hở đó rộng không quá một thước, làm sao nó chui qua lọt?

Nguyệt Hoa Phu Nhân nghiêm sắc mặt:

– Già không nói ngoa đâu! Trừ ra súc sanh mọc cánh bay qua đầu vách núi cao hơn trăm trượng nầy, còn thì hẳn là nó phải chui vào khe hở đó! Bởi, cái dấu móng của nó còn kia!

Ban chiều, có mưa sớm, Minh Đà chạy trên đất ướt, móng vấy bùn, nó để dấu lại từng nơi, và tại đây, một dấu móng của nó còn in ràng ràng trên mặt một phiến đá. Dấu chân đó, chứng tỏ Nguyệt Hoa Phu Nhân luận việc không sai.

Nhưng, dù đó là sự thật, Lý Trại Hồng cũng phải kinh ngạc như thường.

Nàng cau mày, lẩm nhẩm:

– Khe hở hẹp như vậy, làm sao Minh Đà chui lọt? Nó có thân vóc to lớn hơn một con ngựa kia mà? Vả lại, ngựa nhỏ đến đâu cũng không thể chui vào được. Kỳ thật!

Vừa lúc đó, một giọng nói âm trầm từ bên trong khe hở vọng ra:

– Trời đất rộng bao la, thiếu chi điều quái dị? Bởi các bị không thường thấy những điều kỳ quái, nên cứ tưởng chẳng bao giờ có việc kỳ quái!

Cả hai cùng giật mình, đảo mắt nhìn quanh quẩn, chẳng thấy một chỗ nào thuận tiện cho một người nấp, thì như vậy đúng là giọng nói phát ra từ khe hở, vọng đến tai họ.

Khe hở, chẳng phải là đường rạn nứt thẳng chiều, bên trong quanh co uốn lượn, đứng bên ngoài nhìn vào, không thể thấy xa.

Tuy nhiên, nếu họ nghiêng mình, thì cũng có thể lách vào. Song, làm sao họ dám mạo hiểm? Người bên trong, là thân hay thù? Giả như gặp thù, thù xuất thủ bất ngờ, thì họ làm sao day trở, chống trả?

Người trong vách không nghe họ đáp lời, lại tiếp:

– Một lạc đà, một tiểu nữ, bọn tại hạ đã tiếp đón và đưa vào trong cốc rồi, các vị không tin, cứ vào mà xem!

Lý Trại Hồng hấp tấp hỏi:

– Ngươi là ai?

Người trong vách cười lớn:

– Vào đây rồi, thì biết nhau ngay, song phương cùng nhận nhau, chẳng muộn chi đâu!

Lý Trại Hồng đưa mắt sang Nguyệt Hoa Phu Nhân như hỏi ý bà, có nên vào hay chăng?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười lạnh:

– Tự nhiên là phải vào rồi! Bất quá, bọn ta không cần do cái lối khe hở nầy đâu.

Người trong vách lại cười, thốt:

– Đây là lối duy nhất vào cốc, đừng mong có đường nào khác.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nạt:

– Đừng nói nhảm! Dù các ngươi có tài thông thiên triệt địa đi nữa, cũng chẳng làm sao đưa một con lạc đà qua lọt khe hở nầy. Mà ta cũng không tin các ngươi là loài rắn, có thể vào ra nơi đây, mà cho là lối duy nhất!

Người trong vách nín lặng mấy phút, sau cùng nhẹ giọng hỏi:

– Tại sao bà lại cho rằng bọn nầy là rắn?

Nguyệt Hoa Phu Nhân lạnh lùng:

– Nơi đây, có mấy miếng da rắn lột, ta biết ngay cái lối nầy chỉ là con đường mòn của loài rắn thôi!

Người trong vách lại nín lặng thêm mấy phút nữa, đoạn nói:

– Bà nói, nửa trúng nửa sai. Trúng, là cái sơn cốc nầy, có tên là Thiên Xà Cốc, và có một lối thông khác, con lạc đà kia vào cốc do lối thông khác đó vậy.

Còn ta thì ta quả thật do cái lối nầy mà ra, vào. Da rắn đó, là da của ta lột, bỏ lại ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng cùng kinh hãi.

Lý Trại Hồng bán tín bán nghi, hỏi:

– Ngươi là rắn, hay là người? Nếu là người, sao lại lột da rắn?

Người trong vách cười nhẹ:

– Ta đã bảo, đừng hỏi gì cả. Cứ vào đi, vào rồi sẽ biết những gì muốn biết.

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm ngâm một chút:

– Vào chứ! Nhất định là bọn ta phải vào rồi. Và nhất định là phải do lối khác mà vào.

Người trong vách cười hì hì:

– Thế thì cứ đi tìm lối khác.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lập tức rảo chân quan sát quanh nơi đó một lúc sau, bổng bà rút thanh trường kiếm bên hông, đối chuẩn một bụi cỏ đâm vào.

Người trong vách cảnh cáo:

– Cẩn thận đấy nhé!

Nguyệt Hoa Phu Nhân không màng đến người trong vách, cứ đâm kiếm tới, rồi hoành tay quét ngang.

Một số cành lá rơi rụng.

Cành lá vừa rơi, một bóng xám từ trong bụi cỏ giây xuất hiện quấn quanh thanh kiếm của bà.

Nguyệt Hoa Phu Nhân dù nhanh tay, cũng không làm ao rút kiếm kịp thời.

Bà liền vung tay, vẩy thanh kiếm, nhưng bóng xám đó không hề bung ra.

Dưới ánh sao mờ mờ, phu nhân nhận ra, đó là một con rắn dài, màu xanh, chứ chẳng phải màu xám.

Rắn dài quá, quấn quanh kiếm đến bảy tám vòng, đầu nó hình tam giác, nó nhìn bà, phun hơi độc vụ ...

Sợ rắn, là cái tánh của hầu hết nữ nhân, dù Nguyệt Hoa Phu Nhân có vũ công cao, vũ công chỉ để đối phó với người, chứ đâu để đối phó với rắn, vũ công đã thành vô ích, thì bà trở lại một nữ nhân thông thường.

Bà sợ, rú lên một tiếng, quăng luôn kiếm, lẩn rắn.

Rơi xuống đất rồi, con rắn tháo mình khỏi thanh kiếm, lại thổi vu vu, vọt tới phu nhân.

Lý Trại Hồng lướt tới, rút kiếm chém vào đầu rắn.

Rắn không sợ kiếm, nhưng nó hụp đầu xuống, tránh nhát kiếm đó. chừng như thân hình nó cứng rắn, trừ chiếc đầu thôi.

Lý Trại Hồng nhận ra nhược điểm của rắn, cứ vung kiếm chém vào đầu nó.

Con rắn lập tức uốn mình thành vòng tròn, dấu chiếc đầu trong những vòng tròn đó. Thành ra, những nhát kiếm của Lý Trại Hồng chém trúng mình nó, nhưng hụt đầu, mà trúng mình nó thì cũng chẳng gây thương tổn chi cho nó.

Lúc đó, Nguyệt Hoa Phu Nhân đã nhặt kiếm cầm tay, bà bước tới, gằn giọng:

– Nghiệt súc! Thử xem hai thanh kiếm có làm chi được ngươi chăng!

Bà thọc mũi kiếm nơi kẽ hở giữa hai khoanh mình rắn, ấn mũi kiếm xuống.

Dĩ nhiên, chính nơi đó, con rắn dấu chiếc đầu. Con vật cũng tinh khôn, nó càng rút đầu vào sâu hơn, rồi nó bật kêu khè khè.

Có lẽ tiếng khè khè đó là tiếng kêu cứu của nó, nên từ nơi vách núi, nhanh như chớp, hơn mười con rắn khác lao vút mình tới bao vây quanh hai nữ nhân.

Con nào cũng nhỏ, mình cũng dài, cũng xanh như con trước.

Trong trường hợp đó, Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng phải bỏ con rắn trước, tìm cách đối phó với các con rắn sau.

Nhưng, rắn bao vây rồi, cứ bò quanh quanh, chứ không tấn công.

Lạ lùng thay, Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng bổng cảm thấy đất dưới chân như sụp mất, cả hai chới với, bầy rắn cũng chới với, rồi người và rắn rơi tọt xuống.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 43

Trong Thiên Xà Cốc

Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng vừa rơi xuống hố, một tiếng «bình» vang lên, miệng hố đã bị một phiến đá lấp mất.

Hố đó, chẳng phải hố thiên nhiên, bởi nó có nắp, nó được nhóm người nào đó đào thành, để bẩy những ai bén mảng trong vùng.

Còn ai bén mảng trong vùng, nếu chẳng phải là những người đến đây dọ thám?

Tất cả mọi nơi khác, những nơi có lối thông vào cốc, đều có cạm bẫy như vậy, để bắt buộc người muốn vào cốc phải chui qua khe hở nơi vách núi. Chui qua khe hở đó, có khác nào đút đầu vào thòng lọng cho người giật?

Cũng vì không muốn đút đầu vào thòng lọng, nên Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng mới sa hố.

Cả hai cấp tốc vận khí, đồng thời đảo lộn trong lòng hố, nương theo cái sức nâng bổng của không khí mà lên. Làm như thế, quả nhiên họ lên tới đỉnh hố, song lên đến nơi rồi, họ thất vọng, bởi nắp hố cứng rắn, nặng nề quá, họ không làm sao đẩy bật lên được khi chân họ không có chỗ tựa. Bắt buộc, họ phải đáp xuống phía dưới.

Lạ một điều là những con rắn cùng rơi xuống như họ, hiện tại biến đi đâu mất dạng. Đáp xuống như vậy một lúc, bổng Nguyệt Hoa Phu Nhân kêu lên:

– Không xong! Chúng ta không nên xuống sâu hơn!

Lý Trại Hồng cũng có ý nghĩ như bà, cả hai không hẹn mà đồng thay vì buông mình tiếp tục xuống sâu, họ lại uốn thân hình, lấy tư thế vọt qua một bên.

Cũng may, lòng hố không rộng lắm, nên họ chạm vào vách dễ dàng.

Họ dùng chỉ công chụp vách hố, nơi đó đá lại lồi lõm, chứ không trơn không phẳng, họ chịu thân hình lại đó.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở phào, thốt:

– Phúc đức làm sao, chúng ta nghĩ ra kịp, chứ nếu không thì khổ biết bao nhiêu! Hố rất sâu, rơi xuống đáy rồi, dù chúng ta không thọ thương, cũng chẳng biết làm sao trở lên được.

Lý Trại Hồng cũng thở phào, nhưng rồi nàng lại thở ra, đáp:

– Phu nhân nói phải, tuy nhiên, đeo lơ lửng như thế nầy, cũng chẳng phải là một biện pháp vẹn toàn!

Nguyệt Hoa Phu Nhân suy nghĩ một chút:

– Cứ theo sự suy đoán của già, thì cái hố nầy là một lối thông vào cốc đó.

Nhưng, lối thông đó chẳng phải bắt đầu từ đáy hố, mà có lẽ ở đâu phía trên đầu chúng ta.

Lý Trại Hồng hỏi:

– Bằng vào đâu, phu nhân đoán như vậy?

Nguyệt Hoa Phu Nhân đáp:

– Người trong vách nói chuyện với chúng ta, âm thinh nghe rất gần, y lại lợi dụng khe hở đó, làm chỗ phát âm, do đó già đoán là y hoạt động gần gần mặt đất chứ không thể ở sâu được.

Lý Trại Hồng trầm ngâm mấy phút, đoạn gật đầu:

– Có lý! Lúc chúng ta xuống độ hai trượng sâu, tôi mường tượng thấy có một cái lỗ hình tròn, khá rộng, có lẽ lối vào cốc ở tại cái lỗ đó. Rất tiếc lúc đó chúng ta không làm sao dừng lại được.

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng:

– Bây giờ có trở lên cũng chưa muộn.

Lý Trại Hồng ngẩng mặt nhìn lên một lúc, không gian trong hố tối mờ mờ, nàng có thấy chi đâu rõ rệt? Nàng trầm ngâm giây lâu, rồi thốt:

– Giả như vách hố có những chỗ lồi lõm đều đều như thế nầy từ đây trở lên trên, thì sự việc không thành vấn đề nữa. Bằng ngược lại, thì hy vọng lên được nơi đó rất mong manh ... Chúng ta đã rơi xuống ít nhất cũng hơn bốn năm mươi trượng sâu, dù có tinh tường thuật Du Long, cũng khó mà thành công được!

Nguyệt Hoa Phu Nhân không nản chí:

– Lên một hơi không nổi, thì chúng ta phân làm nhiều chặng, cứ lên từng chặng một, cuối cùng rồi cũng phải đến nơi.

Lý Trại Hồng kinh ngạc:

– Thuật Du Long đòi hỏi sự tiêu hao chân khí quan trọng, nếu chúng ta không có chỗ nghỉ chân, để vận công, điều tức, khôi phục phần chân khí tiêu hao, thì làm sao tiếp tục tiến lên? Phu nhân thấy đó, cứ đeo lơ lửng như thế nầy mãi, lên được một chặng đường rồi, chưa lấy lại bình thường thì cầm chắc là phải rơi luôn, chứ đừng nói tiến lên cao hơn một vài thước!

Nguyệt Hoa Phu Nhân bỗng cười khan:

– Cô nương khỏi phải lo. Cô nương cứ lên trước, già theo sau, khi nào cô nương cảm thấy kiệt lực, cần phải nghỉ để khôi phục chân khí, thì cứ cho già biết, già sẽ giữ đôi chân cô nương, giúp cô nương nghỉ lấy hơi.

Lý Trại Hồng kinh ngạc:

– Còn phu nhân? Khi nào phu nhân chi trì không nổi nữa thì sao? Huống chi, thuật Du Long chỉ giúp cho một người chi trì thân thể lơ lửng, nếu đèo theo một người nữa, thì hẳn là phải cùng rơi xuống ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:

– Già có biện pháp, mới dám đề nghị như thế chứ! Cô nương cứ làm như già nói đó, là có nhiều hy vọng thành công.

Lý Trại Hồng biết là trong trường hợp nầy, chẳng khi nào phu nhân nói đùa được. Nàng chấp thuận ý kiến của phu nhân và bắt đầu thực hành liền.

Áp dụng thuật Du Long, nàng phải tựa lưng sát vào vách núi, mặt hướng ra ngoài, vận công vào hai tay hai chân, tay níu, chân đạp, từ từ trườn mình lên.

Nàng chưa kịp trườn, bỗng phu nhân gọi gấp:

– Khoan! Đón lấy vật nầy ngậm nơi miệng.

Một vệt sáng trắng từ tay phu nhân bay lên.

Không rảnh tay để đón bắt vật đó, Lý Trại Hồng há miệng, chênh đầu, nhưng nàng chậm mất một giây, vật đó trượt ra ngoài chạm vào đá, vỡ tan thành trăm ngàn điểm sáng li ti, rơi luôn xuống bên dưới.

Lý Trại Hồng nào có biết vật đó là vật gì, song Nguyệt Hoa Phu Nhân cần bảo nàng ngậm nơi miệng, hẳn phải là có tác dụng làm sao đó, nàng lại để vuột vật quý, nên hổ thẹn vô cùng, mà cũng vừa tiếc rẻ.

Nàng toan thốt một câu, tỏ sự hối tiếc, Nguyệt Hoa Phu Nhân đã tiếp:

– Cũng may còn được một hạt, cô nương cẩn thận nhé, để vuột nữa thì khổ cho cả hai đấy!

Bà lại tung vật đó lên.

Lý Trại Hồng đã tản mác công lực, để có một tay rảnh, đưa tay đó đón bắt.

Thì ra, vật đó là một hạt minh châu, to bằng quả trứng, sáng chói phi thường, ánh sáng của nó rọi ra, soi rõ những vật chung quanh trong một phạm vi tuy không lớn lắm, nhưng cũng đủ cho một người cần quan sát.

Lúc đó, Nguyệt Hoa Phu Nhân đang đu mình dưới một vú đá bên hữu của Lý Trại Hồng, nhìn lên nàng, bà thốt:

– Dạ Minh Châu đấy, cô nương ngậm nó nơi miệng, một nửa đưa ra ngoài, nên nhớ là thấm nước bọt mãi cho nó ướt, nó càng ướt lại càng chiếu sáng. Tay không cầm được, thì dùng miệng vậy, ánh sáng của nửa phần cũng đủ lắm rồi.

Châu, là vật thuộc âm, nằm nơi miệng nữ nhân, có nước bọt thấm đều đều, tự nhiên nó phát ra ánh sáng đúng độ cường thịnh. Lý Trại Hồng biết rõ như vậy, song phu nhân bảo nàng ngậm châu, với dụng ý gì thì nàng hoàn toàn không đoán nổi. Bởi, ánh sáng dù cần, song không đến đổi quá bách thiết mà phải dùng đến châu.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cũng biết là Lý Trại Hồng hoang mang, bà cười mấy tiếng rồi giải thích:

– Người trong vách không có thiện cảm đối với chúng ta rõ ràng, như cô nương thấy đó, bởi nếu là con người tốt thì y chẳng bao giờ để chúng ta rơi xuống hố nầy. Giả như y đang nấp ở đâu đó, bên trên đầu chúng ta, ám toán chúng ta, thì ánh sáng của hạt châu sẽ giúp ta nhận định y ở nơi nào, như vậy chúng ta dễ đối phó hơn.

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Cẩn thận như phu nhân là chu đáo lắm!

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:

– Thôi đi, đừng sáo mãi, cô nương nên hiểu là người trong vách kia, cao minh hơn già nhiều lắm đấy. Công lực của chúng ta thật tình mà nói, nào phải kém gì, thế mà chúng ta vẫn bối rối như thường! Người nào có thể làm khó cho chúng ta được, người đó hẳn không phải là vô dụng đâu!

Lý Trại Hồng không nói gì nữa, đưa viên minh châu vào miệng cắn chặt nửa trong nửa ngoài, đồng thời lấy lưỡi rà quanh nó, thấm ướt.

Viên châu bừng sáng lên.

Cả hai đảo mắt nhìn quanh đó một vòng, nhận ra trừ chỗ họ dừng lại, có mấy vú đá thôi, còn thì bên trên, cũng như bên dưới, vách núi phẳng lì, có nơi trơn, bóng, phản ảnh như gương.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười nhẹ, thốt:

– Cô nương thấy đó chứ, cũng may là chúng ta dừng lại kịp thời, chứ nếu để rơi luôn xuống đáy, thì cầm chắc là phải rũ xương ở dưới đó, chứ mong gì lại lên được?

Vì đang ngậm viên châu, Lý Trại Hồng không thể nói năng, nàng hết sức sợ hãi khi phát giác ra tình thế có phần nguy hiểm hơn tưởng tượng nhiều.

Sinh trưởng tại Xuyên Trung, nàng có biết ít nhiều đặc điểm của địa chất trong vùng, dưới lòng đất sâu, có một thứ dung dịch nếu vấy vào da thịt thì làm cho da thịt lở lói, ngứa ngáy, đau xót khó chịu vô cùng.

Nàng nghĩ, nếu cứ để thân hình rơi xuống dưới hố nầy, thì hẳn là bị thứ dung dịch đó gây khổ sở mà chết luôn, đừng nói chi đến cái đói cái khát và có thể chịu đựng một thời gian để tìm cách trở lên ...

Nhưng cần tranh thủ thời gian, nàng không suy nghĩ viển vông nữa, áp dụng ngay thuật Du Long, lên liền.

Lên, chẳng phải nhắm mắt là lên, nàng cần nhìn rõ từ tấc vách, tìm chỗ bám víu nếu cần. Như vậy, nàng phải ngửa mặt, cho viên minh châu chiếu lên.

Lên như thế, đã là một cái khổ, đòi hỏi rất nhiều chân lực, lại còn ngửa mặt nữa, thì cái khổ tăng gia, chân lực phải tiêu hao nhanh, cho nên lên độ bốn năm trượng, nàng nghe toàn thân như rã rời.

Cái khổ thứ ba, là miệng đang ngậm viên châu, nàng không thể kêu gọi Nguyệt Hoa Phu Nhân. Bắt buộc, nàng dùng chân, đạp choi choi, hy vọng phu nhân trông thấy, sẽ đoán mà hiểu tình trạng của nàng.

Đúng vậy, Nguyệt Hoa Phu Nhân thấy nàng đạp chân, biết ngay là nàng kiệt sức, cấp tốc trườn lên, nắm chân nàng, thốt:

– Đừng miễn cưỡng, thấy vừa mệt là nghỉ, chứ sức lực kiệt quệ thì khó khôi phục lắm đấy. Dù có khôi phục được, cũng mất rất nhiều thời gian, mà chúng ta thì quý trọng từng giây, từng phút.

Phu nhân nắm chân, nàng có chỗ chịu rồi, liền buông một tay lấy viên minh châu ra khỏi miệng, thở phì phì mấy lượt, đoạn cất tiếng:

– Đa tạ phu nhân! Tôi đang mệt lả, muốn gọi phu nhân nhưng không làm sao mở miệng được.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười nhẹ:

– Già quên mất là cô nương có ngậm viên châu nơi miệng, không thể nói năng được. Lần sau, nếu cô nương cần nghỉ một lúc, thì cứ dùng mũi khịt khịt, như thế là tiện nhất.

Lý Trại Hồng gật đầu. Nàng nhìn xuống, thấy Nguyệt Hoa Phu Nhân dùng một tay làm chỗ chịu cho đôi chân nàng, tay kia bỏ không, đôi chân của bà thì choi choi, đạp vào không khí, lưng đưa vào vách đá, nhưng chỉ dính sát phần hông thôi. Với tư thế đó, bà giữ nổi hai người khỏi rơi xuống hố, thì quả thật là một sự phi thường. Lý Trại Hồng khâm phục vô cùng. Một lúc sau, nàng thở dài, thốt:

– Không ngờ phu nhân luyện nội công đến mức độ đó ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân thản nhiên điểm một nụ cười:

– Cô nương lầm rồi! Có thể là già thành tựu hơn cô nương một bậc, nhưng cái mức thành tựu đó chưa hẳn là cao siêu như cô nương tưởng!

Lý Trại Hồng kinh ngạc:

– Thế phu nhân làm sao chi trì nổi hai thân thể như vầy?

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại cười:

– Bí mật! Hiện tại, già không thể giải thích. Chờ lên đến bên trên rồi, cô nương sẽ hiểu.

Lý Trại Hồng hoang mang hết sức, nhưng không phải lúc suy tư tìm hiểu, nàng bỏ qua việc đó, cứ điều tức, khôi phục chân lực. Sau cùng, nàng thốt:

– Được rồi, phu nhân! Chúng ta tiếp tục lên.

Nguyệt Hoa Phu Nhân ngẩng mặt nhìn nàng, nở một nụ cười không nói gì, bàn tay của bà đang chịu cho đôi chân của Lý Trại Hồng đứng, bàn tay đó hất mạnh lên, đồng thời bà quát:

– Bám dính tại đó, đừng động đậy!

Lý Trại Hồng bị tung bổng lên một trượng cao, chẳng biết sự thể như thế nào, vâng theo lời bà, bám sát nơi đó.

Bên dưới, Nguyệt Hoa Phu Nhân cầm một đoản kiếm, đâm mũi kiếm vào vách, mũi kiếm vừa lún vào đá, bà vọt mình, rời xa chỗ cũ.

Đồng thời gian, một vệt sáng xanh bay ngang qua một bên mình bà, lao luôn xuống đáy hố.

Nguyệt Hoa Phu Nhân trở về chỗ cũ, cười lạnh mấy tiếng, thốt:

– Quả thật không ngoài sở liệu của già! Người trong vách tàn độc lắm, chúng ta lâm vào trường hợp nầy, mà y cũng ám toán được!

Lý Trại Hồng kinh hãi, hấp tấp hỏi:

– Việc gì thế, phu nhân?

Nguyệt Hoa Phu Nhân có vẻ giận, đáp:

– Rắn!

Lý Trại Hồng giật mình:

– Rắn ở đâu? Rắn ở chỗ nào mới được chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười lạnh, đáp:

– Rắn, ở đây làm gì có! Tự nhiên là có người bên trên phóng xuống. Rắn thuộc loại đầu tam giác, loại rắn bao vây chúng ta vừa rồi! Già biết rõ, trên đó có kẻ đang làm trò quỷ, do đó già mới dặn dò cô nương chú ý. Ngờ đâu kẻ ấy thừa lúc chúng ta nói chuyện với nhau mà phóng rắn xuống! Cũng may, già phát giác kịp thời, chứ nếu không thì nó đã quấn quanh đầu quanh cổ cô nương rồi!

Lý Trại Hồng vừa thẹn mình còn kém cảnh giác quá độ, lại vừa cảm kích phu nhân mãi mãi cứu mình, nàng lẩm nhẩm:

– Đa tạ phu nhân cứu mạng ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân khoát tay:

– Đừng dùng tiếng khách sáo, già đã bảo cô nương mấy lượt rồi. Hãy lo tiến lên, càng nhanh càng có lợi, điều cần thiết cho chúng ta trong trường hợp nầy là tranh thủ thời gian. Đến nơi rồi, chúng ta lại còn phải chánh thức đương đầu với kẻ ấy. Dù sao thì cái món nợ đùa ác nầy, kẻ ấy cũng phải trả cho chúng ta. Rút kinh nghiệm, cô nương phải hết sức cẩn thận đấy nhé, kẻ ấy sẽ còn làm nhiều trò quỷ khác, ác độc hơn!

Đúng lúc đó, một tràng cười lạnh từ bên trên vọng xuống, tiếp theo tràng cười là một câu nói cũng lạnh lùng, mỉa mai không kém:

– Cái mạng của hai vị, cũng khá thọ đấy, đã tránh được hai lần ám toán.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nổi giận quát:

– Ngươi chỉ thừa cái nguy của người ta, như thế gọi là anh hùng sao? Nếu có can đảm, ngươi cứ chường mặt cùng chúng ta so tài hơn kém! Được vậy, ta rất phục ngươi.

Người bên trên cũng cười lạnh như trước:

– Gấp chi chứ? Bình sanh, ta đối với thiên hạ, có cái tập quán nặng nề, là phải ám toán trước, khi nào kẻ bị ám toán tránh khỏi thủ đoạn của ta đúng ba lượt, thì ta mới chấp nhận kẻ đó đủ tư cách chiến đấu với ta. Các vị chỉ mới thoát qua hai cửa ải thôi, chờ qua luôn cửa ải thứ ba nữa, rồi song phương sẽ gặp nhau. Cứ yên trí chờ đi!

Cả hai càng đề cao cảnh giác.

Lý Trại Hồng với hết tầm tay, đưa cao viên châu, soi sáng bên trên. Nhưng, họ chờ một lúc lâu, chẳng có động tĩnh gì.

Dù trườn lên, dù đứng lại một chỗ, Lý Trại Hồng cũng phải vận dụng chân khí như thường. Đứng lại một chỗ, vừa mất thời gian, vừa mất chân lực, lại chẳng ích lợi gì, nàng cảm thấy mệt mỏi rồi, thật khó cho nàng chi trì lâu hơn nữa.

Nàng cố gượng, song sức người có hạn, gượng một lúc lại đuối sức, quăng trả viên châu cho Nguyệt Hoa Phu Nhân, đồng thời nàng gọi bà:

– Tiếp nhận đi, phu nhân ...

Nàng không kịp dứt câu, rơi xuống liền.

Nguyệt Hoa Phu Nhân mất một tay án nơi chuôi kiếm, tay kia đưa tay đón bắt viên châu, Lý Trại Hồng cũng vừa rơi ngang bà. Không còn tay để hứng nàng, cũng không thể để mặc nàng rơi xuống, phu nhân vội đưa một chân ra, chận đà rơi của nàng.

Vì bận lo chận Lý Trại Hồng, bà quên mất viên châu nơi tay, một vệt sáng chớp lên, viên châu vuột tay bà, rơi xuống đáy hố thăm thẳm. Viên châu mất, song bà lại nắm được chéo áo của Lý Trại Hồng, chỉ vì bà gấp cứu nàng, không dè dặt, sè tay ra, chụp áo nàng, tự nhiên viên châu phải vuột. Châu mất rồi, thì bóng tối tràn về, bao phủ quanh hai người như trước.

Lý Trại Hồng thở dài:

– Vì công lực của tôi còn kém quá, thành ra để lụy cho phu nhân. Phu nhân cứ để tôi rơi luôn, cứu làm gì nữa!

Nguyệt Hoa Phu Nhân kéo nàng lên cao, thốt:

– Đừng nói nhiều, hãy gấp điều tức đi, chúng ta bằng mọi giá phải lên cho kỳ được trên đó, lần nầy thì già lên trước, cô nương dùng răng cắn vào tà áo của già. Khi nào không chi trì được nữa, thì tự nhiên già hay biết ngay, và chúng ta sẽ dừng lại, ngơi nghỉ.

Lý Trại Hồng kinh hãi:

– Giả như người bên trên ám toán?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cương quyết:

– Y làm gì mặc y, còn một điểm hy vọng, chúng ta cứ níu lấy hy vọng đó, khi nào không còn hy vọng, thì đành nhận mạng vậy.

Lý Trại Hồng sững sờ một chút:

– Vậy thì phu nhân bắt đầu lên đi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân thốt một câu cho Lý Trại Hồng lên tinh thần:

– Lý cô nương! Sở dĩ già cứu cô nương mấy lượt, là hy vọng lên trên đó rồi, cô nương sẽ tiếp trợ già một tay. Đừng quá chán nản mà cho rằng mình là kẻ vô dụng.

Thực ra, phu nhân đã biết cái ý của Lý Trại Hồng. Trong lúc nàng sửng sốt, tâm tư của nàng phát sanh một ý niệm, là nàng chờ phu nhân trườn lên, nàng buông tay liền, cam tâm rơi xuống hố mà chết, chứ không muốn làm lụy đến phu nhân nữa. Ngờ đâu phu nhân mượn câu nói giục nàng phấn khởi, để cảnh cáo nàng luôn.

Nàng thở dài, không đáp.

Phu nhân biết là mình đoán đúng, nên tiếp luôn:

– Lý cô nương! Bởi thấy cô nương hằng quan tâm đến con trai già là Quan Sơn Nguyệt, nên già không thể để cô nương lâm nguy! Hà huống, trong tương lai, già sẽ còn nhờ đến cô nương nhiều. Đừng nghĩ ngợi xa xôi gì cả, cứ phấn khởi tinh thần, cố vượt qua khó khăn.

Bây giờ bà mới bắt đầu trườn lên.

Lý Trại Hồng theo sau liền. Lên được bốn năm trượng, nàng cảm thấy mệt rồi, không còn chi trì lâu được. Cử động của nàng chậm lại.

Nguyệt Hoa Phu Nhân dừng lại, bảo:

– Cứ nghỉ mệt đi! Dùng cả hai tay, ôm chân già!

Lý Trại Hồng vâng lời, vòng hai tay đeo dính chân Nguyệt Hoa Phu Nhân.

Trọng lượng toàn thân nàng, treo nơi chân phu nhân, dù thân nàng có nhẹ tới đâu cũng là một trọng lượng, và trong trường hợp nầy, người ta cần được nhẹ mình, không trườn lên thì cũng ngơi nghỉ, bất cứ một sức nặng nào cũng là một lụy phiền cả. Lý Trại Hồng áy náy vô cùng, ấp úng hỏi:

– Có nặng cho phu nhân lắm không?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười mấy tiếng:

– Đừng thắc mắc, cô nương. Già có thanh đoản kiếm, nương vào nó cũng được nhẹ người phần nào, sự tình không đến đổi gây lụy phiền gì đáng kể.

Lý Trại Hồng tỉnh ngộ, vội rút kiếm của nàng, cắm vào vách đá, đồng thời tự mắng lấy mình sao quá mờ ám đến độ không nghĩ ra điều đó.

Muốn rút kiếm cắm vào vách đá, nàng phải buông một tay, đeo một tay.

Ngờ đâu, cầm chắc thanh kiếm rồi, nàng đâm thử vào vách, bất giác nghe tay chùn lại đến tê dại, mũi kiếm lại gãy. Tự nhiên, thanh kiếm không đâm thủng đá!

Kiếm gãy, đá chạm, Nguyệt Hoa Phu Nhân nghe tiếng động biết là bên dưới chân Lý Trại Hồng đã làm gì. Bà cười nhẹ, thốt:

– Đừng làm việc vô ích, phí cả công lực, cô nương! Vách hố chẳng phải là bằng đá đâu, chính là một chất thép rất cứng rắn tạo thành. Trừ thanh kiếm của già, trên thế gian chẳng có mấy thanh kiếm đâm thủng được.

Lý Trại Hồng thở dài, tra thanh kiếm gãy mũi vào vỏ.

Họ dừng lại đó, nghỉ một lúc, bỗng Lý Trại Hồng hỏi:

– Người bên trên hăm họa chúng ta là còn thử thách chúng ta một lần nữa, sao mãi đến bây giờ, y chưa xuất thủ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân đáp:

– Già cũng chẳng đoán được tại sao. Có lẽ y chưa nghĩ ra phương pháp tuyệt diệu, xứng với cái ý muốn của y.

Vừa lúc đó, Lý Trại Hồng ngẩng mặt lên, kêu khẽ:

– Có rồi, phu nhân! Có ...

Bên trên, hai điểm sáng màu xanh từ từ hạ thấp, như được thòng xuống, khi hai điểm sáng xuống gần, còn cách độ năm sáu trượng, cả hai nhận ra đó là một chiếc đầu rắn, đầu to độ cái bát ăn cơm, hai điểm sáng xanh, chính là mắt của nó.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp bảo:

– Trao thanh kiếm của cô nương đây cho già!

Lý Trại Hồng thốt:

– Con rắn đó sống qua nhiều năm, thành quát vật rồi, da nó cứng lắm, kiếm của tôi không chém đứt đâu ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân nói:

– Già biết rồi, già lấy kiếm đó, thay thế cho thanh kiếm của già, dùng kiếm của già, chém nó.

Lý Trại Hồng hiểu ý của phu nhân, rút kiếm đưa lên, đồng thời thun mình cho được gần phu nhân hơn:

– Tôi thay thế phu nhân chi trì một lúc, để phu nhân dễ dàng hành động.

Phu nhân gật đầu, cấp tốc rút thanh đoản kiếm ra khỏi vách hố, đồng thời gian, Lý Trại Hồng trườn lên, cắm thanh kiếm gãy mũi của nàng vào lỗ vừa bỏ trống. Đoạn, một tay vịn đốc kiếm, chịu thân mình, tay kia ôm phu nhân, giữ cho bà vững chắc, lại còn nhóng bà lên cao hơn, cho bà được tự do cử động.

Những động tác đó, chẳng phải bất cứ ai cũng làm được, và làm xong trong thời gian một thoáng mắt. Cũng nhờ họ là những tay kiếm thuật siêu phàm, nên trong những trường hợp như thế nầy, họ thực hiện được nhiều dự tính cứu thoát họ khỏi những nguy cảnh rùng rợn. Điều cần nhất cho họ là tranh thủ thời gian, thời gian về họ rồi là họ nắm phần chủ động, chiếm tiên cơ, con rắn kia có xuống đến nơi, cũng chỉ để chịu chết thôi!

Khi họ đổi xong tư thế và Nguyệt Hoa Phu Nhân đã sẵn sàng ứng phó với độc xà thì độc xà đã xuống đến nơi.

Thoạt đầu, từ bên trên, nó xuống rất chậm, rồi trong khoảng cách năm trượng, đột nhiên nó xuống rất nhanh, nó nhắm hai người, phóng mình tới.

Nguyệt Hoa Phu Nhân nhận định bộ phận của nó, vung kiếm chém vào chỗ cách đầu nó độ bảy tấc.

Từ đầu rắn xuống thân mình nó, cách bảy tấc, là điểm yếu hại của nó, chỉ có cách là chém vào chỗ đó, phu nhân mới hạ nó nổi, còn ra thì dù thanh đoản kiếm của bà có sắc bén đến đâu, chém vào chỗ nào khác trên thân mình nó, cũng chẳng gây hề hấn gì cho nó.

Con rắn uốn mình oằn oại mấy lượt, rồi rơi xuống đáy hố.

Nó từ trên xuống, sức nặng được tăng gấp đôi, nhát kiếm của phu nhân chạm vào mình nó, hầu như dính hẳn nơi đó, nó rơi xuống kéo theo thanh kiếm.

Rất may, phu nhân kịp thời rút kiếm lại, chứ nếu không thì đành bỏ luôn thanh đoản kiếm quý báu chém sắt như chém bùn.

Bên trên, có tiếng thở dài vọng xuống. Kế tiếp, một điểm sáng yếu ớt từ từ hạ xuống, chao chao, như một vật cột ở đầu dây được thòng xuống, đong đưa ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân cứ tưởng là một con độc xà nữa được người bên trên buông xuống. Lập tức, bà đề cao cảnh giác, nhìn đăm đăm vào vật sáng đó, chuẩn bị xuất kiếm.

Nhưng, chẳng phải là độc xà, mà chính là một ngọn đèn sáp ngắn. Ngọn đèn được gắn trên một mảnh gỗ, hai đầu mảnh gỗ có cột hai đường dây vừa thô vừa lớn.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lấy làm lạ, hỏi:

– Thế là có ý tứ gì?

Người bên trên lạnh lùng đáp:

– Các vị đã vượt qua ba cửa ải của tại hạ rồi, thì đúng như thỏa ước, tại hạ thỉnh các vị lên ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân không đáp, tự hỏi có nên tin hay không tin lời đối phương.

Người bên trên lại lạnh lùng nói tiếp:

– Ta dành cho các vị một hảo ý, giúp các vị tiết kiệm phần nào khí lực, giả như các vị không tin, thì thôi vậy, chứ ta chẳng có lợi lộc gì mà bắt buộc phải cầu tình. Các vị cứ theo phương pháp riêng của mình mà lên.

Mảnh gỗ có ngọn đèn gắn vào đó, từ từ nhếch lên.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp gọi:

– Chờ một chút!

Bà đặt một chân lên đầu vai Lý Trại Hồng, nhảy qua mảnh gỗ.

Lý Trại Hồng thấy bà đã sang qua mảnh gỗ rồi, lập tức vận công lấy đà chòi manh tay vào vách hố, đẩy bật thân hình ra, chụp lấy mảnh gỗ, đeo tại đó. Đoạn, nàng lộn ngược thân hình, chân đưa lên không, đáp xuống mảnh gỗ, cạnh Nguyệt Hoa Phu Nhân.

Bây giờ, mảnh gỗ từ từ lên cao.

Bên trên, có giọng nói lạnh lùng vang xuống:

– Các vị quả thật to gan! Các vị không sợ là ta sẽ hại các vị một lần nữa à?

Nguyệt Hoa Phu Nhân kinh hãi, song vẫn làm tỉnh, ung dung đáp:

– Chúng ta tin ngươi, nên yên tâm bước lên mảnh gỗ, giả như ngươi muốn giở trò quỷ quái gì, thì điều đó hoàn toàn tùy thuộc nơi ngươi, sanh mạng của chúng ta dù quý, vẫn không quý bằng một chữ tín, ngươi không giữ chữ tín, là quyền của ngươi, còn chúng ta thì không thể không tin ngươi, bởi hoài nghi đồng nghĩa với khinh miệt. Bình sanh, chúng ta không hề khinh miệt ai, kể cả trẻ nít.

Người bên trên bật cười ha hả:

– Nếu bây giờ ta có muốn làm gì, thì các vị cầm như con cá nằm trên thớt, tuy nhiên, các vị cứ yên trí, ta nói ra lời nào là giữ nguyên lời đó. Còn như vấn đề đối phó với các vị, thì vội gì cho ta chứ? Ta cứ đợi các vị lên đây, rồi đường hoàng mà đối phó, quang minh chánh đại mà đối phó.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hừ một tiếng:

– Thế sao ngươi cứ dài dòng lảm nhảm? Hăm dọa bọn ta làm gì?

Người bên trên cười nhẹ:

– Để xem các vị có can đảm hay không vậy thôi. Xem các vị có sợ bị buông rơi xuống đáy hố hay không!

Mảnh gỗ được kéo nhanh hơn, lên gấp hơn. Trong thoáng mắt, mảnh gỗ lên ngang chỗ Lý Trại Hồng đã nói, chỗ đó theo lời nàng thì mường tượng một cửa hang. Mảnh gỗ dừng lại. Nhưng, nơi cửa hang, chẳng có một bóng người.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cao giọng:

– Ngươi ở đâu?

Không một tiếng đáp từ cửa hang phát ra.

Chờ một chút, chẳng nghe động tịnh gì, Nguyệt Hoa Phu Nhân quyết định một chủ ý. Bà cúi mình xuống, nhặt ngọn đèn sáp, cầm chắc nơi day, rồi nhún chân nhảy qua cửa hang.

Lý Trại Hồng cũng lập tức rời mảnh gỗ, nhảy theo bà.

Nguyệt Hoa Phu Nhân vừa đưa ngọn đèn soi rọi phía trước mặt, vừa đi tới.

Điều bà lo ngại nhất, là rắn, bà lo ngại rắn xuất hiện tấn công hơn là sợ người.

Bởi, rắn là vật nhỏ, nó di động không gây tiếng gió như một người, bà khó phát hiện kịp thời. Rắn, là vật mà bà thấy khó khăn đối phó hơn người, và dĩ nhiên nó độc hơn người.

Như bà đã nghe người trong vách nói, sơn cốc nầy có cái tên là Thiên Xà Cốc, vả lại bà cũng đã gặp loài rắn độc mấy lượt rồi.

Nhưng, lạ làm sao, cả hai đi được một quãng đường khá dài rồi, vẫn không gặp một con rắn nào cả.

Rắn, vắng bóng, chẳng nói làm chi, người cũng vắng bóng luôn. Thế thì, kẻ đối thoại với họ ở đâu?

Con đường cả hai lần theo để đi tới, cũng khá rộng, chỉ phải cái là hơi ẩm thấp, phàm nơi nào ẩm thấp thì không khí cũng có phần nặng nề, họ thở không khí đó, hơi khó chịu hơn là lúc ở tại lòng hố sâu.

Họ đi tới, càng đi, họ càng có cảm giác là mình đi lên đỉnh núi. Càng lên cao, không khí càng khô ráo, chốc chốc Nguyệt Hoa Phu Nhân ngẩng mặt nhìn lên.

Qua một lúc nữa, bà thấy bên trên có một lỗ hổng, chừng như nơi đó là một lối xuất nhập của con đường hang nầy.

Qua lỗ hổng, ánh sao chiếu mờ mờ, ánh sao không giúp soi đường rõ ràng, nhưng cũng làm cho phu nhân cao hứng, bởi thấy ánh sao là thấy khung trời quang đãng, là thấy tự do.

Gấp bước hơn, bà tiến nhanh lên, thoát ra ngoài.

Lý Trại Hồng cũng bám theo sát gót.

Ra đến bên ngoài rồi, phu nhân sửa lại mái tóc cho thẳng, đoạn thở phào:

– Đến nơi nầy, dù sao thì cũng khoan khoái hơn!

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Cái hang đó, xem ra cũng không đến đổi quá ngột ngạt!

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười, hỏi nàng:

– Bỏ qua vấn đề ngột ngạt, cô nương có nhận thấy cái gì khác lạ chăng?

Lý Trại Hồng kinh ngạc:

– Tôi có thấy chi đâu, phu nhân? Thế có gì lạ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân thổi tắt ngọn nến, cất kỹ vào mình, rồi từ từ thốt:

– Già biết, cô nương không hề chú ý, mà già cũng chẳng dám tiết lộ cho cô nương biết, bởi sợ cô nương không cầm lòng được rồi kêu thét lên, rất có thể vì cô nương mất bình tĩnh mà sẽ có nhiều sự phiền phức phát sanh. Vừa rồi, chúng ta đã vượt qua một cái hang rắn đó, trong hang có hằng ngàn, hằng vạn con độc xà, chứ chẳng phải ít đâu.

Lý Trại Hồng không tin, hỏi:

– Thế tại sao lại chẳng có một con rắn nào xuất hiện?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười nhẹ:

– Chỉ tại ánh sáng của ngọn nến nầy. Màu rắn với màu ánh sáng đồng nhau, do đó không có phản ánh rõ rệt cho nên cô nương không phân biệt ...

Lý Trại Hồng vẫn chưa chịu tin:

– Rắn có nhiều như vậy, ít nhất cũng có một số nhúc nhít chứ, chúng nhúc nhít là mình thấy ngay, nhưng suốt đoạn đường chúng ta đi qua, nào có động đậy chi đâu?

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:

– Chỉ tại ngọn đoản chúc nầy. Nến, làm bằng một chất tủy cá biển đặc biệt.

Lúc đốt lên, nó tỏa một mùi cũng đặc biệt, cái mùi đặc biệt đó có công hiệu làm cho các loại độc trùng như rắn, rết, khiếp phục ...

Chừng như Lý Trại Hồng có phần nào tin tưởng rồi, bởi nàng có ngửi một mùi lạ, lúc đó nàng nghĩ là mùi từ người phu nhân bốc ra thôi. Cho nên nàng không chú ý. Đã khởi sự tin, tự nhiên nàng phải phục, nàng thốt:

– Phu nhân có kiến thức rất rộng ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài, chận lời:

– Bất quá, nhân một cái may mà biết được vậy thôi, chứ kiến thức gì sâu rộng mà cô nương quá khen! Năm xưa, trượng phu của già, từ hải ngoại trở về, có mang theo chất tủy cá đó và giải thích cho già hiểu công dụng của nó. Hơn nữa, tại Đại Ba Sơn là nơi già quy ẩn, có rất nhiều rắn độc, già có thực nghiệm chất tủy cá đó mấy lần, do đó mới hiểu như già vừa giãi bày với cô nương. Rất tiếc là già không tưởng trên bước đường luân lưu nầy, lại có dịp cần đến nó, nên không mang theo.

Lý Trại Hồng tỉnh ngộ:

– Thảo nào! Thoạt đầu, tôi hết sức lấy làm lạ tại sao phu nhân lại tiếc rẻ một đoạn nến vô giá trị như vậy. Đã nhặt nó rồi, phu nhân lại còn trân quý như châu ngọc. Thì ra, tại vì nó có tác dụng ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:

– Cái tác dụng của nó phi thường lắm, trong sơn cốc nầy, hẳn là có người giỏi thuật huấn luyện rắn, già thấy đoạn nến còn thừa, bỏ đi thì uổng, nên nhặt lên, ngờ đâu lại có chỗ dùng ngay!

Lý Trại Hồng toan nói gì đó, bỗng có tiếng xào xào vang lên, càng phút càng lớn và lớn rất nhanh.

Nàng nhìn về phía đó, bất giác biến sắc mặt, suýt buộc miệng kêu thét lên.

Nhưng Nguyệt Hoa Phu Nhân kịp thời ngăn chặn:

– Đừng sợ, đã có già đối phó.

Bà nói, chỉ để trấn an Lý Trại Hồng, chứ thực ra, bà cũng kinh khiếp như nàng. Bởi, từ phía tả của hai người, một quái vật xuất hiện, nói là quái vật bởi cả hai chưa từng thấy một con vật nào như thế lần nào trong đời.

Con vật, cao bằng người, dưới ánh sao mờ mờ, nó hiện ra với màu xanh đen của lớp vảy trên mình, con vật đầu người chân người, chân trước giống tay người, chỉ khác ở lớp vảy bóng sáng thôi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân vung kiếm, toan chém tới, con vật bổng cất tiếng người:

– Đừng cử động! Trong lúc nầy, ta không muốn động thủ với các vị.

Giọng nói rất lạnh lùng, tuy nhiên không phải là âm thinh của người vừa rồi.

Dù ngừng tay lại, Nguyệt Hoa Phu Nhân vẫn phòng thủ như thường, bà hoành kiếm ngang ngực, sẵn sàng phát xuất chiêu công nếu quái vật nhúc nhít.

Bà quát:

– Ngươi không được bước tới!

Lý Trại Hồng cũng hét lên:

– Ngươi là người hay là yêu quái ...

Qua âm thinh của quái vật, nàng đoán là một nữ nhân.

Quái vật cười lạnh, thốt:

– Lý Trại Hồng! Thấy hình dáng của ta, ngươi không nhận ra ta là ai, cũng được đi. Nhưng nghe âm thinh của ta, ngươi vẫn chưa nhận ra nữa sao?

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 44

Rắn, Người Hay Thần?

Quái vật thốt xong đưa tay vuốt mặt.

Thì ra trên gương mặt có một lớp da rắn che kín, theo tay vuốt lớp da rắn rơi xuống, gương mặt thật phô bày với đôi mắt to, đôi mắt tinh anh lạnh người.

Lý Trại Hồng kêu lên kinh hãi:

– Sư muội! Trời! Sư muội đây sao?

Quái vật không phải ai khác hơn là Liễu Y Ảo.

Liễu Y Ảo lạnh lùng thốt:

– Lý Trại Hồng! Ngươi đừng gọi ta là sư muội nữa. Tại Thần Nữ Phong, ngay từ cái phút ngươi lập ý giết ta thì tình nghĩa giữa chúng ta đã dứt đoạn rồi.

Lý Trại Hồng giật mình. Nàng cúi đầu hồi ức lại những sự việc đã qua, nhìn nhận là mình có tàn nhẫn đối với Liễu Y Ảo. Bây giờ gặp lại Liễu Y Ảo, nàng còn lời gì nói với người sư muội mà chính nàng đã muốn sát hại ngày trước?

Lâu lắm, nàng mới lắng đọng tâm tư, hỏi:

– Sư muội, làm sao sư muội đến chốn này?

Liễu Y Ảo cao giọng nhắc lại một lần nữa:

– Ta không phải là sư muội của ngươi!

Lý Trại Hồng thở dài:

– Sư muội! Dù sư muội oán hận ngu thơ đến thế nào, ngu thơ vẫn xem sư muội như bạn đồng môn ngày trước.

Liễu Y Ảo cười lạnh:

– Quý thay cái tình đồng môn của ngươi dành cho ta. Cái tình đồng môn đó quý đến độ chính ngươi trước hết đề nghị giết ta hôm ấy trên Thần Nữ Phong.

Lý Trại Hồng nghiêm sắc mặt:

– Phải! Chính ngu thơ đề nghị như vậy. Bởi ngu thơ từng dìu dắt sư muội từ bước đi cho đến lúc sư muội trưởng thành nên ngu thơ hiểu sư muội hơn ai hết, trong con người hiền dịu của sư muội có ẩn ước điểm hung tàn. Trước mặt đại sư tỷ, sư muội còn ức chế hung tánh. Ngoài ra, giả như Quan Sơn Nguyệt bằng lòng lấy sư muội làm vợ thì hắn có thể cảm hóa sư muội. Nhưng đại sư tỷ quy ẩn rồi, mà Quan Sơn Nguyệt cũng khước từ cuộc hôn nhân đó. Ngu thơ nghĩ còn ai đâu ức chế nổi sư muội. Ngu thơ không còn cách nào khác hơn là ...

Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng:

– Bây giờ ngươi còn nghĩ là nên giết ta nữa chăng?

Lý Trại Hồng thấy đối phương quyết đoạn tình dứt nghĩa, nên không cần phải giữ thái độ hòa dịu nữa. Nàng gật đầu:

– Phải! Ta vẫn còn nghĩ như vậy. Chỉ vì công lực của ta không đủ thực hiện ý nguyện đó chứ ta luôn luôn vẫn giữ nguyên ý nghĩ. Tuy nhiên, ta cần giải thích cho ngươi rõ điều này, là dù ta có ý nghĩ giết ngươi, tình đồng môn chẳng bao giờ dứt đoạn, rất có thể sau khi giết ngươi rồi ta lại chết theo ngươi. Giết ngươi để ngăn chận những tội ác chưa thành hình, giết ngươi là vì đại nghĩa, chết theo ngươi là vì tình riêng giữa chúng ta.

Lời nói của nàng đúng đạo lý quá.

Dù niềm hận đang bốc mạnh trong lòng, Liễu Y Ảo cũng phải xúc động.

Nhưng nàng cười lạnh hỏi:

– Thật sự ngươi muốn chết theo ta? Ngươi bằng lòng cùng chết với ta?

Lý Trại Hồng thở dài:

– Tại sao lại không thật? Tại sao lại không bằng lòng? Đời là cõi mộng, tất cả là hư vô, ta có lưu luyến chi trên đời này mà còn tham sanh úy tử?

Liễu Y Ảo hơi dịu thái độ khi nghe Lý Trại Hồng nói lên câu đầy sự chán ngán thế thái nhân tình. Nàng «hừ» nhẹ một tiếng rồi trầm giọng thốt:

– Lý Trại Hồng, ta không đề cập đến bất cứ ai khác, riêng ngươi thì ta có thể thông cảm phần nào mà không nở đối xử quyết liệt. Ta tin rằng khi lập ý giết ta ngươi chẳng hề bị một niềm tư nào chi phối. Một ngày nào đó, nếu ta thích chết thì chắc chắn là ta phải tìm đến ngươi, ta chết để thành toàn ý niệm của ngươi như ngươi vừa tỏ bày. Ta sẽ tạo dịp cho ngươi tự tay hạ sát ta. Nhưng hiện tại thì chưa được đâu Lý Trại Hồng, bởi ta còn nhiều việc chưa thanh toán.

Lý Trại Hồng trầm ngâm một chút:

– Tại sao ngươi lại ở đây?

Liễu Y Ảo căm hờn:

– Tại sao ta không thể ở đây? Ta không ở đây thì ở đâu chứ? Ở đây cũng như bất cứ nơi nào trong hoàn vũ, trừ một đỉnh Thần Nữ Phong, ta vẫn có thể trụ cư cả. Tạ Linh Vận không buông tha ta, các ngươi lại theo đuổi ta, ai ai cũng muốn giết ta mà ta thì thân cô thế cô, tài kém. Trong khi ta chưa muốn chết, tự nhiên ta phải tìm chỗ dung thân chứ. Cái chỗ dung thân đó ít nhất cũng giúp ta được hai điều, là vừa có người bảo đảm an toàn cho ta lại vừa ở ngoài tầm truy nã của các ngươi.

Lý Trại Hồng khoát tay hỏi lại:

– Ngươi hiểu sai ý ta. Ta muốn biết tại sao ngươi biến dạng như vậy.

Liễu Y Ảo cười lạnh:

– Lối ăn mặc của ta? Ngươi đừng khinh thường loại y phục này. Y phục của ta là một thứ giáp báu do da linh xà tạo thành, ta mặc thứ bửu giáp linh xà này là đừng ai mong làm thương tổn đến ta nổi.

Có tiếng xào xào vang lên trong không gian.

Liễu Y Ảo tiếp:

– Xà Cơ bảo ta đưa các ngươi đi đó, vậy hãy theo ta gấp.

Nguyệt Hoa phu nhân hấp tấp hỏi:

– Xà Cơ là ai?

Liễu Y Ảo trừng mắt hỏi lại:

– Ngươi là ai?

Lý Trại Hồng hấp tấp đáp thay phu nhân:

– Lê phu nhân là thân mẫu của Quan công tử đó.

Liễu Y Ảo giật mình.

– Quan Sơn Nguyệt còn mẹ à? Sao hắn chẳng hề nói cho ta biết ...

Quan Sơn Nguyệt không nói với nàng? Nàng đề cập đến thời gian lúc trước hay hiện tại nàng có tiếp xúc với chàng nhưng chàng không tiết lộ gia đình?

Lý Trại Hồng cùng Nguyệt Hoa phu nhân đồng biến sắc hỏi gấp:

– Cô nương biết Quan Sơn Nguyệt ở đâu?

– Tự nhiên là biết!

Nguyệt Hoa phu nhân hỏi dồn:

– Hắn ở đâu?

Lý Trại Hồng cũng hỏi:

– Quan công tử ở đâu?

Liễu Y Ảo cười hì hì:

– Tại đây.

Nguyệt Hoa phu nhân thở phào. Ít nhất bà cũng được yên tâm về con trai bà.

Chàng ở đây tức là chàng còn sống. Nhưng bà chẳng yên tâm trọn vẹn được, bởi bà hiểu rõ nếu chàng hiện diện tại đây thì chẳng phải là do ý nguyện của chàng.

Không do ý nguyện, hẳn phải có sực bức bách nào đó. Tao ngộ này đối với chàng lành hay dữ? Bà lại hỏi:

– Làm sao hắn lại ở đây?

Liễu Y Ảo vẫn cười:

– Do một sự tấu xả khá ly kỳ. Ta vâng lịnh Xà Cơ đến Đại Trúc Hà tìm một con độc xà. Đến nơi đó bỗng nhiên ta thấy thi thể của hắn ...

Nguyệt Hoa phu nhân rú lên:

– Hắn chết rồi?

Liễu Y Ảo cứ cười:

– Lúc ta gặp hắn thì đúng là hắn chết song thân thể của hắn còn ấm, cũng may ta tìm được con rắn đó, cái mật rắn đó có năng hiệu cải tử hoàn sanh, ta cứu hắn sống lại.

Nguyệt Hoa phu nhân đưa tay vỗ trán:

– Tạ ơn trời phật! Ta vẫn còn trông thấy mặt con ta!

Liễu Y Ảo cười mỉa:

– Ngươi khoan cao hứng vội. Đừng tưởng dễ dàng gặp con ngươi đâu.

Nguyệt Hoa phu nhân giật mình:

– Tại sao?

Liễu Y Ảo lạnh lùng:

– Vì cái mật của con rắn đó. Mật rắn có quan hệ lớn lao đối với Xà Thần. Ta gấp cứu hắn nên cho hắn dùng mất đi cái mật rắn. Về đến đây không có mật hiến lên Xà Thần, ta đành nói thật. Xà Thần phải giữ hắn để thu hồi cái mật rắn ở trong người hắn.

Nguyệt Hoa phu nhân trố mắt:

– Xà Thần là ai?

Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng:

– Là chủ nhân Thiên Xà Cốc chứ còn ai nữa. Xà Thần cho là người cũng không đúng mà cho là rắn cũng không đúng luôn. Xà Thần là một quái vật không hơn không kém.

Nguyệt Hoa phu nhân toan hỏi thêm, nhưng từ trên không trung có tiếng xào xào vang xuống gấp rút.

Liễu Y Ảo hoang mang thốt:

– Xà Cơ lại thúc giục nữa rồi đó. Chúng ta không thể diên trì. Nếu ngươi còn thắc mắc điều gì thì cứ hỏi Xà Cơ.

Dừng lại một chút nàng tiếp:

– Ta cảnh cáo các ngươi một điều, là nếu các ngươi muốn bảo toàn tánh mạng của Quan Sơn Nguyệt thì nên giữ gìn ý tứ, đừng làm điều chi đắc tội với Xà Cơ. Bởi chỉ có Xà Cơ mới có thể ngăn trở Xà Thần sát hại Quan Sơn Nguyệt.

Nàng thốt xong, chạy đi trước.

Nguyệt Hoa phu nhân và Lý Trại Hồng lập tức theo sau, người nào cũng nặng lòng nghi hoặc.

Qua khỏi một đoạn đường tối tăm đến một khoảng đầy rắn lớn nhỏ bất đồng, nhưng những con rắn này được huấn luyện kỷ, người đi mặc người, rắn bò, rắn nằm mặc rắn, chúng chẳng hề ngăn trở.

Qua luôn khoảng đường đầy rắn họ đến một gành đá, bên dưới gành đá có mấy ngôi nhà bằng đá, đá được mài láng, chiếu sáng ngời.

Trước tòa nhà có tảng đá lớn, trên tảng đá có rắn khoanh tròn, những con rắn ở đây to lớn quá chừng, mình khoanh, đầu buông thõng ngoài mép tảng đá.

Từ xa xa trông mường tượng một bức rèm. Một bức rèm quái dị nhất trần gian, đầu rắn chao chao như gió lay động rèm.

Muốn vào nhà phải chui qua bức rèm rắn đó. Liễu Y Ảo đưa tay vẹt những đầu rắn lòng thòng qua một bên.

Rắn thè lưỡi đỏ như lửa quơ qua quơ lại, trông rất lạnh mình.

Nguyệt Hoa phu nhân vô hình trung rút kiếm đưa ngang phía trước phòng bị.

Liễu Y Ảo đã vào nhà rồi. Từ bên trong nàng gọi vọng ra:

– Các ngươi yên trí, chúng không cắn mổ chi đâu. Bất quá chúng dọa các ngươi như đùa vậy đó. Tuy nhiên nếu các ngươi chọc giận chúng, chúng sẽ làm dữ.

Nguyệt Hoa phu nhân do dự một chút, cất kiếm vào mình rồi chui qua dưới đầu rắn.

Đúng vậy khi phu nhân đến gần, những con rắn đó uốn cong mình ngóc đầu lên nhường cho bà chui qua.

Lý Trại Hồng theo sau bà, mặt mày tái nhợt nhạt.

Thạch thất rất rộng lại sạch sẽ. Bàn ghế giường, tất cả đều bằng đá. Những vật dụng đó đều được phủ bên trên bằng một lớp da rắn.

Trên giường, một nữ nhân đang ngồi xếp bằng tròn, thân hình trần truồng, độ hai mươi sáu hai mươi bảy tuổi, nhan sắc cực kỳ diễm lệ, làn da trắng mịn không có một vết sẹo nhỏ nào. Nhưng nhan sắc của nữ nhân dù đẹp cũng không làm cho ai dám chăm chú nhìn, bởi thân hình nàng đang có một con rắn quấn quanh. Con rắn kỳ lạ, lớp da trắng toát, vóc lớn, mình dài. Nó quấn quanh người nữ nhân rất khéo, che khuất những bộ phận kín của nàng.

Liễu Y Ảo cởi bỏ lớp giáp da rắn bên ngoài, y phục bên trong của nàng cũng ngụy dị vô cùng, bên trên có một mảnh vải che ngực, bên dưới có một quần ngắn, quần chỉ lên đến rún thôi. Tay, vai, đùi, chân dĩ nhiên là được để trống lộ.

Nữ nhân ngồi trên giường vừa trông thấy Nguyệt Hoa phu nhân và Lý Trại Hồng liền giữ lễ đứng lên, cười nhẹ thốt:

– Mời hai vị ngồi.

Nàng đưa tay chỉ ghế đá.

Nguyệt Hoa phu nhân thốt mấy lời khiêm tốn rồi ngồi xuống.

Lý Trại Hồng thấy da rắn sợ quá không dám ngồi, đành đứng bên cạnh Nguyệt Hoa phu nhân.

Liễu Y Ảo giới thiệu:

– Đây là Xà Cơ như tôi đã nói với các vị.

Xà Cơ điểm một nụ cười:

– Liễu Y Ảo, Xà Cơ là cái tên của ta dùng để xưng hô trong Thiên Xà Cốc, chứ đối với người ngoài ngươi không nên giới thiệu như vậy. Người phải nói tên họ của ta chứ.

Liễu Y Ảo giật mình:

– Tôi vào đây gần được một tháng rồi, có khi nào nghe Xà Cơ nói cho biết tên họ thật đâu? Làm sao tôi giới thiệu được?

Xà Cơ lại cười rồi tiếp:

– Được rồi, lỗi tại ta. Ta có nói tên họ thật của ta cho Quan Sơn Nguyệt, ta cứ tưởng là hắn có cho ngươi biết sau ...

Liễu Y Ảo biến sắc. Nhưng liền sau đó nàng lấy lại bình tĩnh, cười lên một tiếng rồi thốt:

– Từ ngày Quan Sơn Nguyệt đến đây, trước sau tôi chỉ gặp hắn hai lần và mỗi lần đều có Xà Thần bên cạnh. Tôi và hắn dù muốn nói gì với nhau cũng không thể nói được.

Xà Cơ gật đầu:

– Ta chẳng trách ngươi đâu. Thế này thì ta phải tự giới thiệu mà thôi.

Nàng nhìn Nguyệt Hoa phu nhân tiếp:

– Thiếp họ Giang, dòng nước chảy về Đông. Tên là Phàm, cánh buồm của con thuyền vượt sông dài xuôi ra biển Đông. Thiếp nghĩ cái tên đó nghe hẳn phải êm tai hơn hai tiếng Xà Cơ. Bởi thiếp ở trong Thiên Xà Cốc này hơn mười sáu năm rồi nên cái tên đó không còn ai nhắc nhở đến nữa.

Nàng lộ vẻ âu sầu.

Trước đó nghe Liễu Y Ảo đề cập đến Xà Cơ, Lý Trại Hồng đinh ninh Xà Cơ phải là con người hung ác tàn độc lắm, cỡ La Sát, cỡ xú phụ. Bây giờ trông thấy người, nàng không còn giữ ấn tượng lúc ban đầu nữa. Hơn thế, một hảo cảm phát sanh ngay, lập tức nàng cười tự giới thiệu:

– Tiện thiếp là Lý Trại Hồng ...

Giang Phàm mỉm cười:

– Tôi biết! Hôm nay Liễu Y Ảo có thấy các vị đến Kỳ Sơn.

Lý Trại Hồng giật mình.

Giang Phàm lại cười tiếp:

– Chỉ vì các vị có dẫn theo con lạc đà, mà lại là con Minh Đà. Liễu Y Ảo nói rằng Quan Sơn Nguyệt rất mến con thú đó lắm. Tôi có ý muốn gây hứng thú cho Quan Sơn Nguyệt nên xin với Xà Thần bắt con thú về đây, ngờ đâu làm kinh động đến các vị, trước hết là một cô bé ...

Lý Trại Hồng hấp tấp thốt:

– Nó là Linh Cô, nó ...

Giang Phàm gật đầu:

– Nó chẳng sao đâu, các vị đừng lo ngại cho nó. Xà Thần rất thích những đứa bé, chẳng bao giờ làm hại đến nó.

Nàng nhìn qua Nguyệt Hoa phu nhân hỏi:

– Còn ...

Nguyệt Hoa phu nhân đáp chận:

– Già là Lê Thu Cúc, mẫu thân của Quan Sơn Nguyệt.

Giang Phàm «ạ» một tiếng lớn kêu lên:

– Thì ra đây là Nguyệt Hoa phu nhân, mẫu thân của Quan Sơn Nguyệt?

Vừa nhìn nhận nhau cách đây không lâu? Phu nhân dưỡng tánh tu tâm tại Đại Ba Sơn? Làm sao lại xuống núi và lạc lõng đến tận nơi này?

Nguyệt Hoa phu nhân giật mình:

– Sơn Nguyệt nhi thuật lại với cô nương?

Giang Phàm cười nhẹ:

– Chúng tôi có đàm thoại với nhau rất lâu, biết được thân thế ly kỳ của hắn, tôi vô cùng thích thú, nhưng xót xa cho hắn vô cùng. May thay mẹ con được trùng phùng ...

Nguyệt Hoa phu nhân thở dài:

– Thật già có lỗi với con trai già lắm. Bởi vì già không trọn tình mẹ, già không nuôi dưỡng nó, không giáo dục nó. Già quyết tâm từ ngày gặp nó là phải dành cho nó tất cả ưu ái để chuộc lại những khiếm khuyết của ngày nào.

Giang Phàm lại cười hì hì:

– Hắn hiên ngang quật cường lạ thường. Hắn thừa sức tự chiếu cố lấy mình, phu nhân không cần phải bận tâm lo cho hắn ...

Nguyệt Hoa phu nhân nóng nảy:

– Hiện giờ nó ra sao?

Giang Phàm tiếp:

– Mạnh khỏe như thường chứ sao? Hay đúng hơn, hắn đang ở trên đà bình phục và tình trạng của hắn càng ngày càng khả quan, hiện tại thì chẳng có gì đáng lo cho hắn nữa. Phu nhân phải biết trước kia hắn thọ thương rất nặng, từ trên gành đá rơi xuống dòng nước ở dưới sâu, đầu lại va chạm vào tảng đá nổi, hắn tránh được cái nạn chết chìm trong nước thì phải chịu vỡ đầu, hắn còn sống được là phúc đức tổ tông lưu lại rất dày đấy nhé. Thật tôi chẳng hiểu tại sao với võ công đó, hắn lại sơ thất một cách lạ lùng.

Nguyệt Hoa phu nhân hơi biến sắc, nhưng bà chỉ thở dài buông lơ lửng:

– Già cũng nghĩ như cô nương vậy. Chẳng hiểu tại sao nó lại vô ý vô tứ đến thế. Cho nên khi gặp nó, già sẽ hỏi cho biết sự thể làm sao.

Giang Phàm lại cười:

– Bây giờ thì phu nhân không cần phải vội, bởi chẳng còn gì phải lo ngại cho hắn nữa.

Nàng nhìn sang Liễu Y Ảo một thoáng rồi tiếp:

– Nhờ Liễu Y Ảo đấy, nàng cho hắn uống một cái mật rắn, loại mật đó là thánh dược có năng lực cải tử hoàn sanh. Và riêng tôi, tôi cũng có cho hắn uống thêm mấy thứ linh dược khác nữa. Bất quá trong mấy hôm nữa là hắn sẽ khôi phục tình trạng bình thường.

Phu nhân cảm kích vô cùng:

– Đa tạ cô nương chiếu cố nó.

Bà hỏi:

– Già có thể gặp nó chứ?

Giang Phàm tắt nụ cười, lộ vẻ khó khăn:

– Phu nhân hãy thư thả, để tôi nghĩ xem có cách chi chăng. Hiện tại hắn đang bị chính Xà Thần giám thị.

Phu nhân giật mình:

– Xà Thần là ai?

Giang Phàm thở dài:

– Xà Thần là chủ nhân của muôn loài rắn tại Thiên Xà Cốc. Xà Thần là chủ nhân của tôi và Liễu Y Ảo, hai chúng tôi hành sự dưới quyền sai khiến của y, cho nên đối với thỉnh cầu của phu nhân, chúng tôi không có quyền quyết định.

Phu nhân thốt gấp:

– Già đích thân đến gặp Xà Thần yêu cầu.

Giang Phàm lắc đầu:

– Phu nhân không cần phải gặp y gấp.

Nguyệt Hoa phu nhân lấy làm lạ:

– Tại sao?

Giang Phàm đáp:

– Bởi gặp người chẳng phải là việc dễ dàng, có gấp cũng thế thôi. Huống chi, tự nhiên sau rồi phu nhân cũng có dịp gặp người, thì cần gì phải nóng nảy làm cái việc mơ hồ?

Nguyệt Hoa phu nhân cau mày:

– Cái dịp gặp Xà Thần? Còn lâu chăng?

Giang Phàm lắc đầu:

– Xà Thần sẽ đến đây trong giây lát nữa gặp hai vị.

Nguyệt Hoa phu nhân trố mắt:

– Xà Thần đến đây? Có việc chi chăng?

Giang Phàm cười bí hiểm:

– Các vị đừng quên là giữa các vị và Xà Thần có sự ước hội nhưng chưa tròn.

Nguyệt Hoa phu nhân kinh ngạc:

– Bọn già ước hội với Xà Thần từ lúc nào? Bọn già có biết Xà Thần là ai đâu.

Giang Phàm lại cười:

– Phu nhân từng vượt qua ba thử thách của Xà Thần.

Lý Trại Hồng phẫn nộ:

– Thế ra Xà Thần là quái vật đã mấy lượt toan hãm hại phu nhân và tôi.

Giang Phàm tặc lưỡi:

– Tôi mong khi gặp Xà Thần, các vị đừng có thái độ vô lễ như vậy.

Lý Trại Hồng sôi giận hơn:

– Tại sao tôi phải thủ lễ chứ? Thủ lễ với con người hãm hại mình suýt chết mấy lượt thì vô lý quá.

Giang Phàm cười nhẹ:

– Xà Thần không hề có ý sát hại hai vị. Y làm như thế là để trắc nghiệm võ công của nhị vị thôi. Giả như các vị kém tài, rơi vào cạm bẫy thì lập tức Xà Thần sẽ ra tay cứu nhị vị, quyết chẳng có gì thiệt hại cho nhị vị.

Lý Trại Hồng không phục:

– Y đã hai lượt phóng độc xà, nếu độc xà cắn chúng tôi thì làm gì y cứu chữa kịp chứ?

Giang Phàm giải thích:

– Hai con rắn đó là loại ít độc hơn hết trong các loại rắn tại sơn cốc này. So với con rắn hiện quấn trên mình tôi đây thì hai con rắn đó được kể như người tu hành bên cạnh ác quỷ, dù cho rằng chúng độc chứ thật ra chúng thuộc loại hiền nhất đó.

Lý Trại Hồng lắc đầu:

– Khó tin lắm.

Giang Phàm cười cười:

– Cô nương cứ hỏi Liễu Y Ảo xem có đúng vậy chăng?

Liễu Y Ảo chen vào:

– Xà Cơ nói đúng sự thật đấy. Chẳng bao giờ Xà Thần hãm hại nữ nhân, nhất là những nữ nhân có chút tư sắc và võ công, tư sắc và võ công càng khá thì càng hưởng sự ưu ái. Người có cái hoài bão bao la là quy tụ tất cả nữ nhân đẹp, giỏi võ công về Thiên Xà Cốc này sống quay quần quanh y.

Giang Phàm lộ vẻ không vui:

– Liễu Y Ảo, ngươi không nên nói như thế. Xà Thần nào đã có ý gì với ngươi đâu.

Liễu Y Ảo cười lạnh:

– Y có ý gì với tôi sao được chứ? Một quái vật nửa rắn nửa người thì làm sao có ý gì với tôi được chứ?

Giang Phàm hấp tấp chận lại:

– Liễu Y Ảo! Ngươi không muốn sống nữa hay sao chứ? Xà Thần mà nghe được những lời ngươi vừa nói đó thì ta chẳng hiểu cái hậu quả sẽ đến cho ngươi như thế nào.

Liễu Y Ảo còn nư giận:

– Thì đã sao? Hậu quả gì? Bất quá y sẽ quăng tôi vào hầm rắn là cùng chứ gì hơn? Như vậy còn dễ chịu hơn là phải sống bên cạnh một quái vật, để suốt ngày suốt đêm vừa tởm vừa sợ.

Giang Phàm thở dài:

– Liễu Y Ảo! Ta biết rõ tâm tình ngươi. Lúc ta mới đến đây thì ta cũng có cảm nghĩ như ngươi vậy. Có thể cho rằng ta khó chịu hơn ngươi gấp mấy lần.

Nhưng ngày tháng qua dần, năm chồng năm, ta nhận ra y cũng chẳng đến đổi nào đáng trách. Và đối với chúng ta, ít nhất y cũng dành nhiều ưu ái.

Liễu Y Ảo cười lạnh mấy tiếng, toan nói gì đó.

Giang Phàm vội khoát tay:

– Đừng, đừng nói chi nữa Liễu Y Ảo! Giả như ngươi muốn học «Linh Xà Kiếm Pháp» thì ngươi cần phải nhẫn. Có cái gì khó chịu cũng cố mà chịu, chịu quen rồi cũng đỡ lắm đấy, ngoài ra ngươi được cái lợi học tập.

Liễu Y Ảo nín lặng.

Nguyệt Hoa phu nhân lấy làm lạ hỏi:

– Võ công Xà Thần cao lắm à?

Giang Phàm gật đầu:

– Nào chỉ cao mà thôi. Cao đến độ không lường nổi mới đáng nói chứ. Cho nên tôi xin khuyên phu nhân đừng chống đối Xà Thần.

Nguyệt Hoa phu nhân suy nghĩ một chút:

– Chỉ cần y đừng làm gì thương tổn đến con trai già thì thôi già sẽ không chống đối y đâu. Bất quá già có nghe ...

Giang Phàm hấp tấp thốt:

– Tự nhiên là phải có biện pháp.

Nguyệt Hoa phu nhân nóng nảy:

– Biện pháp như thế nào?

Giang Phàm cúi thấp đầu, hạ thấp giọng luôn:

– Hiện tại thì chưa có song chắc chắn rồi sẽ có. Phu nhân nên bình tĩnh, đừng quá vội vàng, chúng ta sẽ nghĩ ra một biện pháp lưỡng toàn.

Bỗng một giọng nói lạnh lùng từ phía trong vọng ra:

– Tuyệt đối chẳng thể có một biện pháp lưỡng toàn được. Trên thế gian này chỉ có mỗi một con Độc Giác Hàn Xà duy nhất, mà ta thì cũng chỉ có mỗi một cơ hội duy nhất thoát thai hoàn cốt. Do đó ta chẳng bao giờ phóng thích tiểu tử.

Nguyệt Hoa phu nhân cùng Lý Trại Hồng đồng thời quay mình lại, bất giác cả hai cùng rú lên một tiếng kinh khiếp.

Một quái vật hiện ra trong tầm mắt của họ, quái vật có đầu người mình rắn.

Tóc của y rất dài, rối bù quanh hàm râu mọc loạn, miệng mắt tai giống người nhưng hơn người ở một oai khí đáng sợ, thân để trần, đôi cánh tay nổi thịt bắp cuộn vòng, toàn thân cuồn cuộn thịt từng cục, cục bằng nắm tay trở lên.

Phần dưới hắn phải có hai chân, song đôi chân mường tượng hai đuôi rắn.

Từ hông trở xuống, từ miếng vảy đỏ hồng chớp ngời lợp da, lạ một điều là đôi chân trên lớn dưới vót nhọn, phần chấm đất to bằng ngón tay cái.

Nhìn qua Nguyệt Hoa phu nhân và Lý Trại Hồng, người đó cười lạnh thốt:

– Bây giờ các vị đã thấy Xà Thần rồi. Xà Thần là gì? Là người giữa loài rắn, là thần giữa loài người.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 45

Tình Chàng Ý Thiếp

Niềm sợ hãi còn gây chấn động, Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng không nói được tiếng nào.

Xà Thần bật cười ha hả:

– Cho nên, ta rất ưa thích nữ nhân biết vũ công, ta biết họ như lòng bàn tay, họ là những con người can đảm, thấy ta rồi, không đến đổi quá sợ hãi mà chết ngay! Ta khen các ngươi đó, thấy ta, các ngươi chỉ kêu lên một tiếng thôi! Chứ còn Liễu Y Ảo thì thảm lắm, gặp ta lần đầu, nàng hôn mê mà ngã liền!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trấn định tâm thần, thốt:

– Nếu bọn già không nghe người mô tả hình dáng của Xà Thần trước, thì vừa trông thấy Xà Thần, hẳn bọn già khó tránh ...

Chừng như Xà Thần có phần nào thất vọng:

– Nói như thế, nghĩa là trên thế gian nầy chẳng có một người nào thấy ta mà chẳng sợ?

Đến lượt Lý Trại Hồng bình tịnh lại rồi, đáp:

– Người như Xà Thần, nếu cho rằng có ai đó thấy mà không sợ, thì đúng là mình tự khi, và cũng khi người luôn!

Xà Thần ngẩng cao mặt, bất bình:

– Sai! Sai rất xa! Vẫn có một người, thấy ta rồi, chẳng những không sợ, trái lại còn tỏ vẻ thân thiết! Vô cùng thân thiết!

Lý Trại Hồng lắc đầu, không tin:

– Nếu quả thật có người như vậy, thì cái mật của kẻ đó hẳn phải to không tưởng nổi!

Xà Thần tức giận:

– Tại sao không có người như vậy chứ? Các ngươi biết không, chính cái con bé cùng đi với các ngươi đó!

Lý Trại Hồng giật mình:

– Xà Thần muốn nói đến Linh Cô?

Xà Thần gật đầu:

– Phải, chính nó! Và ta nhận ra, nó là kẻ đáng yêu nhất, bình sanh ta mới gặp lần đầu. Nếu không có nó cầu tình cho các ngươi, thì khi nào ta lại đối xử hòa dịu với các ngươi như thế nầy?

Lý Trại Hồng cười lạnh toan mỉa lại một câu, Nguyệt Hoa Phu Nhân sợ nàng xúc phạm đến đối phương rồi sanh ra phiền phức, nên chận nói:

– Bọn già đến đây, vốn không với ác ý, trước hết vì công việc truy tầm con Minh Đà, sau đó tìm Linh Cô, khiến lạc bước đến quý cốc ...

Xà Thần bật cười quái dị:

– Các ngươi biết là tiểu tử ở đây, tưởng nhân cơ hội đến cứu hắn. Có phải vậy chăng?

Nguyệt Hoa Phu Nhân không giấu, gật đầu liền:

– Phải! Cho nên, bọn già hy vọng Xà Thần lỏng tay một chút cho hắn được trở về với gia đình.

Xà Thần lắc đầu, cự tuyệt:

– Không được! Con bé đó cũng có van xin cho hắn mấy lượt rồi, ta không thể đáp ứng.

Nguyệt Hoa Phu Nhân dằn lòng, giữ bình tĩnh, tiếp:

– Hắn không làm chi đến đổi phải đắc tội với Xà Thần ...

Xà Thần bật cười ghê rợn:

– Hắn không làm gì đắc tội với ta, song hắn phạm hai điều cấm kỵ.

Nguyệt Hoa Phu Nhân dửng cao đôi mày:

– Xin Xà Thần giải thích rõ hơn!

Xà Thần đưa tay xoa vành râu mọc loạn quanh hàm, rồi quét hai chiếc đuôi qua lại chỗ đứng, đuôi là chân, quét như vậy thì thân hình của y phải nhít động.

Một lúc sau, y thốt:

– Thứ nhất, hắn là nam nhân, bình sanh ta tối kỵ nam nhân trong Thiên Xà Cốc. Nam nhân chỉ làm có mỗi một việc duy nhất, là làm mồi cho lũ rắn. Kẻ nào lạc lõng vào đây, kẻ đó đừng hòng sống sót mà rời khỏi cốc, nếu kẻ đó bất hạnh sanh ra với cái lốt nam nhân.

Nguyệt Hoa Phu Nhân bắt đầu nổi giận:

– Một con người đối kỵ đồng loại như vậy, hẳn là lương tâm táng tận rồi, trừ ra kẻ đó điên cuồng, mất cả thần trí.

Xà Thần cười lên ha hả:

– Việc đó, rất nhỏ mọn. Cái điều cấm kỵ do ta đặt ra thì cũng có thể do ta phế bỏ. Giang Phàm và Liễu Y Ảo đã từng van cầu ta phóng thích hắn, ta cũng có thể phóng thích hắn như thường chứ! Nhưng, hắn đã nuốt cái mật của con Độc Giác Hàn Xà, mất cái mật đó, ta không làm sao biến hai cái đuôi thành chân thiệt. Các ngươi thấy đó, người mà mang hai cái đuôi thay chân, thì phỏng còn thú vị gì? Ta phải giải trừ sự bực bội khó chịu cho ta chứ! Ta phải khôi phục nhân dạng chứ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân cười lạnh:

– Hình dạng của Xà Thần, do trời sanh mà có, làm sao đổi lốt được? Nuôi cái ý đổi lốt là nuôi mộng đấy.

Xà Thần nổi giận:

– Nói nhảm! Làm gì có cái việc trời sanh ta như thế nầy? Trước kia, ta cũng là người như các ngươi ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân kinh ngạc:

– Không lẽ cái thân thể hiện tại của Xà Thần, do người nào đó gây nên biến cải?

Xà Thần căm hận, gật đầu:

– Tự nhiên phải có người gây ra. Có người tạo thành cho ta cái hình dạng như ngày nay!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trố mắt:

– Ai?

Xà Thần hét:

– Mẹ ta!

Tiếng hét hận của y nghe não nùng quá chừng!

Nguyệt Hoa Phu Nhân thoáng biến sắc:

– Mẫu thân của Xà Thần? Tại làm sao lịnh đường làm thế?

Xà Thần sôi giận cực độ, lão gầm lên:

– Các ngươi không cần phải hỏi. Điều mà các ngươi nên biết hiện tại, là cái mật của con Độc Giác Hàn Xà đó sẽ giúp ta khôi phục nhân dạng. Tiểu tử làm mất vật quý của ta, hắn phải đền! Ta sẽ giết hắn, để thu hồi cái mật rắn trong người hắn.

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm ngâm một chút:

– Mật Hàn Xà đã tản mác trong người hắn, Xà Thần làm sao thu hồi?

Xà Thần cười rợn:

– Ta có biện pháp của ta! Đành là dược tánh của cái mật tản mác trong người hắn, tổn hao tự nhiên phải có, song bất quá chỉ mất mát một phần thôi, còn đến chín phần, chín phần đó hiện ở trong cơ thể hắn, chứ chưa tán hóa. Ta có cách thu hút chín phần đó, cho ta dùng.

Nguyệt Hoa Phu Nhân «hừ» một tiếng:

– Xà Thần định nuốt sống hắn à?

Xà Thần cười lạnh:

– Không nuốt trọn một lần, thì từ từ mà ăn, ăn đến hết thì thôi!

Lý Trại Hồng kêu lên thất thanh:

– Xà Thần nói cái gì? Xà Thần dám dùng thủ đoạn tàn nhẫn đó à?

Nhưng, Nguyệt Hoa Phu Nhân lại bình tịnh thốt:

– Già thấy Xà Thần làm thế là vô ích. Linh dược nếu quý, là cái tinh hoa của có còn nguyên vẹn, thành khối duy nhất, hợp nhất lại thì hiệu năng vô cùng, phân tán ra, là dược tánh phải yếu. Chặt tay chặt chân hắn, máu sẽ chảy, dược tánh mất tướng liền, Xà Thần chỉ thu hoạch một kết quả rất nhỏ, kết quả đó không giúp Xà Thần toại nguyện đâu!

Xà Thần liếc xéo phu nhân:

– Ngươi làm như về phương diện đó, ngươi thành thạo quá chừng!

Nguyệt Hoa Phu Nhân điềm nhiên:

– Cho nên, già khuyên Xà Thần đừng làm cái việc tổn nhân mà không lợi kỷ. Làm như vậy là kém trí, là ngu xuẩn.

Xà Thần cất tiếng cười vang:

– Ngươi cho rằng ta ngu, nên dụ hoặc ta phải không? Ngươi có thể lừa kẻ khác chứ với ta thì đừng hòng!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm giọng:

– Già nói thật, sao Xà Thần lại bảo là già lừa gạt?

Xà Thần bật cười hắc hắc:

– Đừng giả vờ thành tâm thực ý, ta biết rõ cái mưu của ngươi rồi. Nói thật với ngươi, ta không cần ăn thịt hắn, ta không cần giết hắn, cũng vẫn thu hồi cái mật được như thường.

Nguyệt Hoa Phu Nhân biến sắc:

– Xà Thần định dùng pháp Hồng Hấp?

Xà Thần cười vang:

– Cuối cùng, ngươi cũng nói được cái điều ta chưa nói ra!

Giang Phàm trố mắt:

– Pháp Hồng Hấp là pháp gì?

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm gương mặt, không đáp.

Xà Thần lại cười lớn, cười một lúc rồi tiếp:

– Pháp đó rất giản đơn, cứ mỗi ngày, sau khi hắn ngủ một giấc say nồng, tỉnh dậy là tinh thần sung mãn, chờ thái dương lên sưởi hồng trần gian, bắt hắn làm công việc gì đó, hắn ra sức làm, ngươn dương của hắn phải phát tiết, ta thừa dịp ấy, thu hút vào mình ta. Trong vòng một tháng, ta sẽ lấy hết dược tánh của cái mật con Độc Giác Hàn Xà, dược tánh đó còn linh diệu hơn nhờ trải qua sự thực nghiệm trong cơ thể của hắn.

Giang Phàm như nửa hiểu nửa không, còn ba người kia thì biến sắc, bởi họ thừa hiểu phương pháp đó lợi hại như thế nào.

Chẳng nói chi Nguyệt Hoa Phu Nhân là người có kiến thức rộng, chỉ nói về Lý Trại Hồng và Liễu Y Ảo từng học phép thổ nạp của bậc thần tiên, hai nàng rất sợ phương pháp đó vì cái phần ngươn dương nạp vào càng quan trọng thì công phu tu tập càng cao, nhưng đúng lúc thở ra lại bị người thu hút, thì cầm như kết quả tu vi trôi theo dòng nước, chẳng khác mình trồng cây, cây sanh trái, trái chín rồi, mà kẻ khác hái ăn.

Tuy nhiên, nàng cũng kêu lên, cốt đánh lạc hướng ý niệm của Xà Thần:

– Quan công tử có căn bản tu vi vững chắc, dù làm việc gì cũng thận trọng, tâm thần trầm định, khi nào để cho ngươn dương phát tiết mà Xà Thần mong tiếp thụ?

Xà Thần cười ngạo nghễ:

– Ngươi nói đúng, nhưng ta đã nói là ta có cách. Và sở dĩ ta quyết thực hành phương pháp đó, là vì tiểu tử có căn cơ thâm hậu, chính ta thích cái căn cơ của hắn hơn là cái mật. Dược tánh qua sự thực nghiệm của hắn rồi, sẽ tăng gia linh hiệu, cái mật sẽ có giá trị gấp mấy lần khi còn nguyên vẹn. Ta sẽ thành công lớn trong dự định khôi phục hình người.

Lý Trại Hồng phẫn nộ:

– Tôi cho rằng Xà Thần không thu hoạch được kết quả nào đâu. Giông tố có thể làm xao dợn núi sông, chứ chẳng có một áp lực nào lay chuyển nỗi lực căn của Quan công tử, vốn luôn thanh tịnh phi thường.

Xà Thần không đáp, nhìn thoáng qua Giang Phàm điểm một nụ cười.

Lý Trại Hồng nghi ngờ, cũng nhìn qua Giang Phàm, hỏi:

– Giang cô nương cho Quan công tử uống máu rắn mỗi ngày đều đều?

Giang Phàm giật mình, ấp úng:

– Phải! Xà Thần ra lịnh bảo tôi làm thế.

Lý Trại Hồng hấp tấp hỏi tiếp:

– Ngoài ra, Xà Thần còn bảo cô nương làm cái chi khác nữa chăng?

Giang Phàm đáp:

– Không có việc chi khác. Bất quá, khi nào rỗi rảnh, tôi đến gặp Quan công tử, đàm đạo vậy thôi.

Lý Trại Hồng nghiêm giọng:

– Giang cô nương! Giả như cô nương không có ý hãm hại Quan công tử, thì hãy nghe lời tôi, bắt đầu từ hôm nay, ngưng ngay việc cho Quan công tử uống thứ máu rắn tai hại đó. Mà cũng chẳng nên đến gặp công tử thường xuyên để tìm cách gợi chuyện.

Giang Phàm không hiểu tại sao Lý Trại Hồng yêu cầu điều đó, trố mắt hỏi:

– Tại sao? Máu rắn được chế luyện đặc biệt, giúp con người ích thần, tráng khí. Quan công tử sẽ khôi phục nhanh chóng nguyên trạng chứ ...

Lý Trại Hồng trầm gương mặt:

– Có thể cho rằng cô nương thành tâm, hảo ý, nhưng sự thành tâm hảo ý đó thực hiện không đúng việc. Vì nó sẽ trở thành một sự hại người, không hơn không kém. Đành rằng thứ máu rắn đó ích thần tráng khí, song nó thuộc dương cương, dùng nó mãi thì Quan công tử sẽ gia tăng tình dục, dù công tử có là một quân tử chánh nhân, giả như chỉ là do lòng, thì công tử có thể kềm hãm mọi sôi động của lòng. Chứ một khi bị thứ thuốc kích thích đó hành hạ, thì có thể công tử phải bị chi phối bởi thứ thuốc tai hại đó. Đúng lúc thuốc kích thích hoành hành, cô nương lại xuất hiện, thử hỏi công tử có là sắt đá, sắt đá cũng bị nung mềm như thường ...

Giang Phàm cau mày:

– Nghĩa là ...

Lý Trại Hồng buông gọn:

– Cô nương phải bị xú tiết, ô danh, mà Quan công tử lại rơi vào quỷ kế của Xà Thần. Nếu sự tình kéo dài liên tục độ một tháng, thì công tử sẽ gầy héo như cây thiếu nước qua nhiều ngày tháng, cuối cùng sẽ trở thành một phế vật mà chờ chết.

Giang Phàm quay mặt về Xà Thần hỏi:

– Xà Thần có nghe vị cô nương đó nói chứ?

Xà Thần gật đầu:

– Có nghe nàng ấy nói, và nàng nói rất đúng!

Đoạn, y rắn giọng, tiếp nối:

– Xà cơ! Sự việc liên quan trọng đại đến cả một đời của ta. Cái tâm nguyện của ta có thành hay không, chỉ trong giai đoạn nầy. Xà Cơ phải tiếp trợ ta.

Xà Cơ cúi đầu, nghĩ ngợi.

Xà Thần tiếp luôn:

– Xà Cơ thường than thở là nơi đây quá tịch mịch kia mà? Xà Cơ cũng từng yêu cầu ta đưa đi đó đây, đi khắp vũ trụ bao la, nhìn cái lạ trong cõi trần hoàn kia mà? Thì, sau khi ta thay hình đổi dạng, khôi phục cái lốt người rồi, chúng ta sẽ rong chơi ta bà thế giới ...

Giang Phàm trầm ngâm suy nghĩ một lúc, cuối cùng đáp với vẻ cương nghị:

– Xà Thần! Tôi thọ ân Xà Thần nuôi dưỡng hơn mười năm dài, Xà Thần lại truyền thọ vũ công cho tôi. Tôi phải làm sao báo đáp công lao giáo dưỡng đó?

Đạo lý bắt buộc tôi phải báo ân, tình cảm xui sử tôi phải báo ân.

Xà Thần đắc ý, bật cười ha hả:

– Xà Cơ! Thế mới phải chứ! Bắt đầu từ hôm nay, ta sẽ đối xử với ngươi tốt hơn ngày trước, tốt nhiều. Ta sẽ đào tạo ngươi trở thành một cao thủ đệ nhất lưu trong thiên hạ, ta sẽ giúp ngươi trở thành đệ nhất mỹ nhân giữa thế nhân.

Giang Phàm cau mày, đôi mi chớp chớp, vài hạt lệ long lanh, buông nhẹ:

– Nhưng, Xà Thần ơi! Tôi không thể hãm hại Quan công tử!

Xà Thần sửng sốt một chút, bật kêu to:

– Tại sao?

Giang Phàm u buồn đáp:

– Tại sao? Tôi cũng chẳng biết tại sao! Tôi chỉ biết là tôi không nỡ nào làm gì thương hại đến Quan công tử thôi! Công tử là ... một con người tốt!

Xà Thần nổi giận:

– Thế là ngươi nỡ để cho ta chịu thiệt hại! Ta đối với ngươi như thế đó, ngươi chưa hài lòng sao?

Giang Phàm ảm đạm nói:

– Xà Thần đâu có tổn thương gì cho lắm? Bất quá, chưa trở thành một con người với cái dáng bình thường thôi. Xà Thần nên buông tha Quan công tử, phần tôi, tôi tình nguyện ở mãi tại đây với Xà Thần.

Xà Thần biến sắc, một thoáng sau, bật cười ghê rợn:

– Được! Xà Cơ, ngươi tốt đấy! Ta đối xử với ngươi, suốt mười năm dài, ân tình đó không bằng một cảm giác của tiểu tử ngươi mới gặp ba hôm! Thì ra, trước kia, ta chỉ hận nam nhân, bây giờ ta phải hận luôn cả nữ nhân!

Giang Phàm khóc lớn:

– Xà Thần ơi! Xà Thần có thể bảo tôi làm bất cứ việc gì, tôi sẵn sàng làm hết, chỉ trừ cái việc hại người. Xà Thần có thể giết tôi, chứ ...

Xà Thần lặng người đi một lúc rất lâu. Đột nhiên, y hòa dịu nét mặt, rồi bật cười ha hả:

– Từ lâu rồi trong Thiên Xà Cốc không có trường hợp giết nữ nhân. Ta không vì một nguyên nhân nào, phá cái lệ đó. Ngươi đã không khứng trợ giúp ta thì thôi, chẳng lẽ không có ngươi rồi ta chẳng làm gì được?

Thoạt đầu, thấy y thay đổi thái độ, ai ai cũng tưởng là y sẽ buông tha cho Quan Sơn Nguyệt. Nhưng cuối cùng, y vẫn trở lại ý nguyện cũ.

Nguyệt Hoa Phu Nhân vội hỏi:

– Xà Thần sẽ dùng biện pháp gì?

Xà Thần thốt:

– Biện pháp thì nói sau cùng! Ta có ngàn lẻ một biện pháp, ta cũng chưa biết là nên chọn biện pháp nào, thì nói làm sao được?

Giang Phàm nghi ngờ, hỏi:

– Chẳng lẽ Xà Thần tìm một thiếu nữ nào đó thay thế tôi?

Xà Thần cười nhẹ lắc đầu:

– Trong Thiên Xà Cốc này, ngoài ngươi ra, còn nữ nhân nào khác mà ta có thể lợi dụng chứ?

Liễu Y Ảo đột nhiên cất tiếng:

– Còn chứ! Ít nhất cũng còn một người! Tôi đây ...

Lý Trại Hồng kinh hãi, kêu lên thất thanh:

– Sư muội ...

Liễu Y Ảo lạnh lùng:

– Ta làm sao? Quan Sơn Nguyệt cứu ta một lần, ta cứu lại hắn một lần, ân nghĩa lưỡng tiêu, mà oán hận còn nặng!

Lý Trại Hồng hấp tấp phân trần:

– Quan công tử có hận thù gì ...

Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng:

– Sao lại không có? Hắn cự tuyệt khi ta cầu hôn, hắn gây cho ta cái nhục lớn lao nhất trong đời một người con gái. Cái nhục bị khước từ tình yêu! Ta nuôi cái ý nguyện phải làm sao dày vò hành hạ hắn cực kỳ tàn độc, và cơ hội đã đến cho ta rồi đó! Bằng mọi giá, ta phải nắm chắc cơ hội này.

Lý Trại Hồng sửng sốt một chút, rồi nói:

– Sư muội! Ngu thơ biết là lời nói đó chẳng do tâm thành của sư muội mà ra, sư muội đã cứu Quan công tử từ Đại Trúc Hà mang về đây, để rồi thọ nhận sự quở trách, phải biết cái mật của con Độc Giác Hàn Xà có giá trị ngang sanh mạng của sư muội kia mà, sư muội còn dám hy sinh cho công tử, như vậy đủ tỏ rõ mối tình của sư muội đối với Quan công tử chưa đoạn tuyệt!

Liễu Y Ảo trầm gương mặt lạnh như tiền:

– Hắn là con người đáng bỉ nhất, ta hận hắn không tưởng nổi, đừng nghĩ là ta còn mơ mộng đến hắn nữa. Ngươi biết không, gặp Xà Cơ, hắn nói huyên thiên, nói trời nói đất, nói gió nói mây, nói suốt mấy giờ liền, hắn vẫn nói, không biết mệt. Nhưng gặp ta hắn chỉ nói có mỗi một câu vắn tắt, là cảm tạ ơn ta thôi, dù ta liều chết tặng hắn cái mật rắn quý.

Nàng hướng sang Xà Thần tiếp:

– Xà Thần! Tôi tình nguyện thay thế Xà Cơ làm cái việc dở dang đó.

Xà Thần suy nghĩ một chút, đoạn nhẹ nụ cười:

– Liễu Y Ảo! Ngươi nói dóc, tối độc phụ nhân tâm! Đành là ngươi tự động, song ta thấy không thể tin tưởng nơi ngươi.

Liễu Y Ảo bực tức, hỏi:

– Tại sao ...

Xà Thần khoát tay chận lại.

Liễu Y Ảo trừng mắt, song không nói gì, quay mình chạy bay ra ngoài.

Xà Thần gọi lớn:

– Ngươi định đi đâu?

Liễu Y Ảo «hừ» lạnh một tiếng:

– Xà Thần đã không tin tôi, thì tôi ở đây làm gì? Tôi đâu còn tư cách chen vào việc của Xà Thần nữa?

Xà Thần cười nhẹ:

– Y Ảo, cái ý của ngươi, ta minh bạch rồi, bất quá ta cảnh cáo cho ngươi biết, ngươi không được chạy loạn đến chỗ ở của tiểu tử đó nhé, chung quanh nơi đó, ta có bố trí những độc xà, nếu ngươi bị chúng ngoạm cho một phát, thì đến ta, ta cũng chẳng cứu nổi đấy!

Liễu Y Ảo giật mình, dừng chân lại ngay, rồi đứng đó, không đi tới đã đành, mà cũng chẳng trở vào nhà.

Những người kia sững sờ một lúc. Còn ai biết nói gì trong trường hợp như vậy?

Một lúc sau, Nguyệt Hoa Phu Nhân cất tiếng hỏi:

– Xà Thần! Đối phó với con trai già, Xà Thần thực sự định áp dụng biện pháp gì?

Xà Thần mỉm cười:

– Ta đã nói, bằng mọi cách, miễn làm sao ta thu hồi được cái mật con Độc Giác Hàn Xà thì thôi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trố mắt:

– Không có ai cho Xà Thần lợi dụng, Xà Thần phải làm sao?

Xà Thần bật cười vang:

– Không người cho ta lợi dụng, thì ta sai đến rắn! Ít nhất chúng cũng chẳng dám phản kháng mạng lịnh của ta!

Mọi người cùng kêu lên:

– Rắn!

Xà Thần gật đầu:

– Phải, bởi nơi đây đâu còn gì khác hơn rắn, ngoài một vài người? Không dùng người được, ta dùng rắn thay người. Ta sẽ chọn mấy con rắn có tánh dâm kịch liệt, mỗi hôm, vào một giờ thuận lợi, sai chúng đến trước mặt tiểu tử mà giao cấu với nhau, khêu gợi ý dâm nơi tiểu tử, dâm niệm phát động thì ngươn dương của hắn phải phát tiết, sau đó ta chỉ còn làm cái việc thu hút nữa thôi! Thử hỏi, các người có cách nào ngăn trở được loại rắn đó không chứ?

Nguyệt Hoa Phu Nhân biến sắc. Bất thình lình, bà rút thanh đoản kiếm cầm tay, hét:

– Ngươi dám làm vậy, thì già trước hết giết ngươi!

Xà Thần bật cười ngạo nghễ:

– Đừng vọng động! Bởi có vọng động cũng vô ích mà thôi, dù ta không là đệ nhất nhân về vũ công, về kiếm pháp, ta cũng thừa năng lực đánh bại ngươi như thường. Gây phẫn nộ cho ta, ngươi sẽ chẳng có lợi lộc gì đâu, ví bằng ta không giết ngươi vì cái lệ của ta là chẳng sát hại nữ nhân song chẳng phải vì việc đó mà ta để yên cho ngươi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân không nói thêm một tiếng nào, vung kiếm đâm thẳng đến ngực Xà Thần.

Xà Thần đứng nguyên tại chỗ, chẳng hề nhích động, chỉ khẽ nhấc một cái đuôi lên, quét một vòng trước mặt.

Nguyệt Hoa Phu Nhân bị cái đuôi rắn quét trúng, chấn dội về phía hậu mấy bước, tuy bà không hề hấn gì, song chẳng khỏi một phen kinh hãi.

Dĩ nhiên, nhát kiếm đó không trúng đối phương, bởi bà không kịp đưa kiếm đi trọn đà.

Xà Thần đắc ý, bật cười vang:

– Ta đã bảo, đừng xuất thủ vô ích. Dù cho thanh kiếm của ngươi có chạm trúng mình ta, cũng chẳng gây thương tổn gì cho ta cả.

Nhưng, Nguyệt Hoa Phu Nhân khi nào chịu bỏ cuộc dễ dàng như vậy? Bà nạt lên một tiếng, lại vung kiếm tiến lên.

Như lần trước, Xà Thần cũng nhích một cái đuôi, quét qua, cái đuôi rà dưới đất độ nửa vòng, bất thình lình quật lên không, quấn quanh thanh kiếm của phu nhân.

Kiếm thuộc loại đoản, bị quấn như vậy rồi, là cái đà tiến bị ngăn giữ lại.

Nguyệt Hoa Phu Nhân không làm sao đâm tới, đành phải lùi lại, đồng thời rút nó khỏi vòng đuôi của Xà Thần.

Lạ lùng thay, phu nhân tiến không được, mà rút kiếm ra cũng không nổi, kiếm như dính liền với đuôi rắn.

Xà Thần bật cười ha hả:

– Đừng bối rối, cứ gọi thêm người đến tiếp trợ ngươi mà rút, các ngươi rút được thanh kiếm, ta nhận bại ngay!

Lý Trại Hồng bước tới liền:

– Phu nhân! Tôi tiếp phu nhân một tay.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu, cự tuyệt, bà trầm gương mặt hỏi Xà Thần:

– Ngươi nói thật chứ?

Xà Thần thấy bà quả quyết quá, hơi lo, song đã lỡ tuyên bố rồi, phải giữ y như vậy:

– Tự nhiên! Bình sanh có bao giờ ta nói không thật?

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại hỏi:

– Giả như ngươi bại rồi, thì sao?

Xà Thần cười nhẹ:

– Ta chưa nghĩ đến vấn đề đó!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm giọng:

– Vậy ngươi hãy suy nghĩ đi, ta chờ nghe ngươi nói đây.

Xà Thần càng lo ngại. Y trầm ngâm một chút, chẳng biết y thành thật hay giả dối, đáp:

– Giả như ngươi rút được thanh kiếm rồi, ngươi có thể tùy tiện đặt điều kiện, bất cứ điều kiện nào, ta cũng chấp nhận cả.

Nguyệt Hoa Phu Nhân chớp mắt:

– Được rồi! Già hy vọng ngươi nói ra lời gì, là giữ đúng lời đó với già.

Bà vận công nơi bàn tay, thanh kiếm tự động biến nhỏ lại, đồng thời nơi mũi kiếm, kiếm khí phát sanh, bắn ra thành một đường dài độ thước, trong khi đó, bà rút thanh kiếm về.

Xà Thần kêu lên:

– Khá lắm đó, ta không ngờ ngươi cũng biết làm trò quỷ với thanh kiếm của ngươi.

Kiếm thu nhỏ hình, vòng đuôi quấn quanh nó phải lỏng, Nguyệt Hoa Phu Nhân rút nó lại, tự nhiên bà rút được. Song bà chỉ rút được một phần thôi, bởi thanh kiếm tuy rằng đoản, nó cũng có đến vài thước dài. Bà rút được nửa phần, vòng đuôi rắn siết chặt lại, giữ rịt nó.

Ngờ đâu, nhờ phu nhân vận chuyển chân khí sang cho nó, nó trở thành sắc bén hơn trước, bà dùng sức kéo mạnh, lưỡi kiếm cắt đứt vảy đuôi của Xà Thần, máu chảy ra, nhuộm đỏ thân kiếm.

Xà Thần thoáng biến sắc, phẫn nộ phi thường, y hét lên một tiếng, vặn đuôi.

Kình lực từ người y dồn xuống đuôi, sang qua thanh kiếm phản công mạnh đạo kình lực của Nguyệt Hoa Phu Nhân.

Phu nhân nghe nhói ở bàn tay, chỉ kịp rú lên một tiếng, buông luôn kiếm, bà bị chấn dội bay về phía hậu hơn là tự bà lùi.

Lý Trại Hồng hấp tấp lướt lên, đón đỡ bà.

Xà Thần đoạt thanh kiếm rồi, đưa tay cầm lên, xem qua một thoáng, bẻ gãy thành hai đoạn, quăng xuống nền nhà, hừ hừ luôn mấy tiếng, gằn giọng:

– Phu nhân ỷ trượng vào thanh kiếm lạ đó, nên mới dám thách đố ta!

Phu nhân gượng đau, cúi xuống nhặt đoạn kiếm, cao giọng thốt:

– Quát vật! Ngươi dám hủy hoại thanh kiếm báu của già như thế, ngươi phải trả giá đắt. Già thề nếu không xé xác ngươi được, sẽ chẳng làm người nữa.

Xà Thần nổi giận:

– Cái mụ già khả ố kia, ngươi từ đâu đến đây, buông tánh lăng loàn trước mặt ta chứ? Hãy xem ta trừng trị ngươi!

Y bước tới liền.

Giang Phàm biến sắc thét lên:

– Xà Thần! Xà Thần!

Xà Thần bật cười ghê rợn:

– Ngươi yên trí, Giang Phàm! Thiên Xà Cốc không có cái lệ sát hại nữ nhân. Ta không bao giờ phá lệ đâu. Tội chết, tha cho mụ ấy, mụ ta phải tiếp thọ tội sống. Ta nhất định phải trừng trị mụ, nếu không thì ta tức uất mà chết ngay.

Giang Phàm hấp tấp hỏi:

– Xà Thần định làm gì bà ấy?

Xà Thần giật mình:

– Bình sanh ta không có thói quen trừng trị nữ nhân. Bây giờ ta chẳng biết phải làm cách nào cho thích hợp đây! Được rồi, ta sẽ tát tay hai lượt vào hai bên mặt mụ ấy, có thế ta mới hả.

Nguyệt Hoa Phu Nhân quát:

– Ngươi không được chạm đến mình già!

Thần sắc của bà oai nghiêm quá, giọng nói của bà cương quyết quá, Xà Thần hơi ngán, do dự một chút, đoạn cười lớn:

– Tại sao ta không được chạm đến mình ngươi? Ta sợ gì chứ?

Y vung tay, tát liền.

Phu nhân biết đối phương có vũ công rất cao, biết là không thể tránh khỏi cái tát đó.

Nhưng bà khi nào chịu để cho Xà Thần tát tay như vậy?

Tay bà đang cầm đoạn kiếm gãy bà xốc ngược đoạn kiếm tự đâm vào ngực, ngay khoảng tim.

Lý Trại Hồng biến sắc, chụp tay bà, giữ lại, kêu lên thất thanh:

– Phu nhân hà tất phải làm như thế?

Xà Thần cũng ngưng bàn tay lơ lửng, không hạ thấp xuống nữa.

Phu nhân lộ vẻ bi thảm, thốt:

– Lý Tiên Tử buông tay đi, Tiên Tử thử nghĩ xem, nếu để cho quái vật tát vào mặt, thì thà chết đi còn đỡ khổ hơn!

Lý Trại Hồng thở dài, buông tay.

Ngờ đâu, Xà Thần thay vì tát vào mặt phu nhân, y lại đưa tay đoạt đoạn kiếm gãy nơi tay phu nhân, đồng thời đưa tay kia nhanh như chớp điểm vào huyệt đạo của phu nhân và Lý Trại Hồng.

Cả hai bất động ngay, giương mắt sửng sốt nhìn Xà Thần.

Xà Thần quăng đoạn kiếm ra xa, rồi bật cười ha hả, thốt:

– Ngươi quật cường quá chừng! Bình sanh, ta rất khách khí đối với nữ nhân, hầu như dễ dãi, nhưng hôm nay ta thấy bắt buộc phải tát tay vào mặt ngươi hai tát, thử xem cái nư hận của ngươi đối với ta, cao đến mức độ nào!

Nguyệt Hoa Phu Nhân còn phản ứng thế nào được nữa? Bà nghĩ, thế nào bà cũng tiếp thọ cái nhục nầy, bây giờ bà chỉ còn dùng đôi mắt phát tiết sự phẫn nộ qua hung quang lạnh rợn mà thôi.

Xà Thần bật cười âm trầm, từ từ cử tay lên, toan quét tới, bất thình lình có tiếng quát vang như sấm từ phía hậu vọng đến:

– Quái vật! Không được lỗ mãng!

Xà Thần giật mình, quay đầu lại, thấy Quan Sơn Nguyệt hiện ra nơi khung cửa, niềm phẫn hận hiện rõ nơi gương mặt chàng, tuy nhiên thần sắc của chàng trang nghiêm như thiên thần vừa giáng hạ thu phục loài ma.

Y lại giật mình lượt nữa, hỏi:

– Làm sao ngươi thoát ra được, tiểu tử?

Quan Sơn Nguyệt không đáp lời y, quay lại gọi:

– Linh Cô! Bước đến giải huyệt cho thân mẫu tại hạ và Lý Tiên Tử đi!

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 46

Hiệp Tình Chính Nghĩa

Không ai tưởng nổi là Quan Sơn Nguyệt xuất hiện ngay trong phút giây nầy. Và cái ngươi kinh ngạc hơn hết, phải là Xà Thần, bởi chẳng khi nào lão nghĩ là Quan Sơn Nguyệt tự mình thoát khỏi vòng vây của bao nhiêu độc xà mà lão đã bố trí quanh nơi giam cầm chàng. Chẳng những chàng thoát ly nơi đó, mà chàng lại được vô sự!

Linh Cô, theo lời bảo của Quan Sơn Nguyệt, từ từ bước tới, giải khai huyệt đạo cho Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng, cả hai khôi phục hành động như thường.

Trong khi Lý Trại Hồng sững sờ nhìn Quan Sơn Nguyệt, Nguyệt Hoa Phu Nhân xúc động tình mẫu tử, lướt nhanh đến chàng, đồng kêu lên:

– Con! Con ...

Bà ôm chầm lấy Quan Sơn Nguyệt, không nói gì thêm. Một tiếng gọi con, tuy gọn, song chứa đựng vạn lời, trong đó là cả một trời thương yêu của người mẹ đang bị dày vò bởi tháng ngày ưu tư, lo sợ ...

Quan Sơn Nguyệt cũng khích động không kém bà, dù tình mẹ nghĩa con chỉ mới được nhận thức không đầy nửa ngày. Nhưng, chàng không bộc lộ rõ ràng như phu nhân, chàng trấn định tâm thần, thốt:

– Mẹ hãy bước qua một bên đi, mẹ. Để con đối phó với quái vật, thu thập y rồi, mẹ con ta sẽ thố lộ tâm tình!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hấp tấp cảnh cáo:

– Quái vật lợi hại lắm đấy, con! Con ...

Quan Sơn Nguyệt khoát tay, cao mặt:

– Mẹ yên trí, con biết y có lớp vảy cứng rắn, đao kiếm chém không đứt, nhưng con không tin là y chịu nổi chiếc Độc Cước Kim Thần của con.

Tuy nhiên, Nguyệt Hoa Phu Nhân không thể nào bình tâm được, vì Xà Thần đã bật cười vang dội, tiếng cười của y nghe như hai tảng đá mài vào nhau, rợn người và y vừa cười vừa bước tới. Trong tình thế đó, Nguyệt Hoa Phu Nhân phải buông Quan Sơn Nguyệt và bước vội ra xa, để cho chàng tự do hành động.

Còn cách Quan Sơn Nguyệt độ bảy tám thước, Xà Thần dừng chân, quắc mắt bắn hung quang chiếu thẳng vào mặt Quan Sơn Nguyệt, hét lớn:

– Tiểu tử! Hãy cho ta biết, làm sao ngươi thoát khỏi chỗ giam cầm?

Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:

– Ngươi cho rằng một vài con rắn vô dụng của ngươi đó, cầm chân nổi ta hay sao, mà phải lấy làm lạ chứ?

Xà Thần hừ lạnh:

– Đừng tự đắc vội, tiểu tử! Cho ngươi biết, số rắn ta mai phục quanh chỗ giam ngươi, thừa ngăn chặn một đoàn quân đó, nếu chẳng có người trợ giúp thì ngươi đừng mong thoát khỏi vòng vây! Ta chẳng bao giờ tin là ngươi có khả năng tự mình ly khai một cách vô sự như vậy!

Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:

– Tin hay không tin, tùy ngươi. Điều đó chẳng quan hệ gì đến ta, cái sự đáng nói là dù sao thì ta cũng đã thoát ly rồi!

Xà Thần chớp mắt mấy lượt, đoạn lướt tới.

Quan Sơn Nguyệt nghĩ là y đột kích, cấp tốc vung chiếc Kim Thần đánh ra.

Ngờ đâu, Xà Thần lướt tới là để đánh lạc hướng sự chú ý của mọi người.

Nên khi Kim Thần trong tay Quan Sơn Nguyệt chớp lên, y hoành thân đảo qua một bên, nhẹ nhàng tiến sát Linh Cô, vươn tay chụp nó, đồng thời quát vang:

– Tiểu liễu đầu, ta nhất định là ngươi đã làm trò quỷ phá hoại công cuộc của ta!

Bị Xà Thần chụp trúng, Linh Cô chẳng chút sợ hãi, nhưng Quan Sơn Nguyệt trái lại hoảng hồn, hấp tấp vung chiếc Kim Thần vọt tới.

Xà Thần bật cười ghê rợn, đưa ngay Linh Cô ra trước Kim Thần.

Bắt buộc, Quan Sơn Nguyệt phải thu Kim Thần về, đồng thời lùi lại hai bước, rồi hét lên:

– Buông cô bé ra ngay!

Xà Thần cười ha hả:

– Buông nó ra? Dễ như vậy sao chứ? Ngươi đã muốn động thủ, thì tạm thời ta dùng nó làm vũ khí, đối phó với ngươi, buông nó ra dễ thường ta để tay không mà giao đấu với ngươi à?

Quan Sơn Nguyệt phẫn nộ, nhưng trong trường hợp nầy, chàng còn làm gì được nữa? Chàng mắng oang oang:

– Quái vật vô sỉ cùng cực! Dùng oai lực mà bức hiếp một đứa bé con, hèn quá!

Xà Thần cười mỉa:

– Bé con? Bé người chứ lớn quỷ đấy nhé, nhờ cái quỷ lớn của nó mà ngươi thoát hiểm đấy! Đừng xem thường cái bé con của nó!

Quan Sơn Nguyệt tức uất quá chừng, song cũng khẩn cấp vô cùng. Chàng gằn giọng, hỏi:

– Ngươi định làm gì nó?

Xà Thần lạnh lùng:

– Cho nó xuống hầm rắn, hôm nay chính là ngày ta cho rắn ăn đây!

Quan Sơn Nguyệt càng khẩn cấp hơn, toan liều lướt tới, vô luận làm sao chàng cũng phải giải cứu Linh Cô thoát khỏi tay Xà Thần, nhưng Linh Cô lại dùng mắt ra hiệu mãi với chàng, ngăn trở chàng vọng động. Nó lại điểm một nụ cười, gọi Xà Thần:

– Lão bá bá, bá bá bóp mạnh tay quá, tôi đau muốn chết đây nầy.

Giọng nói của nó ôn nhu quá, Xà Thần nghe lòng mềm lại, bất giác lỏng tay liền.

Linh Cô chớp mắt, cười hì hì, hỏi:

– Lão bá bá mang tôi cho rắn ăn thật sao?

Xà Thần gắt:

– Chứ sao? Ai bảo ngươi phản ta?

Linh Cô vẫn cười:

– Ai mà phản bá bá? Đâu có, bá bá! Tôi phản bá bá lúc nào chứ?

Xà Thần hét:

– Ngươi nói dối với ta, là ngươi rất sợ rắn ...

Linh Cô gật đầu:

– Tôi có dối bá bá đâu? Tại bá bá nuôi cái thứ rắn sợ người, tại bá bá cấp cho tôi thứ thuốc khuất phục rắn.

Xà Thần trừng mắt:

– Thuốc kỵ rắn? Ta cấp cho ngươi lúc nào?

Linh Cô lấy trong mình ra một bánh thuốc tròn tròn, đưa cao lên:

– Chứ cái gì đây? Bá bá không cấp thì làm sao tôi có nó?

Xà Thần vươn nhanh tay chụp bánh thuốc, quát to:

– Ngươi lợi dụng bánh thuốc nầy, giải cứu tiểu tử, phải không?

Linh Cô suy nghĩ một chút, đoạn gật đầu:

– Phải!

Xà Thần biến sắc.

Thừa lúc y sơ ý, Linh Cô đoạt lại bánh thuốc, đồng thời thốt:

– Lúc bá bá trao bánh thuốc cho tôi, bá bá có bảo tôi hãy mang nó luôn trong mình, rắn sẽ chẳng bao giờ dám cắn tôi. Tôi có thực nghiệm mấy lần, quả nhiên, rắn không dám gần tôi, do đó, tôi thích thú quá, nảy sanh cái ý đùa với rắn, đi tìm nơi nào có rắn nhiều là đưa thuốc ra, thực nghiệm mãi. Vô hình trung, tôi đi đến nơi giam cầm Quan công tử ...

Xà Thần sững sờ:

– Thuốc chỉ có mỗi một bánh, mà các ngươi lại là hai người, làm sao cùng đi ra được?

Linh Cô mỉm cười:

– Tôi trao bánh thuốc cho Quan công tử cầm, công tử thì bế tôi lên, biến hai người thành một, kết quả cả hai qua lọt vòng vây của rắn.

Linh Cô lại reo lên:

– Bá bá ơi! Biện pháp đó, chính tôi nghĩ ra, bá bá thấy có tuyệt diệu không?

Xà Thần vừa tức uất vừa buồn cười:

– Diệu! Tuyệt diệu! Cái biện pháp của ngươi diệu đến độ bán đứt ta luôn!

Linh Cô đảo tròng mắt một vòng:

– Lão bá bá ơi, lúc trao bánh thuốc cho tôi, bá bá đâu có cấm tôi đến nơi đó?

Bá bá cũng không cấm tôi trao bánh thuốc cho người khác! Quan công tử là hảo bằng hữu của tôi, tôi có vật gì, cũng có thể trao vật đó cho bằng hữu dùng được chứ? Tôi hành động cũng như mọi người hành động vậy mà, sao bá bá cho rằng tôi bán bá bá?

Xà Thần hét lên:

– Tại sao lại không thể cho như vậy được? Ngươi thừa hiểu là tiểu tử với ta, có mối thù hận rất lớn, hắn đoạt mất cái mật rắn quý báu của ta, làm cho ta suốt đời phải mang cái lốt quái vật nầy, bao nhiêu năm qua, ta cố công dò la, tìm kiếm, kiếm được rồi, lại bị hắn phỏng tay trên! Ngươi còn giúp hắn thoát nguy, để hắn chống đối ta!

Linh Cô cười hì hì:

– Tôi đâu có hiểu việc đó? Bá bá nói oan cho tôi quá chừng. Chứ phải chi bá bá tiết lộ cho tôi biết, nếu tôi làm trái ý bá bá thì tôi chịu tội ngay.

Xà Thần đuối lý, sững sờ một lúc lâu, không nói thêm được một tiếng nào.

Sau cùng, y thở dài, rồi buông tay. Y «hừ» một tiếng, buông gọn:

– Khen ngươi nói năng khéo léo đó, ta tha cho ngươi một lần đầu và duy nhất thôi đấy nhé.

Linh Cô đưa bàn tay kia xoa bóp chỗ bị nắm nơi cổ tay nọ, vừa nhăn nhó mặt vừa rên rỉ:

– Đau quá! Lão bá bá ác lắm mà! Bóp tay tôi mạnh quá, mạch máu bẹp rí lại đây nầy, máu không chảy nổi nữa!

Xà Thần đẩy ra xa, thốt:

– Ráng chịu đau một lúc, chờ ta thu thập tiểu tử nầy xong, ta sẽ chữa trị cho.

Linh Cô bị đẩy ra, lại nhào vô, rồi gọi nheo nhéo:

– Tại sao bá bá không buông tha Quan công tử? Công tử có làm chi đắc tội với bá bá đâu?

Xà Thần nổi giận, hét:

– Tránh ra ngay, còn nói nhảm nữa, sẽ chết với ta đấy! Tiểu tử đã phá tan niềm hy vọng của ta nuôi dưỡng qua nhiều tháng năm dài, nhất định ta phải thu hồi cái gì đã do hắn cướp mất! Hắn phải bồi thường cho ta!

Linh Cô hấp tấp thốt:

– Bồi thường làm sao, hở bá bá? Nếu cách bồi thường không làm suy giảm sức khỏe của Quan công tử, thì tôi dám chắc là công tử đáp ứng ngay!

Làm sao Xà Thần nói rõ sự thật cho Linh Cô biết được? Y chỉ quát tháo:

– Đừng hỏi nữa, ta khó chịu lắm rồi! Ta có nói ra, ngươi chẳng hiểu đâu.

Thực ra, Quan Sơn Nguyệt chẳng hiểu nổi Xà Thần có ý gì. Bất quá, chàng chỉ nghe Xà Cơ Giang Phàm nói qua cho biết sự tình về cái mật của con Độc Giác Hàn Xà, và chàng dù vô tình, đã dùng cái mật đó, như vậy kể cũng không phải cho lắm. Bởi thế, chàng có phần nào áy náy, nên không thể dùng cái giọng phạm thượng mà đối thoại với Xà Thần. Chàng hấp tấp thốt:

– Về cái mật con Độc Giác Hàn Xà, tại hạ cảm thấy tâm tư bất an thật đó, tiền bối. Giả như có biện pháp gì, bổ cứu cho sự việc, thì nhất định là tại hạ không khước từ ...

Lý Trại Hồng thốt nhanh:

– Quan công tử! Vô luận như thế nào, Quan công tử cũng không nên hứa hẹn gì với Xà Thần. Tôi biết, biện pháp của Xà Thần là bản án tử hình của công tử đó. Tuyệt đối không nên chấp nhận.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Nghĩa là sao chứ?

Lý Trại Hồng giải thích:

– Cái mật con Hàn Xà, vào trong cơ thể của công tử rồi, nó biến thành một thứ nội đơn và hợp nhất với ngươn tinh của công tử, bây giờ muốn lấy nội đơn đó, tất nhiên phải hút ngươn tinh của công tử ra ngoài, công tử mất hết ngươn tinh rồi, liệu còn sống được hay chăng?

Quan Sơn Nguyệt sững sờ một lúc lâu, mới cất tiếng:

– Thì ra, có sự việc như vậy.

Chàng hướng qua Xà Thần, tiếp:

– Tiền bối! Cứ theo lý, thì tính mạng của tại hạ bằng vào cái mật con Hàn Xà, mà nội đơn của nó thì quan hệ vô cùng đối với tiền bối! Vậy thì, tại hạ xin hy sinh táng mạng nầy, để cho tiền bối được toại nguyện.

Xà Thần trố mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt. Dĩ nhiên, lão nằm mộng cũng chẳng tưởng nổi là Quan Sơn Nguyệt khẳng khái như vậy. Do dự một chút, y hỏi:

– Ngươi đại phương, thác lạc như vậy à?

Quan Sơn Nguyệt ngẩng cao mặt:

– Là nam tử hán, đại trượng phu, tiếp thọ một giọt ân, phải trả bằng một biển tình, có như vậy mới đúng đạo nghĩa. Hà huống, đây là cái ân cứu mạng?

Bất quá, hiện tại, tại hạ còn lắm việc trọng đại chưa hoàn tất, do đó, tại hạ tha thiết yêu cầu tiền bối khoan hạn cho tại hạ một thời gian, sau khi các việc được thanh toán xong, là tại hạ sẽ hiến mình trước tiền bối!

Xà Thần cười lạnh:

– Ngươi nói nghe cảm động quá chừng! Nhưng ai biết đâu bên trong ngươi có tâm ma ý quỷ gì? Ly khai Thiên Xà Cốc rồi, ngươi bằng lòng trở lại đây nạp mạng cho ta à? Lời nói đó, một đứa bé lên ba cũng thừa hiểu vô lý.

Quan Sơn Nguyệt phẫn nộ:

– Tiền bối đánh giá rất thấp danh dự của con người!

Chàng trầm giọng, tiếp:

– Tiền bối có thể khinh thường tất cả mọi người, nhưng không thể đánh giá tại hạ quá thấp. Bình sanh, tại hạ nói sao, là làm như vậy, một lời nói của tại hạ là ngàn vàng, chẳng bao giờ tại hạ có cái tâm phản phúc đảo điên!

Xà Thần cười ha hả:

– Tiểu tử ơi, giả như ta tưởng là ngươi nói thật, thì cái việc đó cũng không thể thực hành được đâu. Bởi, nội đơn của con Hàn Xà chỉ có công hiệu trong một thời gian nửa tháng, không hơn không kém. Sau mười lăm ngày, nó sẽ biến thành ngươn tinh của ngươi, dù ta có hút trọn ngươn tinh của ngươi, cũng chẳng có ích gì cho ta nữa!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ, một phút sau, chàng lẩm nhẩm:

– Khó! Khó quá!

Xà Thần chớp mắt, vụt cười lớn:

– Ta xem ngươi cũng có vẻ là một nhân vật hữu hạng đó, ta đưa ra biện pháp nầy, ngươi nghĩ có áp dụng được hay chăng?

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

– Biện pháp đó như thế nào?

Xà Thần đáp:

– Ngươi hiến ngươn tinh ngay bây giờ, cho ta hiện lại hình người, rồi những gì ngươi chưa hoàn tất, ta sẽ thay ngươi mà làm, cái năng lực của ta như thế nào, hẳn ngươi cũng hiểu rõ. Khi ta thay ngươi mà hành động, chắc chắn là phải có kết quả hơn ngươi!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút, đoạn đáp:

– Có thể!

Trừ Xà Thần ra, tất cả các người kia đều kinh hãi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng tuy không thốt thành lời, chứ cả hai cố ra dấu, phản đối quyết định của chàng.

Quan Sơn Nguyệt chính sắc mặt, tiếp:

– Việc của tại hạ, rất giản đơn, bất quá trừ một vài kẻ ác và tiền bối thì thừa năng lực thu thập nhanh chóng những kẻ đó. Ngoài ra, tại hạ mong mỏi là từ nay về sau, tiền bối nên vì chánh nghĩa mà lấy cái việc diệt bạo trừ hung làm bổn phận, được như vậy, tại hạ dù chết, cũng cầm bằng như sống, cái chí của tại hạ được tiền bối tiếp tục, giang hồ sẽ hưởng phúc hạnh qua công đức của tiền bối ...

Lý Trại Hồng vội chen lời:

– Còn Trương Thanh? Chẳng lẽ công tử cũng nhờ người đảm nhận hộ việc ấy?

Nguyệt Hoa Phu Nhân cũng thốt:

– Con là con của mẹ, con có thể nhờ người khác làm hộ các việc cho con, chứ không thể nhờ mẹ?

Quan Sơn Nguyệt nhếch nụ cười khổ:

– Mẹ còn một người con khác, thì xin mẹ nên xem như chẳng có con vậy, mẹ ạ. Hơn nữa, Lưu Ảo Phu đối với Trương Thanh, tình sâu tợ biển, con thành toàn được cho họ, là một điều tốt đẹp, chứ có sao đâu? Bất quá, mẹ nên dìu dắt Lưu Ảo Phu đi vào đường chánh, được thế là mỹ mãn lắm rồi ...

Chàng dừng lại một chút, buông tiếng thở dài, đoạn tiếp:

– Còn như con ... từ ngày con tiếp thọ Minh Đà Lệnh do sư phó ủy thác, thì cái thân nầy, con không còn làm chủ nữa, mẹ ạ. Về việc diệt trừ bọn Tạ Linh Vận, thực ra con không dám quả quyết là mình sẽ thành công, giả như Xà Thần chịu xuất hiện trên giang hồ, thì đó là việc đáng mầng vậy, mẹ ơi! Con chết đi để đổi cái mầng đó, kể ra cũng là một điều đáng làm lắm!

Chàng chỉnh nghiêm sắc mặt, hướng qua Xà Thần, tiếp luôn:

– Tiền bối! Tại hạ xin trao trách nhiệm Minh Đà Lịnh Chủ lại cho tiền bối, mong tiền bối sẽ tuyên bố công khai sự kiện đó giữa giang hồ, tự nhiên sẽ có nhiều người tiếp trợ tiền bối, và những người đó sẽ cho tiền bối biết những gì phải làm trong phạm vi trách nhiệm do Minh Đà Lịnh hoạch định.

Xà Thần sững sờ, chẳng biết là nên tiếp nhận hay không.

Linh Cô bước tới gần, rỉ vào tai y:

– Một trách nhiệm rất quan trọng, nặng nề, bá bá đảm nhận nổi chăng?

Xà Thần cau mày:

– Về việc giết người, ta chẳng bao giờ biết sợ, ta không sợ một ai, ta cũng không sợ làm điều ác. Song, nếu ta xuất hiện trên giang hồ, thì ta sẽ là một kẻ mới, lạc lõng quá, bởi ta có quen biết ai đâu? Nghe tiểu tử ấy nói với vẻ nghiêm trọng quá, ta cảm thấy sự việc trong tương lai hẳn là không dễ dàng gì ...

Quan Sơn Nguyệt thản nhiên nhếch một nụ cười:

– Tiền bối không nên quá lo ngại. Chỉ cần tiền bối mang Linh Cô kèm bên cạnh, nó hiểu rất rành sự việc, nó sẽ dẫn giải cho tiền bối biết những điều cần biết, những điều cần làm, trong khi chờ tiếp xúc với những bằng hữu khác. Tiền bối cứ yên trí ...

Xà Thần khoát tay:

– Khó lắm! Khó lắm! Sở dĩ ta giam mình tại Thiên Xà Cốc nầy, là để tìm cách khôi phục hình người, sau khi được mãn nguyện rồi, ta sẽ tìm đến một nơi thanh tịnh nào đó, an hưởng những ngày trời. Nếu ta tiếp thọ sự ủy thác của ngươi, thì ta bị phiền phức dây dưa, biết đến ngày nào ta rảnh ra mà hưởng nhàn?

Linh Cô «hừ» một tiếng:

– Chứ Quan công tử lại chẳng biết hưởng thọ như bá bá sao? Thinh danh của Quan công tử ngày nay vang dội khắp sông hồ, người còn không dám nghĩ đến cái nhàn thay, bá bá không chịu tiếp thọ sự khó, thì đừng ép buộc công tử phải hy sinh.

Xà Thần lắc đầu:

– Ta không mắc mưu tiểu tử đâu! Ta thích nhàn, thì ta tìm nhàn mà hưởng, ngươi thích danh, thì cứ củng cố cái danh, đừng mong ta thay ngươi làm bất cứ việc gì có thể giết chết cái nhàn của ta. Giả như ta không khôi phục hình người, thì ta cứ ở đây, vui vầy với rắn, chứ khôi phục hình người qua điều kiện của ngươi, ta không ham. Nếu cái số của ta không thành người mà hưởng nhàn, thì ta cam với cái thân quái vật nầy mà hưởng nhàn, nhất định không tham dự mọi tranh chấp trên giang hồ.

Linh Cô reo lên:

– Thế bá bá bằng lòng không làm khó Quan công tử nữa?

Xà Thần «hừ» một tiếng:

– Tại ta đề nghị với hắn, ngờ đâu sự việc của hắn quá khó khăn, phức tạp, ta không làm nổi. Bắt buộc ta phải buông tha hắn, chứ còn làm sao hơn?

Mọi người không tưởng là sự tình kết thúc một cách quá đơn giản như vậy, và ai ai cũng nghĩ, muốn giải quyết dứt khoát, ít nhất cũng phải khai diễn một trường ác chiến.

Nếu có ác chiến, dù ai còn ai mất, bên còn cũng chẳng vui gì, mà bên mất thì oan uổng biết bao! Cho nên, ai ai cũng hân hoan ra mặt.

Linh Cô mầng hơn ai hết, nó ôm chầm lấy Xà Thần, nó kêu lên rối rít:

– Bá bá tốt quá!

Xà Thần căm hận:

– Tất cả đều tại ngươi! Ngươi là một tiểu quỷ mà! Không có ngươi thì tiểu tử thoát lên trời cũng chẳng tránh khỏi tay ta! Bây giờ thì cái mộng bình sanh của ta đã vở rồi!

Linh Cô cười hì hì:

– Thực ra, bá bá nên ở đây là phải! Bên ngoài thế giới chẳng có gì đẹp đẽ như bá bá hằng tưởng tượng đâu! Bên ngoài kia, tất cả đều là dối trá, dơ dáy, tanh hôi, con người chỉ chực chờ cơ hội lừa gạt lẫn nhau, chém giết nhau, mỗi một bước đường là một cạm bẫy. Thế nhân không tốt như đàn rắn của bá bá đâu!

Xà Thần chớp ngời ánh mắt:

– Tiểu liễu đầu! Ngươi thích rắn?

Linh Cô gật đầu bướng:

– Phải! Chỉ cần nó không cắn tôi thôi, tôi thích đùa với nó lắm!

Xà Thần mỉm cười:

– Nếu thế thì ngươi lưu lại đây với ta, ta sẽ truyền thọ cho ngươi phương pháp huấn luyện rắn, chẳng những chúng không cắn ngươi, trái lại chúng còn nghe được tiếng nói của ngươi, vâng lịnh ngươi sai bảo ...

Linh Cô giật mình:

– Bá bá muốn tôi lưu lại đây?

Xà Thần gật đầu:

– Phải! Ta nhận thấy, tiểu liễu đầu có cái cơ duyên đặc biệt với ta, từ ngày mà ta bắt đầu tiếp xúc với nhân loại, thì tất cả mọi người đều xem ta như vật quái vật, ai ai cũng nhờm gớm, kinh tởm, chỉ có mỗi một mình ngươi là trọng ta như bá bá, ngươi lại cười cười nói nói với ta suốt ngày, không biết chán. Ngươi thích quấn quít bên cạnh ta, một cách thành thật. Phần ta cũng cảm thấy thích ngươi vô cùng, bằng cớ là ta trao cho ngươi bánh thuốc kỵ xà đó, bánh thuốc có giá trị vô cùng, hẳn ngươi cũng biết như vậy ...

Linh Cô còn do dự, chưa đáp dứt khoát, Xà Thần tiếp nối với vẻ khích động phi thường:

– Thực ra thì ngươi không phải lưu lại vĩnh viễn tại đây, bởi nhiều lắm là ta chỉ còn sống độ mười năm, cũng chẳng phải dài chi đó, sau mười năm rồi, ngươi sẽ được tự do ...

Linh Cô cũng cảm động không kém y.

Nó chỉ sợ Xà Thần nói nhảm mà thành gở, nên hấp tấp thốt:

– Không đâu, lão bá bá làm gì mà chết gấp được? Bá bá còn khương kiện lắm mà, vả lại bá bá cũng có lòng nhân hậu, trời sẽ gia tăng tuổi thọ cho bá bá!

Xà Thần thở dài:

– Tiểu liễu đầu! Ta tuy là người, song cũng là rắn, luận về tuổi thọ của rắn, thì có giới hạn sống chết bất đồng. Trông ta, nửa người nửa rắn, thì cái sự bất đồng đó lại càng rõ rệt hơn và chẳng những không hy vọng tăng, ta lại còn sợ giảm đi là khác. Riêng ta, ta biết mình ta lắm, bởi là một sinh vật bất bình thường, nên ta trải qua nhiều khó khăn mà một sinh vật bình thường không vấp phải. Cho ngươi biết, nào phải ta sống đến hôm nay là một sự kiện dễ dàng đâu? Giả như ta có cái mật của con Độc Giác Hàn Xà, thì chẳng nói làm chi! Có cái mật đó, ta có quyền hy vọng sống lâu hơn, bây giờ, thì sự thể đã như vậy rồi, có nhắc lại cũng chẳng ích gì, chỉ gây thêm niềm luyến tiếc thôi.

Y nhìn nó hỏi luôn:

– Ngươi bằng lòng ở lại chứ?

Linh Cô suy nghĩ một chút, rồi nói:

– Được rồi, tôi sẽ ở lại đây, hầu hạ bá bá, chẳng cần phải giới hạn trong khoảng mười năm, tôi sẽ mãi mãi ở đây cho đến khi nào bá bá chết thì thôi!

Xà Thần khích động đến rung người lên, vòng hai tay ôm Linh Cô vào lòng, cúi mặt xuống hôn vào má nó, lẩm nhẩm:

– Ngươi tốt quá! Ta cảm tạ lòng tốt của ngươi! Không lâu đâu, ta dám quả quyết như vậy, ngươi sẽ không lưu lại đây quá mười năm đâu! Ta hứa sẽ đem tất cả sở học truyền lại cho ngươi, ta sẽ biến ngươi thành một Nữ Vương Xà Quốc, và ngươi cũng sẽ trở thành một kỳ nhân trong thiên hạ.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Tiểu cô nương quyết định lưu lại à?

Linh Cô gật đầu:

– Phải! Tôi tình nguyện ở lại, Quan công tử! Công tử cứ yên trí lo tạo lập sự nghiệp bên ngoài, một ngày nào đó, tôi sẽ trở lại thế gian, với những gì học hỏi được, tôi sẽ tiếp trợ công tử ...

Quan Sơn Nguyệt sa sầm gương mặt, chẳng nói tiếng nào. Một lúc sau, chàng ngẩng đầu lên, hướng về Xà Thần, vòng tay thốt:

– Thế là tại hạ chỉ còn biết tha thiết yêu cầu tiền bối tận tâm chiếu cố Linh Cô.

Đối với Quan Sơn Nguyệt, Xà Thần chưa dịu cơn tức uất, cất giọng căm hờn:

– Điều đó, đợi gì ngươi phải nói? Cho ngươi biết, nếu không có nó, thì ngươi đừng hòng sống sót mà rời Thiên Xà Cốc của ta!

Linh Cô sợ việc cũ bị khơi động trở lại mà thành ra tranh chấp nữa, vội chen lời:

– Quan công tử và các vị hãy rời khỏi nơi nầy đi, yên trí mà xuống núi, hành sự như những ngày qua. Hiện tại Nhất u và Nhập Hoạch đang nóng nảy trông chờ các vị trở về đó. Sau nầy, nếu công tử có dịp gặp lại Lâm Tiên Tử, xin chuyển cáo với người là tôi vẫn được bình an và hiện tại ở Thiên Xà Cốc nầy. Còn con Minh Đà thì tôi sẽ xin lão bá bá phóng thích cho nó hạ sơn, theo các vị. Nó là con vật thông linh, nó sẽ tìm quý vị dễ dàng.

Nó vừa nói, vừa láy mắt ra hiệu mãi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng muốn ly khai sớm, sớm được phút giây nào, hay phút giây ấy.

Xà Cơ Giang Phàm thì có vẻ quyến luyến rõ rệt.

Quan Sơn Nguyệt lại vòng tay vái Xà Thần, chuẩn bị cáo từ.

Bỗng, Giang Phàm kêu lên:

– Còn Liễu Y Ảo? Nàng ấy đâu rồi?

Trước đó, Liễu Y Ảo đứng cạnh khung cửa, trong khi mọi người nhộn nhịp thì nàng rút đi êm, chẳng rõ nàng đi đâu, bây giờ Giang Phàm nhớ lại thì nàng đã mất dạng.

Xà Thần nhắm mắt, đứng yên một lúc, rồi mở mắt ra, đáp:

– Nàng trốn đi rồi! Chẳng những thế, nàng còn đánh cắp chiếc Xà Trượng của ta nữa.

Giang Phàm kinh hãi, rú lên một tiếng lớn.

Linh Cô hấp tấp hỏi:

– Làm sao lão bá bá biết được?

Xà Thần căm hận:

– Trong chiếc xà trượng đó, ta có nuôi ba con rắn tối độc, ta huấn luyện chúng rất kỹ, bằng vào tâm linh mà ta sai khiến chúng, vừa rồi ta vận dụng thần công phát tín hiệu cho chúng, bảo chúng gọi Liễu Y Ảo trở lại, nhưng không còn linh nghiệm như trước nữa. Những con rắn giữ cửa cốc lại báo cho ta biết rằng Liễu Y Ảo đã thoát ly rồi.

Giang Phàm hỏi:

– Nàng khống chế được ba con rắn tối độc đó sao?

Xà Thần đáp:

– Được chứ! Lúc ta sai nàng đi tìm con Độc Giác Hàn Xà, ta có trao chiếc xà trượng cho nàng sử dụng, phòng khi nàng gặp khó khăn. Nhờ đó mà nàng biết cách khống chế độc xà.

Lý Trại Hồng biến sắc.

Linh Cô cũng lo lợ rối rít lên:

– Nguy! Thế là nguy! Sau nầy ...

Xà Thần lắc đầu:

– Sợ cái gì chứ? Ba con rắn độc đó, tuy lợi hại, song chẳng đáng sợ.

Chúng dù lợi hại, vẫn chưa bằng sợi ngọc đái của Xà Cơ.

Linh Cô vội giải thích:

– Nào có phải tôi lo sợ cho bá bá đâu? Bởi bá bá là Xà Thần thì khi nào lại sợ rắn? Tôi lo sợ, là lo sợ cho những người khác, tâm địa của Liễu Tiên Tử bất thường lắm, nàng có thể là người lành, nhưng liền theo đó, lại trở nên ác nhanh chóng, nàng có thể làm những điều cực ác, bây giờ có thêm ba con rắn độc trợ lực nữa, thì sẽ có rất nhiều người bị nàng hãm hại trong tương lai. Và người mà nàng nhắm trước tiên, là Quan công tử đó!

Xà Thần lại lắc đầu:

– Việc của người ta, chẳng can chi đến ta, ngươi bảo ta lo ngại thay cho tiểu tử nữa sao? Trái lại ta còn hy vọng tiểu tử gặp Liễu Y Ảo, để cho rắn độc cắn hắn chết luôn, có như vậy cái hận của ta mới tiêu tan! Có cái hận nào lớn lao bằng cái hận bị đoạt cơ hội biến thành người chứ?

Linh Cô khẩn thiết:

– Không được đâu, bá bá! Vô luận làm sao, bá bá cũng truy tầm Liễu tiên tử, bắt buộc nàng phải trở về đây, hay ít nhất bá bá cũng phải thâu hồi ba con rắn độc đó. Nếu không thì sẽ gây tai hại lớn cho người đời, bá bá cũng phải mang tội lây đó!

Xà Thần lắc đầu:

– Không! Ta đã phát thệ rồi, chưa biến thành hình người, là ta không hề rời Thiên Xà Cốc.

Linh Cô van cầu:

– Thế thì bá bá trao bánh thuốc tỵ xà lại cho tôi ...

Xà Thần cũng lắc đầu luôn:

– Không được nốt! Ta chỉ có một bánh duy nhất, ta giao cho ngươi, ngươi trao lại cho người khác mang đi, cái động này thiếu vắng vật trấn giữ, thì lấy gì mà trị loài rắn chứ? Nếu không trị được chúng, chúng sẽ bò loạn ra khắp nơi, chúng hại người, còn nhiều hơn số người bị Liễu Y Ảo hãm hại, như vậy ta vẫn có tội, mà tội lại nặng hơn!

Linh Cô bật khóc, vừa khóc vừa gào:

– Bá bá phải nghĩ ra một biện pháp chi chứ! Nếu không thì tôi chẳng chịu ở lại đây đâu.

Xà Thần bối rối, suy nghĩ một chốc, rồi thốt:

– Thế thì để cho Xà Cơ xuất ngoại một phen, nàng sẽ dùng sợi ngọc đái đó, thu phục ba con độc xà.

Giang Phàm giật mình:

– Tôi ...

Xà Thần gật đầu:

– Chứ ngươi không thường nghĩ là tìm dịp xuất ngoại đó sao, Liễu Y Ảo trốn đi, vô tình tạo cho ngươi một dịp tốt đó!

Giang Phàm suy nghĩ một lúc, đoạn hỏi:

– Thế là Xà Thần không còn cần tôi ở lại hầu nữa?

Xà Thần khoát tay:

– Từ nay thì khỏi cần nữa, bởi ta có tiểu quỷ này bên cạnh, như vậy cũng đủ lắm rồi.

Xà Cơ Giang Phàm lại trầm ngâm giây lâu, sau cùng buông tiếng thở dài:

– Tôi phải đi tìm Liễu Y Ảo! Hơn mười mấy năm nay, tôi có xuất ngoại lần nào đâu! Bây giờ, đột ngột mà ly khai cái nơi mình cư trú qua bao nhiêu ngày tháng! Cảnh trí bên ngoài tôi hoàn toàn xa lạ, quảng đại quần chúng, tôi hoàn toàn xa lạ! Tôi sẽ làm sao? Làm sao?

Linh Cô sợ nàng từ chối, hấp tấp trấn an:

– Cô nương cứ đi theo Quan công tử là được! Thế nào rồi Liễu Tiên Tử cũng phải đi tìm Quan công tử mà! Cô nương khỏi cần tìm nàng, nàng sẽ đến với cô nương, tôi bảo đảm điều đó.

Quan Sơn Nguyệt toan phản đối, Lý Trại Hồng vội cất tiếng:

– Quan công tử, xem ra chúng ta không thể không nhờ Giang cô nương rồi đó. Giang cô nương sẽ thay chúng ta thế ngự Liễu sư muội, chúng ta cần phải gặp Liễu sư muội gấp, nếu không thì với ba con rắn độc đó chẳng biết nàng sẽ hãm hại bao nhiêu người.

Linh Cô tiếp liền:

– Phải đó! Đành rằng công tử không ngán Liễu Tiên Tử, bởi công tử thừa sức ngăn chặn mọi tai hại từ nơi nàng, song còn những người khác thì sao? Còn Lý Tiên Tử, còn Nhất u, còn nhiều người trong cánh của ta nữa đấy, như Khổ Hải Từ Hàng, Nhất Luân Minh Nguyệt, Vạn Lý Vô Vân, đối với ai, Liễu Tiên Tử cũng nuôi một mối thù thâm độc cả.

Quan Sơn Nguyệt không biết làm sao hơn, đành hướng qua Giang Phàm, thốt:

– Xin Giang cô nương thu thập hành trang, chúng ta lên đường ngay bây giờ.

Giang Phàm thoáng đỏ mặt:

– Tôi có gì đâu mà thu thập! Trừ con rắn đang quấn trên mình đây, tôi chẳng có vật chi khác!

Nhìn thoáng qua thân hình tuyệt đẹp của nàng, Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Như vậy đó, thì vào đời thế nào được!

Giang Phàm bây giờ mới thấy nhu cầu y phục là một vấn đề quan trọng. Từ bao nhiêu năm qua, nàng đã quen với thân hình trần như nhộng, chẳng bao giờ nàng khó chịu cả. Bởi, ở cái nơi hoang sơn cùng cốc nầy, con người vắng bóng, thì y phục trở thành vật thừa. Cho nên, hiện tại, tiếp xúc với thế nhân, rồi lại hiệp đoàn với thế nhân, trở lại thế gian, người ta thì kín đáo thân thể, còn nàng lại lõa lồ, cộng vào đó còn có sự hiện diện của một nam nhân. Nàng thẹn khôn cùng!

Lý Trại Hồng vội cởi chiếc áo ngoài ra phủ trên mình Giang Phàm, cho nàng được tự nhiên hơn.

Xà Thần vụt cười ha hả:

– Cái thế giới bên ngoài khéo bày vẽ rườm rà! Một pho tượng đẹp đẽ như vậy, cứ để nguyên ra, cho mọi người cùng thưởng thức, có phải tốt chăng! Thế mà bắt buộc người ta phải gói mình bằng mấy lượt vải, nghĩ một pho tượng bị phủ kín thì còn chi là giá trị của những nét tân kỳ? Có cái đẹp là phải phô trương ra chứ? Ai lại đem cái đẹp của mình mà che, mà dấu? Thật là vô lý. Nhận ra cái vô lý của thế nhân, ta không còn muốn chen mình giữa họ nữa rồi!

Cái luận điệu quái dị của Xà Thần chẳng làm ai để ý cả. Mọi người nghĩ rằng, đương nhiên là y phải có luận điệu đó, bởi y có khác nào là một người rừng, sống không phong tục, không lễ giáo, không đạo nghĩa, không tình cảm! Con người như vậy, còn hiểu làm sao được sinh hoạt của xã hội loài người?

Giang Phàm nghiêng mình cáo biệt:

– Xà Thần, tôi đi đây ...

Xà Thần vẫy tay cười lớn:

– Cứ đi! Đi với nhiệm vụ đó, khi nào ngươi làm tròn rồi, bất tất ngươi phải trở về đây! Về đây ngươi sẽ không còn cái thói quen chịu đựng cảnh ở đây như ngày nào!

Giang Phàm do dự một chút:

– Xà Thần! Chừng như Xà Thần không muốn cho tôi đi?

Xà Thần mỉm cười:

– Chúng ta sống chung với nhau qua một đoạn thời gian dài, ta không thể nói rằng ta không ưa thích ngươi được. Dù ta có ưa thích ngươi, ta cũng không có quyền bắt buộc ngươi phải ở mãi mãi tại đây để mai một cuộc đời. Cái sống bên ngoài kia hẳn thích hợp với ngươi hơn, vậy ngươi chuẩn bị mà sống với cuộc đời mới mẻ.

Câu nói rất thông thường, có đượm phần nào tình cảm, bất cứ ai nói lên cũng chẳng có chi đáng lấy làm lạ.

Nhưng, một quái vật, nửa người nửa rắn, thốt được một câu như vậy, hẳn phải là một sự phi thường.

Bởi quái vật còn nhân tánh, và cái nhân tánh đó lại ôn nhu, hiền dịu.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 47

Biến Chuyển Vô Lường

Đoàn người rời sơn cốc, ai ai cũng có vẻ vội vàng, theo con đường mòn, xuống núi.

Phía sau, không xa lắm, tiếng lục lạc của con lạc đà khua vang.

Nó chạy đến cạnh Quan Sơn Nguyệt, nép sát mình vào chàng, tỏ ra thân thiết như đôi cố hữu gặp nhau sau bao nhiêu năm tháng xa cách.

Quan Sơn Nguyệt vỗ nhẹ bàn tay lên gáy nó, nhiều cảm khái rạt rào nơi ánh mắt, chàng thốt:

– Lão bằng hữu ơi! Suýt tý nữa là ta không còn trông thấy lão hữu nữa rồi!

Lần này, ta thoát chết là nhờ lão hữu đấy!

Xà Cơ Giang Phàm gật đầu:

– Nó đúng là một con vật thông linh đó, Quan công tử! Liễu Y Ảo chỉ cầm thanh kiếm của công tử, nó ở gần đó, ngẩng mũi lên ngửi một lúc, là đuổi theo ngay. Liễu Y Ảo có thân pháp khá lắm đấy chứ, song nàng vẫn bị con thú đuổi theo kịp ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Kiếm? Thanh kiếm của tại hạ ở đâu?

Giang Phàm đáp:

– Chính Liễu Y Ảo giữ. Có lẽ nàng đã mang theo bên mình.

Lý Trại Hồng kinh hãi:

– Thế thì nguy! Nếu thanh Bạch Hồng Kiếm về tay Liễu Y Ảo, thì sự tình càng thêm rối lắm! Nàng có thanh kiếm đó trong tay còn khó trị hơn là ba con Độc Xà.

Giang Phàm thấy Lý Trại Hồng và Quan Sơn Nguyệt cùng lộ vẻ khẩn trương, vừa lạ lùng vừa sợ hãi, hỏi:

– Thanh kiếm đó có điểm gì đặc biệt?

Quan Sơn Nguyệt thất vọng vô cùng:

– Nó chỉ là một thanh kiếm cổ, ngoài cái chỗ chém sắt như chém bùn, nó còn lắm hiệu dụng huyền diệu.

Giang Phàm lắc đầu:

– Tôi không thấy cái giá trị của nó! Lúc Liễu Y Ảo mang nó về, nàng hết sức trân trọng nó, nhưng Xà Thần đem nó ra thực nghiệm, thì ai ai cũng thất vọng vì nó không đâm thủng nổi cái lớp da rắn của Liễu Y Ảo mặc bên ngoài. Tôi nhận thấy, nó còn tầm thường hơn thanh đoản kiếm của Lê phu nhân đã bị Xà Thần bẻ gãy đó. bởi thanh kiếm của Lê phu nhân, ít nhất cũng chém tét một vài chiếc vảy của Xà Thần.

Lý Trại Hồng nhìn Nguyệt Hoa Phu Nhân một chút, đoạn hỏi:

– Thanh kiếm của phu nhân có cái tên là Hắc Đái phải không?

Nguyệt Hoa Phu Nhân gật đầu:

– Phải!

Bà hỏi lại:

– Làm sao Tiên Tử biết được?

Lý Trại Hồng thở dài:

– Đáng tiếc! Đáng tiếc thật! Hắc Đái Kiếm so với Bạch Hồng Kiếm, còn quý hơn nhiều ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở ra:

– Quý bao nhiêu nó cũng chẳng còn! Thì, tiếc làm gì một vật đã mất? Tiên Tử chưa thấy thanh kiếm bên mình đứa con kia của già ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình, hỏi:

– Thanh kiếm của Lưu Ảo Phu ra sao?

Nguyệt Hoa Phu Nhân đáp:

– Thanh kiếm hắn mang, có cái tên là Tử Sính ...

Lý Trại Hồng kêu lên:

– Tử Sính? Một trong năm thanh kiếm quý? Tại sao những thanh kiếm đó lại lần lượt xuất hiện trên giang hồ?

Lúc hội kiến với Ôn Kiều, Quan Sơn Nguyệt có nghe bà nói đến mấy thanh kiếm báu, và điều đó thì Lý Trại Hồng cũng đã biết như chàng. Cả hai cùng biết, họ kinh ngạc vì sự tái xuất hiện của những thanh kiếm đó, còn Nguyệt Hoa Phu Nhân thì hầu như chưa rõ lai lịch của những thanh kiếm đó cho nên bà xem thường.

Bây giờ, thấy cả hai có vẻ kinh hãi, bà hết sức lấy làm lạ, bởi trên đời thiếu chi kiếm báu, thì nơi này có một thanh, nơi khác có một thanh, điều đó có gì lạ mà cả hai phải kinh ngạc? Bà hỏi:

– Năm thanh kiếm báu? Những thanh kiếm đó ra sao?

Lý Trại Hồng giải thích:

– Tiên sư từng được một quyển kiếm phổ, trong quyển kiếm phổ đó có ghi tên năm thanh kiếm lạ, đó là thanh Tử Sính, Thanh Sách, Hắc Đái, Hoàng Diệp và Bạch Hồng, trong số năm thanh kiếm đó, Bạch Hồng Kiếm kém giá trị nhất ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân lẩm nhẩm tên năm thanh kiếm.

Lý Trại Hồng tiếp:

– Trong năm thanh kiếm, phu nhân có đến hai ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

– Không, cô nương nói sai! Chừng như, trừ thanh Bạch Hồng ra, bốn thanh kia đều ở trong tay già!

Lý Trại Hồng trố mắt, mường tượng không tin lắm.

Nguyệt Hoa Phu Nhân mỉm cười:

– Bốn thanh kiếm đó do Lưu Dật Phu từ hải ngoại mang về, lão nhặt ở đâu thì già không hiểu rõ lắm, nhưng đặc điểm của mỗi thanh thì già có hiểu được phần nào. Lão nói, năm thanh kiếm đó có màu sắc khác biệt, gồm thanh, tử, hắc, bạch và hồng, lấy màu mà đặt tên. Nếu có đủ năm thanh, rồi liên hiệp năm người mà tạo nên một kiếm trận, thì trên đời nầy chẳng một ai phá nổi kiếm pháp liên thủ mà cũng liên hoàn đó ...

Bà dừng lại một chút, rồi tiếp luôn:

– Sở dĩ lão ta kết thù với người đời là vì lão phát hiện ra, thanh kiếm thứ năm ở trong tay một nữ nhân, lão muốn chiếm đoạt thanh kiếm đó cho có đủ số, lão phát động cuộc tranh chấp với nữ nhân, kết quả, kiếm không đoạt được, mà một bàn tay phải bị tiện lìa ...

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Đúng rồi! Nữ nhân đó, chính là Ôn lão tiền bối.

Nguyệt Hoa Phu Nhân liếc mắt thoáng qua chàng.

Quan Sơn Nguyệt giật mình, biết mình đã lỡ lời, hấp tấp cúi đầu, tránh tia mắt của phu nhân.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hiểu rõ tâm trạng của chàng, điểm nhẹ một nụ cười gọi chàng:

– Không có gì làm cho con phải khó khăn cả. Linh Cô đã nói hết sự tình với mẹ rồi. Trong tương lai, nếu có xảy ra cuộc xung đột giữa mẹ và bà ấy, con chẳng có mảy mai liên quan nào, như thế, con khỏi phải áy náy.

Quan Sơn Nguyệt muốn hỏi gì đó, song Lý Trại Hồng đã cất tiếng:

– Bốn thanh kiếm đó, hiện giờ ở đâu, phu nhân?

Đáng lẽ nàng chỉ hỏi hai thanh kia thôi, bởi phu nhân sử dụng một thanh, Lưu Ảo Phu giữ một thanh, như nàng đã biết, chỉ còn lại hai thanh thôi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thốt:

– Thanh kiếm Thanh Sách thì được chôn theo Lưu Dật Phu trên đỉnh Vọng Nguyệt Phong. Tử Sính Kiếm do già giữ, còn Hắc Đái Kiếm thì được giao cho Đạn Kiếm, Đạn Kiếm chết rồi, già lấy thanh kiếm mang luôn bên mình. Không ngờ ngày nay nó lại bị Xà Thần hủy diệt!

Lý Trại Hồng lại hỏi:

– Thanh Hoàng Diệp Kiếm ở đâu?

Nguyệt Hoa Phu Nhân đáp:

– Ở tại cung Quảng Hàn, già ít có dịp dùng đến kiếm, cũng như các loại vũ khí khác. Do đó, già phó thác cho tỳ nữ là Chữ Trà gìn giữ. Hiện tại, thanh Hoàng Diệp còn lưu lại Quảng Hàn Cung.

Lý Trại Hồng suy nghĩ một chút:

– Vô luận làm sao, tôi tha thiết yêu cầu phu nhân, phu nhân phải phái người về gấp Quảng Hàn Cung, lấy thanh Hoàng Diệp Kiếm mang đến đây, giao cho công tử sử dụng. Chứ nếu không thì trong những ngày sắp tới, tất cả chúng ta sẽ khó tránh khỏi nguy hại.

Nguyệt Hoa Phu Nhân day qua Quan Sơn Nguyệt:

– Có cần thiết không con?

Quan Sơn Nguyệt đáp nhanh:

– Cần lắm chứ, mẹ! Nếu không có một thanh kiếm báu, thì kiếm pháp Đại La của con cầm như vô dụng rồi!

Lý Trại Hồng thấp giọng:

– Trong năm thanh kiếm lạ đó, chỉ có Tử Sính và Thanh Sách là hai thanh có oai lực phi thường, tốt hơn hết là làm cách nào lấy được thanh Thanh Sách ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không thể được! Tại hạ không thể vì một thanh kiếm mà quật mồ một người, dù người đó là kẻ thù!

Lý Trại Hồng muốn nói chi đó, lại thôi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thấy nàng cứ quan sát bà ta mãi, biết ngay là nàng muốn nói điều gì cố kỵ đối với bà, bà liền điểm một nụ cười, thốt:

– Đừng ngại, cô nương! Cô nương muốn nói gì, cứ nói, dù già có bất đồng ý kiến, thì cũng chẳng sao, bởi chúng ta còn thảo luận lại mà!

Lý Trại Hồng liền thốt:

– Giả như chỉ đối phó với Tạ Linh Vận và Liễu Y Ảo, thì Quan công tử dùng thanh Hoàng Diệp Kiếm, cũng thừa sức thủ thắng. Nhưng, trong tương lai, Quan công tử còn phải đương đầu với Lưu Ảo Phu, nếu công tử không có một thanh kiếm tương đương với kiếm địch, thì hậu quả sẽ tai hại không biết như thế nào mà lường. Dù toàn thể chúng ta có tiếp trợ Quan công tử, tôi thấy chẳng có nhiều hy vọng đánh bại Lưu Ảo Phu.

Quả nhiên, Nguyệt Hoa Phu Nhân động tâm ngay. Bà trầm gương mặt, suy nghĩ một lúc lâu.

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Tại hạ nhận thấy không cần thiết lắm, Lý Tiên Tử ạ! Có thanh Hoàng Diệp Kiếm cũng đủ lắm rồi. Lúc tại hạ giao đấu với Đạn Kiếm tại cung Quảng Hàn, tại hạ dùng thanh Bạch Hồng Kiếm, thanh kiếm nầy kém hẳn thanh Hắc Đái, thế mà tại hạ còn thắng được. Suy theo đó, tại hạ cho rằng kiếm thuật mới là đáng kể, chứ vũ khí dù sao cũng chỉ là vấn đề phụ thuộc mà thôi.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

– Nguyệt con! Mẹ nghĩ, Lý Tiên Tử nói cũng có lý lắm. Con không thể dựa vào trường hợp giao đấu với Đạn Kiếm mà có sự nhận xét nông cạn như vậy. Đấu với Đạn Kiếm, là con và hắn tỷ thí cái tài, song phương còn nhân nhượng nhau nên không có vấn đề quyết liệt. Trái lại, giữa con và Ảo Phu, có mối thù hận truyền kiếp, nếu song phương động thủ là phải có một mất một còn. Ảo Phu vì thù cha, quyết diệt trừ con, đã đành, nó lại còn hận riêng mẹ, oán luôn con. Nó cho rằng mẹ tha thiết với con, con giành trọn cảm tình của mẹ, hiện tại mẹ cầm như đã mất hẳn nó rồi, thì còn lại một con, khi nào mẹ lại chịu mất luôn con?

Quan Sơn Nguyệt hiểu rõ ý của mẹ, nhưng chàng vẫn cương quyết khước từ:

– Không thể được, mẹ ạ! Lưu Dật Phu có mối thù với phụ thân con, vấn đề đó thuộc về lớp trước, mà chừng như sự hiềm khích giữa nhau cũng chẳng được rõ rệt cho lắm, người ta nói, nhân tử là sự tận, ngày nay hai người ấy đã chết rồi, thì nên để cho họ được yên nơi suối vàng, con không muốn khơi lại niềm đau buồn của họ, huống chi, oan gia nên mở chứ không nên buộc ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân thoáng đỏ mặt.

Lý Trại Hồng chen vào:

– Công tử nói thế, là do lòng nhân, dựa vào đạo nghĩa mà nói, chứ Lưu Ảo Phu không tưởng như vậy đâu!

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Tại hạ hiểu rồi, Tiên Tử ạ! Hắn còn một nguyên nhân khác, chính cái nguyên nhân đó khiến hắn bằng mọi cách, diệt trừ tại hạ cho kỳ được.

Lý Trại Hồng trầm giọng:

– Bởi thế, công tử phải hết sức đề phòng hắn bất cứ trong phút giây nào, bất cứ tại nơi nào ...

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Hắn đã hai lần toan sát hại tại hạ, tự nhiên tại hạ phải hiểu thâm ý của hắn. Lúc đấu kiếm tại Quảng Hàn Cung, hắn giở thói bạo tàn, rồi khi tại hạ đến Vọng Nguyệt Lầu, hắn lại thực hiện mưu độc!

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài:

– Thật sự, nó quyết ý hại con sao? Cho đến nay mẹ còn hoài nghi đó con!

Quan Sơn Nguyệt tiếp:

– Có thể là âm mưu đó không phải do hắn, nhưng biết đâu hắn chẳng góp ý kiến với người chủ mưu? Dù sao thì việc cũng đã rồi, nếu có điều đáng trách là tại con không cẩn thận thôi. Con nhẹ dạ tin lời liều đầu Tiểu Hồng mới ra nông nổi đó!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trở lại vấn đề cũ:

– Bây giờ, con đã thoát nạn, thế là mẹ được yên tâm. Đối với nó, mẹ nghĩ dù thế nào thì con cũng cần phải có thanh kiếm Thanh Sách ...

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Không nên đâu mẹ! Vô luận Lưu Ảo Phu có ác ý như thế nào đối với con, con cũng không thể chấp nhận việc khai quật mộ phần của phụ thân hắn mà đoạt thanh kiếm nơi tay người chết để đối phó với hậu nhân là hắn!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lại thở dài:

– Con muốn thế, tùy con! Nếu Ảo Phu có tư cách như con thì trên thế gian nầy, mẹ là người có hạnh phúc nhất.

Lý Trại Hồng phụ họa:

– Có một người con như Quan công tử, phu nhân có quyền hãnh diện!

Quan Sơn Nguyệt vốn trực tính, không chịu nổi những lời tán tụng đó, dù chính mẹ chàng thốt, dù chính một người quen thuộc gần như thân mật của chàng thốt lên, không muốn đứng đó nghe thêm, chàng bước đến cạnh con Minh Đà, ve vuốt nó.

Giang Phàm nhìn chàng, lòng nao nao với một ý niềm mới mẻ, một ý niềm mà suốt mấy năm dài, ở tại Thiên Xà Cốc, nàng chẳng hề nghe dao động lần nào.

Nàng tự lẩm nhẩm:

– Xà Thần từng khuyến cáo ta đừng bao giờ ly khai sơn cốc trở lại trần gian bởi có rất nhiều nam nhân chực chờ lừa gạt những thiếu nữ đang độ xuân thì, nhất là khi thiếu nữ có nhiều nhan sắc. Lão nói, những nam nhân trên đời, đều là những tên bại hoại, tất cả đều đáng chết, nhưng từ lúc ta hân hạnh được tiếp xúc với Quan công tử, ta nhận thấy Xà Thần xét đoán sai!

Tuy là tự lẩm nhẩm với mình, Giang Phàm cũng không hạ thấp giọng lắm, và những lời nói của nàng lọt vào tai Lý Trại Hồng trọn vẹn. Lý Trại Hồng điểm nhẹ nụ cười thốt:

– Không phải Xà Thần hoàn toàn không có đạo lý đâu! Bất quá, cô nương có số đỏ, nên vừa xuất ngoại là được hiệp đoàn với một nam tử tốt nhất trong thiên hạ, rồi cô nương lại tưởng tất cả nam tử đều tốt như vậy! Tôi xin mượn lời khuyến cáo của Xà Thần, để cảnh cáo cô nương, là chẳng phải bất cứ nam nhân nào cũng đều tốt như Quan công tử đâu! Nếu cô nương không dè dặt, thì cái hậu quả sẽ đến với cô nương nhanh chóng!

Giang Phàm lắc đầu:

– Chắc chắn là không bao giờ tôi lầm lạc một nam nhân nào cả, lẽ thứ nhất là tôi sẽ không tin ai, lẽ thứ nhì là tôi chẳng chịu ly khai Quan công tử, vĩnh viễn tôi theo Quan công tử dù phải đi khắp bốn phương trời, dù phải đi suốt đời, tôi sẽ không hề chú ý đến bất cứ nam nhân nào khác, ngoài Quan công tử!

Từ lúc ly khai Thiên Xà Cốc, họ vừa đi vừa nói chuyện, thỉnh thoảng người này tiến đến cạnh người kia, thỉnh thoảng họ quây quần với nhau một chỗ để rồi sau đó qua năm ba câu chuyện, họ lại tách rời nhau.

Những gì Giang Phàm nói, Quan Sơn Nguyệt ở cách xa xa, không nghe rõ.

Giang Phàm thốt xong, liền lướt tới, kèm bên cạnh Quan Sơn Nguyệt, rồi cả hai nói gì với nhau mấy câu, họ hạ thấp giọng nên những người ở phía sau chẳng biết họ nói gì.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cau mày, nhìn qua Lý Trại Hồng một thoáng, đoạn trầm giọng, bảo:

– Đối với đời, nàng chỉ là một cô bé nhỏ dại, chưa biết mảy mai thế thái nhân tình, cô nương không nên nói những lời như thế với nàng.

Lý Trại Hồng thở dài:

– Nhưng, hiện tại, nàng sắp sửa vào đời, tôi cần phải nói những điều đó với nàng, phu nhân ạ!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lấy làm lạ:

– Tại sao?

Lý Trại Hồng đáp:

– Nàng như con chim non lìa tổ, song lại có tài cao, nhưng khi lạc lõng giữa dòng đời, nàng sẽ bị dụ hoặc dễ dàng, người ta lợi dụng cái tài cao của nàng, nếu chúng ta không cảnh cáo nàng ngay từ bây giờ, thì trong tương lai rất có thể nàng sẽ trở thành con người bại hoại nguy hiểm!

Nguyệt Hoa Phu Nhân trầm ngâm một chút:

– Tiên Tử có ý nghĩ rất tốt, song dù sao thì chúng ta cũng phải nhớ đến cái tâm tánh của Nguyệt nhi, giả như sau nầy nàng bị khích thích qua thời gian tiếp cận với Nguyệt nhi, biết đâu cái kết quả sẽ chẳng phản ngược lại ý nghĩ của Tiên Tử?

Lý Trại Hồng cười nhẹ:

– Điều đó chẳng đáng cho phu nhân bận tâm lo ngại. Bởi, có tôi bên cạnh nàng, tôi sẽ chỉ điểm cho nàng hiểu những gì cần phải tránh. Nàng đã bắt đầu có cảm tình với Quan công tử, chúng ta nên lợi dụng tình cảm của nàng, đào tạo nàng thành một người trung thành kiên quyết, dám làm bất cứ việc gì có lợi cho công tử. Nàng sẽ góp phần lớn lao trong công việc tạo dựng sự nghiệp cho công tử sau nầy.

Cả hai bàn bàn luận luận với nhau, sắp xếp một kế hoạch cho những ngày sẽ đến. Dĩ nhiên, những gì họ bàn luận với nhau, phải là bí mật, nên họ chỉ thì thầm cho nhau nghe thôi.

Một lúc sau, họ về đến ngôi nhà trọ, đúng lúc Nhàn Du Nhất u và Nhập Hoạch đang kinh hoàng gần như cuồng loạn về sự thất tung của bao nhiêu người.

Bây giờ thì đương nhiên là cả hai phải mầng, càng mầng hơn nữa là có thêm Quan Sơn Nguyệt.

Nghe Nguyệt Hoa Phu Nhân thuật lại tao ngộ vừa qua, Nhàn Du Nhất u và Nhập Hoạch tưởng chừng mình nghe kể một thần thoại từ xa xưa nào đó. Nếu chẳng có Xà Cơ Giang Phàm, nếu chẳng có sợi dây đai bằng con rắn kỳ quái quanh mình Giang Phàm, cả hai nhất định không tin là có sự thật như vậy.

Nguyệt Hoa Phu Nhân sai Nhập Hoạch trở về Quảng Hàn Cung lấy thanh kiếm Hoàng Diệp cho Quan Sơn Nguyệt sử dụng.

Việc kế đó là dọ thám hành động Tạ Linh Vận tại Ngũ Đài Sơn.

Đáng lý ra, Quan Sơn Nguyệt tự mình đảm trách việc đó, song mọi người sợ chàng đến đó, hành tung sẽ bị lộ, Tạ Linh Vận kịp thời phòng bị, chẳng những chàng không thu thập được chi tiết nào hữu ích, mà còn làm cho sự tình thêm khó khăn, đối phương đề phòng rồi khó mà tranh thủ thắng lợi một cách dễ dàng. Bởi thế, chàng đang ẩn mặt tại sơn thôn này, để cho Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt thay thế chàng, đi Ngũ Đài Sơn một chuyến.

Sở dĩ cả hai được chọn, là vì trong Long Hoa Hội, họ có địa vị thấp nhất, nếu đến Ngũ Đài Sơn, họ có bị phát giác hành tung, thì cũng chẳng đến đổi nào, bởi Thiên Ma Giáo chẳng bao giờ ngán sợ họ mà làm khó gì cho lắm.

Nguyệt Hoa Phu Nhân và Lý Trại Hồng nhân lúc rảnh này, mua vải cắt may y phục cho Giang Phàm dùng tạm.

Cắt may y phục cho một người thường, đối với cả hai, chẳng phải là việc khó làm. Nhưng, con rắn độc kia không thể rời xa Giang Phàm, thì bộ y phục của nàng cũng phải bao phủ luôn con rắn, và điều quan trọng là phải nghĩ cách làm sao cho con rắn thoát ra dễ dàng, khi cần dùng đến nó. Cả hai nghĩ mãi, sau cùng mới thỏa thuận là cứ may y phục thường cho Giang Phàm, còn về con rắn thì họ may cho nó một cái đãy, cột dưới vai của nàng.

Quan Sơn Nguyệt thì hoặc đàm đạo với Nhàn Du Nhất u, hoặc thủ thỉ với con Minh Đà, như đàm thoại với một lão hữu. Chàng cũng có đem điều hay lẽ phải giáo huấn Giang Phàm, giúp nàng dần dần khôi phục các thói quen của một con người mà hơn mười mấy năm dài tại Thiên Xà Cốc, nàng đã quên lãng mất.

Tuy nhiên, chàng luôn luôn nhớ đến Trương Thanh, không một việc làm nào hàng ngày có thể giúp chàng khuây niềm tưởng nhớ Trương Thanh.

Lúc còn sống chung với nhau, có nhau bên cạnh thường xuyên, chàng không lưu ý cho lắm đến nàng. Sau thời gian xa cách, cũng có lúc chàng nhớ đến nàng, nhưng niềm nhớ nhung không thắm thiết sâu đậm lắm.

Bỗng dưng mà chàng biết được nàng yêu chàng, nàng đau khổ vì chàng đến đổi phải lâm nạn, chàng xót xa biết bao. Giờ đây, chàng mới nghe con tim rạo rực, giờ đây chàng mới thấy ray rức phi thường về sự thiếu vắng nàng.

Hiện tại, có phải là nàng đang bị Lưu Ảo Phu quản thúc chăng? Nếu đúng như vậy, thì hẳn là Lưu Ảo Phu có cho nàng biết chàng đã chết rồi! Nghe tin chàng chết, nàng sẽ ra sao?

Chàng thầm nghĩ:

“Nàng có đau khổ chăng? Có khóc vì ta chăng? Hay nàng cải biến tâm ý, quên ta mất rồi, để dành trọn vẹn con tim cho Lưu Ảo Phu?”.

Từ lúc tiếp thọ Minh Đà Lệnh, xuất đạo trên giang hồ đến nay, lần thứ nhất Quan Sơn Nguyệt mới biết ưu tư về vấn đề tình ái! Càng ưu tư, chàng càng hận Lưu Ảo Phu. Chàng tự nguyện sẽ chẳng dung tha Lưu Ảo Phu nếu Trương Thanh có bề gì, bởi chàng cho rằng nàng có ra sao đi nữa, thì cũng do Lưu Ảo Phu uy hiếp mà thôi.

Rồi chàng lại nghĩ:

“Giả như Trương Thanh thay lòng đổi dạ, quên chàng mà yêu Lưu Ảo Phu, thì chàng sẽ làm sao? Chàng có nên từ nơi tay Lưu Ảo Phu, đoạt Trương Thanh về cho chàng chăng?”.

Cuối cùng, chàng lắc đầu, tự nhủ thầm:

“Không! Ta không nên làm thế, giả như ta gặp cả hai sum họp với nhau, thì ta nên âm thầm bỏ đi xa, thật xa, để cho họ hưởng hạnh phúc bên nhau, còn ta thì bên trong sống với những kỷ niệm ngày nào, bên ngoài thì trọn vẹn hy sinh cho quảng đại quần chúng.”.

Trên thế gian nầy, trừ trường hợp bị phản bội, có ai cam tâm để cho ngoại nhân cướp đoạt tình yêu, không mảy mai phản ứng, âm thầm tìm nơi ẩn tránh, chịu đau khổ mà nhường hạnh phúc cho người? Chẳng qua, trong mấy lúc sau nầy, Quan Sơn Nguyệt dần dần biến đổi tánh tình, hiện tại thì chàng có tâm quảng đại, không thích bất cứ cuộc tranh chấp nào, kể cả sự tranh chấp một con tim, trừ những lúc chẳng đặng đừng mà thôi.

Không kể Lưu Ảo Phu dù là con của kẻ thù, hắn vẫn là huynh đệ đồng mẫu với chàng, chàng còn nhận thấy Lưu Ảo Phu say mê Trương Thanh vô cùng, nếu Trương Thanh sống chung với hắn, thì nàng sẽ được hắn nuông chiều săn sóc chu đáo. Chàng cho rằng Trương Thanh về với chàng, chưa chắc là hạnh phúc hơn là về với Lưu Ảo Phu. Do đó, chàng quyết định nhượng bộ để Trương Thanh được hạnh phúc mãi mãi.

Sinh hoạt của những người còn lại, cứ như thế diễn tiến đều đều qua mười ngày rồi.

Sơn thôn từ thuở nào, vẫn an tịnh, dân cư sống như cái máy, trăm ngàn như một, mọi hoạt động tiếp diễn đều nhịp. Bỗng, hôm nay, một biến cố đến với địa phương an tịnh nầy, thực ra thì biến cố đó chẳng phải đến với cư dân, mà chính là đến với bọn người đang tạm trú trong vùng. Dù muốn dù không, dân cư cũng bị ít nhiều ảnh hưởng qua cuộc nhiệt náo của bọn người tạm trú đó.

Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt đi Ngũ Đài Sơn dọ thám, mang về một cái tin làm chấn động tâm tư mọi người.

Từ lâu, Tây Môn Vô Diệm nhận chức phó giáo chủ Thiên Ma Giáo, nhưng ngôi vị đó gần đây đã thay đổi người rồi. Tây Môn Vô Diệm nhượng vị lại cho Lưu Ảo Phu!

Ngoài cái tin kinh khủng đó, lại có thêm những sự kiện khác.

Sự kiện thứ nhất, là năm thị giả tại Quảng Hàn Cung cũng đến tận sơn trang nầy, và chính Thị Thơ gọi Cầm Khiêu và Tử Kỳ cùng đến luôn.

Nhập Hoạch thì vâng lịnh Nguyệt Hoa Phu Nhân, trở về Quảng Hàn Cung, dọc đường lại gặp Chữ Trà.

Sự kiện thứ hai nầy cũng làm cho mọi người kinh ngạc không ít, bởi Chữ Trà có nhiệm vụ gìn giữ Quảng Hàn Cung trong lúc Nguyệt Hoa Phu Nhân vắng mặt, bây giờ nàng ly khai nơi đó, hẳn chẳng phải là không duyên cớ. Cái duyên cớ đó, không cần đợi ai nói, Chữ Trà đương nhiên thuật lại cho mọi người biết liền.

Đó là một hôm, Lưu Ảo Phu bổng trở về, quật mộ cha, lấy thanh kiếm Thanh Sách, với ý định hiến dâng cho Tạ Linh Vận.

Ỷ trượng vào thanh Hoàng Diệp Kiếm, Chữ Trà chống cự, song nàng làm sao địch lại Lưu Ảo Phu, nàng bị hắn đánh bỏ chạy xuống núi. Lưu Ảo Phu phóng hỏa thiêu hủy Quảng Hàn Cung.

Cái tin cuối cùng, liên quan đến Trương Thanh, sau khi nghe nói là Quan Sơn Nguyệt tử nạn rồi, nàng khóc suốt ngày đêm, bất thình lình, ba hôm sau nàng thất tung một cách bí mật. Không ai biết nàng đã đi đâu, và thất tung trong trường hợp nào.

Những tin tức đó, đến với bọn Nguyệt Hoa Phu Nhân và Quan Sơn Nguyệt, như những tiếng sét nổ ngang đầu.

Sau cơn kinh khủng, họ bình bịnh trở lại, và cùng nhau thảo luận kế hoạch, ứng phó với tình hình mới. Dĩ nhiên, cuộc thảo luận của họ nhắm vào mục tiêu chánh, là bắt buộc phải khai diễn trường ác chiến vói Thiên Ma Giáo, bằng mọi giá, phải thủ thắng trước Tạ Linh Vận. Đạt mục tiêu đó rồi, những vấn đề khác là phụ thuộc, họ sẽ lần lượt giải quyết, cái phần phụ thuộc đối với họ không khó khăn lắm.

Giả như chính họ không đến tận Ngũ Đài Sơn, thì trước sau gì Tạ Linh Vận cũng đưa lực lượng đến tìm họ.

Quan Sơn Nguyệt thầm nghĩ, trong năm thanh kiếm báu, thì Hắc Đái bị Xà Thần bẻ gãy, Bạch Hồng bị Liễu Y Ảo chiếm đoạt, Hoàng Diệp may mắn vẫn còn nơi tay Chữ Trà. Nhưng, hai thanh lợi hại nhất là Tử Sính và Thanh Sách thì lại ở trong tay Lưu Ảo Phu! Và, cứ như tin tức vừa thu hoạch, thì Thanh Sách Kiếm lại được Lưu Ảo Phu tặng cho Tạ Linh Vận. Thế là hai tay đại kình địch của chàng, có mỗi người một thanh kiếm quý!

Sự kiện đó, dù muốn dù không, cũng đã gây nên khó khăn cho chàng nhiều, trên xa chỗ tưởng của chàng.

Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu là hai tay kiếm thủ lợi hại, nếu họ có kiếm báu nơi tay, thì phần linh diệu sẽ được phát huy trọn vẹn, trong khi Quan Sơn Nguyệt chỉ có thanh kiếm hạng thứ, là Hoàng Diệp do Chữ Trà vừa mang đến.

Quan Sơn Nguyệt cảm thấy một cơn bão lớn đang dấy động ở chân bờ, trong một sớm một chiều sẽ quét đến nơi, cuốn cả bọn của chàng đưa vào tử diệt ...

Sơn thôn nầy lộ liễu quá, chẳng phải là nơi tạm trú an toàn, nếu nấn ná tại đây, giả như bọn Tạ Linh Vận kéo đến, Quan Sơn Nguyệt khó thủ thắng nổi, bởi chàng mất hẳn địa lợi.

Ở không tiện, thì tốt hơn hết là ra đi, mà đi đâu cũng không bằng kéo nhau thẳng đến Ngũ Đài Sơn.

Chàng nghĩ, sớm muộn gì cũng phải có cuộc chiến, thì tốt hơn nên chiến ngay trong lúc nầy, lúc mà đối phương có lẽ chưa chuẩn bị hoàn toàn lực lượng cũng như chiến lược.

Từ Chiết Sơn đến Ngũ Đài Sơn, đường dài độ vài trăm dặm, nếu một mình chàng dùng Minh Đà làm cước lực, thì bất quá chàng chỉ mất một ngày thôi, song chàng không thể giục Minh Đà giở hết tốc độ, bởi sau chàng còn có đoàn ngựa của những người thân của chàng. Thành ra, người đợi người, nhanh phải chờ chậm, do đó hành trình phải kéo dài lâu.

Qua khỏi huyện Ngũ Đài, là đến khu núi, tuy đến đó rồi, đoàn người vẫn còn cách đỉnh chánh Ngũ Đài Sơn khá xa.

Khi đoàn người giẫm chân lên sơn lộ rộng rãi, Quan Sơn Nguyệt nghĩ rằng Thiên Ma Giáo hẳn phải đặt thuộc hạ canh giữ dọc theo đường, từng chặng, hoặc lộ liễu, hoặc ẩn nấp, đề phòng những sự xâm nhập bất ngờ vào nội địa của họ.

Quả nhiên, bọn chàng đi không lâu, bỗng thấy Kỳ Hạo cởi con Hắc Đà của hắn, hiện ra chận đầu. Long Hoa Hội đã giải tán, thì cái chức Thiên Tề Ma Quân của hắn cũng chẳng còn nữa, như tất cả mọi chức vụ trong ba bảng Tiên, Ma và Quỷ đều được giải trừ, tuy nhiên hắn vẫn còn giữ nguyên vẹn thần khí của thuở nào. Sở dĩ hắn còn dương dương tự đắc, là vì Tạ Linh Vận đã truyền «Tu La Kiếm Pháp» cho hắn.

Tạ Linh Vận tín nhiệm hắn đến độ đem sở học bí truyền chỉ điểm cho hắn như vậy, hẳn là trong Thiên Ma Giáo, địa vị của hắn không thấp lắm.

Người thấy người, người chưa đối thoại với nhau, nhưng hai con thú đã phản ứng rồi. Con Hắc Đà của Kỳ Hạo vừa trông thấy con Minh Đà của Quan Sơn Nguyệt liền quay đầu chạy đi, con Minh Đà liền đuổi theo ngay lập tức.

Thì ra, trên đỉnh Thần Nữ Phong, hai con vật cũng như chủ nhân chúng, cũng có giao tranh với nhau. Hắc Đà bại, Minh Đà thắng, bại gặp thắng phải sợ chạy liền, thắng gặp bại thì hùng hổ sấn đuổi.

Kỳ Hạo không làm sao kềm giữ con thú được, nổi giận nhảy xuống đường, phóng chân tung một ngọn cước vào mông nó, đồng thời mắng:

– Súc sanh vô dụng quá chừng!

Minh Đà chừng như thích thú lắm, ngẩng cao đầu, rống lên oang oang.

Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cười, vỗ tay vào cổ Minh Đà, thốt:

– Khá lắm đó, lão bằng hữu! Có như vậy mới đáng mặt anh hùng, độc chiếm nhất phương, chứ nếu để cho cái thứ vô dụng nghinh ngang thì còn oai vọng chi nữa!

Chàng mượn câu nói với Minh Đà, để ngầm mỉa mai Kỳ Hạo, chứ thú gì lại có thú xưng hùng xưng bá, độc chiếm nhất phương?

Kỳ Hạo phản ứng liền:

– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi chớ vội hợm mình, thú thì hùng mãnh đó, nhưng chắc gì ngươi được như thú? Ngươi có gan dẫn xác đến đây, thì ta bắt buộc phải nhọc công giáo huấn ngươi một phen!

Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:

– Muốn khiêu chiến ta, ít nhất ngươi cũng phải có đủ tư cách. Thử hỏi ngươi có còn cái thân phận Phi Đà Lệnh Chủ chăng mà cho rằng mình xứng đáng khiêu chiến một Lệnh Chủ khác?

Kỳ Hạo biến sắc, quát vang:

– Câm! Câm ngay! Ngươi có can đảm, cứ xuống lưng lạc đà đi, ta sẽ chong biết liền, Kỳ Hạo nầy lợi hại như thế nào.

Lúc đó, con Hắc Đà đã trở lại cạnh hắn, hớn với tay lấy một chiếc bọc dài trên mình Hắc Đà.

Chiếc bao đó đựng một loại vũ khí hình thức kỳ quái. Vũ khí đó, hắn phỏng theo hình thức chiếc Kim Thần của Quan Sơn Nguyệt mà chế luyện, toàn thân đen bóng, một chân thay cho cáng, đầu kia tợ đầu quỷ, có răng lòi, mắt trợn, trông hết sức dữ dằn.

Hắn đặt cho vũ khí đó một cái tên, là Độc Cước Quỷ Vương.

Rút chiếc Độc Cước Quỷ Vương ra khỏi bao, hắn vừa vung lên, vừa hét:

– Xuống lưng lạc đà đi, Quan Sơn Nguyệt! Chúng ta trao đổi nhau vài ba trăm chiêu xem nào!

Quan Sơn Nguyệt cười ngạo nghễ:

– Hiện tại, ta không thừa thời giờ đùa cợt với ngươi, ngươi trở về giáo sở, gọi Tạ Linh Vận đến đây hội diện với ta.

Kỳ Hạo cười lạnh:

– Muốn gặp bổn Giáo chủ, ngươi phải qua lọt cửa ải nầy, do ta trấn đóng.

Quan Sơn Nguyệt dửng cao đôi mày, toan nhảy xuống lưng Minh Đà, Cầm Khiêu vội lên tiếng:

– Công tử hãy để thuộc hạ thu thập tên đó cho!

Kỳ Hạo nổi giận, quát:

– Cút đi nơi khác! Ngươi là cái quái gì mà dám chường mặt trước mắt ta?

Cầm Khiêu cười đáp:

– Quan công tử là tiểu chủ nhân của ta, còn ngươi chung quy cũng chỉ là một tên thuộc hạ của Thiên Ma Giáo chủ, thuộc hạ đối phó với thuộc hạ, chẳng thuận lý sao? Giả như Giáo chủ xuất hiện, thì tự nhiên là ta chẳng dám chường mặt, bởi đã có chủ nhân của ta ứng phó. Đừng cao mặt buông tiếng nói ngông cuồng, làm mất tư cách con nhà võ!

Nư giận bốc bừng, Kỳ Hạo vung chiếc Quỷ Vương quét qua một vòng, đồng thời lướt tới, từ bên trên giáng xuống đầu Cầm Khiêu.

Cầm Khiêu vốn có chuẩn bị trước, miệng vừa thốt, tay cũng vừa rút chiếc vũ khí của y từ trong chiếc bọc bên mình.

Vũ khí của y, là một chiếc đàn bằng gỗ, thùng đàn rất lớn, cần đàn cũng rất dài.

Chiếc Quỷ Vương vừa giáng xuống, chiếc đàn gỗ cũng vừa hất lên.

Quan Sơn Nguyệt thấy Cầm Khiêu dùng đàn gỗ nghinh đón Quỷ Vương bằng đồng đen của Kỳ Hạo, chàng thoáng biến sắc mặt, lo sợ cho Cầm Khiêu sơ thất. Nhưng, Tư Kỳ trấn an chàng ngay:

– Công tử không phải lo ngại, chiếc đàn đó tuy bằng gỗ, song nó có hiệu dụng vô cùng, vũ khí của Kỳ Hạo tuy bằng kim loại, cũng chẳng làm gì hư hại đến chiếc đàn nổi!

Hai vũ khí chạm nhau, chiếc Quỷ Vương của Kỳ Hạo giáng xuống các dây đàn. Một loạt âm vang rền dội lên, ai ai cũng cảm thấy chấn động cảm màn tai.

Con Hắc Đà của Kỳ Hạo cụp đuôi phóng chân chạy, con Minh Đà của Quan Sơn Nguyệt kinh hoảng lùi lại mấy bước, những con ngựa thì hí vang rền, có con rung chân, phải khuỵu xuống, có con quay đầu định chạy đi, có con nhảy chồm chồm. Trong thoáng mắt, cục trường nhốn nháo, loạn lên.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 48

Thù Trong Huyết Nhục

Trong cơn hỗn loạn đó, những ai ở trên lưng ngựa, đều phải xuống đường, chỉ còn độc một Quan Sơn Nguyệt là ngồi yên trên lưng Minh Đà thôi.

Quan Sơn Nguyệt cau mày, gọi Cầm Khiêu:

– Làm thế nầy thì mọi người đi sao được đến tận Ngũ Đài Sơn? Phải biết, từ đây đến đó, ít nhất cũng còn cách độ mấy mươi dặm đường, mà các con ngựa thì quá khủng khiếp rồi, chúng không thể tiếp tục hành trình!

Kỳ Hạo bật cười ha hả:

– Đi đến Ngũ Đài Sơn? Đừng nuôi mộng, Quan Sơn Nguyệt! Ngũ Đài Sơn là lãnh thổ của Thiên Ma Giáo, đâu phải chốn hoang vu mà các ngươi hòng xâm nhập?

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Đùa nhảm! Tạ Linh Vận là cái quái gì lại có thể ngăn cấm bọn ta chứ?

Kỳ Hạo vẫn cười vang:

– Giáo chủ của ta đâu có thừa thời giờ tiếp đón ngươi tại Ngũ Đài Sơn?

Người đã sai phái thuộc hạ dọn một khoảng đất trống nơi đỉnh Hoài Đài, và Phó Giáo chủ của ta đang cùng các vị Hộ Pháp trong bổn giáo ở tại đó, chờ các ngươi đến nạp mạng. Muốn đến đó, ngươi phải vượt qua vị trấn đóng của ta. Muốn gặp Giáo chủ, ngươi còn phải vượt qua căn cứ do Phó Giáo chủ trấn đóng. Liệu ngươi đủ sức xung phá hai vị trí ấy chăng, mà hòng bái kiến Giáo chủ ta?

Cầm Khiêu nổi giận vung đàn đánh tiếp một chiêu.

Kỳ Hạo cử chiếc Quỷ Vương đón chận. Hắn biết, dây đàn là vật rất mềm, Quỷ Vương chạm vào đó, chẳng những dây không đứt trái lại giây còn có phản lực hất chiếc Quỷ Vương trở lại rất mạnh. Do đó, hắn không nhắm vào dây đàn như trước, hắn lại vút chiếc Quỷ Vương vào lưng đàn, đinh ninh là Quỷ Vương sẽ đập nát lưng đàn, vì trên đời làm gì có thứ gỗ nào chịu nổi sức đập của kim khí?

Nhưng, Cầm Khiêu rất cẩn thận, sử dụng một vũ khí như vậy, hẳn là y phải hiểu cái nhược điểm của vũ khí.

Kỳ Hạo không đập vào dây đàn, thì Cầm Khiêu chỉ cần xoay bàn tay, lật phía dây đàn ra, hứng chiếc Quỷ Vương.

Kỳ Hạo thấy rõ, song không làm sao biến chiêu kịp, đành để chiếc Quỷ Vương chạm vào dây đàn như trước.

m vang lại dấy lên.

Lần nầy, mọi người đã có chuẩn bị sẵn rồi, ai ai cũng vận công, định tụ ngươn thần vững chắc, nên chẳng ai bị chấn động. Tuy nhiên, họ cũng cảm thấy khó chịu ít nhiều.

Qua hai lần xuất thủ, Cầm Khiêu vẫn không bức thoái nổi Kỳ Hạo, đoàn người vẫn bị ngăn chận như thường.

Luận về ngôi thứ tại Long Hoa Hội, thì Nhàn Du Nhất u có thân phận trên Kỳ Hạo. Lão ta bực tức, vội bước tới, gọi Cầm Khiêu:

– Tiên sanh lùi lại đi, để lão phu thu thập gã cuồng đồ đó cho!

Cầm Khiêu chưa kịp nhúc nhít, Xà Cơ Giang Phàm đã bước ra cất tiếng nói:

– Lão tiên sanh có xuất thủ cũng chẳng xong đâu!

Nhất u trố mắt:

– Tại sao?

Giang Phàm mỉm cười:

– Ra trận với hai bàn tay không, lão tiên sanh sẽ làm gì được?

Nhất u cười nhẹ:

– Đối phó với một gã cuồng đồ như vậy, lão phu lại phải dùng đến vũ khí nữa sao? Năm xưa, cha của hắn dùng kiếm khiêu chiến với lão phu, lão phu vẫn với hai tay không, đánh bại cha hắn trong vòng năm chiêu, đoạt kiếm của cha hắn dễ như lấy đồ trong túi! Cha hắn còn bị lão phu đánh bại, thì hắn có nghĩa gì đối với lão phu?

Giang Phàm vẫn cười:

– Xưa khác, nay khác, lão tiên sanh ạ! Tôi chỉ sợ dùng tay không giao chiến với hắn, lão tiên sanh sẽ mất mạng trong chiêu đầu ...

Nhất u khi nào chịu kém, cao giọng đáp:

– Thì cứ để lão phu đánh thử với hắn! Thắng thì tốt, không thắng sẽ có biện pháp khác.

Lão lướt tới, vung tay đánh ra một chưởng.

Kỳ Hạo cười lạnh, vung Quỷ Vương quét ngang bàn tay lão.

Hai bên sắp sửa chạm nhau, một bóng xanh xẹt tới, chận trước mặt Nhất u, bóng đó phất ống tay áo, quấn quanh chiếc Quỷ Vương của Kỳ Hạo.

Nhất u nổi giận, quát:

– Giang Phàm cô nương có ý tứ gì chứ?

Giang Phàm điềm nhiên thốt:

– Lão tiên sanh đừng phẫn nộ. Dùng tay không, bằng xương bằng thịt, chạm vào kim khí, là một hành động kém trí, hà huống chiếc Quỷ Vương của hắn lại có tẩm độc! Sao lão tiên sanh khinh thường mạng sống của mình quá như vậy?

Nhất u sững sờ.

Cầm Khiêu vụt kêu lên một tiếng thất thanh, buông rơi cây đàn, rồi chân y nhủn lại, người cũng nhủn luôn, cuối cùng y ngã ngồi xuống đất. Bàn tay cầm đàn của y vốn trắng, bây giờ biến thành đen sì.

Tư Kỳ kinh hãi, vội bước tới, toan dìu Cầm Khiêu, Giang Phàm kêu to:

– Đừng chạm vào mình Cầm Khiêu tiên sanh! Cứ để đó cho tôi!

Nàng bước đến cạnh Cầm Khiêu, nhẹ vỗ vào chiếc bọc đeo ở đầu vai nàng.

Con rắn quái dị từ trong bọc thò đầu ra há miệng ngoạm vào một chỗ trên mình Cầm Khiêu.

Quan Sơn Nguyệt biến sắc, sợ Giang Phàm sơ suất, hại luôn Cầm Khiêu mất mạng, vì chàng hiểu con rắn đó là loài độc hại vô cùng.

Giang Phàm điểm một nụ cười, khoát tay:

– Công tử không phải lo ngại! Tiểu Ngọc sẽ hút chất độc ...

Quả nhiên, con rắn vươn mình rồi thun lại, thun rồi vươn, độ ba lượt, bàn tay đen sì của Cầm Khiêu trắng trở lại như cũ.

Chừng như tinh thần của y phấn khởi hơn trước.

Khi con rắn há miệng, rời cổ tay của y, y toan nhặt lấy chiếc đàn gỗ bên cạnh, nhưng Giang Phàm vội kêu lên:

– Đừng đụng đến chiếc đàn! Chất độc còn vấy trên đó đấy!

Cầm Khiêu rút tay về, tỏ vẻ luyến tiếc:

– Giang cô nương ơi! Chiếc đàn đó, tại hạ xem nó còn trọng hơn sanh mạng của tại hạ ...

Giang Phàm điềm nhiên:

– Chẳng sao đâu, bất quá, chỉ cần nhờ đến con rắn một lần nữa, song nó không thích làm thôi!

Nàng nhìn con Ngọc Xà, tay vẩy, miệng lí nhí những gì chẳng ai nghe rõ, mà dù có nghe được cũng chẳng hiểu nổi.

Đúng như sự lo ngại của nàng, con Ngọc Xà quơ quơ chiếc đầu rồi quay mình trở lại. Rõ ràng là nó từ khước.

Nhưng, Giang Phàm dùng Xà ngữ, thuyết phục nó một lúc nữa, sau cùng nó mới chịu bò đến cạnh chiếc đàn, le lưỡi liếm quanh thân đàn.

Trông thấy cái cảnh đó, Quan Sơn Nguyệt cực kỳ phẫn nộ, rút chiếc Kim Thần cầm tay, đồng thời nhảy xuống lưng Minh Đà, quắc mắt nhìn Kỳ Hạo quát:

– Sao ngươi dùng thủ đoạn hèn hạ thế, Kỳ Hạo?

Kỳ Hạo còn kinh hãi về việc Giang Phàm giải trừ chất độc của chiếc Quỷ Vương, cứu nạn cho Cầm Khiêu, nghe Quan Sơn Nguyệt quát mắng, hắn tức uất gầm lên như sấm:

– Quan Sơn Nguyệt! Cái nhục bại do nhát kiếm của ngươi tại đỉnh Thần Nữ Phong, ta không làm sao quên được, từ ngày đó ta tìm đủ mọi cách để báo thù, sở dĩ ta chế tạo ra món vũ khí nầy, là để chờ dịp rửa hận đó. Nếu ngươi không sợ chất độc của chiếc Quỷ Vương, thì cứ đến!

Quan Sơn Nguyệt do dự.

Kỳ Hạo khích:

– Ngươi sợ à? Dù chất độc có vấy vào mình ngươi thì đã có cái nàng ấy, nàng sẽ cứu ngươi! Chết đi đâu mà ngươi ngán chứ!

Lúc đó, con Ngọc Xà đã liếm hết chất độc nơi cây đàn, nó chậm chạp quay trở về bên Giang Phàm.

Giang Phàm chụp nó, bỏ vào chiếc bao. Nàng vỗ về nó:

– Làm nhọc ngươi quá, thật ra ta có lỗi với ngươi đó! Bây giờ thì ngươi nghỉ được rồi!

Cầm Khiêu nhặt chiếc đàn lên, thốt lời cảm tạ Giang Phàm.

Giang Phàm lắc đầu:

– Tôi có công lao chi đâu mà tiên sanh cảm tạ? Hãy cảm tạ con Ngọc Xà đấy, chất độc đã ngấm vào máu của tiên sanh, nó cắn cổ tay tiên sanh, nhả vào đó một tí nhớt, nhớt của nó hòa với huyết của tiên sanh, giải trừ chất độc dễ dàng và nhanh chóng. Cứu tiên sanh, nó không nhọc nhằn chi cho lắm, có điều liếm hết chất độc nơi chiếc đàn, thì nó hao phí một phần lớn nhớt của nó, nó phải nghỉ tối thiểu là một khắc thời gian mới khôi phục được nguyên lực.

Kỳ Hạo nghe thế, khoan khoái vô cùng, bật cười ha hả:

– Ngươi có nghe chứ, Quan Sơn Nguyệt? Giả như bây giờ ngươi trúng độc, thì ít nhất ngươi cũng phải chờ một khắc nửa, con Ngọc Xà mới cứu ngươi được.

Mà chất độc của ta thì có hiệu lực rất nhanh, làm gì ngươi đợi cứu kịp?

Cầm Khiêu kinh hãi, thốt:

– Nếu biết thế, khi nào tại hạ tiếc một chiếc đàn?

Giang Phàm mỉm cười:

– Tại sao? Nó quý hơn sanh mạng tiên sanh mà?

Cầm Khiêu giậm chân:

– Chúng ta đâu có thể đứng tại đây mà chờ thêm một khắc nữa!

Giang Phàm cười nhẹ, nói:

– Chúng ta còn thừa thời gian mà! Đợi thêm một khắc nữa cũng chẳng sao!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, thầm kêu khổ. Cái điều làm cho chàng tức uất, là Giang Phàm chơn thật quá chừng, bởi ai lại đi nói những sự đó trước mặt địch nhân bao giờ? Khi nào Kỳ Hạo để yên cho họ chờ đợi trong một khắc đó?

Kỳ Hạo lộ vẻ đắc ý, cử chiếc Quỷ Vương đánh tới một vòng, như dọa nạt đối phương.

Nhưng, Giang Phàm đã tiến lên, ngăn chặn trước mặt hắn, gằn giọng:

– Nếu ngươi muốn động thủ trong thời gian một khắc nầy, thì ta sẽ thay mọi người, đối phó với ngươi. Ta không sợ chất độc nơi Quỷ Vương của ngươi đâu.

Trước đó, nàng phất ống tay áo, hất dội chiếc Quỷ Vương cứu Nhàn Du Nhất u, Kỳ Hạo đã biết nội lực của nàng rất mạnh, hơn nữa, nàng lại không sợ độc, thực sự thì hắn không muốn động thủ với nàng, song hắn lại tiếc cái cơ hội may mắn nầy, nếu bỏ đi thì đến lúc nào mới có nữa? Bên trong, hắn do dự, bên ngoài, hắn vờ thản nhiên, cất tiếng cười sang sảng:

– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi đường đường là một nam tử hán, không lẽ lại nấp sau lưng một nữ nhân, nhờ nữ nhân che chở?

Quan Sơn Nguyệt bực tức, toan liều mạng với Kỳ Hạo, Lý Trại Hồng vội ngăn lại:

– Nhẫn nại một chút, công tử! Phải nghĩ đại cuộc là trọng, mọi người đều hy vọng nơi công tử, đừng để đối phương dùng lời khích rồi sanh tánh làm liều, hỏng cả công việc của chúng ta!

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Thôi thì đành vậy, cục diện nầy xin nhờ Giang cô nương thu thập cho!

Giang Phàm mỉm cười:

– Tôi sẵn sàng mà, công tử! Tôi nghĩ, gã đó hẳn phải là một kẻ bại hoại không tưởng nổi, nhất định gã phải được giáo huấn kỹ một phen. Gã đã dùng độc hại người, thì khi tôi bắt được gã rồi, tôi sẽ cho con Tiểu Ngọc cắn gã, gã sẽ thưởng thức cái độc của Tiểu Ngọc để thấm thía cái độc mà gã gieo vào người khác.

Nàng bước tới, khoảng cách thu hẹp dần dần.

Nhưng, Kỳ Hạo không dám đứng nguyên một chỗ, chờ nàng. Hắn lùi lại, nàng tiến một bước, hắn lùi một bước, nhất định giữ khoảng cách còn nguyên như cũ.

Giang Phàm cười hì hì:

– Cứ để ta đến gần ngươi đi chứ! Lùi như vậy mà thoát khỏi tay ta sao?

Ngươi có biết miệng hùm, gan sứa là nghĩa gì chăng? Ta nghe ngươi khoe khoang, thật tình ta buồn cười quá đi thôi! Đường đường là nam tử, lại khiếp vía trước nữ nhân, xem sao được chứ?

Kỳ Hạo đỏ mặt. Bất giác, khí hùng bừng dậy, hắn dừng chân ngay. Hắn dừng chân, nhưng chẳng phải bất động để nhìn nàng thu hẹp khoảng cách, hắn vung chiếc Quỷ Vương, hét:

– Tiện tỳ! Ngươi khinh người thái quá!

Giang Phàm vẫn cười:

– Thì ngươi còn chờ gì mà chẳng đem sở học ra thi thố cho ta xem? Vào cuộc đi, ta sẵn sàng đùa với ngươi một chút, khi nào ta mệt, còn có con Tiểu Ngọc thay ta.

Kỳ Hạo vận dụng toàn lực, quét chiếc Quỷ Vương tới, cuốn gió bật kêu một tiếng vù, khí thế rất hùng mạnh, chẳng kém một hòn giả sơn bật gốc cuốn đi.

Giang Phàm phất ống tay áo như trước, nàng đứng nguyên bất động, chỉ có ống tay áo theo đà phất lên thôi.

Song, ống tay áo có áp lực phi thường, Kỳ Hạo văng ra xa ngoài nửa trượng.

Nàng cười hắc hắc:

– Công lực của ngươi tầm thường quá, thế mà dám ngăn đường chận lối, đã vậy lại còn khoe khoang, khoác lác! Ngươi ngu xuẩn vô cùng, chẳng biết sống chết là gì!

Nàng ung dung phất nhẹ ống tay áo, lại có thể đẩy một Kỳ Hạo về phía hậu, thủ pháp đó thần diệu vô cùng, chẳng những Kỳ Hạo sửng sốt, mà đến cả Quan Sơn Nguyệt và bọn Nguyệt Hoa Phu Nhân cũng hết sức kinh dị.

Đã hai lần, nàng hóa giải dễ dàng chiêu độc của đối phương, nàng thủ thắng là do thực tài, chứ chẳng phải vì may mắn, điều đó ai ai cũng thấy rõ!

Nhưng, trước Giang Phàm, Kỳ Hạo không còn là một kẻ hung mãnh nữa, hắn như con chuột trước một con mèo.

Đứng vững chân rồi, Kỳ Hạo vận dụng khí lực, hắn cắn mạnh răng, vung chiếc Quỷ Vương lướt tới.

Bằng một cử động vô cùng ngoạn mục, Giang Phàm ung dung phất ống tay áo lên. Tay áo quấn quanh chiếc Quỷ Vương, nàng xoay cổ tay nửa vòng đồng thời hét:

– Cút!

Chiếc Quỷ Vương bị bật lên không, mang luôn Kỳ Họa theo, tay áo tháo ra, người và Quỷ Vương bị bắn đi xa thêm mấy trượng nữa, chẳng khác nào một vật bám ở nơi cần vụt, bị chiếc cần phóng đi.

Ngờ đâu, chỗ hắn rơi xuống, lại đúng là nơi Quan Sơn Nguyệt đang đứng, trong tình thế đó, hắn phải rơi ngay xuống đầu Quan Sơn Nguyệt.

Lý Trại Hồng hoảng sợ, kêu lên:

– Tránh gấp, công tử!

Đồng thời gian, nàng lướt lên, đưa tay chụp Kỳ Hạo giữa không trung.

Kỳ Hạo nhếch môi điểm nụ cười dài, vừa rơi xuống vừa giáng mạnh chiếc Quỷ Vương, áp lực ngang một hòn núi đổ.

Làm như thế là Lý Trại Hồng liều lĩnh cực độ, song vì gấp cứu Quan Sơn Nguyệt, nàng bất chấp hiểm nguy. Nàng lo sợ cho Quan Sơn Nguyệt, nên hy sinh, bây giờ đến lượt Quan Sơn Nguyệt lo sợ ngược lại cho nàng.

Không chậm trễ, chàng nhún chân tung bổng mình, chiếc Kim Thần trong tay bay lên, nghinh chận Quỷ Vương, không cho giáng xuống người Lý Trại Hồng.

Tuy chàng xuất thủ hơi chậm, nhưng chiếc Kim Thần khá dài, chàng vừa vung lên, là che được phía trước của Lý Trại Hồng ngay.

Một tiếng chạm vang lên, âm thinh rền dội kinh hồn, lửa nháng thành ngàn sao, bắn ra bốn phía. Kỳ Hạo như con chim đang lao vút trúng phải tên bất ngờ, đà tên đi mạnh lôi cuốn chim trở lên không, hắn lộn người mấy lượt từ trên cao rơi xuống đất.

Không để cho hắn đứng vững chân lấy tư thế phản công, Quan Sơn Nguyệt vọt theo liền, chiếc Kim Thần rít gió quét ngang một vòng.

Trong cơn bối rối, Kỳ Hạo hấp tấp đưa Quỷ Vương ra đón chận.

Lần này, Quan Sơn Nguyệt dụng lực đầy đủ, Kim Thần chạm Quỷ Vương, tiếng vang không còn ngân oong oong dài dài như trước nữa, trái lại một tiếng rốp khô khan bật lên, Quỷ Vương bị Kim Thần đánh gãy, nó không gãy hai, gãy ba, mà nó lại vỡ vụn ra thành nhiều mảnh chứ không thành đoạn.

Vốn có phản ứng nhanh, Kỳ Hạo lạng người sát mặt đất, lăn đi mấy vòng ra xa trường, tránh chiêu thứ ba của Quan Sơn Nguyệt.

Khi hắn đứng lên, bàn tay cầm Quỷ Vương của hắn đầm đìa máu đỏ. Chiếc Quỷ Vương của hắn nát vụn phần ngoài, còn phần trong thì hắn nắm cứng, dư lực của Kim Thần còn mạnh, bắn luôn đoạn vũ khí nơi tay hắn bay đi, bứt đứt hai ngón tay cái và trỏ của hắn. Do đó, chỗ ngón đứt máu tuôn ròng ròng.

Kỳ Hạo nghiến răng đưa tay kia xé một chéo áo cột bàn tay thọ thương, bật cười ghê rợn:

– Khá lắm đó, Quan Sơn Nguyệt! Trong một thời gian ngắn, vũ công của ngươi tiến triển phi thường! Lần trước, trên đỉnh Thần Nữ Phong, công lực của ngươi còn kém quá, ngươi không thể sánh được với ta, bất quá ngươi thủ thắng là nhờ kiếm thuật tinh vi thôi. Giờ đây, tài nghệ và công lực của ngươi đều lợi hại cả, ta thành thật khen ngươi đó!

Chính Quan Sơn Nguyệt cũng chẳng hiểu tại sao đột nhiên mà công lực của chàng lại tăng gia quan trọng như vậy.

Tại đỉnh Thần Nữ Phong, chàng cũng dùng chiếc Kim Thần, mà Kỳ Hạo thì dùng chiếc mâu dài. Mâu là một loại vũ khí không nặng bằng Quỷ Vương được, thế mà lúc đó, chàng hầu như không ngăn chận mâu nổi, giờ đây, chàng lại có thể đánh gãy chiếc Quỷ Vương. Đúng là một sự kiện lạ lùng!

Huống chi, quyết chí báo thù, Kỳ Hạo phải ngày đêm luyện tập chứ! Trong thời gian qua, dù không nhiều, cũng ít, hắn phải tiến bộ, công lực của hắn phải hơn xưa! Đáng lẽ ngày nay hắn phải lợi hại hơn xưa, thì chàng lại đánh bại hắn dễ dàng! Còn lúc hắn ở cái mức bình thường thì chàng rất chật vật lúc đối phó với hắn!

Tuy bại, Kỳ Hạo không khiếp hãi, hắn vẫn giữ thái độ ngạo nghễ như thường, hắn cười lạnh, tiếp:

– Dù cho tài nghệ của ngươi có vượt tiến đến mức độ nào, nhất định hôm nay ngươi phải mắc kế của ta, không kể những gì đang chờ đợi ngươi ở đoạn đường sắp tới, chỉ nội cái chiếc Quỷ Vương của ta cũng đủ sát hại ngươi rồi.

Chiếc Quỷ Vương của ta có tẩm chất độc «Vô Ảnh Hóa Huyết Tán», người ta chạm nó một lần, cũng đủ chết, ngươi lại chạm đến hai lần, chất độc ngấm vào phế phủ. Ta phải lập tức mang cái tin nầy về cho giáo chủ của ta, sau đó, ta chỉ còn trở lại đây để thu dọn xác chết của ngươi.

Thốt xong, hắn quay mình bước nhanh.

Quan Sơn Nguyệt biết rõ, hắn gấp đi là vì sợ Giang Phàm tấn công tiếp.

Nhưng, chàng không thể đuổi theo hắn, bởi chàng còn bận lo nghĩ đến bản thân.

Hướng sang Giang Phàm, chàng hỏi gấp:

– Con rắn của cô nương còn giải độc được chứ?

Giang Phàm lắc đầu:

– Không! Nhớt của nó đã cạn khô rồi, nếu bắt nó liếm trọn chiếc Kim Thần thì có khác nào giết nó! Công tử cẩn thận một chút là được, đừng để vũ khí chạm vào người khác.

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Không phải tại hạ lo cho chiếc Kim Thần! Tại hạ sợ chất độc vấy nơi mình tại hạ!

Giang Phàm cười nhẹ:

– Làm gì có độc trong mình công tử được? Uống cái mật con Độc Giác Hàn Xà, là uống thêm rất nhiều dược liệu có máu rắn độc khác, công tử đã trở thành bách độc bất xâm rồi, Kỳ Hạo không hại công tử nổi với độc dược của hắn, chỉ trừ một vài con rắn độc có thứ nhớt xung khắc thôi. Mà loại rắn đó thì hy hữu trên đời ...

Quan Sơn Nguyệt sững sờ.

Bọn Nguyệt Hoa Phu Nhân, Lý Trại Hồng đều thở phào, trút bỏ niềm lo sợ nặng trĩu nơi lòng.

Lý Trại Hồng tặc lưỡi:

– Phải chi cô nương nói sớm một chút! Tôi suýt bị tên ác tặc đó hãm hại!

Giang Phàm cười hì hì:

– Tại cô nương nóng nảy đó chứ! Tôi cố ý tung hắn đến gần Quan công tử, vũ khí của hắn kỳ quái quá, chỉ có một mình công tử đánh gãy được thôi! Điều cần là hủy diệt cái vật kỳ quái đó để tránh cho mọi người khác phải khổ. Cái sức hút độc của con Tiểu Ngọc thì có hạn, giả như nhiều người trúng độc của hắn thì làm sao giải cứu được?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Hà tất phải có tại hạ xuất thủ? Một mình cô nương cũng đủ trừ diệt hắn rồi!

Giang Phàm lắc đầu:

– Không! Công tử đừng thấy tôi thắng thế mà mầng! Thực ra, công lực của tôi còn kém hắn một bực, bất quá tôi mượn công lực của hắn đánh hắn, để tự bảo vệ thì thừa mà để hạ hắn thì thiếu. Huống chi, hắn lại có vũ khí độc môn. Tôi biết, công tử uống cái mật con Độc Giác Hàn Xà rồi, khí lực gia tăng kinh khủng ...

Quan Sơn Nguyệt tỉnh ngộ:

– Thảo nào! Tại hạ hết sức lấy làm lạ khi nhận ra khí lực của mình gia tăng thập bội, tự hỏi tại sao lại có sự kiện đó ...

Giang Phàm tiếp:

– Công phu của tôi, chỉ đủ để tự vệ, cho nên tôi tung Kỳ Hạo đến cho công tử ra tay, kết quả, chiếc Quỷ Vương của hắn bị hủy diệt ngay!

Rồi nàng tiếp:

– Rất tiếc, lúc công tử uống mật rắn, lại mang thương thế trầm trọng, mật rắn vì chữa trị thương thế mà thành ra mất đi phần lớn linh diệu. Chứ nếu không thì, công tử nghiễm nhiên trở thành tay vô địch trong thiên hạ rồi.

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Được như thế nầy, tại hạ mãn nguyện lắm rồi, cô nương. Tại hạ không mơ vọng là đệ nhất cao thủ trong thiên hạ đâu! Với công lực hiện tại, tại hạ cũng có thể làm điều lợi ích cho thế nhân! Tại hạ định, sau nầy tự phế vũ công, sống cuộc đời bình thường.

Mọi người nghe lòng man mác làm sao! Cái cao khiết của chàng khiến tất cả đều kính phục. Nhàn Du Nhất u vụt thốt:

– Đi chứ! Chúng ta dần đà quá lâu rồi đó! Có thể là hiện tại, Tạ Linh Vận đang đắc ý vì Quan thế huynh trúng độc của Kỳ Hạo mà không đề phòng, chúng ta phải lợi dụng cơ hội may mắn này, xuất kỳ bất ý công kích hắn, có hy vọng thành công nhiều hơn.

Lý Trại Hồng cười nhẹ:

– Đi đâu làm chi cho mệt, thế nào chúng cũng kéo nhau đến đây mà! Tôi sợ là chúng còn đến gấp nữa đấy! Đến để thu dọn thi hài của Quan công tử, như Kỳ Hạo đã nói!

Nhất u «hừ» một tiếng:

– Bằng vào đâu, Lý Tiên Tử dám quả quyết như vậy?

Lý Trại Hồng giải thích:

– Kỳ Hạo đã biết là con Ngọc Xà của Giang cô nương không thể giải cứu Quan công tử trước một khắc thời gian, hắn đinh ninh là Quan công tử trúng độc của hắn rồi, thì khi nào hắn dám chậm trễ mà không lợi dụng ngay lúc con Ngọc Xà còn bất lực? Cho nên hắn phải đưa Tạ Linh Vận đến gấp.

Giang Phàm cau mày:

– Hắn nghĩ thế là lầm! Tôi vẫn có thể hy sinh con rắn để cứu Quan công tử như thường. Có điều, việc chưa tất yếu lắm, do đó tôi để cho con rắn dưỡng sức, nó khôi phục tình cảnh cũ rồi, sẽ giúp ích chúng ta nhiều hơn!

Lý Trại Hồng cười vuốt:

– Ai ai cũng hiểu là cô nương khẳng khái hy sinh cho công tử, nhưng Kỳ Hạo làm gì biết được điều đó? Hắn phải đưa Tạ Linh Vận đến gấp, trước khi cô nương giải cứu Quan công tử. Ngoài ra, hắn còn lược thuật tình hình cho Tạ Linh Vận biết, tôi đoán chắc là chúng đến đây với số đông, một số đông thừa áp đảo bọn chúng ta!

Nguyệt Hoa Phu Nhân giật mình:

– Hẳn là có Lưu Ảo Phu trong số đó?

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Đương nhiên! Lưu Ảo Phu là Phó Giáo chủ mà!

Nguyệt Hoa Phu Nhân căm hận:

– Nhất định là già phải hạ sát tên súc sanh đó!

Đồng thời, bà liếc mắt sang Quan Sơn Nguyệt.

Chàng điểm phớt một người, hiểu rõ cái ý của mẹ như thế nào. Bà nói vậy chứ cái tâm của bà nghĩ khác, bà tỏ ra quyết liệt để chờ chàng xoa dịu lại, sự quyết liệt của bà mở đường cho việc cầu tình, bà hy vọng sau này, khi đối chiến với Lưu Ảo Phu chàng sẽ nương tay đôi chút. Chắc chắn là bà muốn chính chàng đối chiến với Lưu Ảo Phu hơn là bà phải làm cái việc đó, vì tự bà, làm thế nào bà nương tay được khi đứa con đã gây quá nhiều tội lỗi?

Chàng thốt:

– Bất cứ tội lỗi gì hắn đã gây ra, làm thiệt hại đến con, con sẵn sàng quên đi cho hắn, bởi dù sao thì hành động của hắn còn lệ thuộc vào tự ái của một cá nhân. Riêng về cái việc hắn gia nhập Thiên Ma Giáo, tiếp trợ Tạ Linh Vận buông thói bạo tàn, sát hại dân lành, thì con không thể dễ dãi với hắn được. Bởi hắn đã trở thành một mối hại cho thế nhân. Trong đường lối hành hiệp, con có bổn phận diệt hung, trừ ác. Hẳn mẹ cũng phải công nhận sự kiện đó.

Nguyệt Hoa Phu Nhân thở dài, không nói gì nữa.

Lúc đó, từ đầu kia đường, một đoàn người tiến đến, nhân số rất đông. Đi đầu, là Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu, phía sau là Tây Môn Vô Diệm và Thị Tràng, kế đó là Kỳ Hạo và Kích Trúc Sanh, một trong bốn lịnh chủ tại Long Hoa Hội từng bị Quan Sơn Nguyệt đánh bại trên đỉnh Thần Nữ Phong. Có cả tỳ nữ Tiểu Hồng, liễu đầu đã lừa Quan Sơn Nguyệt rơi xuống hố sâu. Dĩ nhiên, có một số thuộc hạ trong Thiên Ma Giáo, đi theo để gây thanh thế.

Nhìn qua ngôi thứ trong đoàn, tất cũng biết là Thị Tràng và Tiểu Hồng rất được trọng dụng trong Thiên Ma Giáo, cả hai có thân phận đáng kể lắm.

Các mục tiêu của đoàn người, là Quan Sơn Nguyệt, cho nên khi song phương đã ở trong tầm mắt của nhau, thì cánh Tạ Linh Vận đều chú ý đến chàng, bao nhiêu cặp mắt đều hướng về chàng, mường tượng họ chẳng cần nhìn đến những ai khác.

Tất cả đều phải kinh ngạc, thấy Quan Sơn Nguyệt còn đứng vững như núi, thay vì chàng phải chết, hay ít nhất cũng nằm dài và bên cạnh chàng, Giang Phàm làm mọi cách để giải cứu chàng. Và, trong khi đó thì bọn Nguyệt Hoa Phu Nhân, Lý Trại Hồng phải lo lắng đến điên người. Không, tất cả mọi người trong cánh Quan Sơn Nguyệt đều bình tịnh hướng mắt về chúng, riêng Quan Sơn Nguyệt thì chàng quắc đôi mắt với hào quang sáng rực, trông như một thiên thần, chực chờ một lũ ma.

Bọn Tạ Linh Vận cùng quay nhìn Kỳ Hạo, người nào cũng lộ vẻ phẫn nộ.

Hẳn là chúng cho rằng Kỳ Hạo bịa chuyện.

Trong trường hợp đó, Kỳ Hạo bối rối, bực tức, sợ hãi, gãi đầu, gãi tai, sau cùng hắn chỉ tay về đống sắt vụn bên đường, thốt:

– Giáo chủ xem kìa, những mảnh vụn của chiếc Quỷ Vương đó, thuộc hạ khi nào dám nói ngoa với Giáo chủ ...

Tạ Linh Vận «hừ» nhạt một tiếng, tập trung ý chí trừng mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt cười mỉa:

– Còn lại bao nhiêu người trong căn cứ, sao ngươi không kéo tất cả ra đây luôn? Ta thấy còn ít đó!

Tạ Linh Vận bĩu môi:

– Chưa nhiều bằng số của ngươi đâu!

Hắn trầm giọng, tiếp luôn:

– Quần đấu hay độc đấu?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút. Bỏ bọn thuộc hạ hạ đẳng của Tạ Linh Vận ra, bởi bọn đó có đông bao nhiêu, cũng chỉ làm cái việc hò hét trợ oai, chứ chẳng phải thực sự là đấu thủ đáng chú ý, thì người trong cánh Tạ Linh Vận ít hơn người của chàng. Nhưng, chàng dù có đông người, một cuộc quần đấu không hy vọng tạo thắng lợi. Bởi bên địch có hai thanh kiếm đáng sợ, là Tử Sính Kiếm và Thanh Sách Kiếm, còn bên chàng độc một mình chàng có thanh Hoàng Diệp Kiếm, mà thanh nầy còn kém hai thanh kiếm của địch. Giả như địch cầm chân chàng, để cho các người kia dùng Thanh Sách Kiếm và Tử Sính Kiếm càn quét lực lượng chàng thì nguy mất. Chàng cho rằng, độc đấu là có lợi hơn. Chàng đáp:

– Rắn, chỉ có đầu là lợi hại, ngươi là giáo chủ Thiên Ma Giáo, là đầu con rắn, ta chỉ muốn chặt đầu rắn, là thành công. Mình rắn còn ngo ngoe, bất quá để dẫy chết mà chẳng còn làm hại thế nhân nữa. Vậy thì, ta cùng ngươi giao đấu là đủ rồi, cần chi phải xua cả bọn vào cuộc chiến?

Tạ Linh Vận bật cười ha hả:

– Cái ý của ngươi rất thích hợp với ta đó! Lập ra Thiên Ma Giáo, là vì muốn bành trướng thế lực, nên cần tuyển dụng thêm một số người. Ta xem bọn người của ngươi đều là tay hữu dụng cả. Tất cả các người đó, đều ỷ vào một mình ngươi, ta giết được ngươi rồi, là họ sẽ lập tức cúi đầu quy phục ta, như vậy ta không cần dụ dỗ, cũng có một số người về với ta, chịu sự sai khiến của ta.

Quan Sơn Nguyệt sợ những kẻ khác nói ra nói vào, Tạ Linh Vận đổi ý, vội thốt:

– Phải đó, Tạ Linh Vận! Chúng ta đồng ý rồi, thì cứ theo sự thỏa thuận đó mà hành động! Hôm nay ta cùng cương quyết cuộc tử chiến, một trong hai chúng ta chết đi là vấn đề cầm như giải quyết!

Tạ Linh Vận lắc đầu:

– Cái lý, thì hẳn là ta phải động thủ với ngươi. Song, hiện tại còn mấy người, muốn tranh sống chết với ngươi ...

Lưu Ảo Phu nóng nảy, không chờ Tạ Linh Vận dứt câu, vội bước tới, cao giọng gọi:

– Quan Sơn Nguyệt! Trả Trương Thanh lại đây cho ta!

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Ngươi nói gì?

Lưu Ảo Phu phẫn nộ:

– Ngươi đừng vờ vĩnh! Chính ngươi đã cướp đoạt Trương Thanh, mang đi giấu ở một nơi ...

Quan Sơn Nguyệt vỡ lẽ ra, Lưu Ảo Phu đổ cho chàng cái trách nhiệm về sự thất tung của Trương Thanh, bây giờ hắn đòi người! Chàng nổi giận hét:

– Tại Quảng Hàn Cung, ngươi bày mưu độc hãm hại ta, sau đó ngươi bắt luôn Trương Thanh mang đi, mãi đến hôm nay, ta chưa hề gặp lại nàng, ta không tìm ngươi đòi người, ngươi lại vu khống cho ta, thế là đạo lý gì chứ?

Lưu Ảo Phu sững sờ, hỏi:

– Thế ra, cái người bao mặt trong đêm đó, chẳng phải là ngươi?

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Giả như ta muốn đến Ngũ Đài Sơn, thì ta cứ đến đường đường chánh chánh, quyết chẳng bao giờ hành động âm thầm, lén lút, phải bao mặt, phải chờ đêm, ta cứ đi thẳng đến tổng đàn, tìm ngay Giáo chủ của ngươi mà hỏi ...

Lưu Ảo Phu sững sờ một lượt nữa.

Tạ Linh Vận cười lạnh, chen vào:

– Lưu lão đệ đừng nghe lời hắn, hắn có tài nói quỷ nói ma, khó tin lắm đấy!

Cứ theo lời người phòng thủ tại tổng đàn, thì tên bao mặt đó cầm một thanh kiếm giống hệch thanh Bạch Hồng trong số năm thanh kiếm lạ. Thử hỏi, ngoài hắn ra, còn ai có thanh Bạch Hồng Kiếm chứ?

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:

– Người đó cầm thanh kiếm Bạch Hồng?

Lưu Ảo Phu lắc đầu:

– Ta cũng chẳng biết rõ, bởi hôm đó, ta không có mặt tại tổng đàn, chứ nếu ta có mặt, thì khi nào Trương Thanh lại bị cướp được?

Tạ Linh Vận mỉm cười:

– Thanh kiếm Bạch Hồng là vật của ngươi, mà vật phải tùy thân, ngươi còn vờ làm chi? Giáo đồ của ta đã nhận được thanh kiếm, thì người bao mặt chính là ngươi chứ còn ai nữa?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Bạch Hồng Kiếm mười hôm trước đây đã bị Liễu Y Ảo đánh cắp rồi, nếu cái người đến Ngũ Đài Sơn cướp Trương Thanh, có cầm Bạch Hồng Kiếm, thì người đó đúng là Liễu Y Ảo, không còn nghi ngờ gì nữa!

Lưu Ảo Phu trố mắt:

– Liễu Y Ảo là ai?

Tạ Linh Vận cười nhẹ:

– Nàng là tiểu sư muội của ta, Lưu lão đệ cứ yên trí, nếu thật sự nàng cướp Trương Thanh, thì ta bảo đảm là sẽ đưa Trương Thanh về cho lão đệ, chỉ ngại có một điều, là dù đưa nàng về đây, nàng vẫn không chịu hòa hợp với lão đệ như thường.

Lưu Ảo Phu trừng mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt, ánh mắt ngời vẻ căm hờn.

Tạ Linh Vận lại cười, tiếp:

– Hà huống, lão đệ đã cho nàng biết là tiểu tử họ Quan chết rồi, nếu nàng trông thấy hắn, thì sao cho khỏi nàng oán hận lão đệ đã nói dối với nàng ...

Lưu Ảo Phu khoát tay:

– Giáo chủ khỏi phải nói nữa, thuộc hạ hết sức lấy làm lạ, chẳng hiểu tại sao tiểu tử thoát chết được tại Đại Trúc Hà? Tuy nhiên, điều đó cũng chẳng quan hệ cho lắm, bởi hôm nay thế nào thuộc hạ cũng giết hắn. Bất quá, hắn chết chậm độ mươi ngày thôi, miễn là hắn có chết, thuộc hạ tránh được cái lời nói dối với Trương Thanh.

Một tiếng xoảng vang lên, hắn rút thanh Tử Sính Kiếm ra khỏi vỏ, kiếm chớp ngời ngời.

Nguyệt Hoa Phu Nhân lướt tới liền, đồng thời bà hét:

– Súc sanh còn nhận ra già?

Lưu Ảo Phu bây giờ mới để ý đến bà, hắn không tưởng là mẹ hắn có mặt trong đoàn người của Quan Sơn Nguyệt. Nhưng, hắn chỉ sửng sốt trong giây lát thôi, rồi hắn lạnh lùng đáp:

– Nếu mẹ ngăn trở con giết Quan Sơn Nguyệt, thì chắc chắn là con không còn nhận mẹ nữa.

Nguyệt Hoa Phu Nhân biến sắc, vừa giận mà cũng vừa thê thảm. Trong tình cảnh nầy, bà không còn nương tình nữa được, bà rút thanh Hoàng Diệp Kiếm nơi mình, cầm sẵn trong tay, đoạn trầm giọng:

– Súc sanh, chính ta phải hạ sát ngươi, chứ chẳng đợi người nào khác!

Lưu Ảo Phu lùi lại một bước, gằn từng tiếng:

– Con hy vọng mẹ đừng bức bách con, dù rằng kiếm pháp của con, phần lớn là do mẹ truyền dạy, song mẹ đừng quên cha con có lưu lại mấy pho bí kíp.

Hiện tại, mẹ không thắng nổi con đâu!

Nguyệt Hoa Phu Nhân giận quá đến rung người:

– Thế thì cứ để già chết dưới tay ngươi, cho ngươi vui dạ!

Lưu Ảo Phu «hừ» lạnh:

– Dù con có lỡ tay giết mẹ, cũng chẳng có gì quá đáng đó mẹ. Bởi mẹ đâu có là vợ của cha con nữa, mẹ đã không còn là vợ của cha con từ lâu lắm rồi kia mà!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hét lớn:

– Súc sanh! Ngươi đúng là một súc sanh! Là con, ngươi ăn nói với mẹ như thế đó à?

Lưu Ảo Phu cười mỉa:

– Nếu mẹ muốn cho con đừng phạm tội bất hiếu, thì xin mẹ bước qua một bên đi, để cục diện nầy cho những kẻ có liên quan thậm dự!

Quan Sơn Nguyệt hướng về Nguyệt Hoa Phu Nhân, gọi:

– Mẹ! Hãy trao kiếm cho con!

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

– Không! Cứ để cho mẹ giải quyết. Trước thì mẹ sợ con gây trọng thương cho hắn, bây giờ thì trái lại, mẹ sợ hắn sát hại con. Tốt hơn, để mẹ ra tay, hắn không còn là con của mẹ nữa!

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

– Thì con cũng chẳng còn là con của mẹ lâu rồi! Sở dĩ con di táng hài cốt của cha đi nơi khác, đồng thời thiêu hủy Quảng Hàn Cung, là vì cái địa phương đó còn hơi hướm của Vạn Tân Nguyệt, và lão cũng có góp công với mẹ, tạo nên căn cứ đó, dù sao thì lão tặc ấy cũng lưu lại kỷ niệm ở nhiều nơi trên Đại Ba Sơn!

Nguyệt Hoa Phu Nhân tức uất đến có thể chết ngay được.

Quan Sơn Nguyệt định giật thanh kiếm nơi tay bà, song bà đẩy chàng ra, rồi thuận tay vung mạnh. Hoàng Diệp Kiếm theo đà tay bay sang Lưu Ảo Phu.

Lưu Ảo Phu cử kiếm hất vẹt kiếm của phu nhân ra ngoài, trong khi đó Tạ Linh Vận bước tới, thốt:

– Dù sao thì lão đệ không tiện xuất thủ như vậy! Hãy nhường cái trận này cho ta!

Lưu Ảo Phu thoái hậu liền, nhưng đảo bước đến trước mặt Quan Sơn Nguyệt, cao giọng gọi:

– Thất phu! Có can đảm cứ vào!

Quan Sơn Nguyệt không thể làm sao hơn, đành cử chiếc Độc Cước Kim Thần nghinh đón Tử Sính Kiếm của Lưu Ảo Phu.

Cuộc chiến khai diễn cực kỳ ác liệt giữa bốn người phân làm hai mặt trận.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 49

An Bày Diệu Kế

Cuộc chiến của bốn người biểu hiện rõ rệt sự tranh chấp giữa chánh và tà, một cuộc chiến quyết định an nguy của vũ lâm, kiếp vận của giang hồ.

Thiên Ma Giáo do dư đảng Long Hoa Hội lập thành, tự nhiên có cái hơi hướm gian tà, lại chính là Tạ Linh Vận lãnh đạo, thì cái gian tà đó càng rõ rệt hơn nữa.

Một bên, là chánh và phó giáo chủ, bên kia dù chưa có thân phận gì mới mẻ, song lại là những cột trụ của số người khuông phò chánh nghĩa, là niềm hy vọng của những ai còn biết tôn trọng đạo lý, công bằng.

Bởi những người lâm chiến có địa vị quan trọng như vậy, ai ai cũng chú ý theo dõi từng động tác một của họ. Nhưng, cuộc chiến giữa Lưu Ảo Phu và Quan Sơn Nguyệt mới là cái mục tiêu chính của bao nhiêu cặp mắt bên cánh Quan Sơn Nguyệt.

Lưu Ảo Phu sử dụng thanh kiếm Tử Sính, một trong năm thanh kiếm quái dị, hy hữu, có hiệu năng thần diệu, giá trị trên hẳn thanh kiếm Bạch Hồng, chặt sắt như chặt vào bùn, vũ khí thường không chịu đựng nổi cái chạm của nó.

Thoạt đầu, ai ai cũng lo sợ cho Quan Sơn Nguyệt, chính chàng cũng hơi ngán thanh kiếm đó, nhưng trong cái thế chẳng đặng đừng, bắt buộc chàng phải nghinh chiến đó thôi. Ngờ đâu, gặp chiếc Độc Cước Kim Thần của chàng, thanh kiếm Tử Sính như mất hết hiệu năng, trở thành vô dụng. Chẳng rõ chiếc Kim Thần của chàng được chế luyện bằng loại kim khí gì, gọi rằng Kim Thần chứ không hẳn là bằng vàng. Tử Sính Kiếm chạm vào, kêu cốp cốp, thế mà chẳng sao cả, bất quá chỉ lưu lại một vết trầy trụa vậy thôi. Cho nên muốn chém đứt chiếc Kim Thần của chàng, Lưu Ảo Phu phải chém hằng ngàn, hằng vạn nhát kiếm. Song, chém được một ngàn, một vạn nhát kiếm, tất phải sử dụng một ngàn, một vạn chiêu thức, đó là không kể những chiêu hụt.

Trên thế gian, có cao thủ nao đánh đủ hằng ngàn, hằng vạn chiêu chăng?

Nhất định là không có rồi, và như vậy thì Lưu Ảo Phu không hy vọng gì phá hủy vũ khí của Quan Sơn Nguyệt.

Ngoài ra, nào phải Quan Sơn Nguyệt chỉ đón đỡ hoặc tránh né mà thôi đâu?

Chàng vẫn phản công chứ!

Lưu Ảo Phu gặp cái bất lợi đó, thì Quan Sơn Nguyệt cũng chẳng hơn gì, bởi chiếc Kim Thần quá nặng, chàng không thể dùng nó mà xuất phát những chiêu thức học được lúc sau nầy, do đó chàng cũng không tạo được một ưu thế.

Tuy nhiên, Quan Sơn Nguyệt không mong cầu gì hơn là cầm cự được với Lưu Ảo Phu, miễn sao chàng giữ được thế quân bình là đủ. Chàng tin tưởng là nếu cuộc chiến kéo dài, thì Lưu Ảo Phu sẽ bại vì mệt mỏi. Chàng sinh ra, với một thần lực phi thường, sức chịu đựng dẻo dai, cuộc chiến càng về khuya, công lực của chàng càng gia tăng, chứ không hề giảm, như thế là Lưu Ảo Phu phải bị chàng hạ.

Cuộc chiến giữa Nguyệt Hoa Phu Nhân và Tạ Linh Vận cũng không kém phần ác liệt, cả hai đều là kiếm thủ hữu danh, họ gặp kẻ đồng tài nên sử dụng toàn những chiêu thức ngụy dị, hiểm độc.

Thực tình mà nói, Nguyệt Hoa Phu Nhân cầm cự được với Tạ Linh Vận, là nhờ kiếm thuật của bà có phần cao minh hơn Tạ Linh Vận, chứ thanh kiếm Hoàng Diệp của bà kém thanh Thanh Sách của Tạ Linh Vận một bậc. Bà phải chật vật né tránh những cái chạm mà Tạ Linh Vận cố tình gây nên, với mục đích hủy diệt kiếm của bà.

Người trong cuộc chiến khẩn trương đã đành, người ngoài cuộc cũng khẩn trương không kém. Ai ai cũng mong phe mình thắng thế, ai ai cũng sợ phe mình thất bại, nhưng chẳng một ai xông vào can thiệp, vì một sự tiếp trợ trong trường hợp nầy, đều có cái phản tác dụng tinh thần, là hạ thấp giá trị của người lâm chiến. Họ không tham chiến trực tiếp, song họ cũng cân nhắc lực lượng song phương.

Bên cánh Tạ Linh Vận, nhân số không nhiều, một Thị Tràng vẫn còn ở ngoài vòng. Thuộc hạ chân chánh của Tạ Linh Vận hiện tại, chỉ có một Tây Môn Vô Diệm, Kích Trúc Sanh và Kỳ Hạo.

Là người trong Long Hoa Hội, họ phải hiểu thực lực của nhau, Tây Môn Vô Diệm thì biết rõ không thủ thắng nổi trước Lý Trại Hồng, còn Kích Trúc Sanh thì đã có lần bị Nhàn Du Nhất u đánh bại.

Còn lại một Kỳ Hạo, đành rằng cầm cự nổi với Quan Sơn Nguyệt qua một cuộc đấu khá lâu, song bên cánh địch còn thừa đến hai người, là Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt, hai người nầy liên thủ là hắn không hy vọng đắc ý.

Đã vậy, còn có Xà Cơ Giang Phàm trong bọn của Quan Sơn Nguyệt, nàng có tài nghệ như thế nào, Kỳ Hạo thừa hiểu, nếu nàng xuất trận, thì hắn mong gì thủ thắng?

Giả như Thị Tràng có nóng nảy mà vào cuộc, thì bên cánh địch vẫn còn Nhập Hoạch, một Nhập Hoạch cũng đủ sức cầm chân Thị Tràng kia mà!

Đó là không kể đến bọn Cầm Khiêu, Tư Kỳ cũng có mặt trong đoàn.

Nhàn Du Nhất u thấy rõ ưu điểm của cánh nhà, liền bước tới Lý Trại Hồng, thốt:

– Lý Tiên Tử! Giả như chúng ta muốn diệt trừ vây cánh của Tạ Linh Vận, thì đây là cơ hội tốt nhất cho chúng ta hạ thủ đó. Tạ Linh Vận bị phu nhân cầm chân, chúng ta còn sợ ai nữa?

Lý Trại Hồng suy nghĩ một chút, toan biểu hiện sự đồng ý, nhưng bên đối phương chừng như đã có cảnh giác trước rồi. Thị Tràng khẽ chớp thân mình, vung kiếm bước tới, đồng thời cao giọng thách:

– Nếu các ngươi muốn khởi diễn một cuộc hỗn chiến, thì ta không hề phản đối, tuy nhiên, nếu có tên nào tự cho rằng tài nghệ cao siêu, tên đó cứ bước ra, so mấy chiêu với ta xem ai hơn ai kém.

Lý Trại Hồng nhìn sang bọn Nhập Hoạch, như ngầm bảo:

“Nàng ấy là người của Quảng Hàn Cung, đồng bạn của các ngươi ngày trước, chính các ngươi phải xuất đầu đối phó mới hợp lý.”.

Tư Kỳ vốn nóng tính, bước ra liền, cao giọng mắng:

– Con xú phụ kia, ngươi là người của Quảng Hàn Cung, lại sanh lòng phản bội phu nhân, ta không thể tha thứ cho ngươi được. Hãy bước lại đây, cúi đầu nhận tội!

Vũ khí của Tư Kỳ là một chiếc bàn cờ, y cầm bàn cờ vụt sang Thị Tràng, một góc bàn cờ nhắm ngay đầu Thị Tràng lao tới.

Thị Tràng cười lạnh một tiếng, vung kiếm gạt chiếc bàn cờ vẹt ra ngoài.

Tư Kỳ giật mình. Y hết sức lấy làm lạ, trong cung Quảng Hàn, luận tài nghệ của bảy thị giả, thì người có kiếm thuật cao hơn hết, là Đạn Kiếm. Đạn Kiếm chết rồi thì chỉ còn Nhập Hoạch trổi hơn nội bọn. Vũ công của Thị Tràng, bất quá chỉ hơn mỗi một mình Chữ Trà mà thôi. Nhưng tại sao Thị Tràng có thể phát xuất một chiêu kiếm có oai lực phi thường? Chẳng lẽ ngày nay vũ công của nàng tiến triển đến mức độ vượt xa toàn thể bọn thị giả?

Đứng bên ngoài, Cầm Khiêu và Thị Thơ cũng có nhận xét như Tư Kỳ, cả hai sợ Tư Kỳ sơ thất, không hẹn mà đồng vào cuộc ngay. Cầm Khiêu vung đàn, Thị Thơ vung bút, tiến công Thị Tràng, trong khi đó, Tư Kỳ cũng vụt chiếc bàn cờ đánh tiếp.

Thị Tràng không hề nao núng, ung dung cử kiếm hất ba món vũ khí của đối phương lộn trở về.

Nhập Hoạch tức uất, dùng hai tay không gia nhập cuộc chiến liền, tuy chẳng có vũ khí, nàng vẫn tỏ ra lợi hại chẳng kém ba người kia.

Thế là một trận chiến mới, được khai diễn với số người quá chênh lệch, một bên bốn, một bên một.

Thị Tràng bình tịnh giao đấu, thanh kiếm của nàng loang loáng như ngàn ánh sao sa, nàng hóa giải thế công của đối phương rất dễ dàng, thành thử cả bốn người bị dồn về thế thủ, mà lại thủ một cách rất khó khăn.

Nhất u thấy cuộc hỗn chiến đã khai diễn rồi, cũng rút kiếm cầm tay, tiến tới trước mặt Kích Trúc Sanh, cười nhẹ một tiếng, thốt:

– Ngươi nghĩ sao, chẳng lẽ chúng ta chẳng có công việc gì để làm?

Kích Trúc Sanh không màng đến lão, chính Kỳ Hạo lại bước ra đánh chận:

– Ngươi quyết tâm muốn chết, thì ta cũng chịu khó thành toàn ý nguyện của ngươi!

Nhất u nổi giận:

– Cút đi nơi khác ngay, ngươi xứng đáng chi đó mà dám ngông nghênh trước mặt lão phu?

Kỳ Hạo cười mỉa:

– Ngươi đừng tưởng đây là Thần Nữ Phong, và nên thức ngộ là Long Hoa Hội đã cáo chung từ lâu rồi! Trong Thiên Ma Giáo, ta có thân phận cao hơn Kích Trúc Sanh một bậc đấy, ngươi khiêu chiến lão ấy, thì người cấp trên của lão vẫn có đủ tư cách đối phó với ngươi, nếu không nói là nhiều hơn! Ta đích thân đối phó với ngươi, là ta tự hạ mình, chính ngươi có vinh dự hơn nhiều!

Vẻ bất bình hiện lộ rõ rệt nơi gương mặt của Kích Trúc Sanh, song lão ta không hề mở miệng phản đối. Lão không phản đối, là mặc nhiên nhìn nhận mình có địa vị thấp hơn Kỳ Hạo, Kỳ Hạo đã nói đúng sự thật.

Nhất u sửng sốt một chút, sau cùng gọi Kích Trúc Sanh:

– Ngươi không sính bằng một tiểu tử như thế à? Đã không được trọng dụng thì ngươi còn chui đầu vào Thiên Ma Giáo mà làm gì cho chúng khinh? Ta thật tình bất mãn thay cho ngươi đó! Ngươi cam chịu khuất phục dưới sự điều khiển của bọn vô dụng như vậy, thì đúng là một sự lạ lùng.

Kích Trúc Sanh thẹn đỏ mặt. Nhưng, lão ta vẫn im lặng, chẳng thốt một tiếng nào, bất quá lão chớp đôi mắt mấy lượt vậy thôi.

Nhất u thở dài, tiếp:

– Mỗi người có một chí hướng, ngươi làm sao thì làm, ta không có quyền can thiệp vào công việc của ngươi, song nghĩ lại ngày nào Hoàng Hạc tiến cử ngươi đảm nhận chức đại hội chủ trong Long Hoa Hội, ta không khỏi chạnh lòng trước sự xuống dốc của ngươi hiện tại!

Kỳ Hạo biết là Nhàn Du Nhất u đang khiêu khích Kích Trúc Sanh để thực hiện kế ly gián, không cho lão kéo dài cuộc đối thoại với Kích Trúc Sanh nữa, hắn vội vung kiếm chém tới.

Nhất u không dám khinh thường, cử kiếm ngăn chặn liền.

Tây Môn Vô Diệm không đợi Lý Trại Hồng khiêu chiến, tự động lướt tới, tuốt kiếm khỏi vỏ, gọi:

– Lý sư tỷ! Chúng ta cũng nhập môn một lượt, vì các người thì có nhan sắc nên được ưu đãi, nuông chiều, liệt ngay vào Tiên Bảng, còn tôi xấu xí nên bị bỏ rơi, phải nhập vào Quỷ Bảng, tôi làm sao chịu nổi sự bất công đó? Tôi bất phục từ phút giây đầu tiên, tôi ôm hận mãi, chực chờ cơ hội để phát tiết khí hận phần nào. Thì, cái cơ hội đó giờ đây đã đến, tôi muốn lãnh giáo một vài chiêu của sư tỷ, thử xem Tiên Bảng hơn Quỷ Bảng ở điểm nào!

Lý Trại Hồng không đáp, vung kiếm bước ra, song phương mở thêm một mặt trận nữa, cũng ác liệt như các mặt trận kia.

Chiến cuộc đã khai diễn toàn diện rồi, gồm năm mặt trận với mười ba người tham gia, tuy nhiên bốn mặt trận kia thì gay go, nặng nề, chỉ có mặt trận của Lý Trại Hồng và Tây Môn Vô Diệm, tuy vẫn ác liệt, nhưng song phương rất ung dung, tiến thoái nhẹ nhàng.

Họ xuất toàn chiêu độc, song chẳng phải vì tư thù thâm sâu mà họ bắt buộc phải tử đấu với nhau, bất quá họ muốn so tài hơn kém, bởi họ là đồng môn sư tỷ muội, họ như hiểu rõ tài nghệ của nhau, người nầy công thì người kia phá. Trông vào họ, ai cũng có cảm nghĩ là họ luyện tậm với nhau vậy thôi.

Nhìn qua cục diện, chỉ thấy mặt trận của Thị Tràng là nhiệt náo hơn hết. Một mình nàng, chống lại bốn người, kiếm pháp không rối loạn, tỏ rõ cái oai phong của kẻ có thực tài.

Thực ra, nàng có bản lĩnh khá cao, chỉ vì tại Quảng Hàn Cung, nàng không hề biểu thị mức thành tựu cho bất cứ ai biết được, do đó các thị giả kia đánh giá nàng một cách lầm lẫn, họ khinh thường nàng, nàng cam tâm ẩn nhẫn, không một lời phản kháng.

Tự nhiên nàng chưa phải là thánh nên phải căm hận khi bị người miệt thị, nàng ôm mối hận đó suốt thời gian qua, hằng chực dịp phát tiết khí uất. Và cái dịp đó đã đến với nàng hôm nay, cũng như cái dịp chờ đợi của Tây Môn Vô Diệm đã đến rồi. Thì, có bao nhiêu sở năng, nàng mang ra thi thố trọn vẹn. Cho nên, những chiêu thức do nàng phát xuất, đều hàm sút sát cơ, nếu đối phương không nhờ đông người, người nầy chiếu cố đến người kia, tiếp trợ nhau, thì hẳn là đối tượng của nàng phải bị hạ từ lâu lắm rồi.

Song phương còn thừa lại bốn người, đứng ngoài vòng chiến.

Bên cánh Tạ Linh Vận, là Kích Trúc Sanh, bên cánh Quan Sơn Nguyệt, là Vạn Lý Vô Vân, Nhất Luân Minh Nguyệt và thêm Giang Phàm.

Vì sống biệt lập với thế nhân hơn mười mấy năm dài, Giang Phàm thuần phác như trẻ thơ ngây, đến độ nàng quên mình thuộc cánh nào, đứng một góc riêng biệt, nàng nhìn cuộc chiến thấy ai thắng thế nàng vỗ tay reo hò tán thưởng, bất cần người thắng thế ở bên cánh nầy hay cánh kia.

Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt cùng có ý nghĩ như nhau, là cả hai xuất thủ, thì đối tượng của họ là Kích Trúc Sanh, nhưng qua lời trách cứ của Nhàn Du Nhất u, họ thấy thương hại Kích Trúc Sanh, thất cơ phải chịu phận thấp dưới tay người. Cho nên, mọi người đã tham gia cuộc chiến, riêng cả hai còn đứng nguyên tại chỗ.

Nhưng, Kích Trúc Sanh khi nào chịu để yên cho họ? Lão khích:

– Người ta đều có công việc làm cả, sao hai người không thử hoạt động như họ xem sao?

Vạn Lý Vô Vân lạnh lùng:

– Chúng ta đâu phải lánh nhọc tìm nhàn? Thực sự thì chúng ta không thấy cái hứng động thủ với ngươi.

Kích Trúc Sanh hơi thẹn, vì thẹn nên sanh hận, lão cao giọng trách:

– Nhất u còn có thể có cái thái độ khinh ngạo được, chứ các ngươi là cái quái gì mà cũng dám giở thói cao hãnh?

Nhất Luân Minh Nguyệt bật cười ha hả:

– Đành rằng chúng ta chẳng ra cái quái gì, song ít nhất chúng ta cũng chẳng phải khuất mình cúi mặt trước một tiểu bối hậu sanh, mặc cho hắn nặng nhẹ khinh khi tùy thích! Ta nghĩ, với mái tóc pha sương đó, ngươi lại để cho một tiểu tử lấn áp, thì cái kiếp đời của ngươi tủi hổ quá chừng! Ngươi hẳn cũng tức uất chứ, bởi tức uất nên ngươi tìm nơi phát tiết, phải không? Ngươi hãy đi tìm nơi khác mà phát tiết, chứ chúng ta thì thật tình chẳng dám lãnh giáo ngươi đâu!

Kích Trúc Sanh trầm gương mặt:

– Các ngươi nói mà có suy nghĩ hay chăng? Cái gã Quan Sơn Nguyệt kia, có bao nhiêu niên kỷ? Sao các ngươi gầm đầu mà đi theo gã như kẻ mù được dắt dìu trên mọi nẻo đường? Ta nghĩ, các ngươi ngày trước có thọ giáo với Hoàng Hạc, nên xem Quan Sơn Nguyệt như bạn đồng môn! Các ngươi là hậu bối của Hoàng Hạc chắc!

Vạn Lý Vô Vân cười vang:

– Kỳ Hạo sánh được với Quan công tử của ta sao chớ? Hà huống, chúng ta vì cái việc công ích, họp đoàn cùng Quan công tử, mở chiến dịch diệt ác trừ hung.

Việc làm của chúng ta là một sự hợp tác, không hơn không kém, không ai phải tuân mạng lịnh của ai, đó là chúng ta chưa nói đến cái việc Quan công tử trong lối xử sự hằng ngày, tôn kính chúng ta là bật tiền bối, chẳng hề buông lời vô lễ! Còn ngươi, là cái gì bên cạnh Kỳ Hạo nếu không là một thuộc hạ của hắn, tùy thời, tùy khắc, theo cái hứng mà hắn ra lịnh sai khiến ngươi, bất chấp ngươi niên cao kỷ trọng? Bằng cớ là vừa rồi, hắn gọi ngay cái tên của ngươi, chúng ta tưởng ngươi đã chấp nhận hắn là bạn vong niên rồi đấy!

Kích Trúc Sanh biến sắc mặt sanh rờn, song đôi mắt của lão ta lại đỏ lên.

Bất thình lình, lão cử chiếc vũ khí có hình dáng cực kỳ ngụy dị, màu đen sì, trông giống cái bát sành, phía sau có một cái cán.

Vạn Lý Vô Vân cười lớn:

– Kích Trúc Sanh! Ta thấy ngươi càng ngày càng đáng thương hại quá chừng. Thế Thiên Ma Giáo không nuôi ăn ngươi sao, mà ngươi phải vác bát xin cơm ven theo đường?

Kích Trúc Sanh rung người lên, dù lão có muốn nói gì cũng chẳng nói thành lời, bởi môi lão rung, lão líu lưỡi lại.

Lão đưa bàn tay tả lên, dùng ngón áp út móc vào chiếc vòng nhỏ nơi cán vũ khí, lảy nhẹ.

Một tiếng vang quái dị chấn dội màng tai, từ lòng chiếc bát bay ra một điểm đen, điểm đen lao vút tới, nhắm vào mặt Vạn Lý Vô Vân bắn vào.

Vạn Lý Vô Vân khẽ phất ống tay áo lên. Lão chẳng biết điểm đen đó là vật gì, song thấy cái đà bay của nó không mạnh lắm, nên tưởng rằng tay áo phất nhẹ của lão cũng đủ gạt bắn nó ra ngoài.

Nhưng, sự thực trái ngược với ức đoán của lão, điểm đen đó, chừng như vô hình mà cũng chừng như hữu thể, xuyên qua ống tay áo, chạm đúng giữa sống mũi của lão.

Không kịp kêu lên một tiếng, Vạn Lý Vô Vân ngã ngửa về phía hậu.

Nhất Luân Minh Nguyệt nhìn xuống, thấy Vạn Lý Vô Vân tắt thở rồi. Bất giác, lão sôi giận, quên mất sợ hãi, quay đầu trừng mắt nhìn Kích Trúc Sanh, hét:

– Ngươi dùng thủ pháp gì ...

Kích Trúc Sanh lại đưa cao chiếc bát, bật cười âm trầm:

– Ta dùng cái món nầy đây, ngươi có thấy qua chứ?

Nhất Luân Minh Nguyệt sững sờ!

Một chiếc bát tầm thường quá, chẳng có đặc điểm gì cả, thế mà Vạn Lý Vô Vân bị sát hại nhanh chóng, chẳng kịp có một phản ứng gì!

Kích Trúc Sanh bật cười dài, trong tiếng cười, ẩn ước có sự thê thảm, hận uất, hòa lẫn niềm đắc ý. Rồi lão ngưng cười, tiếp:

– Ta nghĩ là ngươi không nhận ra đâu, vậy ngươi hãy nghe ta nói đây! Nó là chiếc nhạc khí rất cổ, ngày xưa chỉ có mỗi một Cao Tiệm Ly biết sử dụng mà thôi.

Nếu trước kia, Cao Tiệm Ly được thủ pháp bằng ta ngày nay, thì Tần Chánh đã chết nghèo trước khi gồm thâu lục quốc rồi, có đâu sau nầy dựng nên nghiệp đế, đốt sách chôn nho?

Vạn Lý Vô Vân chết, mọi người rụng rời, bộ pháp, thủ pháp chậm lại ngay, song phương cùng lùi lại, giữ một khoảng cách làm đường phân đôi mặt trận. Họ dừng tay từ lúc Kích Trúc Sanh bắt đầu giải thích lai lịch vũ khí quái dị của lão.

Mọi người nghe xong, hết sức hãi hùng.

Quan Sơn Nguyệt buộc miệng kêu lên:

– Chiếc Trúc ...

Kích Trúc Sanh cao giọng:

– Phải, cái hiệu của ta do nơi nhạc khí đó mà thành!

Ai ai cũng trầm lặng, suy tư.

Sau khi Kinh Kha hành thích Tần Thủy Hoàng, việc bất thành phải bị giết, thì có Cao Tiệm Ly nối tiếp.

Nghe đồn Cao Tiệm Ly có biệt tài sử dụng nhạc khí đó, Tần bạo chúa một hôm vời y vào cung, bảo y cho thưởng thức tài nghệ. Nhân lúc Tần quân xuất thần vì nhạc điệu kỳ diệu, Cao Tiệm Ly bấm nút cơ quan nơi nhạc khí, bắn viên đạn sắt, bởi y mù mắt, nên nhắm không chuẩn đích, thành thử phải mang hận mà về theo Kinh Kha dưới suối vàng. Đoạn dã sử đó mọi người đều biết, song chẳng ai hình dung được loại nhạc khí đó như thế nào, bởi nó thất truyền từ sau ngày Cao Tiệm Ly chết. Không ngờ, ngày nay, Kích Trúc Sanh lại luyện được!

Quan Sơn Nguyệt mỉa:

– Cao Tiệm Ly dùng nhạc khí đó, hành thích bạo chúa, tuy không thành công nhưng danh lưu hậu thế, còn ngươi, may mắn luyện được, lại mang nó ra mà phục vụ tà đạo, như vậy ngươi không thấy thẹn với người xưa, chẳng hổ với người nay sao? Người ta nhờ nó mà thành hiệp danh, còn ngươi dùng nó để biến mình thành ma quái.

Kích Trúc Sanh bật cười ha hả:

– Tiểu súc sanh! Ngươi đừng đem cái giọng đạo lý mà thuyết phục ta! Ta lập thân, hành sự, bình sanh bất luận thiện ác, ta cứ do cái tâm mà làm, tâm thích làm sao, ta làm làm vậy, làm việc gì mà có sướng cho ta, là ta làm. Kẻ nào chỉ trích, ta có cách đối phó với kẻ đó ngay! Đừng ai khinh thường ta!

Nhất Luân Minh Nguyệt cao giọng:

– Tạ Linh Vận đối xử với ngươi như vậy, có xứng đáng với ngươi chăng?

Hắn trọng ngươi hay khinh ngươi?

Kích Trúc Sanh biến sắc mặt.

Tạ Linh Vận cấp tốc đề cao cảnh giác, vận công giới bị.

Nhưng, Kích Trúc Sanh khôi phục thần sắc như bình thường, rồi cười nhạt, thốt:

– Tại hội Long Hoa, các ngươi khinh ngạo ta, mỉa mai chế diễu ta, tất cả đều rẻ rúng, lạnh nhạt đối với ta, chỉ mỗi một mình Giáo chủ là xem trọng ta, ta cảm kích vô cùng, Giáo chủ là người tri kỷ của ta lúc đó, thì hôm nay dù ta không được biệt đãi lắm, cũng chẳng sao, việc trước bù việc sau mà!

Tạ Linh Vận thở phào, hấp tấp thốt:

– Kích Trúc Sanh! Nhân huynh trầm tịnh đáng phục! Nếu tiểu đệ biết được nhân huynh có tuyệt kỹ như vậy, thì vô luận làm sao, tiểu đệ cũng trọng dụng nhân huynh từ lâu rồi! Tiểu đệ tin rằng nhân huynh sẵn sàng tha thứ chỗ sơ suất của tiểu đệ! Trong lúc khai cơ lập nghiệp, tiểu đệ tự nhiên phải cần có người tài ba như nhân huynh tiếp trợ ...

Kích Trúc Sanh cười nhạt:

– Giáo chủ không cần phải giải thích. Nếu thuộc hạ không minh bạch, thì khi nào lại chịu lưu lại trong Thiên Ma Giáo đến ngày nay!

Tạ Linh Vận thở phào lượt nữa:

– Nếu sớm biết tuyệt kỹ của Kích Trúc huynh, thì tiểu đệ nhất định ...

Kích Trúc Sanh khoát tay:

– Chẳng phải thuộc hạ giấu giếm chút nghề mọn, chẳng qua thuộc hạ không phô trương là vì chưa đến thời cơ ra sức tiếp trợ Giáo chủ đó thôi. Vừa rồi, vì tức khí mấy lão khả ố đó mà bắt buộc thuộc hạ phải xuất đầu lộ diện ...

Nhất Luân Minh Nguyệt kêu lên:

– Cái công phu của ngươi đó, có gì là cho cao cường đâu? Ta xem rất thường! Vừa rồi ta mắng ngươi, bây giờ ta cũng mắng ngươi, thử xem ngươi sẽ làm chi ta!

Kích Trúc Sanh lạnh lùng cử cao chiếc nhạc khí, lảy ngón tay nơi cái khoen nhỏ. Một điểm đem bay ra, vút thẳng đến Nhất Luân Minh Nguyệt.

Lần nầy, mọi người đều có phòng bị. Không để cho điểm đen bay đến gần, bọn Quan Sơn Nguyệt năm sáu người cùng xuất thủ một lượt, mỗi người cử vũ khí của mình ngăn đón.

Nhưng không, chẳng hiểu tại sao, điểm đen vẫn xuyên lọt như thường. Nó xuyên lọt mấy món vũ khí, tự nhiên nó phải đến tận đích, trừ ra cái đích xê dịch đi nơi khác.

Cái đích không xê dịch, chẳng rõ Nhất Luân Minh Nguyệt không xê dịch, vì khinh thường, hay vì không kịp, lão ta rú lên một tiếng thảm, đưa hai tay lên mặt, hai tay chà xát, vuốt mạnh gương mặt, đồng thời ngã ngửa về phía hậu.

Lão vặn mình mấy lượt, rồi nằm bất động.

Điều làm cho mọi người kinh khiếp, là nơi khoảng giữa sống mũi của Nhất Luân Minh Nguyệt, một viên đạn sắt bám dính, mường tượng sống mũi của lão ta có thêm một con mắt thứ ba.

Cái thủ pháp giết người của Kích Trúc Sanh cực kỳ quái dị, không ai có thể phòng ngự, dù có giới bị cẩn mật.

Tạ Linh Vận vô cùng kinh dị, nhưng liền theo đó, y điểm nhanh một nụ cười, khuất lấp vẻ kinh dị. Y hướng qua Kích Trúc Sanh, tán:

– Tuyệt kỹ của Kích Trúc huynh thần diệu thật! Một chiếc Trúc nơi tay, huynh đài nghiễm nhiên trở thành vô địch trong thiên hạ! Thiên Ma Giáo có một tay bản lĩnh cao cường như huynh đài, thì còn lo gì mà thiên hạ chẳng quy về một mối!

Y khích:

– Hạ tất cả luôn đi, Kích Trúc huynh! Nếu cái bọn kia bị tận diệt thì từ nay chúng ta ăn no, ngủ yên, chẳng còn phải lo sợ hằng ngày nữa!

Ngờ đâu, Kích Trúc Sanh thu chiếc Trúc về, rồi lạnh lùng thốt:

– Điều đó thì Giáo chủ miễn cho, thuộc hạ không thể tuân mạng!

Tạ Linh Vận sửng sốt:

– Tại sao thế, Kích Trúc huynh?

Kích Trúc Sanh cười nhẹ:

– Thú rừng hết, chó săn hết, điều đó, tưởng mọi người hiện diện tại đây đều biết rõ. Khi giáo chủ được cao gối mà nằm yên, thì thuộc hạ hẳn cũng sâu mồ mà bất động trong lòng đất lạnh.

Tạ Linh Vận hấp tấp hỏi:

– Tại sao Kích Trúc huynh lại nói như thế?

Kích Trúc Sanh vẫn cười:

– Biết Giáo chủ, không ai bằng thuộc hạ. Tuy sự nhận xét do thuộc hạ vừa nêu lên, có phần nào bất kính thật, song nó đúng với sự thật. Thuộc hạ tin rằng, Giáo chủ không thể nào phủ nhận được!

Tạ Linh Vận sững sờ, thừ người ra đó, chẳng nói được tiếng nào.

Kích Trúc Sanh tiếp luôn:

– Bất quá, thuộc hạ xin nói câu nầy, là Giáo chủ yên trí, tuy thuộc hạ có cái tâm bất kính, song ý niệm của thuộc hạ mãi mãi trung thành. Lưu mạng sống cho một vài cường địch của Giáo chủ, là tự thuộc hạ tìm biện pháp bảo vệ sanh mạng của mình đó. Địch còn, là thuộc hạ còn, bởi Giáo chủ không thể làm một việc bất lợi cho Giáo chủ là trừ diệt kẻ nguy hiểm như thuộc hạ. Hẳn Giáo chủ cũng nhớ việc xưa chứ? Ngô Phù Sai chưa chết, là Văn Chủng vẫn còn được Câu Tiễn tôn trọng, thuộc hạ chẳng dám sánh mình với người xưa, song trường hợp xưa và nay chẳng khác nhau mảy mai, Giáo chủ ạ.

Lão cười chua chát, một lúc sau lão lại tiếp:

– Còn một sự kiện nầy nữa, ngoài cái nghề phóng đạn sắt giết người, thuộc hạ chẳng có một tài năng nào khác, như vậy là chẳng bao giờ thuộc hạ trở thành một lãnh tụ trong thiên hạ. Và, cũng như vậy là Giáo chủ khỏi phải sanh tâm tật đố. Giáo chủ cứ yên trí về thuộc hạ, mà đừng hoạch định mưu kế phòng bị thuộc hạ, vô ích.

Bây giờ, Tạ Linh Vận mới lấy lại bình tịnh, y bật cười ha hả, thốt:

– Kích Trúc huynh khéo lo ngại viển vông thì thôi! Tiểu đệ thấy rằng, mình còn nhờ huynh đài rất nhiều, có thể bảo là nhờ trọn đời cũng vẫn chưa đủ, thì có lý đâu lại toan tính hãm hại nhân huynh bất ngờ? Bất quá, trước kia, vì hồ đồ cho nên tiểu đệ xem thường nhân huynh. Tiểu đệ xin hứa là từ nay sẽ chẳng còn dám bạc đãi nhân huynh nữa, cái cơ nghiệp nầy, thành tựu được bao nhiêu, từ hôm nay kể như là của chung của hai chúng ta vậy!

Kích Trúc Sanh cười lạnh:

– Không cần phải thế, Giáo chủ ạ! Giáo chủ là bậc nhất thế anh hào, hùng tài đại lược, tuy nhiên cộng sự với Giáo chủ, thì nên cộng cái hoạn nạn, tuyệt đối không nên cộng cái phú quý. Có khi nào Giáo chủ an tâm ngủ ngon giấc khi bên cạnh mình luôn luôn có mặt một kẻ mà Giáo chủ sợ hãi nhất trần đời chăng?

Lão nghiêm giọng, tiếp:

– Nếu Giáo chủ không lòng khinh rẻ thuộc hạ, thì thuộc hạ ước mong có một địa vị ngang với Lưu lão đệ. Giáo chủ thì chẳng có thể có hai, song Phó Giáo chủ thì thêm một người nữa, cũng chẳng hại gì!

Tạ Linh Vận gật đầu nhanh:

– Có khó khăn gì điều đó đâu, Kích Trúc huynh! Khi chúng ta trở về tổng đàn, tiểu đệ sẽ ra lịnh triệu tập toàn thể thuộc hạ, tuyên bố là từ nay Kích Trúc huynh là vị tân nhậm ...

Kích Trúc Sanh ngăn chận:

– Thế thì xin Giáo chủ trở về tổng đàn ngay!

Tạ Linh Vận giật mình:

– Về tổng đàn ngay bây giờ? Còn bọn kia?

Y đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt.

Kích Trúc Sanh quét ánh mắt ngang qua bọn Quan Sơn Nguyệt một vòng, tỏ thái độ cực kỳ ngạo nghễ, buông gọn:

– Thuộc hạ nghĩ, họ vẫn sợ chết như mọi người, thì khi nào họ dám khiêu khích thuộc hạ? Tạm thời, thuộc hạ cấp cho họ một khoảng đất an toàn, là họ phải ở cách xa tổng đàn ít nhất cũng một dặm đường, bên ngoài khoảng đất đó, họ sẽ được bình an vô sự, giả như họ không thích sống nữa, thì cứ vượt khoảng cách đó, thuộc hạ sẽ vì Giáo chủ mà ngăn chặn họ cho!

Lão cười lớn, giọng cười ghê rợn làm sao, rồi lão tiếp:

– Thuộc hạ nghĩ là họ không có can đảm mạo hiểm đâu!

Sau nầy thì sao, chẳng rõ, chứ hiện tại thì bọn Quan Sơn Nguyệt đã gờm Kích Trúc Sanh lắm rồi. Điều đó thì Tạ Linh Vận hiểu lắm, y bật cười ha hả, thốt:

– Đúng vậy! Ngày nào Kích Trúc huynh còn ở trong Thiên Ma Giáo, thì ngày đó nhất định là chẳng có một ai dám xâm nhập vào nội địa của chúng ta.

Y tiếp tục cười, âm thinh càng phút càng vang dội, rồi y chuyển mình trở về tổng đàn.

Tây Môn Vô Diệm và Kỳ Họa theo sau.

Lưu Ảo Phu còn đứng bất động tại chỗ.

Kích Trúc Sanh «hừ» lạnh:

– Lưu lão đệ còn lưu luyến cái gì ở đây nữa chứ?

Lưu Ảo Phu đưa mắt thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, đáp:

– Vấn đề giữa tại hạ và Quan Sơn Nguyệt, nhất định phải được giải quyết ngay trong ngày nay.

Kích Trúc Sanh mỉm cười:

– Tại hạ sắp sửa tiếp nhậm chức Phó Giáo chủ Thiên Ma Giáo, nếu không có Lưu lão đệ chứng kiến cuộc tấn phong, thì còn hứng thú gì cho tại hạ nữa?

Chẳng lẽ Lưu lão đệ không muốn cho tại hạ được vui một vài phút giây à?

Lão đưa tay mò mò trong mình, mường tượng là sắp sửa lấy chiếc Trúc cầm sẵn.

Cử chỉ đó, đúng là một sự uy hiếp rõ ràng, Lưu Ảo Phu hận trong lòng, song ngoài mặt thì lờ đi, vẫy tay gọi Thị Tràng:

– Về thôi! Tạm thời chúng ta buông tha cho họ, cho họ sống thêm một vài ngày nữa cũng chẳng sao!

Hắn và Thị Tràng bước đi rồi, Kích Trúc Sanh bật cười vang.

Vừa lúc lão toan chuyển bước, Quan Sơn Nguyệt cấp tốc tiến lên, quát:

– Khoan đã!

Chàng gằn giọng tiếp luôn:

– Ta không tin chiếc Trúc của ngươi là một vật lợi hại!

Kích Trúc Sanh không dừng, không quay đầu, cứ bước tới, vừa đi vừa đáp:

– Nếu ngươi không tin, thì hãy theo ta mà thực nghiệm xem, chỉ cần ngươi đặt chân vào phần đất cấm như ta vừa nói, là ngươi sẽ được giáo huấn kỹ, và ngươi mang bài học đó xuống cửu tuyền mà nghiền ngẫm.

Quan Sơn Nguyệt bước tới liền.

Những người kia không thể yên tâm để cho chàng đi một mình như vậy, nên cùng bước theo chàng.

Bây giờ, Kích Trúc Sanh mới chịu dừng chân, rồi quay mình lại, «hừ» một tiếng:

– Đúng là các ngươi không thích sống nữa rồi đó!

Quan Sơn Nguyệt ngạo nghễ:

– Phải! Ta đang muốn chết đây, chỉ sợ ngươi không có biện pháp làm cho ta mãn nguyện thôi!

Kích Trúc Sanh quay đầu nhìn lại, thấy Lưu Ảo Phu và Thị Tràng đi đã xa, lập tức lấy trong tay áo ra một cuộn giấy, rồi nhanh tay bắn sang Quan Sơn Nguyệt, sau cùng vừa quay mình phóng chân chạy đi, vừa buông gọn:

– Vội gì mà tìm cái chết gấp thế, khi tuổi còn xanh?

Cuộn giấy rất nhỏ, Kích Trúc Sanh bắn nhanh, khoảng cách rất gần, cuộn giấy rơi vào lòng bàn tay của Quan Sơn Nguyệt, những người phía sau lưng chàng chẳng trông thấy kịp. Quan Sơn Nguyệt sững sờ.

Nhất u thấy chàng thừ người ra đó, trong khi Kích Trúc Sanh thoát đi, lão hết sức lấy làm lạ, vội bước tới, hỏi:

– Việc gì thế, Quan công tử? Sao lại để cho lão ấy thoát đi?

Quan Sơn Nguyệt khoát tay, đoạn mở cuộn giấy ra xem. Xem xong, chàng cấp tốc bỏ cuộn giấy vào miệng, nhai nát, rồi nuốt luôn vào bụng.

Hành động của chàng gây hoang mang cho tất cả mọi người.

Chàng không biểu hiện một thái độ nào cả, chỉ vẫy tay bảo mọi người lùi lại, rồi buông gọn:

– Chúng ta đi thôi! Sau nầy trở lại đối phó với bọn họ cũng chẳng muộn.

Thần thái của chàng nghiêm trọng quá, không ai dám hỏi gì, dù có hỏi, vị tất chàng chịu nói ra những gì đã ghi trên mảnh giấy đó.

Họ trở lại con đường cũ, lên lưng ngựa ra roi đi.

Quan Sơn Nguyệt cỡi Minh Đà đoạn hậu. Một nụ cười khoan khoái nở trên vành môi.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 50

Một Lần Chuyển Hướng

Khi mọi người ly khai sơn khu Ngũ Đài, Quan Sơn Nguyệt gọi tất cả dừng chân lại tại một cánh rừng nghĩ mệt.

Nguyệt Hoa phu nhân lấy làm lạ về thái độ của Quan Sơn Nguyệt, bà nhẫn nại mãi đến bây giờ mới buộc miệng hỏi:

– Con bày cái trò gì thế Nguyệt nhi?

Quan Sơn Nguyệt chưa vội đáp lời phu nhân, nhìn qua bọn Nhập Hoạch bốn người bảo:

– Cảm phiền bốn người của sư tỷ phân nhau ra canh phòng khu rừng này, tuyệt đối không nên để cho bất cứ ai vào đây. Phải biết tai mắt của Thiên Ma Giáo có khắp mọi nơi, mà hiện tại thì chúng ta sắp thảo luận về một vấn đề cực kỳ quan trọng, giá như sự tình bị bại lộ thì hậu quả sẽ vô cùng tai hại, không thể lường trước được.

Bọn Nhập Hoạch đang muốn nghe Quan Sơn Nguyệt nói gì, nhưng chàng đã yêu cầu như vậy thì họ còn ở lại làm sao được? Họ phân nhau ra, mỗi người trấn đóng một phía.

Còn lại bao nhiêu người, Quan Sơn Nguyệt tập trung lại một chỗ rồi cáo tố với họ một sự việc mà nghe rồi ai ai cũng không tin nổi là có như vậy.

Sự việc chàng cáo tố là điều ghi chép trên mảnh giấy do Kích Trúc Sanh bắn sang cho chàng.

Những dòng chữ như thế này:

«Các vị đã lọt vào vùng hiểm địa, nếu Tạ và Lưu dùng sức mà không thủ thắng nổi thì họ còn có mưu độc hảm hại các vị. Lão phu thọ nhận sự ủy thác của Hoàng Hạc vờ đầu thuận Tạ Linh Vận để âm thầm giám thị hành động của y. Bây giờ các vị hãy rời khỏi nơi này, ít nhất cũng ngoài năm mươi dặm cách Ngũ Đài Sơn. Lão phu sẽ sai người đến với các vị.» Lý Trại Hồng tỏ vẻ hoài nghi trước hơn ai hết:

– Làm gì có việc đó?

Nhàn Du Nhất u trầm ngâm một chút:

– Cũng có thể có như vậy lắm, chứ nếu không thì tại sao trong số đông người Hoàng Hạc không chọn ai mà chỉ chọn lão ta thay mặt hành quyền Hội chủ?

Vã lại, suy qua thái độ của lão hôm nay ...

Lý Trại Hồng vội chận lời:

– Cái thái độ của lão ta hôm nay lại càng làm cho chúng ta thêm mất tin tưởng nơi lão, có gì lạ đâu mà phải lưu ý. Với ngón nghề đó, nếu lão có tâm thành thực hiện sự ủy thác của Hoàng Hạc, lão phải hạ sát Tạ Linh Vận chứ, sao lại giết hai người của chúng ta?

Bỗng một giọng nói từ đâu đó vang lên:

– Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt chết là đáng đời của họ lắm rồi, các vị thương tiếc làm chi? Họ là những gian tế do Tạ Linh Vận an trí bên cạnh các vị để giám thị từng hành động, báo cáo cho hắn tường tận hầu liệu cách đối phó.

Mọi người thất sắc. Ai ai cũng hãi hùng về sự tiết lộ đó mà cũng hãi hùng về sự xuất hiện của người vừa phát âm.

Bọn Nhập Hoạch canh phòng cẩn mật ở bên ngoài thì người đó làm thế nào lọt vào đây mà nghe ngóng câu chuyện?

Người đó từ trên tàng cây đáp xuống, là một lão hòa thượng mặc áo cà sa bằng bố màu xanh, râu dài quá rốn.

Người đó là Khổ Hải Từ Hàng.

Nhàn Du Nhất u thở phào, kêu lên:

– Lão trọc! Lúc nào ngươi cũng là một con quỷ ẩn ẩn hiện hiện, chẳng ai biết ngươi ở đâu, chẳng ai biết ngươi đến lúc nào đi lúc nào.

Khổ Hải Từ Hàng điểm nhẹ một nụ cười, nhập bọn với các người hiện diện, tham gia cuộc thảo luận liền:

– Các vị hành động vội vàng quá, bần tăng không làm sao theo kịp các vị để ngăn trở, bần tăng chỉ còn có cách thông tri với Kích Trúc Sanh, bảo lão ấy tìm phương liệu lý, ngầm tiếp trợ các vị. May mắn thay lão ta làm được việc, vì thế bần tăng không cần ra mặt nữa.

Lý Trại Hồng trố mắt:

– Sự việc hôm nay lão trọc đã mục kích trọn vẹn?

Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:

– Bần tăng theo dõi các vị đến Ngũ Đài Sơn chứng kiến mọi diễn tiến. Khi các vị sắp sửa rút lui, bần tăng nhanh chân đến khu rừng này trước, chờ các vị để giải thích những gì các vị thắc mắc.

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Thế thì lão thiền sư chính là người mà Kích Trúc Sanh nói rằng sẽ đến đây?

Khổ Hải Từ Hàng lắc đầu:

– Không! Bất quá bần tăng được biết phần nào về tình hình, giải đáp sơ lược cho các vị không còn hoài nghi về Kích Trúc Sanh nữa vậy thôi. Còn như Tạ Linh Vận thực sự âm mưu như thế nào, thì chúng ta phải chờ nghe người do Kích Trúc Sanh phái đến đây gặp các vị tường thuật rõ ràng. Bần tăng tuy có liên lạc với Kích Trúc Sanh, song không hề trực tiếp hội diện với lão ta.

Dừng lại một chút, nhà sư tiếp luôn:

– Chúng ta phải khâm phục Hoàng Hạc Tán Nhân là bậc kỳ tài, đã thấy trước cái dã tâm của Tạ Linh Vận nên đã an bày một người bên cạnh hắn lúc Long Hoa Hội còn cường thịnh. Nhờ thế mà Kích Trúc Sanh không hề bị Tạ Linh Vận hoài nghi.

Nhất u «ạ» lên một tiếng:

– Thảo nào! Kích Trúc Sanh được Hoàng Hạc tiến cử vào hội rồi là bám sát Tạ Linh Vận, nửa bước không rời. Lúc đó lão phu có ý hoài nghi ...

Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ:

– Thực ra, nếu ngươi biết rõ Độc Cô Minh hơn một chút thì ngươi không hoài nghi như vậy. Lão ấy trí tuệ cao thâm, nếu nhận ai là bằng hữu thì nhất định người đó phải có một giá trị độc đáo. Tuy nhiên chúng ta phải nhìn nhận là Kích Trúc Sanh âm trầm đáng ngợi, chứ nếu không thì làm sao qua mặt được Tạ Linh Vận?

Lý Trại Hồng chen vào:

– Được rồi! Thôi bỏ qua việc đó đi, bây giờ chúng ta thảo luận tiếp về việc của Kích Trúc Sanh có liên quan đến trường hợp hiện tại.

Khổ Hải Từ Hàng cười khổ đáp:

– Muốn biết gì hơn nữa thì phải đợi người do Kích Trúc Sanh sai phái đến đây tỏ cho nghe, chứ bần tăng nói làm sao được. Bần tăng chỉ nhắc lại đoạn cố sự thôi. Năm xưa Hoàng Hạc Tán Nhân và Hương Đình Tiên Tử đã thấu đáo dã tâm của Tạ Linh Vận, cả hai tự lượng sức mình không làm sao diệt trừ hắn được, do đó phải dùng đến cái kế lâu dài hơn, cho Kích Trúc Sanh liên kết với hắn, trở thành kẻ tâm phúc của hắn, sau đó tìm cách đưa Quan Sơn Nguyệt thế huynh vào hội, cuối cùng cho Quan thế huynh học kiếm pháp Phục Ma nơi sư mẫu. Học với sư mẫu, vừa lãnh hội nhanh lại vừa thấu triệt tận cùng ảo diệu hơn với bất cứ người nào trong hội.

Lý Trại Hồng bực dọc:

– Điều đó thì chúng ta ai ai cũng hiểu cả rồi, lão trọc cần gì phải nhắc lại?

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Tiên Tử nói thế là sai. Hiểu một việc, hiểu đại khái chưa hẳn là hiểu, cần nhất là phải thấu triệt vấn đề. Kiếm pháp Phục Ma tuy có thể khắc chế được Tạ Linh Vận, chỉ là việc tạm thời. Quan thế huynh cần phải tập luyện ít nhất cũng đôi ba năm để đạt mức thành tựu thân và kiếm hợp nhất, được như vậy rồi mới phát huy toàn oai lực của kiếm pháp. Lúc định đưa Quan thế huynh vào hội, Hoàng Hạc cứ tưởng là hội sẽ được duy trì ít nhất cũng đôi ba năm, như thế Quan thế huynh thừa thời gian học tập. Khi Quan thế huynh thành tài rồi, Hoàng Hạc sẽ có cách an bày tình thế. Ngờ đâu Tạ Linh Vận quật khởi cuộc tranh chấp trước, Kích Trúc Sanh bắt buộc phải bám theo hắn luôn để tiếp tục giám thị hành động của hắn. Cũng may nhờ có Quan thế huynh xuất hiện đảm đương việc khó, chứ không thì hậu quả chẳng biết ra sao mà tưởng.

Quan Sơn Nguyệt bây giờ mới thức ngộ sự tình ngày trước:

– Lúc ấy tại hạ hết sức lấy làm lạ, chẳng biết tại sao mình đã học được kiếm pháp khắc chế, lại xuất toàn công lực mà vẫn không hạ nổi Tạ Linh Vận. Thì ra mình học nghệ chưa tinh! Rất tiếc ân sư và Ôn lão lão không cảnh cáo điều đó trước.

Khổ Hải Từ Hàng mĩm cười:

– Nói trước làm sao được? Phàm trong mọi cuộc tranh đấu, đấu thủ bằng vào dũng khí, dũng khí lại phát xuất từ tự ái, và tự ái phát sinh tự tin. Nếu cảnh cáo Quan thế huynh trước thì vô tình làm tiêu tan cả dũng khí và tự tin, hơn thế huynh còn bị chạm tự ái, do đó có thể hành động liều lĩnh gây tai hại cho nhiều người. Cho nên sư mẫu và Hoàng Hạc phải thận trọng. Cũng may thế huynh tuy chẳng thành công lớn nhưng cũng giải thoát tai nạn cho tất cả.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc.

Khổ Hải Từ Hàng tiếp luôn:

– Rất tiếc sau đó Quan thế huynh vội ly khai Thần Nữ Phong, để rồi lai lịch bị tiết lộ, Lưu Ảo Phu sanh thù, còn Tạ Linh Vận thừa cơ hội cấu kết vi cánh. Tâm cơ của Tạ Linh Vận chẳng kém Hoàng Hạc, hắn an bày Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt bên cạnh các vị, làm hậu tuyến cho hắn.

Nhất u trố mắt:

– Hắn làm sao?

Khổ Hải Từ Hàng tiếp:

– Trước hết hắn tìm cách trục xuất Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt khỏi hội, tạo một lý do căm thù cho cả hai, các vị phải tin lý do đó, tin luôn hai lão ta. Tự nhiên các vị sẵn sàng đón tiếp hai lão ta với vòng tay mở rộng. Nếu chẳng có Kích Trúc Sanh, thì còn lâu lắm các vị mới khám phá ra vai trò thực sự của hai lão ấy bên cạnh các vị.

Nhất u nổi giận:

– Hai lão đó khả ố thật!

Khổ Hải Từ Hàng cười thảm:

– Khả ố hay khả ái thì họ đã chết rồi. Tử giả biệt luận. Điều đáng nói là Kích Trúc Sanh hành động cực kỳ chu đáo, rất đúng lúc. Chính Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt mật báo về lai lịch của Nguyệt Hoa phu nhân đến tổng đàn Thiên Ma Giáo, và cũng nhờ thế mà Kích Trúc Sanh mới phát hiện ra thân phận của cả hai.

Lý Trại Hồng kêu lên:

– Đáng sợ! Đáng sợ thật!

Khổ Hải Từ Hàng lắc đầu:

– Đương nhiên là đáng sợ rồi. Bởi ngày nào hai lão ấy còn sống là ngày đó các vị như ở trong lòng bàn tay Tạ Linh Vận, hắn biết rõ từng cử động một của các vị. Biết được lai lịch của Quan thế huynh, Tạ Linh Vận lập tức tìm Lưu Ảo Phu, khuyến dụ Lưu Ảo Phu theo về với hắn. Và hắn đã thành công quan trọng khi hai thanh kiếm tối lợi hại trong năm thanh đã về với Thiên Ma Giáo.

Ai ai cũng hãi hùng trước sự tiết lộ của Khổ Hải Từ Hàng. Tất cả đều trầm ngâm. Lâu lắm, Lý Trại Hồng tặc lưỡi thốt:

– Kích Trúc Sanh có thủ đoạn như vậy, sao không dùng tuyệt kỷ đó hạ sát Tạ Linh Vận? Thế có phải là giản dị chăng?

Khổ Hải Từ Hàng mỉm cười:

– Các vị bị lão ta lừa rồi. Xử dụng công phu đó, lão chỉ có thể sát hại Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt thôi chứ không mang nó ra mà đối phó với Tạ Linh Vận được. Nếu không vậy thì lão ta đã giết Tạ Linh Vận từ lâu rồi, đâu để chi đến ngày nay mà phải tiêu hao tâm lực như thế.

Nhất u lộ vẻ không tin:

– Thủ đoạn của lão, toàn thể bọn chúng ta đều mục kích và đồng thời vung vũ khí nghinh đón thế, mà vẫn không ngăn chận được phi đạn của lão Tạ Linh Vận tài ba gì đó mà có thể tự bảo toàn?

Khổ Hải Từ Hàng giải thích:

– Phi đạn của lão thực tế là một loại khí công, nó chỉ có hình mà không có thể, các vị làm sao ngăn chận một cái bóng lướt đi được?

Quan Sơn Nguyệt mơ hồ quá, vội chen vào:

– Nơi sống mũi của Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt đều có một viên đạn sắt rõ ràng chứ nào phải là vật hữu hình vô thể.

Khổ Hải Từ Hàng lại cười:

– m hưởng trong chiếc Thiết Trúc tạo nên một áp lực bắn khí công bay đi chạm mình đối phương rồi kết tụ lại. Vạn Lý Vô Vân chết vì bất mãn, Nhất Luân Minh Nguyệt chết vì khiếp sợ, cả hai chỉ cố nhìn cái bóng lướt đi mà quên mất việc vận khí chống đỡ cho nên phải chết giản dị như vậy.

Mọi người im lặng, Khổ Hải Từ Hàng lại tiếp:

– Chí như Tạ Linh Vận đã đạt đến mức thành tựu như vậy, hắn chẳng cần vận khí chống đỡ, tự nhiên từ nơi mình hắn có phản ứng thích đáng chống đỡ rồi.

Thực ra thì chẳng phải là một phi sa, Kích Trúc Sanh biết là phi sa vô hiệu đối với Tạ Linh Vận cho nên lão không hạ thủ. Tuy nhiên Tạ Linh Vận không hiểu cái đạo lý đó nên cứ khiếp sợ như thường.

Quan Sơn Nguyệt dậm chân:

– Nếu đúng như lời thiền sư vừa nói thì Kích Trúc Sanh đang ở trong cảnh cực kỳ nguy hiểm bởi Tạ Linh Vận là tay gian hoạt nhất trần đời, chẳng khi nào hắn chịu để cho một thuộc hạ khống chế hắn như vậy. Thế nào rồi hắn cũng khám phá ra sự thực.

Khổ Hải Từ Hàng gật đầu:

– Bần tăng cũng biết vậy nên có khuyến cáo Kích Trúc Sanh tuyệt đối phải dè dặt, đừng khinh thường hiện lộ công phu, trừ trường hợp bất khả kháng. Hiện tại thì đại khái chưa đến đổi đáng ngại lắm.

Quan Sơn Nguyệt không đồng ý:

– Thiền sư luận như thế chứ tại hạ thì thấy đáng ngại ngay từ bây giờ. Tạ Linh Vận sẽ thu thập hai xác chết đó, nghiện cứu kỷ vết thương, hắn sẽ phát hiện ra điều bí ẩn không khó khăn lắm. Kích Trúc Sanh dù cao cường đến đâu cũng chỉ kết tụ phi sa thành đạn chứ chưa có thể biến sắt thành kim cương, thì với bằng cớ trước mắt Tạ Linh Vận suy đoán sự thực dể dàng.

Mọi người đều cho là phải. Ai ai cũng lo sợ cho Kích Trúc Sanh.

Khổ Hải Từ Hàng hấp tấp thốt:

– Chúng ta quên mất hai xác chết, không thủ tiêu ngay lúc ly khai Ngũ Đài Sơn hay ít nhất cũng hủy diệt vết thương. Cầu trời cho Kích Trúc Sanh thức ngộ gấp điều đó!

Mọi người lo sợ cho Kích Trúc Sanh vô cùng.

Không lâu lắm, có tiếng vó ngựa từ xa xa bên ngoài rừng vọng vào, vó ngựa nện rất gấp chứng tỏ kỵ sĩ có việc khẩn cấp.

Quan Sơn Nguyệt sáng mắt lên, dứng dậy vừa nhanh về hướng đó vừa thốt:

– Đại khái có lẽ là người của Kích Trúc Sanh đến.

Những người khác cũng đứng lên cùng bước theo chàng. Họ đi ra song chẳng thấy bóng dáng một người nào đi vào, họ đi mãi đến vị trí của Nhập Hoạch.

Lúc đó Nhập Hoạch cầm một cái bọc nơi tay, đứng thừ người ra tại chỗ.

Trên đường dài ngoài một dặm có bóng ngựa sải mờ mờ.

Nguyệt Hoa phu nhân cất tiếng:

– Ai đã đến đây thế Nhập Hoạch?

Nhập Hoạch chưa hết bàng hoàng đáp:

– Thị Tràng!

Đến lượt tất cả mọi người đều sững sốt.

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp kêu lên:

– Thị Tràng? Nàng ấy đến đây làm gì?

Nhập Hoạch tiếp:

– Nàng ta đến còn từ xa quăng cái bọc này cho tôi rồi quay ngựa đi liền. Tôi không kịp hỏi nàng một lời, làm sao biết ý tứ của nàng?

Quan Sơn Nguyệt biến sắc nhanh tay chụp lấy cái bao, trong bao còn có một cái bao khác bằng giấy dầu. Chàng hét lên:

– Thế là Kích Trúc Sanh nguy rồi!

Máu vấy loang lổ nơ chỗ cật cái bao, không cần trông thấy vật ở trong bao bọn Nguyệt Hoa phu nhân cũng biết là gì ngay.

Tuy nhiên Quan Sơn Nguyệt phải mở bao ra, làm việc đó chàng rung tay quá mạnh.

Đúng là đầu của Kích Trúc Sanh! Ngoài ra còn có một vật khác, vật đó chính là cây Trúc của Kích Trúc Sanh vấy máu bê bết.

Trong lòng ống Trúc có một mảnh bố xẻ từ tà áo của Kích Trúc Sanh, trên bố có mấy chữ viết bằng máu, đương nhiên là máu của Kích Trúc Sanh. Những hàng chữ như sau:

«Lấy một đổi hai kể như lỗ, cái trí của ta vẫn còn kém Hoàng Hạc, nhưng từ nay liên lạc giữa song phương đã đứt đoạn rồi thì giai đoạn dùng trí của chúng ta bắt đầu, bên nào cao trí là thắng cuộc. Cảnh cáo cho các vị biết, Tổng Đàn Thiên Ma Giáo kiên cố như tường đồng vách sắt, các vị không nên ngông cuồng thực nghiệm mất mạng oan uổng. Trong ba hôm nữa bổn Giáo chủ ước hội Quan Sơn Nguyệt ở một nơi, Quan Sơn Nguyệt có dám đến chăng?» Những dòng chữ đó bao hàm ý thách thức rõ ràng.

Phía sau mảnh bố có một dòng chữ nhỏ:

«Bổn Giáo chủ sẽ cùng đi với Phó Giáo chủ đến nơi ước hội, Quan Sơn Nguyệt có thể đem theo một người, nhưng quá số đó thì sẽ gặp tai nạn dọc đường.» Khổ Hải Từ Hàng đào một cái huyệt nhỏ, lấy đầu của Kích Trúc Sanh và cây Thiết Trúc bỏ vào huyệt lấp đất lại. Lão vừa khóc vừa niệm Phật hiệu.

Nhàn Du Nhất u và Lý Trại Hồng cũng xúc động tâm tình tuông dòng lệ thảm.

Quan Sơn Nguyệt ngưng trọng thần sắc thốt:

– Suy theo tình hình thì Tạ Linh Vận đã sớm biết thân phận của Kích Trúc Sanh, hắn để mặc cho Kích Trúc Sanh hành động rồi âm thầm theo dõi, Kích Trúc Sanh bị hắn lợi dụng mà lão chẳng hề hay biết. Chứ nếu không thì làm sao hắn phát hiện được cái hư ảo vô dụng của phi sa? Và làm gì hắm dám hạ độc thủ?

Nguyệt Hoa phu nhân lộ vẻ ưu tư:

– Con người đó đáng sợ thật! Nguyệt nhi ...

Quan Sơn Nguyệt ngẩn đầu lên:

– Mẫu thân muốn nói đến cuộc ước hội của hắn? Đương nhiên là con phải đến đó.

Khổ Hải Từ Hàng quệt tay áo qua đôi mắt ướt nhòa lệ thảm, thốt:

– Luận về đấu trí thì chúng ta không thắng nổi Tạ Linh Vận đâu. Quan thế huynh phải hết sức thận trọng bởi hiện tại thì thế huynh là cây trụ kình thiên của bọn này, trụ ngã rồi thì tất cả phải ngã theo.

Quan Sơn Nguyệt cương quyết:

– Chính vì thế mà tại hạ nhận thấy cần phải đến nơi ước hội với Tạ Linh Vận đó, thiền sư. Thực lực của chúng ta, thực mà nói, đi từ ưu thế đến khó khăn dần dần bị dồn vào nguy cảnh, tại hạ phải làm một cái gì để vùng dậy, trước hết giữ sự quân bình giữa song phương rồi sau đó sẽ thực hiện những dự định khác.

Lý Trại Hồng cau mày:

– Hắn không chỉ định địa phương nào cả, thì công tử biết nơi nào mà đến?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Dù vậy tại hạ cũng có thể suy đoán ra. Hắn có ý trắc nghiệm cơ trí của tại hạ đó, khi nào tại hạ lại chịu kém. Tại hạ phải chứng minh là chẳng bao giờ kém hắn bất cứ về phương diện nào.

Lý Trại Hồng hỏi:

– Công tử đoán là ở tại địa phương nào? Tất cả có nên cùng đến đó chăng?

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Điều đó thì tuyệt đối không nên làm. Hắn chỉ chấp thuận cho tại hạ đem theo một người thôi. Tại hạ tưởng là không nên di động, bởi di động thì chúng ta thế nào cũng phải bị hắn âm mưu hãm hại, ngoài ra hắn còn khinh miệt chúng ta là hèn khiếp.

Chàng day qua Nguyệt Hoa phu nhân gọi:

– Mẫu thân!

Nguyệt Hoa phu nhân tưởng đâu chàng sẽ chọn bà cùng đi với chàng, nhưng chàng tiếp luôn:

– Mẫu thân cho con mượn thanh kiếm Hoàng Diệp.

Nguyệt Hoa phu nhân trố mắt:

– Con không muốn cho mẹ cùng đi?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không mẹ ạ! Con chỉ cần mẹ cho mượn thanh kiếm thôi. Còn như ngươi sẽ cùng đi với con thì hiện tại con xin giấu tên, chẳng phải con nghi ngờ gì người của chúng ta mà chẳng dám tuyên bố sớm, con chỉ dè dặt đối với bọn Tạ Linh Vận thôi, bởi rất có thể chúng âm mưu thế nào đó nếu sớm biết người nào sẽ cùng đi với con.

Dừng lại một chút chàng tiếp:

– Bây giờ chúng ta nghỉ ngơi. Sáng mai trừ người sẽ cùng đi với con, mẹ và các vị khác lập tức trở về Quảng Hàn Cung tái tạo lại những gì Lưu Ảo Phu đã hủy hoại, mình dùng nơi đó làm căn cứ chống lại bọn Tạ Linh Vận đồng thời bảo trì những kỷ niệm của cha con lúc sinh tiền.

Nguyệt Hoa phu nhân suy nghĩ lại một chút đoạn trao kiếm cho chàng.

Quan Sơn Nguyệt tiếp nhận thanh kiếm rồi thở dài, tiếp luôn:

– Còn một điều này nữa mẹ. Con tưởng cần phải nói rõ với mẹ là gặp Lưu Ảo Phu lần này con sẽ chẳng nương tay với hắn như bao nhiêu lần trước. Bởi đây chẳng còn là việc riêng tư trong gia đình của chúng ta nữa mà là công cuộc diệt trừ Tạ Linh Vận, ngày nay hắn đã là người của Thiên Ma Giáo thì chúng ta chẳng thể dung tha hắn được nữa. Hắn còn là bọn hung ác kia vẫn còn, dù Tạ Linh Vận có chết đi. Với hắn, Thiên Ma Giáo vẫn còn tồn tại và chúng vẫn còn nhiễu hại dân lành như thường. Hắn đã không còn là đứa con cưng của mẹ nữa. Hắn đã hoàn toàn đối lập với mẹ con ta chẳng khác nào một cừu địch, chúng ta không diệt trừ hắn thì hắn vẫn quyết tâm hảm hại chúng ta như thường.

Nguyệt Hoa phu nhân sa sầm gương mặt, niềm khổ sở hiện lên rõ rệt.

Chừng như lệ thảm trào dâng, bà thốt qua nghẹn ngào:

– Con cứ niệm ý mà hành động. Từ lâu hắn không còn là con của mẹ nữa!

Lý Trại Hồng hỏi:

– Quan công tử định lúc nào mới khởi hành?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ mấy phút:

– Đêm nay, tại hạ sẽ âm thầm ước hội người cùng đi, cả hai âm thầm ly khai các vị. Do đó, tại hạ có lời cáo biệt mọi người ngay bây giờ, để lúc đi khỏi phải thất lễ mà cũng không làm kinh động các vị.

Nhất u chen vào:

– Công tử chọn ai? Cứ nói ra đi, có chi đâu mà ngại? Bọn Tạ Linh Vận không thế nào hiểu được đâu. Còn bọn lão phu thì chắc chắn là tôn trọng sự quyết định của công tử, không ai dám dị nghị.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Tiền bối thứ cho, tại hạ xin giấu kín. Có điều người mà tại hạ chọn, tại hạ không hài danh nhưng người đó vẫn hiểu như thường. Tại hạ tin rằng khi tại hạ đăng trình thì người đó sẽ đón tại hạ ở một nơi nào đó trên đường.

Chàng làm ra vẽ thần bí quá, thần sắc của chàng hơi nghiêm nên chẳng ai hỏi dồn.

Lúc đó hoàng hôn đã xuống, bóng đêm dần dần bao trùm phủ lên vạn vật, mọi người đều ngồi nghỉ một lúc.

Bọn Nhập Hoạch, Thị Thơ cũng bỏ chỗ nấp trở về nhóm tụ với đồng bọn.

Tuy nhiên chẳng ai chợp mắt được. Ai ai cũng lo ngại cho Quan Sơn Nguyệt trong chuyến đi này chàng sẽ gặp dữ nhiều lành ít.

Chỉ có mỗi một Quan Sơn Nguyệt là tựa mình vào thân cây ngủ say. Niềm tự tin tạo cho chàng sự ổn định, tâm thần lắng dịu thì tự nhiên chàng ngủ dễ.

Huống chi chàng cần lấy sức để đương đầu với mọi bất trắc trong những ngày sắp đến.

Nguyệt Hoa phu nhân suy tư viễn vông một lúc rồi cũng nhắm mắt lại dưỡng thần. Nhưng không lâu lắm, có tiếng động quanh mình làm bà bừng tỉnh nhận ra Quan Sơn Nguyệt cùng con Minh Đà đã mất dạng, đến cả những người khác cũng mất dạng luôn, trừ năm thị giả còn ở lại đó với bà. Bà hấp tấp hỏi Nhập Hoạch:

– Công tử đâu rồi?

Nhập Hoạch mỉm cười:

– Đi rồi.

Phu nhân lại hỏi:

– Các người kia?

Nhập Hoạch đáp:

– Họ đi trước công tử. Họ suy đoán hướng công tử sẽ đi, họ đi trước để đón công tử dọc đường, hy vọng được công tử chọn làm bạn đồng hành trong chuyến đi này.

Nguyệt Hoa phu nhân suy nghĩ một chút:

– Thế thì chúng ta ở đây chờ, trừ cái người được công tử chọn, còn thì hẳn là phải trở lại đây.

Bà hỏi:

– Tại sao các người không làm thử như họ?

Nhập Hoạch thở dài:

– Tỳ tử đoán được hướng của công tử sắp đi, song nghĩ mình bất tài, dù có đi theo công tử vị tất sẽ giúp được gì hữu ít cho công tử? Như thế thì thử mà làm gì? Thà ở đây hầu hạ phu nhân vẫn hơn.

Nguyệt Hoa phu nhân trố mắt:

– Ngươi biết cái hướng đi của công tử?

Nhập Hoạch mỉm cười, song cắn môi không đáp.

Phu nhân hấp tấp hỏi:

– Hướng nào? Địa phương nào?

Nhập Hoạch lại cười:

– Địa phương đó phu nhân và Lý Tiên Tử có đi ngang qua.

Nguyệt Hoa phu nhân suýt nhảy dựng lên:

– Thiên Xà Cốc? Có thể là nơi đó sao?

Nhập Hoạch nghiêm sắc mặt:

– Chẳng những có thể mà chắc chắn là như vậy đó. Phu nhân và Lý Tiên Tử đã thuật rõ hình thế Thiên Xà Cốc cho mọi người nghe. Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt đã thông tri với Tạ Linh Vận rồi, hắn ta biết được trên đời này có một dị nhân như Xà Thần thì khi nào hắn bỏ qua.

Nguyệt Hoa phu nhân trầm ngâm một lúc:

– Hắn không bỏ qua thì hắn sẽ làm gì chứ? Võ công của Xà Thần cao thâm không lường nổi, hắn và Lưu Ảo Phu mong gì chiếm ưu thế với Xà Thần mà hòng nuôi ảo vọng?

Nhập Hoạch lắc đầu:

– Nào phải họ tìm đến đó tranh chấp với Xà Thần đâu? Mục đích của họ là dẩn dụ Xà Thần vào Thiên Ma Giáo, với sự tiếp trợ của Xà Thần họ sẽ an như bàn thạch, chẳng còn sợ một ai trên cõi đời này.

Nguyệt Hoa phu nhân khoát tay:

– Ngươi khéo lo sợ viễn vông. Ta tin rằng chẳng khi nào Xà Thần nhẹ dạ để cho họ lợi dụng.

Nhập Hoạch cãi:

– Phu nhân phải biết Tạ Linh Vận là con người cực kỳ giảo hoạt, nếu có chủ ý gì nhất định là hắn thực hiện cái chủ ý đó cho bằng được, hắn có trăm ngàn phương cách giúp hắn thành công. Tỳ tử vọng đoán như vậy. Phu nhân cứ chấp nhận sự vọng đoán đó, sai thì ít trúng thì nhiều, dù sai cũng chẳng hại gì, bằng như trúng thì chúng ta ngay từ bây giờ ít ra cũng đề cao cảnh giác.

Phu nhân thốt gấp:

– Thế thì chúng ta hoãn việc trở về Quảng Hàn Cung để cùng đến Thiên Xà Cốc. Ta sợ công tử đơn thân độc lực không làm sao ứng phó nổi với số người của Tạ Linh Vận, bởi biết đâu hắn chẳng thất tín mà đem theo viện thủ ngoài cái số hắn ước định.

Vừa lúc đó nhiều bóng người từ xa lao vút đến. Những người đó là Lý Trại Hồng, Nhàn Du Nhất u và Khổ Hải Từ Hàng, chỉ có Xà Cơ Giang Phàm vắng mặt. Khổ Hải Từ Hàng cười nhẹ thốt:

– Phu nhân cứ yên trí. Quan công tử chẳng thể thất bại với bọn ma đầu đâu.

Nguyệt Hoa phu nhân đảo mắt nhìn những người mới về bất giác cau mày, kêu lên:

– Giang cô nương ...

Lý Trại Hồng gật đầu tiếp:

– Mỗi người chúng tôi đoán định một phương hướng, đi trước chờ Quan công tử, ngờ đâu lại gặp Giang cô nương cùng ngồi lưng Minh Đà với Quan công tử, cho nên bọn tôi thông báo với nhau đồng trở lại đây.

Nguyệt Hoa phu nhân lẩm bẩm:

– Nàng đi theo Nguyệt Nhi để làm gì? Nàng có khác nào một đứa trẻ con chưa từng trải sự đời? Nàng giúp ích gì được cho Nguyệt Nhi?

Lý Trại Hồng mỉm cười:

– Giả như nơi ước hội là Thiên Xà Cốc thì trong tất cả chúng ta đây chẳng ai bằng Giang cô nương. Nàng vừa có võ công cao vừa am tường địa thế tại Thiên Xà Cốc, chính điều đó mới đáng kể phu nhân ạ. Còn như sự đời thì Quan công tử đâu cần gì có sự chỉ giáo của nàng? Hẳn là Quan công tử cần một kẻ hướng đạo nên chọn nàng đó.

Nguyệt Hoa phu nhân suy nghĩ mông lung.

Khổ Hải Từ Hàng cất tiếng:

– Trong chuyến đi này nhất định là Quan công tử đoạt thắng lợi, chúng ta không lo ngại gì cả. Phu nhân hãy y theo lời công tử chúc phó, trở lại Đại Ba Sơn trùng tu Quảng Hàn Cung chờ tiếp nhận tin lành của công tử. Nếu Thiên Ma Giáo ỷ vào số người đông toan lấn hiếp thì bần tăng sẽ liên lạc với bằng hữu hiện tản mác bốn phương, triệu tập họ tạo thành một lực lượng, sau đó đường đường chánh chánh đối địch với bọn Tạ Linh Vận. Phu nhân thừa biết là bao giờ chánh cũng khắc tà.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro