Võ lâm phong thần bảng (end)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 51

Bao Quãng Dặm Trường

Lặng lẽ ly khai đồng bọn, vượt qua đoạn đường, Quan Sơn Nguyệt bỗng nghe một tiếng động khẽ phía sau lưng, mường tượng một cành cây khô nhỏ rơi nhẹ trên lưng Minh Đà.

Bất giác, chàng giật mình quay đầu nhìn lại, thấy Giang Phàm với một nụ cười tươi điểm trên gương mặt đẹp. Chàng thở phào buông gọn:

– Biết lắm! Thế nào rồi cô nương cũng theo tại hạ!

Giang Phàm hỏi:

– Công tử đợi tôi?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Phải! Tại hạ thấy cô nương cùng nhiều người nữa, động thân trước tại hạ.

Tại hạ chỉ sợ họ đoán được phương hướng, rồi đón đường ...

Giang Phàm chận hỏi:

– Tại sao công tử sợ?

Quan Sơn Nguyệt giải thích:

– Nếu mọi người cùng đoán đúng, cùng đón tại hạ thì thật là khó xử! Trong khi tại hạ muốn chọn cô nương, mà người khác đòi đi theo thì làm sao tại hạ cự tuyệt?

Giang Phàm mỉm cười:

– Thực ra, ai ai cũng đoán được phương hướng đi của công tử, song mỗi người lại rẽ về một phía, cốt đánh lạc hướng nhau, cuối cùng rồi họ cũng trở lại con đường nầy. Họ trở lại rồi, phát hiện ra có tôi theo phía sau, tất cả cùng trở lại.

Dừng lại một chút, nàng tiếp:

– Họ trở lại, vì họ nghĩ là vũ công của họ chẳng sánh với tôi được, hơn nữa, họ cho rằng tôi chất phác, đầu óc tầm thường, không đủ tư cách làm một viện thủ bên cạnh công tử, sau cùng họ thấy tôi cũng đoán được hướng đi của công tử, điều đó chứng minh tôi không quá ngu xuẩn như họ tưởng, cho nên họ yên tâm, nhường hẳn cho tôi cùng theo công tử.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Kỳ quái! Tại sao tất cả đều có ý nghĩ là tại hạ sẽ đến Thiên Xà Cốc?

Thực ra, chính tại hạ cũng chẳng dám quả quyết, Tạ Linh Vận ước hội nơi đó!

Giang Phàm mỉm cười:

– Ngoài Xà Thần ra, còn nhân vật nào trên đời nầy làm cho Tạ Linh Vận động tâm? Giả như công tử cho rằng chúng ta suy đoán sai, thì chẳng cần phải đi đâu cả, bởi dù cho chúng đi tìm ai ngoài Xà Thần, bọn ta cũng chẳng có gì phải sợ cả.

Quan Sơn Nguyệt cười theo:

– Cô nương nói đúng! Tại hạ đồng ý với cô nương về điểm đó.

Giang Phàm bỗng nghiêm sắc mặt:

– Công tử chớ vội đắc ý, nếu đúng là chúng đến Thiên Xà Cốc, thì công tử phải đề phòng trường hợp Xà Thần bị chúng thuyết phục. Chống đối với ai thì chúng ta còn có hy vọng thủ thắng, chứ đương đầu với Xà Thần thì phần bại về chúng ta là cái chắc!

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Chẳng lẽ Xà Thần có bản lĩnh cực kỳ ghê gớm?

Giang Phàm cười nhẹ:

– Ghê gớm bao nhiêu, điều đó chúng ta không cần biết, có điều chúng ta nên ghi nhớ để luôn luôn đề cao cảnh giác, là chúng ta kém lão rất xa!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu, đoạn thốt:

– Thuyết phục người, có ba cách. Thứ nhất, dùng oai. Thứ hai, dùng lợi.

Cuối cùng là dùng đức. Oai không bức hiếp nổi Xà Thần, lợi không dụ lão động tâm được, mà đức thì làm gì Tạ Linh Vận có thừa chứ? Ba cách đó, đem ra mà dùng với Xà Thần, cầm như vô ích!

Giang Phàm mỉm cười:

– Công tử quên một điều, là Xà Thần chẳng phải là một con người hoàn toàn, cái hình hài của lão ta đã nói lên điều đó, hẳn công tử cũng thấy rõ, thì còn lâu lắm, lão mới là một thánh nhân. Không là người hoàn toàn, lão vẫn có khuyết điểm, vẫn có dục vọng, nếu biết đúng thị hiếu của lão ta ...

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:

– Lão ta có thị hiếu như thế nào?

Giang Phàm lại cười:

– Sao công tử lại hỏi tôi?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Cô nương từng sống chung với Xà Thần tại Thiên Xà Cốc trong nhiều năm, hẳn phải biết rõ lão ta ...

Giang Phàm suy tư một chút, rồi nói:

– Thật khó nói quá! Xà Thần chẳng biểu hiện tánh tình gì rõ rệt, bất quá lão ta từng tỏ ra là căm hận nam nhân, thích nữ nhân, nhưng cái thích đó lại bị hạn chế nhiều, bởi bẩm chất của lão ta không đầy đủ như người bình thường, nên lão không làm sao tiếp cận nữ nhân được. Tôi đang tìm hiểu tại sao bọn Tạ Linh Vận tìm đến đó, và sẽ áp dụng phương pháp gì để thuyết phục lão!

Quan Sơn Nguyệt cũng không tài gì hiểu được cách thức mà bọn Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu sẽ đem dùng với Xà Thần. Chàng cho rằng, cả hai không hy vọng lắm trong việc thu phục Xà Thần nên không vội gì phải kiêm trình, cứ cho Minh Đà từ từ tiến tới.

Chàng thầm tính, từ Ngũ Đài Sơn đến Thiên Xà Cốc, dù đi rất chậm, trong hai hôm cũng đến nơi. Nếu Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu đi ngay từ cái lúc giết Kích Trúc Sanh, sai Thị Tràng mang thơ ước hội đến chàng, thì cả hai đến Thiên Xà Cốc sớm được một ngày. Trong thời gian một ngày đó, cả hai sẽ làm được gì?

Qua khẩu khí của Tạ Linh Vận trong mảnh giấy do Thị Tràng mang đến, Quan Sơn Nguyệt nhận thấy hắn tự tin cực độ. Hắn bằng vào đâu mà dám tin tưởng là sẽ thành công?

Giang Phàm thấy chàng ưu tư mãi, liền an ủi:

– Không nên quá lo, công tử ạ! Bởi chắc gì Tạ Linh Vận sẽ đến Thiên Xà Cốc?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Tại hạ hy vọng đoán sai, song khổ thay, tại hạ có ngàn vạn lý do để tin tưởng rằng Tạ Linh Vận đến nơi đó! Nếu hắn ước hội một nơi khác, hoặc tìm một người nào, ngoài Xà Thần, thì chẳng bao giờ hắn làm ra vẻ bí mật, hắn đã chỉ rõ địa phương đó cho tại hạ biết rồi.

Giang Phàm trấn an chàng:

– Dù đúng là Thiên Xà Cốc đi nữa, công tử bất tất phải quá lo lắng. Biết đâu đến đó rồi, chúng chẳng bị Xà Thần giết chết?

Quan Sơn Nguyệt lại thở dài:

– Nếu được vậy thì là một đại phúc hạnh cho chúng ta!

Giang Phàm nói:

– Nói cho cùng mà nghe, giả như chúng có phương pháp thuyết phục Xà Thần, thì còn có Linh Cô đó chi? Vị tiểu cô nương đó tuy còn ít tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn khéo phi thường. Nó sẽ tìm mọi cách ngăn chận Xà Thần hiệp tác với bọn Tạ Linh Vận.

Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc, nhận ra tình thế chưa đến đổi quá nghiêm trọng, nhất là câu nói vừa rồi của Giang Phàm mang lại cho chàng một hy vọng lớn lao. Chàng thấy an tâm ngay.

Linh Cô rất thông minh, nó lại là ái đồ của Lâm Hương Đình, trung thành với sư phó, tự nhiên nó cũng không đợi trời chung với Tạ Linh Vận, có mặt nó tại Thiên Xà Cốc, thì Tạ Linh Vận khó mà thành công trong việc mua chuộc Xà Thần.

Y có trăm ngàn thủ đoạn, cũng không làm sao thi thố được.

Từ bi quan, Quan Sơn Nguyệt lạc quan liền, nhưng niềm lạc quan hiện ra không lâu, rồi chàng bi quan trở lại như cũ. Bởi, Linh Cô dù thông minh, Tạ Linh Vận vẫn là kẻ gian hoạt, đã biết là có Linh Cô tại Thiên Xà Cốc, mà hắn vẫn còn quyết đến đó, hẳn hắn phải có một chủ trương. Cái chủ trương đó bao gồm một biện pháp loại trừ Linh Cô nữa. Thế là chẳng những nguy cho chàng, mà còn nguy cho Linh Cô nữa.

Vì quá bi quan, chàng cứ trầm trầm gương mặt.

Giang Phàm mỉm cười thốt:

– Tốt hơn hết, là chúng ta phải đến gấp, Minh Đà có cước lực phi thường, hẳn là thừa sức đưa chúng ta đến Thiên Xà Cốc trước bọn Tạ Linh Vận. Chúng ta đến trước thì bọn Tạ Linh Vận khó mà hội diện được với Xà Thần.

Quan Sơn Nguyệt nhướng cao đôi mày, mắt sáng lên, đáp với niềm hứng khởi:

– Phải đó, Giang cô nương! Đề nghị của cô nương rất hợp lý. Chúng ta không nên để mất thời gian vô ích.

Chàng giục Minh Đà gia tăng tốc lực.

Minh Đà quả thật là con thần vật, chở hai người với chiếc Độc Cước Kim Thần, nặng ngàn cân, vẫn chạy nhanh như thường.

Đi được nửa ngày đường, Quan Sơn Nguyệt và Giang Phàm cảm thấy đói.

Người đông, Minh Đà không chạy nhanh được, gia dĩ nó có hình vóc to lớn, sắc lông trắng như tuyết, trên lưng nó lại có đôi thiếu niên nam nữ anh tuấn diễm kiều, người người không khỏi động tính hiếu kỳ quy tụ càng đông hơn, để nhìn bọn họ.

Đường như tắc nghẽn, đi bộ còn khó khăn, nói chi cỡi thú?

Có kẻ bạo miệng hỏi mua con Minh Đà, vì kẻ ấy tưởng là Quan Sơn Nguyệt mang con vật đến thị tứ để bán.

Quan Sơn Nguyệt dùng lời từ tốn, đối đáp qua loa với mọi người, đồng thời cố điều động con Minh Đà chen qua nhóm người hiếu kỳ đó, tiến tới từng bước một.

Bọn người thích con Minh Đà, cứ bám sát phía sau, lải nhải mãi.

Quan Sơn Nguyệt bực dọc vô cùng, song chẳng lẻ dụng võ với những người không có tội gì ngoài cái hiếu kỳ trơ trẽn?

Bên đường, có một ngôi quán, để tránh thiên hạ càng phút càng gây phiền phức, chàng cùng Giang Phàm xuống lưng Minh Đà, cột con thú lại nơi cửa, rồi cả hai vào quán.

Thời gian vào ngọ, họ cũng đã đói, nên cả hai định ăn uống qua loa rồi sẽ tiếp tục hành trình. Vừa ăn, Giang Phàm vừa hằn học:

– Mấy người đó lạ quá, người ta đã bảo là không bán, mà lại cứ theo nài nỉ mãi, thật là bực vô cùng. Tôi suýt động thủ, sửa trị họ một phen, cho họ chừa bỏ cái tánh quấy nhiễu khách qua đường.

Quan Sơn Nguyệt cười khổ:

– Lỗi tại chúng ta, cô nương ạ! Nơi đây mỗi tháng đều có cuộc tụ họp như vậy một lần, người quanh vùng đều mang các sản phẩm thực vật đến bán, mua.

Có cả những nhà chăn nuôi cũng đưa thú đến bán. Cho nên, họ tưởng là chúng ta cũng mang lạc đà đến đây bán như họ. Họ dám nêu giá mua rất cao là vì biết rõ giá trị của con vật. Cô nương thấy không, họ dám trả đến năm sáu trăm lượng bạc, với số bạc đó, họ có thể mua mấy mẫu đất, canh tác thu hoa lợi đủ sống một đời!

Giang Phàm «hừ» một tiếng:

– Họ mua nó làm gì chứ? Chẳng lẽ họ bắt nó kéo cày như trâu? Chẳng lẽ họ dùng nó để kéo xe thay ngựa?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Biết đâu người ta có chỗ dùng nó, ngoài cái việc kéo cày, kéo xe! Trong thiên hạ, thiếu chi ngựa quý, song đâu phải mỗi người đều có duyên may gặp gỡ như nhau? Cho nên, gặp được một con thú quý rồi, họ không thể bỏ qua, họ tìm mọi cách, chiếm hữu cho kỳ được, bất luận là hợp pháp hay không hợp pháp.

Chả trách họ lẽo đẽo theo chúng ta, nài mãi con Minh Đà. Cô nương biết không, ân sư tại hạ trông thấy con Minh Đà trong đoàn du mục, người thích ngay, và không tiếc mười hạt minh châu đánh đổi lấy nó đấy. Đừng tưởng bất cứ lạc đà nào cũng vượt sa mạc ngang nhau. Lạc đà là con vật đành là có đặc điểm vượt sa mạc, nhưng con Minh Đà của tại hạ có nhiều đặc điểm hơn các con lạc đà khác, không kể thể sắc và vóc của nó phi thường. Bọn này trầm trồ Minh Đà hẳn cũng là sành cái khoa xem thú đấy ...

Vừa lúc đó, một hán tử trung niên từ bên ngoài bước vào quán. Hắn vận y phục y sư du phương, hắn đến thẳng trước chiếc bàn của Quan Sơn Nguyệt, vòng tay cung kính hỏi:

– Các vị là chủ nhân của con Minh Đà?

Giang Phàm đinh ninh là hán tử muốn mua con vật, nên lạnh lùng đáp:

– Phải ngươi định đưa ra cái giá nào đó chăng?

Hán tử mỉm cười:

– Con vật có cái giá trị rất cao, tại hạ mua sao nổi mà dám nói đến việc mua bán?

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Huynh đài có điều chi chỉ giáo chắc?

Hán tử cười:

– Tại hạ nhờ trời, biết qua nghề mọn luân lạc bốn phương, dùng nghề mọn kiếm cái ăn cái uống hàng ngày ...

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Con Minh Đà của tại hạ khỏe mạnh như thường, chỉ sợ tại hạ không cần phải kêu gọi đến sở năng của huynh đài.

Hán tử cười:

– Minh Đà là thần vật, giá trị ngàn vàng, tại hạ hy vọng các vị đừng tiếc một vài lượng bạc, mà thành ra phải hối hận sau này. Cứ như tại hạ quan sát, thì hiện tại nó đã nhiễm một cái tật ...

Quan Sơn Nguyệt không tin, chận lại:

– Làm gì có việc đó, huynh đài!

Chàng không thể nào tin được. Minh Đà, là con vật thông linh, chẳng khi nào nó nhiễm bịnh thông thường, giả như nó có bịnh, thì nó cũng tự đi tìm thảo dược mà chữa trị rồi, hoặc giả, chàng cũng thấy được một hiện tượng nào đó của chứng bịnh nơi con vật chứ?

Hán tử cười nhẹ:

– Nếu không tin, tôn giá cứ bước ra ngoài mà xem lại, chứng bịnh của nó đã chuyển sang giai đoạn nghiêm trọng rồi đó. Tối đa, nó chỉ còn có thể sống vài ba hôm nữa thôi ...

Quan Sơn Nguyệt dù không tin cũng phải kinh hãi, hấp tấp bước ra ngoài, trông thấy con Minh Đà bình yên đứng tại cửa, chàng thở phào thốt:

– Nó có sao đâu!

Hán tử đi theo chàng, đáp:

– Trên mình nó, có dấu hiệu nhiễm độc rồi, hiện tại thì bất quá chỉ là một điểm nhỏ, sau vài hôm, độc chất sẽ phát tác ...

Quan Sơn Nguyệt bất mãn, gạt ngang:

– Nói nhảm! Làm gì có dấu hiệu nhiễm độc!

Tuy nói thế, chàng lại lo. Đồng thời đôi mắt của con Minh Đà lờ đờ đi.

Chàng hấp tấp hỏi:

– Lão bằng hữu có sao không?

Minh Đà như hiểu tiếng người, chớp chớp mắt tỏ vẻ đau đớn lắm.

Hán tử đứng một bên, thốt:

– Tôn giá nhìn mũi con vật xem, hai lỗ mũi của nó hẳn là phải khô lắm!

Không cần nhìn, Quan Sơn Nguyệt cũng nhận ra như vậy, bởi thường thường, lỗ mũi của Minh Đà ướt át, hiện tại thì chẳng có một điểm lấm tấm ướt nào cả. Lỗ mũi khô, là trong cơ thể của nó, nhiệt độ lên cao.

Chàng khẩn cấp ra mặt, tự thốt:

– Sao lạ thế? Có khi nào nó sanh bịnh đâu?

Hán tử cười nhẹ:

– Minh Đà ngày đi ngàn dặm, cầm như một con thuyền vững chắc giữa sa mạc mênh mông, mà thuyền thì phải vượt sông, lướt biển, chỉ có sa mạc mới là hoàn cảnh thích hợp với nó thôi. Mang nó vào Trung Nguyên, có khác nào tôn giá đẩy một con thuyền lên cạn, bỏ khô, tự nhiên có lúc thuyền phải nứt nẻ, rồi từ từ tự hoại? Lỗi tại tôn giá, chứ nào phải tại nó hay tại ai?

Quan Sơn Nguyệt không đồng ý:

– Nó ở Trung Nguyên từ lâu lắm rồi, chẳng hề sanh bịnh, sao bây giờ lại thế nầy?

Hán tử lại cười:

– Dù nó là con vật quý báu, chung quy nó cũng thuộc loài vật, nó sánh sao được với người mà có tánh đồng hóa nhanh chóng và dễ dàng với thủy thổ của vùng khác lạ? Chính cái khí hậu bất hợp gây nên tình trạng đó! Sở dĩ bịnh chưa phát tác trong thời gian qua, là nhờ nó có sức chịu đựng phi thường, nhưng bịnh vẫn ẩn nhục trong mình nó từ ngày lạ xứ, bịnh chực chờ dịp phát sanh. Nay thì cái dịp đã đến cho bịnh rồi. Hẳn tôn giá cũng hiểu đạo lý như vậy.

Hắn nói quá đúng, Quan Sơn Nguyệt bắt buộc phải tin. Chàng gọi gấp:

– Tiên sanh có cách cứu nó chứ?

Hán tử đáp:

– Cái mạng của nó chưa dứt, nên xui khiến tại hạ đến tận địa phương nầy, gặp nó trong tình trạng đó. Bất quá, muốn cứu nó, phải cứu gấp, nếu để chậm trễ thì dù là thánh cũng chẳng làm sao chữa trị nổi!

Quan Sơn Nguyệt vội vòng tay:

– Vậy tại hạ tha thiết yêu cầu tiên sanh cứu mạng nó, dù tốn hao bao nhiêu vàng bạc, tại hạ chẳng nề hà!

Hán tử đưa tay xoe xoe mấy lọn râu dưới cằm, cười hì hì, tiếp:

– Bình sanh tại hạ nhờ cái nghề chữa trị bịnh loài vật mà có cái ăn cái mặc, tự nhiên gặp dịp này, thì ...

Quan Sơn Nguyệt biết là đối phương dàn cảnh bằng vài câu mở đầu để đòi hỏi một giá cao, song chàng cần gì điều đó, giả như hắn cứu con vật khỏi cơn nguy, dù chàng có dốc cạn túi, cũng chẳng sao. Chàng thốt nhanh:

– Lão tiên sanh cứ nêu lên một con số, tại hạ nhất định không từ chốt, hoặc bớt một bớt hai!

Hán tử vụt cười ha hả:

– Tôn giá đã nói thế, thì cần gì phải thảo luận hơn nữa? Tại hạ xin bắt đầu chữa trị cho con vật. Có điều, ở đây ồn ào hỗn tạp quá ...

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Thế tiên sanh muốn đến địa phương nào?

Hán tử đưa tay chỉ:

– Phía trước kia, có một con sông nhỏ, bên bờ sông có một khu rừng nhỏ, nơi đó vừa thanh lịch, vừa mát mẻ, chúng ta hãy đến đó.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu, mở dây cột, dẫn Minh Đà đi liền. Chàng để ý, thấy Minh Đà bước đi có vẻ khó khăn lắm, niềm thương cảm dâng lên, tràn ngập tâm tư.

Giang Phàm lập tức theo sau.

Nhiều kẻ hiếu kỳ còn bám sát phía sau.

Giang Phàm bực tức vô cùng, xô đẩy những kẻ ở gần nhất trở lại, đồng thời luôn miệng hét:

– Dang ra! Trở lại đi! Có cái gì đâu mà cứ theo xem mãi như vậy chứ?

Nàng có cần gì dụng lực quá mạnh, bất quá nàng chỉ phát xuất một thành công lực thôi, nhưng với một thành của nàng, bọn phàm phu tục tử đó chịu làm sao nổi?

Người gần ngã, đẩy người kế ngã, bọn ngoài xa cũng ngã theo luôn, tất cả ngã dồn đống. Bây giờ, họ mới biết là nàng lợi hại, chẳng còn ai dám theo nữa.

Thực ra, Quan Sơn Nguyệt không muốn cho nàng sanh sự, sợ nàng quá mạnh tay, gây ra án mạng, song lúc đó chàng quá bận tâm vì con Minh Đà, nên cứ để mặc nàng làm sao thì làm. Cũng may, không có điều chi quan trọng xảy ra.

Khu rừng bên bờ sông nhỏ cách chỗ thị tứ độ nửa dặm đường, đến nơi đó rồi, Quan Sơn Nguyệt không còn sợ bọn hiếu kỳ gây phiền phức như trước nữa.

Và Giang Phàm cũng chẳng nhọc công xua đuổi ai cả.

Nói là con sông nhỏ, thực ra thì chỉ là một con suối, cạnh suối là khu rừng táo, cành trụi lá, trông xơ xác tiêu điều vô cùng.

Trước hết, hán tử bảo Quan Sơn Nguyệt lấy những vật trên lưng lạc đà xuống, sau đó, chàng bảo lạc đà nằm im.

Rồi hắn lấy chiếc rương nhỏ đeo bên mình, mở nắp ra, chọn một chiếc bình đựng thuốc bột, đổ một phần vào chén nước, hòa cho ta, đoạn rót vào miệng lạc đà. Số thuốc còn lại, hắn bỏ vào một cái bát lớn chứa đầy nước, hòa thuốc tan ra, rồi lấy một đầu cành non có mấy lá, nhúng vào nước thuốc, rảy lên khắp mình con vật.

Quan Sơn Nguyệt đứng yên, xem hắn làm. Khi hắn rảy nước thuốc gần cạn bát, chàng cúi mình xuống nhìn vào đôi mắt của Minh Đà, đôi mắt đó mất hẳn cái vẻ lờ đờ, tinh thần con vật đã được khôi phục lại phần nào.

Xong công việc rồi, hán tử thở phào thốt:

– Bây giờ, chỉ còn để cho nó ngơi nghỉ một lúc, là chúng ta không còn lo ngại nữa.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Nó phải nghỉ như vậy, độ bao lâu?

Hán tử chớp mắt mấy lượt:

– Cứ theo y lý, thì Minh Đà phải nghỉ độ ba hôm, nhưng tại hạ thấy các vị có vẻ khẩn cấp quá, chừng như đang xúc tiến một việc gì quan trọng trong thời gian ngắn phải hoàn thành, thì sau một ngày, các vị có thể tiếp tục hành trình.

Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

– Đi gấp như vậy, chứng bịnh của nó có tái phát chăng?

Hán tử bất mãn vì câu hỏi đó, trầm gương mặt đáp:

– Từ bao lâu rồi, những con vật nào qua tay tại hạ chữa trị, đều mạnh luôn.

Chứng cũ không hề tái phát.

Quan Sơn Nguyệt cười vuốt:

– Đa tạ tiên sanh cứu mạng cho nó. Bây giờ, xin tiên sanh cho biết, tại hạ phải đền ơn tiên sanh bao nhiêu?

Hán tử cười nhẹ:

– Nếu chữa trị cho một con vật tầm thường, thì tại hạ chỉ lấy năm ba lượng thôi. Nhưng, Minh Đà là vật quý, ngày đi ngàn dặm, cái giá phải cao hơn, vậy tôn giá cứ liệu định!

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, nói:

– Ngàn lượng bạc, tiên sanh có chê rằng ít chăng?

Giang Phàm kêu lên:

– Chi mà nhiều thế? Tại sao?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Mạng sống của Minh Đà, ngang với mạng sống của tại hạ đó, cô nương!

Tại hạ với nó tương ý vào nhau qua nhiều năm tháng rồi, nó là một lão hữu của tại hạ, tuy không nói được tiếng người, nó vẫn hiểu cái ý của tại hạ như một tri kỷ!

Dù tôi phải trả cái giá cứu mạng nó hơn số đó, cũng chẳng quá đáng chút nào!

Chừng như hán tử có phần nào thông cảm, nên nghiêm giọng thốt:

– Tại hạ chẳng hề cầu mong quá phận, song các hạ đã nêu lên cái số rồi, thì tại hạ chẳng dám bất tuân! Không ngờ bỗng nhiên mà phát tài như thế nầy ...

Quan Sơn Nguyệt lột chiếc bao bố bên ngoài Độc Cước Kim Thần, đoạn cười lạnh, tiếp:

– Vì bận xuôi ngược mãi trên khắp nẻo đường, tại hạ cần thu gọn hành trang để tiện bề di chuyển, cho nên không mang theo bạc vàng vụn lẻ, có bao nhiêu vàng đều đánh lại thành cái hình nầy, vậy tiên sanh tùy tiện chặt lấy một đoạn.

Hán tử giật mình:

– Chặt nó? Tại hạ đâu có sẵn khí cụ, mà cũng chẳng có cân, làm sao bây giờ? Giả như có cách chặt nó, nhưng không cân thì biết thế nào là đúng số? Vậy tôn giá còn bao nhiêu vàng nơi mình, cứ trao cho tại hạ, dù có thiếu phần nào cũng chẳng sao.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, lạnh lùng nói:

– Không được! Tại hạ nói một là một, hai là hai, thà trao ra có thừa, tại hạ bằng lòng hơn là trả thiếu. Chiếc Kim Thần nầy, nặng một ngàn lẻ hai cân, tổng số là một vạn sáu ngàn lẻ ba mươi hai lượng. Tiên sanh cứ liệu xem phần nào suýt soát cái số do tại hạ đề nghị mà chặt, hơn chút ít chẳng sao.

Hán tử sững sờ. Giây lát sau, hắn thốt:

– Tôn giá không có vàng vụn lẻ, thì thôi vậy, cầm như tại hạ chữa không công cho con Minh Đà, lưu lại một chút nhân tình với một thân chủ lạ trong cơn bình thủy tương phùng.

Hắn quay mình, toan bước đi.

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh một tiếng, cử cao Kim Thần, từ trên giáng xuống đầu hắn.

Hắn dịch nhanh chân sang một bên, né tránh. Nhưng, chiếc rương bên hông của hắn bị Kim Thần chạm vào, vở tung. Những lọ, hủ rơi xuống đất, thuốc bột, thuốc hoàn, rơi rớt chung quanh chân hắn. Hắn biến sắc mặt, kêu lên:

– Tại hạ khổ công, tốn thuốc, đã chẳng lấy tiền, mà còn bị thiệt hại như thế nầy, tại sao các hạ đối xử tàn nhẫn với tại hạ chứ?

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Lưu tánh mạng ngươi lại đó, đền bù vào cái chỗ ngươi ám toán con vật của ta!

Hán tử càng biến sắc hơn trước, phóng chân chạy đi ngay.

Giang Phàm nhanh hơn, đã vọt mình tới, chận đầu hắn.

Trong cơn khẩn cấp, hán tử đánh ra một chưởng, nhưng Giang Phàm không xem ra gì, thản nhiên vươn tay điểm vào yếu huyệt nơi yết hầu của hắn, tay nàng đưa ra nhẹ nhàng, song lại rất nhanh.

Quan Sơn Nguyệt biết rõ là nàng hạ độc thủ, vội kêu lớn:

– Hãy để hắn sống sót, Giang cô nương!

Ngón tay của Giang Phàm còn cách yết hầu của hán tử chỉ trong gang tấc, nàng nghe Quan Sơn Nguyệt bảo thế, vội chuyển thế từ chỉ sang chưởng, rồi bàn tay đó xoay ngược lên, tát vào mặt hán tử. Cái thế tát của nàng không mạnh lắm, chừng như thủ pháp của nàng không cần dụng lực, dù vậy, hiệu dụng vô cùng, hán tử bị cú tát đó mất thăng bằng, chập chờn lùi lại bốn năm bước.

Dĩ nhiên, chưởng thế do hắn xuất phát, tấn công Giang Phàm, phải rơi vào khoảng không.

Giang Phàm đánh sau, thế đánh lại cải biến, như vậy mà vẫn trúng đích, đủ biết thủ pháp của nàng nhanh vô tưởng.

Trước kia, Quan Sơn Nguyệt không dám đặt niềm tin nơi nàng, bây giờ chàng nhận ra, nàng cũng là tay lợi hại lắm. Bất giác chàng thở phào.

Về phần hán tử, hắn chỉ đề phòng Quan Sơn Nguyệt thôi, chứ Giang Phàm thì hắn rất khinh thường, cho rằng bất quá nàng cũng chỉ là một nữ nhân, mà nữ nhân thì có gì đáng sợ đâu?

Trước sự phản công của Giang Phàm, hắn hết sức sợ hãi, sau khi lấy lại bình tĩnh, hắn vung cả hai tay vừa lướt tới vừa đánh luôn ra hai chưởng. Kình lực phát huy không quan trọng lắm, song ẩn ước trong gió chưởng có mùi tanh.

Giang Phàm cười hì hì, đứng nguyên tại chỗ, thản nhiên chờ đón chưởng kình của hắn. Nàng thốt:

– Ta xem ra, cái sở trường của ngươi, là dụng độc. Toàn thân ngươi đều độc cả, độc từ đầu óc, tâm tưởng, độc đến hành động, luôn gió chưởng của ngươi cũng có độc! Nhưng gặp ta rồi, chính ngươi mới là kẻ bị hại vì cái độc của ngươi!

Hán tử có vẻ không tin, cứ điều động song chưởng bay tới. Chưởng ảnh của hắn càng gần Giang Phàm, mùi tanh càng bốc nặng, điều đó chứng tỏ hắn có gia tăng công lực.

Giang Phàm vẫn bất động như thường. Nàng cứ để mặc cho gió chưởng quét ngang mình, cho chất độc trong gió nhiễm vào mình.

Gió chưởng qua ngang nàng, cuốn vút đi cho hết dư lực, Giang Phàm vẫn còn đứng nguyên tại chỗ, chất độc không gây một ảnh hưởng gì nơi nàng cả.

Hán tử biến sắc mặt lượt nữa. Cái sở trường của hắn đã vô hiệu rõ ràng thì hắn cầm chắc sự thất bại trong tay rồi.

Hắn đứng đờ ra đó, đôi chân như chôn sâu dưới đất, quên mất đi là phải chạy, bởi hắn còn lưu lại đó làm gì nữa?

Hắn gương tròn đôi mắt kinh khiếp nhìn Giang Phàm.

Quan Sơn Nguyệt cầm chiếc Độc Cước Kim Thần, bước tới, thốt:

– Bằng hữu! Ta tin rằng ngươi là một thuộc hạ của Tạ Linh Vận, trong Thiên Ma Giáo, bất quá từ trước đến nay, ta chưa có dịp gặp ngươi vậy thôi. Vậy ngươi nên cho ta biết tên họ đi!

Hán tử trầm lặng một lúc lâu, rồi buông gọn:

– Mã Bá Ưu!

Nghe hắn xưng danh, Quan Sơn Nguyệt phì cười:

– Cái danh rất phù hợp với sự thật! Ngày xưa, Bá Nhạc sành khoa xem tướng ngựa, ngựa quý gặp lão ta tỏ vẻ mầng rỡ, như hiền tài gặp minh chúa. Còn ngươi chuyên ám toán ngựa, lạc đà, những con thú gặp ngươi, con nào cũng rầu, cũng lo. Ngươi lấy cái tên Bá Ưu là phải!

Mã Bá Ưu thẹn quá hóa giận, cao giọng đáp:

– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi đừng hượm mình là cao thượng, như thánh, như thần, đối với con vật của ngươi, ta còn nương tay đấy nhé. Giả như ta quyết giết nó, thì nó làm sao sống sót được với ta, hơn nữa, khi nào ta lại tìm đến ngươi mà thảo luận mà chữa trị cho nó? Biết như thế để mà mầng, ngươi không nên oán trách ta mới hợp lý!

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Ta công nhận điều đó, con vật của ta rất thông linh, chẳng phải bất cứ ai cũng có thể hạ độc thủ nơi nó, ngươi làm được thì kể ra ngươi cũng là một tay khá lắm! Tuy nhiên, ngươi hạ độc rồi, lại tự hiến dâng sự chữa trị, thì mâu thuẫn quá rõ rệt, ngươi làm thế là có dụng ý gì?

Mã Bá Ưu cười lạnh:

– Giáo chủ có ước hẹn với ngươi ba hôm, sẽ gặp nhau tại một địa điểm, ngươi lại định đến nơi đó sớm hơn một ngày, tự nhiên ta phải có cách ngăn chận ngươi, cầm chân ngươi lại, không cho ngươi đến sớm.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Ngươi tưởng phương pháp đó làm chậm trễ được hành trình của ta sao?

Mã Bá Ưu cười nhẹ:

– Được hay không, ngươi đã thấy rồi đó, dù sao thì ngươi cũng biết là ta đã thành công, con Minh Đà của ngươi không thể nào di động trước ngày mai và như vậy là ngươi phải bỏ phí một ngày rồi. Ngươi có đến nơi, thời gian tròn vẹn, không sớm như ngươi muốn, mà cũng chẳng quá muộn để bỏ lỡ mất cuộc ước hội.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Nếu ta lưu con Minh Đà lại đây, ta mua ngựa mà đi, thì cái kế hoạch của ngươi chẳng mang lại một kết quả nào.

Mã Bá Ưu lắc đầu:

– Ta biết, ngươi không thể làm như vậy, đã là Minh Đà Lệnh Chủ mà mất con Minh Đà, thì ngươi còn cái thể thống gì nữa chứ? Mất con Minh Đà, chẳng bao giờ ngươi dám chường mặt trên giang hồ, điều đó thì ai ai cũng hiểu như vậy.

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Ta đã quyết tâm diệt trừ Thiên Ma Giáo, nhằm mục đích đó, ta có thể dùng mọi thủ đoạn, thì vấn đề thân phận, danh dự không còn nữa, nếu ngươi tưởng rằng ta đắn đo, cân nhắc thì đúng là lầm lớn vậy!

Mã Bá Ưu sững sờ. Giây lát sau, hắn cười âm trầm thốt:

– Cứ kể như ta thất bại trong phần việc giao phó đi, cũng chưa chắc gì ngươi được an toàn mà đi đến nơi đến chốn, kịp thời gian ước muốn. Bởi dọc đường, còn rất nhiều người khác chờ đợi ngươi, làm cái việc chậm trễ ngươi như ta.

Quan Sơn Nguyệt không nao núng, buông giọng sang sảng:

– Thế thì càng hay, ta nhân dịp nầy, đấu trí với Tạ Linh Vận.

Chàng day qua Giang Phàm, bảo:

– Giang cô nương chế ngự hắn đi, tại hạ muốn cho hắn nếm mọi đau khổ trên đời, cho những kẻ chờ đợi ta ở phía trước kia, mở to mắt nhìn vào gương của hắn mà tưởng tượng trước cái lối giáo huấn của tại hạ dành cho chúng. Tại hạ muốn thấy can đảm của bọn thuộc hạ Tạ Linh Vận to đến đâu!

Giang Phàm gật đầu, bước về phía Mã Bá Ưu.

Mã Bá Ưu biến sắc mặt, cấp tốc xuất thủ. Hắn vươn ngón tay điểm vào sườn Giang Phàm.

Giang Phàm cười nhẹ, không làm một phản ứng nào.

Mã Bá Ưu trong cơn cấp bách, vận dụng công lực đúng mười thành, ngón tay của hắn vừa chạm vào y phục của Giang Phàm, bỗng hắn nhảy dựng lên.

Nơi chỗ hắn định điểm vào, là chiếc túi, trong túi có con rắn độc. Con rắn nghe tiếng gió, liền thò đầu ra ngoài túi, đúng lúc ngón tay hắn điểm vào, nó há mồm ngoạm lấy ngón tay đó.

Con vật thuộc loại thông linh, nó nghe Quan Sơn Nguyệt bảo Giang Phàm chỉ chế ngự Mã Bá Ưu thôi, nên nó ngoạm mà không nhả đủ lượng độc vào ngón tay của hắn. Nhờ thế, Mã Bá Ưu không chết ngay tức khắc.

Nhảy dựng lên, Mã Bá Ưu rơi xuống và đứng không vững, phải nhào, nhào rồi lăn lộn, trừ chiếc đầu ra, phần còn lại của cơ thể hắn, từ cổ xuống chân, sưng phù lên. Trong thoáng mắt, thân hình hắn phồng lên như quả cầu. Dĩ nhiên, hắn phải đau đớn không tưởng nổi!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười thốt:

– Ta mang ngươi theo dọc đường, đồng bọn của ngươi chờ đợi ta, dù có quáng manh cũng trông thấy cái quả cầu thịt, thấy là chúng phải hiểu cái hại chờ ngược lại chúng, nếu chúng dám hạ thủ đoạn gì đối với ta!

Chàng cười lớn hơn một chút, tiếp:

– Thôi, mình lên đường chứ, bằng hữu! Dần đà mãi, đã mất của tại hạ khá nhiều thời giờ rồi đó nhé! Cố gắng mà chịu đựng vậy, bằng hữu ơi!

Minh Đà đang nằm im trên mặt đất, với dáng ủ rũ thảm thương lúc đó, vụt đứng lên. Nó mạnh mẽ như thường.

Tuy đau đớn vô cùng, trước cảnh đó, Mã Bá Ưu không khỏi kinh ngạc, trố mắt nhìn con Minh Đà, như không tin là nó chẳng việc gì.

Quan Sơn Nguyệt cười mỉa, tiếp:

– Con vật của Minh Đà Lệnh Chủ là thần vật, bọn tiểu quỷ các ngươi làm gì hại nó được, nó vẫn an toàn, trái ngược lại ngươi tiếp thọ cái khổ! Ngươi hại nó một, ngược lại ngươi phải lãnh khổ mười. Phàm nợ vay thì luôn luôn trả nặng hơn vốn! Cái đạo lý đó, nếu ngươi chẳng hiểu, thì đúng là ngu ngốc nhất đời.

Day qua Giang Phàm, chàng tiếp:

– Chúng ta đi, cô nương!

Chàng chụp áo Mã Bá Ưu, mang hắn đến cạnh Minh Đà và lấy giây cột hắn trên cổ con thú, đoạn nhặt những vật đã tháo gỡ ra trước đó cho Mã Bá Ưu chữa trị nó, đặt trở lại trên lưng nó xong rồi chàng và Giang Phàm nhảy lên mình nó.

Cuộc hành trình hướng về Thiên Xà Cốc lại tiếp tục.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 52

Chí Trai Tình Gái

Đoàn lữ hành hai người một thú lại thêm một quái vật nữa, phải gọi là quái vật vì con người vừa hiệp đoàn, có thân hình phồng tròn như một quả bí đao, song chiếc đầu thì giữ nguyên hình trạng.

Người vừa hiệp đoàn một cách bất đắc dĩ, hay đúng hơn, bất khả kháng, chính là Mã Bá Ưu, và vật là Minh Đà, người là một trai anh tuấn Quan Sơn Nguyệt với một gái diễm kiều Giang Phàm.

Cái đích của hành trình, dĩ nhiên là Thiên Xà Cốc.

Điều đáng lấy làm lạ, là cái mâu thuẫn rõ rệt giữa bọn đồng hành, thiếu nữ diễm kiều thì cười cười nói nói, luôn luôn biểu hiện vẻ yêu đời, còn quái vật bị cột trên cổ lạc đà thì liền miệng rên ư ử.

Đi như thế với sự mâu thuẫn rõ rệt, hẳn là phải gợi tính hiếu kỳ của khách lữ hành, hoặc xuôi hoặc ngược trên trục giao thông, nhưng dọc đường, họ gặp rất nhiều người, đơn độc có, hiệp đoàn có, mà chẳng một ai dám gây phiền phức gì cho họ. Bởi, ngày nay thinh danh của Quan Sơn Nguyệt quá cao, dù cho người đời chưa từng biết mặt chàng, trông thấy con Minh Đà, và chiếc Độc Cước Kim Thần, cũng biết ngay thân phận của chàng. Do đó chàng bình yên suốt khoảng đường dài.

Người hiếu kỳ không dám gây phiền phức cho chàng đã đành, còn cái bọn mai phục dọc đường, chờ chàng đi ngang qua mà hạ thủ đoạn, bọn đó ở đâu sao chẳng thấy xuất hiện ngăn trở? Chẳng lẽ Mã Bá Ưu nói ngoa?

Lộ trình dần dần thu hẹp, Thiên Xà Cốc gần kề. Bọn Quan Sơn Nguyệt sắp sửa đến sơn thôn mà họ định dừng chân lại.

Minh Đà chở một lúc ba người, cộng thêm chiếc Độc Cước Kim Thần, vẫn chạy đều đều, không có vẻ gì chứng tỏ là mệt nhọc cả.

Tuy nhiên, Giang Phàm đã mến nó từ hai ngày qua, nghĩ là nên bớt gánh nặng cho nó phần nào, nên đề nghị cùng Quan Sơn Nguyệt:

– Quan đại ca, mình sắp đến nơi rồi, tôi tưởng có mang quái vật này theo cũng chẳng ích gì, tốt hơn mình quăng hắn ta xuống tại đây, cho Minh Đà được nhẹ nhàng.

Nàng bắt đầu quyến luyến Quan Sơn Nguyệt sau mấy hôm chung sống với nhau, nên không dùng tiếng công tử xưng hô với chàng nữa.

Quan Sơn Nguyệt đồng ý, mở dây cột, nắm lấy Mã Bá Ưu, quăng xuống bụi cỏ bên vệ đường.

Chàng quăng khá mạnh, làm Mã Bá Ưu chạm đất đau quá chừng, hắn rên nghe thê thảm hết sức.

Giang Phàm bất nhẫn, nhảy xuống, lấy trong mình ra một lọ thuốc, bỏ một hoàn vào miệng hắn, thốt:

– Luận về hành vi của ngươi, dù ngươi có chết cũng chưa bù với tội ác, song ta không nỡ để cho ngươi chết dọc đường sá, vì từ tâm ta bố thí cho ngươi một hoàn thuốc đó, trong nửa khắc nữa, thuốc ngấm, ngươi có thể đi đứng được, vậy về nhà rồi, hãy suy gẫm việc mình làm, nếu không chừa tánh cũ, thì ít nhất cũng nên tránh gặp lại ta.

Viên thuốc vừa qua khỏi cổ, Mã Bá Ưu cảm thấy có công hiệu ngay, thân hình hắn dần dần xẹp lại, tinh thần lại từ từ lên. Hắn nhếch nụ cười khổ, cất tiếng:

– Quan đại hiệp! Giang tiểu thơ! Tại hạ xin đa tạ tấm lòng đại lượng của nhị vị, nhưng nhị vị nên giết luôn tại hạ đi là hơn. Chứ nhị vị buông tha tại hạ rồi, chắc gì Giáo chủ sẽ phóng thích cho tại hạ?

Quan Sơn Nguyệt dửng cao đôi mày:

– Trong nửa khắc nữa, ngươi sẽ đi đứng được, công lực của ngươi sẽ được phục hồi như cũ, ngươi không tự bảo vệ được sao? Huống chi, Tạ Linh Vận làm gì có thừa thì giờ, tìm ngươi mà hạ thủ theo cái tâm tiểu nhân của y?

Mã Bá Ưu thở dài:

– Tạm thời, Giáo chủ không tìm tại hạ, nhưng còn sau nầy thì sao? Tại hạ có trốn thoát khỏi tay Giáo chủ được chăng? Đại hiệp hãy tưởng tượng một số cực hình mà Giáo chủ sẽ dành cho tại hạ khi rơi vào tay Giáo chủ sau nầy!

Giang Phàm lấy làm lạ:

– Tạ Linh Vận bảo ngươi ám toán bọn ta, ngươi tuân hành lịnh của hắn rồi, bất quá vì ngươi kém tài, nên không thành công, chứ nào phải ngươi thông đồng với đối phương mà không tận tâm tận lực thi hành nhiệm vụ? Chẳng lẽ Tạ Linh Vận bắt tội ngươi?

Mã Bá Ưu lại thở dài:

– Giang tiểu thơ ơi! Tiểu thơ làm gì biết được quy củ của Thiên Ma Giáo!

Lãnh một sứ mạng rồi, giáo đồ phải thi hành, nhất định phải thành công, chứ không được thất bại. Thành công thì tưởng thưởng trọng hậu, thất bại thì chịu hình phạt nặng nề! Không có vấn đề cứu xét thuộc hạ cố gắng sức mình hay chểnh mảng công tác. Hai vị đến đúng hạn kỳ ước muốn của hai vị, nghĩa là đến sớm một ngày, như vậy là tại hạ thất bại rồi! Giờ đây, hình phạt đang chờ tại hạ, thứ hình phạt khốc liệt không tưởng nổi!

Dừng lại một chút, hắn tiếp:

– Tuy nhiên, trước khi thọ nhận hình phạt, bọn thuộc hạ cũng được Giáo chủ chấp thuận cho tự xử, trừ khi nào người vi phạm quy củ không tự xử, thì Giáo chủ sẽ ra lịnh truy nã, bắt được rồi, sẽ áp dụng cực hình trừng trị.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Tạ Linh Vận chấp thuận cho các ngươi tự xử như thế nào?

Mã Bá Ưu đáp:

– Lúc tiếp nhận sứ mạng, tại hạ cũng tiếp nhận luôn một hoàn thuốc độc, nếu không hoàn thành công tác, là phải uống hoàn thuốc độc mà chết.

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Tại sao ngươi không tự sát ngay từ lúc đầu biết là thất bại rồi?

Mã Bá Ưu cúi đầu, đáp:

– Bị con độc xà của Giang cô nương ngoạm trúng, tại hạ bất động liền, sau đó đại hiệp lại cột cứng tại hạ nơi cổ lạc đà, tại hạ làm sao lấy được hoàn thuốc mà bỏ vào miệng để tự sát?

Quan Sơn Nguyệt mỉa mai:

– Muốn sống thì khó, chứ muốn chết là việc hết sức dễ dàng, con người ta có biết bao nhiêu cách tự sát, nếu quyết tâm thì bằng cách nầy hoặc cách khác, vẫn chết được như thường, cần gì chỉ bằng vào một hoàn thuốc độc duy nhất?

Mã Bá Ưu thở dài:

– Đại hiệp nói có lý lắm, song con người trên cõi thế, có nhiều sự tình mà tình lý không phương giải thích, lúc bị chế ngự, tại hạ nào sợ chết, nhưng khổ nỗi mình không cử động được! Bây giờ, tay chân mó máy được rồi, thì tại hạ không muốn chết! Không muốn chết, mà chắc chắn là sẽ phải chết, nghĩ ra còn khổ hơn muốn chết mà không chết được!

Giang Phàm nghĩ rằng, hắn nói đúng cái tâm tưởng của hắn hiện tại.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Bây giờ, ngươi định làm sao đây?

Mã Bá Ưu lại thở dài:

– Tại hạ không còn dõng khí để nghĩ đến việc tự sát nữa, mà lại cũng không đủ can đảm tiếp thọ hình phạt, hơn nữa cũng chẳng có bản lãnh kháng cự Giáo chủ! Chỉ còn có cách là ... van cầu đại hiệp xuống tay, sát diệt tại hạ ngay bây giờ ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không được! Ta đã buông tha ngươi rồi, chẳng khi nào ta lại giết ngươi!

Mã Bá Ưu chớp mắt:

– Thế thì tại hạ xin đại hiệp mang tại hạ theo với, ở bên cạnh đại hiệp, tại hạ không còn sợ người trong Thiên Ma Giáo giở bất cứ thủ đoạn nào hãm hại!

Nếu không thì, sau khi hai vị đi rồi, chắc chắn là sẽ có người trong bổn giáo đến bắt tại hạ.

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Nói nhảm! Chúng ở đâu đây mà xuất hiện gấp thế? Nếu có, tại sao ta không thấy?

Mã Bá Ưu đáp:

– Chúng không chường mặt thì đại hiệp làm sao thấy được? Phải biết, dọc theo con đường đến đây, ít nhất cũng có độ trăm người đón chờ, và tại hạ tin rằng họ có theo dõi đến đây!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Làm gì có người theo dõi! Ngươi khéo lo sợ hão huyền!

Mã Bá Ưu quả quyết:

– Tại hạ không nói ngoa đâu! Giáo chủ đã phái số người đó, mai phục dọc đường, với nhiệm vụ ngăn trở các vị, làm chậm trễ cuộc hành trình, tại hạ hiểu rõ điều đó lắm. Những người đó, kém vũ công, họ không dám xuất hiện đương đầu với đại hiệp, họ chỉ nấp trong bóng tối, âm thầm thi hành thủ đoạn. Song, họ thấy tại hạ cùng đi với đại hiệp, họ đinh ninh là tại hạ đã đầu hàng đại hiệp rồi, và có thể tại hạ tố cáo với đại hiệp những mưu mô của họ. Do đó, họ không dám hạ thủ.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Nói như ngươi, thì nếu ta mang ngươi theo bên cạnh ta, thì ta sẽ tránh được biết bao nhiêu điều phiền phức! Tuy nhiên, ta nào có sợ những phiền phức đó, không sợ thì ta có cần gì mà tìm cách ngăn chận những phiền phức đó đến với ta?

Mã Bá Ưu thốt:

– Đành rằng đại hiệp không sợ phiền phức, những gặp nhiều trở ngại giữa đường, sẽ thành một thời gian chậm trễ quan trọng cho đại hiệp. Và đó chính là mục đích của Giáo chủ, chứ đâu cần gì những người đó đánh bại đại hiệp? Bây giờ, đến đây rồi, các vị tranh thủ được một khoảng thời gian trên một ngày dài, khoảng thời gian đó chính tại hạ gián tiếp tranh thủ cho hai vị đó, vì có mặt tại hạ bên cánh các vị, mọi phiền phức đều tiêu tan ngay từ trong trứng, các vị được bình an thuận lợi xúc tiến hành trình.

Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cười:

– Như vậy là bọn ta phải cảm tạ ngươi!

Mã Bá Ưu cười khổ:

– Tuy tại hạ không đầu hàng đại hiệp, người trong Thiên Ma Giáo vẫn tin là tại hạ đã đầu hàng rồi, bởi tình thế như vậy, nên tại hạ không còn cách nào khác hơn là đầu hàng luôn với đại hiệp!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc:

– Ta không sá chi cái việc ngươi đầu hàng hay không đầu hàng, bất quá thấy ngươi trong tình thế đó, ta bảo vệ ngươi được an toàn vậy thôi. Nhưng không may cho ngươi, là ta còn nhiều sự vụ cần hoàn thành ...

Mã Bá Ưu hấp tấp thốt:

– Thế thì đại hiệp cho tại hạ theo với, dù đại hiệp có cột trên hay treo dưới cổ Minh Đà, cũng chẳng sao, thà như vậy mà tại hạ vững tâm hơn là đại hiệp bỏ tại hạ ở đây một mình ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không được! Hiện tại ta cần đến một địa phương, mang ngươi theo thì phiền lụy quá. Giả như ta cần tiếp xúc với bọn người của Tạ Linh Vận, thì trong trường hợp đó, chắc gì ngươi được an toàn?

Mã Bá Ưu suýt bật khóc. Hắn van cầu tha thiết:

– Thế thì đại hiệp nên xuống phước giết tại hạ đi, nếu có phải giết, tại hạ chịu chết nơi tay đại hiệp hơn là bị rơi vào tay người trong Thiên Ma Giáo. Chết bao giờ cũng sướng hơn là tiếp nhận hình phạt sống của họ!

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, day qua Giang Phàm hỏi:

– Đến lúc nào hắn mới khôi phục công lực được như cũ, Giang cô nương?

Giang Phàm đáp:

– Một khắc thôi! Nếu có Tiểu Ngọc ngoạm trúng mạch hắn thì hắn chết gấp là cái chắc. Và trong trường hợp đó, tôi không có cách gì cứu hắn được. Đại ca biết không, con Tiểu Ngọc biết nghe tiếng người, nó nghe đại ca nói với tôi như vậy, nên nó không cắn chết hắn đấy. Chất độc của nó chỉ cắn phớt qua lớp da ở ngoài, thành ra hắn sưng phù mình, hắn uống viên thuốc của tôi rồi, chất độc được giải trừ, hắn sẽ lấy lại vóc dáng như cũ.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Thế là hay!

Chàng trở quay Mã Bá Ưu, tiếp:

– Ta tin ngươi, trong lúc vô tình, ngươi đã giúp ta tránh được những phiền phức dọc đường. Bây giờ, để đáp lại cái điều mà ngươi đã giúp ta, ta lưu lại đây trong một khắc nữa, chờ ngươi khôi phục nguyên trạng rồi, ngươi đi, ta đi, mỗi người mỗi ngả, trong tương lai, ngươi gặp rủi hay may, thì đó là do mạng vận của ngươi ...

Mã Bá Ưu lộ vẻ bất mãn:

– Thiên Ma Giáo nhất định là không dung thứ cho tại hạ rồi, mà trong thiên hạ ngày nay, trừ Quan đại hiệp ra, còn ai dám chống đối giáo phái đó? Đại hiệp muốn cứu một người, xin cứu cho vẹn toàn, chứ chữa trị cho tại hạ lành mạnh rồi, lại buông thả tại hạ trong màng lưới của Thiên Ma Giáo, thì thà đại hiệp giết đi còn hơn!

Quan Sơn Nguyệt chính sắc mặt:

– Những sự phiền phức đó, chính ngươi tự tạo cho ngươi, bây giờ ngươi quyết ăn vạ với ta, là ăn vạ làm sao được? Ai bảo ngươi ngày trước mù quáng vì lợi lộc mà cam tâm gia nhập vào cái giáo phái ma quái đó chứ? Dù muốn dù không ngươi vẫn là một kẻ đối lập của ta, ngươi đã hãm hại ta, mà ta đối xử với ngươi như vậy, là đẹp lắm rồi đó. Đừng đòi hỏi gì hơn.

Mã Bá Ưu cười khổ:

– Đại hiệp trách cũng phải! Nhưng đại hiệp có biết đâu, trước kia, ngoài Thiên Ma Giáo ra, tại hạ chẳng còn một nơi nào dung thân.

Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:

– Ngươi có nói gì cũng vô ích, trong thiên hạ chẳng thiếu chi người tốt, trong thiên hạ, những người tốt từng tỏ ra chống đối Thiên Ma Giáo cũng chẳng thiếu, có thể là cái tài của họ còn kém xa Tạ Linh Vận, song họ có sợ Tạ Linh Vận đâu?

Và Thiên Ma Giáo đã làm gì được họ chưa? Ta đơn cử ra một vài trường hợp, như Lý Trại Hồng, như Nhàn Du Nhất u, họ có ngán chi Giáo chủ của ngươi? Con người ta, muốn đứng vững, phải lập chí kiên cường, ngươi cứ ỷ lại vào ngoại lực, thì khi nào thành một con người xứng đáng với cái nghĩa của tiếng «người»?

Mã Bá Ưu thở dài:

– Những người đó có cảnh ngộ khác hơn tại hạ. Trong Long Hoa Hội, họ là những nhân vật tên tuổi, còn tại hạ bất quá chỉ là một gã biết được cái thuật trị bịnh thú vật, được Kỳ Hạo đem về, chăm sóc cho con Hắc Đà của y, do đó mà tại hạ vào luôn Thiên Ma Giáo ...

Hắn dừng lại một chút, đoạn tiếp:

– Như Lý Trại Hồng, như Nhàn Du Nhất u, họ là những người có địa vị cao trong Long Hoa Hội, Giáo chủ phải đố kỵ ít nhiều, chứ tại hạ thì chỉ là một kẻ tay sai, thân phận quá thấp, sanh mạng ở trong tay người, mà tài thì chẳng có gì đáng kể, làm sao tại hạ dám phản kháng?

Quan Sơn Nguyệt nhìn thẳng vào mặt hắn:

– Chính ngươi săn sóc con Hắc Đà của Kỳ Hạo?

Mã Bá Ưu gật đầu:

– Trong cuộc tranh chấp với đại hiệp, Kỳ Hạo muốn có một con vật tương xứng, khả dĩ sánh với Minh Đà của đại hiệp, hắn bảo tại hạ phải tìm cho được một con lạc đà vừa ý hắn. Làm sao tại hạ tìm cho ra một con vật có giá trị ngang với Minh Đà? Miễn cưỡng lắm, cố gắng lắm, tại hạ mới tìm được con Hắc Đà, song Kỳ Hạo chưa bằng lòng, và do sự bất mãn của hắn mà có việc ngày nay ...

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Ngươi có cái thuật đó, ta muốn thực nghiệm xem kiến thức của ngươi như thế nào. Vậy ngươi có thể kể lai lịch của con Minh Đà chăng? Năm nay nó được bao nhiêu tuổi? Nó có những đặc điểm gì?

Mã Bá Ưu sáng mắt lên, thao thao bất tuyệt về sở trường của hắn:

– Minh Đà sanh tại Tây Vực, thuộc giống hi hữu, theo truyền thuyết thì tổ tông của nó là Thần Đà, giao hợp với lạc đà vùng hoang dã, mà lưu giống lại.

Giống này sanh sản rất ít, mỗi lớp chỉ có một con thôi, nó đi được ngàn dặm đường mỗi ngày, leo núi như lướt đất bằng, chạy trên cát như thuyền trôi sông lặng. Nhờ lịnh sư là Độc Cô Minh huấn luyện nó nghe được tiếng người và cũng học được mấy chiêu thức tự vệ. Rất tiếc là đến nay nó chưa hề giao hợp với con lạc đà nào, chỉ sợ rồi đây cái giống của nó phải bị tiêu diệt.

Quan Sơn Nguyệt chú ý:

– Tại sao nó không chọn một con lạc đà nào đó, giao hợp để truyền giống?

Mã Bá Ưu lắc đầu:

– Điều đó, lịnh sư cũng có nghĩ đến, song nó không chịu tiếp cận với những lạc đà tầm thường. Trong thiên hạ ngày nay, hoặc giả chỉ có con Hắc Đà của Kỳ Hạo là khả dĩ làm cho Minh Đà chú ý thôi. Nhưng, con Hắc Đà đó đâu còn nữa.

Kỳ Hạo đã giết chết rồi.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Ngươi không thể tìm ra con lạc đà khác ngoài con Hắc Đà của Kỳ Hạo sao?

Mã Bá Ưu thở dài:

– Tìm thì được, song khó mà tìm một con vật ngang giá trị với Hắc Đà của Kỳ Hạo, nói gì con Minh Đà của đại hiệp, vật thì khả dĩ có, còn cơ hội thì kể như không rồi!

Quan Sơn Nguyệt buông giọng khẳng khái:

– Chỉ cần ngươi tìm được một lạc đà khả dĩ phối hợp với Minh Đà, là ta cam kết bảo vệ ngươi an toàn, không để người trong Thiên Ma Giáo hãm hại ngươi ...

Mã Bá Ưu lộ vẻ mầng:

– Nếu đại hiệp sẵn sàng như vậy, thì tại hạ phải cố gắng giúp đại hiệp được mãn nguyện. Tại hạ không tin là con vật như vậy lại tuyệt giống, bằng cớ là cái giống thần vật đó còn lưu truyền đến ngày nay thì chẳng lẽ đến cái thế hệ nó rồi, lại chấm dứt sao?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc đoạn dẫn con Minh Đà đến gần Mã Bá Ưu, rồi lấy chiếc Độc Cước Kim Thần xuống, kế đó lại lấy trong mình ra chiếc Minh Đà Lịnh và một quyển sách mỏng, chàng đặt tất cả những vật đó bên cạnh Mã Bá Ưu.

Sau cùng, chàng chỉnh nghiêm thần sắc, đến trước mặt Mã Bá Ưu lạy một lạy, thốt giọng thành khẩn:

– Mã tiên sanh! Những gì đã qua xin tiên sanh bỏ đi cho, tại hạ nhìn nhận là mình đắc tội lớn lao với tiên sanh. Những vật này tại hạ xin giao hết cho tiên sanh ...

Lúc đó công lực của Mã Bá Ưu đã khôi phục phần lớn, hắn đã cử động được rồi, thấy Quan Sơn Nguyệt làm cái điều ngoài chỗ tưởng của hắn, hắn giật bắn mình, vụt đứng lên, tránh qua một bên, đồng thời hỏi:

– Quan đại hiệp làm cái chi long trọng thế?

Quan Sơn Nguyệt vẫn giữ vẻ trang nghiêm:

– Ngày trước, gia sư từng lo ngại Minh Đà tuyệt hậu, cho nên người nghĩ rằng tại hạ là Lịnh Chủ Minh Đà cuối cùng, song tại hạ không tin như vậy. Tại hạ âm thầm chuẩn bị, đem sở học do gia sư truyền dạy, lần lượt ghi chú vào một quyển tập, đó là quyển nầy đây. Còn Độc Cước Kim Thần là vũ khí độc môn của Minh Đà Lệnh Chủ, tại hạ xin giao hết cho tiên sanh, như thế là Minh Đà vẫn còn mãi mãi trên đời, dù tại hạ ...

Mã Bá Ưu khoát tay toan nói, nhưng Quan Sơn Nguyệt chận lại, tiếp luôn:

– Tạ Linh Vận ước hội với tại hạ là sẽ gặp nhau tại Thiên Xà Cốc, trong chuyến đi nầy, chắc chắn là dữ nhiều lành ít, giả như tại hạ có bề gì, thì tiên sanh nhận lãnh con Minh Đà, cùng những vật đó, trước hết làm cách nào lưu giống Minh Đà, sau tìm một người xứng đáng, có thể thừa kế ngôi vị Lịnh Chủ, duy trì môn phái của tại hạ. Quyển ghi chú vũ công nầy, tiên sanh cứ nghiên cứu, nó sẽ giúp ích tiên sanh nhiều, trong khi chờ đợi tìm một người kế thừa cho tại hạ.

Mã Bá Ưu hoang mang cực độ, hấp tấp thốt:

– Lịnh Chủ đang hồi cường kiện, không nên nói đến hậu sự như vậy! Chắc chi Tạ Linh Vận làm vì được Lịnh Chủ mà Lịnh Chủ phải lo xa? Vả lại, điều ủy thác của Lịnh Chủ rất trọng đại, tại hạ tự xét mình, không đủ sức tiếp nhận.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Mong tiên sanh cố gắng, tại hạ ủy thác tiên sanh một việc, biết rằng việc rất trọng đại, song nếu tiên sanh hành sự cẩn thận một chút, thiết tưởng chẳng đến đổi nào đâu. Tấc lòng thành thật của tại hạ, chẳng lẽ tiên sanh nở phụ sao?

Thân nầy dù mất đi, chẳng có nghĩa gì nhưng nhất định là Minh Đà Lệnh phải trường tồn trong vũ lâm.

Dừng lại một chút, chàng tiếp:

– Giả như mọi diễn tiến trong tương lai không xuôi thuận như chúng ta dự đoán hôm nay, thì âu đó là cái số, con người không ai cãi số được, tiên sanh ạ.

Vậy tiên sanh đừng thắc mắc.

Mã Bá Ưu khích động vô cùng. Hắn những sững Quan Sơn Nguyệt, một lúc sau, hỏi:

– Quan đại hiệp tín nhiệm tại hạ đến thế à?

Quan Sơn Nguyệt cười lớn:

– Phàm ai am tường cái thuật quan sát thú vật, tất phải có lòng trân quý những con vật báu, tại hạ tin rằng tiên sanh không hủy hoại Minh Đà đâu! Tại hạ đặt trọn hy vọng nơi tiên sanh!

Mã Bá Ưu sững sờ một lúc:

– Chúng ta vừa rồi, là những kẻ tử đối lập ...

Quan Sơn Nguyệt chận lời:

– Nhưng hiện tại là đôi bằng hữu. Có đánh nhau mới biết lòng nhau, mới đổi thù ra thân.

Mã Bá Ưu toan nói tiếp, Quan Sơn Nguyệt đã đoán được ý tứ của hắn, điểm một nụ cười, chận luôn:

– Tiên sanh đừng lo ngại bọn Thiên Ma Giáo gây phiền nhiễu trong những ngày sắp tới, khi nào công lực được khôi phục hoàn toàn, tiên sanh cỡi con Minh Đà nầy mà đi, nó thừa hiểu địa phương nào nguy hiểm, địa phương nào an toàn, nó sẽ đưa tiên sanh đến chỗ an toàn, tránh nơi nguy hiểm. Tiên sanh cứ ở đó, giả như trong chiến dịch tảo trừ Thiên Ma Giáo, tại hạ thành công, thì tại hạ đến đó tìm lại tiên sanh. Nếu bất hạnh, tại hạ mai một rồi, tiên sanh nên nối tiếp tại hạ, làm vị Lịnh Chủ Minh Đà Lệnh đời thứ ba.

Mã Bá Ưu suy nghĩ một chút, rồi nói:

– Tại hạ xin tận lực thi hành sự ủy thác của đại hiệp, nhưng dù sao thì tại hạ cũng chẳng an tâm, bởi người trong Thiên Ma Giáo rất đông, rải rác khắp bốn phương trời. Chắc gì tại hạ ẩn tránh nổi tai mắt của bọn chúng?

Quan Sơn Nguyệt trấn an hắn:

– Tiên sanh không nên lo ngại. Chỉ cần tại hạ ở tại đây, là Tạ Linh Vận sẽ huy vận toàn lực lượng tập trung quanh tại hạ và dĩ nhiên hắn sẽ tuyển chọn những cao thủ để sung vào lực lượng đó, còn thừa những kẻ khác thì tiên sanh đối phó dễ dàng. Huống chi, còn có con Minh Đà, nó sẽ giúp tiên sanh phần nào, miễn tiên sanh đừng rời lưng nó là được.

Mã Bá Ưu không nói gì nữa, nhắm đôi mắt lại, trầm tư, mà cũng để dưỡng thần.

Minh Đà biết sắp phải ly khai chủ nhân, cứ quanh quẩn bên mình Quan Sơn Nguyệt, buông tiếng ư ử mãi, đôi mắt nó ẩn ướt có lệ thảm.

Quan Sơn Nguyệt nghe cay ở mũi, không dằn được cơn xúc động dâng trào, chàng khóc. Chàng khóc, nhưng miệng lại điểm nụ cười, tay vuốt ve con Minh Đà, thốt:

– Lão bằng hữu ơi! Nghe ta nói, ngươi đã hiểu tâm tính của ta chứ! Ta có cách nào khác hơn để giải quyết sự việc, hở lão bằng hữu!

Minh Đà gật gật đầu, đổ lệ ròng lòng.

Quan Sơn Nguyệt vỗ về nó:

– Can đảm lên đi chứ, lão bằng hữu! Biết đâu chúng ta lại chẳng có lúc gặp nhau trong tương lai? Ngươi làm như chúng ta biệt ly vĩnh cửu không bằng!

Ngươi bi ai như vậy, có khác nào ngươi cho rằng ta phải chết trong cuộc chạm trán với Tạ Linh Vận sắp tới đây? Bởi chỉ khi nào ta chết thì cuộc tạm biệt hôm nay mới trở thành vĩnh viễn. Lịnh Chủ Minh Đà có can đảm, thì Minh Đà cũng phải có can đảm, cho tương xứng với nhau!

Minh Đà lắc mạnh chiếc đầu, cho mấy hạt lệ còn vương đọng rơi xuống cát.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, tiếp:

– Như vậy là phải đó! Ta mong Mã tiên sanh tìm được cho ngươi một bạn phối hợp, sau nầy, ngươi có kẻ nối dòng, lúc đó thì ta sẽ uống mầng ngươi mấy chén rượu.

Minh Đà lắc đầu, lần nầy không phải để rảy lệ, mà là để phản đối cái ý nghĩ của Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:

– Tại sao? Ngươi muốn tuyệt tự à?

Minh Đà lại lắc đầu, rồi lấy chân trước vẽ lên mặt đất mấy chữ:

«Đợi Lịnh Chủ!» Quan Sơn Nguyệt cười vang:

– Đợi ta làm gì? Ta có giúp ngươi sanh hạ tiểu lạc đà được đâu?

Minh Đà rít lên mấy tiếng ư ử, tỏ sắc giận.

Quan Sơn Nguyệt vội an ủi:

– Lão bằng hữu, giận hờn làm chi, ta nói đùa đấy mà, ta khuyên ngươi nên nghĩ đến việc kế tự, cho Minh Đà Lệnh mãi mãi còn vang danh trong thiên hạ!

Minh Đà lại lắc đầu, rồi dùng chân trước viết tiếp theo mấy chữ cũ:

«Sanh hạ một đứa con ...» Quan Sơn Nguyệt lẩm nhẩm mấy chữ đó:

– Đợi Lịnh Chủ sanh hạ một đứa con ... Ý tứ gì thế?

Chàng hỏi, vừa hỏi xong liền thức ngộ ý tứ của Minh Đà, chàng bật cười ha hả:

– Hay! Ngươi sanh tiểu lạc đà, ta sanh tiểu hài tử! Chúng nó nối dõi chúng ta! Lão bằng hữu ơi! Ta sẽ cố gắng thực hiện niềm hy vọng của ngươi. Tuy nhiên, còn cần phải có may mắn, cái may mắn đó giúp ta toàn thắng, ta và ngươi tiếp tục xuôi ngược khắp sông hồ, hành hiệp cứu đời.

Minh Đà hí lên, tỏ vẻ vui, rồi viết:

«Sướng!» Quan Sơn Nguyệt phì cười:

– Muốn được vậy, thì bây giờ đây, chúng ta phải tìm bạn chứ! Không có đối tượng thì sanh hạ cái giống gì cho?

Minh Đà lại vẽ chữ:

«Nỗ lực!» Lỗ mũi của nó phồng lên, cánh mũi nhích động mạnh, chứng tỏ nó hoan hỉ phi thường.

Nó vui, Quan Sơn Nguyệt vui, nhưng bên cạnh chàng, Giang Phàm lại khóc.

Minh Đà phát hiện trước, nó lấy đầu hất Quan Sơn Nguyệt ra, đồng thời hướng cái mỏm của nó về phía Giang Phàm.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, nhìn theo nó, bất giác chàng giật mình kêu lên:

– Cô nương làm sao thế?

Giang Phàm đưa tay áo lau lệ, rồi mỉm cười đáp:

– Chẳng có chi cả, bất quá tôi cảm động trước cảnh chia ly của đại ca và Minh Đà mà thôi.

Đoạn, nàng thở dài, tiếp:

– Nói ra, tôi sợ đại ca không tin, chứ sự thực thì, tôi bị Xà Thần bắt vào Thiên Xà Cốc từ lúc còn ấu thơ, sống trong sơn cốc suốt mười mấy năm dài, tôi không hề đổ lệ một lần nào, hôm nay ...

Quan Sơn Nguyệt động niềm xúc cảm, an ủi:

– Hỉ, nộ, ái, lạc là tình thường của thế nhân, vui thì cười, buồn thì khóc, ai ai cũng vậy, Giang cô nương ạ! Chỉ vì cô nương chưa buồn, chưa khóc, là chưa có cơ hội đó thôi.

Giang Phàm trầm ngâm một lúc lâu, sau cùng gật đầu:

– Phải! Trong Thiên Xà Cốc, tôi chẳng có một cơ hội nào để cười, đừng nói là khóc. Nếu đại ca không đến đó, thì có lẽ tôi phải giam mình trong cảnh lạnh lùng qua nhiều năm tháng nữa.

Minh Đà bất ngờ cắn chéo áo Quan Sơn Nguyệt, lôi chàng quay mình trở lại với nó. Nó lại vẻ một chữ:

«Nàng!» Vẽ chữ đó xong, nó đặt một chân ngay chữ đó, còn chân kia, nó đặt ngay chữ «sướng».

Quan Sơn Nguyệt có ngu gì mà không biết cái ý của con vật? Chàng vỗ tay lên mình nó, gắt nhẹ:

– Đừng nghĩ nhảm!

Chàng lại hấp tấp lấy chân xoa mất chữ «nàng», sợ Giang Phàm trông thấy.

Nhưng vô ích, Giang Phàm đã theo dõi mọi cử động của Minh Đà, trong khi chàng xóa chữ đó thì nàng thẹn đỏ mặt, bất thình lình nàng chồm tới ôm cổ Minh Đà, thốt:

– Đa tạ ngươi! Ta ... ta xứng đáng không?

Minh Đà gật đầu, rồi nó nhìn qua Quan Sơn Nguyệt, nó chớp chớp mắt một cách hết sức tinh quái.

Giang Phàm khi nào buông tha, thấp giọng hỏi:

– Tại sao đại ca không nói chi hết?

Quan Sơn Nguyệt giật mình, cảm thấy sự tình cực kỳ nghiêm trọng. Trước kia, chàng từ khước hôn nhân, Liễu Y Ảo thất tình rơi vào tà đạo, từ đó, chàng biết sợ cái biến tánh của những nữ nhân tuyệt vọng. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, Liễu Y Ảo vẫn tinh xảo hơn Giang Phàm.

Một cô nương chất phác, chơn thật như Giang Phàm, nếu gặp hận, là hận rất thâm, nếu gặp yêu, là yêu rất nặng. Nếu chàng đáp lời không cẩn thận, để gây nên hiểu lầm, thì có thể sẽ biến thành một Liễu Y Ảo thứ hai. Nàng lại lợi hại hơn Liễu Y Ảo, gấp mấy lần. Nàng trở thành đối lập với chàng, thì đúng là một đại bất hạnh cho chàng.

Chàng phải đáp làm sao đây? Chấp thuận? Rồi chàng sẽ an trí Trương Thanh ở nơi nào? Từ khước? Thì ngay từ bây giờ, chàng nên lo sợ hậu quả trước là vừa. Lâu lắm, chàng mới tìm được câu đáp:

– Cô nương vừa đẹp, vừa tài, người sánh được với cô nương, trên đời nầy, chẳng nhiều đâu, tại hạ nói người phối ngẫu đó, cô nương. Nhưng về vấn đề nầy, cô nương hãy để cho người ta hỏi, chứ cô nương không nên đề cập đến.

Chàng tưởng đáp được như vậy, là Giang Phàm bỏ qua vấn đề. Nhưng trái lại, nàng còn bám sát hơn, nàng thốt với giọng cương quyết.

– Đại ca là nam nhân thứ nhất, tôi trông thấy suốt mười mấy năm dài giam hãm trong sơn cốc, đại ca là người tôi tôn kính nhất trần đời. Trừ ra đại ca không yêu tôi, chứ tôi nhất định là sẽ không chọn một nam nhân nào khác!

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 53

Hiệp Nào Không Tan

May thay đúng cái lúc khó xử nhất cho Quan Sơn Nguyệt, Mã Bá Ưu tỉnh lại. Chừng như hắn chẳng hay biết gì về những việc vừa phát sanh giữa con Minh Đà, Quan Sơn Nguyệt, và Giang Phàm.

Hắn vói tay nhặt lấy Minh Đà Lịnh cất vào mình, rồi cầm chiếc Độc Cước Kim Thần ướm thử trọng lượng của nó. Hắn cố sức đưa nó lên vai rồi thốt:

– Xem ra không phải ngẫu nhiên mà trở thành Lịnh chủ Minh Đà được.

Bằng cớ là chẳng phải bất cứ ai cũng có thể cử nổi chiếc Kim Thần này, cử nổi rồi còn phải sử dụng tùy ý. Cho nên tại hạ không dám tiếp nhận cái danh dự làm vị Lịnh Chủ đời thứ ba, mà chỉ thu lưu các vật này chờ đại hiệp trở lại.

Giang Phàm đang bực tức vì hắn làm đứt đoạn câu chuyện của nàng, không đợi Quan Sơn Nguyệt nói gì vội chận:

– Ngươi bất tất phải lo nghĩ xa xôi, ta và Quan đại ca có cách giải quyết vấn đề đó. Giả như hai chúng ta may mắn vượt qua cảnh khó khăn trước mắt, thì trong vòng đôi ba năm nữa chúng ta sẽ đưa đến cho ngươi một đứa bé.

Mã Bá Ưu giật mình, đồng thời hắn cũng cảm thấy thẹn, trong giây phút đó hắn không biết phải đáp làm sao.

Giang Phàm hết sức tự nhiên tiếp luôn:

– Chủ ý của con Minh Đà đấy, nó là con vật thông linh hiểu tiếng người, biết viết chữ, vừa rồi nó dùng chữ biểu thị cái ý muốn Quan đại ca sanh con để nối nghiệp làm Minh Đà Lịnh Chủ đời thứ ba.

Nàng nhìn sang Minh Đà hỏi:

– Phải cái ý của ngươi như thế không?

Minh Đà gật đầu.

Giang Phàm tiếp:

– Ngoài ra con vật lại còn biết làm mai làm mối, nó bảo ta nên lấy Quan đại ca làm chồng và Quan đại ca cũng đã đáp ứng rồi.

Mã Bá Ưu tán:

– Hai vị phối hợp với nhau thì thật là xứng đôi vừa lứa.

Giang Phàm thích thú quá cười vang:

– Chúng ta nhất định là phải sanh gấp một đứa con, nó vừa cứng cáp là ta gởi đến cho ngươi ngay, ngươi sẽ huấn luyện nó trở thành bậc đại tài như Quan đại ca.

Mã Bá Ưu bật cười ha hả:

– Tự nhiên là đứa bé phải thành tài, đại tài, nó phải siêu việt hơn cha mẹ của nó.

Quan Sơn Nguyệt thấy càng lúc Giang Phàm càng đi sâu vào mơ mộng, nàng làm như đã thành vợ thành chồng rồi vậy! Chàng khó chịu hết sức, cau mày thốt:

– Mã tiên sanh chuẩn bị lên đường đi là vừa.

Mã Bá Ưu gật đầu:

– Phải! Tại hạ đi ngay bây giờ. Tại hạ chờ tin lành của hai vị.

Quan Sơn Nguyệt chận lời:

– Tiên sanh hãy chú ý đến sự ủy thác của tại hạ, lưu tâm tuyển chọn người kế vị, giả như gặp một thiếu niên nào có căn cơ tốt thì đừng nên bỏ qua.

Giang Phàm biến sắc:

– Đại ca nói thế nghĩa là gì? Tại sao hắn phải chọn người khác? Cái vị trí đó không thể dành lại cho con chúng ta sao? Đại ca đã đáp ứng với tôi rồi kia mà.

Hừ! Thế đại ca định trở mặt phải không?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Tại hạ không trở mặt đâu Giang cô nương. Bao nhiêu nguy cơ đang chờ ta ở đoạn đường sắp đến, biết rằng chúng ta thoát chết hay chăng mà cô nương vội đặt kế hoạch trường cửu ...

Giang Phàm mỉm cười:

– Đại ca nói phải, tôi lại quên mất điều đó. Thế thì Mã tiên sanh cứ tìm sẵn người đi, nếu chúng tôi chết hết thì tiên sanh cứ dùng người đó, còn như may mắn chúng tôi thoát nạn ...

Mã Bá Ưu gật đầu:

– Phải! Phải! Cô nương yên trí, sự việc sẽ diễn tiến đúng như cô nương mong muốn.

Giang Phàm thở phào:

– Thôi tiên sanh đi đi. Chúng tôi làm mất thì giờ của tiên sanh nhiều rồi.

Mã Bá Ưu cởi Minh Đà đi rồi, Quan Sơn Nguyệt mới dùng lời dịu dàng giảng giải cho Giang Phàm hiểu đại khái về cách xử thế, việc gì nên nói, việc gì nên giữ kín.

Giang Phàm tỏ vẻ ngoan ngoãn, nghe hết, và hứa sẽ làm y như lời chàng bảo.

Họ còn ở đó một lúc nữa, khi họ sắp sửa lên đường tiến về Thiên Xà Cốc thì bỗng từ xa Mã Bá Ưu cởi lạc đà trở lại. Hắn có vẻ hấp tấp vội vàng, điều đó chứng tỏ là hắn đã gặp trở ngại chi ở phía trước.

Quan Sơn Nguyệt bước nhanh đến đón đầu hắn hỏi:

– Tại sao tiên sanh trở lại?

Mã Bá Ưu còn ngồi trên lưng lạc đà, đáp gấp:

– Tại hạ đi được hai dặm đường đến một nông thôn, còn từ xa tại hạ thấy hai người trong một ngôi nhà, tuy hai người đó hóa trang song tại hạ nhìn rõ là Kỳ Hạo và Tây Môn Vô Diệm.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Họ không làm khó dễ gì đến tiên sanh?

Mã Bá Ưu lắc đầu:

– Không. Thoạt đầu Kỳ Hạo muốn xuất thủ, nhưng Tây Môn Vô Diệm ngăn cản, vì cả hai giằng co nhau mà tại hạ mới chú ý đến họ, rồi vì chú ý mới nhận ra họ là ai. Kỳ Hạo cải trang thành một nông phu, còn Tây Môn Vô Diệm vận y phục nam nhân, một vuông sa đen che gương mặt xấu xí của nàng.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:

– Tiên sanh có chắc là mình không nhận lầm chăng?

Mã Bá Ưu quả quyết:

– Lầm thế nào lầm được hở đại hiệp? Đôi mắt tà của Kỳ Hạo và bộ ngực có nhũ hoa nhô cao của Tây Môn Vô Diệm là những đặc điểm của họ, nhất định là tại hạ nhận ra ngay dù họ mang bất cứ lốt nào. Huống chi tại hạ từng sống chung với họ qua nhiều năm tháng, tại hạ biết rất nhiều tật tánh của họ trong từng cử động.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Như vậy là họ theo dấu tại hạ đó. Cuộc chạm trán giữa song phương sẽ xảy ra gấp.

Mã Bá Ưu gật đầu:

– Chắc là vậy rồi. Thoạt đầu thấy con Minh Đà, Kỳ Hạo toan xông ra, nhưng Tây Môn Vô Diệm nhanh mắt hơn, nhận thấy người trên lưng Minh Đà chẳng phải là đại hiệp nên ngăn chận hắn. Họ để yên cho tại hạ đi qua, nhưng tại hạ lo sợ đại hiệp lầm mưu kế gì của họ nên trở lại đây mách cho đại hiệp biết.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Đa tạ tiên sanh. Tiên sanh yên trí, cứ đi đi, tại hạ có biện pháp đối phó với họ.

Giang Phàm lắc đầu:

– Hiện tại Mã tiên sanh không thể đi được.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Tại sao?

Giang Phàm giải thích:

– Bọn Kỳ Hạo đã buông tha Mã tiên sanh một lần là vì họ không dám xuất đầu lộ diện, sợ hành tung bại lộ. Bây giờ tiên sanh trở lại đó nữa thì có khác nào báo tin cho họ biết là hành tung của họ bị khám phá rồi, như vậy trông mong gì họ để cho Mã tiên sanh yên lành mà đi.

Quan Sơn Nguyệt «ạ» lên một tiếng:

– Cô nương có lý. Thế nào Kỳ Hạo và Tây Môn Vô Diệm cũng ngăn chận Mã tiên sanh lần này. Dù con Minh Đà có thông linh đến đâu, nó cũng không thể vượt qua trở ngại do lực lượng phối hợp của hai tay cao cường.

Mã Bá Ưu suy tư một chút:

– Thế thì tại hạ phải làm sao? Hay là tại hạ quay trở lại con đường cũ, tìm một lối rẽ khác ...

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Không được! Làm thế thì mất thì giờ lắm, vả lại cũng chắc gì là vạn toàn ...

Giang Phàm chớp mắt:

– Hay là chúng ta sẽ làm như thế này?

Mã Bá Ưu và Quan Sơn Nguyệt cùng bước đến cạnh nàng thì thầm một lúc lâu.

Quan Sơn Nguyệt nghe xong buộc miệng tán:

– Hay! Hay lắm! Cô nương về mặt nhân tình thế sự thì thiếu kinh nghiệm thật, song cách ứng biến trước mọi khó khăn thì linh mẫn vô cùng. Tại hạ hết sức khâm phục.

Được khen, Giang Phàm nghe lòng rộ nở trăm hoa.

Mã Bá Ưu cau mày:

– Kế tuy hay, song hai vị ...

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Biến thế phải tùng quyền. Mã tiên sanh không phải thắc mắc. Huống chi, bất quá chúng ta tạm chịu đựng như vậy trong một khoảng thời gian ngắn thôi, có sao đâu.

Mã Bá Ưu thở dài, đành chấp nhận giải pháp của Giang Phàm.

Minh Đà lại tiếp tục đi tới, người trên lưng nó có vẻ khẩn trương vô cùng, riêng nó thì cũng mất cái dáng tự nhiên chừng nó xê dịch khó khăn lắm.

Không lâu lắm, Mã Bá Ưu lại đến gần ngôi nhà trong sơn thôn.

Bỗng từ trong nhà một gã nông dân xông ra chận đường, trên vai gã có một lưỡi cày to. Gã cao giọng hỏi:

– Tên phản bội Mã Bá Ưu! Ngươi còn định trốn đi phương trời nào đó?

Mã Bá Ưu ngồi trên lưng Minh Đà nghiêng mình chào:

– Kỳ tổng quản! Tổng quản nói thế oan cho thuộc hạ quá chừng. Thuộc hạ nào có tâm phản bội bổn giáo?

Gã nông dân, đúng như Mã Bá Ưu dự đoán, chính là Kỳ Hạo hóa trang, mặt hắn hiện trát một lớp đất màu vàng và đôi mày Tang Môn Thần của hắn cũng được vuốt lại cho bớt dựng ngược phần nào. Hắn đinh ninh là với dung mạo đó thì chẳng ai nhận ra chân tướng của hắn. Ngờ đâu Mã Bá Ưu khám phá được như thường. Hắn vô cùng kinh ngạc, đưa tay sờ nón trúc trên đầu như để soát lại xem nó có còn nằm yên trên đó chăng.

Hắn chỉ sợ nón đã mất đi rồi nên Mã Bá Ưu mới nhận ra hắn. Hắn trầm giọng hỏi tiếp:

– Làm sao ngươi nhận ra được ta, Mã Bá Ưu?

Mã Bá Ưu cười nhẹ:

– Tổng quản tinh thông thuật cãi sửa dung mạo, thuộc hạ làm sao nhận ra được? Chẳng qua thuộc hạ am tường khoa chữa trị thú vật, có cách hửi hơi thú mà biết thú mang bịnh gì, nặng hay nhẹ, cũng nhờ biết đánh hơi mà thuộc hạ nhận ra Tổng quản.

Kỳ Hạo giật mình:

– Hơi người của ta như thế nào?

Mã Bá Ưu mỉm cười:

– Nói ra thuộc hạ chỉ sợ Tổng quản nổi giận, chứ sự thực thì cái hơi trên người Tổng quản rất đặc biệt, dù cho Tổng quản ở cách xa thuộc hạ ngoài bốn năm dặm đường thuộc hạ cũng vẫn ngửi được như thường.

Kỳ Hạo nóng nảy:

– Mà cái hơi của ta ra sao? Sao ngươi không nói gấp còn dông dài mãi làm gì chứ?

Mã Bá Ưu cười hì hì:

– Cái hơi đó đúng ra thì chẳng phải cái hơi người. Đó là cái hơi lừa. Tổng quản có mùi lừa và cái mùi đó rất nặng nên loang ra một khoảng rất rộng.

Kỳ Hạo sôi giận cực độ, rung rung giọng thét:

– Tên phản bội muốn chết gấp!

Mã Bá Ưu điềm nhiên:

– Chẳng những Tổng quản có mùi lừa mà lúc nói năng âm thinh lại giống tiếng lừa rống.

Thốt xong y bật cười lớn.

Kỳ Hạo khi nào tiêu hóa nổi sự ngạo mạn của Mã Bá Ưu. Hắn hạ lưỡi cày từ vai xuống quét ngang qua Mã Bá Ưu.

Mã Bá Ưu không hề nao núng, thản nhiên như chẳng có gì.

Nhưng từ nơi bụng lạc đà một người nhảy vọt ra chận lưỡi cày, người đó tung một áp lực quá mạnh chấn dội Kỳ Hạo lùi lại luôn mấy bước.

Đứng vững rồi Kỳ Hạo giương tròn mắt nhìn, nhận ra là Giang Phàm. Hắn sững sờ.

Mã Bá Ưu cười vang:

– Kỳ tổng quản ơi. Giang cô nương nghe nói thịt lừa Giang Tây mềm và thơm lắm nên muốn nếm thử cho biết, Tổng quản đừng để Giang cô nương thất vọng nhé. Bây giờ thuộc hạ có việc gấp cần đi ngay, Tổng quản hãy thứ cho thuộc hạ không thể ở đây lâu hơn.

Y thúc gối vào hông Minh Đà, con vật từ từ tiến tới.

Kỳ Hạo đã bị Giang Phàm ngăn chận, không làm sao cản trở Mã Bá Ưu được, tức uất mở to mắt nhìn Minh Đà bước đều.

Nhưng Mã Bá Ưu không đi được bao xa, từ trong ngôi nhà đó một người nữa lướt ra đón đường.

Dĩ nhiên người đó chính là Tây Môn Vô Diệm trong cái lốt nam trang, tuy nàng che kín mặt song lồng ngực căng phồng lên bày rõ hai nhũ hoa lồ lộ. Một nam nhân dù lực lưỡng cũng chẳng thể có ngực no tròn như vậy.

Mã Bá Ưu giật dây cương cho Minh Đà dừng lại rồi đưa tay chỉ khoảng ngực của Tây Môn Vô Diệm, vừa cười lớn vừa thốt:

– Tây Môn Hộ Pháp ơi. Hộ Pháp không nên mặc y phục nam nhân, bởi nam nhân có đôi vú to thế thì trông chẳng oai hùng chút nào.

Gương mặt của nàng khuất sau vuông sa đen chẳng rõ thần sắc nàng biến đổi ra sao, nhưng đôi vai nàng rung lên, toàn thân rung lên, đủ biết nàng đang phẫn nộ cực điểm. Nhanh như chớp nàng lấy trong mình ra một ống trúc màu hồng, dài hơn thước, to bằng cánh tay người, sắp sửa mở nắp ống trúc.

Ở phía sau Kỳ Hạo hấp tấp kêu lên:

– Tây Môn Hộ Pháp! Địch chưa xuất hiện, không nên hạ thủ đoạn gấp.

Từ nơi bụng Minh Đà, đột nhiên Quan Sơn Nguyệt vọt ra, đồng thời bật cười ha hả:

– Địch xuất hiện đây rồi. Các vị có trò gì đùa vui, xin cứ thi thố.

Chàng hoành tay vỗ nhẹ vào mình Minh Đà tiếp:

– Làm nhọc lão bằng hữu một đoạn đường dài, thật lỗi quá. Bây giờ thì lão bằng hữu được nhẹ nhàng rồi. Vậy bằng hữu thong thả đưa Mã tiên sanh đến nơi đến chốn nhé.

Minh Đà hí lên mấy tiếng đoạn cất vó chạy nhanh.

Thì ra cái mưu kế của Giang Phàm là cả hai bám sát vào chân Minh Đà, bên ngoài thì Mã Bá Ưu liệu cách che phủ cho kín đáo một chút, để cả hai xuất kỳ bất ý hiện thân ngăn chận Kỳ Hạo và Tây Môn Vô Diệm cho Mã Bá Ưu tiếp tục hàn trình. Thảo nào mà trước đó Minh Đà chẳng bước đi một cách khó khăn.

Quan Sơn Nguyệt xuất hiện rồi, Kỳ Hạo vội bước tới hiệp chung với Tây Môn Vô Diệm tại một chỗ để đối phó với chàng.

Giang Phàm cũng bước đến cạnh Quan Sơn Nguyệt.

Song phương dàn thành mặt trận, sắp sửa xuất thủ.

Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cười, cất tiếng:

– Hai vị cải trang khéo quá chừng. Đáng lý ra ngày trước tại Long Hoa Hội hai vị nên biểu thị cái thuật đó cho mọi người trông thấy, có như vậy mới sáng giá hơn, chứ hôm nay sử dụng thì có khác nào khoác áo gấm mà đi đêm. Thật tại hạ không tưởng là các vị có nhiều tuyệt kỹ đến thế.

Kỳ Hạo và Tây Môn Vô Diệm bực tức «hừ» một tiếng nặng. Kỳ Hạo bất quá lột chiếc nón xuống, còn Tây Môn Vô Diệm thì vuột tất cả những gì giả tạo mang trên mình từ đầu đến chân.

Quan Sơn Nguyệt lại cười vang:

– Tại sao hai vị lại bỏ cái lớp ngụy trang? Để như vậy xem đẹp hơn chứ!

Nếu không nhờ Mã Bá Ưu có con mắt xem người ngang với con vật thì còn lâu lắm tại hạ mới nhận ra hai vị qua cái lốt quái dị đó.

Kỳ Hạo biết là đối phương trêu tức nên không cần phẫn nộ, bật cười lạnh thốt:

– Cho ngươi thấy chân tướng cũng vô hại bởi cái mục đích của chúng ta là ngăn trở các ngươi. Cái hạn định ba hôm chưa đến, thì dù các ngươi có trăm ngàn biện pháp cũng chẳng là sao đến nơi trước kỳ hạn.

Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:

– Tạ Linh Vận hẹn gặp ta tại Thiên Xà Cốc phải không?

Kỳ Hạo cười hì hì:

– Đã biết rồi còn hỏi làm chi?

Quan Sơn Nguyệt tiếp luôn:

– Hắn ước hội với ta tại Thiên Xà Cốc rõ ràng là hắn định lợi dụng Xà Thần để đối phó với bọn ta, tuy nhiên ta lấy làm lạ về hạn kỳ ba hôm của hắn. Bất quá hắn chỉ mất một ngày đường thôi, thì tại sao hắn lại hạn định đến ba hôm? Thế ra hắn tưởng là trong hai ngày thừa ra đó, hắn có cách thuyết phục Xà Thần trở thành một viện thủ của hắn?

Kỳ Hạo điểm một nụ cười bí mật:

– Bây giờ còn quá sớm để cho ngươi nêu ra những thắc mắc. Ta khuyên ngươi hãy nhẫn nại, đợi đến lúc đó sẽ biết những gì ngươi muốn biết.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Ta không đợi được đâu, ta muốn thấy ngay những gì ta cần thấy.

Tây Môn Vô Diệm cao giọng:

– Ngươi muốn thấy ngay thế nào được? Giáo chủ hẹn ngươi đúng ba hôm, ngươi phải đợi đến lúc đó. Trước hạn kỳ, ngươi không thể đi được, chúng ta không bao giờ cho ngươi đi đâu.

Quan Sơn Nguyệt cười lớn:

– Ta không tin rằng các ngươi đủ sức ngăn chận ta. Mã Bá Ưu đã có làm một lần rồi, y có ngăn chận nổi đâu, trái lại còn đầu hàng ta đó. Các ngươi ...

Kỳ Hạo quát to:

– Mã Bá Ưu thì làm sao sánh được với bọn ta? Giáo chủ có dặn nếu cần bọn ta có thể hạ sát ngươi đấy nhé.

Quan Sơn Nguyệt cười ngạo nghễ:

– Tạ Linh Vận muốn hạ sát ta, nếu các ngươi làm nổi cái việc đó thì hà tất phải đợi đến ba hôm nữa?

Kỳ Hạo nổi giận:

– Đừng đắc ý vội Quan Sơn Nguyệt. Đối với Giáo chủ, giết ngươi là việc làm dễ hơn trở bàn tay, song người lại chẳng muốn sai thuộc hạ làm cái việc đó, mà người chỉ muốn tự mình phát xuất kiếm để kết liễu tánh mạng của ngươi. Bởi ngày trước Giáo chủ bị ngươi đánh bại bằng một nhát kiếm, thì ngày nay phải tự người báo hận cái nhát kiếm đó. Cũng nhờ thế mà ngươi mới còn sống sót cho đến hôm nay, để ngươi dẫn xác đến Thiên Xà Cốc cúi đầu tiếp thọ nhát kiếm báo thù của giáo chủ.

Hắn tiếp luôn:

– Cái đạo lý là vậy, song nếu ngươi cần chết gấp thì hiện tại ta cũng có thể làm cho ngươi mãn nguyện.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Nếu Tạ Linh Vận muốn báo thù một nhát kiếm thì cần gì hắn phải tìm đến Xà Thần? Cứ theo ta biết thì Xà Thần có võ công cao thật, song kiếm pháp của lão ta thì rất tầm thường ...

Kỳ Hạo cao giọng chận lời:

– Giáo chủ giao phó cho ta việc gì ta cứ làm việc đó, chẳng cần biết chi khác hơn, ngươi nghe hay không tùy ngươi, giá như ngươi không sợ chết thì cứ thử vượt qua đoạn đường này xem.

Quan Sơn Nguyệt lại trầm tư một chút nữa:

– Con người ai không sợ chết? Nghe ngươi phân trần rồi ta còn mạo hiểm làm gì? Thôi thì ta y theo lời ngươi, đợi ba hôm nữa cũng chẳng muộn chi.

Chàng nắm tay Giang Phàm quay đầu lại, như lùi về con đường cũ.

Chàng bỗng nhiên đổi thái độ nhanh quá khiến Kỳ Hạo đâm nghi ngờ là có âm mưu chi đó, vội bước theo đồng thời vung lưỡi cày hét:

– Đi đâu cũng chết cả, sao ngươi trở lại làm chi?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Lạ chưa, ta đi tới ngươi ngăn trở, ta rút lui ngươi cũng cấm đoán, thế thì ...

Kỳ Hạo lại quát chận:

– Giáo chủ muốn ba hôm nữa tự tay vung kiếm giết ngươi, song ta thì muốn ngươi chết ngay, ngươi càng chết sớm ta càng khoan khoái. Ngươi thử lướt tới xem.

Mâu thuẫn thật! Hắn ngăn chận Quan Sơn Nguyệt, rồi lại muốn Quan Sơn Nguyệt cứ vượt qua. Hắn cho biết là Giáo chủ của hắn muốn tự tay hạ sát Quan Sơn Nguyệt, rồi bây giờ hắn giục chàng lướt tới để rơi vào cạm bẫy của hắn.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Ta không đi tới làm gì. Sống thêm một ngày hay một ngày, tội chi ta chết gấp.

Chàng lôi Giang Phàm bước trở lại.

Kỳ Hạo gọi gấp Tây Môn Vô Diệm:

– Hộ Pháp còn chờ gì nữa? Động thủ đi chứ.

Tây Môn Vô Diệm lắc đầu:

– Không được! Tôi triệt để tuân lịnh sư huynh, hắn không ngoan cố vượt qua chặng đường này thì tôi tuyệt không động thủ. Tôi phải dành hắn lại đó cho sư huynh tùy ý thu thập.

Kỳ Hạo thấy không làm sao lay chuyển được tâm ý của Tây Môn Vô Diệm vội day qua Quan Sơn Nguyệt mắng:

– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi là một kẻ tham sanh úy tử, ngươi là một kẻ rất tầm thường, ngươi vô sỉ cực độ, thiết tưởng chẳng còn mặt mũi nào đứng giữa dòng đời nữa!

Hắn tìm cách khích nộ Quan Sơn Nguyệt cho chàng xuất thủ, nhưng Quan Sơn Nguyệt lờ đi như chẳng nghe gì.

Giang Phàm bực tức, quay đầu lại mắng trả:

– Câm cái mồm thúi của ngươi lại, không ai nghe đâu mà lải nhải mãi.

Quan Sơn Nguyệt lại lôi nàng đi, cười nhẹ bảo:

– Mặc hắn, cô nương. Hắn là con chó điên sủa càn, hơi đâu mà để ý đến.

Giang Phàm còn tức:

– Tôi đâu có thể để hắn mắng đại ca như vậy được!

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Mình cứ vờ chẳng nghe gì là xong. Hắn nhất tâm muốn hạ sát tại hạ song lại chẳng dám kháng lịnh Tạ Linh Vận, nên tìm cách khích thích tại hạ để có cớ mà thực hiện âm mưu, sau này Tạ Linh Vận sẽ không trách cứ hắn được.

Giang Phàm «hừ» một tiếng:

– Đại ca cho rằng hắn giết nổi chúng ta à?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Hắn hy vọng tại hạ xuất thủ, tự nhiên hắn có cách thủ thắng. Chẳng phải tại hạ sợ chết, song chết vì độc kế của hắn thì tại hạ không thích rồi.

Tây Môn Vô Diệm «hừ» một tiếng:

– Làm sao ngươi biết bọn ta có âm mưu?

Quan Sơn Nguyệt cười lớn:

– Tài sức của các ngươi được bao nhiêu mà dám ngăn trở ta, nếu không bằng vào một âm mưu nào đó? Ta chỉ sợ các ngươi co đầu rút cổ mà trốn chui trốn nhủi ở một hang hóc nào, chứ làm gì dám chường mặt mà khua môi múa mỏ diệu vũ dương oai?

Câu nói đó khích thích Tây Môn Vô Diệm mãnh liệt, nàng hét lên một tiếng đồng thời rút soạt thanh kiếm bên mình ra khỏi vỏ, thách:

– Quan Sơn Nguyệt! Ta nghe nói ngươi có võ công và kiếm pháp rất cao minh, nhưng bình sanh chưa hề so tài với ngươi lần nào. Hôm nay gặp ngươi tại đây rồi, đúng là cái dịp ta trắc nghiệm sở học của ngươi, ngươi có dám cùng ta trao đổi mấy chiêu chăng?

Kỳ Hạo thoáng điểm một nụ cười gian trá, khích:

– Tây Môn Hộ Pháp cẩn thận đấy, không khéo lại bị tiểu tử đánh lừa mà khổ. Về kiếm pháp, tiểu tử thành tựu trên sư phó của hắn một bậc, đến Lâm Hương Đình còn phục hắn, Hộ Pháp trông mong gì thủ thắng nổi?

Tây Môn Vô Diệm nổi giận:

– Ngươi biết gì mà nói chứ? Lâm Hương Đình là cái quái gì? Ta có xem nàng ấy ra chi đâu!

Kỳ Hạo buông luôn:

– Lâm Hương Đình có ra gì hay không, tại hạ chẳng rõ cho lắm, có điều Giáo chủ hết sức trọng vọng bà ta. Tại hạ dám chắc đến phút giây này Giáo chủ còn hoài niệm thiết tha bà ấy đấy.

Nghe một câu mắng nặng nề, Tây Môn Vô Diệm còn dễ chịu hơn là tiếp nhận những lời nói đó. Nàng như điên tiết, thay vì tấn công thẳng sang Quan Sơn Nguyệt nàng lại hoành kiếm chém Kỳ Hạo một nhát.

Kỳ Hạo kinh hãi, vội nhảy tránh, đồng thời kêu lên:

– Hộ Pháp làm gì thế? Đối tượng là tiểu tử kia mà, nào phải tại hạ? Hắn là đồ đệ của Hoàng Hạc Tán Nhân, mà Lâm Hương Đình theo lão ấy kết nghĩa vợ chồng, nếu muốn tranh chấp với Hương Đình thì cứ giết hắn đi, tức khắc Hương Đình ra mặt.

Tây Môn Vô Diệm chuyển kiếm sang Quan Sơn Nguyệt chém tới.

Tây Môn Vô Diệm hết sức si mê Tạ Linh Vận mà Tạ Linh Vận thì một lòng hướng về Lâm Hương Đình, dù ngày nay Hương Đình đã theo luôn Độc Cô Minh, y vẫn còn nhớ nhung thương tưởng. Do đó mà Tây Môn Vô Diệm căm hờn, từ lâu nàng chẳng biết trúc đổ sự căm hờn vào ai, bây giờ được dịp, tự nhiên nàng dốc toàn lực giao thủ với Quan Sơn Nguyệt.

Hiện tại chính cái hờn ghen vu vơ thúc đẩy nàng xuất lực cho nên nàng mất cả bình tĩnh, đánh như nhắm mắt, đánh liều lĩnh cầm như quyết đồng quy ư tận.

Quan Sơn Nguyệt dù không muốn động thủ cũng phải tuốt kiếm tự vệ.

Nhưng Tây Môn Vô Diệm làm gì chịu nổi những đường kiếm tuyệt diệu của chàng.

Trong thoáng mắt, Hoàng Diệp Kiếm của chàng chặt đứt thanh kiếm của Tây Môn Vô Diệm làm hai đoạn, đồng thời tay nàng cũng bị mũi kiếm rọc tét một đường.

Cũng may là Quan Sơn Nguyệt không xuất toàn lực, chứ nếu chàng hiếu thắng thì cánh tay của Tây Môn Vô Diệm cũng bị tiện lìa luôn.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 54

Máu Nào Không Tanh

Ngày trước, trong lần đại hội cuối cùng trên đỉnh Thần Nữ Phong, người trong Long Hoa Hội chia thành hai nhóm đối lập. Tây Môn Vô Diệm đứng về cánh Tạ Linh Vận, nhân vội vã cứu nạn cho Tạ Linh Vận mà nàng bị Quan Sơn Nguyệt dùng thanh kiếm Bạch Hồng chặt đứt hai bàn tay.

Trong suốt cuộc đấu đó, Quan Sơn Nguyệt áp dụng kiếm pháp Đại La, phát huy trọn vẹn oai lực của một kiếm pháp tân kỳ, đáng lý ra chàng phải thừa cơ hội giết luôn Tạ Linh Vận. Nhưng, lúc tiếp nhận thanh kiếm Bạch Hồng, cũng như khi thọ huấn kiếm pháp Đại La nơi Ma Nữ Ôn Kiều, chàng có lập thành một lời thề trọng đại. Qua lời thề đó, chàng không thể vọng sát bất cứ một kẻ vô can nào, trừ trường hợp bất khả kháng. Hơn thế, thanh kiếm Bạch Hồng mỗi lần được sử dụng, không thể vấy máu hai người. Cho nên, Bạch Hồng Kiếm chặt đứt tay Tây Môn Vô Diệm rồi, dù muốn dù không, chàng cũng phải ngưng ngay cuộc đấu.

Nhờ Tây Môn Vô Diệm hy sanh đôi bàn tay, thanh kiếm vấy máu rồi, Quan Sơn Nguyệt đành lưu mạng sống của Tạ Linh Vận đến ngày nay. Và ngày nay, hắn đã trở thành mối đại họa cho bọn chàng, mối đại họa đó sẽ lan rộng khắp sông hồ, gây náo loạn cho vũ lâm.

Bây giờ, chàng hối tiếc cũng đã muộn rồi. Và, chàng xem đây là một bài học đáng giá, từ nay nhất định chàng không thể câu chấp một tiểu tiết, để cái mầm hoạn họa lớn mạnh và nguy hại như thế nầy.

Tuy nhiên, đối với Tạ Linh Vận, chàng có thể hạ bất cứ thủ đoạn nào, song đối với Tây Môn Vô Diệm, chàng sao đang tâm tàn nhẫn, bởi nàng là một phế nhân? Đành rằng hiện tại, nàng có đôi bàn tay nhân tạo, song cái gì do nhân tạo thì làm sao có hiệu dụng bằng những thứ có sẵn, tự nhiên?

Sự chấp vá đôi bàn tay khác cho Tây Môn Vô Diệm, tuy có khó khăn thật, song khi người ta biết rằng trong Thiên Ma Giáo, có sự hiện diện của Trương Vân Trúc, thân phụ của Trương Thanh, thì điều đó chẳng còn lạ lùng chi nữa.

Về y thuật, trong thời gian đó trừ một nhạc mẫu của lão ta là Bạch Lão Thái Thái, chẳng một ai có thể sánh với lão nổi.

Hai bàn tay nhân tạo của Tây Môn Vô Diệm, do lão chặt của một nữ nhân nào đó, ghép cho nàng, nhìn thoáng qua, không ai biết có sự chấp vá, tuy nhiên, dù thủ thuật của lão có khéo đến đâu, bất quá lão chỉ hoàn thành một hình thức đẹp đẽ thôi, còn cách sử dụng thì lão đâu có thể đoạt quyền tạo hóa mà thay thế hoàn toàn sự khiếm khuyết của nạn nhân?

Sở dĩ thế, Quan Sơn Nguyệt nương tay, và nhờ chàng nương tay, Tây Môn Vô Diệm lần nầy khỏi bị tiện đứt đôi bàn tay chắp vá, mà chỉ hứng lấy một vết rọc dài nơi cánh tay cầm kiếm thôi.

Tuy nhiên, một phần khác cấu tạo cái may mắn cho Tây Môn Vô Diệm còn giữ được đôi tay chấp vá đó, là kiếm pháp Đại La chỉ lợi hại khi người thi triển nó sử dụng thanh kiếm Bạch Hồng thôi. Hiện tại, Quan Sơn Nguyệt dùng thanh Hoàng Diệp Kiếm của mẹ chàng, «Đại La Kiếm Pháp» không thể được phát huy trọn vẹn hiệu năng ảo diệu của nó. Bởi miễn cưỡng mà dùng, Quan Sơn Nguyệt không tạo được thành tích mong muốn.

Tây Môn Vô Diệm buông đoạn kiếm gãy, đưa tay nầy chụp vào vết thương nơi tay kia, quắc mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt, hung quang chiếu sáng rực.

Kỳ Hạo nở một nụ cười nham hiểm, thốt:

– Tây Môn Hộ Pháp thấy chưa, tại hạ có nói sai đâu? Kiếm pháp của hắn lợi hại lắm mà! Lần trước, hắn đã tiện đứt đôi tay của Hộ Pháp, dù đôi tay đó được chắp vá khéo, song Hộ Pháp đâu có thể sử dụng như tay thường! Lần này, Hộ Pháp bị thương như vậy, kể cũng có phúc lắm đấy. Giả như hắn chém đứt trọn cánh tay của Hộ Pháp, thì dù Trương Vân Trúc có vận dụng tận sở năng, cũng chẳng làm sao giúp ích mảy may cho Hộ Pháp!

Hắn cố ý gợi lại việc cũ, khích niềm hận nơi Tây Môn Vô Diệm.

Tây Môn Vô Diệm phẫn uất cực độ, vừa nhảy lùi lại, vừa gọi to:

– Kỳ Hạo! Chuẩn bị gấp!

Nàng lấy chiếc ống trúc cầm tay, một bàn tay sờ nơi chiếc nắp.

Kỳ Hạo hoành ngang chiếc lưỡi cày, cười nhẹ:

– Nếu sớm quyết định một chút, thì làm gì mang lấy một vết thương?

Tây Môn Vô Diệm nghiến răng, mở nút liền.

Kỳ Hạo quét chiếc lưỡi cày một vòng, gió rít lên, lưỡi cày bật thành một âm thinh kỳ lạ.

Quan Sơn Nguyệt đã giới bị cực kỳ chu đáo, đồng thời chàng đưa mắt sang Giang Phàm, ngầm bảo nàng đề phòng.

Giang Phàm khoát tay, mỉm cười:

– Đại ca yên trí, chẳng có chất độc nào làm gì nổi tôi đâu!

Nhưng, liền theo đó, nàng rú lên một tiếng khủng khiếp, rồi nhào đến cạnh Quan Sơn Nguyệt, đeo vào cánh tay chàng. Thần sắc của nàng biến đổi quái dị.

Nàng lí nhí:

– Đại ca cẩn thận! Vật đó lợi hại lắm đấy!

Vật đó là hai con rết, dài độ thước, rết thì hẳn là có hình dạng ghê gớm lắm rồi. Rết khá lớn, nên chúng cử động rất chậm.

Tưởng là gì, chứ rết thì có chi lạ, vả lại chúng rất chậm chạp kia mà!

Quan Sơn Nguyệt cười khảy một tiếng:

– Tây Môn Vô Diệm! Ngươi ỷ trượng vào hai con vật đó, định đối phó quyết liệt với ta? Liệu chúng ngăn trở được ta chăng?

Tây Môn Vô Diệm ngưng trọng thần sắc, không đáp lời Quan Sơn Nguyệt, chỉ huýt gió thành một âm điệu kỳ dị và hòa với tiếng rít gió của chiếc lưỡi cày.

Chiếc lưỡi cày hình như rỗng lòng, nên Kỳ Hạo quét qua quét lại, bật kêu lồng lộng.

Theo âm thinh hòa tấu của tiếng sáo miệng và chiếc lưỡi cày, hai con ngô công bắt đầu nhích động, chúng phân ra tả một, hữu một, từ từ bò tới. Chúng có màu sắc đỏ rực, màu nó chiếu ngời ngời, chúng từ từ nhích tới, thân hình dợn khúc, trông lạnh người.

Giang Phàm đeo dính nơi cánh tay Quan Sơn Nguyệt. Tay nàng rung lên, toàn thân cũng rung theo.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:

– Cô nương sao thế? Rết thì có gì đặc biệt đâu, tại sao cô nương quá sợ?

Giang Phàm rung giọng:

– Tôi sợ rết hơn bất cứ loài độc vật nào! Rết là khắc tinh của rắn đó ...

Quan Sơn Nguyệt cười ngạo nghễ:

– Ngô công khắc chế độc xà, nhưng có khắc chế nổi chúng ta đâu? Cô nương yên trí, hai con sẽ biến thành bốn đoạn!

Tuy nói cứng, chàng vẫn giới bị chu đáo, chàng biết rõ, Kỳ Hạo vào Tây Môn Vô Diệm ỷ trượng vào hai con ngô công, dùng chúng làm vũ khí, ít nhất chúng cũng phải có đặc điểm gì, chúng phải hơn đồng loại ở cái gì đó.

Hai con ngô công tiếp tục dợn mình, trườn tới.

Ba mươi sáu khúc! Mỗi con có ngần ấy khúc, nối tiếp nhau, dợn dợn dần tới, mỗi khúc chớp lên, đỏ rực. Dưới mỗi khúc, là một đôi chân! Những cặp chân nhích từ từ, đều đều ...

Đầu chúng ngẩng lên nơi có đôi càng, hình nguyệt nha, màu đen bóng loáng, con vật dài độ thước thì đôi càng phải lớn. Miệng nó há ra, chừng như nó phun phèo phèo, ẩn ước hơi độc thoát ra, mờ mờ như làn sương mỏng đục.

Quan Sơn Nguyệt chẳng cần suy nghĩ, hơi độc đó hại người hay chất độc từ đôi càng chuyển sang người, chàng cứ đề phòng, chẳng cho chúng đến gần.

Con ngô công bên tả chỉ còn cách chàng độ bốn năm thước, nó cất chiếc đầu cao hơn một chút.

Quan Sơn Nguyệt không đợi nó làm gì hơn, phóng kiếm ra, chém vào mình nó. Thủ pháp của chàng nhanh, thân pháp của con vật còn nhanh hơn, nó lướt khỏi nhát kiếm của chàng.

Đúng lúc đó, con Ngọc Xà của Giang Phàm lại ló đầu ra, ngăn trở chàng xoay gạt mũi kiếm xuống, đâm tiếp một mũi vào yết hầu ngô công.

Ngẩng đầu ngăn trở Quan Sơn Nguyệt xuất thủ tiếp rồi, Ngọc Xà lại vọt nhanh ra ngoài chiếc túi, cong mình lên, bắn mạnh đuôi tới, đuôi chạm con ngô công, hất ngô công văn ra hơn trượng.

Hất con bên tả rồi, Ngọc Xà thu đuôi về, y theo thế đó, hất luôn con bên hữu. Cuối cùng nó ngẩng cao đầu, hướng về Quan Sơn Nguyệt, lắc đầu mãi, rồi nó thè lưỡi, rít mấy tiếng gió.

Giang Phàm hấp tấp giải thích:

– Quan đại ca, Tiểu Ngọc bảo rằng đại ca không nên dùng kiếm chém hai con ngô công đó ...

Lúc ấy Kỳ Hạo thoáng biến sắc, nhưng hắn bật cười lớn thốt:

– Con rắn của ngươi cũng thức thời vụ lắm đó, Quan Sơn Nguyệt!

Chính hắn cử cao chiếc lưỡi cày, chặt vào mình hai con ngô công đứt thành mười mấy đoạn.

Còn Tây Môn Vô Diệm thì huýt gió liên hồi, lại có phần gấp hơn trước.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt nhìn sững Kỳ Hạo, chẳng hiểu nổi hắn làm gì. Đã thả hai con ngô công ra, định hãm hại chàng, tại sao hắn lại tự chặt chúng thành mấy đoạn? Tại sao hắn hạ sát chúng?

Nhưng, chàng không hoang mang lâu, bởi sự thực hiện ra liền sau đó.

Mỗi đoạn ngô công lập tức biến thành một con ngô công, đầu chân có đủ, trong chớp mắt những con ngô công nhỏ đó biến thành to, bằng hai con nguyên thủy. Thành ra, từ hai con ngô công, bây giờ có đến hơn mười con ngô công, con nào cũng hung hăng, cũng ghê rợn như nhau.

Kỳ quái! Bình sanh, Quan Sơn Nguyệt chưa hề trông thấy một hiện tượng quái dị như thế.

Chỉ có hai con ngô công mà chàng còn vất vả đối phó thay, bây giờ mỗi con biến thành hơn mười con, thì chàng làm sao ứng phó với tình hình?

Giang Phàm vốn sợ rết, lúc đó khiếp hãi cực độ, kêu lên thất thanh:

– Chúng ta chạy đi, Quan đại ca! Phải chạy nhanh mới được!

Kỳ Hạo cười vang:

– Bây giờ mới nghĩ đến việc chạy đi, thì cầm như muộn quá rồi!

Hắn lại vung chiếc lưỡi cày, chặt vào những con ngô công vừa thành hình đó. Hắn lại vung chiếc lưỡi cày, đánh bắn những con ngô công văng ra bốn phía, tạo thành một vòng vây. Mỗi đoạn ngô công lại biến thành con vật nguyên vẹn, đủ đầu, chân, lại lớn nhanh không tưởng nổi.

Phần Tây Môn Vô Diệm thì cứ huýt gió miệng liên hồi, gấp rút.

Bây giờ thì có quá nhiều ngô công rồi, tất cả đều phô màu đỏ ửng, từ bốn phía bò vào, chẳng khác nào một biển lửa bao quanh Quan Sơn Nguyệt, biển lửa thu hẹp dần sát mình chàng.

Trong khi đó, Kỳ Hạo vung chiếc lưỡi cày liên tục, chém vào những con ngô công vừa thành hình, tăng số ngô công lên nhanh chóng.

Quan Sơn Nguyệt và Giang Phàm quá độ sững sờ, quên mất những phản ứng thông thường, đứng đờ tại trung tâm điểm nhìn Kỳ Hạo vung chiếc lưỡi cày, nghe Tây Môn Vô Diệm huýt sáo miệng, trông hiện tượng biến hóa của ngô công.

Khoảng đất rộng quanh Quan Sơn Nguyệt gồm một diện tích năm sáu thước vuông, khoảng đất đó bị những làn sóng ngô công xâm nhập, thu hẹp dần dần.

Trên đời nầy, có ai không rợn mình khi bị một đàn ngô công hằng ngàn hằng vạn bao vây? Hơn thế, những con ngô công nầy thuộc hạng chúa, con nào cũng to bằng cổ tay trở lên.

Ngàn vạn ngô công lúc nhúc bò đến, từ bốn phía bò đến, chỉ nhìn qua thôi cũng kinh khiếp suýt chết được!

Tuy nhiên, lớp ngô công trước đến gần, trong một khoảng cách nào đó, cũng dừng lại, chưa tấn công liền. Thành thử, những lớp sau tràn tới, rồi từng đợt phát sanh nối tiếp, tất cả cùng lướt vào, lớp sau dồn lớp trước, con nầy lướt trên mình con kia, vun lên thành đống.

Lớp sau tràn tới, lớp trước chịu không nổi, phải nhích động, càng động càng nhích đến gần.

Bây giờ thì lớp ngô công gần nhất chỉ cách Quan Sơn Nguyệt và Giang Phàm độ ba thước.

Ngọc Xà chừng như phẫn uất trước cái thế hùa của đàn ngô công, rít gió mãi. Nó lại rời chiếc túi, dùng đuôi quét quanh, đuôi hất những con ngô công gần nhất bắn dội trở về. Nó vừa quét đuôi vừa bò quanh cục trường, ngô công bị bắn dội bay lộn về, như những tia hồng chớp lên rồi tắt.

Ngọc Xà ra oai lực một lúc, quét sạch khoảng đất nơi trung tâm, nới rộng vòng vây ngoài sáu thước. Nhưng, oai lực của nó chỉ có thế thôi, nó không còn cách gì diệt trừ đàn ngô công được.

Nới rộng vòng vây rồi, nó lại khoanh mình, nằm nghỉ mệt.

Quan Sơn Nguyệt quay phút giây kinh dị, lo sợ vô cùng, chàng day qua Giang Phàm, hỏi:

– Cô nương có hiểu chi chăng? Bọn Kỳ Hạo làm cái trò quái quỷ gì thế?

Giang Phàm còn sợ đến xanh mặt, run người, lắc đầu không đáp. Nàng có biết chi đâu mà đáp?

Kỳ Hạo bật cười lớn:

– Ta giải thích cho ngươi nghe đây, Quan Sơn Nguyệt! Đó là cái thuật Tử Mẫu Phi Ngô Công. Mỗi con ngô công có ba mươi sáu đốt, phân tán những đốt đó, nó sẽ trở thành ba mươi sáu con vật khác, sanh sanh hóa hóa liên miên, giết chúng, chúng không chết, trái lại còn sanh hóa thêm. Ngươi phải chết!

Hắn thích chí, cười vang:

– Các ngươi phải chết tại đây! Đừng mong đến Thiên Xà Cốc đúng hạn hay trước hạn kỳ!

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Ta không tin là ngươi làm gì ngăn chận được bọn ta! Đàn ngô công đó bất quá sanh sanh hóa hóa vậy thôi, chứ chúng có cái gì đáng sợ đâu? Ngươi sẽ thấy ta tận diệt chúng!

Nói là làm, chàng vung thanh kiếm Hoàng Diệp lên, chém vào đàn ngô công. Tuy nhiên, chàng dè dặt, giữ cho thanh kiếm không chạm vào một con vật nào.

Kiếm ảnh chớp lên, tựa hình lá cây rơi rụng, lá cây vờn bên trên đầu đàn ngô công, ẩn ước có gió rít rất nhẹ.

Tuy kiếm không chạm mình, song kiếm khí cũng giết được vật, gia dĩ kiếm khí chỉ vờn bên trên đầu những con vật, chứ không chạm mình, thành ra chúng cụt đầu, mà cụt đầu là không sanh hóa được nữa, chỉ trừ khi nào kiếm khí trúng mình, chặt đứt vật thành từng đoạn thì nó mới hóa sanh. Cho nên từng đợt lá rụng xuống đầu ngô công, từng đợt ngô công rơi đầu, rồi chết luôn.

Phương pháp đó, qua lần thực nghiệm đầu tiên, đem lại công hiệu rõ rệt.

Quan Sơn Nguyệt hết sức mầng rỡ, cứ tiếp tục áp dụng phương pháp đó vung nhanh tay, kiếm ảnh biến thành lá cây, lá cây quét đầu ngô công, chúng không còn sanh hóa nữa, chúng hao hụt dần dần.

Quan Sơn Nguyệt gọi to:

– Kỳ Hạo, ngươi thấy chưa? Ta có cách hóa giải thủ đoạn của ngươi như thường!

Kỳ Hạo đứng ngoài xa, cách hơn bốn trượng, cười lạnh:

– Khá lắm đó, Quan Sơn Nguyệt! Ngươi có cách phá cái thuật Tử Mẫu Phi Ngô Công của ta, kể cũng là tay có cơ trí đó!

Quan Sơn Nguyệt đắc ý:

– Có gì đâu, đầu ngô công thì ngắn, không thể hóa sanh, những đốt trên mình nó rất dài, dễ hóa sanh. Ta tránh những đốt, cứ chặt đầu, làm gì chúng hóa sanh được? Cái thuật đánh rắn, là đánh từ bảy tấc trở lại đầu, khoảng đó là khoảng yếu hại của độc trùng, về ngô công cũng thế, chứ đánh vào mình chúng thì khó mà giết chúng chết ngay ...

Kỳ Hạo cười mỉa:

– Tuy nhiên, ngươi khoan cao hứng vội. Rồi ngươi sẽ hối hận!

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Việc gì sẽ làm ta hối hận?

Kỳ Hạo bật cười hắc hắc:

– Hối hận về cái việc gì thì ngươi sẽ phát hiện ra sau, thông minh chẳng giúp ích ngươi được gì, trái lại thông minh sản sanh ra nhiều ngu xuẩn, và ngươi sẽ lãnh đủ hậu quả của những ngu xuẩn đó.

Quan Sơn Nguyệt thoáng giật mình, đảo mắt nhìn quanh một lượt, bất giác chàng biến sắc mặt.

Niềm hối hận đó, không chờ lâu, nó đến với chàng ngay. Nó đã đến rồi! Nó đến khắp nơi, quanh mình chàng.

Những xác chết của ngô công, đang được đồng loại tranh nhau mà ăn, và ăn xong xác đồng loại rồi, con nào cũng lớn nhanh trông thấy.

Dài một thước, dài nhanh ra ba thước. Lúc đầu ngô công to bằng ngón tay, bây giờ chúng to ngay bằng cánh tay.

Ngô công vừa lớn, lại vừa mạnh, chừng như chúng thở thành tiếng, những tiếng thở của hằng ngàn, hằng vạn con hợp lại, tạo thành một tiếng gió vu vu, rồi chúng bò tới, chạm vào nhau, lướt trên mình nhau, nghe xào xào. Những tiếng động để làm cho con người rợn mình.

Và Quan Sơn Nguyệt vừa hối vừa sợ.

Những con vừa lớn đó, vẹt những con nhỏ, lướt tới, lướt nhanh, chừng như trong xác chết của đồng loại, có một thứ khích thích tố, chúng ăn xong là hăng lên liền. Bây giờ thì chúng bắt đầu tấn công Quan Sơn Nguyệt, chúng đã đến sát bên mình chàng rồi.

Ngọc Xà, như những lần trước, dùng cái đuôi dài, quét nhanh, nhưng nó làm cái việc đó không dễ dàng như trước nữa. Mường tượng nó gặp một kháng lực mạnh mẽ của đàn ngô công ngoan cố.

Chẳng những thế, con ngô công nào bị đuôi Ngọc Xà chạm trúng, bị hất dội về phía sau, văng không xa lắm. Trước, thì chúng văng đi xa ngoài trượng, bây giờ thì bất quá cách độ hai ba thước mà thôi. Trong khoảng cách đó, chúng trở lại rất nhanh, thành thử cái việc dùng đuôi hất địch của Ngọc Xà cũng chẳng mang đến ích lợi thiết thực nào. Một vài con ngô công to lớn hơn hết, gan lỳ hơn hết, nhắm ngay cái đuôi Ngọc Xà, mở rộng đôi càng, kẹp cứng.

Nhờ vảy dầy, Ngọc Xà không bị thương tổn, nhưng ngô công đeo dính nơi đuôi, thì thật là nặng, và thật phiền phức cho con rắn lắm.

Trong tình trạng đó, nó cử động chậm chạp, khó khăn hơn và chỉ cần nó chậm chạp lại, là đàn ngô công sẽ xâm chiếm toàn thân của nó, nó sẽ bị nguy là cái chắc.

Cũng may, nó khá thông linh, nó lăn mình đi mấy vòng, vừa lăn vừa ấn mình xuống đất, đàn ngô công vuột ra, rồi nó bò nhanh trở lại trung ương, thở phào phào, tỏ vẻ cực kỳ nhọc mệt.

Kỳ Hạo bật cười ha hả:

– Quan Sơn Nguyệt! Giả như ngươi vung kiếm sát hại thêm một số ngô công nữa, thì đúng là ngươi bố thí thực phẩm cho những con còn lại, những con nầy sẽ to lớn lên, và con rắn của ngươi sẽ không đủ sức mà dùng đuôi hất văng chúng nó nữa!

Trong khi hắn thốt, đàn ngô công không ngừng tiến tới, như thách thức Quan Sơn Nguyệt.

Chàng thận trọng lắm rồi, không dám vọng động nữa.

Con Ngọc Xà quá mệt, nghỉ một lúc mà chưa phục hồi khí lực, chừng như nó kiệt quệ, trong thời gian ngắn, khó mà lấy lại bình thường. Tuy nhiên, nó cũng miễn cưỡng chuẩn bị, sẵn sàng đối phó với đàn ngô công nếu chúng làm hỗn gấp.

Quan Sơn Nguyệt khoát tay, ra hiệu cho Ngọc Xà bất động, rồi chàng day qua Giang Phàm, hỏi:

– Bị thứ ngô công đó cắn, thì sao?

Giang Phàm lộ vẻ sợ sệt:

– Tôi không biết đích xác lắm. Rết thường cắn, chất độc nhiễm vào người, còn không chịu nổi thay, huống hồ cái thứ ngô công nầy, vừa to lớn mà cũng vừa quái dị! Chất độc của chúng phải phi thường, chúng ta ...

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Chẳng lẽ chúng ta lại thất bại hay sao? Chẳng lẽ chúng ta lại sợ cả đến loài rết?

Giang Phàm thành thật:

– Chúng đáng sợ quá, mà không sợ sao được chứ? Tôi từ thuở nhỏ, đã được bồi dưỡng bằng chất độc của rắn, lớn lên đến ngày nay, còn đại ca thì may mắn có uống thứ huyết của con Hàn Xà, luận về tổng quát thì chúng ta không sợ bất cứ thứ độc nào trên đời. Nhưng về chất độc của ngô công thì lại khác, tôi chưa biết chất độc đó mãnh liệt như thế nào mà dám bảo đảm an toàn. Đại ca cứ nhìn con Ngọc Xà kia là biết ngay, nó chẳng khác nào là một xà vương, nhưng nó cũng đầu hàng trước đàn ngô công, như thế đủ thấy độc của ngô công có kháng lực mạnh, lấn át hẳn độc của rắn!

Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc, bỗng trầm giọng thốt:

– Bất chấp hậu quả như thế nào, tại hạ nhất định phải lướt qua đàn ngô công nầy!

Chàng cương quyết bước tới.

Giang Phàm hấp tấp nắm áo chàng, giữ lại:

– Đừng liều, đại ca! Nguy hiểm lắm!

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Người ta nuôi dưỡng cái tâm quyết hạ sát tại hạ, nếu tại hạ đứng đây, bất động, thì có khác nào ở lại mà chờ người ta hạ thủ? Bây giờ, còn có con Ngọc Xà, nó giúp chúng ta cầm cự một thời gian, nếu nó hoàn toàn kiệt lực rồi, thì chúng ta phải làm sao chứ? Ở lại mà chết, tại sao bằng liều tiến tới mà chết? Ở lại, là tuyệt vọng, tiến tới là cầu may, dù sao thì cũng có phần nào hy vọng.

Giang Phàm cho rằng chàng có lý, buông tay ra, rồi hỏi:

– Đại ca dùng biện pháp gì?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Còn biện pháp gì mà nói? Chúng ta có phương tiện chi, cứ sử dụng phương tiện đó, hoặc tay, chân, hoặc kiếm, hoặc rắn, bằng tất cả các cách đấm đá, chém cắn, bằng tất cả công lực, chỉ cần chúng ta vượt khỏi đàn ngô công, bắt được một người trong hai, là chúng ta tạo được ưu thế rồi!

Giang Phàm suy nghĩ một chút:

– Thế thì chúng ta nhờ Ngọc Xà xung phong khai lộ!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không được! Tiểu Ngọc cần được bảo vệ an toàn, để nó còn bảo vệ cô nương nữa chứ! Địch chỉ chú trọng vào tại hạ, họ chỉ xua đàn ngô công ngăn chận tại hạ mà không quan tâm đến cô nương. Trong lúc đó, cô nương sẽ dùng con Ngọc Xà mở rộng lối thoát, ra khỏi vòng vây trước. Một người thoát hiểm được rồi, là địch sẽ bối rối, hoang mang, tại hạ sẽ nhân lúc chúng phân tâm, dốc toàn lực vọt ra. Cô nương ra trước rồi, sẽ tìm cách chế ngự được một tên. Như vậy là thắng!

Giang Phàm rướm lệ:

– Giả như đại ca không ra được? Một mình tôi thoát chết đi, đại ca phải chết giữa đàn ngô công, thì tôi tìm cái sống một mình để làm gì?

Quan Sơn Nguyệt bật cười sang sảng:

– Cô nương thoát ra được, còn có trách nhiệm lớn lao cần được thi hành, cô nương nên nhớ là Mã Bá Ưu đang chờ đó, nếu hắn tìm được người kế vị ngôi Lịnh Chủ Minh Đà, thì sau nầy cô nương tiếp trợ Lịnh Chủ đời thứ ba ...

Giang Phàm khóc thành tiếng:

– Tôi không cần biết ai cả, trước cũng vậy, mà sau cũng thế, tôi chỉ biết có mỗi một mình đại ca thôi, tôi không quan tâm đến ngôi vị Lịnh Chủ, trừ ra vị Lịnh Chủ tương lai là con của chúng ta!

Quan Sơn Nguyệt bước tới, thì thầm bên tai nàng:

– Giang cô nương! Cô nương đã bằng lòng kết hôn với tại hạ rồi kia mà!

Tuy chúng ta chưa chánh thức thành vợ thành chồng, song dù sao thì cô nương cũng là vợ của Minh Đà Lịnh Chủ thì cái trách nhiệm của chúng ta là trách nhiệm chung, đợi gì phải có con với nhau, mới đặt thành vấn đề chung việc? Là vợ của tại hạ, cô nương phải lo cái việc của chồng, cô nương phải trân trọng mạng sống của mình, để hoàn thành chí nguyện của chồng, sau nầy nếu chúng ta may mắn được sống sót cả đôi, thì càng quý chứ sao?

Giang Phàm cảm thấy mặt nóng bừng bừng, lần thứ nhất nàng nghe những lời tình tự, lại do người mà nàng yêu nhất đời và nhất định trao gởi trọn số kiếp.

Nóng mặt vì không quen nghe những lời tha thiết như thế, nhưng sau cơn thẹn, đến niềm xúc cảm dâng lên, nàng để lệ nóng trào mi ...

Thốt xong mấy tiếng hầu như trăng trối đó, Quan Sơn Nguyệt quay mình bước đi. Chàng định xung phá vòng vây ngô công. Chàng bước ra, ngô công vồ vào. Chàng bước nhanh, ngô công cũng bò nhanh.

Đã quyết tâm rồi, thì dù là đầu, dù là mình, đuôi ngô công, chàng cũng chẳng chừa, cứ vung Hoàng Diệp Kiếm, chém ra tới tấp.

Kiếm ảnh chớp lên, bao bọc quanh chàng như bức tường đồng, vách sắt, đứng bên ngoài lấy nước mà bắn vào, cũng chẳng lọt qua một giọt nhỏ.

Dĩ nhiên, đàn ngô công bị chém tơi bời, trăm con biến thành ngàn đoạn, nhưng mỗi đoạn liền theo đó biến thành những con vật mới, thành hình xong là lướt tới.

Chàng càng vung kiếm nhanh, càng giết nhiều, ngô công càng sanh sanh hóa hóa nhiều.

Chàng xông xáo một lúc, ngô công trùng trùng điệp điệp tràn vào, từng lớp dợn dợn như những lượn sóng đổ cuốn vào bờ.

Quan Sơn Nguyệt tưởng đâu mình mở đường cho một lối đi không khó khăn lắm, song kết quả trái ngược, mường tượng một con thuyền buông bến sang sông, bờ đối diện càng lúc càng xa, cuối cùng con sông biến thành biển, và hiện tại thì bềnh bồng giữa biển cả.

Tuy nhiên, ngô công dù sanh hóa nhiều, song chẳng làm gì chàng được, bởi kiếm ảnh kín đáo vô cùng, bảo vệ chàng rất chặt chẽ, chẳng một con ngô công nào vào đến gần chàng.

Vòng đai ngô công giờ đây rộng độ vài mươi trượng, lớn hơn trước gấp hai.

Kỳ Hạo nhìn chàng vùng vẫy giữa biến ngô công, bật cười ha hả:

– Quan Sơn Nguyệt! Cái số phận của ngươi như vậy rồi, hãy cam chịu đi, làm cách nào ngươi cũng chẳng thoát đi được đâu. Ta có nói trước cho ngươi hiểu rồi mà, ngươi càng ngoan cố, cái khổ càng tăng. Hối hận cũng muộn rồi. Chỉ trong khoảng khắc nữa thôi, chúng sẽ cắn ngươi, ngươi phải chết vì chất độc của chúng!

Hắn càng thốt, Quan Sơn Nguyệt càng phẫn uất, song chàng không dám dừng tay, Hoàng Diệp Kiếm cứ chớp lên luôn luôn, ngăn chận ngô công từ mọi phía lăn xả vào.

Bất quá chàng không hùng hổ như trước, cốt giữ cho khí lực đừng quá tiêu hao, có như vậy mới kéo dài cuộc cầm cự, chờ tìm một biện pháp hữu hiệu. Hầu như chàng chỉ còn hất những con ngô công gần văng đi xa thôi, chàng tránh chém chúng đứt đoạn. Cho nên, thay vì chém bằng lưỡi, chàng dùng xống kiếm gạt phăng con nào gần nhất. Nhờ thế, số lượng ngô công không tăng gia nữa.

Nhưng, đàn ngô công càng lúc càng tiến tới mạnh mẽ, có con quá hăng, thay vì bò, lại phóng, lại bay, lướt qua đầu đồng loại.

Quan Sơn Nguyệt chợt biến đổi thủ pháp, thay vì hất, hoặc chém ngang, chàng lại dùng mũi kiếm phóng vào đầu ngô công, rồi chênh thân kiếm rọc nhanh chẻ con vật ra làm hai phần, từ đầu đến đuôi.

Hai mảnh bị chẻ đó, quả nhiên không sanh hóa nữa.

Tuy vậy chiến pháp mới mẻ này cũng chẳng giúp ích gì cho Quan Sơn Nguyệt. Bởi, ngô công không sanh hóa, thì những con còn sống tranh nhau mà ăn xác của con chết và sau khi đã ăn xác của đồng loại rồi, chúng lại biến lớn phi thường. Cuối cùng, cái khổ vẫn còn, đều đều, càng lúc càng gian nan hơn.

Vừa tự vệ, vừa trừ diệt ngô công, Quan Sơn Nguyệt vừa tiến tới, song cái biển ngô công cũng nhích động theo chàng. Chàng nhích một bước, ngô công theo một bước, chàng không làm sao xâm phạm vòng đai được nửa thước.

Bây giờ, có những con vật ăn xác đồng loại quá nhiều, chúng lớn và mạnh phi thường, có con trướng mình lên bằng cái thùng nho nhỏ.

Một con rết lớn bằng cái thùng, dù là thùng nhỏ, trông đáng sợ làm sao! Và với vóc lớn như vậy, nó phải dài ra, ít nhất chiều dài của chúng cũng ngoài sáu thước.

Song ngô công biến lớn như vậy, chẳng phải là một sự đáng mầng cho Kỳ Hạo và Tây Môn Vô Diệm. Chừng như sự kiện đó ngoài chỗ tưởng của họ nên cả hai không còn cười nữa.

Những con vật lớn gần bằng chiếc thùng nhỏ đó, không còn vâng theo lịnh điều khiển của họ, lạ lùng thay, chúng lại hướng về họ mà bò đến, thay vì tấn công Quan Sơn Nguyệt!

Tây Môn Vô Diệm huýt sáo miệng rất gấp, nhờ thế mà đàn ngô công tránh né nàng, chẳng con nào dám đến gần.

Chúng tránh né nàng, để quay sang Kỳ Hạo. Quanh mình hắn đã có hơn mấy mươi con bao vây rồi, mà toàn là những con vật cực kỳ to lớn.

Hắn hoảng quá, hét lên:

– Tây Môn Hộ Pháp, gọi gấp chúng đi nơi khác! Bảo chúng lùi lại ...

Tây Môn Vô Diệm lắc đầu, giương tròn đôi mắt, cao giọng đáp:

– Gọi làm sao được! Chúng đâu còn tuân lịnh của tôi nữa? Muốn ra lịnh cho chúng rút lui thì phải ra lịnh cho toàn thể, chứ đâu có thể điều động riêng rẽ như thế? Và ra lịnh cho tất cả rút lui rồi, mình cũng phải rút lui luôn, như vậy là mình không ngăn chận nổi Quan Sơn Nguyệt!

Nghe đối phương bàn luận với nhau như vậy, Quan Sơn Nguyệt mầng thầm, niềm vui phấn khởi, tinh thần lên cao ngay. Chàng vung kiếm vù vù. Chàng nhận thức một sự kiện, là càng tạo mồi cho ngô công, chúng càng ăn nhiều càng lớn, những con nào lớn quá lại không tuân lịnh của Tây Môn Vô Diệm nữa. Do đó, chàng cố giết thật nhiều ngô công nhỏ, cho những con chưa đủ vóc nốc vào, theo kịp những con quá lớn.

Không lâu lắm, một con lớn ăn một con nhỏ không đủ no, chúng nốc một lần cả ba bốn xác đồng loại, ăn nhanh, ăn nhiều như vậy, chúng phải lớn nhanh, lớn phi thường.

Rồi đến lúc chúng chẳng cần chờ chàng giết, con lớn tìm con vừa vừa mà ăn, mà sống, con vừa vừa tìm con nhỏ hơn mà ăn. Cuối cùng thì con nhỏ chẳng còn, bây giờ đàn ngô công gồm toàn những con quá lớn. Và hầu hết những con lớn đó đều quật ngược trở lại bọn Kỳ Hạo, Tây Môn Vô Diệm.

Kỳ Hạo quét nhanh chiếc lưỡi cày, bảo vệ toàn thân, còn Tây Môn Vô Diệm không vũ khí, phải dùng ống trúc nhốt hai con ngô công nguyên thủy mà xua đuổi chúng.

Hiện tại, tại cục trường chỉ còn hơn mười con ngô công, tất cả đều hướng về Kỳ Hạo và Tây Môn Vô Diệm, chỉ còn ba con vây quanh Quan Sơn Nguyệt. Ba con này dài ít nhất cũng hơn hai trượng, thân xác chúng phải to lớn, dù Quan Sơn Nguyệt nhanh tay đến đâu, cũng chẳng làm sao chạm kiếm đến mình chúng được.

Phần Kỳ Hạo và Tây Môn Vô Diệm, mỗi người bị bốn năm con bao vây, những con nầy có chiều dài không đồng đều nhau, con ngắn nhất chỉ hơn một trượng, con dài nhất ngoài ba trượng.

Thật là kinh khủng! Kẻ nào yếu vía, trông thấy loại ngô công khổng lồ đó, tất phải xỉu ngay!

Chỉ có một con ghìm Giang Phàm, chừng như giám thị nàng vậy thôi, chứ không tấn công.

Ngọc Xà cũng hết sức đề phòng, sẵn sàng can thiệp nếu con ngô công đó phóng tới bất ngờ.

Quan Sơn Nguyệt thấy tình hình biến chuyển rất thuận lợi cho chàng, chàng bật cười lớn, gọi:

– Kỳ Hạo! Tây Môn Vô Diệm! Chắc các ngươi không tưởng nổi là có hậu quả như thế nầy! Các ngươi định hãm hại ta, chính các ngươi cũng vô phương thoát khỏi.

Kỳ Hạo nghiến răng:

– Không thoát khỏi thì ta quyết cùng ngươi đồng quy ư tận.

Quan Sơn Nguyệt đinh ninh là hắn sẽ liều mạng nhào tới, quyết liều sống chết với chàng. Ngờ đâu, hắn hoành chiếc lưỡi cày, chặt một cánh tay của hắn, rồi buông chiếc lưỡi cày, dùng tay còn lại chụp cánh tay bị chặt, quăng sang Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt vung kiếm chém tới, cánh tay đó đứt đoạn.

Máu từ người Kỳ Hạo phún ra, máu của cánh tay đứt rơi vãi quanh mình Quan Sơn Nguyệt.

Mấy con ngô công ngửi mùi máu tanh, như điên cuồng, vọt mình tới.

Một con đã ngoạm Kỳ Hạo nơi miệng, đưa hắn lên cao, đầu nó vung qua vung lại, trông đáng sợ vô cùng.

Ba con ngô công vây Quan Sơn Nguyệt cũng nhào tới, một con nghinh chính diện, hai con ở hai bên tả hữu, cả ba cùng vươn càng, mỗi chiếc càng to bằng thanh đao, sáu chiếc từ ba phía chớp chớp quanh mình Quan Sơn Nguyệt.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 55

Tình Chung Bất Lão

Quan Sơn Nguyệt vận dụng toàn lực vung kiếm chém vào đôi càng của con rết khổng lồ gần chàng hơn hết.

Chiêu kiếm đó thành công, càng con Ngô Công đứt đoạn, nhưng chàng liền nghe tiếng gió bên mình. Một con Ngô Công đã lướt đến gần, rồi chàng cảm thấy mình chẳng khác nào Kỳ Hạo bị nâng lên cao.

Chàng kinh hãi, thức ngộ là mình đang ở trong miệng một con rết. Niềm sợ hãi không hiện lâu, sau đó chàng nghe áp lực nơi hông tuy có tăng cường song không làm gì thương tổn đến chàng cả.

Bất quá, nếu chàng dụng lực vùng vẫy, thì áp lực đó tăng cường, đôi càng của con Ngô Công bám sâu vào da thịt, làm chàng đau đớn phần nào, nhưng khi chàng ngưng vận lực, thì áp lực đó cũng tan biến và niềm đau đớn cũng tan biến luôn.

Bên kia, Kỳ Hạo cũng đồng tình cảnh như chàng, song hắn không thức ngộ sự kiện, càng phản kháng, Ngô Công càng tăng áp lực, hắn sợ Ngô Công dùng càng, kẹp đứt hông, nên vận lực chống lại, ngờ đâu hắn càng dụng lực, Ngô Công càng tăng áp lực. Đôi càng của Ngô Công càng phút càng bán sâu vào, hắn càng phút càng đau đớn, cuối cùng mồ hôi đổ ra như tắm, trông hắn thê thảm quá chừng. Sắp đến giây phút hắn không còn chịu đựng nổi nửa.

Có cắn đứt người, Ngô Công mới nuốt được, ngậm miếng mồi ngon, mà không ăn được, dĩ nhiên con Ngô Công bực tức, nó thổi gió hu hú, nó lăn mình như giãy giụa.

Quan Sơn Nguyệt thấy con vật không làm gì nổi chàng, đắc chí vô cùng, bật cười ha hả.

Cái điều lạ lùng nhất trong trường hợp này, là nạn nhân có vận lực, Ngô Công mới cắn được, nạn nhân bất động, thì con vật chẳng làm gì được.

Bên kia Giang Phàm cũng bị một con Ngô Công giám thị, sở dĩ nó chưa dám làm hỗn, là vì con Ngọc Xà hờm hờm chống cự với nó. Một phần khác, Giang Phàm bất động, thủ thế chực chờ con vật nhào tới, con vật cũng khá tinh khôn, biết mình đơn độc, và đối phương có đề phòng nên ở ngoài xa xa, ghìm sẵn, nó thèm mồi quá chừng, nước dãi rỏ ra, chảy lòng thòng. Nhưng Giang Phàm không bất động lâu, bởi nàng trông thấy con Ngô Công đã ngoạm trúng Quan Sơn Nguyệt, dùng càng gắp chàng đưa lên cao rồi lăn lộn. Nàng hết sức khiếp hãi, bất chấp đến con vật bên mình, cấp tốc lướt tới cạnh Quan Sơn Nguyệt.

Con Ngô Công chỉ chờ có thế, nó cũng chẳng để mất một phút giây, phun ra một luồng khí độc.

Ngọc Xà cũng phản ứng liền. Nó cất cao chiếc đuôi, quét một vòng, ngăn chặn luồng khí độc, đồng thời nó vươn mình, dài ra hơn trước gấp mấy phần.

Thân ngắn nên mình thô, bây giờ thân dài mình phải thon lại, trước đó mình nó to bằng cánh tay, bây giờ thon lại chỉ còn bằng ngón tay. Với cái mình thon dài đó, Ngọc Xà quấn quanh con Ngô Công rồi quật con Ngô Công trên mặt đất.

Nhờ con Ngọc Xà ngăn chặn Ngô Công, Giang Phàm được bình an tiến đến cạnh Quan Sơn Nguyệt. Nàng hấp tấp gọi chàng:

– Quan đại ca! Đại ca ...

Quan Sơn Nguyệt nằm trong miệng rết, an tường như nằm giường êm, vừa cười hì hì vừa đáp:

– Giang cô nương! Tại hạ chẳng sao cả, hãy tự lo đến mình là hơn.

Đúng vậy, nàng nên tự lo lắng là hơn, bởi vì vô hình trung nàng lại dấn thân vào nguy cảnh.

Có ba con Ngô Công bao vây Quan Sơn Nguyệt trước đó, một con thì bị chàng chém đứt đôi càng, ngoài cái việc phun khí độc ra, nó chẳng còn làm gì hại chàng được. Một con thì đang ngoạm chàng, chốc chốc lại lăn lộn. Thừa ra một con, con thứ ba này gặp nàng, là không bỏ qua, nó giương càng nhào tới liền.

Thành ra, nàng thoát nạn nhờ con Ngọc Xà ngăn chặn một con Ngô Công bây giờ nàng lại gặp một con khác. Nguy hơn nữa, là trong tay nàng không có một tấc sắt!

Tuy nhiên, vũ công của nàng đã đến mức tinh thuần, có thể dùng tay không chống địch như có cầm vũ khí. Lập tức nàng vung cánh tay ra.

Ống tay áo của nàng rất dài, cánh tay bay ra, tay áo bay theo, dài lê thê, tay áo mang theo kình lực của nàng, quét ngang đầu con Ngô Công, nó bị dạt qua một bên, bỏ hẳn thế công.

Con Ngô Công khi nào chịu bỏ món mồi ngon, nó quay đầu lại, lướt tới.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Cô nương! Tiếp nhận cái này đây!

Chàng quăng thanh kiếm Hoàng Diệp đến cho nàng, chàng nhận thấy tuy ống tay áo của Giang Phàm có ngăn chặn được con Ngô Công, song bất quá chỉ tạm thời thôi, đôi càng của nó sắc bén như đao, qua mấy lượt nữa là ống tay áo của nàng sẽ rách bét, lúc đó thì nàng chẳng còn vật gì mà dùng nữa. Huống chi, tay áo là vật mềm mại, chẳng làm thương tổn gì cho con vật, nàng cầm cự như vậy là chẳng khác nào chờ nguy. Hiện tại, chàng không cần dùng thanh kiếm, thì nên trao cho nàng tự vệ, hạ được con Ngô Công đó rồi, rất có thể nàng sẽ tiếp trợ chàng bằng cách hạ luôn con vật đang ngậm chàng.

Giang Phàm nhặt thanh kiếm cầm nơi tay xong, là con Ngô Công cũng đến gần. Nàng thừa hiểu, bất cứ lý do gì, cũng không nên chém vào mình con vật, bởi giết nó là có hại thay vì có lợi. Những biến hóa vừa qua cho nàng thấy là tuyệt đối không nên giết nó.

Kiếm chạm vào, một tiếng bốp vang lên, đôi càng của con vật còn nguyên vẹn.

Sở dĩ có trường hợp đó, chẳng phải thanh kiếm trở thành vô dụng, hoặc giả đôi càng Ngô Công cứng như kim cương, mà chỉ vì công lực của Giang Phàm không bằng Quan Sơn Nguyệt, oai mãnh phát huy còn kém. Đành rằng nàng có hơn Kỳ Hạo, song so với Quan Sơn Nguyệt thì nàng còn kém xa lắm.

Kỳ Hạo kém nàng, là vì Kỳ Hạo còn tầm thường, chứ nàng kém Quan Sơn Nguyệt, là vì Quan Sơn Nguyệt chuyên luyện thuần cương, còn nàng thì chuyên luyện thuần nhu.

Dĩ nhiên, cương phải mãnh hơn nhu, cương thì công kích mạnh, nhu thì len lỏi, chờ dịp. Ở đây, đem cái nhu chống lại cái cương của đôi càng Ngô Công, tự nhiên Giang Phàm khó đắc thủ. Về vũ thuật, nhu khắc cương nhưng so khí lực thì cương thắng nhu là cái chắc.

Hoàng Diệp Kiếm, cũng như Bạch Hồng Kiếm, vốn thuộc cương, mà nàng thì chuyên luyện ôn nhu, thì làm sao nàng phát huy được cái hiệu dụng của thanh kiếm?

Chẳng những nhát kiếm đó không làm thương tổn đôi càng của con vật, mà nàng lại còn bị chấn động mạnh, cơ hồ lỏng ngón tay, kiếm suýt văng mất.

Nàng lùi lại mấy bước.

Tuy đôi càng của con Ngô Công còn nguyên vẹn, bất quá chỉ xây xát một chút thôi, tuy nhiên nó cũng bị chấn động mạnh, đau đớn lắm, nó không dám tấn công Giang Phàm nữa, mà lại hướng về Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt còn bị con Ngô Công kia ngoạm nơi miệng đưa chàng lên cao, phần giữa bị đôi càng kẹp cứng, chỉ còn ló hai phần đầu, chân dù không nghe đau đớn gì, song chàng không làm sao động đậy được.

Con Ngô Công thứ hai nhắm vào thân trên của chàng mà công vào.

Chàng thừa hiểu, dù nó có ngoạm trúng, cũng chẳng đến đổi nào, nhưng để như vậy là mạo hiểm, chàng liền vươn hai tay ra, chụp đôi càng của nó lại, chẳng cho đến gần mình.

Chàng chụp đôi càng, như vậy là con Ngô Công có ngoạm trúng một vật chi đó rồi, nó không còn màng điều khác nữa, cặp đôi càng lại.

Quan Sơn Nguyệt nhanh như chớp buông một tay, còn một tay nắm cứng một chiếc càng, may mắn cho chàng là nắm đúng chỗ sứt mẻ, có lẽ lúc ăn xác đồng loại, nó ngoạm phải vật gì cứng nên sứt mẻ một khoảng. Hai chiếc càng cặp vào nhau, bàn tay của Quan Sơn Nguyệt lại nắm ngay chỗ sứt mẻ đó, nên chàng chẳng việc gì.

Con vật ngoặc đầu xuống, định bẻ gãy tay Quan Sơn Nguyệt nhưng chàng lại cứ nắm chặt chiếc càng, không chịu buông.

Vì chàng có vận dụng phần nào công lực để đối phó với con Ngô Công thứ hai, nên áp lực của con Ngô Công thứ nhất tăng gia, đôi càng kẹp mạnh, chàng nghe đau nhói một chút.

Thực ra, chàng không sợ hai con vật ngoạm mạnh, tuy nhiên, mỗi con ngoạm một phần, rồi hai con giành kéo nhau, thì đó mới là cái khổ cho chàng.

Cho nên, dù có vận lực chút ít để cố giữ chiếc càng của con thứ hai, khiến cho áp lực của con thứ nhất tăng gia, chàng cũng cố gượng chịu đau, nhất định không buông càng con thứ hai.

Nó vung, nó quật đầu một lúc, vẫn không thoát khỏi bàn tay của Quan Sơn Nguyệt.

Đột nhiên, vừa lúc đó, chàng cảm thấy hông nhẹ nhõm.

Thì ra, con thứ nhất làm mọi cách mà không làm sao nuốt trôi Quan Sơn Nguyệt, nó tức giận vô cùng. Rồi lại thấy con thứ hai lướt tới, giằng co với Quan Sơn Nguyệt, nó tưởng đâu đồng loại tranh mồi, nó càng tức uất hơn, lập tức trút đổ niềm tức uất đó lên đầu đồng loại, nó nhả Quan Sơn Nguyệt ra, chuyển đầu về phía con Ngô Công thứ hai há mồm, ngoạm tới.

Được dịp thoát thân, Quan Sơn Nguyệt không chậm trễ, vừa buông tay vừa nhảy xuống đất.

Trong khi đó, hai con Ngô Công xáp chiến với nhau rồi chúng quấn vào nhau, lăn lộn đè lên nhau, quyết tận diệt lẫn nhau.

Giang Phàm thấy Quan Sơn Nguyệt thoát hiểm, cao hứng vô cùng, gọi to:

– Quan đại ca! Chúng ta nhân dịp nầy, chạy đi gấp!

Quan Sơn Nguyệt nhìn quanh một lượt, thấy Kỳ Hạo bị một con Ngô Công ngoạm ngang hông, hắn đang vùng vẫy cố thoát khỏi cặp càng của con vật, khổ sở vô cùng, chừng như hắn đã tiêu hao hết khí lực.

Bên ngoài, không xa lắm, còn có ba con Ngô Công nữa, chực chờ, nếu đồng loại của chúng thất bại thì chúng sẽ nhào vô.

Cầm cự với một con, Kỳ Hạo còn vất vả, huống chi, dù hắn có thoát khỏi sự chế ngự của con thứ nhất, công lực của hắn cũng hao mất phần lớn rồi, làm sao hắn áp đảo nổi ba con kia? Cứ theo tình hình đó, thì Kỳ Hạo kể như thập tử vô sanh rồi.

Ba con vật bên ngoài, chẳng phải vì tình đồng loại, mà không nhào vô giành giật mồi ngon, chẳng qua chúng nhỏ xác hơn, chúng ngán con thứ nhất, cho nên chúng hờm đó, giả như con thứ nhất cắn đứt hông Kỳ Hạo, bất quá nó ăn một phần, phần còn lại thì cả ba con lại giành nhau.

Nơi một góc, Tây Môn Vô Diệm đang dùng ống trúc chống cự với mấy con Ngô Công, thực sự thì chúng không dám công kích mạnh nàng, trái lại nàng cũng không còn điều khiển chúng được như trước, thành thử người và vật ghìm nhau, người không xua đuổi vật, vật chẳng dám xông vào, nhưng không bỏ.

Còn một con Ngô Công riêng rẽ, to lớn hơn hết, thì lại bị Ngọc Xà ngăn chặn, rết và rắn giao chiến rất ác liệt, càng lúc Ngọc Xà càng thu hẹp thân hình, thân hình càng nhỏ thì nó càng dài, bây giờ nó nhỏ lại còn bằng ngón tay út. Nó quấn quanh mình con Ngô Công, nó giữ con Ngô Công lại đó, không cho con Ngô Công tiến công Giang Phàm.

Quan Sơn Nguyệt hỏi Giang Phàm:

– Chúng ta chạy đi thì được rồi, nhưng còn Tiểu Ngọc?

Nghe nhắc đến nó, Tiểu Ngọc rít lên mấy tiếng gió.

Giang Phàm giải thích:

– Tiểu Ngọc bảo chúng ta cứ chạy trước, nó sẽ có cách thoát thân, nó theo sau. Mấy con Ngô Công đó không làm hại được nó đâu, nó đợi cho con Ngô Công đuối sức rồi, sẽ có cách chế phục, rồi nó thoát chạy theo chúng ta. Nếu bây giờ không chạy, chần chờ một lúc nữa thì sẽ không còn cơ hội đấy!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Sợ cái gì chứ mấy con Ngô Công đó khi nào lại chịu bỏ mồi? Trong chốc lát đây, hai kẻ hại người kia sẽ bị chúng hại, chúng chết vì cơ mưu của chúng, đúng là gậy ông đập lưng ông!

Giang Phàm hấp tấp thốt:

– Ngô Công ăn thịt người, sẽ chóng lớn và rất mạnh, hiện tại chúng ta còn không làm gì nổi chúng, nếu đợi chúng ăn thịt Kỳ Hạo và Tây Môn Vô Diệm rồi, chúng ta làm sao chống cự nổi chúng?

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Quả có như vậy sao?

Giang Phàm nóng nảy:

– Tự nhiên! Tôi lừa đại ca làm gì? Tôi từng thấy Xà Thần nuôi dưỡng rắn bằng cách đó, chúng chỉ ăn thịt thôi, không hề ăn gì khác!

Quan Sơn Nguyệt biến sắc mặt, chụp lấy thanh Hoàng Diệp kiếm nơi tay nàng, rồi nhanh như chớp phi thân về hướng Kỳ Hạo.

Ba con Ngô Công hườm bên ngoài, trông thấy chàng, liền xông tới công kích. Ba con Ngô Công này không lớn lắm, đối phó với chúng, Quan Sơn Nguyệt không phải vất vả gì, chàng vung kiếm ra chém đứt những cặp càng của chúng rất dễ dàng, đoạn chàng quay sang Kỳ Hạo.

Kỳ Hạo lúc đó kiệt quệ lắm rồi, thấy ánh kiếm chớp lên, hoảng kinh hét lớn:

– Quan Sơn Nguyệt, ngươi tàn độc quá!

Tiếng hét vừa dứt, hắn rơi xuống đất ngay.

Thì ra, nhát kiếm đó, Quan Sơn Nguyệt không chiếu thẳng đến người hắn mà chàng chỉ nhằm vào con Ngô Công.

Nhát kiếm trúng một chiếc càng, càng gãy ngay, chàng hoành tay chém một nhát kế tiếp, chiếc càng kia cũng gãy luôn.

Đôi càng đều gãy, con Ngô Công không còn ngoạm Kỳ Hạo được nữa, nó há miệng ra, Kỳ Hạo rơi xuống.

Kỳ Hạo không tưởng nổi là Quan Sơn Nguyệt lại cứu hắn, hắn rơi xuống rồi sững sờ nhìn chàng.

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt không hề lưu ý đến hắn, vừa chém đứt đôi càng của con Ngô Công, chàng quay nhanh mình, phóng chân vọt đến Tây Môn Vô Diệm.

Bây giờ thì chàng có thừa kinh nghiệm, đối phó với con Ngô Công.

Đến nơi, chàng vung kiếm luôn, không nhắm vào mình rết, mà chỉ nhắm vào càng.

Qua mấy nhát kiếm, chàng chặt đứt tất cả mấy cặp càng của rết, chúng mất càng, trở thành vô dụng, chỉ còn ở ngoài xa xa, phun hơi độc mà thôi.

Tây Môn Vô Diệm lại được giải thoát tai nạn thở phào nhẹ nhõm.

Quan Sơn Nguyệt hỏi gấp:

– Hơi độc của Ngô Công làm hại người chăng?

Tây Môn Vô Diệm do dự một chút:

– Có! Bọn ta có uống thuốc giải độc, nên chẳng sao, còn các ngươi ...

Giang Phàm «hừ» một tiếng:

– Ta từ nhỏ, ăn rắn độc mà sống, còn Quan đại ca thì có uống huyết con Hàn Xà, chúng ta cũng chẳng sợ độc. Các ngươi lưu lại những con vật ác độc này, chỉ làm hại cho thiên hạ, chứ không làm gì nổi chúng ta!

Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

– Có cách gì làm cho tiêu giảm hơi độc đó chăng?

Tây Môn Vô Diệm lắc đầu:

– Không có biện pháp gì cả! Bất quá để cho gió thổi qua, cuốn hơi độc đi loãng dần trong không gian, đưa luôn lên núi, sau đó tiêu tan luôn, chẳng còn sợ hại nữa.

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Thay vì đưa lên núi, nếu gió thổi ngược lại đồng bằng, vào dân gian, thì sao?

Tây Môn Vô Diệm lại do dự một chút:

– Nếu con người trúng hơi độc đó, thì mình mẩy sưng vù lên rồi nứt da, chảy mủ mà chết. Có thể chất độc đó phát sanh ra chứng ôn dịch, bởi Tử Mẫu Phi Ngô Công còn có cái tên là Ôn Dịch Ngô ...

Quan Sơn Nguyệt chính sắc mặt, trách cứ:

– Các ngươi vì đối phó độc có một mình ta, mà dám hạ thủ đoạn gây tai hại luôn đến người đời, thì trời nào để cho các ngươi hưởng thọ lâu dài? Cái họa ôn dịch này, các ngươi làm sao hóa giải được chứ?

Tây Môn Vô Diệm cúi đầu, như có vẻ hối hận, lâu lắm, nàng mới thấp giọng thốt:

– Ta không ngờ sự tình diễn tiến đến trình độ này! Chính ta cũng không biết Ngô Công biến lớn như vậy! Ngươi thấy chứ, cuối cùng ta cũng đành bó tay, không còn điều khiển chúng được như ý muốn.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Chính ngươi là chủ nhân của chúng, ngươi tung chúng ra làm gì không biết hậu quả?

Tây Môn Vô Diệm hấp tấp đáp:

– Thật tình ta không biết! Những con Ngô Công đó, do Trương Vân Trúc trao cho ta, lão dạy ta cách khống chế, điều khiển chúng mà! Sau rốt, chúng không còn tuân lịnh ta nữa, nếu không nhờ ngươi giải cứu thì ...

Quan Sơn Nguyệt hét lên:

– Trương Vân Trúc! Ta phải tìm cho gặp lão ấy, hỏi lão mấy câu ...

Tây Môn Vô Diệm thở dài:

– Ta cũng chẳng dung thứ cho lão ấy được! Lão đã hại ta ...

Con Tiểu Ngọc đột nhiên rít mấy tiếng gió ...

Giang Phàm gấp giọng:

– Đại ca, Tiểu Ngọc cho biết là nó có thể hóa giải hơi độc đó, nó bảo đại ca tiếp trợ nó, giết con Ngô Công đang giao đấu với nó, nó rảnh rang, sẽ giải trừ hơi độc, trước khi có gió cuốn đến.

Quan Sơn Nguyệt phấn khởi tinh thần, kêu lên:

– Phải đó! Vừa rồi, con Ngô Công to lớn phun hơi độc, Ngọc Xà đã hút hết rồi. Tại hạ phải tiếp trợ nó ngay!

Chàng vừa lướt tới vừa vung kiếm. Chàng đánh ra một nhát kiếm rất mạnh, một tiếng cốp vang lên, thanh kiếm bị bật trở lại, đôi càng của con Ngô Công chẳng hề sứt mẻ. Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:

– Con vật có sức mạnh vô cùng, tại hạ không áp đảo nó nổi!

Tiểu Ngọc lại rít gió.

Giang Phàm giải thích:

– Tiểu Ngọc bảo, đâm vào mắt Ngô Công ...

Quan Sơn Nguyệt vung kiếm liền. Chàng đâm tới, dĩ nhiên là phải đắc thủ, con Ngô Công bị thủng mắt, đau quá, nhào lộn kịch liệt trên mặt đất.

Tiểu Ngọc nhân cơ hội đó, chui qua miệng Ngô Công, vào bụng, trổ đuôi mà ra.

Con Ngô Công to lớn đó giãy giụa một lúc, rồi bất động. Nó bị con rắn xuyên bụng từ đầu đến đuôi, tự nhiên phải chết.

Con Ngọc Xà chưa ngừng hoạt động, nó tìm một con Ngô Công khác, cứ theo cách đó, để giết chết từng con Ngô Công một.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:

– Nó làm chi thế, có phải là phí công chăng? Những con Ngô Công đó còn cắn ai được nữa mà giết?

Giang Phàm mỉm cười:

– Chúng không cắn được, song chúng vẫn phun được khí độc như thường.

Nếu không tiêu dệt chúng, thì cái họa sẽ lưu liên mãi, tai hại trong dân gian không nhỏ. Giả như gặp những người không biết chúng có đặc tánh sanh hóa, chặt chúng thành nhiều đoạn, thì chúng sanh sôi nẩy nở lan tràn, tạo thành một giống độc hại đời. Do đó, Tiểu Ngọc mới chịu phí công như vậy.

Quan Sơn Nguyệt tỉnh ngộ, điểm một nụ cười:

– Xem ra, con Ngọc Xà cũng thông minh đấy chứ!

Ngọc Xà hành động rất nhanh, trong khoảng khắc, nó xuyên thủng bụng hơn mười mấy con Ngô Công, sau đó nó thu hình lại như cũ, rồi há miệng hút hết khí độc trong không gian. Nó làm xong công việc đó trong mấy phút thôi.

Quan Sơn Nguyệt thở phào, thốt:

– Đa tạ ngươi nhé, Ngọc Xà! Nhờ ngươi mà một tai họa chấm dứt ...

Ngọc Xà rít gió, đầu hướng về Quan Sơn Nguyệt, gật gật.

Giang Phàm cười hì hì:

– Nó nói nó cảm ơn đại ca đó, mật và khí độc của những con Ngô Công, tuy có hại cho người đời, song đối với nó thì lại rất bổ ích, hôm nay nó hưởng dụng rất đầy đủ ...

Quan Sơn Nguyệt cũng cười theo nàng. Chàng nhìn qua Tây Môn Vô Diệm và Kỳ Hạo, hỏi:

– Bây giờ, các ngươi còn muốn nói gì nữa chăng?

Tây Môn Vô Diệm trầm ngâm một lúc, rồi đáp:

– Về kiếm thuật, bọn ta không bằng ngươi, còn Tử Mẫu Phi Ngô thì cũng bị tiêu diệt hết rồi, chúng ta còn nói gì được nữa? Các ngươi muốn xử trí cách nào, cứ tùy tiện mà hành động.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ giây lâu, đoạn chính sắc mặt nói:

– Luận theo hành vi của các ngươi từ trước, thêm lần nầy ra mặt chống đối ta, ta nhận thấy không thể dung thứ cho các ngươi được. Nhưng, bình sanh ta không hề sát hại những kẻ chẳng còn sức lực phản kháng ...

Tây Môn Vô Diệm chận lời:

– Nếu thật sự ngươi muốn giết ta, thì ta sẽ tạo cho ngươi một cơ hội, ngươi hãy cấp cho ta một thanh kiếm, ta dùng kiếm đó, giao đấu với ngươi, ta sẽ liều mạng đánh với ngươi, bắt buộc ngươi phải tự vệ, trong trường hợp đó, ngươi có giết ta, cũng là quang minh chánh đại lắm.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Ngươi không muốn sống?

Tây Môn Vô Diệm thở dài:

– Có sống thêm bao lâu nữa, cũng chẳng sung sướng gì! Tạ Linh Vận đối với ta sẽ không còn ... xem trọng nữa đâu! Hà huống, chính ngươi cứu ta từ miệng con Tử Mẫu Phi Ngô, ta nợ ngươi một cái ơn ...

Quan Sơn Nguyệt trầm tư một lúc, rồi vẫy tay:

– Được rồi, ta không có ý cứu ngươi, nhưng đã cứu rồi thì ta chẳng bao giờ hạ thủ nữa, ngươi hãy đi đi, tốt hơn là từ nay ngươi đừng trợ giúp Tạ Linh Vận làm điều tàn ác, có như thế ngươi mới tránh chịu chung cái hậu quả mà hắn sẽ tiếp thọ trong một ngày gần đây!

Tây Môn Vô Diệm u buồn ra mặt:

– Nào ta có muốn theo Tạ Linh Vận đâu? Chẳng qua một con người không đất dung thân thì còn chọn lựa làm sao được, khi trời đất rộng bao la mà ta chỉ có một chỗ đứng duy nhất, và cái chỗ đứng đó lại chính Tạ Linh Vận dành cho ta!

Ta không đứng chỗ đó thì còn đặt chân vào đâu nữa?

Quan Sơn Nguyệt thốt gấp:

– Ngươi sợ chúng ta theo dõi ngươi, tìm cách hãm hại ngươi à? Không đâu, ngươi đừng lo sợ hão huyền, chỉ cần ngươi ly khai hắn, là bọn ta hoan nghinh ngươi lắm đó. Mọi sự hiềm khích giữa ngươi và chúng ta, cầm như hóa giải hoàn toàn.

Tây Môn Vô Diệm lắc đầu:

– Ngươi định thuyết phục ta trở mặt với Tạ Linh Vận như Mã Bá Ưu đã làm à?

Không! Chẳng khi nào ta tham gia chiến dịch của các ngươi chống lại Tạ Linh Vận đâu! Dù y không thích ta nữa, song từ lâu y vẫn là người lý tưởng của ta, thà người phụ ta, chứ ta không phụ người.

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Thế thì tùy ngươi vậy! Lời nói trung chánh của ta, ngươi chẳng chịu nghe thì thôi, ta còn biết làm sao? Bất quá, ta thấy cần phải nói với ngươi câu này, là ngươi và Tạ Linh Vận không thể nào thành một đôi tương xứng!

Tây Môn Vô Diệm ảm đạm vô cùng. Nàng gật đầu cất giọng áo não:

– Ta hiểu lắm chứ, Quan Sơn Nguyệt! Ta hiểu từ trước kia, từ lâu lắm rồi, chẳng đợi đến ngày nay mới thức ngộ, hay là nhờ ngươi để tỉnh. Cho nên không bao giờ ta ích kỷ đến độ mong cầu Tạ Linh Vận dành trọn tâm ý cho ta. Y cho ta bao nhiêu, ta tiếp nhận bấy nhiêu, y lạnh nhạt với ta, ta âm thầm chịu đựng, y lợi dụng ta, ta sẵn sàng làm tất cả cho y. Ta yêu đơn phương mà không hề mơ ước được yêu lại. Nhưng ngày nay thì ta không còn mong mỏi gì ở nơi y nữa, kể cả thứ tình giả dối, y cũng chẳng dành cho ta, nói chi chân tình? Ta hiểu lắm, khi con người sanh ra với một dung mạo xấu xí, thì đừng bao giờ nuôi ảo tưởng sống bên cạnh một hoàng tử. Sư nương của ta còn lưu lại cái gương chưa mờ, ta có ngu xuẩn gì mà chẳng thấu đáo lòng dạ thế nhân? Tuy nhiên sánh với sư nương, ta thấy có phúc hạnh hơn ...

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Ngươi hạnh phúc hơn bà ấy?

Tây Môn Vô Diệm gật đầu:

– Luận về vũ công, ta không bằng sư nương, luận về tình ái, thì sư phụ ta luôn luôn muốn giết bà, còn Tạ Linh Vận không hề có ý đó. Ta cùng sư nương đồng bị tình phụ, như nhau, song ta hơn sư nương ở cái chỗ là người ta yêu không đến đổi quá tàn ác đối với ta. Như vậy là phúc hạnh rồi, phải không?

Quan Sơn Nguyệt thừ người một lúc, cuối cùng thở dài:

– Ngoại mạo của ngươi, tuy xấu, nhưng nội tâm thì rất đẹp. Ngươi vốn tính thiện lương đó, nếu ngươi đừng mơ vọng quá phận, thì chắc chắn là có người yêu ngươi chí tình, đãi ngươi chí nghĩa.

Tây Môn Vô Diệm lắc đầu:

– Muộn rồi! Quá muộn rồi! Năm xưa, ta thất thân với Tạ Linh Vận, là vì mạng lệnh của sư phụ, hơn nữa, vì nhu cầu luyện công. Từ ngày đó, ta đã biết cái số của ta là một chuỗi ngày sầu muộn, khổ đau! Tuy nhiên, ta cam chịu, và nếu ta còn sống sót ngày nào, là ta dành ngày đó, tận tâm tận lực giúp cho Tạ Linh Vận thành công.

Quan Sơn Nguyệt không tán đồng quan niệm đó, cãi:

– Ngươi và Lý Trại Hồng, tao ngộ như nhau, tại sao Lý Trại Hồng ...

Tây Môn Vô Diệm chận lời:

– Lý Trại Hồng xinh đẹp, có quyền chọn lựa, có hy vọng gặp người đáp đúng sở thích, cho nên nàng ly khai Tạ Linh Vận dễ dàng như cởi bỏ một chiếc áo bất đắc dĩ phải mặc. Còn ta, trời sanh ra xấu xí, ta không có quyền chọn lựa, vớ được Tạ Linh Vận là tốt phúc lắm rồi, khi nào ta có gan bỏ y? Dù biết rằng cho mười ta không nhận lại một, vẫn cứ cho, ta vui trong cái cho, chứ không cần cái nhận.

Nàng thở dài, tiếp luôn:

– Ta nói rằng muộn, trong cái quan niệm làm lại cuộc đời, song thực ra, dù không muộn ta cũng thế thôi. Xưa nay, những nữ nhân xấu xí thường là mạng bạc, cái công lệ đó đã có từ vạn cổ, đến mãi mãi muôn đời sau vẫn còn! Nếu bây giờ, ta còn là thanh thiếu ta cũng chẳng dám mơ vọng một người chồng biết yêu ta, mến trọng ta! Ngươi nên hiểu là nữ dọa xoa chỉ có thể lấy hạng Mã Diện Ngưu Đầu làm chồng, còn tiên đồng là thứ dành cho bọn giai nhân mỹ nữ.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ một phút, đoạn hỏi:

– Thế là ngươi định trở về với Tạ Linh Vận?

Tây Môn Vô Diệm gật đầu:

– Phải! Chỉ cần y đừng xua đuổi ta thôi, ta cứ trung thành với y như một con chó khôn trung thành với chủ, vĩnh viễn ta ở bên cạnh y, cho đến khi nào y thấy không cần dùng ta nữa, đánh đuổi ta đi, ta sẽ tìm đến một nơi nào đó, không có dấu chân người ta ẩn mặt chờ thở hơi cuối cùng.

Quan Sơn Nguyệt thở ra, rồi day qua Kỳ Hạo.

Kỳ Hạo lúc đó đã lấy lại bình tĩnh rồi, cơn đau vì cánh tay bị hắn tự chặt chừng như đã dịu lại. Hắn vung cách tay còn lại, cao giọng thốt:

– Quan Sơn Nguyệt! Ta không có thì giờ nói nhảm với ngươi! Chúng ta là hai kẻ trời sanh ra để mà làm kẻ tử đối đầu với nhau, tuy ngươi cứu ta song ta không cảm kích ngươi đâu, hôm nay ta không sát hại ngươi được, thì ngày mai, ngày kia, trong tương lai, ta sẽ tìm cách hãm hại ngươi!

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Ta có hy vọng ngươi cảm kích đâu? Ta chẳng có cái tâm cứu nạn ngươi, ta chỉ sợ con Ngô Công nuốt ngươi rồi, nó sẽ to lớn hơn, nó hại người không ít. Ta ngăn chặn cái hại đó thôi!

Kỳ Hạo không hề biểu lộ một tình cảm nào, hắn nói:

– Thế là hay lắm! Hiện tại thì ta có thể xem sự việc đó như chẳng có xảy ra, bởi buộc ta thọ ơn một kẻ thù, ta sống sót được là nhờ kẻ thù, thì cái sống đó là cả một hình phạt cho ta!

Quan Sơn Nguyệt bĩu môi, không đáp.

Giang Phàm bực tức, cất tiếng:

– Làm sao ngươi biết được là ngươi sẽ còn sống chứ?

Kỳ Hạo bật cười ha hả:

– Về việc đó, thì ta tin tưởng lắm! Quan Sơn Nguyệt còn mong gì hơn là giết được ta? Song hiện tại thì chẳng phải lúc đối với hắn, vì ta chỉ còn có một tay!

Mà hắn thì không thích hạ thủ đối với kẻ thiếu phương tiện tự vệ!

Buông xong câu nói, hắn quay mình bước đi liền, chẳng hề nhìn thoáng qua một ai cả.

Nhìn theo hắn, Quan Sơn Nguyệt cơ hồ không nén nổi cơn phẫn nộ, muốn đuổi theo mà cho hắn một nhát kiếm. Nhưng chàng bất động luôn, cứ để cho Kỳ Hạo thản nhiên từ từ rời cục trường.

Đợi Kỳ Hạo đi khá xa, Tây Môn Vô Diệm mới thở dài, thốt:

– Thực ra thì ngươi không nên buông tha hắn, hắn là con người đáng sợ nhất cho ngươi đó. Hắn hận ngươi, còn gấp mấy Tạ Linh Vận ...

Quan Sơn Nguyệt «hừ» lạnh:

– Nếu hắn đối diện với ta mà nói lên câu đó, thì ta không dung thứ cho hắn được rồi. Nhưng hắn thừa hiểu tư cách của ta, hắn quay lưng mà nói, hắn nói với một người khác, hắn biết là ta chẳng bao giờ hạ sát lén lút bất cứ một người nào!

Tây Môn Vô Diệm gật đầu:

– Cái đó đã hẳn rồi, hắn hiểu ngươi như lòng bàn tay, nên hắn mới ngạo nghễ như vậy. Hắn nghiên cứu từ vũ công của ngươi, đến tánh cách, tập quán, rất kỹ càng ...

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

– Hắn đã làm thế à? Để làm gì chứ?

Tây Môn Vô Diệm chừng như do dự một chút, sau cùng thốt:

– Thoạt đầu, hắn định truy cứu những ưu điểm của ngươi để học tập theo, sau đó hắn sẽ tìm những khuyết điểm của ngươi để lợi dụng mà trừ diệt ngươi.

Nhưng hắn không thành công ...

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:

– Tại sao hắn muốn tập tánh y như ta? Nếu muốn sát hại ta, thì còn có thể, chứ khi nào hắn tập luyện tánh tình mà lại giống ta hoàn toàn được chứ?

Tây Môn Vô Diệm nói:

– Nếu ngươi biết được cái động cơ thúc đẩy hắn làm như thế, thì ngươi chẳng còn lạ lùng nữa. Hắn có ba mục tiêu:

thứ nhất, trừ diệt ngươi. Thứ hai là làm tùy tùng mãi mãi cho Tạ Linh Vận. Cuối cùng là chiếm quả tim của Liễu Y Ảo.

Hắn có tánh cách, tư tưởng, phong độ, hành vi như ngươi, Liễu Y Ảo mới chú ý đến.

Quan Sơn Nguyệt giật mình, song chàng bình tĩnh trở lại ngay rồi cau mày:

– Về Liễu Y Ảo, hắn muốn cho nàng lưu ý, thì cần gì phải dụng tâm như vậy?

Tây Môn Vô Diệm cười khổ:

– Cần lắm chứ sao lại không? Ngươi biết không, hắn đã si tình Liễu sư muội từ lâu, trước khi ngươi đến Thần Nữ Phong kia! Cũng tại ngươi xuất hiện, mà Liễu sư muội xa rời hắn, để đeo đuổi theo ngươi. Bởi Liễu sư muội từng nói, chỉ có đầy đủ tác phong như ngươi, mới xứng đáng làm chồng nàng, do đó Kỳ Hạo cố công tập luyện cho giống ngươi. Đồng thời, hắn phải làm mọi cách để trừ diệt ngươi, nếu ngày nào ngươi còn sống, thì ngày đó hắn không hy vọng gây sự chú ý của Liễu sư muội được. Và, để trừ diệt ngươi, hắn phải nhờ đến sự giúp đỡ của Tạ Linh Vận. Tạ Linh Vận có hứa với hắn, sẵn sàng giúp hắn toại nguyện!

Quan Sơn Nguyệt thừ người trước sự tiết lộ của Tây Môn Vô Diệm.

Tình! Tình là cái phức tạp nhất trên đời! Tình cứ chơi trò cút bắt, một kẻ không hú, nhưng có kẻ tìm tình vướng vào mình rồi là vĩnh viễn không tháo gỡ ra nổi!

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 56

Cái Đêm Hôm Ấy

Cả ba người cùng thờ thẫn tại chỗ, họ nhìn nhau nhưng mường tượng chẳng thấy nhau. Họ không nói với nhau tiếng nào nữa.

Ai ai cũng có cảm tưởng là tâm tư mang hòn núi nặng, và tự hỏi cái trọng lượng đó đến khi nào mới cất cánh bay đi, cho lòng họ được nhẹ nhàng, cho họ có thể yêu đời. Tuy nặng niềm tâm sự, song tâm sự của họ chẳng giống nhau, điều đó thì hẳn là như vậy rồi.

Lâu lắm, Tây Môn Vô Diệm cất tiếng phá tan yên lặng trước:

– Quan Sơn Nguyệt! Ta có một việc, yêu cầu ngươi giải quyết hộ, ta biết sự việc đó không hợp tình cho lắm, nhưng rất cần ...

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Việc chi? Ngươi cứ nói cho ta nghe thử xem!

Đưa tay chỉ xác Ngô Công nằm la liệt quanh đó, Tây Môn Vô Diệm nói:

– Đào huyệt, chôn tất cả những xác ấy!

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Ngươi có biết, làm cái việc đó, ta phải mất bao nhiêu thời gian không?

Tây Môn Vô Diệm đáp:

– Bất quá, độ nửa ngày!

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Nửa ngày! Ta phải mất nửa ngày trong khi ta chỉ có ba ngày! Hẳn ngươi nhận thức giá trị của khoảng thời gian đó chứ? Ngươi đừng quên là mục tiêu của chuyến viễn hành này, là Thiên Xà Cốc, chứ chẳng phải một cuộc viễn du, mà ta có thể dần dà ngày tháng.

Tây Môn Vô Diệm chính sắc mặt:

– Quan Sơn Nguyệt, ngươi đừng nghĩ lầm! Điểm ta thỉnh cầu ngươi đó, chẳng phải phát sanh từ cái ý đê hèn muốn làm dang dở cuộc ước hội của ngươi với Tạ Linh Vận đâu. Không, hiện giờ thì ngươi đến sớm đến muộn, vấn đề không còn liên quan với ta nữa, bởi ta là kẻ chiến bại, dù bại ta cũng chẳng hèn hạ mà dùng thủ đoạn gian manh. Sở dĩ ta nhờ ngươi chôn xác chúng, là vì để lộ như vậy thì sự tai hại sau này cho dân chúng không ít.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:

– Tai hại gì một xác chết có thể gây ra? Huống hồ, chỉ là xác thú vật?

Tây Môn Vô Diệm lạnh lùng:

– Ta giải thích, chắc ngươi không tin. Thế ngươi cứ hỏi Giang cô nương, cô nương sẽ cho ngươi biết sự tai hại đó.

Giang Phàm không đợi Quan Sơn Nguyệt hỏi, lập tức thốt:

– Xác chết của loại Ngô Công đó, lúc sình lên, rất thúi, thúi hơn tất cả những mùi thúi trên đời này, trong một ngày tròn, những xác đó sẽ rữa nát ra, thành một thứ nước độc, ánh dương quang đốt nóng chất nước đó, khí độc bốc lên, loang theo gió, còn độc hơn khí độc do chúng phun ra lúc sống.

Tây Môn Vô Diệm cười lạnh:

– Ngươi nghe chứ, Quan Sơn Nguyệt? Với tánh tình ta, ta thản nhiên mà bỏ đi, bởi ta luôn luôn chủ trương hành động mà không cần quan tâm đến hậu quả, dù hậu quả đó có tận diệt cả nhân loại dưới gầm trời nầy, đối với ta, cũng cầm bằng như một sợi lông rơi rụng. Nhưng, với ngươi thì khác, dù sao, ngươi cũng có tác phong anh hùng, thì cái tâm của ngươi phải là tâm quân tử, cho nên ta thỉnh cầu ngươi làm việc đó, giả như ngươi vì hiếu thắng, thì cứ bỏ qua, mà đi ngay đến chỗ hẹn, cứ để mặc cho người đời tiếp nhận cái hại của những xác chết kia.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Ngươi không thể tìm một người khác giúp ngươi, chôn xác chúng à?

Tây Môn Vô Diệm lắc đầu:

– Không thể! Kỳ Hạo thì bỏ đi rồi, chỉ còn một mình ta, mà ta thì làm sao thanh toán một sự việc như vậy nổi? Huống chi, ngươi và Giang cô nương lại chẳng sợ hơi độc của chúng? Cho ngươi biết, nếu một người nào khác, bén mảng đến gần khu vực nầy thôi, cũng đủ bỏ mạng rồi, nói chi là động chạm đến xác của chúng? Công việc chôn xác chúng, ngoài chúng ta ra, chẳng còn một ai cáng đáng nổi! Ngươi đừng quên, là ta có đôi tay chấp vá!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc.

Trong khi đó, Tây Môn Vô Diệm nhặt thanh kiếm trên mặt đất, bắt đầu đào huyệt.

Quan Sơn Nguyệt ức độ, muốn chôn những xác đó, tất phải đào một cái hầm, vuông năm sáu trượng, sâu ba bốn trượng.

Nhìn vào nhịp độ động tác của Tây Môn Vô Diệm, chàng nghĩ nếu nàng không ngưng tay, cứ đào như vậy, liên tiếp trong hai ngày đêm mới xong một cái hầm vừa đủ chôn giấu xác chúng.

Hai ngày đêm! Xác của chúng qua một ngày thì rửa thành độc thủy. Như thế, dù nàng có đào xong hầm, phỏng cũng chẳng ích gì.

Xem ra, nàng yêu cầu chàng tiếp trợ, nghĩ cũng phải làm, chắc là nàng không có mưu mô nào đâu!

Chàng liền rút thanh Hoàng Diệp kiếm, phụ giúp Tây Môn Vô Diệm.

Thấy chàng tham gia công tác, Tây Môn Vô Diệm không biểu hiện một cảm nghĩ nào, giữ gương mặt lạnh như tiền mãi. Nhưng, chàng tham gia công tác, nàng lại ngưng tay, rồi quay mình, lặng lẽ bước đi, rời xa từ từ ...

Giang Phàm nổi giận, cao giọng mắng:

– Cái con mụ đó đáng giết lắm! Nàng viện dẫn lý do, cầm chân chúng ta, để nàng thung dung ly khai ...

Tây Môn Vô Diệm chưa đi xa hắn, nghe lọt câu nói, lạnh lùng đáp:

– Ta chỉ nói qua điều lợi hại, ai thích thì làm, ai không thích thì cứ bỏ đi, ta có cưỡng bức ai đâu, sao cô nương mắng ta?

Giang Phàm tức uất, vọt mình tới, vươn tay tát mạnh vào mặt Tây Môn Vô Diệm.

Bị cái tát đó, Tây Môn Vô Diệm mất thăng bằng, chập choạng suýt ngã, máu từ miệng rỉ ra hai bên mép, chảy xuống, quệt với nước dãi, lòng thòng.

Nàng không hề có một phản ứng, đưa tay áo lau miệng, lặng lẽ bước đi về phía rừng ven núi.

Giang Phàm còn giận, toan đuổi theo đánh thêm, nhưng Quan Sơn Nguyệt khuyên nàng:

– Giang cô nương! Việc nầy, chúng ta không thể không làm, tốt hơn là nên làm cho chóng xong, cầu người khác làm chi! Mặc cho nàng ấy bỏ đi, cô nương hãy tiếp tay tại hạ, mình còn phải lên đường sớm đó, cô nương!

Giang Phàm phải thở mạnh một lúc, mới phát tiết phần nào khí uất, rồi nhặt đoạn kiếm gãy của Tây Môn Vô Diệm bỏ lại, tiếp trợ Quan Sơn Nguyệt đào hầm.

Tuy nhiên, nàng chưa chịu phục, còn càu nhàu:

– Cái con mụ dạ xoa đó, có giá trị gì chứ! Tôi thấy rõ ràng là nàng kiếm cớ cầm chân chúng ta lại đây, để cho chúng ta phí thời gian vô ích, phải đến nơi ước hẹn chậm trễ. Những con Ngô Công đó, do nàng và Kỳ Hạo lưu lại, chúng ta hà tất ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, chận lời:

– Tại hạ đã bảo là hãy để cho Tây Môn Vô Diệm đi đâu cứ đi, yêu cầu nàng ta ở lại tiếp tay mà làm gì? Nàng là người trong Thiên Ma Giáo, chẳng bao giờ nàng chịu giúp chúng ta đâu! Dù nàng có dụng tâm như thế nào, chúng ta cũng không thể để những xác Ngô Công phơi lộ như vậy, nơi đây thiên hạ qua lại rất đông và rất thường, độc khí của xác Ngô Công sẽ gây tai hại không ít cho họ. Sở dĩ chúng ta không thấy một người bộ hành nào trong lúc nầy, có lẽ là vì Thiên Ma Giáo ngăn chặn họ ở hai đầu đường, và chúng sẽ khai thông lối đi sau khi hạ thủ đoạn đối với chúng ta.

Giang Phàm hằn học:

– Hại ai thì hại, không hại được chúng ta là đủ.

Quan Sơn Nguyệt cười khổ:

– Đừng nói thế, cô nương! Chúng ta là con nhà võ, hành hiệp là vì dân chúng chứ nào phải cho cá nhân mình! Nếu vì cá nhân mình mà hành động, thì chúng ta cần chi phải vượt núi xuyên rừng, lướt hằng ngàn dặm?

Chàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:

– Đành là họa căn, do bọn Thiên Ma Giáo gây nên, song chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm gián tiếp, bởi chúng vì bọn mình mà phóng Ngô Công, nếu không có bọn mình thì khi nào chúng thả những con Tử Mẫu Phi Ngô đó? Vả lại, chính chúng ta giết chết những con Phi Ngô kia, chúng có chết mới gây nên độc khí chứ! Dù sao, chúng ta cũng phải thi hành cái công tác bất đắc dĩ nầy, cô nương ạ!

Giang Phàm không phục, thốt oang oang:

– Một mình đại ca, liệu có thể lo việc cho mọi người khắp trong thiên hạ chăng?

Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt:

– Bổn phận của con nhà võ, là san bằng những nổi bất bình trong thiên hạ, dù không làm hết, thì làm được bao nhiêu, cứ làm.

Chàng lại dừng một chút, rồi tiếp:

– Tại hạ từng phát thệ, san bằng bất công trên đời nầy, trước mặt ân sư, từ lúc tiếp nhận Minh Đà Lịnh. Bằng mọi giá, kể cả giá hạnh phúc của tại hạ, tại hạ phải giữ lời thề đó.

Giang Phàm trầm ngâm giây lâu, rồi thở dài:

– Đại ca nói phải! Tôi sống lâu trong Thiên Xà Cốc, thành ra không còn biết gì là nhân tánh nữa, thật đáng thẹn quá chừng! Xem ra, muốn trở nên một người vợ lý tưởng của đại ca, tôi còn phải học hỏi nhiều ...

Nàng đào đất mạnh tay hơn trước, chừng như lấy sự cố gắng đó để tỏ cho Quan Sơn Nguyệt biết là luôn luôn nàng ngoan ngoãn vâng lời chàng, luôn luôn nàng cảm phục chàng.

Đào một lúc, nàng lại dùng hai tay hốt đất, hốt đá, không sợ dơ mình.

Còn gì đẹp hơn một nữ nhân xốc vác, chia nhọc xẻ khổ với chồng? Bởi, nàng xem Quan Sơn Nguyệt như chồng của nàng rồi kia mà!

Nàng nói chi, Quan Sơn Nguyệt cũng nghe được, chỉ có đoạn cuối của câu sau cùng là chàng mường tượng những mũi tên xuyên thủng màn tai. Trời! Nếu nàng cứ giữ mãi cái ý đó, thì trong tương lai chàng sẽ xử sự như thế nào chứ?

Tuy nhiên, chàng không nỡ nói gì, trong lúc này, bởi nàng thực sự thi hành công tác, mệt thở hồng hộc, nàng không dám nghỉ, mồ hôi nhễ nhại nàng không dám ngừng tay lau chùi. Chàng bảo:

– Từ từ mà làm, Giang cô nương! Làm chậm mà kỹ mà chắc, kết quả sẽ nhiều hơn. Làm vội vã, chỉ hao phí công lực, mau mệt, công việc lại không chu đáo.

Nhưng Giang Phàm cứ quần quật đào, một lúc sau, nàng đã tạo được một cái hầm khá lớn, hốt xong đất và đá vụn còn lại cho sạch sẽ, nàng đắc ý, cười hì hì, thốt:

– Quan đại ca thấy chưa! Tôi đâu đến đổi quá vô dụng như đại ca tưởng!

Quan Sơn Nguyệt chỉ cười, không nói gì.

Cả hai tiếp tục công tác.

Dần dần, họ hiệp nhau lại, một đào, một hốt, họ vui vẻ mà làm, kết quả rất nhanh chóng.

Nàng lại cười thốt:

– Có gì hơn là đồng tâm hiệp lực, phải không Quan đại ca! Chúng ta hiệp tác với nhau, thì còn việc gì mà chẳng làm nổi!

Quan Sơn Nguyệt vẫn im lặng, cứ đào, càng phút càng nhanh tay.

Không lâu lắm, họ đào được một cái hầm, dài hai trượng, ngang một trượng, bao gồm luôn cái hầm do Giang Phàm đào một mình, vì cả hai từ hai đầu đào vào, cho giáp mối, đến lúc công tác được nửa phần, họ mới hiệp lực với nhau.

Bỗng, một bóng người xuất hiện bên trên miệng hầm.

Cả hai kinh ngạc, nhìn lên, thấy Tây Môn Vô Diệm. Nàng đã đi xa rồi, chẳng hiểu tại sao, còn trở lại.

Giang Phàm hỏi:

– Ngươi trở lại làm gì nữa?

Tây Môn Vô Diệm lạnh lùng:

– Không phải tất cả những người trong Thiên Ma Giáo đều chuyên làm ác, Tây Môn Vô Diệm nầy, không đến đổi quá vô sỉ ti tiện như các ngươi tưởng. Ta trở lại đây để chứng minh điều đó.

Giang Phàm «hừ» một tiếng:

– Thế tại sao vừa rồi, ngươi bỏ đi?

Tây Môn Vô Diệm «hừ» lại một tiếng:

– Tại sao ngươi chẳng lên đây mà xem?

Giang Phàm nhún chân nhảy lên liền. Bên miệng hầm, có một đống cây khô. Ngoài ra, chẳng có gì khác cả. Nàng lấy làm lạ hỏi:

– Ngươi gom góp những cành cây khô chất đống nơi đó, để làm gì?

Tây Môn Vô Diệm cười lạnh:

– Phàm làm việc gì, tất phải nghĩ đến sự chu đáo, thực hiện một ý chí, phải thực hiện triệt để. Cái giống Ngô Công đó, càng được chôn sâu, càng sanh độc khí mạnh, rất có thể tung vở lớp đất trên mặt mà loang ra không khí. Không gì bằng đốt một mồi lửa ...

Giang Phàm sững sờ, lẩm nhẩm:

– Tại sao ngươi không nói sớm? Ngươi để ta đánh ngươi như vậy, thì thật là ... là không đẹp chút nào! Ta hiểu lầm ngươi!

Tây Môn Vô Diệm lại cười lạnh:

– Mỗi người đều nên nỗ lực, ai có công việc nấy làm, việc của ta, tự ta lo, tại sao ta phải nói với ngươi chứ? Món quà một chưởng, ngươi tặng ta, ta sẽ ghi nhớ suốt đời ...

Giang Phàm vốn tính thẳng thắn, không thích những ẩn tình, những ngụ ý, nghe thế, vội thốt:

– Nếu ngươi muốn báo thù, thì ngay bây giờ, ngươi đánh lại ta đi!

Tây Môn Vô Diệm bĩu môi:

– Hiện tại, ta không nhàn rỗi để làm cái việc đó.

Rồi nàng bỏ đi, sau đó cũng trở lại, nhưng chậm hơn lần trước, cũng ôm theo một đống cây khô.

Quan Sơn Nguyệt và Giang Phàm cũng đã đào sâu và rộng cái hầm hơn trước nhiều.

Thời gian lúc đó, vào tiết đầu thu, cành khô rất hiếm, hơn nữa, hai bàn tay của Tây Môn Vô Diệm lại là tay chấp vá, cử động kém tay tự nhiên, do đó mà nàng không thể dụng lực đúng ý muốn.

Những cành cây khô đó, chẳng phải rơi rụng sẵn dưới đất, bởi mùa thu ướt át, muốn tìm cành khô, phải trèo lên cây, và trong năm ba cây mới có một vài cành khô. Như thế, muốn có một đống cành khô, tất phải trải qua nhiều vất vả lắm.

Giang Phàm cũng hiểu như vậy, nên thương hại cho Tây Môn Vô Diệm khôn cùng, nàng dịu giọng bảo:

– Ngươi nghỉ một lúc đi, để ta đi tìm cho ...

Tây Môn Vô Diệm lắc đầu:

– Không cần, hai vợ chồng ngươi hiệp sức với nhau như vậy, có việc gì mà làm không thành? Thế thì cứ làm những việc đòi hỏi nhiều người, còn ta thì cam với cái phận cô độc, ta làm những việc dành cho kẻ cô độc.

Nàng thành thực mà nói, nói để phát tiết niềm bi oán, Giang Phàm nghe ra, có ý thẹn, mặt ửng đỏ.

Rồi, ai đào huyệt, cứ đào. Ai tìm cành khô, cứ tìm, một lúc sau, huyệt rộng hơn, sâu hơn, mà cành khô cũng nhiều hơn.

Quan Sơn Nguyệt và Giang Phàm mệt nhọc quá chừng, cả hai dừng tay lên khỏi huyệt, đứng lên, thở dốc.

Ngày đã tàn, đêm xuống, trên nền không, lấm tấm những ngôi sao chớp, chớp đều.

Tây Môn Vô Diệm trở lại với hai đoạn gỗ khô, rất to, nàng lôi từ rừng về đó, vất vả vô cùng. Buông hai đoạn gỗ, nàng cũng thở dốc như Quan Sơn Nguyệt và Giang Phàm. Nàng vừa thở, vừa thốt:

– Vào mùa này, tìm cành khô, cây khô chẳng phải là việc dễ. Ta nhặt hai đoạn gỗ đó, cách đây hơn bốn dặm đấy!

Bây giờ thì Quan Sơn Nguyệt không còn ác cảm đối với Tây Môn Vô Diệm nữa. Chàng dịu giọng cất tiếng:

– Làm chi cho vất vả lắm vậy? Ta thấy bao nhiêu đó cũng đủ lắm rồi, khỏi cần phải đi xa tìm hai đoạn gỗ ấy!

Tây Môn Vô Diệm lắc đầu:

– Bốn dặm đường, có xa gì, mang hai đoạn gỗ, cũng chẳng mệt lắm! Bây giờ các ngươi có thể lên đường được rồi, phần việc phóng hỏa, thiêu xác Ngô Công, để ta đảm đương cho.

Quan Sơn Nguyệt nhìn trời:

– Bây giờ thì có đi sớm hay đi trễ cũng thế thôi!

Tây Môn Vô Diệm lại lắc đầu:

– Không phải vậy đâu! Ta nhận thấy, những người như các ngươi, không nên chết nơi tay Tạ Linh Vận, chính ta cũng không muốn như vậy. Các ngươi hãy suy tính lại xem, nếu đi ngay thì có thể đến Thiên Xà Cốc trước khi bình minh lên chăng?

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:

– Điều đó đâu còn là vấn đề nữa mà ngươi hỏi? Bởi sáng ngày mai, là đúng hạn kỳ ba hôm, có đi gấp liền trong đêm nay cũng chẳng đến trước hạn kỳ được. Như vậy tội gì mà phải vội vã? Cứ ung dung đi miễn sao đừng trễ hẹn là đủ rồi. Mình không hy vọng đến sớm, thì đừng phí công làm việc vô ích.

Tây Môn Vô Diệm thốt gấp:

– Chỉ cần các ngươi đến đó trước khi vầng thái dương lên, là có nhiều hy vọng ngăn trở âm mưu của Tạ Linh Vận, chẳng những thế, tánh mạng của các ngươi được bảo toàn, ngược lại thì ... ta chỉ sợ các ngươi thọ hại lớn!

Quan Sơn Nguyệt ấy làm kỳ:

– Tạ Linh Vận chuẩn bị như thế nào để đối phó với bọn ta?

Tây Môn Vô Diệm do dự một lúc, sau cùng quyết định thái độ, tiết lộ:

– Sau khi nghe Vạn Lý Vô Vân báo cáo về tình hình tại Thiên Xà Cốc, Tạ Linh Vận liền nghĩ ra một mưu độc, có thể do mưu độc đó hắn thuyết phục Xà Thần, lợi dụng Xà Thần ...

Quan Sơn Nguyệt dù đã biết trước như vậy, song vẫn kinh hãi như thường.

Nhưng, ngoài mặt, chàng vẫn giữ bình tĩnh, chàng lắc đầu thốt:

– Vị tất hắn thành công! Xà Thần nào tin lời hắn dễ dàng như vậy!

Tây Môn Vô Diệm khẩn cấp ra mặt:

– Từ xưa đến nay, chẳng bao giờ Tạ Linh Vận làm liều, thử thời vận. Hắn đã làm việc gì, thì nhất định hắn có suy nghĩ kỹ rồi và hắn nắm nhiều yếu tố giúp hắn thành công, hắn mới chịu bắt tay vào việc. Hắn đã nắm được nhược điểm của Xà Thần, nhất định là hắn sẽ lung lạc tinh thần Xà Thần không khó khăn lắm.

Quan Sơn Nguyệt vội hỏi:

– Hắn nắm được nhược điểm gì nơi Xà Thần?

Tây Môn Vô Diệm thở dài:

– Con người, ai không có nhược điểm? Chẳng hạn mình muốn làm một việc gì, mà mình lại bất lực, việc đó cứ ám ảnh mãi, chính cái ám ảnh đó tạo nên nhược điểm nơi mình, Xà Thần vốn thích nữ sắc, nhưng lại không thể giao hợp với nữ nhân, lão ta luôn bất mãn.

Giang Phàm cao giọng:

– Đúng vậy! Chẳng lẽ Tạ Linh Vận có phương pháp làm cho Xà Thần ...

Tây Môn Vô Diệm chặn nói:

– Hắn đã cầm chắc kết quả trong tay, thì tự nhiên phải có phương pháp giúp Xà Thần mãn nguyện. Thiên Ma Giáo vốn sở trường về công phu «m Dương Thần Hiệp» mà Tạ Linh Vận thì rất am tường cái thuật đó, hắn sẽ chỉ dạy cho Xà Thần một công phu, lão ta luyện công phu đó không lâu lắm, là có thể tìm hứng thú bên cạnh nữ nhân. Ngoài ra, trong chuyến đi này, hắn có dẫn Trương Vân Trúc theo, hắn sẽ nhờ Trương Vân Trúc dùng thủ thuật, sửa đổi dị tướng của Xà Thần, chẳng hạn như cắt đứt cái đuôi rắn của lão ta. Hắn sẽ làm mọi cách, trả cái nhân dạng về cho Xà Thần ...

Quan Sơn Nguyệt biến sắc:

– Hai điều đó ám ảnh Xà Thần rất nặng, nếu trừ được hai ám ảnh đó cho lão thì Tạ Linh Vận muốn gì mà lão chẳng tuân!

Tây Môn Vô Diệm nói:

– Cho nên các ngươi cần phải đi gấp, nếu đến trước được thì hay biết mấy!

Công phu «m Dương Thần Hiệp» tuy có đòi hỏi sự tập luyện, song chỉ trong vòng một đêm thôi, người luyện sẽ thành công. Còn cái việc thay hình đổi lốt thì thực ra, cũng phiền phức lắm, đòi hỏi nhiều thời gian hơn, theo ta biết thì Trương Vân Trúc có biệt tài, lão có thể giúp Xà Thần nội trong hai hôm là cử động được như thường. Tạ Linh Vận và đồng bọn đã đến đó trước các ngươi hai hôm rồi.

Nếu các ngươi đến đó trước khi thái dương lên, thì Xà Thần chẳng làm gì được, bởi lão chưa cử động nổi. Nhưng khi thái dương lên, lão ta hoàn toàn biến thể, lão ta sẽ là đối thủ lợi hại của các ngươi!

Quan Sơn Nguyệt suy tư một chút nói:

– Dù cho Tạ Linh Vận có làm cho Xà Thần thỏa mãn hai sự kiện đó, vị tất lão ta cúi đầu khuất phục Tạ Linh Vận? Vũ công của lão ta ghê gớm lắm, bọn Tạ Linh Vận làm gì nổi lão ta mà bắt buộc được lão ta phải ngoan ngoãn tuân theo ý muốn?

Tây Môn Vô Diệm thở dài:

– Tạ Linh Vận có cái thuật khống chế ngoại nhân vô cùng linh diệu, nếu hắn không chắc chắn là lợi dụng được Xà Thần, thì khi nào hắn chịu làm cái việc không công cho ai?

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Cái thuật khống chế ngoại nhân của Tạ Linh Vận lợi hại đến thế sao?

Hắn dám quả quyết là khống chế nổi Xà Thần?

Tây Môn Vô Diệm gật đầu:

– Phải! Trong lúc truyền thuật «m Dương Thần Hiệp» cho Xà Thần, hắn sẽ thi triển luôn tâm pháp Mê Hồn, Xà Thần tiếp thọ tâm pháp đó rồi, đương nhiên trở thành công cụ của hắn.

Giang Phàm thở dài:

– Quan đại ca! Xem ra, chúng ta chỉ còn có cách là lên đường ngay từ bây giờ!

Quan Sơn Nguyệt lại trầm tư một lúc, đột nhiên lắc đầu:

– Không! Nếu chúng ta đi ngay bây giờ, và đến sớm một chút, thì bất quá chỉ ngăn chặn được Xà Thần biến thành hình người đúng thời hạn vậy thôi.

Nhưng, tiếp thọ tâm pháp của Tạ Linh Vận, lão ta đã trở thành công cụ của Tạ Linh Vận rồi, chúng ta còn làm gì được hơn mà đến sớm? Hôm nay lão chưa thành hình người, thì ngày mai, ngày kia, lão sẽ thành, vấn đề không còn quan trọng nữa. Cái điều quan trọng, là lão trở thành công cụ của Tạ Linh Vận. Mà điều đó, chúng ta không phá hoại nổi, như vậy còn đến sớm làm chi?

Chàng ngừng một chút rồi lại tiếp luôn:

– Muộn! Muộn lắm rồi! Chúng ta có gấp đến đâu, cũng không lấy lại được cái muộn màng.

Tây Môn Vô Diệm thốt:

– Không muộn đâu! Nếu các ngươi đến nơi trước khi Xà Thần biến thành hình người, thì các ngươi trừ diệt lão ta, mất lão ta rồi, Tạ Linh Vận sẽ phải bó tay ...

Quan Sơn Nguyệt nhìn nàng một thoáng:

– Tại sao bỗng nhiên ngươi muốn trợ giúp bọn ta? Nếu ngươi sớm có ý đó, thì đã chẳng phóng những con Tử Mẫu Phi Ngô, ngăn chặn bọn ta, làm chúng ta phí mất bao nhiêu thời gian!

Tây Môn Vô Diệm lại thở dài:

– Bỗng nhiên mà ta thức ngộ! Ta vừa thức ngộ đây thôi! Chứ trước kia thì không, cho nên trước kia, ta phóng túng những con Phi Ngô gây phiền phức cho các ngươi. Ta trợ giúp ngươi, cũng như ta trợ giúp ta vậy! Nếu ngươi diệt trừ được Xà Thần, thì Tạ Linh Vận sẽ chẳng còn ỷ trượng vào đâu nữa mà tự tung tự tác, hắn sẽ thu hình, quy ẩn ở một nơi nào đó, ta sẽ ở bên cạnh hắn, bầu bạn với hắn, hắn quay về với ta. Bằng như cứ để cho hắn có dịp buông lung dã tâm, tranh quyền cướp lộc trong thiên hạ mãi, thì vĩnh viễn hắn chẳng hề lưu ý đến ta! Ta sẽ âm thầm đau đớn với niềm tuyệt vọng ...

Quan Sơn Nguyệt lại suy nghĩ một chút, rồi day qua Giang Phàm:

– Cô nương! Chúng ta tiếp tục đào hầm!

Chàng nhảy xuống hầm liền.

Giang Phàm hấp tấp hỏi:

– Quan đại ca không lo ngại về việc đó sao?

Quan Sơn Nguyệt thản nhiên:

– Lo ngại mà làm gì? Chúng ta có đến kịp lúc, bất quá cũng chỉ ngăn chặn Xà Thần biến thể, cùng lắm là giết chết lão ta. Mà tại hạ đối với lão ta, có thù oán gì lớn lao đâu, đến đổi phải sát hại lẫn nhau? Cô nương nên biết, trái lại, tại hạ còn thọ ơn của lão nữa là khác. Như thế đó, tại hạ nỡ nào xuống tay độc với lão, nhất là trong khi lão bất lực?

Dừng lại một chút, chàng tiếp:

– Còn như cho rằng, lão sẽ trở thành công cụ của Tạ Linh Vận, thì đó là một việc còn trong vòng ức đoán, khi việc chưa thành sự thật, thì chúng ta chớ vội có thái độ.

Giang Phàm không nói gì.

Tây Môn Vô Diệm thở dài:

– Ngươi không tin ta! Rồi có ngày ngươi phải hối hận.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Ta tin lời ngươi lắm chứ, nhưng ta phải hành động quang minh, luôn luôn ta gìn giữ chánh trực, ta cần bằng cớ chứ không do ức đoán mà lấy thái độ.

Huống chi, người trong vụ lại là ân nhân của ta, khi nào ta đổi ân làm cừu?

Tây Môn Vô Diệm lộ vẻ u buồn ra mặt:

– Ta còn biết nói gì với ngươi bây giờ? Tuy nhiên, nếu cần khuyến cáo ngươi thì bất quá ta có thể nói một câu cuối cùng này với ngươi, là phàm đảm đương đại sự, tuyệt đối không nên câu nệ tiểu tiết, tuyệt đối phải giữ cái tâm cứng rắn trước những cái nhân nhỏ, nghĩa nhỏ. Có như thế mới tỏ rõ được bổn sắc của khách giang hồ.

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Ta đâu dám ví mình là bậc hiệp sĩ, ta chỉ tuân theo một nguyên tắc là làm một việc gì, nếu cái tâm của ta được an là ta làm. Xuống tay, giết một người, ít nhất ta cũng phải biết người đáng chết đó có tội, và phạm tội gì. Tại Thần Nữ Phong trên dãy Vu Sơn, ta tha chết cho Tạ Linh Vận một lần, chỉ vì hắn chưa làm điều gì đáng tội chết, dù hắn nuôi dưỡng cái tâm tàn ác. Còn như Xà Thần, hiện tại ta không có lý do thù oán, trái lại ta còn tìm dịp báo ân nữa là khác. Nếu như một ngày nào đó, ta biết được lão đã gây nhiều tội ác, thì dù ta có thọ ân lão, ta cũng xuống tay sát hại lão như thường.

Tây Môn Vô Diệm trầm lặng giây lâu. Sau cùng, nàng thốt:

– Nào có phải ngươi cần giết chết lão ta? Ngươi chỉ ngăn chặn lão khôi phục nhân dạng, rồi ngươi quản thúc lão trong sơn cốc, không cho lão xuất thế, hại đời ...

Quan Sơn Nguyệt cười lớn:

– Điều đó lại càng không thể làm, không nên làm! Ta vô tình uống huyết con Hàn Xà, làm cho lão ta mất một phương thuốc thần giúp lão khôi phục nhân hình, bây giờ, có người giúp lão, ta cao hứng cho lão, ta đỡ hối hận vì đã hại lão, chứ sao ta lại đi ngăn chận việc đó?

Chàng lại tiếp luôn:

– Ta đã phá hoại công trình của lão, tạo nên sự tuyệt vọng cho lão, bây giờ có người giúp lão mãn nguyện, ta nỡ lòng nào ngăn chặn làm cho lão tuyệt vọng một lần nữa? Ta không có lương tâm sao?

Tây Môn Vô Diệm sững sờ.

Giang Phàm lên tiếng:

– Quan đại ca, như vậy thì chúng ta cần gì phải đi gấp đến Thiên Xà Cốc?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Trước kia, tại hạ chẳng hiểu nổi Tạ Linh Vận ước hội tại đó để làm gì cho nên phải kiêm trình mà đi, quyết đến sớm. Nhưng bây giờ sự việc đã rõ ràng như vậy, thì chúng ta không còn lý do khẩn cấp nữa.

Giang Phàm lại hỏi:

– Thế ra, đại ca không lo ngại Xà Thần trở thành công cụ của Tạ Linh Vận?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Đúng vậy! Tại hạ không hề lo ngại.

Chàng giải thích:

– Xà Thần, là một con người, như tất cả mọi người, bất quá vì một cố tật nào đó, do bệnh hoạn mà sanh ra, lão không tiếp cận được nữ nhân, đó cũng là điều đáng thương cho lão, bởi là con người, ai không có tình cảm? Sanh ra trên đời, dù nam, dù nữ, ai lại không có tình yêu? Lão có tham mê nữ sắc cũng là việc thường! Lão cố tìm cách chữa trị cố tật, để sống cuộc sống bình thường cũng là sự thường. Ta không có quyền ngăn cản một người thực hiện cái lý tưởng của kẻ đó. Bỏ qua vấn đề đó, còn lại việc Tạ Linh Vận tìm cách lợi dụng lão.

Giang cô nương phải hiểu, tâm pháp Mê Hồn, bất quá cũng chỉ là một môn công trong vũ học, mà căn bản vũ học của Xà Thần thì cực kỳ thâm hậu, tại hạ tưởng tâm pháp của Tạ Linh Vận không gây ảnh hưởng gì nơi Xà Thần, bởi lấy cái yếu, lung lạc cái mạnh, khi nào thu hoạch được thành công? Tạ Linh Vận dù có dùng bao nhiêu tâm huyết lo liệu cho việc đó, vị tất hắn được toại nguyện vẹn toàn?

Giang Phàm không nói chi nữa, nhảy xuống hầm.

Cả hai tiếp tục công tác, người đào đất, người hốt, quăng, qua một lúc lâu, cái hầm được nới rộng hơn, đào sâu hơn.

Quan Sơn Nguyệt nhảy lên miệng hầm, điểm một nụ cười, thốt:

– Dự tính phải phí mất sáu giờ, chúng ta làm xong công tác trong bốn giờ, lại làm rất chu đáo. Kể ra nếu muốn làm việc gì, nếu có phương pháp thích nghi, áp dụng đúng phương pháp, thì thành công mỹ mãn.

Câu nói của chàng hàm cái ý xa xôi, chàng mượn cái việc đào hầm chôn xác rết, để ám chỉ một việc gì khác.

Tây Môn Vô Diệm có hiểu chăng cái ý ngầm trong câu nói? Nàng không biểu hiện một cảm nghĩ nào, cứ lặng lẽ ôm những mớ cây khô, dồn đống lại.

Nàng lại nhờ Quan Sơn Nguyệt dùng kiếm chặt hai thanh gỗ to, thành nhiều đoạn nhỏ, lại còn chẻ ra từng mảnh. Sau cùng, nàng nhặt những xác Ngô Công, quăng lên trên đống cây khô. Kế đó, nàng bật mồi lửa.

Lửa cháy, xác Ngô Công chảy mỡ, mỡ giúp sức lửa bốc cao.

Khi ngọn lửa hạ thì các xác Ngô Công cũng bị cháy tiêu tan. Cả ba hiệp lực nhau, đẩy đống tro tàn xuống hầm, rồi vít đất lấp lại.

Tây Môn Vô Diệm thốt:

– Xong rồi đó, các ngươi cứ yên trí ra đi. Hãy đi gấp đi. Gặp Tạ Linh Vận, các ngươi nói hộ ta một câu, là ta đã trở lại Ngũ Đài Sơn rồi. Cũng có thể là ta sẽ đến Thần Nữ Phong, nơi cư ngụ ngày trước. Nếu hắn gặp cảnh cùng, không nơi nương tựa, thì hắn cứ đến một trong hai nơi đó, gặp ta. Ta bao giờ cũng trung thành với hắn và chờ hắn suốt đời.

Nàng vẫy tay tiếp luôn:

– Ta không cần nói nhiều hơn, các ngươi cũng hiểu. Thôi các ngươi đi đi!

Nàng bảo người ta đi, nhưng chính nàng lại đi trước.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 57

Những Cái Phủ Phàng

Khoảng cách thời gian không xa lắm, Thiên Xà Cốc hôm nay đã mất hẳn cái bộ mặt của ngày nào.

Người đi xa trở về cơ hồ không còn nhận ra là nơi cũ nữa.

Con đường nhỏ hẹp ngày xưa, giờ đã được nới rộng ra, những gì chướng ngại đã được san bằng, dọn dẹp kỹ lưỡng. Con đường trở thành thông suốt như những quan lộ dành cho khách lữ hành.

Nhờ thế, Quan Sơn Nguyệt và Giang Phàm đỡ vất vả tìm đến tận nơi.

Qua một đoạn đường, họ đến một khoảng đất trống, chỗ cư ngụ của Xà Thần đã được dời về phía hậu khoảng đất đó.

Nhưng, hiện tại, trên khoảng đất trống đó, chẳng có một bóng người.

Người không, nhưng có rắn thay vào. Hai bên khoảng đó, rắn xếp thành hàng, loại rắn cực độc, cực to. Rắn cất cao đầu, quơ qua, quơ lại, lưỡi đỏ thè dài, có con hút gió lảnh lót. Chúng có cái vẻ như chực chờ công kích.

Quan Sơn Nguyệt hết sức lạ lùng, lẩm nhẩm:

– Việc gì thế? Xem nghiêm trọng quá!

Giang Phàm suy nghĩ một chút, nói:

– Có thể là chúng đang bận rộn việc gì, chưa sắp xếp ổn thỏa, nên để phòng ngừa biến cố, chúng lập thành trận thế Trường Xà, làm bức bình phong, ngăn chặn mọi xâm nhập. Trường Xà Trận lợi hại lắm đó, đại ca!

Quan Sơn Nguyệt không tin lập luận đó lắm, thốt:

– Tuy tại hạ không học qua những trận đồ, song Nhất Tự Trường Xà Trận dù sao thì cũng là một sự bình thường, chẳng có gì lợi hại cho lắm. Ở đây, lại có đến hai hàng rắn, như vậy phải là hai trận thế sao?

Giang Phàm thở dài, nói:

– Mấy trận cũng mặc chúng, chỉ biết là trận thế lợi hại thôi. Đại ca cho là Nhất Tự Trường Xà Trận rất đơn giản, chẳng qua là một cái danh xưng, mà danh thì làm sao nói hết cái thực chất lợi hại của trận được? Danh là hình thức, nó có bao gồm được sự diệu huyền bên trong đâu? Huống chi, trận thế này chẳng giống như trận thế mà các danh tướng thường sắp bày tại chiến trường. Thường thường thì, rắn càng lớn, chất độc trong mình nó kém giảm phần nào, tuy nhiên trừ cái loại có vảy đỏ ra, chúng càng lớn càng độc, mà hiện tại Xà Thần tận dụng số rắn vảy đỏ, lão nuôi từ mấy mươi năm qua, lão lập thành trận thế, như vậy chứng tỏ có trường hợp bất thường. Hẳn là lão ngăn chặn mọi cuộc xâm nhập từ bên ngoài, như tôi đã suy đoán ...

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Ngăn chặn người khác thì được, ngăn chặn chúng ta thì không! Cô nương từ nơi này mà đi, bây giờ trở lại, chẳng lẽ chúng không nhận ra cô nương sao?

Chẳng lẽ chúng ngăn chặn cả cô nương nữa sao? Còn như tại hạ thì ...

Giang Phàm lắc đầu:

– Những loại rắn khác thì có thể là chúng còn nhớ đến tôi, chứ cái loại mãng xà này thì đến cả đồng loại của chúng, chúng cũng chẳng dung tha, nói chi đến tôi! Chỉ có mỗi một mình Xà Thần là chúng kiêng nể, tuân lịnh, còn những người khác thì đừng hòng bén mảng đến gần chúng. Dù đại ca có uống huyết con Hàn Xà, chưa chắc gì chúng ngán ...

Quan Sơn Nguyệt thấy thần thái của nàng nghiêm trọng quá, bất giác tin phần nào. Tuy nhiên, chàng không tin trọn vẹn, chàng cau mày, hỏi:

– Thế tại sao chúng ta đã vượt qua hơn mười con rồi, mà chẳng con nào nhút nhích?

Giang Phàm lắc đầu:

– Chính tôi cũng chẳng hiểu tại sao! Cứ theo lý, thì chúng phải hành động rồi. Tôi thấy, chúng đã dợm tiến tới mấy lần, song cuối cùng vẫn còn ở lại một chỗ. Chừng như chúng có cố kỵ cái gì đó ...

Quan Sơn Nguyệt lấy làm kỳ:

– Chúng không sợ cô nương, cũng không ngán tại hạ, thế thì chúng cố kỵ cái gì?

Giang Phàm không hiểu nổi tại sao mà có sự lạ đó. Nàng thử đến gần một con mãng xà vảy đỏ xem sao. Tự nhiên, làm cái việc thực nghiệm nguy hiểm như vậy, nàng phải giới bị rất chu đáo.

Con rắn vẫn giữ vẻ hung dữ, nhưng lạ lùng thay, Giang Phàm bước tới, thì nó lùi, nó lùi song đôi mắt nó trợn trừng lên, nhìn đăm đăm chiếc bao nơi vai nàng.

Giang Phàm chợt tỉnh ngộ. Nàng bật cười ha hả, thốt:

– Thì ra, chúng sợ Tiểu Ngọc!

Nàng sợ Quan Sơn Nguyệt không hiểu, liền giải thích:

– Chúng xem Tiểu Ngọc là kẻ tử đối đầu, bình thường gặp nhau, chúng đều né tránh Tiểu Ngọc, còn Tiểu Ngọc cũng thế, không muốn chạm mặt chúng. Một vài con mãng xà, đối với Tiểu Ngọc thì chẳng thành vấn đề. Nhưng, hôm nay Xà Thần chừng như tập trung toàn bộ số mãng xà tại đây, thì trước số đông nầy, chỉ sợ Tiểu Ngọc phải gặp khó khăn, nguy hiểm rồi! Cứ theo lý, thì chúng phải đổ xô vào bọn ta từ lâu, song chúng chưa dám làm vậy, cũng nhờ Tây Môn Vô Diệm giúp bọn ta đó!

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Tây Môn Vô Diệm đã làm gì giúp chúng ta?

Giang Phàm mỉm cười:

– Nhờ những con Tử Mẫu Phi Ngô của nàng ta, Tiểu Ngọc mới thêm phần oai lực, do đó, nó trở thành khắc tinh của lũ mãng xà kia. Thảo nào mà chúng chẳng bất động!

Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới vỡ lẽ. Đôi mày cau lại trước đó, lại nở tung ra, vẻ hân hoan thoáng hiện nơi mắt:

– Xà Thần lập nên thế trận nầy là để ngăn chận chúng ta, chắc chắn lão không tưởng là có sự lạ lùng như vậy! Cơ hội đã đến với chúng ta, chúng ta hãy vào gấp bên trong, xem sao!

Chàng bước dài, bước nhanh, đi tới liền.

Giang Phàm chưa đi theo.

Lập tức, một số mãng xà ở phía trước xông ra, chia nhau, từ hai bên tả hữu, lướt tới, công kích Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp vung kiếm nghinh đón. Thanh kiếm của chàng, thoạt tiên nhắm vào con đi đầu, phía trước mặt, chàng chưa kịp ứng phó với những con ở hai bên.

Kiếm, là Hoàng Diệp kiếm, một trong năm báu kiếm, chém gỗ, chém đá còn được, huống hồ thịt xương?

Nhưng, con mãng xà xem thường. Nó cứ cất cao đầu, chiếc đầu quơ qua quơ lại, thân hình uốn éo, lượn tới. Đôi mắt nó dán vào thanh kiếm, nhát kiếm bay qua, nó hụp đầu, né tránh, tránh rồi cất cao cổ, tiến tới luôn. Nó tiến nhanh, chỉ né đầu thôi, cứ để cho kiếm chạm vào mình, thế mà nó chẳng bị thương. Nó vừa lướt tới, vừa lộn mình, chỉ trong vài vòng thôi, là nó quấn cứng thanh kiếm.

Quan Sơn Nguyệt vận công lực, giật thanh kiếm về, nhưng không làm sao giật vuột khỏi mình con rắn.

Trong khi đó, một con mãng xà khác lướt tới.

Gặp lúc khẩn cấp, Quan Sơn Nguyệt không còn cách nào hơn là đưa chân đá mạnh vào đầu con mãng xà thứ hai đó.

Chàng đá mạnh, và nhắm rất chuẩn, nhưng con rắn chỉ lách nhẹ thân mình, rồi quật đầu xuống, táp vào chân chàng. Táp không trúng, nó lùi lại, cách Quan Sơn Nguyệt độ nửa trượng, rồi dừng lại đó.

Tay chân con người có dài đến đâu, cũng chẳng vói được tận khoảng cách từ nửa trượng, mà chàng cũng không thể buông kiếm, thành thử song phương gồm một người hai rắn ghìm nhau như vậy một lúc, chẳng bên nào làm chi được bên nào.

Rắn, chỉ mong có vậy, bởi chúng là vật thông linh, có thông linh mới biết tuân theo sự an bài của chủ nhân, giữ một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ an toàn cho chủ nhân. Chúng thông linh, nên hiểu được Quan Sơn Nguyệt là tay lợi hại, chúng chẳng dám liều lĩnh lướt tới. Huống chi, nhiệm vụ của chúng là cầm chân đối phương, bây giờ đối phương không tiến được, thì chúng cần gì hơn?

Chúng bằng lòng với sự tương trì đó, dù có kéo dài đến bao lâu, vẫn chẳng sao.

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt bằng mọi giá, phải vào gần bên trong, phải đi ngang qua Trường Xà Trận, thì sự tương trì đó tự gây cho chàng một bực tức lớn lao. Chàng bực tức, chàng càng khẩn cấp.

Không tiến được, không lùi được, không rút kiếm khỏi mình con mãng xà được, chàng trợn mắt đến tóe lửa, nghĩ mãi mà chẳng có cách gì chuyển biến tình thế.

Rắn, hợp thành đôi, mỗi đôi cách nhau độ hai trượng, chung quanh chàng, có chẳng biết bao nhiêu đôi, giả như chàng thoát khỏi đôi đó rồi, giả như chàng lướt tới được vài bước, thì lập tức một đôi rắn khác tiến ra, ngăn chặn.

Thế thì làm sao?

Phải vượt qua ngần ấy đôi rắn, chàng phí phạm biết bao nhiêu thời gian, dù chàng có lọt vào bên trong, vị tất đã kịp thời thực hành ý định?

Chàng nhìn quanh, thấy đôi rắn nào cũng hờm hờm, và những đôi gần chàng lại càng chăm chú hơn hết. Chúng sẵn sàng thay đồng loại mà vào cuộc, chúng theo dõi cuộc tương trì.

Trong khi đó thì Giang Phàm còn trì hoãn ở phía sau, chưa chịu bước tới cho!

Chẳng đặng đừng, Quan Sơn Nguyệt gọi to:

– Giang cô nương! Cho Tiểu Ngọc làm việc đi chứ!

Giang Phàm đứng phía sau, cách chàng độ trượng, nghe chàng gọi, chưa kịp đáp như thế nào, từ trong chiếc bao, con Tiểu Ngọc phóng mình ra lao tới như mũi tên bắn bắn.

Trước hết, nó nhắm vào con rắn đang ghìm Quan Sơn Nguyệt, miệng nó phun ra một thứ khói màu vàng nhạt, trăng trắng.

Con mãng xà to lớn gấp bốn năm lần so với Tiểu Ngọc, thế mà khói nhạt vừa bay ra, nó cuốn mình tròn vòng, không còn tỏ vẻ hung hăng nữa.

Con rắn đang ghì thanh kiếm của Quan Sơn Nguyệt, biết là cơn nguy sắp đến, lập tức tháo mình, bỏ kiếm toan bò lùi lại.

Tiểu Ngọc khi nào buông tha cho nó? Nhanh như chớp, Tiểu Ngọc đập đuôi lấy đà, uốn theo. Nó cũng phun khói vàng nhạt trăng trắng sang con mãng xà, như đã làm đối với con trước.

Con mãng xà lăn lộn một lúc, rồi cuốn mình tròn vòng như con trước nằm luôn bất động.

Một đôi rắn khác, ở gần đó, chực chờ tham gia cuộc chiến thay cho đồng loại nếu đối phương thủ thắng, thấy thế, vội lùi về vị trí.

Quan Sơn Nguyệt thu Hoàng Diệp kiếm, cầm chắc trong tay, đoạn nhìn ra, thấy hai con mãng xà vừa giao chiến với chàng, nằm ngửa bụng lên mường tượng đã chết.

Con Tiểu Ngọc lướt tới, cất cao đầu, mổ xuống bụng mãng xà. Bụng mãng xà lủng, đầu Tiểu Ngọc chui vào đó, một phút sau nó mới rút đầu ra, nơi miệng nó có một cái mật mãng xà.

Nó mang cái mật đó, đến cho Quan Sơn Nguyệt.

Mùi tanh bốc lên nồng nặc, Quan Sơn Nguyệt không chịu nổi phải nín thở, vừa lắc đầu, vừa khoát tay.

Giang Phàm mỉm cười hỏi:

– Tiểu Ngọc tặng vật báu, sao đại ca không nhận? Phải biết uống mật mãng xà thì mắt rất sáng, ban đêm nhìn rõ sự vật rất xa, hơn nữa, mật đó có hiệu dụng bổ thần tráng khí, đại ca nên tiếp nhận mà uống đi!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tại hạ không dám tiếp nhận rồi! Tại hạ đã luyện được đôi dạ nhãn, kể cũng khá lắm, vậy Giang cô nương cứ tiếp nhận mà uống.

Chàng không nhận, Tiểu Ngọc lộ vẻ thất vọng. Nó mang cái mật mãng xà chuyển mình hướng về phía Giang Phàm.

Giang Phàm cũng lắc đầu luôn:

– Ta không dùng đâu! Ngươi cứ nuốt đi!

Tiểu Ngọc nuốt xong, lại quay về con mãng xà thứ hai.

Giang Phàm bây giờ mới chịu nhít bước đến gần Quan Sơn Nguyệt, thấy chàng còn sợ, cười hì hì, thốt:

– Đại ca thấy chưa, tôi có nói dối đại ca đâu!

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Loài súc sanh đó đáng sợ thật! Chỉ đối phó với hai con thôi, tại hạ cảm thấy vất vả vô cùng! Vất vả mà không hy vọng thu hoạch một kết quả nào, thế mới khổ hơn!

Giang Phàm lại cười hì hì, nói:

– Cũng may, nếu chẳng có Tiểu Ngọc, thì chúng ta làm sao chống cự với mấy trăm con mãng xà nầy? Không hiểu tại sao Xà Thần lại huy động tất cả số mãng xà, bày thành trận thế lợi hại như vậy!

Tiểu Ngọc đã moi bụng con mãng xà thứ hai, ngoạm lấy cái mật rồi, nó hết sức đắc ý, bò từ từ về gần Quan Sơn Nguyệt và Giang Phàm, chờ nghe lịnh sai.

Nhìn ra trước mặt, nhẩm tính còn hơn hai mươi cặp rắn đang chờ trực tràng và Giang Phàm, chàng chỉ về hướng đó, bảo Tiểu Ngọc:

– Thu thập chúng đi!

Tiểu Ngọc vươn mình, định phóng đi, Giang Phàm hấp tấp ngăn chận:

– Không được! Không nên đâu! Trở lại, Tiểu Ngọc!

Tiểu Ngọc chưa bò đi, cần gì phải trở lại? Nó khựng mình lại đó, nó quay đầu nhìn lại, như chờ nghe giải thích. Cái bộ dạng của nó chứng tỏ rõ rệt nó không ngán những cặp mãng xà phía trước kia, có điều nó không hiểu vì duyên cớ gì Giang Phàm lại ngăn trở nó.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm kỳ, hỏi:

– Tại sao thế, Giang cô nương?

Giang Phàm thấp giọng:

– Xà Thần đã huy động toàn bộ số mãng xà trong sơn cốc, ngăn chận chúng ta, hẳn phải có một nguyên nhân nào trọng đại lắm. Lão sợ chúng ta xuất hiện bất ngờ, phá hoại công cuộc gì đó của lão. Có thể cho rằng hiện tại lão đang thay hình, đổi dạng, lão hy vọng công việc được thực hiện thuận lợi, để lão gấp trở lại nhân hình ...

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Lập luận đó đúng lý lắm.

Giang Phàm tiếp:

– Vậy thì, chúng ta hãy thành toàn ý nguyện của lão. Chúng ta không nên vào đó trong lúc nầy. Chờ cho lão khôi phục nhân hình rồi, tự nhiên lão giải tỏa trận thế nầy, điều động đàn mãng xà về các hang, các ổ ...

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, nói:

– Không! Tại hạ muốn vào đó ngay, xem cho biết sự tình. Giả như lão đang làm mọi cách để biến thể, thì tại hạ sẽ không động chạm đến lão. Bởi vì, bọn Tạ Linh Vận cũng đang có mặt trong đó. Giả như chúng lợi dụng cơ hội nầy, giở thủ pháp Mê Hồn ra thi thố trên con người lão, thì chúng ta phải ngăn chận. Cho nên, sự có mặt của chúng ta chẳng những có lợi cho chúng ta mà cũng không gây thiệt hại nào cho Xà Thần ...

Giang Phàm lại suy nghĩ một lúc, đoạn gật đầu:

– Tôi có lý, đại ca có lý hơn! Quan đại ca, tại sao đại ca không nói sớm?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Xem ra, Giang cô nương càng lúc càng hiểu lầm những ý tưởng của tại hạ!

Trong lúc tại hạ đối thoại với Tây Môn Vô Diệm, tại hạ có nói qua điều đó, có lẽ cô nương không chú ý nghe, hay có nghe mà không tìm hiểu. Cũng có thể là cô nương không tin tưởng nơi những gì tại hạ nói.

Giang Phàm thoáng đỏ mặt. Đã muốn làm vợ người ta, mà càng lúc càng hiểu lầm người ta thì còn hòng gì sóng đôi với nhau đi trọn quãng đường đời?

Sau này, những sự hiểu lầm sẽ tạo nên đổ vở dễ dàng.

Nàng ấp úng:

– Đại ca ... Nào phải tôi ... không tín nhiệm đại ca! Bất quá, Xà Thần nuôi dưỡng tôi từ lúc nhỏ, lão đối xử tốt với tôi, tôi cảm mến lão, cho nên tôi muốn những cái tốt đến với lão, tôi lo ngại, ngại những gì ngăn trở những cái tốt đó đến với lão. Tôi phải nói như vậy đó, đại ca ạ!

Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:

– Chứ tại hạ lại muốn điều hại cho lão sao? Chứ tại hạ không thọ ân lão sao? Chẳng qua, tại hạ chỉ muốn tốt cho cả hai đàng, lão có lợi mà mình cũng có lợi luôn vậy thôi!

Chàng tiếp luôn:

– Tại cô nương lầm tưởng tại hạ có ý xấu, muốn lợi dụng cơ hội nầy, trừ diệt Xà Thần, nên vừa rồi, tại hạ tiến tới, cô nương lại đứng yên, rồi tại hạ ra lịnh cho Tiểu Ngọc tấn công, cô nương lại ngăn chặn! Yên trí đi, cô nương! Nhất định là tại hạ sẽ chẳng làm gì tạo nên bất mãn cho cô nương đâu!

Giang Phàm vẫn còn thẹn, đáp:

– Quan đại ca bỏ qua cho tôi! Dù sao thì tôi cũng là vợ của đại ca mà, hiện tại chưa chánh thức, không sớm thì muộn cũng chánh thức. Có người chồng nào lại quyết liệt với vợ đâu, hở đại ca? Chẳng qua tôi lo ngại cho Xà Thần thôi. Tuy vậy, từ nay về sau, nếu lão có chống đối với đại ca, tôi nhất định đứng về phía đại ca. Đại ca tin nơi tôi đi!

Quan Sơn Nguyệt không muốn nàng kéo dài câu chuyện trên vấn đề chồng vợ nữa, vội thốt:

– Tự nhiên là tại hạ tin cô nương. Bây giờ thì cô nương hãy bảo con Tiểu Ngọc làm việc đi!

Giang Phàm vo tròn môi, huýt gió. Rồi nàng bảo:

– Chúng ta đi thôi, đại ca!

Nhưng, con Tiểu Ngọc nằm bất động giữa đường.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:

– Sao Tiểu Ngọc chưa khai lộ?

Giang Phàm thấp giọng:

– Nó chờ chúng ta đó. Nó ở cạnh chúng ta thì Xà Trận không phát động.

Chỉ cần những con mãng xà kia đừng nhúc nhích, chúng ta cứ đi tới mà không gặp trở ngăn là được rồi. Nếu con Tiểu Ngọc lướt tới, tất nhiên nó phải sát hại đồng loại của nó. Tôi từ nhỏ, sống trong Thiên Xà Cốc, suốt mười mấy năm dài, làm bạn với rắn, nên dù muốn dù không, cũng cảm thương chúng ít nhiều, do đó tôi ra lịnh cho Tiểu Ngọc chỉ thủ quanh chúng chứ đừng công kích những cặp mãng xà phía trước.

Quan Sơn Nguyệt không đồng cảm nghĩ như nàng, lắc đầu thốt:

– Mãng xà là loài độc vật, rất hại cho người, chúng có gì đáng dung dưỡng mà cô nương đem cái tâm từ thiện đối xử với chúng? Hiện tại thì Xà Thần còn đây, chúng tuân lịnh Xà Thần mà không hoành hành khỏi phạm vi Thiên Xà Cốc.

Giả như Xà Thần biến thể rồi, ly khai nơi này, lão đâu có thể mang tất cả số mãng xà này đi theo? Chúng ở lại đây không người điều khiển, sẽ bò hoang, bò loạn hãm hại dân cư quanh vùng. Thật là độc hại đó!

Giang Phàm giải thích:

– Không thể có việc đó đâu! Xà Thần huấn luyện chúng rất kỹ, dù vắng mặt Xà Thần, chúng chẳng bao giờ dám loạn động đâu. Chỉ có Xà Thần mới chỉ huy chúng được. Không có lịnh Xà Thần, chẳng bao giờ chúng làm gì. Nếu đừng ai bén mảng đến vùng nầy, thì tuyệt đối chúng không vượt phạm vi mà tìm người gây hại.

Nàng tiếp luôn:

– Vật, cũng như người, vật và người đồng có sanh mạng như nhau, vật lớn lên và còn sống đến bây giờ, chẳng phải là không trải qua khó khăn, thử thách.

Sự sống của vật, cũng như người, là cả một công trình, chúng ta không có quyền hủy diệt công trình đó. Cứ để cho vật cũng như người, tự sanh rồi tự diệt, theo định giới của tạo hóa.

Quan Sơn Nguyệt nhìn sững nàng một lúc, đoạn gật đầu:

– Được! Cô nương đã nghĩ thế, tại hạ không còn nuôi ý định tận diệt chúng nữa. Tại hạ đâu phải là con người hiếu sát, thi thố sự hiếu sát đó đến cả loài vật ...

bất quá ...

Giang Phàm chận lời liền:

– Nếu nhận thấy chúng sắp sửa hại người, thì tôi sẽ có biện pháp ngăn ngừa, hoặc giả tiêu diệt chúng. Tôi bảo đảm là mình làm được việc đó. Quan đại ca cứ yên tâm.

Quan Sơn Nguyệt không nói gì nữa.

Cả hai lặng lẽ tiến tới. Có con Tiểu Ngọc bên cạnh họ, những con mãng xà bất quá hầm hừ chờm hờm xa xa, chẳng con nào dám xông đến gần.

Khoảng trống đó, rộng độ mấy trăm trượng vuông, con đường xuyên ngang trận thế dài độ bốn năm mươi trượng. Họ đi qua quãng đường đó, như đi vào nguy hiểm, song chẳng có nguy hiểm gì đến với họ.

Không lâu lắm, họ đến đầu trong.

Bây giờ, họ đứng trước vọng cửa bằng đá, cửa không cánh, chỉ có rèm bằng cỏ dây leo buông thòng, trùm phủ che khuất bên trong. Rèm dầy quá, họ chẳng nhìn thấy gì ở bên trong cả.

Vọng cửa đá đó, là cửa một ngôi thạch thất, xưa kia, chính là nơi cư trú của Giang Phàm. Quan Sơn Nguyệt từng đến đó một lần.

Trong nhà, bàn ghế và giường bằng đá vẫn y nguyên, song vắng vẻ vô cùng, họ quan sát kỹ, chẳng thấy một dấu vết nào chứng tỏ có mai phục.

Bất quá, họ đứng bên ngoài, tìm cách nhìn qua những khe hở giữa những đường dây cỏ leo, chứ thực sự thì họ chưa vào hẳn bên trong.

Bởi gian nhà trang bị rất đơn giản, nên họ dễ nhận định tình hình.

Quan Sơn Nguyệt toan đưa tay vẹt bức rèm cỏ dây leo, Tiểu Ngọc vội lướt tới, quấn mình nơi cánh tay chàng, rồi nó rút mình về, như giật tay chàng lại.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:

– Tiểu Ngọc định làm gì thế?

Tiểu Ngọc quay đầu hướng qua Giang Phàm rít gió. Nó có vẻ sợ hãi phi thường.

Giang Phàm biến sắc mặt, đáp:

– Quan đại ca! Không vào được đâu! Tuy chúng ta không thấy khả nghi, nhưng con Tiểu Ngọc quả quyết! Bên trong có mai phục.

Quan Sơn Nguyệt liền hỏi:

– Mai phục? Người hay cơ quan?

Giang Phàm lộ vẻ kinh khiếp:

– Một loại rắn tối độc!

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Lại rắn độc! Đâu đâu cũng là rắn độc! Tại hạ không tin là loài rắn cực độc đến đâu có thể làm gì được chúng ta, khi chúng ta có đề phòng!

Chàng đưa nhanh tay vẹt bức rèm, vừa lúc đó, bên trong có tiếng lào xào vang lên, hòa lẫn với tiếng gió vi vu, ẩn ước có tiếng kêu quái dị.

Kế tiếp một chiếc đầu kỳ quái thò ra, hướng về họ, trông rất đáng sợ.

Quan Sơn Nguyệt biến sắc. Chàng không ngán độc xà, nên đưa tay vẹt bức rèm, nhưng trông thấy chiếc đầu đó, chàng phải rùn mình.

Bởi Giang Phàm chỉ cho chàng biết là độc xà được bố trí khắp cùng, đón ngăn chàng, do đó chàng nghĩ cách đối phó với độc xà thôi.

Bây giờ, gặp thứ dữ hơn độc xà, chàng phải hãi hùng kinh khiếp. Đương nhiên trong cơn cấp bách, chàng không có phương pháp nào thích ứng đối phó với thú dữ này.

Thú dữ đó, có chiếc đầu suýt soát đầu người, mắt mũi tai đều đủ, đôi tai đặc biệt nhỏ hơn tai người, đầu thì trọc lóc. Môi nó như máu, lưỡi thè dài ra, răng chơm chởm.

Khi một con quái vật cười, cái cười của nó đáng sợ không tưởng nổi, người ta nói, quỷ nhăn răng là một điều trông thấy phải hãi hùng, con quái vật này cười, còn đáng sợ hơn quỷ nhăn răng.

Chiếc cổ của nó dài quá, dài gần bằng một thân mình con rắn, đầu của nó theo chiếc cổ, đảo qua, đảo lại, miệng nó nhóp nhép mãi, đầu càng phút càng chồm gần hơn, miệng nó càng nhóp nhép nhanh hơn, như sắp ngoạm Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt hoảng quá, trong tay lại chẳng có vật gì ngoài những mảnh da rắn được treo lòng thòng giữa vọng cửa, chàng táo bạo, quăng cả mớ da rắn đó vào đầu con quái vật, hy vọng phủ trùm đầu nó, gây khó chịu cho nó phải chậm lại thế công. Đồng thời, chàng thoái hậu mấy bước dài.

Tiểu Ngọc thì rút mình vào chiếc bao bố, còn Giang Phàm thì đã lùi lại xa lắm rồi.

Nàng thấy Quan Sơn Nguyệt thoát nạn, vội gọi to:

– Lùi nhanh, càng xa càng hay, đại ca. Đừng để cho quái vật phun độc khí trúng mình!

Con quái vật hất chiếc đầu, vung những mảnh da rắn văng tứ tung.

Những mảnh da rắn đó tung bay, chứng tỏ con quái vật có phun hơi ra, và hơi của nó đương nhiên là độc khí.

Giang Phàm lại hấp tấp gọi:

– Đại ca có bị hơi độc của nó phun trúng không?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không! Nhờ những mảnh da rắn đó che khuất, hơi độc không bay thấu qua được.

Rồi chàng hỏi:

– Quái vật gì thế, hở cô nương? Hình dạng của nó sao mà dài quá ... Nhất là chiếc cổ ...

Giang Phàm thốt:

– Nào chỉ hình dáng của nó đáng sợ mà thôi? Khí độc do nó phun ra, cực kỳ lợi hại, bất cứ vật gì, bị khí độc đó trúng phải, tức khắc tiêu hóa không còn một điểm nhỏ. Đại ca không tin cứ nhìn những mảnh da rắn kia thì biết.

Quan Sơn Nguyệt nhìn ra, chợt biến sắc mặt Bức rèm bằng da rắn, đã rơi xuống, tất cả số da rắn được kết tại, chỉ còn là đống vảy vụn, phần nào còn dính lòng thòng nơi đà cửa trên, thì phần đó lỗ chỗ như những mắc vỏng ...

Kế đó, thì hoàn toàn bức rèm rơi xuống, rồi những vảy rắn cũng tiêu hóa luôn, chẳng còn một chiếc nào.

Ai vào đây trong lúc nầy, hẳn không tưởng là trước đó, nơi vọng cửa có một bức rèm da rắn! Bởi, chẳng có một dấu vết nào chứng tỏ có bức rèm đó từ lâu rồi!

Người ta cứ cho rằng vọng cửa được bỏ trống mà thôi.

Quan Sơn Nguyệt chết sững tại chỗ một lúc lâu, sau cùng lấy lại bình tĩnh, kêu lên thất thanh:

– Con quái vật đó là gì? Cũng là một loại độc xà chăng?

Nó không giống mảy mai một con rắn, đầu nó mường tượng đầu rồng, nó lại có chân, chân nó lớn bằng chiếc chậu đồng, nó nằm ngay trên mặt một chiếc bàn đá, chân bàn đương nhiên phải to, mới chịu nổi với trọng lượng của nó.

Chiếc cổ của nó dài độ hai trượng, cổ dao dao, đầu dao dao theo, đôi mắt nó lộ hẳn ra ngoài, không có lông mày, lông nheo gì cả, tuy phảng phất đầu người.

Mắt lại không có mí, cho nên vĩnh viễn nó không nhắm mắt được.

Chừng như da mặt của nó dính liền với răng, răng lộ ra trằn níu luôn da mặt, nên trông nó vĩnh viễn cười, nụ cười đáng sợ!

Giang Phàm sợ đến tái mặt, rung rung giọng giải thích:

– Nó không có tên, nên không thể gọi nó là rắn được. Cứ theo Xà Thần, thì nó là sản phẩm của sự cấu hợp giữa con độc quy vùng sa mạc và con rắn mặt người. Tự nó thừa kế hình dạng quái dị của hai con vật sanh ra nó, rồi do biến thể, nó lại càng quái dị hơn. Chất độc của nó ghê gớm lắm, đá trúng phải, đá cũng phải tiêu hóa luôn!

Cảnh tượng trước mặt là một bằng chứng hùng hồn, Quan Sơn Nguyệt phải tin Giang Phàm nói đúng.

Cho nên, chưa tin đã sợ, tin rồi càng sợ hơn, chàng biến sắc mặt, hỏi:

– Một con quái vật lợi hại như vậy, Xà Thần làm thế nào bắt được mang về đây mà huấn luyện nó chứ?

Giang Phàm đáp:

– Không ai bắt nó mang về đây cả. Xà Thần chọn một con quy cái, rồi tuyển độ hai mươi con rắn có đầu người, cho chúng ở chung với nhau, con quy cái đó ăn thịt tất cả những con rắn cái, rồi giao hợp với những con rắn đực. Kết quả nó sanh ra quái vật đó, và trong Thiên Xà Cốc, chỉ có mỗi một mình Xà Thần chỉ huy nó được mà thôi.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Xà Thần để con vật đó tại gian nhà này, là có ý tứ gì chứ?

Giang Phàm lắc đầu:

– Nào ai biết được ý tứ của lão ta? Có thể là để ngăn chặn bọn ta vào trong đó mà thôi!

Bổng, một tràng cười đâu đây vang lên, lồng lộng:

– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi tự cho mình quan trọng quá! Nếu chỉ để ngăn chặn ngươi, thì cần gì ta phải vận dụng tâm cơ, điều động bao nhiêu mãng xà, quái thú? Ngươi có xứng đáng gì cho ta phải phí công phí sức như vậy chứ? Bởi giết ngươi đối với ta là việc rất dễ dàng, ta chỉ xoay bàn tay là ngươi mất mạng rồi kia mà!

m thanh đó, đúng là của Xà Thần.

Quan Sơn Nguyệt giật mình hỏi:

– Thế thì ý tứ của tiền bối như thế nào?

Xà Thần bật cười ha hả:

– Cái ý tứ của ta? Là giết ngươi, có điều những bố trí đó không phải dành cho ngươi. Ta giết ngươi bằng cách khác, ta giết ngươi rất dễ dàng, không cần huy động toàn lực lượng!

Quan Sơn Nguyệt nổi giận, không cần giữ lễ độ nữa:

– Muốn giết ta, ngươi cứ xuất hiện, cứ hạ thủ, cần gì ẩn nấp như kẻ trộm?

Xà Thần lại cười vang:

– Nhưng ta có tánh lười, khi ta lười, thì có con quái vật đó thay ta, làm những việc mà ta muốn. Ta sai nó ra đó để giết ngươi chứ không ngăn chận ngươi vào trong này đâu! Dù bây giờ, ngươi có lùi lại, nó cũng giết ngươi như thường, theo lịnh của ta.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ một lúc.

Xà Thần lại nói tiếp:

– Tuy nhiên, nếu ngươi lùi lại, rất có thể ngươi khỏi bị nó hại, bởi vì nó chậm chạp lắm, nó không di động theo ngươi kịp. Chỉ còn có cách là dụ dẫn ngươi đến gần nó, trong tầm phun độc của nó.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Đừng mong dụ dẫn ta đến gần! Ta không vào, con quái vật chẳng làm gì được ta, chỉ còn có cách là xuất hiện để giao đấu với ta.

Xà Thần vẫn cười lớn:

– Ngươi không chịu đến gần thì thôi, ta cứ để cho ngươi sống sót. Nhưng ta tin là chẳng khi nào ngươi chịu bại như vậy, bằng mọi giá, ngươi nhất quyết vào trong này, vào cho kỳ được. Ta biết ngươi sẽ không nhịn vào nổi. Ngươi nghe kia, thanh âm của ai đó?

Có tiếng rên từ bên trong vọng ra, tiếng rên trong trẻo, phát xuất đều đều ...

Quan Sơn Nguyệt kêu lên một tiếng:

– Á!

Chàng tiếp luôn:

– Linh Cô!

Đúng là Linh Cô! Nó từ bên trong gọi ra:

– Quan công tử! Đừng lầm mưu lão ta. Hãy đi đi!

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Linh Cô! Có phải lão quái vật đó ngược đãi tiểu cô nương chăng?

Linh Cô không đáp.

Xà Thần cười vang, rồi cất tiếng thay Linh Cô:

– Ngươi muốn biết sự thật phải không? Đã thế, ta cho biết, Tạ Linh Vận đã truyền cho ta cái thuật giao hợp với nữ nhân, ta học xong rồi mà trong cốc lại chẳng có ai, chỉ có mỗi một mình Linh Cô, bắt buộc ta phải dùng nó để thực nghiệm ...

Quan Sơn Nguyệt hét lên như sấm:

– Lão quái vật, ngươi dám làm như vậy à? Ngươi là súc sanh.

Xà Thần cười gằn:

– Tại sao ta không dám? Nàng còn bé bỏng gì đó, ít nhất cũng mười hai, mười ba tuổi rồi, cứ theo lời Tạ Linh Vận thì gái đến tuổi đó có thể phục dịch nam nhân rồi. Hà huống, ta cũng mê nàng luôn, từ lúc nàng vào đây ...

Quan Sơn Nguyệt không giằn lòng được nữa. Chàng vừa lướt tới vừa gầm lên:

– Xà Thần! Ngươi đúng là một súc sanh! Với số tuổi đó, ngươi nỡ hủy hoại cuộc đời một cô bé chưa tròn mười hai mười ba xuân xanh? Ngươi không thể sống sót trên cõi đời này lâu dài! Cái thú tánh của ngươi sẽ làm thiệt hại cho gái nhà lành trong tương lai, không tưởng tượng nổi! Ta nhất định cùng ngươi ...

Xà Thần nổi giận, quát trả:

– Cút! Cút ngay! Cút gấp khỏi nơi nầy, nếu không, ta sẽ bảo con Tiểu Hoa phun độc, ngươi phải mất mạng đó! Ngươi không sợ chết, cứ vào!

Giang Phàm khóc mướt, thốt qua nức nở:

– Xà Thần ơi! Từ lâu rồi, Xà Thần từng tỏ ra là con người nhân từ, tại sao giờ đây lại biến tánh thế? Không lẽ Xà Thần bị Tạ Linh Vận mê hoặc đến độ quên mình là bậc đức trọng đạo cao sao?

Nàng vừa tha thiết van cầu, vừa tâng bốc lão, hy vọng lão mát tự ái mà dịu thái độ lại phần nào.

Xà Thần cười lạnh, đáp:

– Tạ Linh Vận là cái quái gì mà có thể mê hoặc được ta? Hắn vừa bắt đầu áp dụng cái thuật mọn, là ta phát giác liền, hiện tại hắn bị ta giam trong hang rắn đó, cho ngươi biết.

Giang Phàm mầng thầm, song cứ khóc, càng lúc càng thảm thiết hơn:

– Thế Xà Thần định làm chi đây, đối với bọn chúng tôi?

Xà Thần cười lớn, nói:

– Ta làm gì các ngươi? Ta chẳng có thái độ gì đối với các ngươi cả! Bất quá, ta đang hân hoan cho chính ta đây thôi. Trước kia, ta thẹn vì hình dáng quái dị, ta phải ẩn náu trong cái sơn cốc xa xôi nầy, ta không dám giành một chỗ đứng giữa dòng nhân loại. Hiện tại thì ta đã phục hồi nhân dạng, ta phải hưởng những lạc thú mà từ lâu ta không được hưởng trong khi nhân loại hưởng chán chê, thừa thãi. Ta chỉ muốn thế thôi, điều ta muốn đó chẳng liên quan gì đến các ngươi, vậy hãy cút đi nơi khác, để cho ta được an ổn mà tận hưởng khoái lạc.

Rồi lão tiếp luôn:

– Tuy nhiên, ngươi hãy đi đi, còn tên tiểu tử họ Quan kia, ngươi bảo hắn vào đây, nói chuyện với ta.

Quan Sơn Nguyệt xô vẹt Giang Phàm qua một bên, rồi hét:

– Lão quái vật, ta chẳng có gì phải nói với ngươi, ta chỉ có việc đánh nhau với ngươi thôi, ngươi có can đảm, cứ ra đây giao chiến với ta!

Xà Thần cười ha hả:

– Được rồi, vậy ngươi cứ đợi một chút, để ta cùng vị tiểu cô nương này thực hành xong sự khoái lạc, ta sẽ ra đó, rồi ngươi muốn làm gì, cứ làm.

Quan Sơn Nguyệt vung kiếm vút vút, quát to:

– Lão quát vật! Ta cảnh cáo ngươi đó, nếu ngươi chạm đến mình Linh Cô, thì ta nhất định không dung thứ ngươi. Với thanh kiếm này, ta sẽ chặt ngươi thành ngàn vạn đoạn!

Xà Thần cười vang:

– Đừng dọa già, tiểu tử! Ta không ngán ngươi đâu! Ngươi muốn chết gấp, cứ vào đây mà can thiệp việc của ta, còn như sợ chết thì đứng đó, chờ ta ra rồi vập đầu lạy mà xin dung thứ. Có thể ta rộng lượng tha cho.

Lão lại cười, rồi cao giọng tiếp:

– Ngươi có biết ta đang làm gì đây chăng? Hà hà! Ta đang cởi chiếc áo của vị tiểu cô nương đây! Hà hà! Làn da của nàng sao mà trắng quá, mịn màng quá! Lại mát lạ!

Quan Sơn Nguyệt xách kiếm chạy tới.

Con quái vật nhóng cao cổ, quơ chiếc đầu, mắt nó mở tròn hơn, mồm nó phồng ra, như dồn tụ một phần khí độc quan trọng. Nó chỉ chờ lịnh là phun khí độc ngay.

Bên trong, Linh Cô vừa khóc vừa gọi vọng ra:

– Quan công tử! Hãy đi đi! Để mặc tôi, đừng can thiệp làm gì!

Quan Sơn Nguyệt làm sao chịu nổi sự việc đó? Cần gì chàng phải thấy tận mắt nàng bị dày vò? Chàng chỉ nghe nàng kêu la thảm thiết cũng phác họa đại khái tình hình như thế nào rồi!

Tuy nhiên, chàng chẳng phải là con người hành động theo huyết khí. Cho nên, đang giận dữ đó, chàng lại trấn định tâm thần ngay, trấn định để có đủ sáng suốt tìm biện pháp thích đáng, giải quyết trường hợp.

Quan Sơn Nguyệt quan sát con quái vật một lượt nữa, rất kỹ, tìm biện pháp đối phó với nó. Chàng nhận ra, điểm lợi hại duy nhất của nó, là miệng. Còn miệng, là nó còn phun độc. Làm sao hủy diệt được cái miệng của nó, là nó không còn lại hại chàng được nữa.

Hủy diệt cái miệng? Tất phải chặt luôn chiếc đầu của nó, mà đầu nó thì nêu cao trên chiếc cổ dài. Chặt đầu nó, là giết nó rồi, chàng giết được nó thì đâu còn là vấn đề?

Chiếc cổ nó rất dài, song không lớn lắm, độ hai tấc tròn thôi. Đầu nó lớn quá, cổ lại dài, lại nhỏ, chừng như nó chi trì không nổi chiếc đầu. Tuy nhiên, động tác của nó rất nhanh, dù thân pháp của Quan Sơn Nguyệt có nhanh đến đâu, cũng không chắc gì chàng vung kiếm chém kịp ngang chiếc cổ của nó.

Suy nghĩ một lúc, chàng cởi bỏ chiếc áo ngoài.

Giang Phàm đã hiểu chàng muốn làm gì rồi. Bất giác, nàng biến sắc mặt, vội nắm tay chàng, kéo lại, kêu lên:

– Quan đại ca ơi, không được đâu! Chiếc áo không thể gây trở ngại gì cho con vật nổi!

Quan Sơn Nguyệt không lưu ý đến lời cảnh cáo của Giang Phàm, nhún chân vọt mình tới.

Quái vật phun độc khí liền.

Quan Sơn Nguyệt định dùng chiếc áo đó làm chiếc bình phong, quăng ra ngăn chặn độc khí bay đến chàng, chàng chỉ cần ngăn chận như vậy trong một giây thôi, đủ cho chàng lướt đến cạnh nó để vung kiếm chém ngang chiếc cổ nó.

Nhưng, phun độc khí, con vật phải có sức mạnh, độc khí bay ra, kình đạo còn thừa, kình đạo đó từ miệng nó cuốn ra, nghe phì phì, tuy là phần dư thừa, song vẫn mạnh. Quan Sơn Nguyệt đến gần nó, còn cách độ ba thước, không làm sao tiến tới nổi nữa, chẳng những thế, áp lực của nó đẩy lùi chàng trở lại.

Trong khi chàng lùi, con vật lại vươn cổ dài, nó chồm tới, nhe răng ra, như cười vào mũi chàng.

Tức uất, Quan Sơn Nguyệt đột nhiên nhào tới, lưng áp nhanh vào vách, tay chụp một chiếc ghế, thủ sẵn, phòng con quái vật tấn công.

Chàng đã mất chiếc áo rồi, không lẽ cởi tuột tất cả y phục còn lại. Bắt buộc chàng phải tạm dùng một vật gì khác trong tay.

Giang Phàm thấy thế, sợ cuống cuồng, kêu lên:

– Trở ra, đại ca! Đại ca ơi, nguy hiểm lắm! Chiếc ghế đó dù có bằng đá, đá cũng không ngăn trở độc khí của quái vật đâu!

Bây giờ, dù chàng có muốn lùi, cũng không còn lùi được nữa, chàng ở trong cái thế bất khả kháng, phải đánh, biết rằng chết cũng đánh, tìm cái sống trong cái chết mà chàng đang mạo hiểm.

Trong khi Quan Sơn Nguyệt tìm cách vượt qua con quái vật vào trong, thì Giang Phàm lại van cầu trở lại. Nàng gọi:

– Trở ra ngay, đại ca! Tôi tìm cách ngăn chặn con quái vật cho đại ca cứ lùi lại!

Lo cho mình, chưa xong, Quan Sơn Nguyệt lại thấy Giang Phàm vọt tới, chàng khẩn cấp cực độ, sợ nàng phải chết vì độc khí của con quái vật. Không còn cách gì khác, lập tức chàng quăng chiếc ghế về phía con quái vật.

Con quái vật đang chăm chú nhìn Giang Phàm, ứng phó với nàng, không tưởng là Quan Sơn Nguyệt tấn công nó bằng cách đó, khi nó hay kịp, nó vội bỏ Giang Phàm, quay đầu về Quan Sơn Nguyệt. Nhưng, nó chưa kịp phun độc khí, Quan Sơn Nguyệt đã lướt đến cạnh nó rồi. Chàng lợi dụng lúc chiếc đầu nó đảo qua đảo lại từ Giang Phàm đến chàng, trong khi nó đảo chiếc đầu thì đương nhiên là nó chưa phun độc. Chàng chỉ cần một phút giây đó thôi.

Chàng vọt mình tới, lia thanh kiếm ngang cổ nó.

Thanh kiếm không gặp một phản lực nào, chém đứt chiếc cổ nó dễ dàng, như chém vào bùn.

Giang Phàm kêu lên một tiếng lớn.

Bên trong, Xà Thần cũng kêu lên một tiếng lớn.

Chiếc đầu của con vật, mang theo một đoạn cổ dài độ trượng từ trong vọng cửa, bay vút ra ngoài.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 58

Những Cái Khó Làm

Đầu con quái vật bay đến cửa, còn ngảnh nhìn lại Quan Sơn Nguyệt như nở một nụ cười với chàng, nhiên hậu bay đi mất dạng.

Giang Phàm giậm chân:

– Thôi rồi! Nguy không tưởng nổi!

Quan Sơn Nguyệt nào có biết gì đâu, trố mắt nhìn nàng:

– Cái gì nguy? Chẳng lẽ quái vật đó còn sống được à?

Giang Phàm «hừ» một tiếng:

– Nào chỉ là nó còn sống mà thôi đâu! Từ nay, nó sẽ hoạt động tự do, không còn cái chi kềm hãm nó, ngăn chặn nó được nữa. Nó sẽ hãm hại vô số độc xà trong thế gian, nó còn hãm hại người ta nữa đấy! Đại ca ơi! Đại ca đã làm một việc mà hậu quả tai hại không lường nổi đó.

Quan Sơn Nguyệt hết sức lấy làm lạ. Cho dù nó còn sống đi nữa, cứ theo lời của Giang Phàm, thì nó hãm hại đồng loại của nó, phàm loài rắn không độc nhiều cũng độc ít, nếu trừ diệt được thứ độc vật đó, càng có lợi cho nhân loại, chứ tại sao lại nguy? Nguy ở chỗ nào? Giả như nó hại người, nếu người tránh nó ra, đừng ai tìm mà gặp nó, thì làm sao bị nó hại được? Huống chi, trên thế gian nầy, nếu có người bị, hại về rắn, thì từ trước đến nay, đã có bao nhiêu người thọ hại vì rắn rồi, nào phải đợi từ phút giây nầy, con quái vật đó xuất hiện mà người ta mới bắt đầu bị hại?

Giang Phàm biết chàng nghĩ gì rồi, nhưng nàng không nói gì, chỉ lắc đầu, chốc chốc lại buông tiếng thở dài, ra vẻ ưu tư trầm trọng.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:

– Giang cô nương, đáo để sự tình ra sao, mà ...

Giang Phàm bắt buộc phải giải thích:

– Quan đại ca ơi! Sở dĩ từ lâu con quái vật không hại người, là vì nó mất cả sự tự do hoạt động, một phần vì nó khuất phục Xà Thần, song phần lớn là do thân xác bất tiện của nó. Thử nghĩ, nó thoát thân từ mẹ rùa, cha rắn, thân mình là rùa, đầu cổ là rắn, với cái thân hình nặng nề đó, nó không di động được, thành ra phải nằm một chỗ. Bây giờ, đại ca chặt đứt cái phần vướng vấp của nó, có khác nào làm ơn cho nó chứ có phải là trừ diệt nó đâu? Bỏ cái xác vướng vấp kia, nó hoạt động nhanh nhẹn hơn, từ nay nó xuất thế rồi, thì người và vật trên đời sẽ khổ với nó!

Quan Sơn Nguyệt cho là nàng ăn nói hoang đường, vội cãi:

– Xưa nay, dù là người hay vật, thân thể phải hợp nhất, thân thể còn liền lạc với nhau, là người hoặc vật mới sống được, chứ khi nào đầu lìa thân mà người hoặc vật lại không chết? Chuyện đó dù có thật đi nữa, cũng chẳng ai tin! Bởi, nó sái với đạo lý quá chừng!

Giang Phàm lắc đầu:

– Đại ca đừng nói theo sách, người viết sách chẳng phải có con mắt và lỗ tai quán thông mọi sự vật từ cổ chí kim. Có những cái mà con mắt người viết sách cho là thần bí, là hoang đường, nhưng lại chính là sự thật, bởi họ chưa có dịp chứng kiến những sự thật đó, nên họ hoài nghi. Đại ca đừng nghĩ là lý trí có thể giải thích tất cả những diễn tiến trong vũ trụ. Đại ca biết không, con quái vật nầy khác hơn mọi loài vật khác, ở cái chỗ sanh mạng của nó chủ yếu tại đầu, và cái thân mình của nó chỉ là bộ phận tùy thuộc, như cái đuôi một con vật nào khác.

Còn bộ phận tùy thuộc đó, nó bị vướng vấp khó chịu lắm, mất bộ phận đó rồi, nó như được giải thoát khỏi xiềng xích, từ nay mặc sức cho nó tung hoành. Thực ra, đại ca cho rằng đại ca đã chặt đứt đầu nó, trái lại đại ca chỉ chặt phần đuôi, cái phần mà nó bắt buộc phải mang miễn cưỡng một cách rất phiền phức.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Rồi nó sẽ làm gì chứ?

Giang Phàm trầm giọng:

– Nó sẽ tìm những con độc xà mà ăn ...

Quan Sơn Nguyệt cười lớn:

– Như vậy là nó trừ diệt những con độc xà trên đời, có lợi cho thế nhân chứ sao đâu?

Giang Phàm lắc đầu:

– Sai quá! Đành rằng nó sát hại những con độc xà, có lợi cho người đời, song tất cả những con độc xà kia, tuy độc nhưng nọc của chúng vẫn còn có thể chữa trị được. Chứ nọc độc của con quái vật nầy, thì trên đời không một danh y nào hóa giải nổi. Nó đã ăn rắn độc từ lâu, ăn hạn chế mà nó còn độc như vậy, nếu nó ăn nhiều hơn, thì khí độc của nó phải phi thường. Từ nay nó lấy độc dưỡng độc, nó ngoạm vào ai, là người đó phải mất mạng, dù tiên trên trời cũng không cứu sống!

Nàng trầm giọng, tiếp:

– Đại ca từng thấy, rết ăn rết, như cái loại Tử Mẫu Phi Ngô của Tây Môn Vô Diệm đó, chúng càng ăn đồng loại càng lợi hại. Thì, con quái vật nầy cũng thế, càng ăn đồng loại, nó càng lợi hại hơn!

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

– Nó sẽ lớn dài ra như loài Tử Mẫu Phi Ngô?

Giang Phàm lắc đầu:

– Phải chi nó lớn dài ra, thì còn nói làm gì? Vì như vậy là nó kềnh càng, khó ẩn nấp, từ xa xa người ta đã trông thấy nó dễ dàng. Nó càng ăn đồng loại, càng thun mình nhỏ lại, thực sự thì nó không ăn cả xác đồng loại, như những con rết nuốt xác chết, nó chỉ hút tinh khí của những con rắn khác thôi.

Quan Sơn Nguyệt bực mình, buông gọn:

– Thì nó chỉ làm hại đồng loại nó thôi, chứ còn con người thì ...

Giang Phàm cười khổ:

– Nó càng hút khí độc của đồng loại, thì càng phun mạnh, phun xa và nhiều độc khí trong mình nó, đến một ngày nào, độc loang ra mười trượng tròn, khi nó thở, độc khí cũng bay ra, chứ đừng nói là nó phun, ai ở trong phạm vi mười trượng, hít phải độc khí là chết ngay.

Nàng tiếp luôn:

– Nó chưa chạm người, người xa mười trượng cũng chết như thường, nói chi là người bị nó chạm? Đại ca thấy đó, tầm tai hại của nó ra sao?

Quan Sơn Nguyệt còn một điểm hoài nghi cuối cùng:

– Chắc gì nó mặc tình bôn ngang tẩu dọc? Nó xuất hiện thường là người ta tìm cách giết nó ...

Giang Phàm lắc đầu:

– Tại sao nó không thể bò đi khắp nơi? Nó phải tìm độc xà mà hút tinh huyết, thân hình nó càng rút nhỏ, nó càng dễ len lỏi, di động nhanh hơn ...

Quan Sơn Nguyệt mơ màng:

– Những nơi độc xà thường ẩn trú, là những nơi hoang vắng, ít có bóng người qua lại, như vậy cũng chẳng đáng ngại gì.

Giang Phàm lắc đầu:

– Cảm giác của độc xà linh diệu lắm, chúng có thể biết được những gì xảy đến cho chúng hàng mấy dặm xa, do đó chúng sẽ chạy loạn tìm cách trốn, biết đâu chúng không chạy loạn vào chỗ có người ở?

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Thế là nguy! Tại sao cô nương không nói sớm?

Giang Phàm thở dài:

– Làm sao tôi có thì giờ nói sớm cho đại ca biết được?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Tuy nhiên, ít nhất cô nương cũng thông tri cho tại hạ hiểu sơ lược ...

Giang Phàm lắc đầu:

– Làm gì tôi biết trước sự việc xảy ra như thế nào mà cảnh cáo? Bởi, con quái vật đó rất lợi hại, từ lúc nào đến bây giờ, có ai tiếp cận nó được đâu? Tuy nhiên, tôi chẳng hề tưởng là đại ca có thể sát hại nó như vậy!

Quan Sơn Nguyệt trừng mắt, sững sờ một lúc.

Giang Phàm lại nói tiếp:

– Đại ca thấy chứ, trước khi đi luôn, con vật còn quay nhìn lại đại ca, nó há miệng cười, nụ cười của nó chứng tỏ nó thông minh lắm, nó cố ý nhường cho đại ca đến gần, đại ca vung tay, giải thoát cho nó!

Quan Sơn Nguyệt khoát tay nhanh:

– Bỏ! Bỏ việc đó đi! Hãy nghĩ ra một biện pháp nào trừ diệt nó ...

Giang Phàm lắc đầu:

– Không còn biện pháp nào cả! Trừ ra một cách ... cách đó là chờ đợi cho nó già, nó chết vì già, nó dù là rắn cũng chẳng lột da mà sống mãi mãi, bởi nó là rắn độc, mà phàm những con vật ác độc thì chẳng bao giờ sống lâu cả. Bất quá, nó còn thọ độ mười năm trở lên, hai mươi năm trở lại thôi.

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:

– Hai mươi năm! Nó di chuyển nhanh, trong thời gian hai mươi năm đó, nó sẽ đi khắp sông hồ, gây hại cho biết bao nhiêu người! Hai mươi năm nào phải là một thời gian ngắn, hai mươi năm rất thừa cho hành động của những thứ tai ác đại độc.

Giang Phàm cười khổ:

– Đại ca lo cho lắm cũng thế thôi, chẳng có biện pháp nào cả! Lo chuyện không thể lo, thì lo làm gì cho mất thì giờ, nên nghĩ đến việc trước mắt là hơn.

Quan Sơn Nguyệt mắng lớn:

– Thì ... thì Xà Thần ác lắm, lão ấy có chết cũng đáng đời lắm. Tại sao lão un đúc chi cái thứ ác độc như vậy chứ?

Giang Phàm lại thở dài:

– Xà Thần muốn sát hại đại ca, nên dùng toàn loài độc, ngờ đâu, đại ca không chết, nhưng ngược lại, chính đại ca gây nên họa căn cho nhân loại!

Quan Sơn Nguyệt khoa tay, tung chân, tỏ cái vẻ khẩn cấp, bực tức, một phút sau, chàng hỏi:

– Xà Thần có cho cô nương biết là không phương chế ngự quái vật đó?

Giang Phàm gật đầu:

– Lão có cho tôi biết như vậy!

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Mặc lão nói gì kệ lão, tại hạ nhất định tìm cách bức lão phải nghĩ ra một phương pháp đối phó với quái vật.

Chàng ngang nhiên bước vào nhà.

Trong nhà, chỉ có một chiếc giường bằng đá, mặt giường được phủ bằng một tấm da rắn lớn, do nhiều mảnh kết lại.

Linh Cô đang nằm ngửa trên chiếc giường đó, trần truồng, hai chân bẹt ra, có những đốm máu đỏ, chứng tỏ vừa bị hiếp dâm. Nàng đổ lệ ròng ròng, nhìn chàng qua màn lệ.

Quan Sơn Nguyệt sôi giận cực độ, tóc dựng đứng lên, đối với chàng, trên đời nầy không còn cảnh nào dã man bằng cảnh trước mặt.

Một thiếu nữ vừa bước vào ngưỡng cửa xuân thì, tuổi chưa tròn trăng, linh đinh, cơ khổ, hương đời chưa hưởng mảy mai, đã vội thọ nhận cái gì đau xót nhất!

Lâm vào cảnh đó, thử hỏi có thiếu nữ lương thiện nào còn can đảm nối tiếp chuỗi ngày thừa, dù chuỗi ngày đó dài đăng đẳng? Dù mới bước chân vào đời? Và, nếu có sống thừa, còn thiếu nữ nào chẳng buông lung thân phận, mặc cho số kiếm đẩy đưa?

Bất chấp nam nữ thọ thọ bất thân, bất chấp nàng đang lõa lồ, Quan Sơn Nguyệt vọt mình tới, ôm nàng, bế xốc nàng vào lòng, kêu lên:

– Linh Cô! Tiểu cô nương ...

Linh Cô cất giọng suy nhược, thốt:

– Huyệt đạo của tôi bị điểm, Quan công tử giải khai đi!

Quan Sơn Nguyệt lập tức quan sát khắp thân thể nàng, tìm những huyệt đạo bị điểm giải khai, nhưng chàng tìm mãi chẳng thấy nàng bị điểm ở nơi nào cả.

Giang Phàm thở dài, bảo:

– Nơi vú đó!

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi:

– Huyệt Nhủ Tuyền? Một tử huyệt!

Giang Phàm lắc đầu, thấp giọng thốt:

– Thủ pháp điểm huyệt của Xà Thần rất đặc biệt, không giống những cao thủ vũ lâm.

Nàng lướt tới, đưa tay rà khắp ngực của Linh Cô, sau cùng nàng ấn đầu ngón tay xuống điểm đen ở chót vú.

Linh Cô rung bắn đôi vai, liền theo đó, nàng động đậy được, việc làm đầu tiên là vớ vội y phục khoác vào mình.

Quan Sơn Nguyệt cố dằn tức uất, chặn dòng lệ thảm chực tuôn trào, an ủi:

– Linh Cô chịu thảm khổ quá ...

Linh Cô lắc đầu, cười khổ:

– Cũng chưa sao! Xà Thần xem vậy, vẫn còn một điểm nhân tánh ...

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Nhân tánh? Lão ấy mà còn nhân tánh?

Linh Cô thấp giọng:

– Thoạt đầu, lão ta định làm ô nhục tôi, nhưng đến lúc mà mọi người không còn dừng được nữa, thì bỗng nhiên lão lại dừng. Chừng như lão nhớ là tôi đối xử với lão tốt quá, lão khắc chế dục niệm ngay ...

Quan Sơn Nguyệt sững sờ, tự nhiên chàng nhìn sang bên cạnh nàng, trên mảnh da rắn, những đốm khả nghi.

Linh Cô thoáng đỏ mặt, cúi thấp đầu, giọng nói cũng thấp hơn:

– Những đốm máu đó, là máu môi của lão, lão cắn môi để dằn dục niệm ...

Quan Sơn Nguyệt nằm mộng cũng không tưởng là có sự việc như vậy!

Một con người, có thể dằn lòng, trước khi thiếu nữ về tay. Thiếu nữ về tay rồi, cũng còn có thể dằn lòng được mà xô đẩy ra xa, một thiếu nữ trần như nhộng rồi, cũng có thể ức chế lòng mình mà không phạm dâm tội. Chứ một khi hai thân xác tiếp cận rồi, thì nam nhân chẳng khác con quỷ sa tăng, khi nào con quỷ bỏ ngay cái ý định loạn cuồng?

Thế mà Xà Thần làm được! Toan hiếp dâm, lão không thể là một siêu nhân!

Sắp sửa thỏa mãn thú tánh, lão lại ức chế được dục niệm, thì đúng là một siêu nhân rồi! Lão hơn hẳn một siêu nhân, bởi lão có đi qua cuộc thử thách đó, chứ từ xưa đến nay, dù cho những người nhục thân thành thánh, cũng vị tất, tất cả đều ức chế được lòng? Có thể nói là vị tất, bởi những bậc thánh đó chưa hề trải qua một cuộc thử thách như Xà Thần!

Đã chẳng có biết bao nhiêu gương loạn luân, vì sự thử thách đó sao? Chỉ cần một bên có vẻ gì khêu gợi, hấp dẫn, hoàn toàn vô tình, vô ý, là bên kia bị khích động ngay!

Không có cái ăn, người ta dễ nhịn, có cái ăn rồi, đưa vào miệng rồi mà nhả ra, không ăn, cái đó mới khó, khó nhất trần đời.

Xà Thần lại làm được!

Linh Cô hỏi:

– Quan công tử không tin?

Quan Sơn Nguyệt giật mình, đáp nhanh:

– Tin chứ! Tin lắm! Chính tại hạ đang cao hứng cho tiểu cô nương đây!

Linh Cô khép vành mi lại, lông mi dài, cong vút, vẽ thành hai vòng nơi mắt, trông nàng lúc đó đẹp vô cùng, một vẻ đẹp phúc hậu, hấp dẫn chứ không khêu gợi. Nhìn vẻ đẹp đó, kẻ đang sôi động tà niệm cũng phải kính mến ngay, mà không dám buông lung dã tánh.

Nàng tiếp nối với âm thinh hết sức dịu dàng:

– Công tử cao hứng ...

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Đương nhiên! Tại hạ đưa cô nương từ nơi tay Lâm Tiên Tử, đi khắp sông hồ, tại hạ trong tình thế bất đắc dĩ phải để cô nương lại đây, suýt làm cho cô nương phải ô nhục suốt đời, giờ thì nạn khỏi tai qua, tự nhiên tại hạ phải cao hứng!

Tại hạ chẳng biết tại sao ...

Linh Cô mở mắt ra, đôi mắt đen láy chớp lên, một niềm vui thoáng hiện trong tia mắt đó, nàng chận lời:

– Tất cả mọi người đều có một cái số, số của tôi phải lâm tai nạn, dù không gặp nạn tại đây, cũng phải gặp nơi khác, công tử đừng quy tội cho mình, công tử vô can mà! Huống chi, chính tôi tự nguyện lưu lại đây! Dù tao ngộ như thế nào, tôi cũng không trách công tử được!

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp thốt:

– Không đâu, cô nương! Chẳng khi nào tại hạ để cô nương phải khuất phục với bất kỳ ai! Vừa rồi ...

Chàng nhận thức, hiện tại chừng như Linh Cô đã biến thể rồi, nàng không còn bé bỏng như ngày nào, dù thời gian không cách biệt quá xa, hiện tại nàng là một thiếu nữ, đang bước qua ngưỡng cửa xuân thì, để dần dần đi đến trưởng thành. Như vậy, chàng thấy cần phải đổi cách xưng hô, cho hợp lý hơn.

Linh Cô điểm một nụ cười, tất cả những gì do nàng phát xuất, hiện tại đều có vẻ miễn cưỡng, chán chường, uể oải, yếu đuối. Tuy nàng chưa bị xâm phạm tiết trinh, song sự việc vừa qua đã làm cho nàng ngao ngán, rồi bỗng dưng nàng không còn tha thiết đến những gì mà một thiếu nữ ở lứa tuổi nàng ước vọng mong chờ. Nàng tiếp:

– Vừa rồi, công tử liều nguy hiểm, để cứu tôi, tôi cảm kích vô cùng! Tuy nhiên, tôi xin có lời khuyên công tử, từ nay, gặp những trường hợp như thế, tuyệt đối không nên mạo hiểm nữa. Trái lại, còn phải hết sức bảo trọng lấy thân, bởi công tử còn nhiều việc phải làm, và những việc đó xứng đáng cho công tử hy sinh hơn. Chẳng hạn như cái việc cứu Trương Thanh cô nương, nàng vì công tử mà phải trải qua bao nhiêu khổ lụy, hiện nay nàng ở trong tay Liễu Y Ảo Tiên tử, ở trong tay con người đó, hẳn Trương cô nương không được ưu đãi đâu! Công tử phải làm mọi cách để cứu nàng. Còn như Giang cô nương, mường tượng là Giang cô nương đã cùng công tử ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Cô nương biết những gì?

Linh Cô cười nhẹ:

– Phàm việc gì có liên quan đến công tử, phàm việc gì của những người có liên quan đến công tử, tôi đều hiểu cả! Công tử ơi! Hy sinh cho tôi, là công tử làm một việc thừa, bởi tôi không xứng đáng với sự hy sinh đó! Tôi là một cái bóng nhỏ, lại mờ, bên cạnh những bóng lớn, sáng rực hơn!

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Đừng nói nhảm, cô nương! Trong tâm của tại hạ, cái chỗ dành cho cô nương không thấp, không nhỏ dù sánh với bất cứ người nào, cô nương đừng nghĩ rằng mình không xứng đáng, không giá trị gì! Nghĩ như thế là chẳng bao giờ hiểu được tại hạ.

Linh Cô sáng mắt lên:

– Thật vậy sao, công tử?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Đương nhiên là thật! Đừng nói là cô nương làm chi, cho dù một kẻ xa lạ, một thiếu nữ nào khác, lâm vào hoàn cảnh cô nương, tại hạ cũng quyết tâm cứu như thường. Hà huống cô nương là người có một vị trí vững chắc nơi tâm tư tại hạ!

Linh Cô tắt ánh mắt, gương mặt trầm xuống đi phần nào.

Cách đối xử như thế, là thông thường quá, với ai chàng cũng làm được, thì có gì đặc biệt cho nàng đâu?

Quan Sơn Nguyệt không thấy sự biến đổi thoáng qua nơi thần sắc của Linh Cô, cứ theo ý nghĩ mà tiếp:

– Bình sanh, tại hạ hành sự, chỉ cần vấn tâm, việc gì nên làm phải làm, là tại hạ làm ngay, chứ không hề đánh giá cái việc đó trước, rồi mới làm. Tại hạ chỉ nhìn vào mục đích, bổn phận, chứ không nhìn cái lợi, cho nên vấn đề giá trị không thành được.

Linh Cô thở dài, cất giọng u buồn:

– Vô luận công tử nghĩ thế nào, tôi vẫn cảm kích công tử như thường.

Quan Sơn Nguyệt vỗ nhẹ lên đầu vai nàng, nói:

– Xà Thần đâu cô nương?

Linh Cô đưa tay chỉ vọng cửa đá phía sau, đáp:

– Lão do ngả đó, thoát đi. Chừng như lão đến hang rắn.

Giang Phàm lập tức thốt:

– Đúng như vậy rồi, đại ca chặt đứt mình con quái vật, hẳn là nó chạy về hang rắn, tìm thực vật. Xà Thần đến đó để bảo vệ những con rắn mà lão ta phí công nuôi dưỡng từ lâu.

Quan Sơn Nguyệt hỏi gấp:

– Nơi đó có nhiều rắn độc không?

Giang Phàm lè lưỡi:

– Không thể đếm nổi! Đại ca chưa từng đến đó sao?

Quan Sơn Nguyệt lo sợ ra mặt:

– Quái vật đến đó, hẳn là có đủ mồi ăn một bụng ...

Giang Phàm tiếp lời:

– Nào phải là đủ mà thôi? Tôi nghĩ nó sẽ ăn dư, ăn nhiều và nó sẽ lớn ra bằng hai, bằng ba ...

Quan Sơn Nguyệt suy tư một chút, nói:

– Giả như con quái vật sẽ trở thành vô địch như cô nương đã nói, thì Xà Thần làm gì được nó chứ? Đã không làm gì được thì lão vào đó làm chi? Lão không sợ nó quật ngược lại lão à?

Giang Phàm sững sờ. Nàng công nhận là Quan Sơn Nguyệt có lý, bởi khi con quái vật trở thành vô địch rồi, thì nó còn ngán ai nữa?

Nàng suy nghĩ một lúc, đoạn đáp:

– Biết đâu Xà Thần chẳng có một phương pháp nào đó, chế ngự con quái vật. Những gì tôi đã nói với đại ca, chính Xà Thần trước kia nói với tôi như vậy.

Còn tại sao lão dám đón chận quái vật, thì thật sự tôi chẳng hiểu nổi!

Quan Sơn Nguyệt tiếp liền:

– Chúng ta cứ đến đó! Xà Thần không sợ, thì có lý do gì khiến chúng ta phải sợ chứ? Nếu lão có cái tâm diệt trừ quái vật, thì chúng ta cũng nên tiếp tay với lão, để tránh cho dân chúng một đại họa trong tương lai. Còn không nữa, thì ít nhất chúng ta cũng phát hiện ra Xà Thần làm thế nào để tránh né một con vật lợi hại.

Giang Phàm do dự:

– Nếu Xà Thần không đến đó như chúng ta dự đoán?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Dù lão ta không đến đó, tại hạ cũng đến như thường. Bởi, con quái vật chắc chắn là đến đó, mà bọn Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu cũng bị Xà Thần giam cầm ở đó. Tại hạ phải làm cách nào, cứu họ, khỏi bị quái vật hãm hại. Dù họ là cừu địch của tại hạ, thà chính tại hạ giết họ, chứ không thể để họ chết một cách hồ đồ như vậy được.

Thốt xong, chàng nhít bước hướng về vọng cửa đá phía hậu.

Giang Phàm định ngăn trở chàng, Linh Cô giữ nàng lại, thốt:

– Giang cô nương! Nếu cô nương cho rằng mình hiểu rõ con người của Quan công tử, thì đừng ngăn trở hành động của công tử. Nếu cô nương muốn trở thành vợ của công tử, thì ngay từ bây giờ, nên chuẩn bị một cuộc sống quả phụ là vừa. Cho quen đi, cô nương, để một ngày nào đó, cô nương sẽ không quá bi thảm cho số kiếp bạc hạnh.

Giang Phàm sững sờ.

Quan Sơn Nguyệt đã qua khỏi vọng cửa đá rồi.

Linh Cô buông Giang Phàm ra, rồi thở dài, tiếp:

– Con người của Quan công tử như thế đó, muốn làm một việc gì, là làm ngay không cần cân nhắc lợi hại, bất chấp nguy hiểm cho bản thân mà cũng chẳng để tình tư ảnh hưởng đến việc làm.

Nàng bước đi, theo Quan Sơn Nguyệt.

Giang Phàm cởi chiếc bao bố nơi vai, đặt xuống đất, vỗ nhẹ vào đầu Tiểu Ngọc, bảo:

– Ngươi ở đây nhé, quái vật là đại khắc tinh của ngươi đó. Hơn thế, ngươi là miếng mồi ngon nhất của nó, phải cố tránh đừng cho nó thấy, rất có thể nó sẽ trở lại đây.

Tiểu Ngọc từ trong chiếc bao bò ra, chừng như ngăn trở Giang Phàm.

Giang Phàm thở dài:

– Tiểu Ngọc ơi, ta đã là vợ của Quan công tử rồi, tuy chưa chánh thức thành vợ thành chồng, song chẳng khác nào một đôi vợ chồng, thì sanh tử phải có nhau, chồng đâu vợ đó, ta vì chồng mà mạo hiểm, chứ ngươi mạo hiểm làm chi? Hãy nghe lời ta, Tiểu Ngọc!

Tiểu Ngọc vẩn quấn quít bên nàng.

Nàng an ủi:

– Tiểu Ngọc, cố chịu cô đơn một lúc đi, từ bao lâu nay, ngươi chẳng bao giờ rời xa ta, bây giờ sự thể bắt buộc, thì ngươi phải chịu vậy đi. Giả như ta bất hạnh, thì ngươi cũng nên tự bảo trọng được ngày nào hay ngày ấy!

Tuy nói với một con vật, Giang Phàm vẫn xúc động thật sự, những tiếng cuối cùng thoát ra không rõ ràng lắm, vì lệ thảm đã lên đến yết hầu rồi. Nàng xô nhẹ Tiểu Ngọc qua một bên, đoạn vọt mình qua vọng cửa. Ở đây, nàng đã rỏ đường đi, lối bước. Nhờ thế, nàng đến hang rắn rất nhanh, không phải mất nhiều thời gian dò dẫm.

Từ xa, nàng đã thấy Quan Sơn Nguyệt rút kiếm khỏi vỏ cầm tay, đang đối chiếu với một người.

Từ trong hang rắn, có tiếng kêu, tiếng hú vọng ra. Giang Phàm nhận ngay là âm thinh của Xà Thần.

Còn người đang ghìm với Quan Sơn Nguyệt, chẳng ai khác hơn là Lưu Ảo Phu.

Vừa trông thấy nàng, Quan Sơn Nguyệt gọi to:

– Giang cô nương đến đúng lúc lắm. Lại đây, cô nương giữ hộ gã nầy cho tại hạ ...

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

– Ngươi đừng nuôi mộng! Trên đời nầy chẳng ai cầm giữ nổi ta đâu!

Giang Phàm lướt tới, hỏi:

– Việc gì thế, đại ca?

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp thốt:

– Xà Thần đang chống cự với con quái vật ở bên trong đó, mà hắn thì ngăn trở, không cho tại hạ vào tiếp trợ Xà Thần, trừ diệt quái vật.

Chàng day qua Lưu Ảo Phu, rít lên:

– Lưu Ảo Phu! Ngươi có biết là ngươi đang làm gì đó chăng?

Lưu Ảo Phu cười lớn:

– Tại sao ta không biết chứ? Bởi mọi diễn tiến của sự tình đều do kế hoạch của ta mà! Xà Thần kể ra cũng là một tay đáng sợ đấy, lão không hề bị ảnh hưởng của Đại Pháp Hoặc Tâm của Tạ giáo chủ, bọn ta bất lực với lão thì phải nhờ đến con quái vật đó khống chế lão. Lão khôn ngoan, biết được dụng tâm của ta, nên không để cho bọn ta tiếp cận quái vật, lão ngờ đâu, ngăn chặn bọn ta là phải giao đấu với quái vật, và lão vô hình trung, rơi vào kế hoạch của bọn ta!

Hắn cao giọng tiếp:

– Các ngươi có biết con quái vật đó là chi chăng? Nó là một con Nhân Giao đó!

Nhân Giao! Một Giao Long có nhiều điểm giống người!

Giang Phàm giật mình:

– Quái vật là Nhân Giao?

Lưu Ảo Phu cười vang:

– Cái tên đó, chính Trương Vân Trúc đặt ra cho nó. Sự thực thì con quái vật đó chẳng có tên, không một ai biết nó tên gì. Nhưng, dù nó có tên hay không có tên, điều đó chẳng quan hệ, ta chỉ biết là nó có thể khống chế Xà Thần, như vậy là đủ cho ta lắm rồi. Chẳng những một Xà Thần mà thôi, nó có thể khống chế luôn những người lợi hại hơn Xà Thần nữa đấy. Có một lợi khí như vậy trong tay, khi nào ta để cho tiểu tử kia tìm cách hủy diệt chứ?

Giang Phàm không màng đến cái vẻ cao ngạo của hắn, nàng tiếp hỏi luôn:

– Nhưng còn các ngươi? Các ngươi có biện pháp khống chế con vật?

Lưu Ảo Phu ngẩng cao mặt, nói:

– Xà Thần chỉ biết có mỗi một việc nuôi rắn mà thôi, ngoài ra lão chẳng hiểu gì cả. Trên đời làm gì chẳng có cách khống chế loài vật chứ? Nếu không có cách khống chế, thì loài người còn sống giữa vũ trụ này được sao? Bất quá, đối với mỗi loài, người ta có một cách khác nhau, và đối với con quái vật này, ta cũng có cách đặc biệt. Cách đó, đã an bài rồi!

Đúng lúc đó, tiếng hét, la hú vang lên lồng lộng trong hang rắn, vọng ra ngoài, làm cho Quan Sơn Nguyệt thêm khẩn cấp.

Chàng không còn nhẫn nại được nữa, cấp tốc vung thanh kiếm Hoàng Diệp chém tới Lưu Ảo Phu.

Lưu Ảo Phu không ngán, vung kiếm nghinh đón.

Ánh sáng màu tía vừa chớp lên, Quan Sơn Nguyệt vội thoái hậu mấy bước.

Thực ra, không phải Lưu Ảo Phu có công lực đẩy lui chàng, mà chính vì chàng tránh chạm kiếm vào thanh kiếm của Lưu Ảo Phu. Thanh kiếm của hắn sắc bén quá chừng, nếu hai thanh kiếm chạm vào nhau, rất có thể thanh Hoàng Diệp Kiếm chịu không nổi phải gãy lìa.

Kiếm gãy trong trường hợp này là một cái nguy to lớn cho chàng.

Tử Sính Kiếm là thanh kiếm lợi hại nhất trong năm thanh kiếm hiện thời, nó như đầu đàn, nó thừa sức lấn áp những thanh kiếm còn lại. Chỉ cần vận lực chuyển sang nó, lực vận một sẽ bến thành mười, rồi tự nhiên nó vùng vẫy tung hoành, người cầm kiếm chỉ nương tay theo mà giữ lấy nó vậy thôi, đồng thời điều khiển đúng theo chiêu thức.

Tự nó, nó phát huy kiếm khí mãnh liệt, chính kiếm khí đó bức thoái Quan Sơn Nguyệt trước khi thanh kiếm chạm nhau, cũng may cho chàng là thức ngộ kịp thời, không để cho hai thanh kiếm chạm nhau.

Quan Sơn Nguyệt nghe lửa đốt cả tâm can, song chẳng biết làm gì được.

Chàng long sòng sọc đôi mắt, bắn tia lửa chớp ngời sang Lưu Ảo Phu.

Bỗng, Giang Phàm gọi:

– Đại ca, trao kiếm đây cho tôi.

Quan Sơn Nguyệt giật mình hấp tấp hỏi:

– Cô nương biết sử dụng kiếm?

Giang Phàm bình tịnh đáp:

– Về kiếm thuật, thì tôi không rành lắm, song có thanh kiếm trong tay, tôi đối phó với hắn được.

Nàng không đợi Quan Sơn Nguyệt trao qua, vói tay giật thanh kiếm, đoạn dồn tất cả những sợi tơ vàng nơi chuôi vào tay áo rồi nàng phất cánh tay lên, những điểm vàng vàng theo đà tay nàng bay ra, ánh ngời.

Lưu Ảo Phu lập tức vung kiếm phản công, nhưng hắn cảm thấy lần này hắn không còn phóng túng như trước.

Bởi, thực ra, Giang Phàm không đích xác cầm thanh kiếm nơi tay, do đó tự thanh kiếm chẳng có một điểm công lực nào. Kiếm vung ra, mà không có công lực kềm vững, tất nó phải chập trời, linh lung như cái bóng, hư nhiều, thực ít, rồi nàng dùng ống tay áo tiếp gió, tạo nên vô số đợt sóng ánh dợn dợn khắp không gian, những làn sóng ánh đó, cuốn dồn về Lưu Ảo Phu.

Hắn lúng túng trong vùng sóng ánh đó, nên không vung kiếm tự do như lúc giao đấu với Quan Sơn Nguyệt.

Tình cảnh của hắn chẳng khác một người dùng tay không mà đánh với ngàn muôn lượn sóng tràn, tuy có đánh tan được những đầu sóng gần, song những lượn sóng sau kế tiếp dồn tới, ào ào liên tục, nhanh chóng chực phủ trùm lên người hắn. Phá một vài lượn sóng là được, chứ trừ diệt tất cả những đợt sóng vô cùng tận, thì hắn không làm nổi.

Điều đáng ngại cho hắn, là mỗi đầu sóng nào phải nhẹ nhàng gì, Giang Phàm đã chuyển nội lực vào đó, cho nên những lượn sóng có cái khí thế mãnh liệt phi thường.

Phá được một đầu sóng, là Lưu Ảo Phu phải tiêu hao phần nào chân lực, liệu hắn có đủ khí lực phá hết những lượn sóng vô cùng tận đó chăng?

Bây giờ chung quanh hắn, là một biển sóng, hắn như con người đắm thuyền, ngụp lặn giữa muôn ngàn lượn sóng.

Giang Phàm đâu cần gì thủ thắng trước Lưu Ảo Phu? Mục đích của nàng là cầm chân hắn lại đó, nàng không làm gì hắn nổi, nhưng hắn cũng chẳng tiến công nàng được, như vậy là đủ lắm rồi. Hắn không còn ngăn cản Quan Sơn Nguyệt được nữa.

Giang Phàm gọi to:

– Vào trong hang đi chứ, đại ca!

Xà Thần nghe tiếng người bên ngoài cửa hang, hét lên:

– Phải tiểu tử họ Quan đó chăng? Tại ngươi cả! Ngươi đã gây nên cái họa tày trời, sao không vào đây gấp, tiếp ta mà trừ diệt mối họa? Chỉ cần ngăn chận quái vật hút tinh khí của các con độc xà, là nó chẳng đáng sợ chút nào. Nếu lúc này ngươi không trừ diệt được nó, thì trong tương lai, chẳng những một người mang hại vì nó, mà còn có vô số người khác phải chuốc lấy thảm họa đấy.

Giang Phàm lại giục:

– Vào gấp đi, đại ca! Xà Thần mở miệng yêu cầu đại ca, là sự tình nghiêm trọng lắm đó! Đại ca nên lưu ý nhé, đừng bao giờ lơ đễnh tiếp cận quái vật!

Quan Sơn Nguyệt lách mình, vọt qua Giang Phàm và Lưu Ảo Phu, vào luôn trong hang.

Dĩ nhiên, trong đó tối om om, song bóng tối có nghĩa gì khi chàng luyện được đôi mắt sáng hơn dạ minh châu?

Chỉ cần nhìn qua một thoáng, là chàng nhận thức được tình cảnh như thế nào.

Rắn độc nhiều quá, loi nhoi, lút nhút, đầy cả lòng hang, có một số đã bị quái vật giết chết rồi.

Còn Xà Thần thì đã khôi phục hoàn toàn nguyên trạng. Phần đuôi rắn ở hạ bộ không còn nữa, nơi đó hiện giờ là đôi chân người, phần trên thân thể vốn bình thường, nên không có gì phải thay đổi.

Hiện tại, lão ta cũng để mình trần như lúc nào. Và, lão ta cũng chẳng có một chiếc quần mà mặc, bởi làm sao kiếm được quần trong lúc quá khẩn cấp? Bất quá, có đôi chân, lão chưa quen chạy nhảy với đôi chân người, thành ra lão có phần nào vấp váp, chẳng những không nhanh mà trái lại còn chao chao chực ngã mãi. Như vậy, làm sao lão thi triển tất cả sở năng, đối phó với quái vật được?

Khi còn cái mình rùa, thì đoạn dài dài nối liền chiếc đầu với mình, là cái cổ của con quái vật. Bây giờ, cái mình vướng bận đó dứt trừ rồi, thì chiếc cổ biến thành đuôi, mất đi phần đeo nặng ở phía sau, quái vật đảo lộn tung hoành, nhẹ nhàng, thoải mái, cho nên hiện tại, nó phóng, nhảy cực kỳ nhanh nhẹn. Nó quần bọn độc xà như chồn quần đàn gà, bắt được con độc xà nào là nó cắn chết ngay, rồi hút huyết của con độc xà đó.

Chẳng phải nó hút hết huyết của những con độc xà bị giết, thực ra thì nó chỉ hút chất độc của độc xà, mà chất độc đó tích tụ ở hai bên má rắn, số tích tụ chẳng có bao nhiêu của mỗi con độc xà, nên quái vật làm công việc hút độc rất nhanh chóng, chỉ trong thoáng mắt là nó hút hết phần độc của một con độc xà.

Sau đó, nó lại tìm giết con khác mà hút.

Xà Thần dè dặt, chẳng dám tiếp cận con Nhân Giao, bất quá lão chờ lúc nó bận hút độc, lòn ra phía sau nó mà phát chưởng. Ngoài ra, lão cũng chực chờ mỗi con độc xà nào bị Nhân Giao bắt được, là lão tìm cách giết trước con độc xà đó.

Bởi, độc xà chết, chất độc mất công hiệu nhiều, nếu Nhân Giao có hút chất độc của những con rắn chết, cũng chẳng đáng ngại lắm. Chỉ trừ khi nào nó hút độc của những con rắn sống, thì điều đó mới đáng sợ. Dĩ nhiên, lúc nó hút, thì con rắc phải chết, rắn chết mà chất độc sống đã chuyền sang quái vật rồi. Cũng bởi thế, nó chỉ quần đuổi những con rắn còn sống, bỏ hẳn những con đã chết, hoặc do Xà Thần giết, hoặc do nó giết.

Thành ra, tuy có cuộc tương trì giữa Xà Thần và Nhân Giao nhưng thật ra song phương chỉ giành giật rắn độc mà thôi. Xà Thần cố giết rắn, Nhân Giao cố bắt sống rắn.

Rắn chết nhiều quá, có những con bị Xà Thần dùng chưởng kình đánh nát thân thể, máu me chảy linh láng.

Hơi độc, mùi máu tanh bốc lên, nếu là người không quen chung sống với loài rắn, ngửi phải tất nôn mửa liền, kẻ nào không chịu nổi, dám ngất xỉu lắm.

Rắn nhiều quá, bỏ ra những con chết rồi, dù số rắn chết cũng đã quá nhiều, phần còn sống cũng trên số mấy ngàn!

Quan Sơn Nguyệt vừa vào đến nơi, Xà Thần hấp tấp bảo:

– Cố giết cho hết mấy ngàn con rắn đó, phần lão phu thì ngăn chặn con quái vật.

Lão chụp một con rắn to, bóp quanh cổ nó, nó hạ rộng mồm ra, bày răng chơm chởm, từ nơi mấy chiếc răng đó, nước dãi độc nhểu xuống ròng ròng.

Nhân Giao thấy nước dãi độc, thèm quá, vọt mình tới, Xà Thần vội tung mình lên không, vung chưởng đánh xuống, chưởng kình chạm vào quái vật, nó bị hất ngược về phía hậu, nhưng liền theo đó, nó vọt trở lại. Xà Thần lại vung chưởng đánh bật nó trở lại.

Cứ theo phương pháp đó, Xà Thần vừa nhử con Nhân Giao chỉ chuyên chú đến lão, bỏ qua Quan Sơn Nguyệt, lão ngăn chặn con Nhân Giao cho Quan Sơn Nguyệt làm cái việc thu dọn hằng ngàn con rắn độc.

Phần Quan Sơn Nguyệt thấy rắn quá nhiều, một mình chàng làm sao giết cho hết được? Muốn diệt trừ cả số rắn đó, ít ra chàng cũng phải mất một thời gian quan trọng. Và trong thời gian đó, liệu chàng có đủ khí lực chi trì chăng?

Giết rắn ngàn, rắn vạn bằng cách đó, thì hẳn không phải là một biện pháp thích đáng rồi. Phải có cách gì khác mới được, nhưng cách gì? Chàng gọi to:

– Xà Thần! Ngươi không có phương pháp dẫn dụ con quái vật đi khỏi nơi này sao? Nó đi khỏi nơi này rồi, tạm thời chúng ta không cần phải giết chết hết rắn, như vậy chúng ta không phí phạm công lực vô ích. Ngươi cũng biết nơi đây là một tử cốc, chúng ta ra hết bên ngoài rồi, tìm cách bít cửa miệng cốc lại, là hay hơn cả mọi biện pháp.

Xà Thần nổi giận, quát lên:

– Ngươi biết gì mà bàn, mà luận? Nếu làm được như vậy thì lão phu đã làm rồi. Và nếu ta làm được, thì khi nào ta còn gọi ngươi tiếp trợ?

Quan Sơn Nguyệt không phục:

– Tại sao không làm được? Việc gì không thể làm được, ngươi nói cho ta nghe thử xem!

Xà Thần «hừ» một tiếng:

– Sở dĩ ta lừa con quái vật vào đây, là ta lợi dụng đàn rắn độc này, làm cho quái vật xông xáo đến lúc mệt mỏi, thừa dịp đó ta thu thập nó. Chứ còn như ở bên ngoài thì ...

Lão thốt đến đó, con độc xà trong tay lão đã tuông hết nước dãi rồi, không còn một giọt nào rơi xuống nữa.

Nước dãi của con rắn đã kiệt, Nhân Giao không còn bám sát lão nữa. Nó bỏ lão, tự nó đi tìm một con rắn độc khác.

Xà Thần chậm chân một chút, không ngăn cản Nhân Giao kịp, nó cắn được một con độc xà, nó hút nhanh chất độc nơi má con rắn, hút được chất độc đó, nó phấn khởi lên, định tìm một con độc xà khác.

Xà Thần hấp tấp vung chưởng đánh chết con độc xà mà Nhân Giao định cắn, đoạn lão chụp một con độc xà khác, dùng nó câu nhử Nhân Giao, cầm trụ nó tương trì với lão. Rồi lão cao giọng gọi Quan Sơn Nguyệt:

– Tiểu tử! Ngươi nên câm cái miệng lại và hành động, ngươi nói mãi làm cho ta phân tâm, mất cả hiệu lực ứng phó với quái vật. Cứ nghe theo lời ta bảo mà làm, làm cũng tốt không làm thì mặc ngươi, đừng cãi lý với ta nữa.

Quan Sơn Nguyệt biết là sự tình nghiêm trọng lắm, đành phải tuân theo lời lão, cứ vung tay hạ sát độc xà, giết một lúc hơn mấy mươi con, chàng càng giết nhưng lại thấy rắn như còn nhiều hơn trước thì bất giác phẫn uất, cho rằng mình làm một việc vừa vô ích vừa ngu ngốc, nên hét to:

– Xà Thần! Ta không thể nào làm cái việc này được, sức lực ta có hạn, còn số rắn thì vô cùng, bảo ta kiệt sức bất ngờ, thì làm sao ta tự vệ trước lũ rắn này được? Chúng có tha cho ta đâu? Tại sao ngươi không nhử con quái vật ra ngoài chứ?

Xà Thần quát:

– Ra bên ngoài thì nó sẽ bay đi mất, ngươi có cánh mà bay theo nó chăng?

Quan Sơn Nguyệt sững sờ.

Xà Thần dè dặt như vậy là phải lắm. Nếu con Nhân Giao thoát đi rồi, thì nhân loại sẽ phải khổ với nó vô cùng.

Không còn làm gì hơn, chàng tiếp tục giết rắn như trước.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 59

Đáp Lại Tình Chàng

Chàng giết mãi, kể ra cũng có vài trăm con rắn độc chết vì tay chàng.

Chàng thấm mệt, chân như đeo đá, tay rã rời, không còn cử động nổi nữa.

Trong lúc đó, Xà Thần đã thay đổi bốn năm con rắn mới, nhử Nhân Giao.

Nhân Giao không còn hùng hổ như trước, có lẽ thiếu chất độc của rắn, nên xuống tinh thần, mà cũng có lẽ nó bị chưởng lực của Xà Thần làm chấn động mỗi lần nó vượt tới, thành ra nó yếu kém hẳn đi. Tuy nhiên, nó cứ tiến, vừa bị đánh dội lại là nó tiến lên ngay, có điều nó tiến rất chậm chạp.

Quan Sơn Nguyệt định dừng tay nghỉ mệt một chút, nhưng Xà Thần không cho chàng nghỉ, lão trừng mắt, hối thúc:

– Tiếp tục đi, tuyệt đối không nên dừng tay! Ngươi phải nhớ tai họa này do ngươi gây ra, làm cho ta phải liên lụy theo ngươi đó. Bằng mọi giá, ngươi phải trừ dứt hậu hoạn. Ta nói thật, nếu ngươi không cố gắng, thì ta bỏ đi liền đó, hậu quả sau này ra sao, ngươi phải gánh lấy một mình. Ta không có trách nhiệm gì.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận, hét lên:

– Quái vật là do ngươi un đúc, do ngươi hoạn dưỡng, ngươi nói thế thì ai nghe lọt chứ?

Xà Thần cười lạnh:

– Ta un đúc, ta hoạn dưỡng nó, mặc ta, nó có hại ai đâu? Chỉ tại ngươi chặt đứt cổ nó, biến thành Nhân Giao, chính ngươi phóng thích nó, thì cái lỗi về ngươi rõ rệt, ngươi đổ cho ta làm sao được?

Quan Sơn Nguyệt rít lên:

– Ngươi dùng quái vật quyết hại ta, ta không được quyền tự vệ sao? Chẳng lẽ ta khoanh tay chờ chết?

Xà Thần mỉm cười:

– Câm đi cho ta nhờ, tiểu tử. Ta nhốt con vật vào trong một ngôi nhà, ta cũng không cưỡng bách ngươi vào ngôi nhà đó. Nếu ngươi bị nó giết, thì cũng là tại ngươi, chứ ta có liên quan gì? Ai bảo ngươi vào đó làm chi mà nói rằng bắt buộc phải tự vệ?

Quan Sơn Nguyệt hét:

– Chứ ngươi hành hạ Linh Cô như vậy, bảo ta im lặng làm sao được?

Xà Thần «hừ» một tiếng:

– Ai mượn ngươi phải lo? Liệu ngươi lo mà được việc chăng? Nếu ta không tự động buông tha cho nàng, thì ngươi có vào kịp mà can thiệp chăng? Ngươi chỉ có tài sính dõng, sính lực, cũng vì vậy mà ngươi gây tai họa không ít!

Quan Sơn Nguyệt tức uất, nghẹn lời.

Xà Thần chưa chịu buông tha cho chàng, tiếp luôn:

– Ngươi muốn hành hiệp, trượng nghĩa, thì không nên bỏ cuộc, dù tiếp tục mà có chết, thì cái chết đó cũng đáng cho ngươi làm, bởi tất cả đều do ngươi làm ra, ngươi phải cố gắng thu dọn. Cho ngươi biết, sự cố gắng của ngươi trong phút giây nầy, quan hệ đến trăm vạn sanh mạng người đó. Giả như ngươi đừng hống hách, nổi máu anh hùng một cách ngông cuồng, thì làm gì có việc đáng lo như bây giờ?

Quan Sơn Nguyệt càng tức uất, khí tức xông lên chặn ngang yết hầu, hơi thở không thoát, nói gì lời thoát?

Bỗng, một bóng người chớp lên nơi cửa hang. Linh Cô tiến vào, lạnh lùng thốt:

– Xà Thần! Ngươi lầm rồi! Dù Quan công tử không chạm đến con quái vật, thì cũng còn Tạ Linh Vận kia, hắn đang chờ chực lợi dụng con Nhân Giao. Bọn hắn đã an bài chu đáo lắm, an bài từ trước, chỉ vì ngươi ngu ngốc, chẳng thấy gì, bây giờ lại đổ lỗi cho Quan công tử!

Xà Thần hét:

– Nói nhảm!

Linh Cô «hừ» một tiếng:

– Ta không nói nhảm! Trương Vân Trúc còn hiểu nhiều hơn ngươi về con Nhân Giao nầy. Chúng đã an bài một kế hoạch, lợi dụng con Nhân Giao quật ngược lại ngươi, bất quá công cuộc của chúng chưa hoàn thành, thì Quan công tử lại đến. Mưu đồ của chúng phải hỏng.

Xà Thần sửng sốt, một phút sau, hỏi:

– Chúng có cách kềm chế con Nhân Giao?

Linh Cô cười mỉa:

– Tự nhiên!

Xà Thần lại hỏi, giọng gấp hơn:

– Bằng phương pháp gì?

Linh Cô bĩu môi:

– Không ai ngu hơn ngươi! Ngươi phải biết, lá rụng về cội, dù cây cao ngàn trượng, quái vật xuất sanh từ giống rùa, thì cái mu rùa là vật chế ngự nó. Lấy mu rùa đốt thành tro, rải tro đó lên mình nó, là nó ngoan ngoãn tuân theo sự điều khiển của con người sử dụng nó.

Xà Thần bật cười ha hả:

– Chính ngươi ngu thì có! Điều ngươi vừa nói đó, ta thừa hiểu, và điều mà ta hiểu hơn ngươi, là cái mu con rùa đó rất cứng, cứng hơn sắt, thép, cho ngươi đốt ngàn năm, nó cũng chẳng cháy. Bởi, là cái mu con rùa linh mà!

Linh Cô chính sắc mặt:

– Ta không dối ngươi đâu! Trương Vân Trúc có cách tạo một thứ lửa đặc biệt, nóng gấp trăm gấp ngàn lần lửa thường. Hiện tại, lão ấy đang đốt mu rùa, lúc ta vào đây thì mu rùa đã cháy quá nửa phần rồi!

Xà Thần biến sắc mặt:

– Thật vậy à? Lão ấy chế ra cái thứ lửa gì?

Linh Cô bĩu môi:

– Tôi làm sao biết được? Dù gì thì Trương Vân Trúc cũng có phương pháp thích đáng, ngươi đừng tưởng họ ngốc như ngươi!

Nàng quá hận Xà Thần, hận cho nàng, cho Quan Sơn Nguyệt, nàng nói năng không dè dặt, và nàng không ngại buông những tiếng nặng nề.

Xà Thần biến sắc mặt, thốt gấp:

– Ta phải đi ngăn chặn lão mới được ...

Liền theo đó, lão quăng con độc xà nơi tay, ra ngoài cửa hang, rồi phi thân đi ngay.

Nhân Giao đón chận một con độc xà, ngoạm lấy đầu, hút hết chất độc rồi phun chiếc đầu rắn ra, đoạn tìm một con khác, định cắn tiếp.

Quan Sơn Nguyệt không kịp chận nó lúc nó cắn con rắn trước, bây giờ toan lướt tới, nhưng Linh Cô nắm chàng giữ lại, bảo:

– Đừng, công tử! Chận nó không được đâu, công lực của công tử đâu bằng Xà Thần!

Quan Sơn Nguyệt lo lắng:

– Thế thì phải làm sao?

Linh Cô lắc đầu:

– Không làm sao được cả. Chẳng có một biện pháp nào hữu hiệu trong lúc này, chỉ còn có cách là công tử thoát ra ngoài kia, đợi con Nhân Giao hút chất độc của rắn chán chê rồi, công tử có muốn ra khỏi nơi đây cũng khó ra được với nó. Bây giờ thì nó chưa lợi hại lắm đâu, công tử còn ra kịp, chứ dần dần đến lúc đó thì phải chết với nó là cái chắc.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không thể được, bằng mọi giá, tại hạ phải trừ diệt loài độc vật này, dứt hậu hoạn cho dân chúng. Tại hạ phải ở đây, tìm cách sát hại nó, chứ để nó rơi vào tay Tạ Linh Vận thì nguy mất cho toàn thể chúng ta, cho nhiều người khác sau này!

Linh Cô lắc đầu, không đồng ý với suy luận của Quan Sơn Nguyệt:

– Tạm thời nên để cho nó về tay Tạ Linh Vận, vì Tạ Linh Vận sẽ giữ nó mà đối phó chúng ta, hắn chưa thả nó ra phá hại dân lành đâu. Tạ Linh Vận chế ngự nó, huấn luyện nó, biết đâu cái hung của nó sẽ được mài giũa bớt, và cái hung đó sẽ chuyên chú vào bọn chúng ta mà thôi. Như vậy, nó sẽ không hại dân chúng, ta sẽ đỡ lo về mặt đó, chỉ còn lo đối phó với nó thôi.

Quan Sơn Nguyệt tặc lưỡi:

– Đành là thế, song chúng ta phải lo ngại Tạ Linh Vận dùng nó mà hoành hành trong thiên hạ, thú nương người, người nương thú, người và thú đua nhau hại đời, thì bọn ta phải làm sao chứ?

Chàng lại hỏi:

– Trương Vân Trúc đang đốt mu rùa?

Linh Cô gật đầu:

– Phải, và Tạ Linh Vận cầm kiếm đứng một bên, bảo vệ lão. Tôi muốn phá công trình của họ, song lại không dám làm, bởi vũ công của tôi còn kém quá ...

Trong lúc hai người đối thoại với nhau, thì con Nhân Giao cứ bắt độc xà mà cắn đầu hút độc. Nó đã cắn hơn mấy mươi con độc xà rồi. Do đó, tinh thần của nó lên rất mạnh, vọt nhanh, động tác nhanh, độc xà dù ở xa, nó muốn cắn con nào là phóng mình tới, ngoạm liền, độc xà không làm sao tránh kịp.

Trước đó, Quan Sơn Nguyệt đã sợ nó rồi, bây giờ, thấy nó hung hăng nhanh nhẹn hơn, chàng càng sợ.

Linh Cô xanh mặt thốt:

– Công tử thấy chưa? Xà Thần công lực như vậy, vẫn không làm gì nó nổi.

Nếu nó không bị khống chế, thì trong tương lai nó sẽ nuốt xuống cả nhân loại đấy!

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Nếu biết được như thế này, thì lúc đó tại hạ cứ để cho nó phun độc, chết đi! Chống cự với nó làm chi, cứ tưởng là đã trừ diệt được nó, không ngờ lại giúp cho nó giải thoát một phiền lụy, trả tự do cho nó!

Linh Cô lắc đầu:

– Công tử có chết cũng vô ích, bởi Tạ Linh Vận cũng phải làm như công tử đã làm. Cuối cùng rồi Nhân Giao cũng được tự do, bởi hắn phải dứt trừ cái phần đuôi của nó, để nó theo về với hắn chứ?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một lúc vụt hỏi:

– Giang Phàm còn động thủ vói Lưu Ảo Phu bên ngoài chăng?

Linh Cô lắc đầu:

– Lúc tôi vào đây, bên ngoài chẳng có một bóng người nào cả.

Quan Sơn Nguyệt thốt gấp:

– Tại hạ có biện pháp rồi. Chúng ta ra ngay.

Chàng nắm tay Linh Cô kéo nàng chạy đi như bay về phía cửa hang.

Đúng như Linh Cô đã nói, Giang Phàm và Lưu Ảo Phu biến mất dạng.

Quan Sơn Nguyệt không còn thì giờ tìm hiểu cả hai đi về đâu, chàng bảo Linh Cô:

– Tiếp tay với tại hạ, cô nương, chúng ta bịt miệng hang lại.

Linh Cô lắc đầu:

– Bít làm gì? Mình bít thì họ mở ra!

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Có cách nào làm cho đá sụp xuống, đè bẹp Nhân Giao bên trong chăng?

Linh Cô suy nghĩ một chút, vụt kêu lên:

– Có cách này, trên đỉnh núi có lỗ thông hơi, ăn xuống lòng hang, bây giờ chúng ta lấp miệng hang, rồi chạy nhanh lên trên đó, tuôn lưu hoàng theo lỗ thông hơi xuống, phóng hỏa đốt luôn. Nhân Giao sẽ bị đốt mà chết. Chúng ta phải làm hết sức nhanh mới được.

Quan Sơn Nguyệt không dám chậm trễ, vung chưởng đánh cho đá vở, nhưng đá nơi đó cứng quá, chàng đánh ra mấy chưởng kình, không đủ bít miệng hang.

Linh Cô khoát tay:

– Không phải vậy đâu! Xà Thần lấp miệng hang bằng một tảng đá rất lớn, tảng đá đó trước mặt kia, chúng ta cố gắng mang nó lại đây!

Tảng đá vừa đủ trám miệng hang tuy không lớn lắm, song rất dày, Quan Sơn Nguyệt ước lượng nó cân nặng ít nhất cũng vạn cân.

Độc Cô Minh truyền chiếc kim thần cho chàng nặng ngàn cân, sử dụng một vũ khí như vậy, chàng phải có một sức mạnh phi thường, bởi chẳng phải chỉ cử nó lên nổi mà thôi, lại còn vung vẩy theo ý muốn.

Chàng tự hào mình có công lục rất cao, trong vũ lâm hiện đại, chẳng mấy tay sánh bằng. Nhưng, nhìn tảng đá, chàng phải lắc đầu, thầm phục công lực của Xà Thần!

Bên cạnh tảng đá, chàng là con thạch sùng nhỏ nhoi, thế mà Xà Thần khuân vác nó dễ dàng, dùng nó mà làm cánh cửa mở đóng hang rắn! Đáng sợ lão ta thật!

Nghe Linh Cô bảo thế, chàng biết là mình không làm nổi cái việc đó rồi, lòng thẹn, mặt ửng đỏ lên.

Linh Cô bước tới nhấc thử tảng đá. Tảng đá nhúc nhích một chút, không hề xê dịch được phân ly nào.

Kể ra, công lực của một cô bé, chưa tròn mười bốn tuổi như vậy cũng khá lắm.

Quan Sơn Nguyệt giật mình, không ngờ nàng mạnh đến mức độ đó.

Bất giác, động tự ái, chàng bước tới, phụ lực với nàng.

Cuối cùng cả hai cũng dời được tảng đá, lấp miệng hang.

Linh Cô cười nhẹ:

– Chúng ta hiệp sức nhau, vẫn còn vất vả, Xà Thần một mình làm việc đó hàng ngày, phải biết lão có công lực đáng sợ dường nào!

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Đừng nói chi là Xà Thần! Chính cô nương cũng có công lực đáng khiếp!

Linh Cô gật đầu:

– Nhờ Xà Thần chỉ điểm cách luyện tập, hiện tại tôi có thể vận dụng nổi độ năm ngàn cân nặng, mà tảng đá này nặng trên vạn cân, nếu công tử không tiếp tay, một mình tôi làm gì di chuyển nó nổi! Như thế là công lực của công tử có hạng lắm chứ! Tôi sánh làm sao được với công tử, mà công tử quá khen!

Quan Sơn Nguyệt cãi:

– Tại hạ biết rõ lắm, cô nương. Bất quá, công lực của tại hạ chỉ ở mức độ ba ngàn cân, còn tảng đá trên vạn cân, thì cái thành tích nầy do cô nương mà có, chứ tại hạ có góp phần nào đáng kể đâu!

Linh Cô mỉm cười:

– Tại công tử không biết đó thôi, chứ cái mật con Hàn Xà tăng gia công lực của công tử gấp hai đó! Công tử hãy tin lời tôi nói, đừng tưởng là mình kém rồi sanh mặc cảm!

Rồi nàng dục:

– Chúng ta lên đỉnh núi gấp đi công tử!

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Phải!

Cả hai giở thuật khinh công lướt theo con đường mòn, lên đỉnh núi, nơi đó quả có lỗ thông hơi, bên cạnh đó, có lưu hoàng chất đống, ngoài ra cũng có vật đánh lửa.

Lỗ thông hơi và đống lưu hoàng ở trong một ngôi nhà, từ lỗ đó nhìn xuống, thấy rõ mọi hoạt động của đàn rắn độc.

Hiện tại, con Nhân Giao còn trong hang, nó đang cắn những con rắn độc, hút tinh huyết như cũ.

Cả hai không chậm trễ, hất đống lưu hoàng rơi xuống hang, rồi đánh lửa, đốt bổi cỏ quăng xuống theo.

Lưu hoàng bắt lửa cháy lên, rắn độc chạy loạn, trong phút chốc đã chết hơn phân nửa. Trong những con rắn chưa bị đốt, chạy quấn lên, rít gió vu vu.

Quan Sơn Nguyệt hết sức thương cảm, nhưng biết làm sao hơn, chàng cần phải dùng biện pháp đó, mới tiêu diệt nổi Nhân Giao!

Linh Cô mỉm cười thốt:

– Không nên yếu lòng như vậy, công tử! Chúng ta không giết rắn, rắn cũng giết người. Huống chi, bằng mọi giá, chúng ta phải trừ diệt con Nhân Giao kia mà!

Nàng lại tiếp luôn:

– Ta không giết chúng, chúng cũng sẽ chết, bởi đống lưu hoàng này do bọn Tạ Linh Vận tích trữ, với ý định sát hại tất cả số rắn độc đó.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Hắn mang đến đây?

Linh Cô gật đầu:

– Phải! Và Xà Thần đồng ý cho hắn sát diệt tất cả số rắn trong hang!

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

– Sao họ không động thủ?

Linh Cô đáp:

– Chỉ vì Tạ Linh Vận áp dụng sai phương pháp. Hắn dự định thi thố thuật Hoặc Tâm Mê Hồn, lúc Xà Thần đổi lốt thay hình, không ngờ Xà Thần phát giác ra ...

Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

– Xà Thần đã nói là giam chúng một nơi rồi mà?

Linh Cô gật đầu:

– Quả có như vậy, song chỉ Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu bị giam thôi, còn Trương Vân Trúc chẳng sao cả. Có lẽ Trương Vân Trúc giải thoát cho cả hai đó!

Bên dưới hang, rắn độc bị đốt chết dần dần, nhưng con Nhân Giao thì không hề hấn gì, nó vẫn hùng hổ xông xáo như thường.

Lưu hoàng thừa lại không bao nhiêu, Quan Sơn Nguyệt định quăng hết xuống hang cho ngọn lửa bốc mạnh, song Linh Cô chặn lại.

Nàng cầm khối lưu hoàng đang cháy, giữ lại đó, không quăng xuống.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, không hiểu dụng ý của nàng như thế nào.

Con Nhân Giao lúc đó mới bắt đầu sợ lửa, bất thình lình nó tung mình lên, định vọt qua lỗ thông hơi, thoát ra ngoài.

Quan Sơn Nguyệt biến sắc, toan vung chưởng đánh xuống cho nó dội trở lại, Linh Cô nhanh tay hơn, đưa khối lưu hoàng đang cháy, chận ngang lỗ thông hơi.

Sợ lửa táp, Nhân Giao phải nhảy xuống hang, nó bật kêu lên, âm thanh của nó cực kỳ quái dị, mặt nó lộ vẻ hung ác vô cùng.

Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới hiểu rõ dụng ý của Linh Cô, buộc miệng tán:

– Cô nương thật chu đáo quá, tại hạ nghĩ mình còn kém xa!

Linh Cô cười nhẹ:

– Thực ra, con Nhân Giao không sợ lửa, sở dĩ nó không dám vọt lên, là vì chất lưu hoàng khắc kỵ độc, nó không chịu nổi mùi lưu hoàng, ở bên dưới, nó mê hút huyết độc xà, nên thoạt đầu nó không quan tâm đến hơi kỵ của lưu hoàng, dần dần nó không chịu nổi mới vọt lên, lên đây rồi đụng đầu với lưu hoàng, nó phải trở xuống bên dưới. Quan công tử đừng tưởng nó thấy lửa mà dội lại đâu.

Trong khi nó đánh hơi lưu hoàng bốc ra, công tử lại tung chưởng dĩ nhiên nó không chống nổi.

Quan Sơn Nguyệt lấy lưu hoàng đốt thêm, rồi quăng xuống hang.

Bên dưới, tuy lửa đã giảm, bởi lưu hoàng đã cháy hết, song khói bốc dày, khói không có lối thoát, Nhân Giao không chịu nổi khói lưu hoàng, lồng lộn lên, kêu vang.

Số lưu hoàng còn rất ít, Linh Cô sợ Quan Sơn Nguyệt đốt một lúc nữa thì hết, nên vội ngăn:

– Đừng, công tử! Nhân Giao có sức chịu đựng dẻo dai lắm, chúng ta phải dành lại một phần nào, phòng nó vọt lên bất ngờ. Cứ ngăn chặn nó thoát đi, đồng thời bắt nó phải ngửi mãi khói lưu hoàng, cuối cùng rồi nó cũng kiệt lực.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Chờ cho nó kiệt lực, sao bằng mình hạ nó ngay? Hạ nó càng sớm, mình càng rảnh tay sớm, tranh thủ được phần nào thời gian ...

Linh Cô lắc đầu:

– Dục tốc bất đạt, giả như mình dùng hết số lưu hoàng này mà nó không chết, thì mình làm sao khắc chế nó? Công tử nên nghe lời tôi.

Quan Sơn Nguyệt phải nhận là nàng hữu lý.

Bên dưới, con Nhân Giao vẫn chạy loạn mãi, nhưng Quan Sơn Nguyệt lưu ý đến nó từng phút, từng giây, thấy nó dần dần chậm lại, tiếng kêu của nó cũng yếu nhiều.

Chàng định chừng nó chỉ còn chịu đựng lâu lắm là một khắc nữa thôi.

Chàng hết sức khoan khoái, thốt:

– Nhân Giao chết, Tạ Linh Vận không còn cách gì khống chế Xà Thần nữa, hắn sẽ bị Xà Thần giết là cái chắc, bởi Xà Thần hận hắn không tưởng nổi!

Linh Cô đề tỉnh chàng:

– Tạ Linh Vận dù có chết, thì còn Xà Thần đó chi? Công tử không ngán Xà Thần sao? Lão ấy còn bại hoại hơn Tạ Linh Vận nữa đấy, công tử đừng tưởng lão có hảo cảm với chúng ta mà lầm!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Chẳng phải tại hạ không sợ Xà Thần, có điều tại hạ nhận ra, Xà Thần hành sự thường hướng về chánh nghĩa ...

Linh Cô thở dài:

– Khó nhận định rõ rệt cái khuynh hướng của lão lắm, Quan công tử ơi! Lão ẩn cư nhiều năm tại thâm sơn cùng cốc, không tiếp xúc với thế nhân, lão bất cận nhân tình, hành động tùy nhiệm ý, lão chưa biết thế nào là chánh thế nào là tà, tuy tuổi của lão quá cao, song lão có khác nào một đứa trẻ con còn non nớt, như một dòng nước trong xanh, dễ nhiễm mọi sắc thái, nếu lúc sơ khai tiếp xúc với người đời, gặp người tốt thì lão trở thành người tốt, gặp kẻ xấu thì lão bị đồng hóa theo kẻ xấu, lão dễ bị ảnh hưởng của ngoại cảnh lắm.

Quan Sơn Nguyệt giật mình công nhận Linh Cô có lý. Chàng nói:

– Cô nương xét đoán rất đúng! Tại hạ nghĩ, muốn ngăn chặn Xà Thần làm điều phi nhân bất nghĩa, chỉ có mỗi một mình cô nương là có hy vọng đạt kết quả thôi.

Linh Cô hỏi:

– Tại sao?

Quan Sơn Nguyệt giải thích:

– Vì cô nương trong thời gian qua kề cận với lão, dù sao thì giữa nhau cũng có ít nhiều cảm tình, cô nương dễ gây ảnh hưởng nơi lão ...

Linh Cô thở dài:

– Bám sát một quái nhân, cảm hóa quái nhân đó chuyển hướng về chánh nghĩa đành là một việc đáng làm, song việc đó đòi hỏi nơi tôi một hy sinh lớn lao, tôi đưa được lão vào chánh đạo rồi, còn tôi thì sao? Tôi hủy bỏ cuộc đời của tôi, để hóa cảm một người, sự đổi chác đó có phần nào quá đáng, đối với cá nhân tôi, công tử ạ! Tôi có quyền sống cho tôi chứ?

Quan Sơn Nguyệt tặc lưỡi:

– Cô nương nói thế, tại hạ còn biết khuyến giải cô nương như thế nào nữa?

Tuy nhiên cô nương nghĩ lại xem, Xà Thần hành thiện, thì cái thiện đó sẽ hữu ích cho bao nhiêu người? Nếu Xà Thần hành ác, thì cái ác đó sẽ tai hại cho bao nhiêu người? Chúng ta sống đây, là sống cho đồng loại, nếu mỗi người đều nghĩ đến cá nhân mình thì ...

Linh Cô lắc đầu:

– Từ nhỏ tôi được Lâm Tiên Tử thu nhận dưỡng nuôi, Lâm Tiên Tử không hề bảo cho tôi biết là nên sống cho bất cứ ai. Tôi chỉ biết, mình sống cho mình thôi, miễn là tôi không làm hại đến đồng loại.

Nàng trầm giọng tiếp:

– Công tử thấy chứ, Lâm Tiên Tử cùng lịnh sư, bỗng nhiên ly khai Long Hoa Hội đúng cái lúc Tạ Linh Vận quật khởi tranh hùng, họ tránh cuộc nhiệt náo, tìm một nơi an tịnh hưởng nhàn, họ chỉ nghĩ đến hạnh phúc của họ. Thì, tôi là một mầm non, đang hồi nẫy nở, tại sao tôi phải hy sinh, trong khi tôi cần hưởng thọ?

Họ đã hưởng nhiều, họ còn cố hưởng, tôi chưa hưởng, thì lý do gì bắt buộc tôi phải chối bỏ quyền hưởng dụng mọi lạc thú nhân sinh.

Nàng lại kết luận:

– Tôi chỉ muốn một sự công bằng thôi! Công bằng trong tư tưởng, công bằng trong hành động. Người ta không muốn làm cái việc đó, thì tôi cũng có quyền tránh cái việc đó! Người ta nghĩ đến cá nhân của họ, thì tôi cũng có quyền bảo vệ cá nhân tôi!

Quan Sơn Nguyệt cố phân trần:

– Sở dĩ Lâm Tiên Tử và gia sư trốn tránh cuộc nhiệt náo, là vì họ tự lượng sức họ, không làm gì nổi Tạ Linh Vận, họ giao phó sự đối đương với Tạ Linh Vận cho tại hạ, và tại hạ sẵn sàng đảm nhận ...

Linh Cô cười mỉa:

– Trao gánh nặng cho công tử rồi, họ làm gì? Họ đưa nhau đến chốn thanh tịnh u nhàn phải không? Họ sống bên nhau, sống trong hạnh phúc. Còn tôi, nếu tôi bám theo Xà Thần, tôi sẽ hưởng được gì? Tôi đầu độc cuộc đời tôi, tôi sống những ngày dài trong đau khổ, không hơn không kém! Lâm Tiên Tử và lịnh sư, ngồi trong nhà vàng mà luận việc, tránh sao cho khỏi có sự khách quan. Mà khách quan là vị kỷ, họ chọn cái vị kỷ, họ đẩy tôi vào cái vị tha, dù họ biết tương lai của tôi còn dài, quá dài, bởi tôi chưa đến cái tuổi tròn trăng kia mà! Thật là buồn đau cho tôi quá, công tử ạ! Tôi chịu khổ để làm gì, hở công tử?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:

– Cô nương làm được việc thiện, ngàn muôn người sẽ tôn kính cô nương ...

Linh Cô hừ một tiếng:

– Còn công tử? Xuôi ngược sông hồ, vào ra nguy hiểm, chỉ để gặt hái sự tôn kính của người đời, phải không?

Quan Sơn Nguyệt thở ra:

– Tại hạ đâu dám ước vọng trở thành thần tượng của thế nhân? Bất quá, tại hạ làm những việc gì mà tại hạ nhận ra đáng làm, cần làm. Có thế thôi!

Linh Cô trầm ngâm một lúc, đoạn thốt:

– Tuy tôi nói thế, chứ công tử đã muốn, thì tôi cũng cố gắng làm vừa lòng công tử, tiếp cận Xà Thần, tìm cách hóa cảm lão ấy, đưa lão về con đường chánh nghĩa. Công tử nên nhớ điều này, tôi hy sinh đây, chẳng phải vì một quan niệm nào cả, mà chỉ là vì công tử đó thôi!

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Vì tại hạ? Riêng tại hạ?

Linh Cô gật đầu:

– Phải! Vì công tử không hơn không kém! Lúc tôi sắp sửa bị Xà Thần làm ô nhục tại thạch thất, thì công tử bất chấp nguy hiểm, quyết vào lọt bên trong cứu tôi. Cái điểm ân tình đó của công tử, bằng mọi giá tôi phải đáp đền. Xà Thần đối với công tử chẳng có mảy may thiện cảm, nếu lão ấy bị ảnh hưởng của bọn Tạ Linh Vận, thì đúng là một mối họa hoạn cho công tử trong tương lai. Tôi phải tìm biện pháp diệt trừ mối họa hoạn đó cho công tử!

Quan Sơn Nguyệt chưa kịp đáp, bỗng có tiếng Xà Thần hét lên oang oang, từ phía dưới vọng lên:

– Sao lại thế này? Ai bít miệng hang rắn? Tại sao lại có khói lưu hoàng?

Tiếp theo đó, là giọng nói của Giang Phàm:

– Nguy! Nguy! Quan đại ca và Linh Cô ở trong đó ...

Bên trên đỉnh núi, Quan Sơn Nguyệt và Linh Cô chưa kịp ứng tiếng, bên dưới họ đã dời tảng đá ra một phía rồi.

Nhân Giao đang ngất ngư vì hơi lưu hoàng làm ngạt thở, thấy cửa hang vụt mở, cấp tốc vọt ra.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 60

Theo Cánh Chim Bay

Khi Quan Sơn Nguyệt và Linh Cô giở hết tốc lực chạy xuống núi, thì bên dưới tình thế đã biến chuyển ngoài chỗ tưởng của họ.

Có thể nói rằng tình thế đó hết sức hãi hùng!

Xà Thần đã trở lại hình dáng quái dị như thuở nào, bất quá lão ta đang vận chiếc quần da rắn, khác hơn những lần trước kia lão cứ để mình trần truồng trông gớm lạ. Với chiếc quần đó, trông lão có vẻ như người thường phần nào.

Đứng riêng về một bên, Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu lộ vẻ kinh ngạc, chừng như cả hai chưa dứt khoát một thái độ thích ứng với tình hình ...

Giang Phàm thì từ trong hang rắn bay vọt ra, y phục vấy tro bụi, đen sì.

Trông thấy Quan Sơn Nguyệt và Linh Cô bình an, nàng hết sức hân hoan, vội chạy tới, hấp tấp gọi:

– Quan đại ca! Vậy mà tôi cứ tưởng đại ca bị chết thiêu ở trong đó.. Xà Thần cũng nhìn đăm đăm về phía Linh Cô.

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt và Linh Cô không lưu ý đến Giang Phàm và Xà Thần, họ cũng không chú trọng đến Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu. Bởi họ đang quan tâm đến một người.

Người đó là người vừa xuất hiện, có lẽ sự xuất hiện của người đó ngoài chỗ tưởng tượng của Tạ Linh Vận. Người đó, là Liễu Y Ảo!

Liễu Y Ảo mặc bộ y phục da rắn như ngày nào ở trong Thiên Xà Cốc với Xà Thần, Xà Cơ, Giang Phàm. Và, nàng đang giữ con Nhân Giao trong tay!

Mọi người đều im lặng, nhưng phe này ngưng trọng thần sắc, đề phòng phe kia.

Hiện tại, cục trường, khó mà phân tách riêng biệt phe nào với phe nào.

Cho nên, đại khái thì sự phân loại có thể như thế này, Giang Phàm, Quan Sơn Nguyệt, Linh Cô chung một cánh, Tạ Linh Vận và Lưu Ảo Phu cùng một cánh, Xà Thần cũng như Liễu Y Ảo riêng rẽ mỗi người một cánh, tuy nhiên hai cánh này chưa hẳn là kẻ tử đối đầu của nhau.

Thành ra, chẳng những họ đề phòng một phe duy nhất, mà họ lại còn đề phòng cùng một lúc hai hay ba mặt.

Họ ghìm nhau như vậy một lúc lâu, Liễu Y Ảo cất tiếng trước:

– Xà Thần! Đã đến lúc ngươi phải nghe mạnh lịnh của ta rồi đó.

Xà Thần biến sắc mặt, lão mở nắp chiếc bình ngọc trong tay, nhìn qua một thoáng, ánh mắt lộ vẻ nghi ngờ.

Tạ Linh Vận nhìn xuống tay của y. Trong tay y, cũng có một chiếc bình bằng ngọc, như Xà Thần. Nhìn chiếc bình một phút, y rùn vai, rồi quăng chiếc bình xuống đất, nhếch nụ cười khổ, thốt:

– Xà Thần! Cả hai chúng ta đều bị Trương Vân Trúc lừa!

Xà Thần cũng quăng luôn chiếc bình trong tay lão, đoạn nghiến răng ken két, cao giọng oang oang:

– Ta mà bắt được cái lão súc sanh đó, chắc chắn là ta phải chặt lão ra làm trăm ngàn mảnh mới hả cơn giận của ta! Chẳng biết lão ẩn nấp ở đâu bây giờ!

Liễu Y Ảo cười nhạt:

– Ẩn ở đâu? Lão biết chẳng khi nào các ngươi dung tha cho lão, tự nhiên lão phải chuồn đi, còn đâu ở đây mà hỏi?

Xà Thần hét lớn:

– Chuồn đi đâu cho khỏi tay ta! Lão lên trời ta cũng lên theo, xuống đất ta cũng xuống theo! Nhất định ta phải giết cho được lão!

Liễu Y Ảo bĩu môi:

– Tìm gặp lão, liệu ngươi làm gì nổi mà hòng hăm he đe dọa? Cho ngươi biết, lão chẳng hề ngán ngươi chút nào cả. Bởi, trong tay của lão có chiếc bình đựng thứ tro thật sự của cái mu rùa, trên đời này chỉ có lão và ta, hai người duy nhất chế ngự nổi con Nhân Giao mà thôi.

Xà Thần tức uất đến chết người được, song tức thì cứ tức, chứ còn biết làm gì hơn? Khí tức tràn lòng, lão cần phải phát tiết bớt, nhưng phát tiết cách nào đây?

Nhìn quanh quẩn, lão thấy tảng đá dùng bít cửa hang rắn, lập tức lão quát lớn một tiếng, vung chưởng đánh vào tảng đá đó.

Công lực của lão phi thường thật, tảng đá trên vạn cân nặng, không chịu nổi chưởng kình của lão, vỡ ra thành mấy mảnh.

Liễu Y Ảo bật cười khanh khách:

– Đánh khá lắm! Có một cao thủ như ngươi để tùy thời sai khiến, thì ta có lo gì thu phục thiên hạ vũ lâm trong tay? Từ nay ta muốn làm gì, cứ làm, chẳng còn ai dám ngăn chặn ta nữa!

Xà Thần nổi giận:

– Ngươi đừng đắc ý vội! Chắc gì con Nhân Giao làm cho ta phải ngán mà bắt buộc ta phải tuân lịnh của ngươi?

Liễu Y Ảo cười nhẹ:

– Ngươi không tin, cứ thử xem! Thử đi nào!

Không đợi Xà Thần làm một cử động gì trước, chính nàng buông con Nhân Giao ra.

Lập tức, con Nhân Giao vọt đi như bay, nó hướng thẳng đến Xà Thần.

Xà Thần vận dụng toàn lực, tung ra một chưởng nhắm vào mặt con quái vật.

Nhưng, chưởng lực của lão đánh vỡ tảng đá vạn cận, vẫn không có ảnh hưởng gì đối với con Nhân Giao.

Chưởng lực của lão không gây mảy mai ảnh hưởng, nơi con Nhân Giao thì làm gì lão ngăn chặn nó nổi?

Đà vọt của nó không hề chậm lại, thoáng mắt nó bám trúng vai Xà Thần.

Rồi nó phồng đôi má lên, đôi má chỉ có da thôi, đôi má phình to như một cái trống con. Nó sắp phun khí độc.

Bám trên vai lão, nếu nó phun khí độc, chắc chắn là nó phun vào mặt lão, trong khoảng cách không hơn gang tấc đó, Xà Thần làm sao chịu nổi khí độc của nó?

Liễu Y Ảo bật cười vang:

– Ngươi thấy chưa? Ta đã nói là ngươi không chế ngự nó được mà! Ngươi chịu nổi khí độc của nó chăng? Nếu ngươi đủ sức chịu đựng, ta sẽ bảo nó phun ra cho ngươi xem!

Xà Thần biến sắc mặt như chết, hơn ai hết, lão biết con Nhân Giao lợi hại như thế nào. Trước kia, nó đã đáng sợ rồi, vừa qua nó hút tinh huyết của một số rắn độc, nó còn đáng sợ gấp trăm ngàn lần nữa! Chẳng những nó độc, nó lại trở thành bất khả xâm phạm nữa, chẳng khác nào nó là một thứ kim cương bất hoại, trên đời này hầu như không một mãnh lực nào làm gì cho nó hề hấn cả.

Liễu Y Ảo lại cười lớn:

– Tuy nhiên ngươi đừng quá sợ, ta đâu muốn cho ngươi phải chết gấp thế?

Bởi ta còn cần dùng ngươi trong nhiều việc lắm đó. Khi nào ta thấy ngươi trở thành vô ích cho ta, thì chừng đó ta sẽ giết ngươi cũng chẳng muộn.

Nàng gọi con Nhân Giao:

– Trở lại đây, đừng làm gì hại đến lão trong lúc này!

Nhân Giao quả nhiên nghe lời nàng, hú gió một tiếng dài, quay đầu vọt về nằm ngang nơi bàn tay nàng.

Tạ Linh Vận thở dài:

– Sư muội quả thật là một tay già thủ đoạn! Chẳng rõ sư muội liên kết với Trương Vân Trúc từ lúc nào thế?

Liễu Y Ảo cười nhẹ:

– Lâu lắm rồi! Từ cái lúc còn ở tại Ngũ Đài Sơn kia, ta với lão bắt liên lạc với nhau rồi. Ngươi không nên trách cứ người nào khác, hãy tự trách lấy mình. Tại ngươi thu nhận cái gã họ Lưu đó, tất cả những người trong giáo đều bất mãn tiểu tử, cả Trương Vân Trúc cũng chẳng thích gì hắn, song lão ta không thể phản đối ngươi, nên lão âm thầm bảo ta đưa Trương Thanh đi nơi khác, tránh cho nàng bị các ngươi âm mưu hãm hại ...

Lưu Ảo Phu quát chặn:

– Vô lý! Ta thành thật yêu Trương Thanh ...

Liễu Y Ảo mỉm cười:

– Ngươi yêu nàng mà nàng không hề yêu ngươi, thì ngươi còn biện pháp gì chứ? Giả như ngươi thật sự yêu nàng, thì ngươi nên kiên nhẫn chờ đợi nàng hồi tâm, thông cảm sự chân thành của ngươi, chứ có lý đâu ngươi lại dùng đến thủ đoạn Hoặc Tâm Mê Thuật để lừa nàng vào tròng?

Lưu Ảo Phu trầm buồn gương mặt:

– Ngươi bảo ta chờ đợi làm sao ta chờ được khi con tim ta sôi động vì thiết tha? Ta phải làm mọi cách chiếm nàng cho kỳ được! Ta có cách gì hữu hiệu hơn là áp dụng phương pháp mê hoặc tâm thần nàng? Ngươi phải hiểu, vạn bất đắc dĩ ta mới phải dùng đến thủ đoạn đó, chứ chẳng phải ta có dã tâm, buông thói bạo tàn.

Liễu Y Ảo mỉm cười:

– Trương Vân Trúc chỉ có một người con, khi nào lão ta để cho con rơi vào tay ngươi mà ngươi hòng này nọ?

Tạ Linh Vận chen vào, chuyển câu chuyện sang đề tài khác:

– Trong mấy hôm nay, ngươi ẩn trốn ở đâu?

Hỏi, y không đợi nghe Liễu Y Ảo đáp, y tiếp luôn:

– Chắc là ngươi quanh quẩn trong vùng này?

Liễu Y Ảo gật đầu:

– Phải, ta có mặt quanh đây từ nhiều ngày qua, tuy nhiên ta hết sức vất vả ẩn trốn, sợ các ngươi phát hiện ra ta. Ta chờ một cơ hội ...

Xà Thần cao giọng:

– Cơ hội gì?

Liễu Y Ảo lạnh lùng:

– Cơ hội tìm được một phương pháp chế phục ngươi. Ta biết từ lâu ngươi có nuôi một con Nhân Giao cho nên ta đã nghĩ cách chế phục Nhân Giao. Chế phục được con vật đó rồi, là ta sẽ nắm chắc ngươi trong lòng bàn tay.

Xà Thần lắc đầu:

– Ta không tin là ngươi đã nghĩ ra phương pháp chế phục con quái vật đó.

Muốn chế phục con Nhân Giao, ngươi phải lấy xác rùa mà đốt thành tro, dùng tro đó dụ dẫn nó. Nhưng, muốn có xác con rùa, ngươi phải ra mặt, như vậy là ta phát giác rồi, làm sao ngươi đến gần nó được mà chặt đứt cổ nó, đoạt chiếc vỏ rùa?

Đó là phương pháp chế phục con Nhân Giao, phương pháp duy nhất!

Liễu Y Ảo mỉm cười:

– Duy nhất? Thương hại cho ngươi quá, Xà Thần! Sự hiểu biết của ngươi kém cỏi quá chừng. Cho ngươi rõ, ngoài phương pháp đốt vỏ rùa lấy tro, còn một thứ khác, và thứ đó ta đã tìm được, hiện tại thì ta đang dùng để sai khiến con Nhân Giao!

Xà Thần giật mình:

– Thứ gì mà linh hiệu thế?

Liễu Y Ảo trầm ngâm một chút:

– Bây giờ ta nói cho ngươi biết, cũng chẳng hại gì. Ngày trước, lúc đúc kết con Nhân Giao, ngươi quên lưu giữ một vật rất quý báu ...

Xà Thần vỗ trán, suy tư mấy phút, lẩm nhẩm:

– Vật gì? Vật gì mà ngươi cho rằng quý báu?

Liễu Y Ảo cười lớn:

– Ta hỏi ngươi, trước khi quái vật thành hình, nó từ đâu mà ra?

Xà Thần đáp:

– Trứng! Ngươi muốn nói đến cái vỏ trứng?

Liễu Y Ảo gật đầu:

– Phải! Nó được tượng hình từ trong vỏ trứng, từ vỏ trứng đó nó chui ra, vỏ trứng là một vật quan trọng, bảo vệ cái hình hài của nó ngay từ lúc bắt đầu tượng thành.

Nàng lại cười vang, tiếp luôn:

– Các ngươi đều mắc lừa cả Trương Vân Trúc, dù có tài thánh cũng không đốt chảy được cái xác con rùa, lão ta dùng một giọt độc thủy, rưới lên bên trên cái xác đó, làm tiêu hóa một chút gân và một chút gân trong vỏ rùa, lão lấy tro đó trao cho các ngươi, chứ thực sự thì xác rùa vẫn còn nguyên vẹn. Thứ tro lão giao cho các ngươi, chẳng bao giờ chế phục nổi con Nhân Giao. Trong khi đó, lão len lén vào động, lấy vỏ trứng, trao cho ta, ta tìm một nơi kín đáo, chế luyện nó, xong rồi trở lại đây. May mắn thay, ta đến rất đúng lúc.

Nàng day qua Quan Sơn Nguyệt, điểm một nụ cười, thốt:

– Bọn ta tuy có kế hoạch chế phục con Nhân Giao, song muốn thực hiện kế hoạch đó, bọn ta phải gần con Nhân Giao, mà Xà Thần giữ nó cẩn mật, bọn ta không thể để lộ chân tướng. Chính ngươi đã giúp bọn ta thực hiện phần lớn kế hoạch đó! Bắt đầu từ việc nhặt xác rùa, dùng tro giả, lừa Tạ Linh Vận, lừa Xà Thần, rồi mới đến giai đoạn trộm vỏ trứng, chế luyện thực sự. Không có ngươi làm sao bọn ta nhặt được cái xác rùa.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» lạnh:

– Ta hy vọng ngươi kềm chế con Nhân Giao, đừng để nó hoành hành nhiễu hại dân lành. Nếu ngươi dùng nó làm công cụ thực hiện những âm mưu đen tối, thì ta sẽ không dung thứ ngươi ...

Liễu Y Ảo mỉm cười:

– Cái quyền sát sanh mọi người, kể cả ngươi, hiện ở trong tay ta, ngươi nói chi lớn lối thế? Ngươi làm gì ta được mà hăm he, dọa nạt? Cho ngươi biết, nếu ta muốn giết ngươi ngay bây giờ thì ta cứ bảo con Nhân Giao một tiếng. Ngươi sẽ tiêu hóa cả hồn lẩn xác.

Quan Sơn Nguyệt toan phát tác.

Liễu Y Ảo thở dài tiếp luôn:

– Tuy nhiên, ngươi yên trí đi, ta không làm gì hại đến ngươi, Trương Vân Trúc đã yêu cầu ta như vậy. Sở dĩ lão yêu cầu ta khoan dung cho ngươi, là vì con gái lão đó. Ngươi nên nghĩ xem, Trương Thanh đã dành cho ngươi bao nhiêu tình cảm, trong khi đó ngươi lại hứa hôn với Xà Cơ, làm như thế, ngươi chẳng ức độ cái hậu quả ra sao à? Ta sợ rằng trong tương lai, ngươi sẽ không an nhàn mà hưởng phúc được đâu!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Thế ra, Trương Vân Trúc còn nghĩ đến chàng?

Liễu Y Ảo tiếp luôn:

– Cho nên, ta muốn khuyên ngươi, vì sự an toàn của ngươi trong tương lai, ngươi nên ly khai Giang Phàm, càng sớm càng tốt!

Giang Phàm biến sắc, kêu lên:

– Quan đại ca! Đại ca không thể bỏ rơi tôi được!

Quan Sơn Nguyệt kéo nàng đến gần, thấp giọng:

– Không có việc bỏ rơi cô nương đâu! Cô nương vững tâm, dù sao đi nữa, chúng ta vẫn ở bên cạnh nhau, vĩnh viễn không xa rời nhau đâu!

Giang Phàm thở phào.

Đến lượt Liễu Y Ảo biến sắc, gọi to:

– Quan Sơn Nguyệt! Thế ngươi không muốn sống, phải không?

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Liễu Y Ảo! Ta biết những gì ngươi vừa nói đó, là do ngươi bịa đặt, chứ sự thực không thể như vậy. Trương Thanh là một vị cô nương có tâm địa rất tốt, chẳng bao giờ nàng có những ý tưởng ác độc cả.

Liễu Y Ảo lộ vẻ hung ác, hét lên:

– Phải đó, ta bịa đặt ra những điều đó, rồi có sao chăng? Đại sư tỷ đã đứng chủ hôn, tác hợp cho ta với ngươi, ngươi ngang nhiên cự tuyệt, khăng khăng thương tưởng mỗi một mình Trương Thanh thôi. Điều đó, ta còn có thể dung thứ ngươi, bởi dù sao thì Trương Thanh cũng là người đến trước, ta chỉ là kẻ đến sau.

Còn như đối với Giang Phàm, nàng ấy là kẻ đến sau cùng, mà ngươi phụ ta, đã đành, sao ngươi lại phụ luôn Trương Thanh?

Giang Phàm thốt:

– Nào ta đã là vợ của Quan đại ca đâu mà ngươi lo rối lên như thế? Bất quá, chúng ta chỉ mới hứa hôn với nhau thôi ...

Liễu Y Ảo bĩu môi:

– Ai nghe ngươi mà ngươi nói chen vào? Ngươi đáng giá gì đó mà đòi làm vợ hắn? Ngươi hơn ta ở chỗ nào chứ?

Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:

– Liễu Y Ảo, ta với Giang cô nương bất quá chỉ trao đổi nhau một lời, song ngươi đã nói năng như vậy, thì ta phải lấy nàng làm vợ ...

Liễu Y Ảo quát vang:

– Ta nhóng mắt mà xem, ngươi sẽ làm cách nào để lấy được Giang Phàm làm vợ!

Quan Sơn Nguyệt nổi giận, cũng hét lớn:

– Tại sao ta không lấy được Giang cô nương làm vợ? Ta có cách như thường. Đây, ngươi xem!

Chàng hướng qua đám người hiện diện, cao giọng tiếp:

– Các vị nghe tại hạ nói đây, tại hạ nhìn nhận rằng bắt đầu từ hôm nay, vị Giang cô nương nầy là vợ chánh thức của tại hạ, mong các vị chứng cho. Tuy cuộc hôn nhân nầy không có nghi thức gì cả, song một lời tuyên là sự việc kể như quyết định rồi. Vĩnh viễn sự quyết định nầy không hề cải biến.

Liễu Y Ảo không chịu kém, cũng cao giọng thốt oang oang:

– Đáng mầng cho ngươi đó, Quan Sơn Nguyệt! Tuy những gì còn đọng lại giữa chúng ta chưa được thanh toán hẳn, song ta cũng chẳng lấy đó làm khó, nếu một ngày nào đó, ngươi cử hành hôn lễ đúng nghi thức, có tân khách, có rượu trà, thì chắc chắn là ta sẽ có mặt để uống vui với ngươi mấy chén.

Tạ Linh Vận tiếp lời:

– Phải lắm, Quan Sơn Nguyệt! Cưới được một người vợ có dung mạo hơn hoa như Giang cô nương đây, thì ngươi có quyền cao hứng! Ta cũng cảm thấy cao hứng phi thường, bởi ta có cái vinh hạnh được làm chứng nhân cho cuộc hôn nhân hy hữu! Giả như ngươi muốn cử hành hôn lễ đơn giản ngay bây giờ, tại đây, thì ngươi cứ hỏi thử Xà Thần xem sao, chắc lão ta có thể biếu cho ngươi một vài vò rượu nhạt.

Quan Sơn Nguyệt trừng mắt nhìn quanh bọn Tạ Linh Vận, Liễu Y Ảo một lượt, lạnh lùng thốt:

– Hai vị có thạnh tình, tại hạ xin đa tạ. Rất tiếc là hiện tại không làm sao có rượu kịp thời để đãi hai vị, vậy thì tại hạ xin mượn máu của hai vị, tạm thay rượu vậy. Chắc hai vị cũng chẳng chối từ!

Tạ Linh Vận bật cười ha hả:

– Trên thế gian, rể đâu có thứ rể lạ đời như vậy? Vừa cưới vợ xong, lại đòi giết chứng nhân! Nhìn vào cái gương nầy, trong tương lai còn ai dám làm chứng cho những cuộc hôn nhân nữa? Tuy nhiên, muốn giết chứng nhân, thiết tưởng ngươi không nên quá vội như vậy!

Quan Sơn Nguyệt đã trở nên lỳ, chàng cứ cái thái độ đó mà ứng phó đối với đối phương. Chàng trầm giọng, nói:

– Đừng quanh quẩn mãi, mất thì giờ lắm, Tạ Linh Vận! Ngươi hẹn ước với ta đến đây, để quyết định tử sanh giữa nhau, bây giờ đã gặp nhau rồi, chúng ta hãy đi ngay vào cuộc.

Tạ Linh Vận cười khích:

– Đành rằng hôm nay đúng là ngày ước hội, song ta có ngờ đâu lại là ngày lành của ngươi, cái ngày thành vợ thành chồng của các ngươi mà. Ta nghĩ, dù có ai hung bạo tàn ác đến đâu, cũng không nở vung đao múa kiếm phá hoại cuộc vui của ngươi! Cho nên, ta có ý kiến nầy, là chúng ta cứ hẹn lại một ngày nào khác. Chẳng lẽ vị cô nương đó vừa lấy chồng, mà ta lại tỏ lộ hung hăng, làm cho nàng biến thành quả phụ gấp hay sao?

Quan Sơn Nguyệt hét:

– Không cần cải biến hạn kỳ, chúng ta hẹn gặp nhau tại đây hôm nay, gặp rồi là cứ động thủ, không thể dời lại một ngày nào khác được.

Tạ Linh Vận liếc mắt sang Liễu Y Ảo một thoáng, rồi cười hì hì:

– Không được đâu, ta làm sao nỡ trí mạng với ngươi ngay hôm nay? Ngày này là ngày quan trọng nhất trong cuộc đời của một người mà! Ngươi phải biết, làm mất ngày lành giờ tốt của người ta là gây nên tội lớn đó, mà ta thì không dám đắc tội với cái vị cô nương có nhan sắc tuyệt vời kia! Yên trí đi, Quan Sơn Nguyệt!

Cứ ung dung mà động phòng, rồi sau đó hãy tính đến chuyện giải quyết vấn đề giữa chúng ta. Ta sẵn sàng chờ ngươi. Bất cứ lúc nào, ta cũng rất vui lòng lãnh giáo!

Quan Sơn Nguyệt chụp thanh kiếm Hoàng Diệp nơi tay Giang Phàm, gọi to:

– Ngươi không xuất thủ thì ta buộc lòng phải hành động trước!

Liễu Y Ảo chợt biến sắc mặt, đưa cao tay lên, quát:

– Đi! Sát hại cái nàng khả ố đó cho ta!

Dĩ nhiên, nàng ra lịnh cho con Nhân Giao hành động.

Nhân Giao phóng mình lên không, uốn cầu vồng, chênh chênh xuống Giang Phàm.

Quan Sơn Nguyệt lướt tới, vung kiếm chém vào mình con Nhân Giao.

Nhân Giao quật đuôi lại, quấn thanh kiếm của chàng. Quan Sơn Nguyệt gặt tay, đuôi con Nhân Giao đứt một đoạn.

Xà Thần kinh hãi, kêu lên:

– Đừng! Đừng! Ngươi càng chặt ngắn đuôi nó, nó càng được tự do hơn, nó sẽ nhanh nhẹn hơn, ngươi không làm sao đối phó với nó nổi đấy. Tuyệt đối phải thận trọng!

Liễu Y Ảo cười lạnh:

– Dù cái đuôi của nó còn nguyên vẹn, cũng vị tất có ai đối phó với nó nổi!

Cần gì phải đợi đến lúc nó cụt đuôi!

Đúng như Xà Thần nói, mất một phần đuôi rồi, con Nhân Giao nhanh nhẹn phi thường, nó bay lượn xung quanh Giang Phàm chẳng khác một con bướm vờn hoa, chực chờ hạ sát nàng.

Lần nầy, Quan Sơn Nguyệt không dám lỗ mãng nữa, cầm thanh kiếm trong tay, chàng đành lấy mắt nhìn.

Nhưng, nhìn như vậy, chẳng phải chàng chịu bại, chàng nhìn để tìm một chỗ yếu hại nơi mình con Nhân Giao. Sau cùng, chàng nhận ra, cái chỗ yếu hại đó ở nơi nào trên mình Nhân Giao. Lập tức, chàng vung kiếm, đâm vào phía sau đầu con vật.

Nhưng, chừng như con Nhân Giao có mắt nơi lưng, nó biết chàng đâm lén, vội quật đuôi trở lại, hất thanh kiếm của chàng. Hất như vậy, đuôi chạm lưỡi kiếm, đứt thêm một đoạn nữa.

Hiện tại thì trọn phần đuôi còn lại dài không quá hai thước. Với chiếc đuôi ngắn, nó có vẻ gọn và nhanh hơn, không lướt bượt như lúc đầu.

Rồi nó lại vờn vờn quanh Giang Phàm lần thứ ba, nhưng Giang Phàm quá sợ, không còn đứng nguyên một chỗ nữa, nàng quay mình chạy chết.

Nhân Giao bay theo, đuổi sát, tốc độ của nó vượt hẳn Giang Phàm. Ngoài mươi bước, nó đã bắt kịp Giang Phàm.

Nó há miệng phun độc khí, Quan Sơn Nguyệt còn cách nó khá xa, muốn làm gì cũng không kịp nữa.

Như vậy là Giang Phàm cầm chắc cái chết trong tay rồi.

Bỗng, một bóng trắng từ đâu lướt xéo tới, hiện ra ở khoảng giữa, ngăn chặn luồng độc khí đó. Thế là Giang Phàm tạm thời thoát chết.

Nhưng, nàng khỏi nạn, thì bóng trắng đó lại lãnh đủ, thay thế cho nàng, chất độc của con quái vật phun ra, trúng bóng trắng, bóng trắng rơi xuống đất liền.

Bóng trắng chính là con Tiểu Ngọc yêu quí của Giang Phàm. Nó rơi xuống đất rồi, lập tức ngóc đầu lên, phóng mình thẳng vào con Nhân Giao.

Thấy con Tiểu Ngọc xuất hiện, Nhân Giao hú gió một tiếng dài, vang lồng lộng, chứng tỏ nó cao hứng vô cùng. Nó bỏ ngay Giang Phàm, chuyển mình đối diện với con Tiểu Ngọc.

Trước đó, Quan Sơn Nguyệt nghe nói con Nhân Giao rất lợi hại, chàng đã có ý khiếp sợ, song bây giờ, thấy con Tiểu Ngọc ngăn chặn được nó, chịu nổi khí độc của nó, chàng bớt sợ ngay, niềm sợ vơi, thì cam đảm lên theo, chàng cao giọng gọi:

– Khá lắm đó, Tiểu Ngọc! Cố cắn chết con quái vật đó cho ta!

Giang Phàm không chạy đi nữa, chăm chú nhìn con Tiểu Ngọc đang nghinh nghinh con Nhân Giao, đầu cất cao, lưỡi đỏ thè ra, quơ qua quơ lại, miệng rít gió vi vu.

Còn con Nhân Giao thì bò quanh nó, bò đã mấy vòng rồi mà chưa dám xáp vào.

Nhân Giao bò đến đâu, Tiểu Ngọc chuyển mình xoay đầu theo đến đó.

Nghe con Tiểu Ngọc rít gió, Quan Sơn Nguyệt biết là nó liên lạc với Giang Phàm. Chàng bước nhanh đến cạnh Giang Phàm, thấp giọng hỏi:

– Nó nói gì thế?

Giang Phàm rướm lệ, đáp:

– Nó nói là nhờ hấp thụ độc khí của Tử Mẫu Phi Ngô, nó có thể chi trì một lúc, nó bảo chúng ta nhân dịp này thoát chạy đi! Quan đại ca! Làm sao tôi nở bỏ nó lại đây mà chạy đi một mình?

Quan Sơn Nguyệt gấp giọng nói:

– Nó đã bảo thế, thì cô nương cứ đi, nó có cách đối phó với Nhân Giao mà!

Giang Phàm lắc đầu:

– Nó định hy sinh, cứu tôi, chứ có cách gì chế ngự nổi con Nhân Giao đâu?

Nó hy sinh như vậy, bảo tôi bỏ nó mà đi, tôi sao đành lòng? Nếu phải chết, tôi chịu chết tại đây, chết chung với nó!

Chẳng những nàng không chạy đi, nàng còn lướt tới, tấn công Nhân Giao.

Nàng lướt tới đúng lúc con Nhân Giao đã có cơ hội, nó tung mình lộn cao rồi đáp xuống, nhằm bụng Tiểu Ngọc đâm đầu vào.

Biết gặp nguy, Tiểu Ngọc lại thấy Giang Phàm xông tới, sợ nàng lâm nguy, nó không cố đến nó, chỉ lo cho Giang Phàm thôi. Tiểu Ngọc quét đuôi qua, đuôi quấn vào chân Giang Phàm, nó lôi nàng dịch qua một bên, còn nó cũng quăng mình khỏi vị trí cũ tránh được cái vồ của con Nhân Giao.

Chụp hụt con Tiểu Ngọc, Nhân Giao nổi giận, quay sang Giang Phàm liền.

Bỗng, một bóng người lướt tới, chận đầu con Nhân Giao không cho nó vọt đến Giang Phàm.

Nhân Giao bất chấp người đó là ai, há miệng phun khí độc vào người đó ngay.

Người đó ung dung vung tay, từ tay bay ra một lớp tro, mờ mờ ...

Kỳ thay, tro vấy lên mình, con Nhân Giao lập tức dừng lại.

Người đó lại đưa tay về con Nhân Giao, vẫy vẫy:

– Lại đây! Lại đây! Đừng gây thương thế cho người đó!

Mọi người nhìn ra, thì nhận ngay chính là Trương Thanh, với gương mặt âu sầu, Trương Thanh mà Quan Sơn Nguyệt vất vả đi tìm khắp bốn phương trời, Trương Thanh xuất hiện trong cái lúc không ai ngờ cả!

Lưu Ảo Phu hấp tấp kêu lên:

– Trương Thanh! Trương cô nương! Làm sao cô nương đến đây?

Hắn bước tới.

Trương Thanh khoát tay, cao giọng bảo:

– Đứng đâu, cứ ở đó, không được nhích bước, cãi lời ta, ta bảo con Nhân Giao trừng trị ngay.

Nhân Giao nhích nhích thân hình, như sắp sửa vọt đi.

Dĩ nhiên, dù Lưu Ảo Phu có cái mật bằng núi, cũng chẳng dám bước thêm nửa bước.

Hắn không bước, Liễu Y Ảo lại bước. Nàng hỏi:

– Trương tiểu thơ! Tiểu thơ muốn làm gì?

Trương Thanh nhìn qua Liễu Y Ảo, chính sắc mặt, thốt:

– Tôi đến đây từ lâu rồi, gia gia tôi không yên tâm, ngại rằng cô nương có thể lợi dụng con Nhân Giao mà làm những việc trái lẽ phải, người bảo tôi đến đây để tìm cách ngăn chặn cô nương. Quả nhiên sự việc diễn ra không ngoài dự liệu của gia gia tôi.

Liễu Y Ảo hấp tấp phân trần:

– Tôi đâu có làm điều gì trái với lời giao ước? Cái nàng ấy ...

Trương Thanh bình tịnh lạ lùng, khoát tay không cho Liễu Y Ảo nói tiếp, rồi chính nàng cất tiếng:

– Tôi biết rồi! Nàng là vợ của Quan đại ca, vừa rồi họ tuyên bố chánh thức kết hôn với nhau. Tôi đến đây đúng lúc họ long trọng tuyên bố trước mặt mọi người, do đó tôi không xuất hiện gấp, sợ quấy nhiễu họ đang lúc vui. Tôi dừng lại bên ngoài xa xa, theo dõi mọi diễn tiến tại đây. Liễu Tiên Tử ơi, Tiên Tử hành động có phần nào quá đáng đấy, chúng ta đã nguyện là không chạm đến Quan đại ca, thì cũng nên lờ đi cho vị cô nương đó, bởi thương cái mái nhà thì đừng nhìn đến con quạ, thương món đồ thì đừng quan tâm đến con chuột. Chúng ta phải tránh gây thương tâm cho Quan đại ca, chạm vào vợ của đại ca là mình đắc tội đấy.

Liễu Y Ảo biến sắc mặt. Nàng đưa tay ra, chừng như muốn bắt con Nhân Giao lại.

Trương Thanh trầm gương mặt, lạnh lùng tiếp:

– Liễu Tiên Tử, bắt nó lại cũng chẳng làm gì được. Số lượng thuốc của gia gia tôi trao cho Tiên Tử, không bằng số lượng của tôi. Có mặt tôi tại cục trường, là con Nhân Giao không tuân lịnh của Tiên Tử đâu! Nó chỉ tuân lịnh người nào có số lượng thuốc quan trọng hơn.

Liễu Y Ảo lộ vẻ không tin.

Trương Thanh tiếp luôn:

– Gia gia tôi bình sanh hành sự rất chu đáo, suy tính thâm trầm, người không bao giờ giao một con vật quá hung dữ cho cô nương tùy ý mà lợi dụng, thực hiện những mưu đồ đen tối. Tiên Tử nên hiểu như vậy, để tránh những điều đáng tiếc.

Liễu Y Ảo vẫn không tin. Nàng vẫy tay gọi con Nhân Giao mấy lượt, nó không nhúc nhít. Đến lúc đó, nàng mới chịu lùi lại, đứng riêng về một góc. Trong ánh mắt của nàng, niềm oán độc bốc hiện rõ rệt.

Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới bước tới, song bước tới thì bước, chàng chẳng hiểu mình phải nói những gì thích hợp.

Trương Thanh không đợi chàng mở miệng, điểm một nụ cười ảm đạm thốt:

– Mầng cho đại ca đó, có một người vợ rất mỹ miều!

Quan Sơn Nguyệt bối rối:

– Trương Thanh! Thanh muội ... Không hiểu ...

Trương Thanh thở dài:

– Tôi không hiểu! Hiện tại tôi không cần hiểu nữa! Vị tiểu thơ đó nhan sắc hơn tôi, tôi cao hứng mà thấy đại ca tìm được một người vợ rất xứng đáng! Cả hai hợp thành một đôi gái sắc trai tài ...

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Chàng còn nói gì được nữa? Mở miệng phân trần thì bằng chứng đã hiển nhiên, chàng còn viện dẫn lý do gì được? Huống chi, Trương Thanh luôn luôn ngăn chặn, không cho chàng nói gì nhiều!

Trương Thanh đưa cao con Nhân Giao lên, nhìn quanh mọi người một lượt, đoạn hướng qua Quan Sơn Nguyệt, tiếp:

– Quan đại ca, con Nhân Giao ở trong tay tôi, thì đại ca có thể yên trí rồi, bởi tôi sẽ không lợi dụng nó làm điều gì trái đạo nghĩa. Việc giữa đại ca và Tạ Linh Vận, Lưu Ảo Phu tôi không can thiệp vào đâu, còn như Xà Thần thì thực ra lão ta không phải là đại thù đại địch chi đó của đại ca, tôi sẽ tìm cách ngăn chặn lão, đừng gây phiền lụy cho đại ca nữa.

Nàng day qua Xà Thần, bảo:

– Đi theo tôi!

Xà Thần sững sờ, không biết phải đối đáp làm sao.

Trương Thanh đưa cao con Nhân Giao một lần nữa, rồi cao giọng tiếp:

– Tiền bối dám không tuân lời chăng? Tôi sẽ cho tiền bối thấy ngay hậu quả của sự bất tuân đó. Thật ra, thì đi theo tôi, tiền bối sẽ chẳng có gì phải khổ, trái lại còn có lợi hơn. Lúc sửa chữa cho tiền bối có đôi chân như người thường, gia gia tôi còn để lại trong người tiền bối một phần độc dược, không ngoài một tháng, độc dược sẽ phát tác, lúc đó tiền bối sẽ không còn hành động theo ý muốn được nữa. Bây giờ tiền bối nên theo tôi, đến một nơi nào đó an tịnh, tôi sẽ giải trừ chất độc cho tiền bối.

Xà Thần nổi giận:

– Trương Vân Trúc nham hiểm đến thế à?

Trương Thanh thở dài:

– Sự bất đắc dĩ, gia gia tôi mới làm thế đó, tiền bối. Vũ công của tiền bối rất cao, mà tâm tính lại bất thường, nếu không có cái gì khắc chế tiền bối thì trong tương lai còn ai ngăn chặn tiền bối hoành hành chứ? Bây giờ, tôi có con Nhân Giao, nó sẽ là tên giám thị, nó kềm giữ tiền bối trong con đường chánh, theo lịnh của tôi. Có nó rồi, tôi còn sợ gì tiền bối nữa mà cứ để cho tiền bối mất tự do hành động? Thế tiền bối có chịu đi theo tôi hay không?

Xà Thần không đáp, nhưng thái độ của lão chứng minh sự khuất phục rõ ràng.

Trương Thanh day qua Liễu Y Ảo, tiếp:

– Trao thanh Bạch Hồng Kiếm cho Quan đại ca đi, Tiên Tử! Rồi đi theo tôi, ly khai gấp nơi nầy!

Liễu Y Ảo không dám kháng cự, quăng thanh kiếm đến chân Quan Sơn Nguyệt.

Trương Thanh cúi mình nhặt lên, trao cho Quan Sơn Nguyệt, rồi thốt:

– Tôi đi đây, Quan đại ca! Gia gia quyết định trở về Thiên Sơn, tại vùng sa mạc. Ngày sau, khi nào hai vợ chồng có rỗi rảnh, cứ đến đó xem phong cảnh. Hai vị sẽ là thượng khách của cha con tôi!

Nàng bắt buộc Xà Thần và Liễu Y Ảo đi trước, đoạn bước theo sau.

Lưu Ảo Phu định đi theo, nàng cao giọng thốt:

– Ngươi hãm hại ta như vậy, chưa đủ sao, lại còn muốn đeo theo gây phiền phức thêm nữa? Cho ngươi biết, từ nay nên tránh mặt ta, ta gặp lại một lần nữa là ngươi mất mạng đấy!

Lưu Ảo Phu đứng lại.

Quan Sơn Nguyệt định nói gì với nàng, song lại thôi. Chàng vung Bạch Hồng Kiếm, hướng sang Tạ Linh Vận, cất giọng sang sảng:

– Đã đến lúc chúng ta giải quyết vấn đề rồi, Tạ Linh Vận!

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 61

Thương Tổn Thiên Luân

Tạ Linh Vận tợ hồ không tưởng nổi là tình thế biến chuyển như vậy, bây giờ cục diện đã xoay chiều, mang trọn vẹn bất lợi đến cho y, y sững sờ một lúc. Sau cùng, y bật cười, giọng cười vẫn âm trầm như lúc nào. Y thốt:

– Quan Sơn Nguyệt! Ta xem ra ngươi có cái số may, bất cứ gặp cảnh ngộ khó khăn nào cuối cùng cũng trở thành tiền hung hậu kiết! Ta khổ tâm vận dụng cân não, khi bắt tay vào việc thì ngươi lại chiếm tiện nghi! Như thế đó, cái việc giết ngươi, đối với ta không còn là đơn giản nữa rồi!

Lưu Ảo Phu điểm một nụ cười hiểm độc, trầm giọng tiếp:

– Sao lại không đơn giản hở Giáo chủ? Giết con chó đó thì có gì khó khăn đâu, bất quá chúng ta chỉ nhọc đưa bàn tay lên rồi hạ xuống là cái mạng chó của hắn đi đời! Tại Ngũ Đài Sơn dịp may đã đến với chúng ta, Giáo chủ lại bỏ qua, để dẫn dụ đến đây thành ra dây dưa ngày tháng. Nếu đừng dụ hắn vào Thiên Xà Cốc này thì chúng ta đâu lại gặp cái cảnh nghịch liêu?

Tạ Linh Vận cười nhẹ:

– Lưu lão đệ ơi. Nào có phải chúng ta chỉ có mỗi một việc duy nhất là sát tử hắn đâu. Lưu lão đệ còn đoạt hồi đóa hoa mỹ lệ kia nữa chứ. Bởi ngu huynh muốn khuếch trương thinh thế của Thiên Ma Giáo trong tương lai gần đây sẽ tiến đến địa vị bá chủ võ lâm, thì bất cứ hành động nào cũng phải được nghiên cứu kỹ càng, nếu cứ nhắm vào cái lợi ban đầu mà quên nghĩ đến cái hại về sau thì đâu phải là con người cơ trí? Lão đệ thấy khó đó chứ, như cái việc của Xà Thần, ngày nào chưa giải quyết xong là ngày đó chúng ta chưa thể ăn no ngủ kỹ ...

Lưu Ảo Phu căm hận:

– Giáo chủ từng khoa trương là mình có cơ trí hơn người, không làm thì thôi chứ làm thì nắm chắc thành công. Bây giờ sự tình đã như vậy đó, Giáo chủ còn nói gì nữa?

Tạ Linh Vận nhếch cười khổ:

– Dù sự thể biến chuyển như vậy, lão đệ cũng không trách ngu huynh được.

Kế hoạch thì chu đáo lắm, hơn nữa chúng ta thành công được chín phần mười, chỉ vì ngu huynh và lão đệ quá tin nơi Trương Vân Trúc nên cái phần mười còn lại phá hoại chín phần kia, chúng ta cùng lầm mưu lão tặc như nhau, nếu đáng trách thì cả hai chúng ta cùng đáng.

Lưu Ảo Phu cao giọng:

– Thuộc hạ không cần biết gì hết, bây giờ thuộc hạ cầm như đã mất Trương Thanh rồi thì điều duy nhất là phải giết tên cẩu trệ kia!

Tạ Linh Vận hấp tấp phụ họa, nơi khóe miệng ẩn ước có vẻ hiểm độc:

– Phải! Phải! Luận theo sự tình hiện tại thì cái điều đó là điều quan trọng.

Rồi y hỏi:

– Lão đệ có cần ta giúp sức hay không?

Lưu Ảo Phu lắc đầu:

– Cần gì, Giáo chủ! Liệu hắn có tài nghệ gì đáng sợ mà Giáo chủ phải nhọc ra sức? Một mình thuộc hạ cũng hóa kiếp cho hắn được như thường.

Tạ Linh Vận bật cười ha hả:

– Ngu huynh tin tưởng lão đệ thừa sức hạ tiểu tử. Trước kia sở dĩ ngu huynh thất bại là vì vũ khí chứ chẳng phải võ công, hắn có thanh kiếm bén hơn thanh kiếm của ngu huynh, có thế thôi. Bây giờ thì cả hai chúng ta cũng có kiếm báu, hai thanh lợi hại nhất trong năm thanh quái kiếm, thì còn lo gì nữa chứ. Đừng nói là hắn, dù cho bất cứ nhân vật nào dưới gầm trời này cũng không đương cự nổi thanh kiếm của chúng ta. Lão đệ ơi! Luận về thù thì mối thù giữa lão đệ và hắn phải sâu hơn mối thù của ngu huynh, thế thì ngu huynh phải nhường cho lão đệ làm cái việc khoái trá lấy máu hắn.

Lưu Ảo Phu lấy tay xóc xóc thanh Tử Sính Kiếm lại cho thuận thế, đoạn bước tới.

Quan Sơn Nguyệt hét to:

– Ngươi hãy tránh qua một bên gấp, vấn đề của chúng ta sớm muộn gì cũng sẽ có dịp giải quyết, dù giải quyết sớm hay muộn cũng chẳng quan hệ gì.

Huống chi hiện tại ta không muốn cùng ngươi tranh hơn kém. Ta chỉ muốn giết chết ...

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

– Ngươi nói thế chứ theo ta nghĩ thì vấn đề của chúng ta phải được ưu tiên, bởi nó quan trọng hơn tất cả mọi vấn đề.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Lưu Ảo Phu! Giữa chúng ta bất quá chỉ oán riêng, còn như ta giết Tạ Linh Vận là vì công đạo, vì chánh nghĩa võ lâm. Công trước, riêng sau mới hợp lý.

Ngươi ở trong Thiên Ma Giáo tất phải hiểu hành vi của Giáo chủ ngươi như thế nào ...

Lưu Ảo Phu vụt cười lớn:

– Nói nghe hay! Hay quá!

Quan Sơn Nguyệt thấy hắn không chịu nhượng bộ, phẫn nộ vô cùng:

– Ngươi cười à? Ngươi nói thế là có ý tứ gì chứ? Ta mong ngươi thức thời một chút, đừng làm trò cười cho thiên hạ giang hồ!

Lưu Ảo Phu chợt ngưng tràng cười rồi lạnh lùng thốt:

– Ta cười vì ngươi luôn luôn lý luận, ngươi cho rằng mình cao minh lắm, ngươi biết không, cuộc đấu của ta và ngươi gồm cả công lẫn tư! Bởi ta là Phó Giáo chủ Thiên Ma Giáo kia mà!

Quan Sơn Nguyệt thoáng giật mình:

– Thế ra ngươi quyết tâm phục vụ cho Thiên Ma Giáo, chứ chẳng phải vì đối phó với ta mà tạm thời gia nhập cái tà giáo đó?

Lưu Ảo Phu trầm giọng:

– Đối phó với ngươi là một việc, gia nhập Thiên Ma Giáo là việc khác, ngươi đừng tưởng mình lợi hại rồi ta sợ mà phải nương tựa vào người khác. Ta thừa sức hạ ngươi, ngươi cứ tin như vậy đi!

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Thế ngươi vì nguyên nhân nào mà gia nhập Thiên Ma Giáo?

Lưu Ảo Phu bật cười ha hả:

– Sự nghiệp! Ngươi biết, con người sanh giữa trần gian ai ai cũng phải tạo thành một sự nghiệp, không lớn thì nhỏ, nhất định phải có một sự nghiệp để khỏi mãi mai một cái kiếp sống. Kiếm thuật của phụ thân ta có thể bảo là cái thế, là vô song, nhưng từ lâu giang hồ không ai biết đến, thành thử lúc chết đi phụ thân ta không được người đời nhắc nhở, thiết tha. Hơn thế, hoài bão một kiếm phi thường lại chết một cách hồ đồ, thì khi nào người ngậm cười được nơi âm cảnh? Ta, phận làm con, ta phải giải tỏa niềm hận đó cho đấng sanh thành, ta phải tạo nên một sự nghiệp cho người đời biết họ Lưu có một kiếm thuật tuyệt vời, võ lâm hậu thế sẽ tôn sùng, ngưỡng mộ và con đường lập nghiệp của ta phải đi ngang qua Thiên Ma Giáo.

Quan Sơn Nguyệt hét:

– Vô lý! Lập nghiệp có thiếu chi phương tiện, nơi nào cũng chẳng lập nghiệp được? Hà tất phải tựa mình vào bọn tà gian?

Lưu Ảo Phu vẫn cười vang:

– Ngươi cho thiên hạ là tà, thế ngươi là chánh à?

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Ít nhất ta cũng chẳng làm một điều gì mà lương tâm có thể trách cứ ta!

Lưu Ảo Phu trầm gương mặt:

– Ngươi nói đúng, ngươi xuất đạo trước ta, ngươi lại gặp nhiều may mắn hơn ta, thành ra bao nhiêu việc tốt trên đời đều bị ngươi giành mà làm hết. Giả như ta đi theo con đường chánh thì làm gì ta bắt kịp ngươi? Đâu còn việc gì cho ta làm?

Dù ta cố gắng như thế nào cũng chẳng đưa đến cái mức thành tựu ngang với những kết quả mà ngươi thu hoạch. Nếu ta tạo được thanh danh thì cái thanh danh đó đương nhiên phải lu mờ bên cạnh ngươi!

Quan Sơn Nguyệt vội cãi:

– Lập thân, xử thế, nào phải chỉ cầu danh ...

Lưu Ảo Phu cười lạnh:

– Đó chỉ là ý tưởng riêng biệt của ngươi thôi, nó không biểu hiệu được hoài bão của đại chúng. Phụ thân ta chết tức vì phụ thân ngươi, thì bằng mọi giá ta không để cho ngươi tái diễn cái trò đê hèn của phụ thân ngươi ngày trước. Ta phải nghĩ kế tự tồn, ta phải làm sao cho linh hồn phụ thân ta được thỏa mãn nơi âm cảnh.

Quan Sơn Nguyệt biến sắc:

– Đó cũng là một lý do của ngươi?

Lưu Ảo Phu bĩu môi:

– Một trong số trăm ngàn lý do khác, Quan Sơn Nguyệt ạ. Có điều cái lý do đó ta có thể nói ra, còn bao nhiêu lý do khác thì ta phải giữ kín. Hoặc giả ta không thể mô tả, giả thích bằng lời. Đại khái ta có thể nói với ngươi thế này, ta đã bắt đầu hận ngươi từ lúc ngươi chưa đến Đại Ba Sơn. Rồi sau lần gặp ngươi, ta liệt ngươi vào hạng đệ nhất cừu nhân, một cừu nhân mà ta phải dành sự ưu tiên thanh toán. Do đó ta luôn luôn chống đối ngươi, bất cứ trong trường hợp nào, ở tại địa phương nào.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Ít nhất, cũng có lý do khiến ngươi hận ta chứ? Nhưng tại sao người chưa biết nhau lại có một người hận người kia? Ta rất kỳ quái về điểm đó!

Lưu Ảo Phu cao giọng:

– Muốn biết gì hơn thì cứ về mà hỏi mẹ ngươi! Bà ta sẽ giải thích cho ngươi hiểu.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Mẹ ta chứ chẳng phải mẹ ngươi?

Chàng dịu lại liền, nói tiếp:

– Mà thôi, ta chẳng chỉnh ngươi làm gì. Ngươi bảo ta hỏi mẹ ta, mẹ ta có liên quan gì trong vụ này?

Lưu Ảo Phu âm trầm:

– Liên quan chứ! Mà lại liên quan trọng đại! Trước khi ngươi đến, bà ta cứ mơ mơ tưởng tưởng đến đứa con thất lạc. Bà ấy cứ tưởng là ta chẳng biết gì. Thực ra, Phi Tràng đã tường thuật sự việc ngày trước cho ta nghe rồi. Chính từ ngày ta biết được Trương Thanh xuất hiện thì niềm hận của ta kể như vô biên rồi, ta với ngươi trở thành hai kẻ khó đội chung trời ...

Quan Sơn Nguyệt sững sờ.

Lưu Ảo Phu căm hận tiếp:

– Các ngươi luôn luôn chiếm ưu thế, xưa kia thì phụ thân ta nhẫn nhục hàm oan, phải chiều theo cảnh mà cầu toàn, dù người hết sức hạ mình, mẹ ngươi cũng không hồi tâm mà nối lại khúc đàn xưa đúng điệu. Phụ thân ta chết, niềm đau chưa vơi được mảy may. Giờ đến lượt ta! Mẹ ngươi cũng chỉ thiết tha đến mỗi một mình ngươi! Ngươi chưa xuất hiện bà ấy còn phũ phàng ta, huống hồ ngươi xuất hiện rồi, ta muốn là cái bóng bên cạnh bà chưa chắc gì bà chấp nhận cái bóng đó, chứ đừng nói là mẹ con anh em đoàn tụ một nhà. Sau cùng là Trương Thanh cũng luôn luôn hướng tâm tư về ngươi, nàng chẳng xem ta như cái bóng mờ, nói chi đến cái việc nàng dành cho ta một chút cảm tình? Ngươi! Tất cả đều do ngươi! Ngoài đời ngươi chiếm hết tiện nghi, trong gia đình ngươi chiếm hết tình cảm. Chung quy kẻ bất hạnh là cha con ta, là dòng họ Lưu này!

Hắn rít lên:

– Quan Sơn Nguyệt ơi! Có đáng cho ta hận không chứ?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Ngươi lầm! Lầm to, Lưu Ảo Phu!

Lưu Ảo Phu cao giọng:

– Lầm thế nào được? Ta nói sự thật, ta lập luận trên căn bản của sự việc, ta không hề đặt một giả thuyết nào. Ngươi muốn ta ly khai Thiên Ma Giáo hay không? Nếu muốn thì ngươi cứ gia nhập Thiên Ma Giáo, bởi nơi nào có mặt ngươi là nơi đó nhất định chẳng có mặt ta. Luôn luôn ta đứng về phía chống đối với ngươi! Ta biết Thiên Ma Giáo là một tà giáo, ta biết Tạ Linh Vận là một ác nhân, nhưng ta không cần suy nghĩ, cứ khẳng khái theo ngay, bởi Tạ Linh Vận là kẻ thù của ngươi, bởi ngươi chống đối Thiên Ma Giáo. Ta không ngần ngại quật mộ cha lấy kiếm trao cho Tạ Linh Vận!

Hắn gằn giọng:

– Ngươi biết tại sao quật mồ lấy kiếm trao cho Tạ Linh Vận chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Ta không biết được! Ta chỉ biết là ngươi điên, hành động như kẻ điên ...

Lưu Ảo Phu bật cười ghê rợn:

– Có thể là như vậy đó, Quan Sơn Nguyệt! Ngươi bức ta điên, ngươi dồn ta vào cảnh điên. Phàm cừu địch của ngươi là bằng hữu của ta, phàm cái gì của ngươi là cái phản ngược lại của ta. Ngươi không xa dời chánh thì ta nhít lại gần tà.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, đoạn chỉnh nghiêm sắc mặt thốt:

– Lưu Ảo Phu! Ta không có lời gì để nói với ngươi nữa. Trước kia, ta có hứa với mẹ là dung tha cho ngươi sống sót, song bây giờ ta nghĩ lại thì ta sẽ van cầu mẹ tha thứ cho ngươi ...

Lưu Ảo Phu bật cười sang sảng:

– Ngươi khỏi phải van cầu bà ấy, bà đã có rất nhiều người quanh bà thì bà cần gì có thêm nữa đâu? Trước sau bà chỉ xem mỗi một mình ngươi là con. Ngoài ngươi ra còn có Vạn Tân Nguyệt, dù lão ấy có chết rồi, lão vẫn là người mà bà chấp nhận như một phần tử trong gia đình ...

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Thế ngươi chẳng phải là người trong gia đình sao?

Lưu Ảo Phu cười mỉa:

– Ta đã nói với ngươi nhiều lần lắm rồi, ta còn kém xa một bóng mờ bên cạnh bà. Bà đâu cần một cái bóng trong gia đình bà?

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Vậy ngươi là ai?

Lưu Ảo Phu nghiến răng:

– Ta là con của phụ thân ta, ta là giọt máu mà phụ thân ta để lại trên đời này để báo thù cho người. Cho ngươi biết, đối tượng thứ nhất của ta là ngươi đó, giết xong ngươi rồi ta sẽ hướng về đối tượng thứ hai.

Quan Sơn Nguyệt lại hừ một tiếng lớn hơn:

– Đối tượng thứ hai là ai?

Lưu Ảo Phu buông gọn:

– Mẹ ngươi!

Quan Sơn Nguyệt quát vang:

– Vô nhân đạo! Mẹ ta không phải là mẹ ngươi à?

Lưu Ảo Phu thở ra:

– Không phải đâu. Lưu Ảo Phu không có mẹ. Lưu Dật Phu không có vợ.

Phụ thân ta không hề dặn dò ta phải nhẹ tay đối với bà, thì ta cần gì phải dụng tình mà đối xử với bà. Vả lại, tình gì mới được chứ?

Quan Sơn Nguyệt tức uất vô cùng. Chàng vung kiếm lướt tới đâm mạnh vào ngực Lưu Ảo Phu.

Lưu Ảo Phu vận toàn công lực vung kiếm nghinh đón, một tiếng chạm vang lên nghe rợn người. Quan Sơn Nguyệt bị chấn dội hai bước, thanh Bạch Hồng kiếm sứt mẻ một mảnh nhỏ bằng hạt đậu.

Giang Phàm tiến lên trao thanh Hoàng Diệp kiếm cho chàng:

– Lấy kiếm này mà dùng, đại ca.

Lưu Ảo Phu cười lớn:

– Kiếm đó cũng chẳng làm nên được việc gì, trong năm thanh kiếm, Tử Sính là trên hết. Hoàng Diệp không hơn chi Bạch Hồng đâu.

Quan Sơn Nguyệt cắn răng, không thay kiếm, cứ cầm thanh Bạch Hồng chuẩn bị đánh ra một chiêu tối độc trong «Phục Ma Kiếm Pháp» có tên là «Bạch Hồng Quán Nhật».

Bỗng hai bóng người từ bên trong vọt ra. Hai người đó là Lý Trại Hồng và Nguyệt Hoa Phu Nhân.

Gương mặt Nguyệt Hoa Phu Nhân biến sắc xanh dờn, bước đến sát Giang Phàm trầm giọng bảo:

– Giang cô nương trao thanh kiếm cho già.

Giang Phàm sững sờ.

Nguyệt Hoa Phu Nhân không chờ được lâu, lập tức vươn tay chụp lấy kiếm nơi nàng.

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, vội bước tới gọi gấp:

– Mẹ! Làm sao mẹ đến đây ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân không lưu ý đến chàng, quắc mắt sáng ngời nhìn Lưu Ảo Phu.

Lý Trại Hồng cũng tiến lên thốt:

– Phu nhân không yên tâm vì công tử, nên bảo bọn Cầm Khiêu về trước Đại Ba Sơn còn bà và tôi thì kiêm trình đến nơi này tiếp ứng công tử.

Nàng hỏi luôn:

– Tình hình như thế nào?

Quan Sơn Nguyệt không đáp lời nàng, hướng sang Nguyệt Hoa Phu Nhân tha thiết:

– Mẹ để con ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

– Không cần! Mẹ muốn chính tay hạ sát nghịch tử.

Quan Sơn Nguyệt toan lướt tới chận trước mặt bà, ngăn bà tấn công.

Nguyệt Hoa Phu Nhân hét:

– Nguyệt nhi! Con không nghe lời mẹ à?

Mặt bà nghiêm lạnh quá chừng, Quan Sơn Nguyệt không dám trái ý bà nữa, đành lui lại đứng một bên.

Lưu Ảo Phu thấy Nguyệt Hoa Phu Nhân bước tới hắn lại lùi, lùi đúng ba bước.

Nguyệt Hoa Phu Nhân cao giọng:

– Ngươi không muốn giết ta sao? Tại sao ngươi không dám động thủ?

Lưu Ảo Phu nhìn bà, ánh mắt của hắn ngời niềm hung bạo. Hắn rít lên:

– Bà đừng vội chết, cứ đợi tôi giết Quan Sơn Nguyệt xong, sau đó tôi sẽ tính toán đến bà. Bà sống thêm mấy phút nữa lại chẳng được sao? Thật là tôi hối hận đã lỡ nhờ đến bà sanh ra trên cõi đời này, bà đừng bức tôi hạ thủ sớm!

Nguyệt Hoa Phu Nhân hét lên:

– Tại sao ta không bóp nghẹt mũi ngươi lúc sanh ra ngươi, để bây giờ lại phải giết ngươi!

Lưu Ảo Phu cũng cao giọng không kém:

– Bây giờ có hối cũng muộn rồi bà ơi!

Hắn tiến lên, thanh kiếm khoa trước mặt một vòng tạo thành một vầng tử quang, vầng tử quang đó bay qua Nguyệt Hoa Phu Nhân, xoáy mình trên đầu bà, hớt băng búi tóc vấn cao của bà. Vầng tử quang bay trở về, búi tóc đó cũng rơi xuống đất. Lưu Ảo Phu cười lớn:

– Bà thấy chưa? Phụ thân tôi để lại cho tôi ba chiêu kiếm, tôi có thể gọi là báo hận kiếm pháp, chỉ có kiếm pháp đó tôi mới phát huy oai lực của thanh Tử Sính này. Chiêu thứ nhất, chém tóc bay khỏi đầu, xuất phát chiêu đó là tôi đáp lại cái ân tình của bà dành cho tôi từ bao năm tháng qua, mặc dù ân tình đó chẳng có bao nhiêu! Tôi cũng phải nhớ ít ra bà có mang nặng đẻ đau, nên tôi nhường cho bà một lần!

Rồi hắn vung tay, lần này hắn chém đứt một mảnh áo của Nguyệt Hoa Phu Nhân. Hắn tiếp:

– Chiêu thứ hai, chém áo thay người, đó là tôi đáp lại cái công dưỡng dục, công ân tôi đáp đủ, giữa tôi và bà cầm như dứt hẳn rồi đó bà nhé. Chiêu thứ ba mới đúng là chiêu Báo Hận, chiêu ôm cái hận nghìn đời, nó phải nặng nề và ác độc, bà ghi nhớ cho! Chiêu Báo Hận sẽ giải tỏa mối trường hận bà ơi!

Nguyệt Hoa Phu Nhân như điên tiết, vọt lên, Hoàng Diệp kiếm chớp sáng, kiếm quang tỏa rộng lấp lánh như ngàn lá rung rinh. Kiếm quang cuốn tới bao quanh Lưu Ảo Phu.

Mọi người tại cục trường đều bị tình thế thu hút mất tâm thần, không ai lưu ý đến Tạ Linh Vận. Y thừa dịp đó len lén rút lui ẩn mình.

Rồi tiếng kiếm vang lên, Lưu Ảo Phu đã phản công.

Thật là khốc liệt! Một cuộc chiến hãi hùng vì hai mẹ con đều lợi hại, và hy hữu vì một cuộc chiến hãi giữa hai mẹ con!

Song phương tương trì với nhau một lúc. Nguyệt Hoa Phu Nhân luôn luôn tiến công, song không làm sao đánh thủng bức tường tử quang của Lưu Ảo Phu.

Mà Lưu Ảo Phu cũng chưa xuất phát chiêu thứ ba như hắn đã cảnh cáo, hắn chỉ lo phòng thủ quanh mình.

Hắn chưa muốn xuất phát chiêu đó, hay kiếm quang của Nguyệt Hoa Phu Nhân dồn ép sát quá hắn không thi thố gì được?

Quan Sơn Nguyệt nôn nóng, không thể đứng bên ngoài nhìn mãi, hú lên một tiếng lớn, vung kiếm theo thế Bạch Hồng Quán Nhật đánh vào.

Vầng tử quang đột nhiên mở rộng như cơn bão quét dài, thoạt tiên quét tạt vầng hồng quang của Nguyệt Hoa Phu Nhân, sau đó mới cuốn về vầng bạch quang.

Một tiếng xoảng vang lên, thanh Bạch Hồng của Quan Sơn Nguyệt bị tiện đôi, chỉ còn một đoạn ngắn trong tay chàng.

Chàng bị chấn động khỏi vị trí ngoài nửa trượng.

Búi tóc trên cao bị Tử Sinh kiếm tiện lìa, phần tóc còn lại bung xòe ra, Nguyệt Hoa Phu Nhân có vẻ xác xơ vô cùng, bà đứng nguyên tại chỗ bất động.

Thanh Hoàng Diệp kiếm vẫn còn nơi tay, tay bà hạ thấp xuống gần như buông thõng, mũi kiếm dí sát mặt đất. Máu chảy từ vết thương nơi hông, máu đẫm ướt phần dưới y phục theo chân loang ra đất đọng thành vũng.

Lưu Ảo Phu lăm lăm thanh Tử Sinh kiếm trong tay, gương mặt hắn có phần nào dịu lại. Hắn như mơ màng, như se thắt, nửa còn ở thực tại, nửa mông lung.

Là con người, tự nhiên hắn phải có cái tâm, cái tâm đó dù sao thì cũng chưa chết khi con người chưa chết. Bất quá cái tâm đóng kín lại, không chịu tiếp nhận những thứ cảm tình gây xót xa cho hắn. Hắn đóng kín con tim trước tình mẫu tử, hắn hận mẹ, nhưng hắn có thể tự tay giết mẹ chăng?

Thú vật cũng chưa vô luân như thế, thì hắn không nao nao lòng sao được khi hắn vung kiếm chém bay tóc mẹ, chém đứt áo mẹ, rồi lại khơi chảy dòng máu mà hắn chính là một giọt của dòng máu đó? Nhưng hắn mơ màng như vậy được bao lâu? Hắn có hối hận chăng?

Chỉ biết là hiện tại hắn không lướt lên giết mẹ luôn, như hắn đã tuyên bố.

Giang Phàm biến sắc mặt xanh dờn, nàng giận hơn là kinh hãi. Sống trong Thiên Xà Cốc, nàng hầu như chẳng mảy may ý thức về nhân tình, nhưng quanh nàng còn có loài vật, và loài vật vẫn quấn quít mẹ con. Thì nàng cũng hiểu sự liên quan giữa mẹ và con phần nào chứ. Cho nên hành động của Lưu Ảo Phu làm nàng sôi giận. Nàng hét to:

– Tiểu Ngọc đâu? Cắn chết tên súc vật kia cho ta!

Tiểu Ngọc nhích động thân hình ngay. Nó vừa vọt tới, Lưu Ảo Phu đã đề phòng trước, vung kiếm quét ngang liền.

Tiểu Ngọc lạng mình qua một bên, thun lại rồi phóng tới định ngoạm nơi cổ tay hắn.

Trong khi đó Quan Sơn Nguyệt cũng vung kiếm đánh vào. Nhưng chàng thay đổi ý kiến ngay, thay vì chém vào đầu Lưu Ảo Phu chàng lại chặt xuống cánh tay cầm kiếm của hắn. Bởi chàng thấy con Tiểu Ngọc đã ngoạm trúng cổ tay hắn, và chỉ trong giây phút thôi nếu chất độc ngấm vào người hắn thì hắn phải chết, do đó chàng chặt đứt cánh tay hắn để ngăn chận chất độc truyền vào.

Cánh tay đứt, kiếm rơi, Quan Sơn Nguyệt nhặt thanh Tử Sính kiếm trao qua tay kia cho Lưu Ảo Phu, rồi bảo:

– Ngươi đi đi! Sở dĩ ta chặt đứt cánh tay ngươi là để ngăn ngừa chất độc của rắn, chứ ta không có ác ý với ngươi đâu dù ngươi đã táng tận thiên lương rồi.

Chàng tiếp luôn:

– Ngươi cứ đi chữa trị vết thương, khi nào lành rồi ngươi cứ tìm ta, mình sẽ giải quyết vấn đề.

Lưu Ảo Phu trừng mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt một phút, rồi đưa tay còn lại tiếp nhận thanh kiếm, không nói một tiếng nào quay mình bước đi.

Giang Phàm giật mình, hỏi gấp:

– Sao đại ca làm thế? Tại sao lại cứu hắn? Đã cứu rồi lại còn phóng thích hắn nữa?

Quan Sơn Nguyệt không đáp lời nàng, bước đến bên Nguyệt Hoa Phu Nhân, thốt qua nghẹn ngào:

– Mẹ! Con ...

Máu vẫn còn chảy mạnh từ vết thương xuống đất, nhưng chừng như phu nhân không nghe đau đớn gì cả. Cái xác của bà còn đó mà hồn bà đã hướng về đâu đâu.

Nghe Quan Sơn Nguyệt gọi, bà bừng tỉnh lại quay nhìn chàng, đưa tay xoa trên đầu chàng, dịu giọng thốt:

– Con! Mẹ đâu có trách con. Ảo Phu dù sao cũng còn một điểm nhân tánh, mẹ muốn con từ nay tha thứ cho nó luôn.

Bà đứng đó, Quan Sơn Nguyệt quỳ xuống mặt đất, chàng nép đầu vào gối của bà, bật khóc.

Nguyệt Hoa Phu Nhân tiếp:

– Con! Hứa với mẹ đi con! Vĩnh viễn tha thứ cho Ảo Phu. Làm như mẹ vậy con nhé.

Quan Sơn Nguyệt ngẩng mặt lên nhìn mẹ qua màn lệ:

– Con xin hứa với mẹ.

Nguyệt Hoa Phu Nhân điểm một nụ cười, nụ cười của bà là đóa hoa nở mùa Đông. Bà tiếp luôn:

– Bản tính của Ảo Phu cũng thiện lương lắm, chỉ vì nó bị ảnh hưởng của cha nó, chỉ vì Phi Tràng đã sớm cho nó những ý tưởng đen tối ngay từ lúc nó còn nhỏ.

Chả trách tâm tính của nó lệch lạc ít nhiều. Con không nên hận cá nhân nó, mà phải hiểu tận ngọn nguồn, khoan dung cho nó. Nó ...

Bà chao chao người, sức bà kiệt quệ quá, song bà cố gượng đứng vững, thở mệt mấy hơi, đoạn tiếp:

– Chẳng những con dung thứ cho nó, mà con còn phải phù trì, phải dìu dắt làm sao cho nó đi vào con đường trở thành một chánh nhân. Tuyệt đối ngăn chận nó hiệp đoàn với bọn bại hoại.

Bây giờ bà đuối sức lắm rồi, không còn gượng được nữa, phải ngã xuống.

Quan Sơn Nguyệt sẵn kề cận đó, chàng đưa tay đỡ bà.

Bà bảo:

– Rút đoạn kiếm gãy nơi hông mẹ ra đi con!

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Không được đâu mẹ, cứ để đó không đến nỗi nào nguy đến tánh mạng.

Thương thế của mẹ còn cứu chữa được mà ...

Nguyệt Hoa Phu Nhân lắc đầu:

– Không hy vọng đâu con! Đoạn kiếm đâm rất chuẩn, cắt đứt mạch máu của mẹ. Vết thương thì chữa được, song mạch máu đứt, mẹ cũng chết như thường.

Con cứ rút ra đi. Mẹ cần nói với con mấy câu cuối cùng.

Bà bảo thế chứ Quan Sơn Nguyệt nỡ nào làm y theo lời bà.

Chàng không dám làm thì bà làm. Bà đưa hai ngón tay, cố vận tàn lực kẹp đoạn kiếm dài độ nửa thước, giật mạnh. Đoạn kiếm theo tay bà vừa ra khỏi vết thương thì máu cũng vọt theo. Máu chảy như xối. Bà lại đưa tay án nơi vết thương ngăn chận bớt máu chảy, tay kia bà cầm đoạn kiếm trao cho Quan Sơn Nguyệt, rồi thốt:

– Cầm lấy, con. Khi nào Lưu Ảo Phu trở lại tìm con, hay con đi tìm nó, con nhìn đoạn kiếm mà nhớ đến mẹ, mẹ chết trong trường hợp nào, trước khi chết mẹ nói gì với con.

Bây giờ máu đã lên đến miệng bà, bà phun ra mấy búng.

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp ôm bà, giữ chắc trong vòng tay, chàng bật khóc lớn trong khi bà từ từ tán thất tri giác, bàn tay bà lỏng lẻo, đoạn kiếm gãy rơi xuống đất.

Đứng bên ngoài, Lý Trại Hồng, Giang Phàm, và Linh Cô thẫn thờ, cảnh tượng trước mắt làm cho họ đau buồn đến lặng người như chết.

Nguyệt Hoa Phu Nhân chết! Bà không chết vì thanh Tử Sinh kiếm mà lại chết vì đoạn kiếm gãy của thanh Bạch Hồng kiếm, thanh kiếm của Quan Sơn Nguyệt! Thế là nghĩa làm sao?

Họ đau buồn vì cảnh nồi da xáo thịt mẫu tử tương tàn, nhưng họ không khỏi hoang mang vì nguyên nhân cái chết của phu nhân. Không ai hiểu tại sao đoạn kiếm gãy đó lại đâm vào hông phu nhân. Dù họ hiện diện tại cục trường theo dõi cuộc chiến giữa một mẹ hai con, họ cũng chẳng nhận thức kịp, bởi người trong cuộc động tác quá nhanh.

Tiếng khóc của Quan Sơn Nguyệt làm cho cả ba nàng càng thương tâm hơn.

Một lúc sau, Linh Cô từ từ bước tới, nắm cánh tay chàng khuyên:

– Không nên quá bi lụy, công tử, có khóc lắm sự việc cũng đã rồi. Khóc không làm sống lại được người chết. Người sống còn phải giữ gìn sức khỏe để làm những việc mà người chết chưa làm xong. Điều cần hơn hết hiện tại là mai táng thi hài phu nhân ...

Lý Trại Hồng cũng bước tới, nối lời:

– Quan công tử hãy giao di thể của lịnh đường cho tôi, tôi cũng đau buồn như công tử trước cái chết của phu nhân, công tử chỉ mất mẹ, còn tôi ...

Đang bi thương cực độ, nghe Lý Trại Hồng nói thế Quan Sơn Nguyệt cũng phải giật mình.

Chàng chưa hỏi gì, Lý Trại Hồng lại tiếp:

– Chắc công tử không hiểu rõ tôi định nói gì. Tôi cần giải thích cho công tử biết. Tôi, là ngoại nhân, không thể sánh với công tử được là người thân của phu nhân, trên phương diện cảm tình công tử là người thiết cận của phu nhân. Nhưng công tử ơi, phu nhân là mẹ của công tử, mất phu nhân công tử mất một người mẹ.

Mà mất một người mẹ, dù sự ly cách đó có thê thảm đến đâu chung quy rồi công tử cũng nguôi ngoai, công tử vẫn sống được. Chứ còn tôi, mất phu nhân là tôi mất hẳn chỗ nương tựa, một con người mất chỗ nương tựa có khác nào sống gượng mà chết trong khi còn phải tại dựng một sự nghiệp gì. Thì cái ảnh hưởng gây nên do cái chết của phu nhân rất nặng đối với tôi. Bởi thế tôi mới dám nói rằng người thương tâm nhất về sự ra đi của phu nhân chính là tôi vậy!

Quan Sơn Nguyệt ngây người ra, chừng như chàng chưa được hiểu rõ lắm.

Lý Trại Hồng tiếp:

– Công tử biết không, Long Hoa Hội là nơi tôi nương tựa, tôi an vui ngày tháng trong sự ấp ủ ấm dịu của Lâm sư tỷ. Từ sau ngày Long Hoa Hội vỡ tan, ly khai Thần Nữ Phong tôi như cánh bèo trôi giạt mặc cho gió đùa sống cuốn, đã là cánh bèo thì còn mong gì có bến đỗ? May thay tôi gặp lịnh đường, lịnh đường đối xử với tôi hết sức tốt đẹp, người không quảng mình thuộc hàng tiền bối xem tôi như một tiểu muội, tận tâm chiếu cố đến tôi. Người còn ước hẹn với tôi là sau khi giông tố qua rồi, giang hồ bình tịnh trở lại, người và tôi sẽ sống chung dưới một mái nhà. Ngờ đâu, bỗng dưng phu nhân lại tiếp nhận một kết cuộc bi thảm như thế này! Phu nhân chết, an thân cho phu nhân. Cái mộng đơn giản của tôi và phu nhân cuối cùng cũng vẫn là mộng, dù bất cứ ai cũng có thể thực hiện cái mộng đó!

Quan Sơn Nguyệt khích động vô cùng.

Hướng qua Lý Trại Hồng, chàng quỳ xuống cung kính thốt:

– Lý Tiên Tử! Dù sao Tiên Tử cũng là bậc trưởng thượng của tại hạ, giả dĩ Tiên Tử cùng mẫu thân tại hạ kết tình hữu nghị rất thâm hậu, tuy nay mẫu thân tại hạ quá cố, song còn tại hạ đây. Tại hạ xin nhìn nhận Tiên Tử là dì và sẵn sàng ...

So với số tuổi, chàng gọi như vậy cũng quá đáng phần nào, song lời tục thường nói «nhất tuế vi huynh tam tuế vi thúc», huống chi nàng hơn chàng nhiều tuổi. Vả lại, phàm là dì thì chưa hẳn là cần phải có tuổi suýt soát với mẹ người cháu, thì giờ đây chàng nhìn nhận nàng là dì cũng hợp lý, cái phần quá đáng đó có thể chăm chước được như thường.

Chàng không buông dứt câu, Lý Trại Hồng cũng hiểu được chàng muốn nói gì. Lý Trại Hồng tiếp nhận di hài của Nguyệt Hoa Phu Nhân từ tay Quan Sơn Nguyệt trao qua, sau đó nàng nắm tay chàng kéo chàng đứng lên, đoạn thở dài đáp:

– Tôi cao hứng lắm, công tử. Có một người thân như công tử thì cái nguyện bình sanh của tôi cũng được thỏa lắm rồi. Nhưng nếu công tử nhận là cháu thì tôi e không ổn lắm. Bởi tôi toan nói với công tử một chuyện rất khó khăn ... tôi sợ rằng dù công tử có hảo ý đến đâu cũng không thể đáp ứng.

Quan Sơn Nguyệt hỏi gấp:

– Việc chi, Tiên Tử?

Lý Trại Hồng trầm ngâm một chút, rồi tiếp:

– Tôi với lịnh đường từng thuận khẩu nhận nhau là tỷ muội. Trong chuyến đi này, chừng như lịnh đường dự liệu là mình không còn thọ được bao lâu nữa cho nên ủy thác mọi hậu sự cho tôi. Nếu bà chết đi thì tôi thay bà lo liệu những việc đó. Chẳng những bà ủy thác việc tâm tình, bà còn giao phó cho tôi chiếu quản năm người đệ tử còn lại đó, chắc công tử cũng biết năm vị thị giả tại Đại Ba Sơn chứ ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Điều đó có đáng ngại gì đâu mà Tiên Tử phải thắc mắc? Tại hạ sẽ nói cho năm người đó biết, họ sẽ tuân phục Tiên Tử như tuân phục mẫu thân tôi ngày trước.

Lý Trại Hồng lại lắc đầu:

– Vấn đề không phải như vậy, bởi các vị đó đã hiểu rồi. Chính lịnh đường gọi họ đến trước mặt tôi bày tỏ cái ý của bà cho họ rõ.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Thế thì việc gì?

Lý Trại Hồng nghiêm sắc mặt:

– Cái điều gây thắc mắc cho tôi là nguyên nhân cái chết của phu nhân. Tôi xin hỏi công tử, tại sao phu nhân chết?

Quan Sơn Nguyệt đã ngưng khóc một lúc, nghe Lý Trại Hồng nhắc đến cái chết của mẹ, chàng bật khóc trở lại. Chàng chưa đáp, lại hỏi ngược:

– Tại sao Tiên Tử muốn biết nguyên nhân đó?

Lý Trại Hồng vẫn giữ vẻ nghiêm nghị:

– Bởi, đó là một điều rất trọng yếu, tôi sẽ bằng vào nguyên nhân đó mà giải quyết hậu sự của phu nhân. Trước khi đến đây, phu nhân có nêu ra hai cách giải quyết hậu sự của bà và hai cách đó tùy thuộc vào nguyên nhân cái chết của bà.

Cho nên tôi cần phải biết để chọn cách thích hợp.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Rất có thể mẫu thân tại hạ chết nơi tay tại hạ mà cũng có thể do Lưu Ảo Phu.

Lý Trại Hồng cau mày:

– Nhưng ai mới được chứ? Chẳng lẽ cả hai cùng giết?

Quan Sơn Nguyệt nức nở:

– Tại hạ ... Tự nhiên là tại hạ ...

Lý Trại Hồng biến sắc mặt.

Quan Sơn Nguyệt lại tiếp:

– Chiêu thứ ba của Lưu Ảo Phu quả thật vô song trên đời, nhưng đánh nhau với mẫu thân tại hạ, hắn không khứng sử dụng. Mãi đến khi tại hạ tham gia cuộc chiến hắn mới mang ra thi thố. Cái ý của hắn là dùng để đối phó với tại hạ, chứ không phải để hạ mẫu thân tại hạ. Vì bà biết đó là một chiêu lợi hại nên lướt tới hứng lấy, đồng thời ngăn chận tại hạ. Kết quả ...

Lý Trại Hồng lắc đầu:

– Chính thanh kiếm của công tử đâm vào người phu nhân?

Quan Sơn Nguyệt khóc:

– Phải. Lưu Ảo Phu thâm độc lắm! Thay vì sử dụng luôn chiêu thức đó, hắn rút kiếm về, trong khi tại hạ lỡ bộ phải đâm luôn. Chẳng những thế, hắn hoành thân qua một bên vung Tử Sính kiếm chặt xuống, thanh Bạch Hồng đứt làm hai đoạn, đoạn trong tại hạ thu về kịp, còn đoạn ngoài bay đi luôn. Lúc đó mẫu thân tại hạ đã đứng giữa song phương rồi. Đoạn kiếm bên ngoài vút đi trọn đà ...

Lý Trại Hồng rung người:

– Và đâm luôn vào hông phu nhân!

Quan Sơn Nguyệt cuối đầu không đáp.

Lý Trại Hồng khích động mãnh liệt, một lúc lâu, nàng buông miệng thở dài, kêu lên:

– Khó! Thế là khó quá! Ta biết làm sao đây?

Quan Sơn Nguyệt ngẩng mặt:

– Mẫu thân tại hạ ủy thác cho Tiên Tử như thế nào?

Lý Trại Hồng trầm ngâm một lúc lâu:

– Phu nhân tiên liệu thế nào cũng phải chết nơi tay con bà. Nhưng bà không nghĩ là chết nơi tay công tử. Bà đinh ninh là chỉ có Lưu Ảo Phu mới nỡ hạ độc thủ với bà.

Linh Cô chen vào:

– Công bằng mà nói, nếu cần trách là nên trách Lưu Ảo Phu. Nếu hắn không động thủ với phu nhân thì sự tình đâu có phát sanh được? Quan công tử chỉ ...

Lý Trại Hồng khoát tay:

– Cả hai đều không đáng trách, chỉ đáng trách ý trời thôi. Bây giờ hãy nói đến việc bà ủy thác. Bà luôn luôn hổ thẹn đối với vong hồn Lưu Dật Phu, bà nói rằng nếu bà có chết nơi tay Lưu Ảo Phu thì sự việc cầm như kết liễu ân cừu thanh thủ trọn vẹn. Như vậy chúng ta không nên đề cập đến Lưu Ảo Phu nữa. Chỉ còn một ý nguyện cuối cùng bà chưa thực hiện được, bà nhờ tôi lo liệu cho bà nếu bà chết sớm.

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:

– Ý nguyện gì? Rất có thể tại hạ ...

Lý Trại Hồng lắc đầu:

– Công tử không có thể gì cả. Bởi công tử không làm chi nên việc ...

Lý Trại Hồng tiếp:

– Phu nhân muốn được chôn chung mồ với phụ thân công tử. Sống không cùng nhau trắng tóc thì chết cũng phải được trắng xương chung mồ để bổ khuyết cái tình dang dở tại dương gian.

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Đương nhiên mẫu thân tại hạ muốn như vậy là hợp lý. Phụ thân tại hạ nằm tại Hàng Ái Sơn, Đà bá bá biết rõ.

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Tôi có nghe phu nhân nói đến nhân vật đó. Bất quá phu nhân muốn làm xong một sự tình rồi sẽ đến Hàng Ái Sơn. Công tử biết là sự gì chăng?

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Làm sao tại hạ biết được?

Lý Trại Hồng trầm giọng:

– Trước hết tìm sư phụ công tử để nói lời cảm tạ công ơn giáo dưỡng công tử nên người. Sau lại báo thù cho Lưu Dật Phu. Phu nhân muốn tìm người đã đánh trọng thương lão ngày trước.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Có phải ...

Lý Trại Hồng gật đầu:

– Sư nương của tôi. Hiện tại bà ở chung một chỗ với sư phụ công tử. Cho nên bà chỉ đi một chuyến là xong hai việc. Và như vậy đó, công tử liệu có làm nổi chăng?

Quan Sơn Nguyệt sững sờ một lúc lâu, sau cùng lẩm nhẩm:

– Chắc là không thể rồi, Tiên Tử! Ôn lão bà đối với tại hạ ...

Lý Trại Hồng thở dài:

– Thì tôi đã nói công tử không thể làm mà! Phu nhân cũng biết thế, nên không ủy thác cho công tử.

Quan Sơn Nguyệt nhìn sững nàng:

– Còn Tiên Tử? Tiên Tử làm được sao?

Lý Trại Hồng cười khổ:

– Đối với tôi vấn đề không phải là có thể hay chẳng thể. Ôn lão bà tuy là sư nương của tôi, song giữa nhau chẳng có ân đức gì ràng buộc cả. Mà tôi với phu nhân thì tình nghĩa lại thâm trọng. Phàm kết tình chị em là chỉ để nhờ nhau trong trường hợp như thế này trên đời, dám chết vì bạn, cho bạn lắm đó công tử.

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Tuy nhiên Lâm tiên tử và sư phụ của tại hạ ở đó, họ sẽ ...

Lý Trại Hồng chỉnh sắc mặt:

– Họ sẽ không ngăn trở tôi đâu. Phu nhân đã ủy thác cho tôi thực hành ý nguyện thì công tử cũng nên chỉ chỗ cho tôi đến đó. Nếu phu nhân chết nơi tay Lưu Ảo Phu thì sự việc chấm dứt tại đây. Nhưng khổ thay, bà lại chết nơi tay công tử, dù là gián tiếp! Như vậy, tôi phải tuân theo di ngôn của bà và công tử cũng nên giúp tôi làm tròn sự ủy thác đó, cho vong hồn phu nhân được an ủi nơi chín suối.

Quan Sơn Nguyệt thừ người không biết phải nói làm sao.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 62

Hận Tràn Vũ Trụ

Đợi mãi, không nghe Quan Sơn Nguyệt nói gì, Lý Trại Hồng dùng cái dịu để khích động chàng hơn là lấy lời nghiêm trách cứ:

– Mẫu thân của công tử xử sự rất phân minh, ân ra ân, oán ra oán, lúc sanh tiền cũng như khi tử hậu, tại sao xông tử không tưởng nghĩ đến bà?

Quan Sơn Nguyệt vô cùng thống khổ:

– Lưu Ảo Phu là con của Lưu Dật Phu, thì cái việc báo cừu cho Lưu Dật Phu phải do Lưu Ảo Phu mới hợp lý ...

Lý Trại Hồng cười lạnh:

– Giả như Lưu Ảo Phu bảo công tử đưa hắn đến gặp Ôn lão bà, thì công tử có đáp ứng chăng?

Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt:

– Tại hạ có thể đáp ứng. Bởi, việc làm của hắn có lý do chính đáng.

Lý Trại Hồng «hừ» một tiếng:

– Cái lý do của tôi còn chánh đáng hơn, công tử ạ. Bởi vì, việc là việc của lịnh đường, mà tôi là người thụ ủy của lịnh đường. Bà chọn tôi làm, chứ không chịu ủy thác cho Lưu Ảo Phu. Chứ nếu bà chọn Lưu Ảo Phu, thì bà đâu có đòi hỏi được chôn chung mộ với phụ thân công tử? Bà cũng có thể đòi hỏi được chôn chung chỗ với Lưu Dật Phu lắm chứ! Cho nên, bà không muốn cho Lưu Ảo Phu làm cái việc báo thù, bà nhận thấy chính bà phải đàm đương mới hợp tình, hợp lý, không làm được thì bà chọn người khác mà giao phó, nhất định không chọn Lưu Ảo Phu. Vả lại, biết đâu chừng Lưu Ảo Phu chẳng đổ trút cho bà rồi nặng lời mai mỉa bà?

Nàng tiếp hỏi:

– Giao phó việc trả thù cho Lưu Ảo Phu, bà phải do hắn mang xác bà về tận mộ phần của phụ thân hắn, chôn chung. Điều đó, công tử có chịu chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không chịu là cái chắc, Tiên Tử ơi. Tuy nhiên, tại hạ biết, mẫu thân tại hạ không đòi hỏi sự đó.

Lý Trại Hồng mỉm cười:

– Bởi thế, bà không để cho Lưu Ảo Phu báo thù. Trên danh nghĩa, bà là vợ của Lưu Dật Phu, thì vợ phải trả thù cho chồng. Báo được thù chồng, là trách nhiệm của bà đối với người quá cố tròn vẹn.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Thì mẫu thân tôi đã nuôi dưỡng Lưu Ảo Phu nên người rồi đó, như vậy cái trách nhiệm của mẫu thân chưa tròn vẹn sao?

Lý Trại Hồng lắc đầu:

– Công tử không hiểu lịnh đường một cách sâu xa! Nuôi dưỡng con côi là bổn phận của người mẹ, không thể lầm lẫn bổn phận với trách nhiệm được. Cái trách nhiệm thực sự của người vợ là phải báo thù chồng, tự mình báo thù cho chồng, không làm được việc báo thù là không thể nhắm mắt mà về cùng tổ tôn nơi chín suối. Chưa làm được mà chết, thì bà có thể giao phó cho người khác làm thay. Trong việc chọn lựa người ủy thác, hẳn bà có đắn đo, suy xét kỹ. Sở dĩ bà không bảo Lưu Ảo Phu làm thay bà, là vì bà có quan niệm của bà, và cái quan niệm đó, tôi vừa giãi bày cho công tử rõ, bằng mọi giá, chúng ta phải tôn trọng quan niệm của bà.

Quan Sơn Nguyệt nhìn xác mẹ, đôi mắt của bà chưa khép hẳn chừng như bà còn hi hí ra đó, để chờ sự quyết định của chàng, rồi mới nhắm mắt buông xuôi hoàn toàn, cho hồn về âm cảnh, mang theo niềm tin là những ý nguyện chưa tròn sẽ nhờ người làm được tròn.

Giang Phàm đổ lệ nhòa đôi mắt, bước tới chen vào:

– Sao Quan đại ca chưa nói? Nói đi cho bá mẫu an hồn ...

Lý Trại Hồng cười lạnh:

– Lịnh đường đối xử với công tử, kể ra rất trọn tình mẫu tử, giả như bà ủy thác việc đó cho công tử, công tử có cự tuyệt chăng? Giả như lúc lâm chung bà yêu cầu công tử ...

Quan Sơn Nguyệt quỳ xuống, đổ lệ như mưa, hướng về Nguyệt Hoa phu nhân, rên rỉ:

– Mẹ! Xin mẹ tha thứ cho con! Con không thể giúp làm tròn ý nguyện của mẹ! Chẳng những sự tình liên quan đến Ôn lão bà, mà còn liên qua đến sư phụ của con. Hồn mẹ có linh thiêng xin xét lại cho con! Mẹ ơi! Mẹ có thể bảo con chết, mẹ có thể bảo con làm bất cứ việc gì, song mẹ đừng buộc con phải trái đạo làm người, mẹ đừng bắt con phải chỉ ra địa phương đó!

Lý Trại Hồng thở dài:

– Thế thì thôi vậy. Tôi sẽ hộ tống thi hài của phu nhân, về tận Đại Ba Sơn chôn chung mộ với Lưu Dật Phu.

Nàng than với hồn phu nhân:

– Cúc tỷ ơi! Tiểu muội không ngờ Cúc tỷ hạ sanh một người con như vậy ...

Quan Sơn Nguyệt lại nhìn các mẹ, rồi chàng cởi chiếc áo ngoài của bà, quấn kín xác, bế nơi tay, toan bước đi, song còn nói vội:

– Lý Tiên Tử đợi một chút, tại hạ còn xem qua ...

Lý Trại Hồng không ngăn trở, song chàng không đi đâu cả. Thấy thế, Lý Trại Hồng vạch phần áo che mặt của phu nhân, bảo:

– Công tử xem đôi mắt của phu nhân kìa, đôi mắt vẫn chưa khép lại! Bà còn nuối níu một cái gì, bà còn hận một cái gì ...

Khích thích cực độ, Quan Sơn Nguyệt rút đoạn kiếm gãy, toan đâm mạnh vào ngực mình.

Giang Phàm lập tức vung tay, hất đoạn kiếm, gắt:

– Đại ca định làm gì chứ?

Quan Sơn Nguyệt rít lên:

– Tại hạ nói ra, là không giữ tròn đạo nghĩa mà không nói ra thì không tròn đạo hiếu, làm người hỏng cả nghĩa lẫn hiếu, thì còn sống làm chi, Giang Phàm ơi, đừng cản trở tại hạ.

Giang Phàm khóc thét lên:

– Đại ca chết rồi tôi làm sao?

Quan Sơn Nguyệt cùng khóc to:

– Tại hạ tự chiếu cố lấy mình còn chưa xong, làm sao chiếu cố đến cô nương được?

Linh Cô lạnh lùng thốt:

– Chết đi, Quan công tử! Quan công tử chết là một điều hay, công tử chết rồi. Tạ Linh Vận sẽ cao hứng lắm đó, hắn sẽ há rộng miệng mà cười, cười suốt ngày suốt tháng mà quên khép môi lại. Và trong thiên hạ chẳng còn ai chế ngự hắn nổi, hắn sẽ là bá chủ giang hồ, hắn sẽ mặc tình thao túng vũ lâm, hoành hành, hà hiếp dân lành ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Tạ Linh Vận!

Linh Cô gật đầu:

– Thì hắn chứ ai? Công tử có thể chết để cho hắn tự tung tự tác, trên cõi đời nay sao?

Quan Sơn Nguyệt thừ người một lúc, đoạn vỗ trán, đấm đầu, rồi kêu lên:

– Hoàng Thiên! Hoàng Thiên! Tôi phải làm sao? Làm sao?

Linh Cô chớp mắt:

– Rất đơn giản, công tử ạ! Thì công tử đừng chết, chứ có gì khó khăn đâu?

Công tử đừng sợ mang tội bất hiếu, bất nghĩa. Ý nguyện của lịnh đường, vẫn được thực hiện như thường.

Quan Sơn Nguyệt lại giật mình:

– Cô nương có phương pháp gì?

Linh Cô mỉm cười:

– Công tử không đưa Lý Tiên Tử đi gặp Ôn lão bà, thì tôi đưa đi là công tử vô can!

Quan Sơn Nguyệt nhảy dựng lên:

– Cô nương ...

– Phải! Ngoài công tử ra, còn tôi biết địa phương đó. Dù công tử có nói ra rồi, vị tất Lý Tiên Tử tìm đến nơi được! Tốt hơn, chính tôi phải cất công đưa Lý Tiên Tử.

Quan Sơn Nguyệt nhìn Linh Cô, nghi hoặc. Chàng làm sao tin được Linh Cô biết nơi đó?

Linh Cô tiếp:

– Công tử xem, như vậy có ổn tiện không? Đối với phu nhân hay đối với Ôn lão bà, công tử không có lỗi gì cả.

Quan Sơn Nguyệt ấp úng:

– Nhưng cô nương ...

Linh Cô giải thích:

– Ôn lão bà mãi mãi đến nay vẫn còn hối hận về việc gây thương tích cho Lưu Dật Phu ngày trước. Bà tu Phật, mà Phật môn thì đặt nặng vấn đề nhân quả cho toàn thể tín đồ hướng thiện, gieo lành. Bà hy vọng sự tình dược giải quyết ngay lúc bà còn sống, được vậy rồi bà mới nhẹ nhàng vĩnh ly nhân thế. Cho nên công tử không cần giữ bí mật cho bà. Lúc tôi ra đi, bà còn dặn dò tôi cố gắng giúp bà hoàn thành tâm nguyện ...

Quan Sơn Nguyệt không tin lời nàng lắm:

– Thật vậy?

Linh Cô gật đầu:

– Công tử cứ hỏi Lý Tiên Tử thì biết. Lúc gặp phu nhân, tôi có thể đề cập đến việc đó. Và tôi cũng đáp ứng với phu nhân ...

Quan Sơn Nguyệt nhìn qua Lý Trại Hồng.

Nàng mỉm cười, gật đầu nhận lời Linh Cô là đúng sự thật. Như vậy, là Lý Trại Hồng biết chỗ của Ôn Kiều.

Chàng tặc lưỡi hỏi:

– Tiên Tử đã biết, tại sao còn bức hỏi tại hạ?

Lý Trại Hồng cười nhẹ:

– Vì phu nhân muốn thế! Tôi phải theo di ngôn của phu nhân!

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Tại sao mẫu thân tại hạ muốn thế?

Lý Trại Hồng mỉm cười:

– Phu nhân muốn thử xem công tử có giữ gìn đạo nghĩa hay không. Công tử có xứng đáng là con của bà hay không! Công tử xem kia, đôi mắt của phu nhân đã khép lại rồi! Tâm nguyện đã tròn, bà an hồn mà về âm cảnh!

Thốt xong, nàng giở vuông vải che mặt của phu nhân lên. Quả thật đôi mắt của bà khép kín, thần sắc an tường, nơi khóe miệng ẩn ước có nụ cười. Một khuông mặt chết, song tươi hẳn, không còn sầu thảm như trước.

Quan Sơn Nguyệt thừ người ra, mường tượng chưa hiểu rõ lắm những gì Lý Trại Hồng vừa nói.

Lý Trại Hồng tiếp:

– Công tử thử nghĩ xem, phu nhân đã ủy thác cho tôi việc đó liệu tôi có làm nổi không chứ? Tôi có hy vọng gì chiến thắng nổi sư nương? Nếu tôi không thủ thắng nổi, thì cái ủy thác đó cầm như vô ích!

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Còn bây giờ?

Lý Trại Hồng mỉm cười:

– Bây giờ thì tôi tin rằng sự việc đó có thể thành. Linh Cô có trình với sư nương những khó khăn của công tử, và vì công tử là con của Cúc tỷ, sư nương nhất định hoàn thành tâm nguyện của Cúc tỷ.

Linh Cô gật đầu phụ họa:

– Phải đó! Ôn lão bà có một ấn tượng về công tử. Tôi tin rằng bà sẽ thành toàn tâm nguyện của phu nhân, vì công tử trọng đại nghĩa, bất cố thân tình!

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Ôn lão bà sẽ làm sao?

Linh Cô đáp:

– Ít nhất, bà cũng để cho Lý Tiên Tử chặt đứt một cánh tay cho có nhân có quả! Được vậy, bà mới an tâm!

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp kêu lên:

– Như vậy là trách nhiệm vẫn về tại hạ? Bởi Ôn lão bà vì tại hạ ...

Linh Cô lắc đầu:

– Phải mà không phải! Bà muốn thanh toán dứt khoát mọi ân oán lúc còn sống! Ngoài ra, bà còn giúp cho nhiều người tròn đại nghĩa!

Quan Sơn Nguyệt hoang mang:

– Tại hạ chẳng hiểu gì cả?

Linh Cô đáp:

– Chẳng hạn, nếu phu nhân không làm được điều đó, thì làm sao tròn nghĩa với Lưu Dật Phu? Có làm được việc đó rồi bà mới an hồn mà nằm bên cạnh phụ thân công tử cho tròn đạo!

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Thế ra, mẫu thân tại hạ lợi dụng tại hạ để báo thù cho Lưu Dật Phu!

Lý Trại Hồng chỉnh sắc mặt:

– Mẹ đối với con không bao giờ có sự lợi dụng! Huống chi không có cái yếu tố cá nhân của công tử, phu nhân vẫn thành công như thường. Công tử không nghe Linh Cô nói đó sao? Sư nương muốn gì thuộc về những giải kết dĩ vãng, nếu có ảnh hưởng của công tử trong đó, thì bất quá chỉ là một giọt nước thêm vào cho cái chén thật đầy, vậy thôi!

Quan Sơn Nguyệt biến sắc mặt, không đáp.

Lý Trại Hồng tiếp:

– Công tử không nên lấy làm khó chịu. Đúng ra, song thân của công tử đối xử không đẹp với Lưu Ảo Phu, điều đó chúng ta phải thẳng thắn mà nhìn nhận, bởi hai người đều phạm tội thông gian. Phận làm con, công tử có làm gì được cho cha mẹ, kể ra cũng chẳng phải quá phận khi sự việc đó có vượt ngoài đạo nghĩa một chút.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút, hướng qua Linh Cô, thốt:

– Cô nương về đó, gặp Ôn lão bà, xin tường thuật những gì chúng ta biện luận hôm nay, đồng thời nói hộ tại hạ, với Ôn lão bà là nhất thiết việc gì, lão bà cứ tùy ý mà làm, do bà giải kết cố sự theo chủ trương cá nhân, đừng bao giờ dựa vào yếu tố cá nhân của tại hạ mà lấy quyết định! Chẳng những tại hạ không cảm kích, mà còn hận nữa là khác!

Lý Trại Hồng kinh ngạc:

– Công tử nói cái gì lạ thế?

Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc:

– Ý tứ của tại hạ như vậy đó, Lý Tiên Tử! Làm người, xử thế, tại hạ luôn luôn bằng vào lương tâm! Cái tâm của tại hạ thẳng thắn, không chấp nhận một quanh co, một ngụy biện nào, cũng như không khi nào tại hạ nghĩ đến một mưu kế gì bất lợi cho bất cứ ai! Bất quá, tại hạ cân nhắc, việc nào nên làm, việc nào không nên làm, có thế thôi!

Lý Trại Hồng sửng sốt.

Quan Sơn Nguyệt tiếp luôn:

– Lý Tiên Tử đừng lầm, tại hạ chẳng bao giờ phê bình hành vi và ngôn ngữ của Tiên Tử! Tuy nhiên, tại hạ không tin là Tiên Tử hoàn toàn vì tìm hữu nghị đối với mẫu thân tại hạ mà quyết làm việc đó!

Lý Trại Hồng biến sắc.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Tại hạ muốn khuyên Tiên Tử, một câu thôi! Tìm gặp lại họ, chẳng có ích gì đâu, Tiên Tử ạ! Cái cảm tình của con người, tự nó phát sanh, chứ không ai gieo vào lòng ai được! Nói một cách khác, không ai thành công trong việc cưỡng ép ai về mặt cảm tình. Khi hướng tim đã rẽ nghịch chiều, thì không một quyền lực nào xoay chiều nổi!

Lý Trại Hồng thở dài, ủ rũ như già thêm mấy tuổi! Lâu lắm, nàng thốt với giọng trầm buồn:

– Tôi biết, trong chuyến đi này, có thể là tôi gặt hái thương tâm, nhưng tôi nhận thấy, không đi không được! Bởi, tôi muốn sự thương tâm đó thêm trầm trọng, để rồi cái tâm của tôi chết luôn, vĩnh viễn nó sẽ chai lỳ như đá! Ngoài ra tôi cũng muốn phản đối lối xử sự của công tử! Huống chi, mẫu thân công tử ủy thác cho tôi, tôi phải làm, để đáp tạ lại cái nghĩa của bà!

Quan Sơn Nguyệt vòng tay:

– Thế thì tại hạ nghĩ sai về Tiên Tử, xin Tiên Tử thứ lỗi cho. Tại hạ lại còn tạ ơn Tiên Tử nghĩ đến mẫu thân tại hạ, vậy Tiên Tử cứ đi, sau khi mọi việc xong rồi, nếu Tiên Tử cần có người bầu bạn cho đỡ tịch mịch, thì cứ đến Đại Ba Sơn, tại hạ thanh toán xong Tạ Linh Vận, sẽ theo hầu Tiên Tử.

Lý Trại Hồng xúc động tâm tình, không ngăn chặn được dòng lệ thảm. Nàng không nói gì, từ từ quay mình bước đi.

Linh Cô hấp tấp hỏi:

– Công tử có lời gì nhắn gởi với lịnh sư chăng?

Quan Sơn Nguyệt thở ra:

– Cô nương còn nhỏ tuổi, mà tâm cơ thâm hậu không kém bậc lão thành!

Điều đó cũng chẳng lạ gì, bởi với sự giáo huấn của gia sư và Lâm Tiên Tử ...

Linh Cô biến sắc, toan đáp.

Quan Sơn Nguyệt chận lại:

– Không cần nói, cô nương! Tại hạ hiểu cái ý của cô nương rồi. Gặp gia sư, cô nương chỉ nói rằng tại hạ kính lời vấn an, đồng thời cảm tạ người có công ơn giáo dưỡng tại hạ nên người. Cho gia sư biết luôn là ân tình đó, tại hạ sẽ có dịp đền đáp ...

Linh Cô hỏi luôn:

– Chỉ bao nhiêu đó thôi?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Đủ rồi! Đủ lắm rồi, cô nương! Tại hạ chẳng hiểu tại sao, con người sanh trong cõi thế, chỉ tìm cách lợi dụng nhau, cho đến cha mẹ, thầy và bạn, cũng không ra ngoài công lệ đó!

Linh Cô giật mình:

– Công tử cũng cho rằng Hoàng Hạc Tán Nhân lợi dụng công tử?

Quan Sơn Nguyệt cười khổ:

– Đúng vậy, cô nương ạ! Thoạt tiên, gia sư tìm cách đưa tại hạ đến Long Hoa Hội, thay thế cho người, để người được rảnh rang thực hiện mộng đẹp với Lâm Tiên Tử!

Linh Cô sững sờ.

Quan Sơn Nguyệt tiếp:

– Mãi đến hôm nay, tại hạ mới minh bạch! Tuy nhiên, tại hạ vẫn cảm kích lão nhân gia, tại hạ sẽ báo đáp ân tình của người.

Chàng khoát tay:

– Cô nương đi đi.

Lý Tiên Tử đi xa rồi!

Linh Cô quay nhìn về phía trước, đoạn thấp giọng:

– Tôi còn hỏi công tử điều này, có người nào không lợi dụng công tử chăng?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Có! Người đó là Trương Thanh! Nàng đã làm mất nhiều việc, ngược lại nàng, không đòi hỏi nơi tại hạ một điều gì! Tại hạ không biết làm cách nào để đáp ân nàng ...

Giang Phàm hơi biến sắc, hỏi:

– Còn tôi, Quan đại ca? Tuy tôi chưa làm điều chi cho đại ca, song tôi ...

Quan Sơn Nguyệt hướng mắt sang nàng:

– Còn cô nương nữa! Tại hạ rất cảm kích cô nương, và hy vọng cô nương giữ sự chất phác đó suốt đời!

Linh Cô vụt thốt:

– Công tử không nên quên tôi ...

Nàng không đợi nghe Quan Sơn Nguyệt nói gì, phóng chân đuổi theo Lý Trại Hồng liền.

Quan Sơn Nguyệt thừ người một lúc.

Giang Phàm thốt khẽ nên tai chàng:

– Quan đại ca có tin không? Linh Cô yêu đại ca đó!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tại hạ không hiểu được! Nàng ấy còn nhỏ quá!

Giang Phàm nghiêm sắc mặt:

– Nàng không còn bé đâu! Nàng hiểu sự đời sớm quá! Dám quả quyết là nàng yêu đại ca! Trước đây, nàng bằng lòng ở lại Thiên Xà Cốc, là vì nàng muốn giúp đại ca đó!

Quan Sơn Nguyệt bực dọc:

– Đừng nhắc đến nàng ấy nữa! Chúng ta lên đường ngay!

Giang Phàm hấp tấp hỏi:

– Đi đâu?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Tại hạ không thể quyết định được, vũ trụ bao la song chừng như không có một nơi nào cho tại hạ dung thân, cô nương ơi! Có lẽ chúng ta nên đi Ngũ Đài Sơn một chuyến.

Giang Phàm gật đầu:

– Phải đó. Chắc là Tạ Linh Vận đã trở về Ngũ Đài Sơn rồi.

Quan Sơn Nguyệt khẽ thở dài:

– Chưa quả quyết được, Giang cô nương, y là con người giảo hoạt, có trăm ngàn mưu kế, biết đâu y chẳng đến một nơi nào khác, hoặc tìm viện thủ, hoặc hoạch định một chương trình, với chủ trương ứng phó cùng chúng ta trong tương lai? Tuy nhiên y có mặt hay không có mặt tại Ngũ Đài Sơn, sự tình vẫn không thuận lợi cho chúng ta chút nào cả.

Giang Phàm không hiểu chàng muốn nói gì.

Chàng nhếch nụ cười khổ, tiếp:

– Tạ Linh Vận chẳng phải là con người ngu! Y biết rõ không bao giờ tại hạ buông tha cho y, thì đương nhiên y phải lánh mặt trong khi y chưa đủ lực lượng đối phó với tại hạ, chỉ khi nào y nhận ra, có đủ phương tiện giành thắng thế trong cuộc chiến với tại hạ. Đến Ngũ Đài Sơn, nếu gặp tại đó, tức nhiên là y có chỗ ỷ trượng là chúng ta phải vất vả hơn. Ngược lại, y vắng mặt thì hẳn là y còn đi khắp đó đây tìm viện thủ ...

Chàng kết thúc:

– Nếu cần, y cũng dám ngưng mọi hoạt động của Thiên Ma giáo, bởi y sợ tại hạ thừa lúc y vắng mặt, mà tận diệt thuộc hạ của y.

Giang Phàm lo ngại:

– Nếu vậy thì Quan đại ca không nên đến đó làm gì, bởi nơi nào Tạ Linh Vận có mặt, là nơi đó rất nguy hiểm, còn như y vắng mặt rồi, Thiên Ma giáo cũng im hơi lặng tiếng luôn, đại ca có đi cũng chẳng ích gì. Đi mà gặp, là gặp dữ, còn không gặp Tạ Linh Vận là chẳng gặp một ai khác, đi như thế rất vô ích.

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Y ở đâu, tại hạ tìm đến đó. Gặp y, là có cuộc thư hùng, song phương phải một còn một mất. Bằng như y triệt thoái toàn giáo phái đi nơi khác,thì tại hạ sẽ truy tầm. Với bất cứ giá nào chúng ta phải trừ diệt con người đó, Giang cô nương!

Y còn sống một ngày nào, là ngày đó đừng mong ai ngủ yên với y!

Giang Phàm thu hồi con Tiểu Ngọc vào bao bố, đoạn buông gọn:

– Tôi chẳng biết gì cả, tôi chỉ biết đi theo đại ca thôi, đại ca bảo làm gì, tôi làm y như vậy, đại ca tùy tiện hành động, phần tôi thì chỉ có việc bảo vệ đại ca thôi.

Quan Sơn Nguyệt nhặt thanh Hoàng Diệp Kiếm cầm nơi tay, suy nghĩ một chút rồi trao cho Giang Phàm mang nơi mình.

Giang Phàm chỉ chiếc bao bố, thốt:

– Cô Tiểu Ngọc đây rồi, tôi không cần đến vũ khí, đại ca cứ mang thanh kiếm đó mà phòng thân, Tạ Linh Vận và Lưu Dật Phu đều có kiếm tốt, thì ít nhất đại ca cũng phải có một thanh tương đương ...

Quan Sơn Nguyệt rung rung tay nhặt lấy đoạn kiếm gãy cương quyết gằn từng tiếng:

– Suốt đời tại hạ, tại hạ chỉ mang đoạn kiếm này thôi, không bao giờ dùng đến bất cứ vũ khí nào khác.

Giang Phàm biết rõ, hiện tại tâm thần chàng bị dao động mạnh, chàng cần sự yên tĩnh để lấy lại bình thường, do đó nàng không nói gì thêm, tiếp nhận thanh Hoàng Diệp Kiếm.

Quan Sơn Nguyệt lại nhìn xuống đất.

Giang Phàm nhận ra, chàng chú mắt đến cánh tay đứt lìa trên mặt đất, cánh tay của Lưu Ảo Phu, do chàng chặt đứt để ngăn ngừa chất độc của con Tiểu Ngọc truyền vào người hắn. Nàng tặc lưỡi, thốt:

– Quan đại ca, tôi chẳng biết tình hình giao đấu của đại ca và những người đó như thế nào ...

Quan Sơn Nguyệt chận lời:

– Cô nương chẳng có gì đáng trách cả, cứ yên tâm. Còn như cái chết của mẫu thân tại hạ, thì Lưu Ảo Phu có một phần trách nhiệm lớn lao trong đó. Dù sao thì hắn cũng là con, là con mà lấy thái độ đó đối xử với mẹ thì ...

Chàng không tiếp, chỉ thở dài, ánh mắt xa xăm ...

Giang Phàm suy nghĩ một chút, rồi tiếp:

– Quan đại ca, cứ như lời đại ca phán đoán, thì Lưu Ảo Phu cũng chẳng đến đỗi bại hoại. Chẳng qua phụ thân hắn có tâm tánh hẹp hòi, đã chết rồi mà còn trăng trối hắn phải thực hành theo cái ý hẹp hòi của lão ta, ngoài ra, Phi Tràng ở bên cạnh hắn, ngày đêm rỉ tai hắn những ý niệm căm thù, oán hận. Vì ảnh hưởng đó mà Lưu Ảo Phu bước lệch ra ngoài con đường chánh, đến đổi vô lễ với mẹ, bất nghĩa với anh.

Quan Sơn Nguyệt lại thở dài mấy tiếng nữa. Đoạn, chàng cất giọng u buồn giải thích:

– Khó trách họ lắm, cô nương! Có thể cho rằng họ quấy mà cũng nên công nhận họ phải. Bởi trong hoàn cảnh của Phi Tràng nàng chỉ tỏ ra trung thành với Lưu Dật Phu, nàng làm thế cũng hợp lý chứ.

Giang Phàm sững sờ một lúc, đoạn thấp giọng phân trần:

– Tại hại vì tôi kém hiểu sự đời, nên luận người có phần nào nông cạn, chẳng bằng Quan đại ca suy xét sâu xa. Tuy nhiên, dù sao thì cũng phải có người phải kẻ quấy, chứ không thể hồ đồ như vậy được. Quan đại ca hãy cho tôi biết, trong sự tình này, thật sự ai hành động hợp lý và ai có thái độ nghịch thường?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Tại hạ không thể phân tách rõ ràng sự việc, để quy trách nhiệm về ai. Bất quá tại hạ nghĩ rằng, yêu gái có chồng, phụ thân tại hạ đã làm một việc trái đạo, tuy nhiên cả hai yêu nhau rất tha thiết, mãi đến lúc gặp phụ thân tại hạ, mẫu thân mới biết là từ trước bà sống với ảo tưởng, lấy nghĩa làm tình, gặp tình yêu chân chánh rồi thì đương nhiên ảo tưởng đó phải vỡ tan, và tình nghĩa phân minh hẳn, mà phần nào nhẹ nghĩa, cho nên mẫu thân tại hạ nghe theo tiếng gọi của con tim ly khai Lưu Dật Phu. Đáng trách về danh tiết mà cũng đáng thương tâm tình. Lưu Dật Phu sau khi từ hải ngoại trở về, nếu nghĩ xa một chút, tất phải thông cảm cho mẫu thân tại hạ và tự mình âm thầm quy ẩn một nơi nào, để thức ngộ sự sum họp miễn cưỡng của ngày trước. Ngờ đâu, lão ta cố chấp, tình dang dở vì quan điểm dị đồng thì im lặng mà dứt tình mới phải, lẽ nào lấy nghĩa làm thù? Dù cho rằng mẫu thân có phụ bạc, ít ra cũng dành cho lão bao nhiêu ân nghĩa suốt thời gian trước lão tựa vào đó, mà tha thứ, chứ sao lại căm thù?

Dừng lại một chút, chàng tiếp:

– Căm thù, lão đầu độc mẫu thân tại hạ trong những ngày dài, bà đau đớn vô cùng, chịu sự ray rức mãi, đã vậy, lão chưa vừa dạ, chết rồi mà còn di ngôn cho con báo hận! Nghĩ ra, lão cũng ác chứ! Tuy nhiên, là con người, lão vẫn không tránh được cái tâm trạng của phần đông, bị đoạt tình thì sanh oán. Bởi cái chỗ thông thường đó, chúng ta cũng không nên quy tội cho lão, cũng như chúng ta không thể lên án một người tìm gặp tình yêu chân thành can đảm thoát ly vòng ái ân miễn cưỡng để xây tổ ấm cho đoạn đời sau ...

Chàng kết luận:

– Vì người nào cũng có lỗi, mà người nào cũng đáng thương cho nên khó mà quyết định thực sự người nào đáng trách!

Giang Phàm gật đầu:

– Tôi hiểu rồi, người đáng trách trong sự việc này là tạo vật đó, đại ca. Tạo vật lá lay, dàn cảnh trái ngang, để đưa anh về khổ lụy, những vị ấy đều là nạn nhân của cái trò đùa quái ác mà tạo vật an bài. Nếu mẫu thân của đại ca biết được phụ thân của đại ca, trước khi kết nghĩa vợ chồng với Lưu Dật Phu, thì làm gì có cái kết cuộc như ngày nay!

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Muộn rồi, có nói cũng thế thôi, Giang cô nương ơi!

Bỗng, Giang Phàm tiếp:

– Dù sao, mẫu thân của đại ca cũng là người đáng kính, xử sự rất phân minh, ân oán rõ rệt ...

Quan Sơn Nguyệt cay mày:

– Trừ ra cái việc bà lợi dụng tại hạ, còn thì bà an bày rất chu đáo!

Giang Phàm cũng cau mày:

– Tôi không thấy bá mẫu lợi dụng đại ca như thế nào, có lẽ đại ca quá đa nghi chăng? Chẳng lẽ bá mẫu có ý đó?

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Cô nương bằng vào đâu mà đưa ra nhận xét đó?

Giang Phàm giải thích:

– Giả như bá mẫu muốn lợi dụng đại ca để báo hận cho Lưu Dật Phu, thì tại sao bà không bảo thẳng với đại ca, mà giao phó cho Lý Tiên Tử thay bà mà hành động? Bởi, có giao phó cho đại ca thực hành ý nguyện đó, thì bá mẫu mới xử sự trọn vẹn đúng với câu ân oán phân minh chứ?

Dừng lại một chút, nàng tiếp:

– Tôi cho rằng, sở dĩ đại ca nghi ngờ bá mẫu lợi dụng là do cái mưu kế của Lý Tiên Tử thôi. Nàng ấy khẳng khái nhận sự ủy thác mà đáng lẽ ra phu nhân phải kêu gọi đến đại ca. Nhận sự ủy thác rồi, biết là việc khó, sợ mình làm không nổi, nên tìm cách lôi cuốn đại ca vào tròng. Nàng định nhờ oai lực của đại ca, như vậy chính nàng lợi dụng đại ca, chứ không phải bá mẫu đâu.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Đúng rồi! Tại hạ bối rối, mất cả sáng suốt, không nhìn rõ tâm ý của Lý Trại Hồng. Chúng ta đuổi theo nàng gấp!

Giang Phàm hỏi:

– Đuổi theo để làm gì?

Quan Sơn Nguyệt tiếp:

– Để bảo thẳng với nàng, là chúng ta hiểu rõ tâm cơ của nàng và khuyến cáo nàng tuyệt đối không nên mượn danh nghĩa của tại hạ mà hành động. Có như vậy, mẫu thân tại hạ mới an vui nơi chốn suối vàng. Tại hạ không còn nghi ngờ mẹ lợi dụng con nữa.

Giang Phàm nắm tay chàng, giữ lại:

– Bất tất phải đuổi theo, đại ca. Dù sao thì cũng nên suy xét cho nàng, chỉ vì nàng quá sốt sắng với bá mẫu đó thôi, nếu nàng không hành động như vậy thì làm sao có lý do mai táng thi hài bà mẫu chung chỗ với phụ thân đại ca?

Quan Sơn Nguyệt định nói gì đó, Giang Phàm lại chận:

– Đại ca minh bạch là bá mẫu không có ý đó thì đủ rồi, còn toan làm khó Lý Trại Hồng mà chi? Tôi đã nói, nàng ấy có làm gì, nói gì, chẳng qua cũng là lo việc cho bá mẫu, mình nên vì bá mẫu nên lượng xét điều đó rộng rãi hơn, đại ca.

Tuy đại ca tức, song cũng có thể nhận chịu cái tức một chút cho tròn đạo làm con, để cho Lý Trại Hồng thực hiện cái ý nguyện của bá mẫu, giúp bá mẫu ngậm cười nơi âm cánh.

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Tư tưởng của cô nương cao hơn tại hạ gấp mấy bậc!

Giang Phàm mỉm cười:

– Tôi chẳng có tầm cỡ chi hết! Mà cũng chẳng có tư tưởng gì cả. Cứ thấy sao, biết sao, là nói vậy, nói theo sự chất phác, thật thà của tôi thôi. Sai cũng vô hại, trúng cũng chẳng ích lợi gì bởi ở giữa cái thế giới đầy gian trá này, lời nói của mẫu người như tôi không có giá trị hết. Quan đại ca tán thành, hay bác bỏ, tùy đại ca.

Quan Sơn Nguyệt còn trầm ngâm, Giang Phàm tiếp luôn:

– Lý Trại Hồng không hiểu đúng con người của đại ca như thế nào. Giả như nàng đừng quanh co, cứ thẳng thắn mà nói lên ý nguyện của bá mẫu, với đại ca, thì rất có thể đại ca đáp ứng thay nàng làm cái việc đó.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Cô nương nói đúng. Nhưng, làm sao Lý Trại Hồng có được một chủ trương như vậy? Bởi, mẫu thân tại hạ không muốn tại hạ dính dáng vào việc đó, thì khi nào Lý Trại Hồng dám bảo thẳng với tại hạ? Không bảo thẳng, mà nàng thì tự lượng sức mình, khó làm tròn ủy thác, cho nên nàng phải quanh co, ướm thử tại hạ. Nghĩ ra, nàng cũng tôn trọng ý muốn của mẫu thân tại hạ đó. Tại hạ phải cảm kích nàng mới hợp lý. Nàng vận dụng tâm cơ khá nhiều, tại hạ hối hận đã trách nàng nặng nề vừa rồi ...

Giang Phàm cười nhẹ:

– Tâm cơ! Bỏ tâm cơ đi đại ca, cứ chất phác, thật thà như tôi đây, mà được việc hơn! Ít nhất, tâm hồn mình cũng được thơ thới, mình dùng mưu, người ta đối kế, mưu với kế đối chọi nhau liên tục truyền kiếp, thì con người sống trên đời này còn có mục đích cao cả nào nữa, ngoài cái việc lấn mưu át kế lẫn nhau? Con người một khi lâm vào vòng cạnh tranh, thì vĩnh viễn xa rời hạnh phúc. Tôi nói đến cái hạnh phúc chân thuần đó, đại ca, chứ chẳng phải thứ toại nguyện nhất thời và tạm bợ do một thắng thế mang lại.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 63

Vào Sâu Vô Định

Trở lại Ngũ Đài Sơn, Quan Sơn Nguyệt và Giang Phàm hết sức kinh ngạc trước sự biến đổi phi thường.

Ngày nào cờ hiệu Thiên Ma Giáo còn cao vút trụ trận mây xanh, tung bay theo gió từ bốn phương trời đổ đến. Bây giờ cờ hiệu đó được hạ xuống, để thay thế bằng một lá trường phang.

Lá phang đó có thêu hình một thanh kiếm và một chữ m, hình kiếm và chữ nằm trên một đồ hình Bát Quái.

Quan Sơn Nguyệt nhận ngay đó là biểu hiệu của Vô Cực Kiếm Phái, mà người thủ lãnh là họ m.

Trong thời gian đó, Vô Cực Kiếm phái chưa được nổi danh lắm, bất quá chỉ là một bang hội nho nhỏ thôi. Kiếm phái này gồm toàn nữ nhân. Họ làm gì có thế lực khuất phục nổi Thiên Ma Giáo để chiếm đoạt căn cứ?

Dù là sự thực hiển nhiên trước mắt, Quan Sơn Nguyệt cũng khó tin được một việc như vậy có thể xảy ra.

Không tin được sự việc xảy ra, nhưng sự việc đã xảy ra rồi, bằng cớ là lá phang đang tung bay phần phật trước gió kia.

Chàng tần ngần đứng nơi chân núi, lòng hoang mang vô cùng.

Vừa lúc đó, một kỵ sĩ từ trên núi rong ngựa xuống triền.

Ngựa, thuộc loại tuấn mã, kỵ sĩ thay vì là một nữ nhân thì lại là một đại hán trông có vẻ cường tráng lắm.

Nhìn đại hán, bất giác Quan Sơn Nguyệt sững sờ.

Đại hán không phải là ai xa lạ, đại hán chính là Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái, người đã giúp chàng và theo chàng một thời gian trong khi chàng đi tìm đoạt lại chiếc Minh Đà.

Ngày xưa hắn không chống đối hẳn với họ m song cũng chẳng thân gì, bởi hắn là người ủng hộ chàng. Nhưng tại sao hắn lại theo về Vô Cực Kiếm Phái, chịu quyền sai sử của họ m?

T Thêm một sự lạ nữa đến với chàng, chàng càng hoang mang hơn.

Ngày nay Lưu Tam Thái mãn nguyện lắm rồi sao?

Ngày nay hắn khách sáo hơn xưa nhiều, chưa đến gần mà chừng như hắn nhận ra Quan Sơn Nguyệt nên xuống ngựa, rồi còn xa xa hắn vòng tay nghiêng mình, thốt vọng đến:

– Lịnh Chủ! Từ bao lâu nay Lịnh Chủ được bình an chứ? Nghe nói trong vòng một năm trở lại đây, Lịnh Chủ tạo nhiều thành tích oanh liệt trên giang hồ, và hiện tại Lịnh Chủ nghiễm nhiên trở thành một bậc đại hiệp mà hầu hết hào kiệt anh hùng từ quan nội đến quan ngoại đều kiêng nể oai danh.

Quan Sơn Nguyệt nhếch nụ cười nhạt, đáp:

– Đa tạ Lưu tam ca. Trông Lưu tam ca có vẻ đắc ý quá, chừng như tại địa phương này ...

Lưu Tam Thái cười nhẹ:

– Lịnh Chủ quá khen, bất quá tại hạ nhờ lây cái vinh quang của Lịnh Chủ mà có được ngày nay.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Nhờ lây cái vinh quang của tại hạ?

Lưu Tam Thái cười hì hì:

– Phải! Lịnh Chủ còn nhớ năm xưa nhờ Lịnh Chủ chiếu cố đến tại hạ, cho theo hầu tả hữu. Do đó m cô nương lưu ý đến rồi cố vời tại hạ đến, chấp nhận cho tại hạ gia nhập giáo phái, giao phó trách vụ tiếp tân.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– m cô nương là ai?

Lưu Tam Thái tiếp:

– Bởi bận nhiều việc quá, Lịnh Chủ quên mất đi thôi. m cô nương là m Lệ Hoa, con gái của m Tố Quân Chưởng môn nhân Vô Cực Phái ngày trước tại m Sơn. Lịnh chủ có gặp qua mẹ con họ một lần mà?

Quan Sơn Nguyệt nhớ ra liền.

Ngày trước, Trương Vân Trúc dụ hoặc con gái nhà họ m là m Lệ Hoa, gây phẫn nộ trong Vô Cực phái, làm chàng suýt khổ vì phái này. Nhưng tại sao m Lệ Hoa lại đến đây? Nàng ở đây một mình hay có cả mẹ nàng?

Nếu mẹ nàng cùng đến, thì chẳng lẽ toàn phái Vô Cực cùng tản về Ngũ Đài Sơn rồi?

Lưu Tam Thái tiếp:

– Bây giờ m cô nương có thanh thế rất trọng, có thể là vượt bậc hẳn mẫu thân của nàng. Nàng là Chưởng môn Thái Cực Bang đó. Lịnh Chủ có nghe đến Thái Cực Bang chứ?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tại hạ chẳng hiểu gì cả!

Lưu Tam Thái lại tiếp:

– Điều đó cũng chẳng lạ gì, bởi Thái Cực Bang còn trong thời kỳ chuẩn bị lực lượng, củng cố cơ đồ, nên chưa chánh thức góp mặt trên giang hồ, so hơn kém cùng các phái khác. Mới hôm qua đây, m cô nương tiếp thọ sự di nhượng của Thiên Ma Giáo, thì hôm nay trường phang được dựng lên ...

Quan Sơn Nguyệt chận lời:

– Thiên Ma Giáo di nhượng trọn cơ đồ? Còn bọn Tạ Linh Vận? Chúng ở đâu?

Lưu Tam Thái đáp:

– Tạ Linh Vận không hề chường mặt, sự triệt thoái của Thiên Ma Giáo do Kỳ Hạo phát động và điều khiển. Thái Cực Bang tiếp thu nhanh chóng ...

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Lưu tam ca càng nói càng hồ đồ quá, tại hạ chẳng hiểu chi hết. Chẳng lẽ Kỳ Hạo khẳng khái di nhượng như vậy? Dù sao thì chúng cũng tiêu hao khá nhiều tâm huyết mới tạo dựng nên một cơ đồ quan trọng chứ.

Lưu Tam Thái mỉm cười:

– Tự nhiên, Kỳ Hạo đâu có thể di nhượng dễ dàng như vậy. Sở dĩ bọn tại hạ không gặp sự trở ngại nào là vì sau khi Kỳ Hạo trông thấy Liễu Đường chủ của tại hạ, hắn cúi đầu ngay, rồi âm thầm triệt thoái. Lịnh Chủ cũng hiểu là Vô Cực Phái gồm toàn nữ nhân, và Liễu Đường chủ đương nhiên là một nữ nhân.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Liễu đường chủ là ai?

Lưu Tam Thái tiếp:

– Người quen của Lịnh Chủ mà. Đường chủ là Liễu Y Ảo, hiện tại nàng là Tổng Đường chủ ngoại tam đường. Còn Tổng Đường chủ nội tam đường cũng là người quen của Lịnh Chủ, Lịnh Chủ thử đoán xem là ai?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Có phải là Trương Thanh cô nương chăng?

Lưu Tam Thái gật đầu:

– Lịnh chủ đoán đúng. Người trong Thái Cực Bang hầu hết đều có quen biết với Lịnh Chủ. Chẳng hạn, Tượng Hình Đường chủ là Nhạc Tương Quân, Càn Khôn Đường chủ là Nhạc Hành Quân, Tốn Phong Đường chủ là Nhạc Tiểu Hồng ...

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Chàng không ngờ những người quen biết đó hiện giờ lại quy tụ dưới nhãn hiệu Thái Cực Bang. Một lúc lâu, chàng hỏi:

– m Lệ Hoa là Bang chủ Thái Cực Bang? Nàng đảm đương nổi một trọng trách như vậy sao? Những người kia chấp nhận cho nàng cầm quyền sai sử sao?

Lưu Tam Thái cười hì hì:

– Điều đó có liên quan đến Trương Vân Trúc lão gia. Thực ra thì tuy ở ngôi Chưởng môn, m cô nương không có quyền thế to lớn bằng Tổng Đường chủ Nội đường. Bất quá trên danh nghĩa, Chưởng môn phải cao hơn Tổng Đường chủ thôi.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– m cô nương cao hơn Trương Thanh một bậc? Cao về ngôi vị Chưởng môn hay vì một lẽ gì khác?

Lưu Tam Thái tiếp:

– Nói ra cho Lịnh Chủ nghe thiết tưởng cũng chẳng quan hệ gì. Hơn nữa, Lịnh Chủ cũng đã biết được phần nào rồi, thì tại hạ có nói ra bất quá là nói cho rõ ràng hơn, chứ sự việc cũng không mới mẻ chi đó. Trương lão gia đã tục huyền với m cô nương, thì trên danh nghĩa, m cô nương là kế mẫu của Trương cô nương.

Quan Sơn Nguyệt biến sắc:

– Thế là cái việc ngày trước quả có thật?

Lưu Tam Thái mỉm cười:

– Cái việc ngày trước có thật hay không, điều đó đã rõ như ban ngày.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Nói như thế nghĩa là gì?

Lưu Tam Thái thấp giọng:

– Năm xưa Trương lão gia từng đi khắp các nơi, đến tận các môn các phái đoạt thu bí kíp võ công. Hẳn Lịnh Chủ cũng biết việc đó chứ, có điều Lịnh Chủ chưa hiểu là ...

Quan Sơn Nguyệt rít lên:

– Lão! Đúng là lão ấy rồi! Vậy mà tại Long Hoa Hội, lão thất phu còn làm bộ làm tịch, giả nhân giả nghĩa với tại hạ!

Lưu Tam Thái hấp tấp khoát tay:

– Lịnh Chủ đã lầm. Trương lão gia hành động như vậy là có thâm ý, dĩ nhiên việc làm đó có liên quan đến hội Long Hoa rất nhiều. Lịnh Chủ có biết không, Tạ Linh Vận đã lưu ý đến hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang từ rất lâu. Hắn hoạch định mưu kế khuyến dụ hai phái đó theo về với hắn, trong khi hắn sắp sửa thành công thì lão hòa thượng Khổ Hải Từ Hàng thông tri cho Trương lão gia biết gấp. Trương lão gia bắt buộc phải hạ sát hai Chưởng môn Võ Đang và Thiếu Lâm như để chặt tay chặt chân Tạ Linh Vận vậy, bởi hai người đó sớm muộn gì cũng sẽ thành đồng minh của Tạ Linh Vận. Còn như cái việc cướp đoạt bí kíp võ công, thì thật ra đó là một sự phao truyền do Trương lão gia có ý phát động để đánh lạc hướng mọi cuộc truy cứu thôi. Trương lão gia chẳng hề lấy bí kíp võ công của môn phái nào cả.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Lão thất phu ám hại mạng người như vậy, không nhận thấy là tàn nhẫn lắm sao?

Lưu Tam Thái giải thích:

– Chúng ta hãy đặt một giả thuyết, nếu hai vị Chưởng môn đó không chấp nhận thuận theo về với Tạ Linh Vận đồng thời không giao nạp những quyển bí kíp đó cho hắn, thử hỏi hai vị ấy chống cự nổi với hắn chăng? Họ đã tự lượng sức mình, nên tự nguyện hy sinh để bảo toàn quý vật cho bổn môn. Cho nên cái chết của hai vị đó được kể như có sự đồng tình của họ với Trương lão gia vậy.

Quan Sơn Nguyệt «xì» một tiếng:

– Tại hạ không tin.

Lưu Tam Thái mỉm cười:

– Hai vị tân Chưởng môn cùng các đệ tử của hai phái đó không hề oán hận Trương lão gia, điều đó cũng đủ chứng minh sự tình rồi ...

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Lão ấy tục huyền với m cô nương, sự kết hợp đó rất bất xứng, lão sẽ giải thích thái độ của lão như thế nào chứ?

Lưu Tam Thái tiếp:

– Có ý tứ lắm chứ, Lịnh Chủ. Cứ theo sự điều tra của Trương lão gia thì Vô Cực Kiếm Phái của họ m tại m Sơn cũng bị bao gồm trong kế hoạch tóm thâu của Tạ Linh Vận. Do đó Trương lão gia mới du hành đến tận m Sơn xem xét tình hình. Lão gia không thấy điều chi lạ, đáng chú ý, bất quá lão gia nhận ra m cô nương có một chứng tật kín. Lịnh Chủ cũng biết Trương lão gia am tường y thuật chứ.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Chứng tật gì?

Lưu Tam Thái:

– Chứng Hoa Si.

Quan Sơn Nguyệt quát:

– Nói nhảm! Chứng gì lạ thế? Chẳng lẽ mẫu thân nàng không biết con gái mắc chứng tật gì sao phải đợi lão thất phu chỉ điểm cho?

Lưu Tam Thái thở dài:

– Hoa Si là một chứng tật cực kỳ cổ quái, phàm người mắc chứng đó chính mình còn không biết, người ngoài làm sao biết được? Bởi chứng đó phải đợi đến lúc bịnh nhân đúng mười tám tuổi mới phát tác. Trương lão gia đến tận m Sơn đúng lúc chứng bịnh của m cô nương phát tác. Khi bịnh phát thì bịnh nhân điên loạn, phải tìm nam nhân mà gần, vì chỗ giao tình của lão gia với nhà họ m rất thâm hậu nên lão gia không tiện tiết lộ, chỉ âm thầm chữa trị cho m cô nương.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ không tưởng là bên trong có nhiều khúc chiết như vậy.

Lưu Tam Thái lại thở dài, rồi tiếp:

– Nhưng khổ thay, Trương lão gia cần phải giải quyết gấp nhiều sự tình đang chờ đợi bên ngoài. Do đó lão gia ly khai m Sơn sớm hơn dự định, và m cô nương chỉ được chữa trị nửa phần thôi. Sau lại ...

Quan Sơn Nguyệt chận lời:

– Sau lại gặp chúng ta đến nơi ...

Lưu Tam Thái gật đầu:

– Phải. Lúc đó m Lệ Hoa chưa lành bịnh hẳn. Nàng còn nói nhảm nhí suốt ngày. m phu nhân không hiểu nguyên do cứ đổ tội cho Trương lão gia, và quyết tâm truy tầm Trương lão gia cho kỳ được để báo thù.

Quan Sơn Nguyệt thầm nghĩ:

“Lúc đó cũng có mặt Trương Thanh, nàng cũng am tường y lý, thế thì tại sao nàng nhìn qua thần sắc của m Lệ Hoa, nàng không biết được là m Lệ Hoa mang chứng điên loạn? Nếu nàng nhận thấy m Lệ Hoa mất lý trí, hẳn là nàng không đến nỗi bị khích thích mà bỏ đi bất ngờ như vậy.”.

Lưu Tam Thái lại thở dài, tiếp:

– Bịnh tuy còn, song m Lệ Hoa có bề ngoài rất tự nhiên cho nên chẳng ai nghi là nàng điên loạn. Do đó những gì nhảm nhí nàng thốt người ta đều cho là lời thật, cho là sở dĩ nàng nói mãi là vì nàng oán hận. Bởi nghĩ như vậy, m phu nhân càng căm hận Trương lão gia hơn. Thực sự thì Trương lão gia chẳng có chút tà tâm nào lúc lưu lại m Sơn ...

Y dừng lại một chút rồi nói tiếp:

– Sau đó, Trương cô nương cho m Lệ Hoa uống một thứ thuốc, phần bịnh còn lại được giải trừ hoàn toàn. m Lệ Hoa khôi phục thần trí, đem tất cả sự tình thuật lại với m Tố Quân. Vỡ lẽ ra, m Tố Quân hết sức hối hận. Nhưng Lịnh Chủ và các vị kia đều đến Vu Sơn rồi ...

Quan Sơn Nguyệt «ạ» lên một tiếng:

– Lạ thật. Sự tình như vậy, mà sao Trương lão bá gặp tại hạ trên đỉnh Thần Nữ Phong lại chẳng nói chi hết?

Lưu Tam Thái giải thích:

– Lúc đó Trương lão gia được Khổ Hải Từ Hàng giao phó phần việc quán thông với Tạ Linh Vận, tự nhiên không thể tiếp xúc thân mật với Lịnh Chủ vì đề phòng bọn Tạ Linh Vận nghi ngờ. Còn như các việc sau này ...

Quan Sơn Nguyệt chận lời:

– Các việc sau này, tại hạ đều hiểu rõ.

Rồi chàng cau mày, tiếp:

– Nhưng tại sao m Tố Quân lại chấp thuận cho m Lệ Hoa kết hôn với Trương lão bá? Và tại sao có Vô Cực Phái rồi còn lập thêm Thái Cực Bang?

Lưu Tam Thái mỉm cười:

– m Lệ Hoa nhờ Trương lão gia chữa trị, để cảm ơn việc đó nàng phát thệ không lấy ai làm chồng ngoài Trương lão gia. Cũng may tại hạ có theo Lịnh Chủ đến Vu Sơn nên hiểu được tình hình phần nào, lúc đó m Tố Quân đưa con gái đến tận nơi, tìm tại hạ yêu cầu tại hạ liên lạc với Trương lão gia. Vì Long Hoa Hội giải tán, bọn Tạ Linh Vận kéo nhau đi hết đến Ngũ Đài Sơn lập thành Thiên Ma Giáo, Trương lão gia dĩ nhiên phải theo Tạ Linh Vận. Muốn tìm Trương lão gia tất phải đến tận Tổng Đàn Thiên Ma Giáo, tại hạ tài gì mà dám đến đó? Ngờ đâu Trương cô nương cũng tìm gặp tại hạ. Nhân cuộc gặp gỡ đó Trương cô nương mới hỏi đầu đuôi câu chuyện, hiểu rõ rồi, Trương cô nương mới biết là phụ thân mang tiếng oan. Nhân cuộc thanh minh này, Trương cô nương nảy sanh một quyết định ...

Quan Sơn Nguyệt chú ý:

– Quyết định như thế nào?

Lưu Tam Thái tiếp:

– Trương cô nương chuẩn bị thành lập một thế lực để chống đối với Thiên Ma Giáo. Nàng bảo tại hạ chiêu tập nhân số, gây thanh thế, mà tại hạ thì chỉ biết có mỗi một gia đình họ m thôi. Tại hạ thuyết phục hai mẹ con họ m theo về với Trương cô nương. Kế đó, Trương lão gia cũng đến, lão gia có mang theo một quái nhân khả dĩ chế phục được Tạ Linh Vận.

Quan Sơn Nguyệt biết ngay quái nhân đó là Xà Thần. Chàng lại hỏi:

– Tất cả đều ở trên núi?

Lưu Tam Thái gật đầu:

– Phải. Trương lão gia không còn muốn bôn tẩu giang hồ nữa, người quyết tâm ở luôn trên núi tu thân dưỡng tánh cho trọn ngày trời. Trương Thanh sợ cha hiu quạnh, nhân việc m Lệ Hoa quyết hứa thân về với Trương lão gia, bèn tác hợp cho song phương thành chồng vợ, nhưng chỉ yêu cầu m Lệ Hoa chấp nhận ngôi vị Chưởng môn Thái Cực Bang.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Tại sao lại chọn cái tên đó?

Lưu Tam Thái mỉm cười:

– Sở dĩ thế là vì Trương cô nương rất mực hiếu thuận, theo cái lẽ sanh tồn trong vũ trụ càn khôn thì từ Vô Cực mà có Thái Cực, như vậy là Thái Cực sanh từ Vô Cực. Năm xưa, vô hình trung Trương cô nương có sát hại mấy người trong họ m, sự kiện đó ám ảnh cô nương mãi mãi cho nên cô nương mới lấy cái tên như thế để ngầm tạ lỗi với họ m, người sáng lập ra Vô Cực Phái. Về tên thì Thái Cực Bang tỏ rõ cái ý nhường Vô Cực Phái, song về thanh thế thì Thái Cực Bang không kém Vô Cực Phái chút nào.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Cái ý cũng hay đấy. Và hiện tại thì các hạ nhậm chức Tư Tân trong Thái Cực Bang, thảo nào mà chẳng đắc ý.

Lưu Tam Thái cười hì hì:

– Lịnh Chủ quá khen đi thôi. Bất quá tại hạ có quen biết một số người trên giang hồ và tại hạ được bổ nhiệm chức vụ đó chỉ để thỉnh mời hào kiệt bốn phương, hoặc gia nhập, hoặc liên minh, chứ về tài nghệ thì tại hạ chẳng có hạng nào so với những cao thủ khác trong Thái Cực Bang.

Bỗng Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Đối với Thiên Ma Giáo, Trương cô nương có thái độ xử trí như thế nào?

Lưu Tam Thái đáp:

– Trương cô nương rất nhân từ không muốn tận diệt toàn bộ giáo đồ Thiên Ma Giáo, cho nên hôm trước khi Kỳ Hạo dẫn đồng bọn ly khai, Trương cô nương có cảnh cáo hắn là từ nay không được buông lung phóng túng mà hành hung tác ác như ngày nào. Nếu bất tuân, khi phong thanh đồn đãi đến tai cô nương thì cô nương sẽ không còn nương tay cho hắn được nữa. Kỳ Hạo cúi đầu ngoan ngoãn mà đi.

Quan Sơn Nguyệt phấn khởi vô cùng:

– Thế thì Trương Thanh đáng phục lắm! Diệt trừ được Thiên Ma Giáo là đem lại thái bình cho võ lâm, cái công đức đó của nàng thật là vô lượng vậy. Tại hạ phải đến mừng cho nàng đã thành công lớn trong công cuộc trừ hung diệt bạo cứu nhược phò nguy.

Lưu Tam Thái ấp úng:

– Lịnh Chủ ...

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ hỏi:

– Các hạ có điều chi muốn nói song khó nói ra lắm chăng? Không sao đâu, cứ nói, dù có nghịch ý, tại hạ cũng chẳng lấy làm phiền.

Lưu Tam Thái trầm ngâm một lúc:

– Lịnh Chủ ơi. Trương cô nương từng nói với tại hạ là nàng có thể tiếp đón bất cứ ai, nhưng lại không muốn thấy mặt Lịnh Chủ. Hơn thế, nàng ra lịnh cho thuộc hạ bằng mọi cách ngăn chận Lịnh Chủ lên núi ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Nàng cố ý tránh tại hạ?

Lưu Tam Thái do dự một chút:

– Phải! Trương cô nương còn nói, giả như Lịnh Chủ, nàng bảo là từ nay nàng sẽ đảm nhận sự an nguy của võ lâm, Lịnh Chủ cứ yên tâm lo vun bồi hạnh phúc cá nhân.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Nàng nói như vậy à?

Lưu Tam Thái thở dài:

– Tại hạ có được mấy cái đầu mà dám bịa chuyện với Lịnh Chủ? Nàng có cảm tình rất thâm hậu đối với Lịnh Chủ, cho nên tại hạ nghĩ rằng bất quá trong một phút giận hờn, vì một nguyên nhân nào đó, nàng nói thế thôi. Lịnh Chủ không nên quá lo nghĩ.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ.

Lưu Tam Thái suy tư một chút rồi tiếp:

– Trên núi toàn là những người quen biết của Lịnh Chủ, ai ai cũng mong mỏi gặp lại Lịnh Chủ một lần. Nhất là Liễu Đường chủ và Lạc Tiểu Hồng cô nương, hai người đó luôn luôn nhắc đến Lịnh Chủ. Dù Trương Thanh bảo là nên ngăn chận Lịnh Chủ lên núi, song tại hạ nghĩ điều đó có phần nào quá đáng, giả như nàng không muốn gặp Lịnh Chủ thì thôi, cứ để cho người khác gặp có sao đâu? Cho nên tại hạ thấy Lịnh Chủ nên lên đó để gặp lại những cố nhân. Tại hạ xin lãnh trách nhiệm sự mời mọc này, dù phải đứt đầu cũng cam. Huống chi, biết đâu nghe Lịnh Chủ đến đây rồi Trương cô nương không thay đổi chủ ý?

Quan Sơn Nguyệt chưa đáp liền. Sau cùng chàng lắc đầu thốt:

– Thôi các hạ ạ. Thà không gặp còn hơn! Gặp nhau rồi biết nói gì với nhau.

Tại hạ biết được nàng đã làm nên việc hữu ích như vậy là cũng đủ vui rồi.

Chàng gọi Giang Phàm, đoạn quay mình định trở lại.

Lưu Tam Thái hấp tấp gọi:

– Lịnh Chủ! Nếu Lịnh Chủ không muốn lên núi thì cứ đứng đây chờ một chút tại hạ xin lên đó báo tin cho những người quen, họ sẽ xuống đây hợp mặt với lịnh chủ.

Quan Sơn Nguyệt đáp gấp:

– Khỏi! Khỏi cần! Tại hạ không muốn gặp lại người nào cả. Mà các hạ cũng không nên cho ai biết là có tại hạ đến đây.

Chàng vẫy tay chào biệt:

– Các hạ ở lại nhé. Chúc các hạ được mọi điều thuận lợi!

Chàng và Giang Phàm gấp bước ly khai Ngũ Đài Sơn liền sau khi dứt câu nói. Đi được một đoạn đường khá dài, liệu chừng đã cách Ngũ Đài Sơn xa rồi chàng mới chậm bước.

Giang Phàm thấy chàng trầm trầm gương mặt, lấy làm lạ hỏi:

– Quan đại ca! Có phải vì tôi mà Trương cô nương quyết liệt như vậy chăng?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Không thể là như vậy!

Giang Phàm cau mày:

– Thế tại sao nàng tránh mặt đại ca?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Cô nương không hiểu đâu!

Giang Phàm giương tròn đôi mắt.

Nhưng Quan Sơn Nguyệt không nói gì thêm.

Một lúc lâu, Giang Phàm cất tiếng:

– Bây giờ chúng ta đi đâu đây đại ca?

Đang triền miên suy nghĩ, bị gọi trở về thực tại Quan Sơn Nguyệt giật mình.

Chàng biết đáp làm sao? Trời đất mênh mang, nhưng nơi nào là chốn dung thân cho chàng dù chỉ là tạm thời?

Từ sau ngày tiếp thọ Minh Đà Lịnh, để xuất hiện trên giang hồ nối nghiệp ân sư, chàng luôn luôn đi không dừng bước, nay đây mai đó luân lạc khắp bốn phương trời. Không nơi đến đã đành, mà chàng cũng nhận ra hiện tại chẳng có việc gì khác để đeo đuổi.

Chàng từng lấy việc trừ hung diệt bạo cứu nhược phò nguy làm bổn phận, thì nay Thái Cực Bang vì cái việc đó mà thành lập và công khai tuyên bố tôn chỉ của họ với chàng qua trung gia của Lưu Tam Thái. Chàng còn làm chi được nữa?

Lâu lắm chàng mới thốt:

– Chúng ta nên đến phía hậu Thần Nữ Phong xem Lý Trại Hồng giải quyết sự tình như thế nào. Tuy nhiên tại hạ e rằng mình đến quá muộn.

Giang Phàm liền thốt:

– Muộn? Làm sao muộn được? Mà cái gì muộn?

Quan Sơn Nguyệt tiếp:

– Ôn lão bà có cái quyết tâm kết liễu điều nhân quả thì Lý Trại Hồng có nhiều hy vọng thành công sớm. Bởi tình thế thuận lợi cho Lý Trại Hồng như vậy, tại hạ mới nói rằng muộn ...

Giang Phàm suy nghĩ một chút:

– Vậy thì chúng ta nên dò hỏi xem phần mộ của phụ thân đại ca ở đâu, để mách cho Lý Trại Hồng biết mà an táng hài cốt của phu nhân chung một chỗ.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Phải! Hiện tại, tại hạ chỉ còn có mỗi một việc đó để làm thôi.

Giang Phàm lại hỏi:

– Rồi sau đó?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu:

– Chúng ta trở về Quảng Hàn Cung tại Đại Ba Sơn sống cuộc đời an tịnh, vĩnh viễn đoạn tuyệt với kiếp giang hồ. Bởi chúng ta không còn nhiệm vụ gì nữa!

Thốt lên câu đó, chàng dàu dàu nét mặt.

Giang Phàm dù chất phác cũng biết được phần nào tâm tư của chàng. Nàng thốt:

– Nhất định là Quan đại ca không chịu nổi một cuộc sống như vậy!

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Tại sao không? Làm sao cô nương biết được chứ?

Giang Phàm thở ra:

– Tôi không đủ lời lẽ để giải thích rành rẽ, song tôi biết chắc đại ca không thuộc hạng người thích an nhàn tự tại, tôi ví đại ca như con ngựa bất kham, không một mãnh lực nào trói chân con ngựa đó trong cái chuồng vĩnh viễn dù cho là một cái chuồng cực đẹp ...

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Một con ngựa bất kham? Thế cô nương cho rằng ngoài cái việc đánh, chém gây đổ máu, tại hạ không còn cái thú nào khác? Ngoài khung cảnh náo nhiệt hãi hùng, tại hạ không có một phương thức sinh hoạt nào khác? Cô nương có biết đâu bản tánh của tại hạ là rất ghét những sự giết chóc ...

Giang Phàm nở một nụ cười:

– Không phải vậy. Tôi chẳng hề cho rằng đại ca hiếu sát, song tôi lại tin là chẳng bao giờ đại ca chịu an nhàn và đại ca cũng không chấp nhận một cuộc sống quá bình tịnh. Cứ mỗi lần nghe vũ khí chạm nhau, nghe tiếng hò tiếng hét là đại ca phấn động hào khí, tâm huyết sôi trào. Phải biết con ngựa già còn nhớ mãi đường dài thì bậc hào hiệp chôn chặt được dũng khí? Huống chi đại ca đang tuổi phương cương thanh thiếu, dũng khí dâng cao?

Quan Sơn Nguyệt định tranh biện với nàng, bỗng nghe tiếng vó ngựa vang lên phía sau. Bất giác chàng quay đầu nhìn lại.

Trương Thanh phi ngựa lướt tới nhanh như tên bắn.

Chàng giật mình sững sờ giương mắt nhìn nàng lao đến vun vút, dù sao thì con tim của chàng cũng dao động ít nhiều.

Trương Thanh đến nơi, xuống ngựa, mở to mắt nhìn chàng, ánh mắt của nàng hiền dịu quá.

Nàng không nói tiếng nào cả.

Mà Quan Sơn Nguyệt cũng chẳng nói gì.

Một lúc lâu, nàng nhẹ giọng thốt:

– Quan đại ca, đại ca không hận tôi?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Ngu huynh không có lý do gì hận Thanh muội, mà chỉ có lý do bị Thanh muội hận!

Trương Thanh hấp tấp tiếp:

– Quan đại ca lầm rồi! Chẳng phải vì cá nhân tôi mà tôi không muốn gặp đại ca, chẳng phải vì hận đại ca mà tôi từ khước gặp mặt đại ca ...

Quan Sơn Nguyệt hết sức hoang mang.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 64

Khổ Biệt Ly Tình

Thấy Quan Sơn Nguyệt sững sờ, không nói năng chi hết, Trương Thanh lại hỏi:

– Quan đại ca hiểu rõ những gì tôi vừa nói đó chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Thanh muội ơi! Thật sự, ngu huynh chẳng hiểu gì cả!

Chàng thở dài.

Trương Thanh nhếch nụ cười khổ, thốt:

– Trong tình trường, Quan đại ca vướng phải nhiều cảm lụy hơn ai hết, nhưng cuối cùng rồi đại ca cũng tìm được cái bến yên vui mà đổ con thuyền, không còn phiêu bồng trên khổ hải như những ngày qua, thuyền tình gặp bến đỗ, thì khách tình nên xây tổ uyên ương để tận hưởng lạc thú nhân sanh. Ngũ Đài Sơn hiện nay là nơi nhóm tụ những con tim bất toại nguyện, những con tim đó mãi mãi hướng vọng về bốn phương trời, lắng ngóng tiếng nhịp hòa đồng của khách tri âm, thì Ngũ Đài Sơn cũng là nơi mà đại ca không nên bước chân đến đó nữa.

Con người có thể sống với ảo ảnh, với hoài mơ, chứ kiếm kẻ chịu nổi thất vọng khi thực tế hiện ra một cách phủ phàng. Đại ca không nên mang đến cho họ niềm uất tức bị bỏ rơi. Tốt hơn, đừng đến nữa, đại ca!

Quan Sơn Nguyệt nghe lòng tan nát.

Trương Thanh thay mặt tất cả những người trên Ngũ Đài Sơn mà nói, hay mượn cái cảnh huống của những người đó mà gián tiếp nói lên tiếng lòng của chính nàng?

Chàng khoát tay, rít lên:

– Thôi đi! Thanh muội! Đừng nói nữa! Đừng!

Trương Thanh chú mắt nhìn chàng, trong ánh mắt ẩn ướt niềm xót xa lẩn oán trách. Đã nói, nàng phải nói luôn, nói một lần để rồi mãi mãi không nên nói nữa.

Nàng tiếp:

– Trong mấy năm qua, tiểu muội từng lưu tâm đến mọi hoạt động của giới giang hồ, tiểu muội nhận ra, phần lớn những diễn tiến đều bắt nguồn như oan nghiệt của ái tình. Cho nên, tiểu muội dồn nỗ lực ngăn chặn sự bành trướng của các cuộc thanh toán lẫn nhau phát sanh từ hận cừu của tình nghiệt. Từ nghìn xưa, những cuộc tranh chấp giữa giang hồ đều mang tánh chất thế quyền, lợi lộc, đặc biệt trong giai đoạn nầy, chính tình nghiệt là động cơ của mọi hoạt vụ, cái đáng lo hơn, là trong những trận mưa máu gió tanh nầy, lại có đủ từng lớp tuổi bị lôi cuốn vào! May mắn thay, tiểu muội đã thành công phần nào về việc áp chế sự bành trướng đó, và tình hình được lắng dịu bớt đi. Nhưng sự thành công đó, là một thành công giai đoạn hay trong tương lai tiểu muội sẽ chuốc lấy thất bại? Và sự lắng dịu hôm nay sẽ là tạm thời, và khi có cuộc bùng nổ trở lại, khốc liệt hơn gắp trăm ngàn lần ...

Quan Sơn Nguyệt vội đáp:

– Thanh muội, ngu huynh đã hiểu ý của Thanh muội rồi, bất quá Thanh muội nên biết cho ngu huynh ...

Thốt đến đó, chàng chực nhớ là có Giang Phàm bên cạnh, liền bỏ dở câu.

Lời không thoát được, thì chàng dùng ánh mắt nói thay lời.

Trương Thanh hiểu chàng muốn nói gì, gật đầu, tiếp:

– Quan đại ca yên tâm, tôi thấu đáo ý tứ của đại ca, sở dĩ tôi không hận đại ca là tôi hiểu những uẩn khúc trong tâm tư của đại ca. Tôi chẳng bao giờ có ý đố kỵ Giang cô nương là người từng bầu bạn với đại ca trong những ngày qua cũng như trong những ngày sắp đến.

Quan Sơn Nguyệt vòng tay:

– Thanh muội ơi, người biết nhau, quý ở tấm lòng, Thanh muội hiểu cho ngu huynh như vậy thì suốt đời ngu huynh nhớ mãi. Ngu huynh không còn gì để nói thêm nữa.

Niềm lưu luyến hiện lộ nơi ánh mắt của Trương Thanh, nàng hỏi:

– Quan đại ca sẽ làm gì trong tương lai?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Ngu huynh còn một việc cần giải quyết, xong việc đó rồi, ngu huynh trở về Đại Ba Sơn, giam mình vĩnh viễn trong Quảng Hàn Cung, dứt khoát mọi liên quan với nhân gian thế sự.

Trương Thanh gật đầu:

– Tốt! Tôi không nên cầm chân Quan đại ca lâu hơn, vậy đại ca cứ đi! Bất quá, đại ca nhớ cho rằng chúng ta là một đôi bạn tốt, giả như sau nầy đại ca có cần chi đến tôi, thì cứ ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Ngu huynh tin rằng chẳng có điều chi quan trọng cần phải làm nhọc đến Thanh muội. Việc của ngu huynh, chỉ tự mình giải quyết được thôi, bất cứ ai trên đời nầy dù thừa tài, dư sức cũng chẳng tiếp trợ ngu huynh được. Tuy nhiên, ngu huynh xin ghi nhớ lời của Thanh muội, và nếu một ngày nào đó, Thanh muội có rỗi rảnh ...

Trương Thanh vội chận lời:

– Thì tôi đến Đại Ba Sơn, vấn an đại ca! Nhưng, chẳng biết đến lúc nào mới thuận tiện đây, đại ca?

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Đến lúc nào lại chẳng được? Tại sao Thanh muội hỏi câu đó? Thanh muội nên nhớ, luôn luôn ngu huynh mở rộng cửa đón tiếp Thanh muội.

Trương Thanh nhếch nụ cười khổ:

– Quan đại ca! Tuy tôi không tin là đại ca như con rồng thiêng vẫy vùng giữa trời cao gió lộng, ngao du khắp bốn phương, không câu, không thúc, song tôi lại chẳng biết đến lúc nào thì đôi chân của đại ca phải bị dây tình trói buộc mà dừng lại vĩnh viễn ở một nơi. Cho nên, tôi không định trước thời kỳ trùng phùng.

Nói thực ra, chẳng phải tôi muốn gặp lại đại ca, điều mà tôi muốn thấy là ...

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Điều đó không thể có!

Trương Thanh không tin như vậy:

– Chưa chắc đâu, Quan đại ca! Lịnh sư đợi đến hai mươi năm dài, mới gặp được cái điều mong gặp, thì dù đại ca có lần lựa cũng thế thôi, bất quá thời gian có dài hơn, đối với lịnh sư vậy đó, chung quy rồi cũng có lúc đại ca giẫm chân lên con đường của lịnh sư. Mọi quyết định hôm nay của đại ca, thời gian có cái bổn phận sửa đổi sau nầy, cho hợp với cái số của đại ca. Con người, ai ai cũng có số hết, đại ca ơi!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút, đoạn vẫy tay:

– Hẹn gặp lại nhau, Thanh muội!

Trương Thanh trầm buồn, thấp giọng:

– Sẽ gặp lại nhau, Quan đại ca! Chào biệt Giang cô nương!

Đứng bên cạnh Quan Sơn Nguyệt, Giang Phàm nghe đôi đàng vấn đáp với nhau, không hề chen một lời nào.

Đến lúc đó, nàng mới cất tiếng hỏi:

– Trên Ngũ Đài Sơn, còn có chỗ dung nạp một người nữa chăng, hở Trương cô nương?

Trương Thanh giật mình:

– Sao bỗng nhiên cô nương hỏi tôi câu đó?

Giang Phàm biến sắc mặt:

– Câu chuyện giữa cô nương và Quan đại ca mở tâm trí của tôi rất nhiều, và tôi đã nhận ra cái địa phương mà tôi cần đi đến. Tôi xét kỹ rồi, tôi thuộc thành phần mà cô nương đang quy tụ trên đỉnh Ngũ Đài Sơn đó ...

Đến lượt Quan Sơn Nguyệt giật mình, chàng hấp tấp hỏi:

– Giang Phàm! Cái địa phương nào mà cô nương định nói đến đấy?

Trương Thanh cũng thốt:

– Giang cô nương ơi! Ngũ Đài Sơn là nơi nhóm tụ của những nữ nhân hờn duyên oán phận, đau khổ vì tình, những kẻ cô đơn chích thân chích bóng, những kẻ sống với mộng ngày qua mà nhường cái thực tại đầy diễm phúc cho một số người được tạo vật ưu ái. Cô nương đã là vợ của Quan đại ca, trong tương lai bao nhiêu phúc hạnh đang chờ ...

Giang Phàm lộ vẻ ảm đạm:

– Quan đại ca! Trương thơ thơ! Hai vị đừng lừa dối tôi! Đành rằng tôi chưa từng trải thế thái nhân tình, song ít nhất tôi cũng có cái lý trí, xét người không đúng chứ tôi xét mình nghĩ cũng chẳng sai, tôi không đến nỗi quá hồ đồ.

Trương Thanh sững sờ một lúc:

– Giang cô nương! Tôi chẳng còn biết phải nói gì với cô nương. Dù sao thì tôi không cự tuyệt ý muốn của cô nương gia nhập hàng ngũ những nữ nhân bất đắc chí trên Ngũ Đài Sơn.

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp kêu lên:

– Trương Thanh! Thanh muội ...

Trương Thanh chính sắc mặt:

– Quan đại ca! Tôi không có ý phá hoại hôn nhân của hai người đâu.

Nhưng tôi xét ra, cái việc Giang cô nương muốn ly khai đại ca, vị tất là một điều không phát xuất từ chỗ sáng suốt của tâm não?

Quan Sơn Nguyệt muốn nói, nhưng không tìm được lời, lại nín lặng.

Giang Phàm vừa khóc vừa thốt:

– Quan đại ca! Chính tôi muốn ly khai đại ca, tuy cuộc hôn nhân của chúng ta, chỉ mới là khẩu ước, song chẳng vì sự việc chưa thành mà tôi không ghi nhận hảo tâm của đại ca. Suốt đời, tôi vẫn cảm kích đại ca ...

Quan Sơn Nguyệt thấp giọng:

– Giang Phàm! Tại hạ không phải là con người phản phúc vô thường ...

Giang Phàm gật đầu:

– Tôi biết, Quan đại ca! Đại ca là một người tốt, đành rằng đại ca vì thương hại tôi mà đáp ứng cuộc hôn nhân, song tôi có thể tin được là trong tương lai, đại ca sẽ đối xử tốt đẹp với tôi, mãi mãi tốt đẹp với tôi. Dù vậy, tôi vẫn muốn ly khai đại ca.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc:

– Tại hạ không khi nào phụ phàng, Giang cô nương ...

Giang Phàm khoát tay:

– Đừng quá cố chấp, đại ca ơi! Cố chấp mà làm một việc không hoàn toàn thích hợp với tâm nguyện, thì đâu thể hướng trọn niềm vui. Huống chi, sự ly khai của tôi chẳng có giá trị gì cả, sở dĩ tôi muốn ly khai là vì đại ca cần có tự do để hành động theo ý thích, tôi không muốn mình làm một trở ngăn, ràng buộc, có thế thôi. Tôi sẽ chẳng hối hận về quyết định hôm nay đâu. Tôi noi gương của Trương thơ thơ, vĩnh viễn giữ mãi cái ý niệm tốt đẹp về đại ca.

Trương Thanh đặt tay lên vai Giang Phàm, hỏi:

– Sao cô nương thức ngộ nhanh chóng thế?

Giang Phàm đáp:

– Trước kia, thì tôi còn mù mờ, chưa biết rõ chí hướng của Quan đại ca, giờ đây, nghe hai người đối thoại, tôi mới nhận ra, đại ca chẳng khác nào con thần long, cần có trời cao đất rộng để vẫy vùng, từ trước đến nay, đại ca chưa thực sư yêu một nữ nhân nào, những gì đại ca đã làm, cho người nầy hay cho người kia, đều vì đạo nghĩa bức bách mà làm. Do đó, mình phải xét mình, không nên gây phiền lụy cho ai cả. Do đó, mình phải biết tiến, biết thoái, tuyệt đối không nên làm một người thừa, trước con mắt của bất cứ ai.

Day qua Quan Sơn Nguyệt, nàng hỏi:

– Tôi nói có đúng không, Quan đại ca?

Quan Sơn Nguyệt không đáp.

Trương Thanh rung giọng đáp thay:

– Cô nương không nói sai đâu, chẳng những thế, cô nương còn thấu triệt cái đạo lý hơn tôi nhiều. Quan đại ca vì tôi mà mạo hiểm đến Đại Ba Sơn, khẳng khái đáp ứng kết hôn với cô nương, việc đáp ứng đó dù phát xuất từ cái tâm trí thành, vẫn còn ràng buộc bởi đạo nghĩa, chứ không thể nói là vì tình yêu được.

Đương nhiên, đại ca cũng có dành cho chúng ta phần nào tình cảm, song tình cảm đó không đủ làm thỏa mãn chúng ta, vì nó là thứ tình cảm hào hiệp, không mảy may đượm chất yêu đương! Vì nó không phải là thứ tình cảm mà chúng ta mong muốn, đòi hỏi, đến ...

Giang Phàm nhanh miệng chận lại:

– Nên chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng!

Trương Thanh nhếch nụ cười khổ:

– Cô nương còn hy vọng được, chứ cái tâm của tôi thì đã chết từ lâu rồi.

Giang Phàm ngẩng cao mặt, nói:

– Chỉ cần trong tâm của Quan đại ca không có một hình ảnh nào khác, thì chúng ta vẫn có thể hy vọng, Trương thơ thơ ạ! Không nên vội vàng lạnh lòng khi còn một điểm than hồng giúp chúng ta nhen nhúm ngọn lửa yêu đương.

Trương Thanh thở ra:

– Cô nương biết không, tôi quen biết với Quan đại ca từ lâu lắm đó, thời gian quen nhau quá đủ để chứng nghiệm một thái độ, và tôi đã thức ngộ rằng niềm hy vọng dù nuôi dưỡng như thế nào, chung quy nó cũng trở thành sự tuyệt vọng. Bởi thế tôi dừng chân nơi cái chỗ phải dừng, tránh cho mình tiếp tục làm một việc vô ích.

Giang Phàm tặc lưỡi:

– Trương thơ thơ đã giúp Quan đại ca khá nhiều việc, và tình của thơ thơ đối với đại ca cũng rất nặng ...

Trương Thanh gật đầu:

– Sự thật là vậy, nếu bằng vào những diễn tiến từ trước đến nay. Nhưng, bắt đầu từ phút giây nầy trở về mai hậu, thì vị tất là như thế, Giang cô nương ơi!

Giang Phàm lắc đầu:

– Tôi hiểu trong tương lai, vẫn chẳng có người nào sánh được với cô nương.

Trương Thanh cắn răng:

– Không có người sánh được với tôi, dù quả thật là như vậy đi nữa, liệu tôi sẽ thu hoạch được gì, khi mà tôi không đủ khả năng làm rung động con tim của Quan đại ca? Không, Giang cô nương ạ, chẳng bao giờ tôi đặt kỳ vọng trong tương lai, tôi đã nói, cái tâm của tôi đã chết rồi!

Giang Phàm thở ra.

Quan Sơn Nguyệt khó chịu quá chừng, chàng buông gọn:

– Các vị nhận định tại hạ như là một kẻ trời sanh ra với tánh tình lạnh nhạt, một con người thiếu hẳn quả tim!

Trương Thanh lắc đầu, nghiêm sắc mặt, đáp:

– Tôi không có ý tưởng đó đâu, Quan đại ca. Mà tôi cũng tin rằng Giang cô nương đồng tâm tưởng với tôi luôn! Bọn chúng tôi xem đại ca là con người đáng kính, chúng tôi không hận đại ca và hằng cầu phúc cho đại ca ...

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:

– Đa tạ các vị! Vĩnh viễn tại hạ cảm kích các vị!

Giang Phàm chính sắc mặt:

– Chúng tôi không muốn đại ca cảm kích làm gì, cũng như chúng tôi không muốn đại ca miễn cưỡng bày tỏ một thứ cảm tình bất đắc dĩ, không bắt nguồn từ cái tâm chân chánh của con người. Tôi đi theo Trương thơ thơ, ở với Trương thơ thơ tại một nơi, ôm ấp cái gì đáng được hoài niệm, bỏ đi những cái phù phiếm, xa rời thực tế. Tôi sẽ sống trong hoàn cảnh đó, đại ca ạ, âm thầm đếm trọn chuỗi ngày ...

Trương Thanh điểm một nụ cười:

– Và, khi Quan đại ca tìm được một người lý tưởng, thì chúng tôi sẽ đến mầng cho đại ca gặp được tình yêu chân chánh ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tại hạ không tin là sẽ có con người đó, theo tại hạ nghĩ thì trên đời nầy, ngoài hai vị ra, chẳng còn một nữ nhân nào hiểu rõ tại hạ. Không hiểu nhau thì làm sao gọi được là người lý tưởng? Không hiểu nhau thì đâu có thể chân chánh yêu nhau?

Giang Phàm cười nhẹ, thốt:

– Thế thì Quan đại ca trong một ngày nào đó, trở lại gặp bọn tôi, lúc ấy cứ mang theo tình yêu chân chánh, tặng ai thì tặng, người không được tặng trong chúng tôi sẽ chẳng bao giờ đố kỵ, trái lại còn thành thật vui mầng cho người được tặng.

Quan Sơn Nguyệt vòng tay:

– Tại hạ không dám nói trước như thế nào, tuy nhiên, giữa cõi đời nầy, cái gì cũng có thể xảy ra được cả, hiện tại thì tâm tình của tại hạ rối loạn vô cùng, tại hạ không dám hứa là có trở lại gặp các vị hay không. Tương lai dù thế nào đi nữa, cũng sắp xếp mọi việc cho chúng ta ...

Trương Thanh nói:

– Quan đại ca nên nhớ, là có tự do hoàn toàn trong sự tuyển chọn ngày sau đấy nhé!

Quan Sơn Nguyệt nghiêm giọng:

– Giả như tại hạ quyết định yêu một người, thì người đó phải là một trong hai vị. Chẳng bao giờ có việc yêu kẻ thứ ba ...

Trương Thanh mỉm cười:

– Quan đại ca ơi, đừng vội hạn chế chiều hướng con tim, cứ để cho nó tự do tìm đường thích hợp, mặc cho nó thi hành sứ mạng tìm hạnh phúc chân chánh cho đại ca. Bởi, tình yêu không thể đến với đại ca bằng lý trí, tình yêu không chấp nhận bất cứ sự tính toán nào, có tính toán là có giao dịch, có điều kiện, trong trường hợp đó, tình yêu mất tánh cách thanh cao rồi. Chỉ có con tim thôi, chính nó tìm cái nhịp điệu tương đồng, và chỉ có nó mới không lầm lạc. Giả như Quan đại ca gặp kẻ thứ ba, bọn tôi sẽ không bao giờ oán hận đại ca. Luôn luôn, chúng tôi bình tâm chờ đợi ngày đại ca trở lại ...

Quan Sơn Nguyệt nói:

– Còn các vị cũng không nên tự giam mình trong cảnh chết như vậy! Trong tương lai, nếu gặp được một người xứng tâm, vừa ý, thì các vị đừng ngần ngại xây nhịp cầu ái ân, tại hạ sẽ hết sức hoan nghinh quyết định hợp tình hợp lý của các vị. Ngày xuân trôi qua như lá rụng, lá chẳng trở lại cành thì ngày xuân trôi qua rồi là vĩnh viễn ra đi, tại hạ nghĩ các vị cần quý trọng thời xuân, cái thời kỳ mà hương đời ngào ngạt hơn lúc nào hết!

Trương Thanh chỉnh nghiêm sắc mặt:

– Đa tạ Quan đại ca có lòng chiếu cố, song trên đường đời, mỗi người đều có một chủ trương, và chỉ có lúc kết cuộc mới biết được chủ trương của một người đó kiên định hay không, nếu bây giờ, tôi quả quyết ràng, chủ trương của tôi chẳng phải là thứ chủ trương giai đoạn, nó đổi thay tùy tiến trình thời gian, thì chắc là Quan đại ca không tin lắm!

Quan Sơn Nguyệt không dám kéo dài cuộc đối thoại hơn nữa, chàng nhảy lên lưng ngựa, vẫy tay:

– Tại hạ mong rằng lần gặp nhau hôm nay chưa phải là lần cuối!

Chàng cũng chẳng dám nhìn hai nàng, buông xong câu chào biệt, lập tức giật cương, thúc gót vào hông ngựa. Ngựa phi nước đại ngay, thoáng mắt chàng chỉ còn là một bóng nhỏ mờ trên con đường thăm thẳm ...

Nhìn theo bóng chàng, hai thiếu nữ man mác, bâng khuâng, lệ không trào mi nhưng lệ ngập cõi lòng.

Lâu lắm, Giang Phàm than nho nhỏ:

– Chàng đã đi rồi! Chàng còn trở lại chăng?

Lệ thảm bị ngăn chận từ lâu, theo tiếng nói trào lên, tuông thành dòng xuống má.

Nàng khóc, Trương Thanh cũng khóc.

Trương Thanh thốt qua mơ màng:

– Nào ai biết được những gì ở tương lai? Cô nương đã buông tay cho cánh chim trời tung mây lướt gió, thì tốt hơn là hãy hủy diệt niềm hy vọng còn lại nơi tâm tư, bởi nó đã trở thành một ảo tưởng rồi, thực tế một khi giả biệt chúng ta thì vĩnh viễn nó không hề quay về dưới hình thức cũ. Còn luyến lưu cố niệm là tự gia tăng cái khổ!

Giang Phàm cũng mơ màng:

– Tôi biết, Quan đại ca xem nghĩa nặng như núi, tôi tin rằng Quan đại ca sẽ trở lại, trong một ngày nào đó, hoặc gần, hoặc xa ...

Trương Thanh nắm lấy cương ngựa, nói:

– Hãy cố mà quên chàng đi, cô nương. Cô nương ly khai chàng như vậy, là phải lắm đó. Giả như cô nương có theo chàng khắp bốn phương trời, dù cô nương không bị chàng khinh bạc, song con người đó, chẳng bao giờ cô nương chiếm được quả tim đâu. Bởi chàng ...

Giang Phàm thốt:

– Bởi chàng đã dành con tim đó, trọn vẹn cho thơ thơ rồi!

Trương Thanh điểm một nụ cười:

– Phải! Và hiện tại thì con tim đó được chia cho cô nương một phần, bất quá tôi không hối hận, điều đó thì cô nương có thể yên trí. Bởi, sức lực của một cá nhân tôi dù sao cũng yếu, riêng một mình tôi thì tôi không hy vọng gì giữ chàng mãi mãi với mình. Song, có sự trợ giúp của cô nương, thì lại khác, trong tương lai thế nào chàng cũng sẽ trở lại với chúng ta! Trước mắt chúng ta, thời gian chờ đợi chưa biết dài hay ngắn như thế nào, tuy nhiên trên Ngũ Đài Sơn có rất nhiều việc giúp chúng ta hoạt động để quên đi cái nôn nao chờ đợi ...

Hai nàng quay đầu ngựa, từ từ trở lại Ngũ Đài Sơn.

Quan Sơn Nguyệt giục ngựa chạy nhanh về phía trước mặt, thỉnh thoảng chàng cũng có quay đầu nhìn lại. Chàng làm sao nở dứt áo ra đi như thế được?

Chàng làm sao không hiểu là hai nàng đang lấy mắt tiễn đưa chàng trên dặm đường dài, nó dài vì hầu như vô định, một con đường vô định thì còn biết đoạn cuối nó ở nơi đâu? Và đến thời gian nào thì chàng đi suốt quãng đường đó?

Hiện tại, ly khai được Giang Phàm, dù sao thì Quan Sơn Nguyệt cũng cảm thấy là mình nhẹ đi một gánh nặng, sự ly khai nàng không gây thêm niềm lưu luyến thiết tha cho lắm. Bất quá ngày nào xuôi ngược có kẻ bên cạnh, chốc chốc đàm đạo một vài câu, đành là tâm tịch mịch nhưng xác vẫn có đôi, hành trình đỡ tẻ. Giờ đây, một thân bôn ba giữa gió bụi cô đơn bao phủ quanh mình, sự đổi thay đó hơi làm cho chàng bùi ngùi một chút thôi.

Nhưng, cái điều làm cho chàng thực sự nhẹ nhàng tâm trí là Trương Thanh đã tỏ ra hiểu biết chàng, nàng phân tách tường tận những uẩn khúc trong thâm tâm của chàng, nàng nhìn vào lòng chàng như nhìn vào mảnh gương và lòng chàng phơi lộ trước mắt nàng ...

Ngồi trên mình ngựa, để mặc ngựa giục vó tiến đều, chàng hồi ức lại những gương mặt quen từ ngày tiếp nhận Minh Đà Lịnh, nối nghiệp Lịnh Chủ, dấn thân trên giang hồ, trải qua từ vùng sa mạc vào tận nội địa Trung Hoa, dĩ nhiên chàng soát lại những khuôn mặt nữ.

Bắt đầu từ Trương Thanh là nữ nhân mà chàng tiếp xúc đầu tiên trong đời, chính nàng đã gây nên một cảm nghĩ lạ lùng nơi chàng, lúc đó thì chàng chưa biết nó là cái bào thai của ái tình mà chàng bắt đầu cưu mang cho đến một ngày ...

Sau Trương Thanh, là Khổng Linh Linh, đang cơn hôn mê, chàng làm sao biết được Khổng Linh Linh dành nhiều cảm tình cho chàng?

Rồi tiếp đến Lạc Tiểu Hồng, Liễu Y Ảo, cuối cùng là Giang Phàm.

Ngoài ra, chàng làm sao quên được cái vị tiểu cô nương Linh Cô có lẽ giờ đây nàng ấy còn lưu lại Thiên Xà Cốc!

Trong các khuôn mặt quen, chỉ có Linh Cô là nhỏ tuổi hơn hết, có lẽ vì nàng cho rằng mình nhỏ tuổi, nên chẳng dám sớm tỏ lộ cảm tình chứ Quan Sơn Nguyệt thừa hiểu là nàng yêu chàng, yêu tha thiết chân thành.

Trong số đó, có nàng đổi yêu thành hận, quá hận mà muốn giết chàng, giết để vĩnh viễn chàng không về tay ai khác, chứ không vì thù mà chống đối chàng, cũng như không hề tận tụy với môn phái nào mà phải sát hại chàng, với ý chí phục vụ cho môn phái đó.

Nhưng kiểm điểm lại những đoạn tình cảm ở mỗi nàng, Quan Sơn Nguyệt thở dài. Chẳng có một nàng nào làm cho chàng phải xúc động tâm tình một cách vĩnh cửu! Cho nên, từ bao lâu nay, chàng không đáp lại những gì mà các nàng sẵn sàng dâng hiến cho chàng.

Cửa lòng của chàng còn khép chặt, hoặc giả vì chàng khó tánh hoặc giả con người lý tưởng chưa hiện đến với chàng?

Con người lý tưởng đó, đương nhiên phải có tầm mắt siêu thoát như chàng, con người đó không hề tầm thường như những nàng ấy. Về nhan sắc, họ có mỗi người một vẻ, họ là những mẫu giai nhân trên thế gian nầy, song những mẫu đó không hạp với sở thích của chàng, thì còn biết làm sao hơn? Họ trách cứ chàng lạnh lùng, cao ngạo, thì đành vậy, chàng không thể chấp nhận một cách miễn cưỡng!

Rồi chàng tự hỏi:

“Hay là thực sự mình chẳng có con tim?”.

Nhưng, chàng cũng tự tắc trách luôn là cái tao ngộ xứng ý nhất chưa đến với chàng. Chàng miên man với những ý niềm đó rất lâu, cuối cùng cũng chưa dứt khoát được tư tưởng.

Dù sao thì chàng cũng nhìn nhận là bất cận nhân tình ít nhiều, do đó mà tạo thành sự thất vọng nơi những cô nương kia, khiến họ phải hận chàng.

Bỏ đi những suy tư viển vông, chàng trở về thực tại, đặt ra một cái đích cho cuộc hành trình nầy. Chàng định đến Vu Sơn, xem Lý Trại Hồng và Ôn Kiều giải quyết sự tình như thế nào.

Từ đất Tấn vào Thục, ven theo đường là núi non, rừng rậm, lối đi kỳ khu hiểm trở, người đi bộ còn khó khăn, huống chi ngựa?

Phàm đường đi khó, thì hành trình phải chậm, chàng thay đổi chủ ý, bỏ luôn đường bộ, do theo đường thủy mà tiến tới.

Đến địa giới đất Tấn, chàng bỏ ngựa, thuê thuyền, thuận dòng Hán Thủy vào phía đông vùng Ngạc, đến Hạ Khẩu lại phải thay thuyền, theo Trường Giang xuôi về Tây, vào luôn đất Thục.

Từ Hạ Khẩu, chàng may mắn được đáp trên con thuyền khá lớn, hành khách trên thuyền rất tạp nhạp, gồm đủ hạng người, vì chàng đến chậm hơn nên khoang dành cho hành khách hết chỗ, chàng phải ngồi ở khoang sau. Nơi đây, khách lại tạp nhạp hơn.

Thành phần hành khách rất hỗn tạp, gồm đủ kẻ khuân vác, đánh xe, mua bưng, bán gánh, nông dân, tiểu thương, đến những người đi thăm thân nhân, cũng có mấy người rời quê hương, tha phương cầu thực.

Bình sanh, Quan Sơn Nguyệt chưa hề tiếp xúc với những hạng người nầy, bây giờ bỗng nhiên mà được quây quần với họ trên một chiếc thuyền kể ra cũng thú vị. Bởi, cuộc tiếp xúc nầy nói lên những cái mới mẻ đối với chàng. Những cái mà chàng cần hiểu biết, để sau nầy, thoái bước khỏi giang hồ, chàng sẽ không ngỡ ngàng hòa mình vào sanh hoạt với họ.

Người ta thấy chàng ăn mặc tươm tất đều có ý kính nể chàng. Có một vị tiểu thương sẵn sàng nhường chiếu cho chàng, điều đó làm chàng cảm kích vô cùng.

Mùa thu đã qua quá nửa, gió thu càng lạnh, gia dĩ mấy hôm nay mưa thu liên tiếp rơi, không khí buốt giá như vào đông, cái lạnh để gây sầu cho người xuất ngoại đi xa, cho nên hành khách đều có vẻ trầm trọng.

Quan Sơn Nguyệt rạt rào cảm hứng với nỗi xa, niềm gần, lấy bạc gọi chủ thuyền mang đến mấy vò rượu cùng thịt, rồi mời tất cả những kẻ đồng hành cùng chuốc chén.

Thấy chàng có vẻ hào hoa, hành khách lại càng kính nể hơn.

Thật ra, xuống thuyền rồi, Quan Sơn Nguyệt không có việc gì làm, cảm thấy thời gian dài quá, nên muốn cùng mọi người mua vui một lúc bên chén rượu nồng vậy thôi. Thành ra, vô tình chàng tạo một dịp cho mọi người a dua xu mị chàng.

Nhưng rồi chàng cũng không thấy hứng chút nào, mặc dù quanh chàng, ai cũng vui vẻ ăn uống, chuyện trò oang oang.

Chàng ngồi một chỗ, nâng chén rượu uống mà tưởng chừng như nuốt nước lã, cái hứng ban đầu phù du, thoáng hiện rồi thoáng mất.

Nhưng, chẳng phải chỉ có mỗi một mình chàng man mác trầm buồn.

Nơi góc khoang thuyền, còn có một vị khách nữa, vị nầy là một tiên sanh, chuyên khoa bói toán, hình dung khô cằn, mặt đen sạm, có lẽ y đã quá dạn dày sương gió nên con người tiều tụy thảm thương.

Tiên sanh vào lứa tuổi trên dưới lục tuần, nhưng theo sự suy đoán của Quan Sơn Nguyệt, thì con người đó già trước tuổi.

Một tấm biển bằng bố, rách nhiều chỗ, loại biển chiêu hàng có để mấy chữ:

«Ngô Khẩu Thiên lời ngay đoán tướng, nói đâu trúng đó.» Người và vật, trước mặt Quan Sơn Nguyệt, chẳng có gì lạ lùng, nhưng chàng lại chú ý đến nét bút trên tấm bố chiêu hàng.

Nét bút rất hùng vĩ, không kém nét bút của vị Thi Thơ tại Quảng Hàn Cung mà chàng có gặp qua dạo trước.

Thái độ của người đó cũng đặc dị, trong khi mọi người chung quanh ăn uống vui vẻ, thì lão ta lại điềm nhiên ngồi một chỗ, không hề uống, không hề ăn, mường tượng rượu thịt trước mắt lão là đất thó, không mùi vị gì. Gia dĩ, lão nghèo, tấm biển kia, chắc chắn là tự lão viết lên, chứ tiền đâu mà thuê viết? Con người nghèo sao lại không thích uống, ăn, nhất là khỏi phải trả tiền?

Quan Sơn Nguyệt không khỏi chú ý đến lão tiền bối đó. Chàng nhìn lão một lúc, đoạn bước tới trước mặt lão, vòng tay chào, rồi hỏi:

– Sao tiên sanh không ăn uống?

Tiên sanh lạnh lùng đáp:

– Không công mà hưởng lộc, là điều lão phu chẳng bao giờ làm. Chẳng có tiền mua ăn mua uống, thì đành nhịn ăn nhịn uống, chứ không hề tiếp nhận của ai, tiếp nhận như thế có khác nào là ăn mày? Lão phu không thích hưởng thứ của bố thí.

Vẻ mặt đã lạnh lùng, giọng nói lại cao ngạo quá, nhưng Quan Sơn Nguyệt không lấy làm điều.

Chàng dằn lòng được, song những người chung quanh lại không dằn lòng được, họ đã ăn đã uống, như vậy họ là những tên ăn mày sao? Họ hưởng của bố thí sao? Trong số hành khách, một vị thương gia bước ra cao giọng thốt:

– Ngươi là cái quái gì đó mà dám buông lời hỗn xược? Vị công tử này có nhã ý mời ...

Y hất cánh tay lên, ống tay áo thụt lại, động tác đó chứng tỏ y sẵn sàng động thủ.

Quan Sơn Nguyệt vội ngăn chặn:

– Mỗi người đều có tự do hành động, theo ý muốn riêng biệt chúng ta không thể cưỡng bách ai ...

Người thương khách đó không phục, cãi:

– Lão không tiếp thọ hảo tình của công tử, thì mặc lão chứ, tại sao lão nói năng hồ đồ ngang ngược thế? Bọn chúng tôi là kẻ hưởng sự bố thí của công tử sao?

Quan Sơn Nguyệt phải nhận thương gia đó nói đúng, tuy nhiên chàng mỉm cười, đàn giải:

– Người trong bốn biển, đều là huynh đệ cả, tại hạ mời các vị uống chén rượu nhạt, là để làm quen với nhau, các vị không nỡ chối từ, tại hạ hết sức cảm kích, đó là điều quan trọng. Còn như cái việc nói năng châm chích kia, là sự nhỏ mọn, huynh đài và các vị bỏ qua đi cho. Giận dỗi mà làm gì?

Người khách thương thốt:

– Giọng nói và thái độ của lão ta đáng ghét quá, lão hỗn xược như vậy, phải xin lỗi mọi người mới được cho.

Song phương cãi lẫy với nhau một lúc, Quan Sơn Nguyệt cố giải hòa, sau cùng chàng hỏi:

– Xin tiên sinh ...

Lão tướng số chỉ tay vào tấm bố đáp chận:

– Ngoài cái việc đoán mạng ra, lão phu chẳng biết gì cả, công tử muốn hỏi gì khác, thì đừng hỏi mất công, còn như muốn nhờ lão đoán vận mạng, thì trước hết phải ngã giá cho đàng hoàng.

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Tại hạ chỉ muốn thỉnh giáo quý danh tánh.

Tiên sanh lai chỉ tấm bố:

– Tên họ của lão phu ở trong đó.

Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:

– Thế tiên sanh tên là Ngô Khẩu Thiên?

Tiên sanh gật đầu, rồi lão tiếp:

– Công tử muốn xem tướng, xin đưa ra cái giá đi!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Giá cả, phải do tiên sanh định chứ, sao lại bảo tại hạ nói ra? Chẳng hay tiên sanh muốn nhận bao nhiêu thù lao?

Nhưng, người khách thương chen vào:

– Đừng, công tử! Lão ấy chỉ biết nói bậy nói bạ, xứng đáng chi đó mà công tử lại phí tiền vô ích? Cứ để cho tôi xem trước đi nếu lão nói trúng, thì công tử sẽ nhờ đến lão.

Đoạn y hỏi:

– Đoán mạng cho ta, ngươi lấy bao nhiêu tiền?

Ngô Khẩu Thiên đáp:

– Đoán cho người có quý tướng, ta lấy rất ít thù lao, ngược lại đoán cho bình thường, thì ta đòi thật nhiều tiền. Như ngươi đó, mạng của ngươi chẳng đáng một đồng tiền, xem cho ngươi vừa vô ích vừa chán, ta đòi một ngàn lượng bạc đó.

Thương gia nhảy dựng lên:

– Còn vị công tử này?

Ngô Khẩu Thiên tiếp luôn:

– Công tử có quý tướng, ta chỉ lấy nửa lượng bạc thôi.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 65

Sầu Lên Trường Giang

Quan Sơn Nguyệt không khỏi bất bình, cho rằng Ngô Khẩu Thiên có thâm ý mỉa mai rõ rệt. Bởi làm gì có cái quy củ nghịch thường như vậy? Trên đời phàm là nhà tướng số thì ai lại không mong mỏi gặp được khách hàng có quý tướng? Khách càng quý thì thù lao càng trọng, sao lại gặp khách quý mà chỉ lấy thù lao tượng trưng còn gặp khách hèn thì đòi cao giá? Chàng nghĩ, đối với lão ta chàng hết sức lễ độ, ngược lại lão ta đối xử với chàng bằng cách đó, thì đáng hận thật.

Nhưng lão tướng số lại điểm một nụ cười, giải thích:

– Lão phu có cách đoán mạng lạ hơn bất cứ nhà tướng số nào, gặp người quý thì không cần thù lao, gặp kẻ hèn thì đòi rất cao, sự thật là vậy chứ không hề có hậu ý chi cả. Bởi lão phu nghĩ, kẻ hèn thì còn hy vọng chi nữa mà mong biết vận mạng? Kẻ đó làm một việc đèo bòng, lão phu phải đòi nặng cho mà ngán.

Quan Sơn Nguyệt hơi mỉa mai:

– Chỉ sợ tiên sinh hạ thấp giá trị một người để tăng bổng một người ...

Ngô Khẩu Thiên cười lạnh:

– Nếu lão phu biết nịnh hót một lần thôi cũng đủ sung sướng trọn đời, làm gì sống cái cảnh lạc phách rày đó mai đây cam chịu mọi thiếu thốn? Bởi chán ghét sự phụng thừa nên lão phu mới ấn định cái quy củ nghịch thường như vậy đó.

Quan Sơn Nguyệt chỉ mỉm cười không đáp.

Ngô Khẩu Thiên tiếp luôn:

– Tuy cái quy củ nghịch thường song rất công bình, công tử ạ. Người có tướng quý thì gặp hung cũng hóa kiết, gặp nguy cũng hóa an, lão phu cần chi phải nói tốt? Không nói tốt thì làm sao đòi thù lao nặng? Còn như những kẻ hèn hạ gặp hung gặp nạn là phải nguy, do đó lão phu cần chỉ điểm cho họ để chuyển hung chuyển nạn thành kiết thành an, lão phu phải suy đoán nhiều hơn, phí công nhiều hơn, tự nhiên thù lao phải xứng đáng với cái công đó.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Tiên sinh có lý.

Ngô Khẩu Thiên thở dài, lại tiếp:

– Nói cho thông đạo lý chưa chắc có đủ cơm ăn, áo mặc, phàm người biết đạo lý thì ngàn vàng đâu có tiếc, chẳng hạn như công tử đó. Nhưng khốn nỗi, đối với hạng người như công tử thì lão phu lại chẳng thể lấy nhiều tiền, cho nên nghề tuy tinh mà vẫn đói mãi công tử ơi.

Người khách thương «hừ» một tiếng:

– Ai bảo ngươi lập dị? Có đói cũng đáng đời!

Ngô Khẩu Thiên thở dài:

– Lão phu đã nói là cam chịu mà. Thú thật, làm cái nghề này từ bao nhiêu năm qua, lão phu không bảo đảm nổi ngày ba bữa ăn đó.

Người khách thương day qua Quan Sơn Nguyệt:

– Tôi nghĩ nửa lượng bạc chẳng là bao, công tử cứ bố thí cho lão ta đi, thử xem lão ta đoán có đúng vận mạng hay không. Tôi nghĩ rằng lão đang đói lắm đó.

Ngô Khẩu Thiên thở dài lượt thứ ba:

– Đúng vậy, từ hôm qua lão phu chẳng có ăn uống gì. Nhưng ai cho không thì nhất định khước từ, bằng xem vận mạng thì lão phu sẵn sàng, đồng tiền đó là tiền công chứ chẳng phải tiền ăn mày, lão phu vui vẻ mà nhận.

Quan Sơn Nguyệt ướm thử:

– Xem thì xem, song tại hạ xin mời tiên sinh trước khi xem hãy uống rượu đó, ăn thịt đó, ăn uống rồi sẽ xem cũng chẳng muộn.

Chàng đưa tay chỉ rượu thịt bày trước mắt Ngô Khẩu Thiên.

Ngô Khẩu Thiên lắc đầu:

– Không được! Lão phu đã lập chí chẳng bao giờ nhận lộc không công.

Nếu không có cái chí đó thì lão phu đã no từ lâu rồi, đâu đến nỗi mang bụng đói mà xuống thuyền?

Quan Sơn Nguyệt tán:

– Tiên sinh có khí tiết cao quá.

Ngô Khẩu Thiên gằn từng tiếng:

– Nghèo gì thì nghèo, nhất định không thể nghèo khí tiết. Bởi vắng khí tiết là hết còn con người rồi. Lão phu nhờ có nó mà cao mặt sống đến tuần tuổi này đó công tử ơi!

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Cách xem tướng của tiên sinh như thế nào?

Ngô Khẩu Thiên đáp:

– Công tử cứ yên lặng, chẳng cần nói năng gì, lão phu quan sát dung mạo mà đoán. Nếu lão phu đoán sai, công tử có quyền xé nát tấm chiêu bài của lão phu.

Người khách thương lại bật cười vang:

– Xứng đáng chi một tấm bố rách mà bảo người ta phí công mó tay vào?

Ngô Khẩu Thiên chỉnh nghiêm sắc mặt:

– Nó không có giá trị vật chất song nó tượng trưng cho sự sống còn của lão phu, nhờ nó mà người ta sẵn sàng đem tiền đến cho lão phu, thì nó có giá trị tinh thần lắm chứ. Nó nêu rõ sanh ý của lão phu mà.

Quan Sơn Nguyệt đi ngay vào việc:

– Bây giờ xin tiên sinh xem giúp.

Ngô Khẩu Thiên nhìn chàng một lúc rồi đoán:

– Công tử cô đơn ngay từ lúc nhỏ, đôi mày lên đến tận mang tai thế kia là cha mất sớm, cốt nhục phân ly, chỉ như mẹ thì ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình hấp tấp hỏi:

– Gia mẫu làm sao?

Ngô Khẩu Thiên đáp:

– Lão phu nói ra rồi, mong công tử đừng nổi giận.

Quan Sơn Nguyệt cắn mạnh hai hàm răng, đoạn thốt:

– Tiên sinh cứ nói.

Ngô Khẩu Thiên khẽ vuốt chòm râu, tiếp:

– Lịnh đường và lịnh tôn vốn không có duyên phận với nhau. Lịnh đường lại cũng chẳng có cái phần làm mẹ đối với công tử, sở dĩ hai vị cấu hợp với nhau là vì có sự miễn cưỡng, rồi do sự miễn cưỡng đó công tử mới ra đời. Một cuộc chung hiệp bất đắc dĩ như vậy chẳng bao giờ đem lại hạnh phúc, cho nên có sự thê thảm là lẽ đương nhiên, chẳng có gì phải lấy làm lạ.

Quan Sơn Nguyệt nghe nhói ở tim, bắt buộc phải công nhận:

– Tiên sinh đoán rất đúng.

Ngô Khẩu Thiên lại tiếp:

– Cung mạng của công tử rất là cường mãnh, ở với cha tất khắc cha, ở với mẹ tất khắc mẹ, dù có huynh đệ thì tiếng là huynh đệ song không thật sự là tay chân. Nhìn vào tướng sắc của công tử hiện tại, lão phu đoán là lịnh đường đã ...

Quan Sơn Nguyệt lại nghe nhói ở tim một lượt nữa:

– Gia mẫu đã tạ thế rồi.

Ngô Khẩu Thiên thở dài:

– Một cái chết đầy uất hận ...

Quan Sơn Nguyệt bật khóc. Rồi chàng bảo:

– Tiên sinh cứ đoán tiếp.

Ngô Khẩu Thiên lại nhìn chàng một lúc nữa:

– Các hạ lúc nhỏ tuy xa rời cha mẹ, song không đến đổi phải lưu lạc điêu linh, và trong những năm sau này các hạ có trải qua nhiều gian hiểm, tuy nhiên mỗi lần gặp nguy cơ là có nữ nhân xuất hiện tiếp cứu.

Lão ta bỏ hai tiếng công tử mà dùng qua hai tiếng các hạ để cho cuộc tiếp xúc có tánh cách giang hồ hơn.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Chàng phải nhìn nhận lão tướng số này có biệt tài, chẳng như những người đoán mạng khác, tha phương cầu thực, chuyên tán dương bịa đặt mua chuộc khách hàng.

Trong võ lâm người ta có thể hiểu chàng qua những thành tích, còn như lai lịch thầm kín của chàng thì đã có mấy kẻ am tường?

Lão tướng số này nhất định không thể nghe ngóng mà đoán mò.

Ngô Khẩu Thiên nói về việc đã qua xong rồi nín lặng, không nói tiếp.

Quan Sơn Nguyệt đợi mãi, cuối cùng phải cất tiếng hỏi:

– Tiên sinh còn điều chi chỉ giáo nữa chăng?

Ngô Khẩu Thiên mỉm cười đáp:

– Xem tướng đoán mạng, lão phu chỉ nói được bao nhiêu đó thôi. Còn như các hạ muốn biết gì thêm thì cứ hỏi, lão phu sẽ đoán cho, theo câu hỏi của các hạ.

Quan Sơn Nguyệt suy tư một chút:

– Trong tương lại tại hạ sẽ có một kết cuộc như thế nào?

Ngô Khẩu Thiên trầm ngâm giây lâu:

– Điều này rất khó nói, chiếu theo cung mạng của các hạ thì từ năm hai mươi lăm tuổi trở lên các hạ chẳng có một ngày nào an ninh cả. Các hạ sẽ trải qua đủ ba mươi sáu lần đại kiếp, những gì đã đến với các hạ trong thời gian qua tính lại chỉ mới có sáu lần đại kiếp thôi, còn những ba mươi lần nữa và lần nào cũng có sự đổ máu. Các hạ sẽ qua lọt hết ba mươi lần còn lại hay không, điều đó thì lão phu không thể quyết đoán được.

Quan Sơn Nguyệt trầm lặng không nói một tiếng nào.

Người khách thương buột miệng chen vào:

– Vậy là ngươi không biết đoán cái quái gì cả. Không đoán được họa phúc trong tương lai của người thì còn xưng là tướng số làm chi? Hành nghề như ngươi vậy thì ai mà làm chẳng được.

Ngô Khẩu Thiên chớp mắt:

– Mạng là do trời sanh, vận là do người cải biến, cho nên không thể nào hồ đồ vọng đoán cái đại kiếp sanh tử của một con người. Một ý niệm nhân từ cũng có thể vun bồi cội đức, làm một điều thiện cũng có thể được tăng gia số thọ, trong cái chỗ tối tăm mù mờ có quỷ thần soi xét, thiện ác thể nào thì có nhân quả thế ấy báo ứng hiển nhiên, chúng ta đều là phàm phu tục tử sao dám luận đến thiên cơ?

Quan Sơn Nguyệt tỉnh ngộ:

– Tiên sinh nói phải lắm. Đối với sự việc trong tương lai, tại hạ không dám nghe gì mà cũng chẳng dám nghĩ đến, chỉ theo lòng mình mà hành sự, trong chốn khuất mặt khuất mày có quỷ thần chứng giám, tại hạ cứ đường ngay đi tới thôi.

Ngô Khẩu Thiên vỗ tay reo lên:

– Phải! Nói như thế là đạt cái lý của nhân sanh rồi. Hành sự toàn bằng vào cái tâm, thì ngửa mặt lên các hạ không sợ trời, nhìn xuống các hạ không thẹn với người. Thiên đạo chí công, dù mình gặp hung, hung cũng hóa kiết, bao nhiêu tai họa cũng được giải trừ.

Quan Sơn Nguyệt tiếp:

– Lần này tại hạ theo hướng Tây tìm người, chẳng hay ...

Ngô Khẩu Thiên chận đáp:

– Cái điều đó không ứng hiện nơi tướng người, các hạ hãy nói cho lão phu một chữ đi, lão phu sẽ dùng khoa chiết tự mà đoán xem sao.

Quan Sơn Nguyệt không đắn đo:

– Tại hạ chọn chữ Quan đó. Quan sơn vạn dặm ...

Ngô Khẩu Thiên nhúng ngón tay vào chén rượu trước mặt, viết lên sàn thuyền chữ Quan hơi lớn một chút, rồi nhắm mắt lại suy tư. Một lúc sau lão thốt:

– Chữ Quan do các hạ đưa ra không có liên quan gì đến việc tìm người cả.

Bất quá người mà các hạ nói là đi tìm đó chỉ dính dáng phần nào vào cái việc mà các hạ muốn hiểu. Nếu thực sự đúng là các hạ đi tìm người thì lão phu xin xé quách tấm chiêu bài này, bỏ nghề luôn.

Quan Sơn Nguyệt hấp tấp thốt:

– Thì tìm người cũng là để mà hỏi việc.

Ngô Khẩu Thiên lắc đầu:

– Không phải vậy đâu. Phàm về khoa chiết tự thì có mỗi một việc trọng yếu mà thôi, sự ứng nghiệm chỉ liên quan đến sự trọng yếu đó. Giả như các hạ muốn tìm người mà chữ Quan thì không ứng nghiệm cho việc tìm người, như vậy chứng tỏ là các hạ không có ý tìm người, chẳng qua các hạ muốn nói quanh ra ngoài điểm chánh mà thôi.

Quan Sơn Nguyệt phải thầm nhận lão tướng số nói đúng. Tuy cái tâm muốn gặp Lý Trại Hồng tại Vu Sơn, song cái ý thì lại muốn biết sự tình giữa Lý Trại Hồng và Ôn bà được giải quyết như thế nào.

Và cái người thực sự đáng cho chàng quan tâm hơn hết là Ôn bà chứ không là Lý Trại Hồng.

Suy theo đó thì lần ra đi Vu Sơn này có liên quan đến Ôn Kiều hơn là Lý Trại Hồng, và cái người chàng muốn gặp lại là Ôn Kiều dù chàng cứ tưởng đến Lý Trại Hồng.

Chàng phải phục cái tài chiết tự của Ngô Khẩu Thiên. Chàng vòng tay thốt:

– Tiên sinh cao minh quá, thực sự thì tại hạ muốn dọ thám một sự kiện chứ không phải là tìm người.

Ngô Khẩu Thiên cười hì hì:

– Các hạ đùa ác quá, rõ ràng là hỏi việc mà lại nói là tìm người! Làm lão phu rối rắm lên, cứ tưởng là khả năng của mình đi vắng!

Quan Sơn Nguyệt lại vòng tay, nghiêm sắc mặt hỏi:

– Trong chuyến Tây hành này mục đích là hỏi việc, chẳng hay kết quả ra làm sao?

Ngô Khẩu Thiên suy nghĩ một chút:

– Theo sự ứng nghiệm thì sự tình có kết quả đấy, tuy nhiên không phải là ở trước mắt đâu.

Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

– Kết quả như thế nào?

Ngô Khẩu Thiên tiếp:

– Sự hiểu biết của lão phu đến đây là cùng, cứ theo hình thể của chữ Quan thì ngoài là môn trong là uy, đóng cửa lại mà gỡ rối mớ tơ lòng, nếu bền chí kiên tâm thì rồi cũng sẽ thấy đầu mối. Tuy nhiên kết quả có chiều thuận lợi cho các hạ đó, có điều vì là một mớ tơ rối rắm, người trong cửa khó mà tự tìm ra đầu mối, do đó phải thêm sự tiếp trợ bên ngoài. Nhân cái sự trong và ngoài liên kết với nhau như vậy, lão phu đoán là còn nhiều chi tiết khác phát sanh nữa và cái kết quả không thể có trước mắt, mà chỉ phát hiện ở tương lai thôi.

Ngô Khẩu Thiên ngẫm nghĩ giây lâu:

– Do một chữ mà đoán ra bao nhiêu điều vừa nói, kể cũng nhiều rồi, vả lại những điều đó toàn là việc tương lai, chưa biết trúng hay sai, vậy các hạ không nên hỏi nữa, tránh cho lão phu vọng đoán.

Quan Sơn Nguyệt đáp tạ:

– Tại hạ hết sức cảm kích tiên sinh.

Ngô Khẩu Thiên thở dài:

– Muốn lấy một đồng tiền nhỏ mọn sống lây lất qua ngày, lão phu phải nói, nói nhiều miệng khô lưỡi gãy, nghĩ ra cái đạo cầu sanh thật khó khăn thay ...

Đến lúc đó, lão ta mới nâng chén rượu uống cạn rồi cầm đũa gắp thịt mà ăn.

Nhịn ăn uống, lão ta nhịn rất hay, chẳng hề tỏ cái vẻ gì thèm thuồng dù đói lả suốt hai hôm liền. Đến lúc ăn uống lão ta cũng hay, một loáng sau là rượu cạn bình thịt sạch dĩa, trọn mâm thịt rượu dành phần cho lão đã được lão dọn rất kỹ.

Ăn uống xong lão lại than:

– Đời người ta quý ở cái nhàn, song cái đó thì đem bán chẳng được một đồng. Uốn ba tất lưỡi hao bao nước bọt chỉ đổi lấy chút ăn chút uống, nhưng lại chẳng đủ no, chẳng biết tiên sướng như thế nào chứ ta thì nghĩ ăn no rồi sướng lắm, nếu hai cái sướng bằng nhau thì kẻ ăn no cũng là một thứ tiên.

Quan Sơn Nguyệt thương hại quá chừng, đẩy chiếc mâm của chàng đến trước mặt lão, tự tay rót cho lão một chén rượu đoạn thốt:

– Tiên sinh cứ ăn thêm cho vừa.

Ngô Khẩu Thiên ngẩng mặt lên nhìn chàng:

– Thức ăn trên thuyền giá phải đắt hơn ở tại đất liền, thì tiền thù lao do các hạ tặng lão phu chỉ vừa đủ một bữa ăn và lão phu đã ăn rồi, không dám hưởng thêm nữa đâu, hưởng như vậy là quá phận, là hưởng cái thứ của không công.

Quan Sơn Nguyệt cau mày, nhận thấy lão tướng số này cố chấp quá độ.

Chàng tìm một cách nào đó nói cho lão ưng thuận mà ăn thêm.

Trong khi đó người khách thương cười chen vào:

– Này cái lão bói! Ta thấy ngươi còn muốn ăn muốn uống nữa, rõ ràng thế mà vẫn làm cao. Tại sao ngươi làm khổ cái dạ dày của ngươi? Thôi đi, người ta cho thì cứ ăn, ăn cho cái dạ dày nó nhờ, nó chẳng có làm chi mà ngươi thù nó.

Ngô Khẩu Thiên lắc đầu:

– Không được! Không được! Đói mà chết là việc nhỏ, còn để mất tiết tháo là việc lớn.

Người khách thương mỉm cười:

– Ta thương hại cho ngươi hết sức. Vậy, ta mách nước cho ngươi nhé. Cứ đoán tiếp cho công tử đi, đoán bừa bãi cũng được, để có cớ mà ăn no.

Ngô Khẩu Thiên chớp mắt:

– Cũng được, nhưng phải đoán nghiêm chỉnh, chứ khi nào ta lại đoán bừa bãi? Thế công tử còn điều chi muốn hỏi nữa chăng?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút.

Người khách thương lại vọt miệng chen vào:

– Thì ngươi cứ đoán xem công tử sau này phải có mấy vợ cả thảy?

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Đối với vấn đề đó tại hạ không thấy có hứng thú chút nào.

Người khách thương đưa tay chà xát nơi đôi mắt mọng mi, cười hì hì, thốt:

– Công tử nói sao chứ đời con người ta chỉ có ba việc trọng đại nhất là:

ăn, mặc, lấy vợ chồng. Tại sao công tử có ý nghĩ lạ lùng như vậy? Bọn chúng tôi đây nghèo mạt còn cố tìm cách lấy cho được một con vợ, con người có vợ mới là mãn nguyện được chứ, huống hồ công tử nghi biểu phi phàm, bên mình lại thừa vàng vung vãi mà không tìm một cô gái đẹp để bầu bạn sớm hôm, thật đáng tiếc!

Quan Sơn Nguyệt nghe những lời đó như nghe ai chưởi vào mặt mình, bực dọc hết sức, toan cãi, nhưng Ngô Khẩu Thiên đã chận lời:

– Nếu công tử muốn biết việc chung thân thì lão phu sẵn sàng đoán cho, và nhân dịp này lão phu phát tài luôn.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:

– Tiên sinh nói thế là nghĩa làm sao?

Ngô Khẩu Thiên mỉm cười:

– Làm cái nghề của lão phu ít có dịp phát tài lắm công tử ạ! Bởi chỉ khi nào lão phu đoán việc chung thân thì mới có được một số thù lao quan trọng. Và mỗi lần có ai hỏi đến hôn nhân là lão phu đòi đúng một trăm lạng vàng, nhất định không thiếu!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc.

Chẳng rõ vì muốn giúp lão tướng số qua cơn vận bỉ hay vì hiếu kỳ trong vấn đề hôn sự, sau đó chàng đưa tay vào mình lấy ra một hạt minh châu đặt trên chiếc mâm trước mặt Ngô Khẩu Thiên, rồi cung kính hỏi:

– Tiên sinh liệu xem nó có trị giá được trăm lạng vàng chăng?

Ngô Khẩu Thiên cầm hạt minh châu xem qua, thay vì đáp, hỏi lại:

– Thật tình các hạ muốn đoán?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Xin tiên sinh chỉ giáo.

Ngô Khẩu Thiên thở dài:

– Về nhân duyên thì ... có nhiều nỗi éo le lắm, các hạ vốn được rất nhiều giai nhân mơ ước, nhưng kết cuộc thì ... lão phu không nỡ nói cho rõ ràng ...

Quan Sơn Nguyệt thản nhiên:

– Tiên sinh cứ nói thẳng, thấy sao nói vậy, tại hạ cũng biết rằng cái việc chung thân của mình chẳng sáng lạn gì cho lắm đâu!

Ngô Khẩu Thiên lắc đầu:

– Không phải vậy đâu! Bất quá người bạn trăm năm của các hạ sau này lớn hơn các hạ mấy tuổi và lại là một quả phụ ...

Dĩ nhiên Quan Sơn Nguyệt không tin được lời đoán đó, bởi khi nào chàng lại lấy một quả phụ lớn tuổi hơn chàng làm vợ?

Biết là chàng không tin, Ngô Khẩu Thiên chỉnh sắc tiếp:

– Các hạ không tin thì cứ thu hồi hạt minh châu, đợi khi nào việc ứng hiện rồi các hạ sẽ trao cho lão phu cũng chẳng muộn gì. Dù sao thì việc chưa đến có ai tin được? Lão phu không lấy làm lạ đâu.

Lão cầm hạt minh châu hoàn lại cho Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt cự tuyệt, thốt:

– Bất tất tiên sinh phải hoàn lại! Tại hạ có lòng khâm phục tiên sinh mười phần, thì chuyện chi mà tại hạ dám nghi ngờ chứ? Chẳng qua, mới nghe thì hơi lạ lùng, có vậy thôi. Sau này khi việc ứng hiện rồi, tại hạ sẽ tìm tiên sinh mà trao thù lao thì biết tiên sinh ở đâu mà tìm?

Ngô Khẩu Thiên mỉm cười, lắc đầu đáp:

– Không khó đâu các hạ. Việc này theo lão phu thấy, nó ứng nghiệm trong vòng tháng này thôi và có thể là trước khi các hạ rời con thuyền này. Như vậy các hạ có cần gì tìm lão phu ở chốn xa xôi mà ngại?

Quan Sơn Nguyệt lại càng khó tin hơn. Chàng tính toán cuộc hành trình này nếu thuận buồm xuôi gió thì chỉ trong một vài hôm là chàng đến Vu Sơn, không lẽ trong thời gian ngắn đó lại có chuyện lạ xảy ra?

Suy nghĩ một lúc chàng thu hồi hạt minh châu, cất vào mình, rồi thốt:

– Nếu vậy, tại hạ xin chờ xem sự diệu đoán của tiên sinh có ứng nghiệm như thần chăng?

Ngô Khẩu Thiên lộ niềm cao hứng, tiếp:

– Cái hạt minh châu đó cầm như thuộc về lão phu rồi, bất quá chỉ còn chờ đợi một vài hôm là nắm lấy chủ quyền, tùy ý tiện dụng. Lão phu hành nghề từ bao lâu nay, chưa có dịp nào phát tài như hôm nay vậy, thế tất phải ăn mừng mới được! Chủ thuyền đâu? Hỡi chủ thuyền?

Chủ thuyền nghe gọi lập tức bước vào hỏi:

– Quý khách có điều chi phân phó?

Trong thuyền này ai ai cũng biết Quan Sơn Nguyệt là khách sang giàu, chủ thuyền lại càng biết rõ điều đó hơn ai hết. Cho nên câu hỏi của y dĩ nhiên hướng về Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt đưa tay chỉ Ngô Khẩu Thiên, bảo:

– Chính vị tiên sinh đó gọi chứ không phải tại hạ.

Chủ thuyền hướng qua lão tướng số, gương mặt của y mất vẻ tôn kính lẫn sốt sắng đã hiện ra lúc mới vào. Chẳng những thế, y chỉ nhìn mà không nói, lấy mắt mà hỏi chứ không chịu mở miệng.

Ngô Khẩu Thiên chớp mắt, thốt:

– Hôm nay lão phu muốn thỉnh khách một lần, ngươi hãy đem rượu hảo hạng trên thuyền đến đây, còn bao nhiêu cứ đem hết, thức ăn cũng thế, phải chọn thức ăn thật ngon và đem thật nhiều. Lão phu không hề so đo giá cả chi đâu.

Nhưng chủ thuyền chừng như không tin lắm nên chưa nhúc nhít.

Người khách thương hối thúc:

– Sao ngươi chưa đi?

Chủ thuyền do dự thấy rõ:

– Xin các vị lượng thứ cho, thuyền này chở khách rất nhiều, thức ăn thức uống có hạn, tiểu nhân phải e dè dành giữ lại đó cho tất cả có mà dùng dọc đường ...

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

– Ở khoang thuyền trước còn có rất nhiều khách quyền quý, nếu không đủ vật thực cho các vị ấy dùng thì các vị ấy sẽ bắt tội tôi.

Người khách thương trừng mắt:

– Các người đó có tiền trả cho ngươi chứ bọn ta không tiền trả hay sao?

Chủ thuyền cười hì hì:

– Quý khách hiểu lầm ý của tôi, tôi muốn nói đến số lượng vật thực tích trữ chứ nào so đo về tiền bạc đâu? Tôi chỉ sợ thiếu cái ăn cái uống trong khi thuyền còn bềnh bồng trên dòng sông chưa đến bến.

Người khách thương «à» lên một tiếng:

– Tưởng gì chứ cái đó thì ngươi lo chi cho mệt, đêm nay thuyền không đổ lại Nghi Đô sao mà ngươi sợ? Lúc đó ngươi sẽ mặc sức mà mua sắm dự trữ thêm ...

Chủ thuyền nhếch môi nhưng không cười:

– Tiền đó thì chỉ khi nào đến bến khách mới trả, mà các vị lại đi vào đất Thục xa xôi kia mà. Chúng tôi phải xuất tiền trước mua vật thực cung ứng cho các vị ở dọc đường, dù có ghé lại Nghi Đô cũng chẳng thừa tiền mà mua sắm. Cho nên tôi phải dè dặt cho cái số lượng đồ ăn thức uống tích trữ trên thuyền đủ cho suốt cuộc hành trình.

Người khách thương cười nhẹ:

– Ngươi nói tới nói lui chung quy rồi cũng ló ra cái ý sợ bọn ta ăn uống chịu.

Sao ngươi không nói trắng ra trước đi có phải là gọn không?

Chính hắn mở hầu bao lấy ra một đỉnh bạc ước độ hai mươi lượng trao cho chủ thuyền.

Chủ thuyền sáng mắt lên, cười tít mấy tiếng, quay mình bước ra lo cuộc rượu thịt liền.

Ngô Khẩu Thiên liếc xéo qua người khách thương hỏi:

– Sao tôn huynh hào phóng thế?

Người khách thương nhướng mắt, cười đáp:

– Ta chỉ muốn tỏ sự khẳng khái đối với việc của người khác cho nên ta thay thế ngươi mà ứng trước số tiền đó thôi. Hiện tại thì ngươi phát tài hàng trăm hàng ngàn lượng vàng, ta còn sợ ngươi không trải lại cho ta hay sao chứ?

Ngô Khẩu Thiên mỉm cười:

– Nếu lời nói của lão phu không ứng nghiệm thì dù tôn huynh có giết chết, lão phu cũng chẳng có tiền mà trả lại.

Người khách thương thản nhiên:

– Chẳng quan hệ chi đó. Ngươi không trả thì vị công tử này cũng trả. Cho ngươi biết, đó là tiền dành dụm của ta từ nhiều năm qua, để lúc tắt thở có mà mua quan tài. Tiền hòm tiền rương, chẳng ai giành giựt đâu!

Ngô Khẩu Thiên «hừ» một tiếng:

– Mời khách là lão phu, sao tôn huynh lại đòi tiền người khác?

Người khách thương bật cười ha hả:

– Vạn nhất ngươi đoán trúng thì ngươi có hạt minh châu và còn lo chi mất tiền? Ngược lại, nếu ngươi đoán sai thì vị công tử này vui không tưởng nổi, với niềm vui đó, công tử dù có mất đi vài mươi lượng bạc kể ra cũng chưa thấm vào đâu!

Ngô Khẩu Thiên cười lạnh:

– Tính toán như tôn huynh thì kỹ quá!

Người khách thương gật gù:

– Chứ sao. Sanh ý bắt buộc ta phải có con mắt tinh tường thấy được những cái mà người ngoài nghề không thấy nổi, nhưng cầm một bàn toán mà gõ lắc cắc, gõ sai là tiêu tan sự nghiệp còn gì?

Ngô Khẩu Thiên trừng mắt:

– Lão phu sợ cái lối tính toán của tôn huynh, vốn ý của lão phu không muốn mời tôn huynh, song vì việc ứng tiền này mà lão phu bắt buộc phải làm một việc trái ý mình rồi đó.

Người khách thương tỉnh bơ:

– Ta cũng biết là ngươi sẽ không đếm xỉa gì đến ta, cho nên phải bắt trước nhịp cầu thông cảm!

Ngô Khẩu Thiên bĩu môi:

– Đừng tưởng ăn uống khỏi trả tiền là khôn ngoan, lão phu e rằng những thứ đó không tiêu hóa.

Bất chợt lão hỏi:

– Tiền đó để mua quan tài phải không?

Người khách thương cười khanh khách:

– Ta đã nói rồi mà!

Ngô Khẩu Thiên lắc đầu:

– Vô ích! Lão phu đã xem qua tướng của tôn huynh rồi, cái số của tôn huynh là chết không đất chôn, làm gì cần đến một cổ quan tài?

Người khách thương vùn vai:

– Ta không tin!

Ngô Khẩu Thiên tiếp:

– Tin hay không tin, tùy tôn huynh. Ngoài ra, lão phu xin nói thêm là tôn huynh không sống hết ngày nay đâu, và theo số thì rơi xuống nước mà chết đó.

Đã vậy, thi thể lại không được toàn vẹn, cá sẽ ăn xác của tôn huynh.

Người khách thương lại cười vang:

– Lúc nhỏ ta cũng có nhờ một vị tướng số xem cho, vị ấy cũng đoán như ngươi và cho rằng ta không sống quá ba mươi tuổi. Nhưng vào năm ta ba mươi tuổi, ta không hề bước ra khỏi nhà, hoặc ra khỏi cửa và ta luôn luôn tránh gần bờ sông, miệng giếng, bờ ao. Rồi ta sống đến ngày nay, có sao đâu? Thế mới biết số do trời định mà việc làm thì do người, giả như số chết sông chết suối, mà mình đừng đi đến sông suối thì còn chết làm sao được?

Ngô Khẩu Thiên lạnh lùng thốt:

– Năm nay tôn huynh được bốn mươi chín tuổi, lại đang ngồi thuyền, đúng là tấu xảo của số mạng. Kiếp vận trước may mắn được qua đi, lão phu suy đoán rất kỹ, lần này thì tôn huynh không thể thoát được đâu!

Người khách thương bật cười ha hả:

– Chết thì chết, có sao đâu? Giả như cái số khiếp phải vậy, thì hai mươi lượng bạc đó cầm như ta chi ra để đãi khách. Số bạc dành mua quan tài, không mua thì đem ra mà đãi rượu các vị kể cũng là một sự tốt. Ta chết tự nhiên chẳng còn biết gì nữa, song tất cả còn sống lại đó cũng chẳng khoan khoái chút nào, bởi các vị ăn uống đó là ăn quan tài uống quan tài, mà ăn uống quan tài thì có thích thú chi cho lắm đâu!

Quan Sơn Nguyệt cau mày, chưa kịp nói gì thì chủ thuyền đã bước vào mang theo quá nhiều rượu thịt.

Mọi người đều hoan hô nghinh đón.

Nhưng theo sau chủ thuyền còn có một thiếu phụ độ ba mươi hơn, vận áo trắng, ngọc giắt, vàng đeo, châu cài.

Thiếu phụ bước đến cạnh Ngô Khẩu Thiên, thốt:

– Gia gia! Nghe nói gia gia đãi khách, chẳng biết gia gia làm như vậy có ý gì? Chúng ta vì hoàn thành nhiệm vụ, cần phải giấu nhẹm hành tung chứ có lý nào lại phô trương rầm rộ như thế?

Ngô Khẩu Thiên mỉm cười:

– Con đừng tưởng là thần không hay quỷ không biết, thực ra thì đã có người khám phá được thân phận của chúng ta rồi. Tốt hơn, chúng ta cứ đường hoàng ra mặt cho quang minh chánh đại, có giấu giếm nữa cũng vô ích thôi. Này Phụng Nhi, con cứ ở đây uống vài chén rượu với ta.

Thiếu phụ cau mày.

Ngô Khẩu Thiên cười, tiếp:

– Trong khoang thuyền này toàn là rồng nằm cọp núp không đấy, con đừng tưởng họ đều là những bị thịt vô tích sự trên đời. Giả như cái lão thương khách này, con có biết lão ta là ai chăng?

Lão vừa thốt vừa đưa tay chỉ vị khách thương.

Thiếu phụ lắc đầu:

– Con không nhận ra y là ai.

Ngô Khẩu Thiên cười nhẹ:

– Thế là con có mắt nhưng lại không trông thấy Thái Sơn! Y là thủ lãnh ba mươi sáu trại lục lâm trên khắp các con thủy đạo, họ Thương tên Nhân, ngoại hiệu Thiết Toán Bàn, và trong thuyền này hành khách đều là hào kiệt anh hùng trong giới lục lâm thuộc quyền quản hạt của y đó.

Quan Sơn Nguyệt giật mình. Thinh danh của Thiết Toán Bàn Thương Nhân chàng có nghe đến, nhưng từ ngày dấn thân vào kiếp giang hồ đến nay chàng chưa có dịp gặp mặt.

Không ngờ hôm nay lại hội diện ngay trên con thuyền này, và chàng cứ tưởng vị khách thương tầm thường đó chỉ là một hành khách vì sinh kế mà xuôi ngược trên dòng sông, không hơn không kém.

Nhưng thiếu phụ điềm nhiên, chỉ khẽ so vai một chút rồi thốt:

– Thương anh hùng suất lĩnh toàn lực lượng viễn hành như thế này hẳn là có một cuộc sinh ý lớn lao nào đó!

Thương Nhân bật cười ha hả:

– Phải! Nếu chỉ là thứ sinh ý tầm thường thì khi nào tại hạ lại cất công xuất ngoại viễn hành như thế này? Bất quá, cuộc sinh ý này đòi hỏi một sự trợ giúp và tại hạ định kêu gọi đến nhị vị.

Thiếu phụ dửng cao đôi mày:

– Chúng ta cùng chung một mục tiêu thì muốn làm chuyện chi tất phải quang minh chính đại, chứ không nên úp úp mở mở. Tuy nhiên, việc của ai, nấy làm là hơn!

Thương Nhân cười nhẹ:

– Tánh của Phụng cô nương thật là kỳ quái. Thảo nào mà mãi đến nay Hắc Phụng vẫn còn chích bóng cô thân! Không tìm được người phối ngẫu mà tuổi trời thì cứ chất chồng, một sớm một chiều sẽ già đi, cô nương không cảm thấy bồn chồn sao?

Thiếu phụ trầm gương mặt.

Thương nhân mỉm cười, tiếp:

– Nói vậy chứ, chẳng cần chi phải bồn chồn. Lão ta đã bằng lòng trương tấm chiêu bài lên, thay mặt cô nương mà tìm cho một bạn đường, chẳng hay cô nương có muốn xem ...

Ngô Khẩu Thiên khoát tay ngăn chận:

– Chuyện dư thừa, chẳng nên nói. Cứ uống rượu! Cứ uống!

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 66

Hắc Phụng Giang Nam

Trước đó Thương Nhân và Ngô Khẩu Thiên cãi lý với nhau lời qua tiếng lại, song phương chẳng hề nhượng nhau. Bây giờ thấy vẻ phẫn nộ hiện ra nơi gương mặt của Ngô Khẩu Thiên, chẳng hiểu nghĩ sao Thương Nhân lại dằn lòng, vì lễ độ hay vì kiêng sợ chỉ có mỗi một mình y biết mà thôi.

Y cười đưa đẩy đáp:

– Phải! Phải! Hiện tại chúng ta chưa trở thành oan gia của nhau thì cứ tạm giao kết một mối tình, dù không thật lắm song ít nhất cũng giết được khoảng thời gian chờ đợi. Nào Phụng cô nương, xin ngồi xuống đi!

Thiếu phụ «hừ» lạnh một tiếng:

– Không dám đâu. Tâm trí bất đồng thì tốt hơn nên tránh những cuộc họp mặt bất đắc dĩ.

Nàng quay mình trở ra.

Thương Nhân có vẻ bất mãn, chớp chớp đôi mắt mấy lượt đoạn đưa tay vén tà áo lấy ra một bàn toán nhỏ màu đen, rồi thốt:

– Phụng cô nương. Cô nương chẳng cần phải vờ vẻ thanh cao, tuy tại hạ thuộc hắc đạo song hành động thì luôn luôn minh chánh, so với các vị, tại hạ vẫn có thể ngẩng cao mặt mà nhìn đời như thường.

Thiếu phụ nổi giận quay mình lại, quắc mắt hỏi:

– Bọn tôi thì sao?

Thương Nhân cười lạnh:

– Tự xét lấy mình mà hiểu, cô nương còn hỏi làm chi?

Thiếu phụ nặng giọng:

– Tôi chẳng hiểu gì hết, các hạ hãy nói cho rõ ràng đi!

Thương Nhân bật cười hắc hắc:

– Bất quá Thương Nhân này mang tiếng là kẻ cướp chứ chưa làm một ả điếm.

Thiếu phụ nạt một tiếng, đưa tay mó vào con phụng hoàng bằng vàng có nạm châu giắt nơi mái tóc. Một tiếng «cách» vang lên rất khẻ, từ miệng phụng một đạo thanh quang bắn ra. Đạo thanh quang đó cuốn theo vô số điểm sáng bạc như sao, vừa bay đi vừa tỏa rộng bao quanh cả ba người.

Thương Nhân vung chiếc bàn toán ngăn chận.

Ngô Khẩu Thiên thì dùng tấm bố làm bình phong.

Vì không phòng bị, Quan Sơn Nguyệt chẳng có sẵn vật gì nơi tay, chỉ có thể ngầm vận chân khí hộ vệ quanh mình rồi đưa tay áo lên che trước mặt. Chàng nghe từng loạt tiếng «tách tách» vang lên.

Khi chàng buông tay áo xuống thì nơi tay áo có vô số mũi châm bạc ghim vào, châm nhỏ bằng lông đuôi trâu.

Nơi tấm bố của Ngô Khẩu Thiên cũng có một số châm như vậy.

Chỉ một mình Thương Nhân thì chẳng có gì cả, chiếc bàn toán của y hất vẹt những mũi châm rơi xuống sàn thuyền.

Thiếu phụ thoáng giật mình, thốt:

– Thiết Toán Bàn quả nhiên danh bất hư truyền.

Ngô Khẩu Thiên trầm gương mặt quở:

– Phụng nhi! Sao con buông lung tánh khí như thế?

Thiếu phụ không hề hối hận, đáp:

– Gia gia! Họ đã theo chúng ta lên thuyền này thì sớm muộn gì cũng phải có ...

Nàng hướng sang Quan Sơn Nguyệt, nhưng lại nói tiếp với Thương Nhân:

– Thuộc hạ của ngươi cũng là tay khá đó. Hắn tên chi? Xuất thân từ môn phái nào? Con cái nhà ai?

Thương Nhân bật cười ha hả:

– Phụng cô nương ơi! Lầm to rồi đó nhé! Trong giới lục lâm của tại hạ làm gì có một nhân tài như vậy? Nếu có thì dù cho tại hạ có làm tay chân tùy sai cũng chưa xứng nữa là, sao lại có chuyện một nhân vật như thế đó mà làm thuộc viên của tại hạ được?

Thiếu phụ lại giật mình lượt nữa.

Ngô Khẩu Thiên mỉm cười thốt:

– Phụng nhi! Con lỗ mãng quá đi thôi! Không hỏi gì cho rõ ràng lại hồ đồ xuất thủ, may mà gặp Quan đại hiệp đấy, chứ gặp người nào khác thì có phải là con hại chết oan một sanh mạng chăng?

Thiếu phụ lại giật mình lượt thứ ba:

– Quan đại hiệp? Quan đại hiệp nào?

Ngô Khẩu Thiên «hừ» một tiếng:

– Quan đại hiệp là Quan đại hiệp chứ còn ai khác nữa? Chẳng lẽ có đến mấy Quan đại hiệp sao? Trong võ lâm chỉ có mỗi một người thôi!

Thiếu phụ biến sắc kêu lên thất thanh:

– Hay là Minh Đà Lịnh Chủ?

Quan Sơn Nguyệt vụt đứng lên rủ ống tay áo cho các mũi châm rơi xuống, rồi hỏi:

– Chẳng hay tại hạ đắc tội với tiểu thơ trong trường hợp nào, ở tại đâu?

Thiếu phụ càng biến sắc mặt hơn, Ngô Khẩu Thiên vội đáp thay:

– Quan đại hiệp đừng hiểu lầm. Tiểu nữ không biết tôn giá. Cũng may đại hiệp tài ba xuất chúng, không bị tổn thương.

Thương Nhân cười lạnh:

– Minh Đà Lịnh Chủ dương danh trong thiên hạ, há vì một vài mảnh thép của cô nương mà thọ hại đâu? Nếu thế thì chẳng hóa ra anh hùng hào kiệt trong đời đều là những thùng cơm trước con mắt của hai vị sao?

Thiếu phụ liếc xéo Thương Nhân không buồn lấy làm phiền về sự trào lộng của y, nàng lại hướng qua Quan Sơn Nguyệt chấp tay làm lễ, sau đó mới cất tiếng nhận lỗi:

– Quan đại hiệp! Thiếp có mắt mà không có tròng thành ra đắc tội nặng với đại hiệp.

Quan Sơn Nguyệt không làm sao phát tác được nữa, đành khiêm tốn đáp:

– Tại hạ chẳng dám nhận sự nhận tội của cô nương đâu.

Thiếu phụ cười giòn một cách duyên dáng:

– Tại vùng sa mạc, đại hiệp vừa xuất đầu lộ diện là uy danh nổi dậy như sấm rền tai, thiếp hằng mơ ước có một ngày nào đó được hân hạnh bái kiến tôn nhan.

Nàng tâng bốc chàng lên cao quá, Quan Sơn Nguyệt không rõ nàng có thâm ý gì. Trong phút giây bất ngờ, chàng không tìm được câu đáp thích nghi.

Thiếu phụ tiếp:

– Cái vật tùy thân của đại hiệp là chiếc Độc Cước Kim Thần thiên hạ anh hùng nghe danh đều hết sức khâm phục, ngoài ra cũng có Minh Đà nữa chứ. Tại sao hai vật đó giờ đây không ở bên mình đại hiệp? Chẳng lẽ vì cuộc hành trình phải theo đường thủy mà rồi ...

Ngô Khẩu Thiên vội chận:

– Nói nhảm đi, con! Bất quá tình cờ mà Quan đại hiệp ...

Thương Nhân mỉm cười chận lão:

– Minh Đà Lịnh Chủ tài ba lỗi lạc, có màng chi đến những thứ đó đâu? Giả như Lịnh Chủ có ý tứ gì thì bọn chúng ta bất tất phải lao thần phí lực ...

Lời có vẻ tâng bốc, song cũng có hàm súc ý ngăn trở Quan Sơn Nguyệt đừng bao giờ can thiệp vào việc của họ. Trong câu nói, y muốn cảnh cáo hơn là van cầu Quan Sơn Nguyệt lờ đi.

Tự nhiên Quan Sơn Nguyệt thấu đáo ý tứ thầm kín của đối phương. Cứ theo thái độ và cử động của họ thì Quan Sơn Nguyệt có thể đoán định là cả hai phe đều cùng chung mục đích, chẳng hạn chiếm đoạt một vật quý gì đó và người mang vật quý đó hiện có mặt trên thuyền này.

Riêng chàng thì chàng đâu có ý nghĩ đoạt tài cướp vật của ai. Dù vậy, hai phe đó có ý nghi kỵ chàng.

Họ là những tay hữu danh trên giang hồ, họ chịu khó theo dõi sở hữu chủ vật kia thì hẳn là vật đó phải có giá trị phi thường. Động tính hiếu kỳ, chàng muốn biết rõ ràng đó là vật chi. Chàng liền vòng tay hỏi:

– Tại hạ có mắt không ngươi, chẳng nhận ra bậc cao minh bên mình ...

Thương Nhân mỉm cười đáp:

– Thương Nhân này bất quá là một tên cường đạo, đâu xứng đáng với hai tiếng cao minh mà Quan đại hiệp vừa tặng đó. Chính hai vị kia mới thực sự là những bậc cao minh. Chắc đại hiệp có nghe đến Kiếm Môn Bốc Ẩn chứ?

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Kiếm Môn Bốc Ẩn? Gia sư từng nhắc đến danh hiệu đó, có điều chưa có dịp được bái kiến thôi.

Ngô Khẩu Thiên mỉm cười:

– Cũng may là lão phu chưa bị lịnh sư tìm gặp. Chứ nếu đã bị tìm gặp rồi, thì có thể là tấm chiêu bài này lại nằm trong túi của lịnh sư rồi. Phải đợi mãi trong thời gian sau cho đại hiệp quy hoài ...

Quan Sơn Nguyệt thoáng đỏ mặt, biết rõ đối phương nhắc khéo đến việc ngày trước sư phụ chàng nhân viếng thăm qua các môn phái lấy tín phù của các Chưởng môn. Chàng thấp giọng phân trần:

– Ngày trước sở dĩ gia sư phải hành động như vậy là vì sự chẳng đặng đừng ...

Ngô Khẩu Thiên mỉm cười chận lời:

– Lão phu nói thế để đùa cho vui vậy thôi, chứ cái khổ tâm của lịnh sư là một bậc đại hiệp cô độc trong thiên hạ còn ai không biết? Và Long Hoa Hội giờ đây cũng được đại hiệp giải tán rồi, mọi người nhờ thế mà được an tâm.

Thương Nhân cười nhẹ nối lời:

– Phải đó! Chẳng những đại hiệp giải tán Long Hoa Hội mà còn dẹp tan Thiên Ma Giáo, nhờ đó đồng đạo võ lâm trong thiên hạ tránh được đại kiếp sát lục. Công đức này rất cao dày ...

Quan Sơn Nguyệt đỏ mặt:

– Các vị hiểu rành công việc tại hạ quá chừng!

Ngô Khẩu Thiên cười hì hì:

– Nào chỉ hiểu rành mà thôi. Tại hạ còn nhờ đại hiệp mà được xóa tên trên bảng.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Tiên sanh là người trong Long Hoa Hội?

Ngô Khẩu Thiên đáp:

– Tại hạ bị Tây Môn Vô Diệm lôi cuốn mà thành ra có tên trên bảng. Biết đó là điều tà, nhưng không phương pháp gì cự tuyệt được đành phải nép mình mà chờ thời cơ, tránh phiền phức tai hại đến bản thân.

Quan Sơn Nguyệt tỏ vẻ không tin:

– Lịnh ái có tài nghệ như vậy thì tiên sanh phải cao minh hơn mấy bậc là cái chắc rồi, thế tại sao lại khuất mình liệt danh trên Quỷ Bảng?

Ngô Khẩu Thiên đáp:

– Tự ước lượng tài năng của mình, tại hạ thấy rằng cũng đủ tư cách đứng tên trên Tiên Bảng, song khổ nỗi là một mình không chống cự lại quần ma nổi, do đó mà phải ẩn nhẫn cầu an cho người ta đừng lưu ý đến.

Quan Sơn Nguyệt tỉnh ngộ:

– Thì ra là thế! Nhưng vừa rồi tiên sanh đoán tướng cho tại hạ ...

Ngô Khẩu Thiên biết là chàng nghĩ lầm, vội khoát tay chận:

– Đối với đại hiệp, lão phu chỉ biết người mà thôi, ngoài ra chẳng hề biết dĩ vãng cũng như việc làm, nhất là về hành động của đại hiệp thì sự hiểu biết của lão phu không hơn chi giới giang hồ. Cho nên chẳng bao giờ có cái việc lần vách mà đoán mò đâu. Thú thật với đại hiệp, về khoa tướng số lão phu tốn lắm công phu nghiên cứu cho nên cứ nhìn tướng mà đoán tướng. Lão phu không dám vọng đoán đâu!

Thương Nhân mỉm cười, tiếp nối:

– Về khoa tướng số thì Ngô tiên sanh không kém Quản Lộ thời Tam Quốc đâu, cả đến lão Quỷ Cốc cũng ngang với tiên sanh, điều này thì tại hạ dám bảo đảm với đại hiệp vậy. Đại hiệp có thể tin những gì lão ta suy đoán cho.

Ngô Khẩu Thiên cười nhẹ:

– Thương anh hùng hẳn là không tin lão phu nói năng mù mờ, bất quá căn cứ theo khí sắc của các hạ thì hôm nay tất phải gặp sự nguy, cái nguy phát sanh từ lòng tham, vậy tốt hơn hãy bỏ đi tham niệm đó ...

Thương Nhân cười lạnh:

– Ngô tiên sanh muốn rằng tại hạ rút lui êm thấm à?

Ngô Khẩu Thiên chép miệng:

– Sanh hay tử đều do con người lựa chọn ...

Thương Nhân «hừ» lạnh:

– Thế còn tiên sanh thì sao? Các vị cải danh, đổi dạng, từ Điền Gia Trấn xuống thuyền, Phụng cô nương lại còn đi quá phận là dám giả mạo ca kỹ hết lòng chiều chuộng đối phương, những việc đó chẳng phải là do lòng tham mà làm chăng?

Ngô Khẩu Thiên chỉnh sắc mặt:

– Trời đã sanh ra một vật quý thì cái vật quý đó phải được sử dụng trong con đường ngay, theo lẽ phải, dù rằng cha con lão phu muốn có cái Phượng Hoàng bằng bích ngọc đó, thì cũng là vì thiên hạ chúng sanh chứ có phải vì niềm riêng ý tư đâu? Trời đất hẳn trông thấy gan ruột của cha con lão phu như thế nào rồi ...

Thương Nhân cười mỉa:

– Tiên sanh nói chuyện nghe xuôi quá đi thôi!

Thiếu phụ biến sắc mặt thốt:

– Này cái gã họ Thương kia, nếu ngươi nhất định can thiệp thì bổn cô nương sẽ đùa với ngươi một lúc. Phải biết cha con ta vì cái vật đó mà hao phí lắm tâm huyết đấy.

Thương Nhân lạnh lùng:

– Chứ tại hạ chẳng hao phí tâm huyết hay sao? Từ nghìn dặm xa cử binh mã trường chinh, chẳng lẽ xếp cờ dẹp trống mà âm thầm mang hai tay không trở về?

Thiếu phụ mở tròn xoe đôi mắt phụng, cực kỳ sôi giận, toan động thủ.

Những người trong thuyền đều lộ vẻ nghiêm trọng, vén vạt áo lên chuẩn bị rút vũ khí cầm tay chực giao chiến.

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Các vị hà tất phải làm như thế? Cứ dùng lời lẽ mà giải thích với nhau cũng được rồi ...

Ngô Khẩu Thiên vẫy tay sang thiếu phụ:

– Phụng nhi, đừng gây náo loạn lên, con! Vật kia nào đã về tay ai đâu mà con nóng nảy thế?

Thương Nhân cũng khuyên ngăn bọn đồng đạo:

– Các huynh đệ hãy bình tĩnh.

Đoạn y hướng qua cha con Ngô Khẩu Thiên tiếp:

– Không phải tại hạ sợ chi các vị đâu, chẳng qua thời gian động thủ chưa đến. Tìm được tung tích của Phượng Hoàng Bích Ngọc đó đâu phải là dễ. Nếu bây giờ gây náo loạn lên thì tất làm kinh động đến chủ nhân, người ta sẽ chuẩn bị ...

Nghe đối phương nói thế, thiếu phụ dịu thái độ lại ngay.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Phượng Hoàng Bích Ngọc là vật gì?

Thương Nhân đáp:

– Quan đại hiệp không phải vì vật đó mà có mặt trên thuyền này thì cũng chẳng nên tìm hiểu làm gì.

Thiếu phụ trừng mắt:

– Người ta hỏi, ngươi không chịu nói thì ta nói. Giả như vật đó về tay Quan đại hiệp thì ta cho rằng rất hợp lý!

Thương Nhân chớp chớp mắt:

– Tốt! Tốt! Trong thiên hạ còn ai chẳng biết Quan đại hiệp là bậc đại nhân đại nghĩa. Nếu quả thật đại hiệp có ý đoạt thủ vật đó thì chẳng những tại hạ không hề can thiệp, trái lại còn xuất lực tiếp trợ nữa đấy.

Thiếu phụ «hừ» một tiếng:

– Chính ngươi nói ra câu đó nhé, hãy nhớ kỹ như vậy.

Thương Nhân bật cười sang sảng:

– Tự nhiên là tại hạ nhớ lại nhớ rất kỹ đó, Phụng cô nương. Tuy là người trong hắc đạo, tại hạ luôn luôn trọng lời nói của mình, nói làm sao là giữ y như vậy. Có điều các vị nên hiểu, tại hạ tin được Quan đại hiệp chứ không thể nào tin các vị nổi đâu.

Thiếu phụ nổi giận:

– Cho ngươi biết, nếu vật đó về tay ta rồi, ta dám hứa là chẳng hề nhìn qua một thoáng nào cả mà lập tức trao cho Quan đại hiệp, xem ngươi còn nói được lời gì nữa cho biết.

Thương Nhân bật cười ha hả:

– Nếu hai vị có hảo tâm như vậy, thì tại hạ có tiếc chi cái công phu lướt vạn dặm đường dài theo dõi vật đó đến tận nơi này?

Thiếu phụ toan nói tiếp, Quan Sơn Nguyệt lại khoát tay chận:

– Thạnh tình của hai vị, tại hạ rất cảm kích song tại hạ không hề có cái tâm ...

Thiếu phụ hấp tấp thốt:

– Quan đại hiệp đừng khách khí, trong thiên hạ chỉ có mỗi một đại hiệp là xứng đáng làm chủ nhân Phượng Hoàng Bích Ngọc thôi. Huống chi đại hiệp cũng có mặt trên thuyền này, âu đó cũng là ý trời xui khiến.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Tiểu thơ! Phượng Hoàng Bích Ngọc là cái gì? Tại hạ không hề biết.

Thiếu phụ mỉm cười:

– Quan đại hiệp đừng dùng hai tiếng tiểu thơ xưng hô với tôi nữa, thẹn chết đi. Tên tôi là Phụng, vỏn vẹn một tiếng Phụng thôi, đại hiệp cứ gọi tên là được rồi.

Thương Nhân cười phụ họa:

– Phải đó. Cái danh lớn của Phụng cô nương chỉ có chỉ có mỗi một Quan đại hiệp là xứng đáng gọi thôi, chứ người như bọn tại hạ thì khi nào dám gọi đến Hắc Phụng Hoàng?

Quan Sơn Nguyệt giật mình, lẩm nhẩm:

– Hắc Phụng Hoàng? Mường tượng ta có nghe nói đến!

Thương Nhân tiếp:

– Phàm là người trong giới giang hồ, nếu không nghe nói đến Hắc Phụng Hoàng thì quả thật là kiến thức rất hẹp vậy. Hiện tại thì cô nương vận áo trắng đó, chứ nếu vận y phục thường lệ thì ...

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Trên giang hồ đồng đạo võ lâm thường nhắc đến Hắc Y nữ hiệp, chẳng hay có phải là cô nương?

Ngô Phụng thoáng đỏ mặt:

– Quan đại hiệp quá khen.

Quan Sơn Nguyệt vòng tay:

– Nữ hiệp có hành tung kỳ bí, thoạt ẩn thoạt hiện, có mặt ở muôn nơi, trượng nghĩa, chuyên trừ gian diệt bạo, vì tại hạ xuất đạo rất muộn, chỉ nghe danh thôi chứ chưa có dịp hội kiến. Mãi đến hôm nay mới có hân hạnh được đối diện với bậc anh thư!

Ngô Phụng lại đỏ mặt, muốn nói gì đó, song Ngô Khẩu Thiên dùng ánh mắt báo hiệu, rồi tất cả cùng nhìn ra chung quanh, thấy nơi khung cửa khoang thuyền có hai hán tử trung niên đứng đó.

Ngô Phụng hấp tấp đứng lên, mỉm cười thốt:

– Hai vị lão gia cũng đến khoang thuyền này nữa à?

Một hán tử có gương mặt đầy vết đen, râu lún phún, lạnh lùng đáp:

– Ngươi bỏ đi lâu quá, bọn ta không yên tâm, cứ sợ ngươi rơi xuống nước.

Ngô Phụng vẩu môi, tiếp:

– Tôi có còn là đứa trẻ lên ba lên năm nữa đâu, nhị vị lão gia. Hai vị lo xa quá! Ở đây ô tạp lắm, mình ra phía trước đi nhị vị lão gia.

Hán tử mỉm cười:

– Nào phải bọn ta lo lắng? Chính Vương lão gia bảo bọn ta đi tìm ngươi đó.

Lão gia mê ngươi cực độ, vắng ngươi một phút là bâng khuân ngay, rồi thẫn thờ như hồn rời khỏi xác ...

Ngô Phụng nguýt xéo:

– Triệu lão gia hay đùa quá chừng ...

Hán tử cười lạnh:

– Đùa mà làm gì chứ? Nếu có kẻ đùa thì chính là Vương lão gia đây. Vương lão gia nói rằng giả như bất ngờ mà Hắc Phụng Hoàng rơi sông chết đuối thì đúng là một đầu đề giai thoại cho giới giang hồ vậy. Con người có thinh danh vang động khắp bốn phương như Hắc Phụng Hoàng lại chết vô lý như thế được sao?

Hắc Phụng Hoàng biến sắc mặt, song vờ ngơ ngác hỏi:

– Triệu lão gia nói gì tôi chẳng hiểu chi cả?

Hán tử họ Triệu lại cười tiếp:

– Hồng cô nương Bạch Phụng Tiên không hiểu thì Hắc Y nữ hiệp Hắc Phụng Hoàng có thể hiểu, thật tại hạ không ngờ nữ hiệp cải trang rất khéo, đến bọn tại hạ mà cũng chẳng nhận ra.

Câu chuyện xoay chiều, y cũng đổi lối xưng hô cho hợp với quy củ giang hồ.

Ngô Phụng càng biến sắc hơn, đưa tay sờ con phụng bằng châu nơi mái tóc.

Hán tử họ Triệu vẫn cười:

– Hắc Phụng Hoàng! Đừng quên là cái thứ Mai Hoa Trâm đó cô nương đã dùng qua một lần rồi, cô nương chưa thay vào đó số trâm mới thì còn dùng nó làm sao được nữa? Thôi, cứ đi theo bọn ta là hơn, cô nương ạ!

Ngô Phụng biến sắc lượt thứ ba, lần này thì sắc diện biến đến quái dị.

Nhưng Thương Nhân và Ngô Khẩu Thiên đã đứng lên ngay lúc đó.

Tay Thương Nhân đã giữ sẵn một tư thế xuất phát chiêu công, bàn tay sắp sửa nhích động. Bỗng y đảo mắt rồi chớp chớp mấy lượt, đoạn thốt:

– Triệu lão gia! Lão gia đừng tưởng bọn này là những ngoan cụ mà lão gia muốn xử trí tùy thích. Cái chi là Bạch Phụng Hoàng, Hắc Phụng Hoàng chứ? Vị cô nương này có xứng với hai tiếng Phụng Hoàng chăng mà lão gia lại gán cho nàng?

Hán tử họ Triệu cười lạnh:

– Câu nói đó các hạ hãy dành lại để khi gặp Vương lão gia rồi sẽ nói ra là hơn.

Ngô Phụng ngang nhiên thốt:

– Được rồi, tôi sẽ đến gặp Vương lão gia ngay để nhờ lão gia phân xử cái vụ các vị khinh miệt tôi quá độ.

Nàng ngẩng cao đầu bước đi ra khỏi khoang thuyền.

Quan Sơn Nguyệt định đi theo nàng, Ngô Khẩu Thiên đưa mắt ra hiệu giữ chàng lại.

Hán tử họ Triệu lại cười lạnh:

– Cậu nhỏ ơi, muốn biết Bích Ngọc Phượng Hoàng là vật gì phải không?

Thì cứ đi theo ả điếm đó là được biết chứ gì! Có Hắc Phụng Hoàng bảo hộ mà, đừng lo ai dám làm rớt một sợi chân lông của cậu! Cậu có may mắn lắm đó nhé, tự nhiên mà Hắc Phụng Hoàng lại cam tâm tình nguyện trao vật đó cho cậu đấy.

Tuy là lời hứa chứ chưa phải là sự thật, cũng đáng mãn nguyện cho cậu.

Quan Sơn Nguyệt sôi giận, không dằn được lòng, đánh ra một chưởng nhắm đầu vai của hán tử, đồng thời hét:

– Quân khốn ở đâu dẫn xác đến đây buông lời vô lễ?

Hán tử khẻ lắc đầu vai tránh chưởng đó không khó khăn gì, rồi mỉm cười tiếp:

– Công phu đó còn kém lắm, cậu nhỏ ơi.

Y chọt nhanh tay ra điểm vào ngực Quan Sơn Nguyệt.

Bởi xuất chiêu lần đầu, Quan Sơn Nguyệt chưa biết công lực của đối phương thâm hiểm như thế nào nên không dùng toàn lực.

Bây giờ đối phương phản kích, chàng nhận ra y quả là tay hữu hạng, tuy nhiên chàng không nao núng, ngưng động chân khí chuẩn bị đối phó. Chàng vừa phong bế huyệt đạo nơi ngực đồng thời đưa tay ra điểm trả lại cánh tay hữu của đối phương.

Động tác cả hai rất nhanh, họ xuất thủ như điện chớp.

Huyệt đạo được phong bế rồi, Quan Sơn Nguyệt ưỡn ngực hứng chỉ lực của họ Triệu. Chỉ lực của y cũng khá mạnh song chàng không rời chỗ đứng, trái lại họ Triệu bị điểm trúng cánh tay phải lùi lại năm sáu bước.

Vô hình trung y lùi về phía Thương Nhân.

Thương Nhân cử chiếc bàn toán sắt lên đập vào lưng y. Những con toán toàn bằng hạt châu rất cứng rắn chạm nhau lọc cọc, cạnh bàn toán chạm trúng lưng họ Triệu, y bị dồn trở lại phía trước, máu tươi vọt từ miệng ra, đứng không vững nữa, y ngã nhào xuống sàn thuyền.

Hán tử kia biến sắc, song cười lạnh thốt:

– Hay quá! Ta không ngờ trên thuyền này lại có mai phục rất nhiều cao thủ!

Buông xong câu nói đó, hán tử nhanh chân lui ra ngoài.

Nhưng Ngô Phụng khi nào để y rút đi ung dung như vậy được, nàng đưa cả hai tay ra, một tay vung sang bên dưới bụng của đối phương, tay kia chỉa thẳng vào mắt y.

Hán tử không dám nghinh diện tiếp chiêu, giậm chân tạt mình qua một bên, chân kia đồng thời đạp vào vách thuyền, vách đổ, y thoát ra ngoài, đoạn chạy nhanh.

Ngô Phụng muốn đuổi theo song chậm mất rồi, biết có đuổi cũng chẳng kịp.

Nàng tặc lưỡi thốt:

– Hỏng mất. Chúng đã khám phá ra hành tung của mình.

Thương Nhân cười lạnh:

– Cô nương sợ cái gì chứ? Chỉ cần chúng còn ở trên thuyền này thôi, là tại hạ có cách bức chúng phải trao ra Bích Ngọc Phượng Hoàng ...

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 67

Bao Phen Đao Chớp

Quan Sơn Nguyệt không ngờ trong chuyến Tây hành này lại bị lôi cuốn vào một việc ngoài ý muốn, việc tranh chấp quanh một vật có tên là Bích Ngọc Phượng Hoàng. Nhưng chàng có biết Bích Ngọc Phượng Hoàng là cái quái gì?

Vì dùng con đường thủy mà đi, chàng phải có mặt trên một chiếc thuyền, rồi vì sự có mặt đó mà người ta ghép chàng vào một đảng cướp. Người ta cho rằng chàng là đồng đảng của một tay thủ lãnh ba mươi sáu thủy trại, người ta cho rằng chàng sinh sống với nghề lục lâm. Thân danh là Lịnh Chủ Minh Đà mà lại bị liệt vào hàng cường đạo, nghĩ còn gì oái oăm mai mỉa hơn?

Chàng cau mày thốt:

– Thương huynh! Nội tình sự việc như thế nào tại hạ không hiểu mảy may, tốt hơn hết Thương huynh nên giải thích đại lược cho tại hạ được am tường Bích Ngọc Phượng Hoàng là vật chi ...

Thương Nhân chớp mắt:

– Bích Ngọc Phượng Hoàng đương nhiên là con chim Phượng Hoàng do bích ngọc mà thành hình.

Quan Sơn Nguyệt không tin:

– Một vật như thế, cho dù là bằng ngọc quý đi nữa, đâu có cái hấp lực lôi cuốn bao nhiêu người vào vòng tương tàn tương sát với nhau?

Ngô Phụng điểm một nụ cười:

– Chỗ quý của Bích Ngọc Phượng Hoàng không ở nơi hình thức. Nói cách khác,vật không quý do cái chất thực của nó.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:

– Không lẽ bên trong nó có chứa đựng cái gì vô giá?

Ngô Phụng lại cười:

– Có lẽ lắm chứ. Chính vì cái lẽ đó mà có sự ngày nay, Quan đại hiệp ạ.

Hơn thế, phàm là con người luyện võ như chúng ta, bất cứ ai cũng ...

Ngô Khẩu Thiên vội chen vào:

– Hiện tại không phải lúc chúng ta có thể nhàn đàm, tình hình bắt buộc chúng ta phải thực tế hơn mới được. Cái gã chạy thoát vừa rồi đó hẳn là đi báo cáo với đồng bọn ở phía trước. Chúng ta phải chuẩn bị đối phó với họ.

Thương Nhân cười nhẹ:

– Sợ cái gì chứ, có hai vị, có bọn huynh đệ của tại hạ, dù cho đối đầu với thiên binh vạn mã chúng ta vẫn thừa sức thủ thắng kia mà, huống hồ đối phương gồm mấy tay đó thôi. Đó là tại hạ không dám nói đến sự tiếp trợ của Quan đại hiệp.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Thương huynh đừng vội nói những lời đó, chúng ta nên tạm thời bỏ qua vụ chiếc Bích Ngọc Phượng Hoàng đi, tại hạ muốn biết bọn người kia ...

Thương Nhân lộ vẽ không vui đáp:

– Quan đại hiệp, tại hạ từ ngoài nghìn dặm làm cuộc trường chinh này với một số anh em đồng đạo chẳng qua vì sự bức bách không đặng đừng. Rồi tình cờ mà gặp đại hiệp, tại hạ muốn kết giao hoàn toàn vì nghĩa vụ nên cố gắng làm cho đại hiệp một cái gì ...

Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt:

– Thạnh tình của Thương huynh tại hạ hết sức cảm kích, song từ thuở nhỏ tại hạ được ân sư giáo huấn tại hạ luôn luôn giữ lòng ngay, bất cứ vật gì không phải là vật của mình thì đừng bao giờ mưu toan chiếm đoạt hoặc ngửa tay tiếp nhận do người khác tặng. Do đó tại hạ không có ý bái lãnh món quà tình của Thương huynh.

Thương Nhân thoáng giật mình, nhưng rồi y điểm nụ cười lạnh, tiếp:

– Nếu vậy thì trong khi bọn tại hạ tưởng là mình vuốt mông ngựa không ngờ lại chạm phải chân ngựa. Ngựa bị chạm chân là phải đá.

Y thay đổi thái độ, thái độ của y trong phút giây này thật khó coi quá chừng.

Quan Sơn Nguyệt định phát tác, song nghĩ lại người ta có hảo ý như vậy mà mình cự tuyệt thì tự nhiên người ta thẹn, người ta bất mãn.

Làm mất hứng của người cũng là điều đáng trách thật. Mình đáng trách thì đâu nở sừng sộ với người. Chàng dằn lòng không buông lời phản đối.

Ngô Phụng cười nhẹ, cất tiếng:

– Quan đại hiệp là nhân vật trong chánh phái, tự nhiên không thể nào chấp nhận cái lỗi thu tài đoạt vật của bọn tà được. Dòng nước trong kia, nếu vô chủ uống vào mấy ngụm cũng là có thương tổn đến liêm sỉ rồi. Huống hồ một vật có chủ quyền hẳn hòi như chiếc Bích Ngọc Phượng Hoàng. Quan đại hiệp dè dặt là phải.

Thương Nhân phẫn nộ:

– Tuy tại hạ khoát cái danh đạo tặc, song mình có sự tự tin mạnh là hành động luôn luôn hợp tình hợp lý, nghĩ ra còn sáng giá hơn bọn ngụy quân tử nhiều.

Vả lại, những kẻ xấu xa nhất trên đời này nào phải đều xuất thân từ lục lâm đâu?

Đành là cường đạo nhưng bọn tại hạ lại thuộc hạng cường đạo có đạo nghĩa, chuyên cướp đoạt tài sản gầy dựng bằng điều bất nghĩa. Hào kiệt Giang Nam bất cứ ai cũng có thể chứng minh hành vi nhân nghĩa của bọn tại hạ.

Ngô Phụng mỉm cười:

– Cái danh của Tổng trại chủ họ Thương trên giang hồ còn ai chẳng biết.

Tôi có ca ngợi cũng là thừa. Chỉ vì Quan đại hiệp xuất thân không cùng nguồn gốc với chúng ta nên có quan niệm khác.

Quan Sơn Nguyệt toan tranh luận với nàng bởi nàng đưa ra một vài ý kiến không hạp với tâm tư của chàng lắm.

Nhưng Ngô Phụng ngăn chận lại, đồng thời đưa tay chỉ ra ngoài, thốt:

– Đối phương đã tìm đến tận cửa kìa, trước hết hãy giải quyết sự tình với họ rồi mình muốn nói gì với nhau sẽ nói sau.

Mọi người cùng hướng mắt ra ngoài.

Trên khoang thuyền, bên ngoài cửa có năm sáu người đứng giăng thành hàng. Trong số đó có đại hán vừa chạy thoát, bất quá y đứng xa xa cách đồng bọn mấy thước. Năm sáu người đó có một người đầu đội mão nhỏ bằng lụa, mang mắt kiếng, mình vận chiếc áo da dê, tay áo thòng dài, tác độ trung niên, có dáng dấp một người buôn bán. Chừng như y là đầu não của nội bọn. Thần thái của y rất bình tịnh, miệng ngậm một ống điếu dài, đầu điếu chớp chớp lửa.

Tuy vào cuối thu, thời tiết không lạnh lắm mà y vận áo ấm rất dày, chừng như y muốn đi trước thời gian và cho rằng mùa đông đã sang.

Bất quá thân vóc y ốm như vót lại có vẻ bệnh hoạn, cho nên y cần mặc áo dày như vậy chăng? Trông sắc diện đó giả như y mặc thêm một lớp áo nữa, hơi ấm cũng chẳng đủ cho y dễ chịu.

Điều đáng lấy làm lạ là gió thu luồn mạnh vào thuyền thế mà ngọn khói nhỏ bốc từ ống điếu cứ lên cao, thẳng đứng, không hề bị giao chuyển lung linh.

Trong thuyền ai ai cũng biết võ công và đều là những tay khá, có khá mới được chọn tham gia chiến dịch đoạt Bích Ngọc Phượng Hoàng này, họ nhìn thoáng qua là biết ngay người trung niên gầy ốm bệnh hoạn đó phải là một tay cao thủ.

Ngô Phụng tiến lên nghinh đón, điểm nụ cười duyên, thốt:

– Vương lão gia đến đúng lúc quá chừng. Xin phân xử hộ chúng tôi việc này.

Người trung niên cười lạnh, cầm ống điếu chỉ xác chết nằm trên sàn thuyền, cất tiếng:

– Không cần phải xử. Lão Triệu có mắt mà không ngươi, thấy Hắc Phụng Hoàng nữ hiệp lại cứ tưởng là gái tầm thường thì có chết cũng chẳng oan mạng chút nào.

Ngô Phụng cười nhẹ:

– Vương lão gia hiểu như vậy là tốt đó. Bên ngoài có gió lớn quá, cơ thể của lão gia chịu làm sao nổi, vậy để tôi dìu lão gia trở về khoang trước ngơi nghỉ.

Nàng không lộ vẻ cố kỵ gì cả, ngang nhiên bước tới trước mặt họ Vương.

Ngô Khẩu Thiên và Quan Sơn Nguyệt đều lo lắng thay cho nàng, họ nghĩ rằng nàng làm như thế là mạo hiểm cực độ.

Người ta đã khám phá ra hành tung rồi, sao nàng còn nạp mạng chứ? Làm như vậy có khác nào là tự nạp mạng cho người ta đâu.

Ngờ đâu họ Vương không hề nhích động, cứ để cho nàng đến sát bên mình, lại còn để nàng chụp vào cánh tay bày vẽ trìu mến.

Ngô Phụng cười duyên thốt:

– Tay của Vương lão gia sao mà lạnh quá, lạnh như tay người chết vậy đó!

Ra đây làm chi cho khổ vậy lão gia? Vào trong kia mà nghỉ, tránh gió độc đi, lão gia.

Người trung niên họ Vương bật cười ha hả, nắm cổ tay tròn mềm của nàng, đáp:

– Bé cưng ơi! Biết điều như vậy, chả trách được ta yêu! Bất quá không có gì phải vội vã, ta đứng đây một lúc nữa thôi, rồi thuyền cũng đổ bến mà, có lâu chi cho lắm đâu!

Ngô Phụng đảo mắt nhìn qua một bên, quả thấy bọn phu thuyền đang chuẩn bị dây thừng và đòn dài để đổ lại. Bất giác nàng biến sắc, vội quay đầu về phía Thương Nhân gọi:

– Thương trại chủ! Tìm cách gì ngăn trở, đừng cho thuyền dừng lại!

Thương Nhân không rõ nàng có ý tứ gì, song nàng đã bảo thế thì y cũng tuân theo, vội khoát tay.

Hai tên thuộc hạ của y lập tức bước ra ngoài, vừa đi được hai bước, một đại hán đứng cạnh trung niên họ Vương đã nhích động thân hình. Kế tiếp, một đại hán nữa tiến ra, mỗi bên một người, bốn chưởng đồng phát lại đồng cao giọng hét:

– Trở vào gấp!

Hai tên lục lâm cường đạo bị chưởng lực đánh bật nhào ngược lại, ngã xuống.

Thương Nhân biến sắc, vung chiếc bàn toán sắt đánh tới.

Ngô Phụng lại kêu lên:

– Đừng làm gì khác hơn là ngăn trở thuyền cặp bến!

Thương Nhân biết ngay việc ngăn trở thuyền cặp bến có tầm quan trọng rất lớn, nếu không vậy thì Ngô Phụng đâu phải quýnh quáng lên. Y lại khoát tay bảo:

– Tất cả đều xuất lực, ngăn trở thuyền cặp bến cho ta!

Thuộc hạ của y còn lại hơn mười mấy người, được lịnh rồi lập tức hành động.

Nhưng trước mặt họ có đối phương chận lối, làm sao đi được? Họ phải lách qua hữu, rẽ qua tả, vòng ngả sau tìm lối đi.

Bên hữu, có người phá được một khoảng trống rồi, còn bên tả thì một số người khác đang đập phá vách thuyền ầm ầm.

Phá được ba nơi họ cũng không ra ngoài được, bởi tại cả ba nơi đều có người trấn giữ. Cứ cách ba thước là có một hán tử đứng nghiêm chực chờ họ.

Một vài gã lục lâm định đột kích phá vòng vây mà đi, nhưng kẻ nào vừa ló đầu ra là bị chưởng lực đánh tới bắt buộc phải thụt đầu vào.

Người phát xuất chưởng lực có công phu cực kỳ thâm hậu.

Trong khoang thuyền có thêm hai xác chết, xác của hai gã lục lâm đầu tiên vâng lịnh Thương Nhân chạy đi ngăn trở bọn phu thuyền. Bên cánh của họ Vương có một người khác cũng bị thương, song không đến nỗi táng mạng.

Quan Sơn Nguyệt thấy trong khoảng khắc đối phương sát hại mấy mạng người, đành là việc không liên quan chi đến chàng nhưng dù sao thì sự giết chóc này cũng có phần tàn nhẫn, mà chàng thì trọng nghĩa khí giang hồ, do đó chàng không thể điềm nhiên. Chàng vung quyền đánh ra bên ngoài một chiêu, đồng thời hét:

– Bọn khát máu dã man ở đâu dám đến đây hoành hành ...

Quyền lực của chàng chẳng phải nhẹ, tay chàng vừa vút qua khoảng trống hán tử bên ngoài nghinh tiếp liền, song hắn không chịu nổi thần lực của chàng.

Rú lên một tiếng thảm, hán tử đó bị bắn nhào về phía hậu, rơi luôn xuống nước.

Chắc chắn là hắn không thể sống sót.

Trung niên họ Vương thoáng giật mình, cười lạnh thốt:

– Tốt! Tốt lắm đó, tiểu tử! Bản lĩnh cũng có hạng đấy. Nhưng, hãy kiên nhẫn đợi lên bờ rồi lão gia sẽ cho ngươi biết chút khổ não. Người của ta đâu phải vô giá trị mà ai muốn sát hại lúc nào tùy thích!

Thấy chàng vừa xuất thủ là hạ được tên hán tử đứng canh bên ngoài, Ngô Phụng lại kêu lên:

– Ra gấp đi Quan đại hiệp! Chận bọn phu thuyền, đừng cho chúng cặp bờ!

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, chẳng hiểu việc ngăn trở thuyền cặp bến như vậy có tầm quan trọng ra sao mà nàng quá thiết tha lo lắng, nhưng cứ như tình hình này thì hẳn là nàng có lý do chánh đáng và lý do đó phải được tôn trọng tuân hành. Không đắn đo, chàng vọt mình xuyên qua khoảng trống ra ngoài.

Bên ngoài có sự canh phòng cẩn mật, một kẻ chết rồi, có kẻ khác thay liền, chàng vừa ló đầu ra, một loạt tiếng rẹt rẹt vang lên, hơn ba bốn thanh đao rít gió từ nhiều phía bay tới. Đao chớp sáng, sanh gió vù vù, khí thế cực kỳ mạnh.

Tuy chàng có vận dụng chân khí tạo thành bức tường hộ thể, song chàng không dám dùng da thịt mà chạm với sắt thép, lập tức chàng thụt đầu vào.

Không ra được, bắt buộc phải thụt đầu trở lại, Quan Sơn Nguyệt đâm cáu, vung tay rút nhanh thanh Hoàng Diệp Kiếm kêu một tiếng soạt, thanh kiếm lóe lên kim quang tỏa ngời, chàng khoa thanh kiếm hộ trì trước ngực rồi vọt ra lượt nữa.

Như lần trước, ba ngọn thanh đao chớp lên bay vút tới. Nhưng làm gì thứ vũ khí đó chận nổi Hoàng Diệp Kiếm là vật chí báu? Nhiều tiếng «xoảng xoảng» vang lên, mấy thanh đao bị kiếm chặt đứt thành bảy tám đoạn.

Người trung niên họ Vương biến sắc thật sự, hét lớn:

– Đừng để cho hắn chạy thoát!

Tuy mất vũ khí, bọn hán tử không sợ chết, cả năm người dàn thành hàng chữ nhất đứng ngăn lòng khoang thuyền rộng độ sáu bảy thước, ngã thì chịu chứ không bỏ chạy.

Quan Sơn Nguyệt dứ tới một nhát kiếm định dọa cho chúng tháo lui, song năm hán tử như chẳng trông thấy gì, chẳng những không lùi trái lại còn bước dồn tới.

Trong khi đó, sau lưng chúng hiện ra một toán khác cũng dàn thành hàng ngũ chuẩn bị thay thế bọn phía trước nếu bọn này bị hạ. Rồi một toán thứ ba hiện ra chuẩn bị thay cho toán thứ nhì. Bọn chúng như có ý quyết dùng xác thịt làm bức tường ngăn chận Quan Sơn Nguyệt.

Trong tình thế đó, Quan Sơn Nguyệt làm sao vung kiếm chém rạp tới người để dọn lối đi? Chàng giật mình ngưng tay lại.

Ngô Phụng trông thấy vội hét to:

– Mặc chúng Quan đại hiệp! Cứ giết, giết để dọn lối, càng giết nhiều càng hay, bởi chúng đáng chết!

Người trung niên họ Vương lạnh lùng thốt:

– Muốn giết cứ giết. Vay nợ máu phải trả bằng máu, cái đó là lẽ tự nhiên, chắc các ngươi thừa hiểu.

Hàng người thứ nhất tiến đều, họ còn cách Quan Sơn Nguyệt ba bốn thước.

Họ dừng chân, mắt trợn trừng, chưởng đưa cao chực chờ phát xuất.

Quan Sơn Nguyệt đâu có sợ chưởng lực của đối phương mặc dù họ đông người. Chàng nghĩ nếu vung thanh Hoàng Diệp Kiếm lên thì chẳng những hóa giải chưởng lực của họ dễ dàng, mà lại còn sát hại tánh mạng họ nữa.

Vung kiếm báu mà giết bọn người tay không thì không thể nào chàng làm được một việc như vậy.

Không làm được thì phải lùi, chứ chẳng lẽ đứng đó chờ họ ra tay mà chịu khổ? Chàng lùi bước.

Nhưng lúc đó Ngô Khẩu Thiên từ trong khoang thuyền chui qua lỗ hổng ra ngoài, lão ta không nhân từ như Quan Sơn Nguyệt, vung chiếc bố chiêu bài quét ngang qua.

Bọn hán tử cùng một lúc phát chưởng vừa nhanh vừa mạnh nghinh đón mãnh bố của Ngô Khẩu Thiên.

Song phương dùng tận lực bình sanh. Kình lực chạm nhau chấn động con thuyền chao chao như bị sóng lớn nhồi, Ngô Khẩu Thiên lùi lại mấy bước, nếu Quan Sơn Nguyệt không gấp rút kiếm về thì có thể là lão đâm mình vào mũi kiếm mà thủng mình.

Bên bọn hán tử, có ba tên bị mãnh bố quét trúng cổ tay, bố bén như kiếm, chặt đứt sáu bàn tay rơi xuống nền thuyền, máu tươi rơi vãi tung tóe. Dù thọ thương, họ không giải tỏa hàng ngũ, ai còn nguyên tay thì bình tịnh, ai bị đứt tay vẫn đứng nguyên tại chỗ không nhúc nhít, mày không cau, trán không nhíu.

Ngô Khẩu Thiên giật mình kêu lên:

– Lợi hại! Lợi hại! Ta không ngờ bọn này lỳ đến mức độ đó! Mà cũng có công lực rất khá mới chịu nổi thế công của ta. Đến hôm nay ta mới gặp những kẻ hữu hạng, một dịp mở rộng tầm mắt của ta.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Chẳng lẽ chúng là những tượng gỗ vô tri vô giác? Chúng không sợ chết à?

Người trung niên cười mỉa:

– Người của Vạn Ma Sơn Trang đừng nói là đứt hai tay, dù cho đứt đầu đi nữa cũng chẳng ai nhăn mặt nhíu mày!

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Vạn Ma Sơn Trang? Nơi đó là địa phương nào thế?

Ngô Khẩu Thiên lắc đầu:

– Lão phu xuôi ngược khắp sông hồ đến tuần tuổi này vẫn chưa hề nghe ai nói đến cái tên đó.

Người trung niên cười lạnh:

– Vạn Ma Sơn Trang bất quá là một chốn tầm thường, chẳng có danh gì đối với khách giang hồ, song người trong sơn trang là thế đó, đem so với cao thủ giang hồ có được chăng?

Ngô Phụng lại kêu lên:

– Đừng nói chuyện gì với họ nữa Quan đại hiệp! Hãy ra phía sau lái thuyền gấp đi!

Người trung niên bật cười ha hả:

– Bây giờ thì chỉ sợ đã muộn rồi cô bé ơi! Đợi một chút nữa đi, lên bờ rồi lão gia sẽ cho các ngươi thấy thủ đoạn lợi hại của Vạn Ma Sơn Trang như thế nào.

Ha ha! Tài nghệ như các ngươi mà cũng hòng đoạt Bích Ngọc Phượng ...

Thuyền quả nhiên đâm mũi vào bờ, Ngô Phụng khẩn cấp cực độ, thét lên:

– Quan đại hiệp đừng làm mất thì giờ! Phải biết lên bờ rồi là chúng nắm trọn vẹn ưu thế đấy nhé.

Nhưng Quan Sơn Nguyệt làm sao hạ thủ được với bọn người ngăn chận trước mặt? Chàng trông ra, thấy thuyền chỉ còn cách bờ sông độ hơn mười trượng thôi.

Bỗng có tiếng dội mạnh từ dưới thuyền vọng lên, mường tượng thuyền chạm phải một vật gì, liền theo đó thuyền đảo lại đồng thời chênh qua một bên.

Thuyền dội mạnh quá, trên thuyền không ai giữ vững thế đứng, có người ngã xuống. Những kẻ đứng sát mạn thuyền ngã luôn xuống nước.

Những kẻ ngã xuống nước đều có võ công cao, song không quen thủy tánh nên rơi xuống rồi là chẳng làm sao vùng vẫy ngoài cái việc kêu rú lên. Trong khoảng khắc họ uống nước no, chìm luôn xuống đáy sông.

Người trung niên thoáng biến sắc mặt, hét hỏi:

– Cái gì? Tại sao thế?

Một hán tử ở phía sau lái thuyền đáp:

– Bẩm sư gia, lườn thuyền mỏng mà nơi này thì dưới lòng sông có nhiều chướng ngại vật, chính là nơi cố kỵ cho việc đỗ thuyền. Bởi sự tình cấp bách, bất đắc dĩ ...

Người trung niên họ Vương mất cả bình tĩnh, hấp tấp quát:

– Quân vô dụng! Sao không quăng bọn phu thuyền xuống sông bắt chúng đội thuyền đưa vào bờ?

Hán tử đó vâng lịnh, một phút sau có tiếng ồn ào ở phía lái thuyền, chứng tỏ đám thuộc hạ của họ Vương bức bách phu thuyền nhào xuống nước nâng thuyền.

Chừng như Ngô Phụng nghĩ ra được một kế sách gì thần diệu vội kêu lên:

– Thương trại chủ! Tìm cách đánh đắm thuyền, chúng sẽ không còn hành hung ở dưới nước được nữa.

Thương Nhân từ trong khoảng trống nhìn ra, thấy bọn người vừa nhảy xuống nước để nâng thuyền, cho rằng ý kiến của nàng rất hợp với tình thế. Đối phương không quen thủy tánh, mà bọn thuộc hạ của y thì toàn là những tay hoành hành trên thủy đạo, như vậy rất dễ hạ đám Vạn Ma Sơn Trang, dù khoảng cách từ thuyền đến bờ không xa lắm song đối phương không làm sao lên bộ kịp với thuộc hạ của y. Chúng sẽ bị dìm sâu trong nước và con thuyền sẽ không được nâng lên đưa vào bờ. Nghĩ thế, y liền ra lịnh toàn thể bọn thuộc hạ của y ra tay hành động gấp.

Người nào người nấy dùng hai chân vận dụng động lực đạp xuống lườn thuyền, thuyền lủng, nước từ dưới bắn lên ồ ồ.

Đám người của Vạn Ma Sơn Trang hoảng sợ, chạy tán loạn, người trung niên họ Vương la hét vang dội, song làm gì ngăn chận được bọn chạy chết đó.

Thuyền đắm rất nhanh, nước vào ngập đáy rồi.

Ngô Phụng vui mừng ra mặt, lại gọi:

– Ra ngoài quay mũi thuyền lại đi, Thương trại chủ! Hay lật úp xuống được thì càng tốt!

Thương Nhân cũng có ý nghĩ như nàng vậy, nên không đợi nàng dứt lời, đốc suất mươi tên thủ hạ nhảy ra ngoài nhào xuống sông luôn.

Thuyền dù to, song mười đại hán có sức mạnh như thần hiệp lực mà lật, thiết thưởng cũng chẳng khó khăn gì.

Thương Nhân và thủ hạ nhảy xuống nước rồi, lập tức hiệp nhau lay chuyển con thuyền.

Thuyền quay, đảo, mường tượng một quả bóng bị sóng to nhồi.

Bọn người trên thuyền đều sợ hãi biến sắc mặt như màu đất, tay quờ quạng, bám được vật gì cứ nắm chắc vật đó mà chịu, sợ rơi xuống nước. Dĩ nhiên chẳng còn ai giữ đấu chí được một phần nhỏ.

Chỉ có người trung niên và bốn tên đồng bọn đứng cạnh lão ta là tương đối còn giữ được trầm tĩnh phần nào.

Họ quả là những tay có võ công thâm hậu cực độ, thuyền tròng trành chực lật thế mà họ xuống tấn đứng vững như đinh đóng.

Hai trong bốn người đó lấy ám khí trong tay áo ra, đó là loại tụ tiễn, nhắm bọn Thương Nhân rất chuẩn, phóng tiễn liền.

Thương Nhân thấy trước nên hụp mình xuống nước tránh. Nhưng bốn năm tên bộ hạ của y trúng tên, buông tay chết ngay, xác chếtå nào cũng tím xẫm như màu mực loãng.

Ngô Phụng vội gọi:

– Tên có độc đó Thương trại chủ, khó mà phòng bị được. Hãy lặn mình xuống nước đập phá lườn thuyền đi.

Thương Nhân vừa trồi đầu lên, nghe nàng bảo thế, lại lặn xuống, không lâu lắm, con thuyền bỗng rung chuyển mạnh.

Hiển nhiên Thương Nhân và thủ hạ đã xuất thủ rồi.

Người trung niên biến sắc, hét to:

– Hắc Phụng Hoàng! Ta dễ dãi với ngươi như vậy là quá đáng rồi!

Ngô Phụng không hề sợ hãi, bật cười khanh khách:

– Vương lão gia, tôi biết «Phích Lịch Thần Công» của lão gia rất lợi hại, nhưng nếu lão gia thi triển môn công phu đó thì cả chiếc thuyền này không làm sao chịu nổi, đừng nói là người và vật trong thuyền.

Người trung niên tức uất nhưng đâu dám phát tác?

Nhưng lão ta đâu chịu bị chế phục dễ dàng như thế. Lão cao giọng thốt:

– Hắc Phụng Hoàng! Lên bờ rồi ngươi đừng hòng van xin ta tha mạng! Ta sẽ sử dụng Ma Hỏa Luyện cho ngươi biết tư vị của nó ra sao. Ngươi đừng kêu khổ đấy nhé!

Ngô Phụng vẫn cười lớn:

– Vương lão gia ơi! Nghe lão gia nói ai cũng phát rung! Song lão gia đừng quên từ thuyền đến bờ khoảng cách còn khá xa, chỉ sợ trước khi tôi nếm mùi Ma Hỏa thì lão gia lại nếm mùi nươc sông!

Người trung niên nín lặng.

Ngô Phụng lại cười vang:

– Vương lão gia ơi! Tốt hơn nên trao Bích Ngọc Phượng Hoàng ra đi, tôi sẽ nghĩ hộ lão gia một phương pháp tự tồn giúp cho lão gia sống thêm nhiều ngày tháng, khỏi bị chết oan. Bằng lão gia ngoan cố thì cuối cùng rồi cũng chẳng mang vật đó mà xuống âm phủ được.

Người trung niên lắc đầu:

– Không! Thà lão phu hủy diệt vật đó còn hơn là trao cho ngươi.

Ngô Phụng mỉm cười:

– Tùy lão gia, muốn sao thì muốn. Dù sao thì chết sướng cũng chẳng bằng sống khổ, thà khổ mà được sống, chứ chết rồi thì bỏ khoái lạc cho ai? Lão gia khôn ngoan thì liệu mà châm chước lại.

Dưới nước Thương Nhân hành động rất nhanh, thuyền bắt đầu nghiêng về một bên rồi, nhưng chỉ một nửa con thuyền nghiêng thôi bởi nó bị phá rã ra làm hai phần. Phần còn lại sẽ đổ qua phía nghịch chiều nếu cả hai phần tách rời hẳn nhau. Và cứ theo đà động tác của bọn Thương Nhân thì không lâu lắm hai phần sẽ tách hẳn nhau.

Người trung niên vụt hỏi:

– Ngươi dùng biện pháp gì giúp ta sống sót?

Ngô Phụng đáp:

– Lão gia không xuống nước thì chết làm sao được? Chỉ cần có người ở dưới nâng đỡ lão gia đưa lão gia vào bờ. Nên nhớ là khoảng cách xa đấy, lão gia nhảy không khỏi đâu nhé.

Dừng lại một chút, nàng tiếp:

– Hoặc giả có người nào đó đứng giữa chặng đường đưa vai cho lão gia đặt chân lên, giúp lão gia vượt khoảng cách bằng hai lần nhảy thì chắc chắn lão gia lên bờ được. Sức của lão gia nhảy hai lượt thì thừa, một lượt thì thiếu.

Người trung niên rắn giọng:

– Được rồi! Ta y theo điều kiện của ngươi!

Ngô Phụng đưa tay ra, tiếp:

– Lão gia trao vật đi. Chứ đợi đến lúc lên bờ lão gia trở mặt thì chúng tôi làm sao đòi được? Tôi đâu phải là đối thủ của lão gia?

Người trung niên cười lạnh:

– Chẳng lẽ ngươi không sợ lên bờ rồi ta tìm cách đoạt lại?

Ngô Phụng mỉm cười:

– Tôi không lên bờ thì lão gia đoạt vật lại làm sao được? Lão gia lại sợ nước thì khi nào dám trở xuống sông mà đoạt lại?

Người trung niên trầm gương mặt:

– Ngươi lợi hại thật!

Ngô Phụng cười hì hì:

– Ai bảo Vương lão gia có tánh sợ nước?

Người trung niên suy nghĩ một chút:

– Nhưng có chắc là khi Bích Ngọc Phượng Hoàng về tay rồi ngươi chịu cứu lão phu chăng?

Ngô Phụng mỉm cười:

– Lão gia có thể tin tưởng nơi tôi. Chỉ vì tôi không cần vội ...

Nàng chưa kịp buông dứt câu nên chẳng biết nàng muốn nói gì, bởi lúc đó bọn Thương Nhân đã phá vỡ con thuyền, chỉ còn lại một vài mảnh gỗ nổi lình bình trên mặt nước. Dĩ nhiên nàng và người trung niên ở trên một mảnh gỗ.

Mảnh gỗ có diện tích rộng, hai bên có mấy mảnh nhỏ ghép lại chưa rời nhau ra, trên đó còn đủ chỗ cho một vài người bám víu một thời gian trước khi rơi xuống nước.

Trong số người còn bám víu trên mảnh gỗ cũng có Quan Sơn Nguyệt, nhưng số người này dù rơi xuống nước cũng chẳng sao vì ai ai cũng biết thủy tánh.

Cái khổ cho người trung niên là trong số người còn bám víu đó phần đông là bọn Vạn Ma Sơn Trang, bọn này sợ nước như chủ nhân, chủ nhân giữ được bình tĩnh chứ chúng thì rối loạn cả lên, chúng kêu gào thảm thiết, tiếng kêu của chúng đương nhiên gây náo loạn cho lão ta.

Không lo sợ cho bản thân, lão cũng phải lo sợ cho thuộc hạ. Huống hồ lão vẫn lo sợ cho chính mình. Sự lo sợ được che dấu dưới vẽ bình tĩnh, thì vì lời kêu gào của thuộc hạ nó lộ liễu lên nhanh chóng.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, tự hỏi tại sao từ chủ nhân đến thuộc hạ đều sợ nước thế mà lại chọn con đường thủy. Có khác nào người có tánh sợ ma lại thích đi đêm?

Rồi những mảnh gỗ còn dính vào nhau đó bắt đầu tách rời nhau.

Quan Sơn Nguyệt và Ngô Khẩu Thiên bám chung một mảnh trôi theo dòng nước.

Trong khi đó, ở trên mảnh gỗ bên này, người trung niên lấy trong mình ra một cái bao bằng lụa hình vuông, cao giọng thốt:

– Lão phu dù muốn dù không cũng phải tin nơi ngươi một lần.

Ngô Phụng tiếp lấy cái bao, điểm một nụ cười đáp:

– Tưởng sao, chứ lão gia cũng sợ chết như mọi người ...

Nàng chưa dứt câu, người trung niên bất thình lình chụp mạch môn của nàng, đoạn nhấc bổng thân hình nàng lên, mang luôn nàng nhảy xuống nước.

Quan Sơn Nguyệt và Ngô Khẩu Thiên trông thấy thế cùng kinh hãi.

Lợi dụng nắm tiên cơ lúc nhảy xuống người trung niên cho Ngô Phụng xuống trước, thành ra lão ta chiếm ưu thế, nàng ở dưới, lão ở trên.

Chân xuống trước, đầu ở trên, Ngô Phụng chưa ngâm nửa thân mình trong nước thì người trung niên ấn một tay trên đỉnh đầu nàng. Ấn tay như vậy chẳng phải lão có ác ý gì, bất quá lão nương thế lấy đà tung mình lên, uốn cầu vòng lao vút tới một mô đá gần đó. Tuy nhiên lão cũng nắm tóc Ngô Phụng, xách nàng theo luôn.

Ngô Khẩu Thiên luôn luôn theo dõi từng cử động một của hai người, lập tức hét lên một tiếng, quét mảnh bố chiêu bài sang, mảnh bố tháo thẳng ra có khí thế như một ngọn mâu. Lão đã đoán được ý đồ của người trung niên họ Vương, mảnh bố đó không nhắm vào người mà là nhắm mô đá.

Mô đá không lớn, dựng đứng từ lòng sông nhô khỏi mặt nước vừa đủ cho người buông chân xuống.

Ngô Khẩu Thiên quăng mảnh bố tới cuốn quanh đầu mô đá, lão ta giật tay, không cần dụng lực nhiều cũng làm cho mô đá xê dịch khỏi vị trí mấy thước.

Như vậy nếu người trung niên đáp xuống hẳn là phải đáp ngay mặt nước rồi, điều cố kỵ nhất cho lão.

Chân chưa tới đích, lão ta thấy nếu đáp luôn thì hẳn là phải rơi xuống mặt sông, chẳng rõ lão sử dụng một thân pháp như thế nào, chân co lên rồi thân hình vọt đi nơi khác.

Còn ở trong không gian, lão vung tay quay Ngô Phụng một vòng quanh mình lão, sau đó buông nàng luôn.

Thì ra lão quăng Ngô Phụng lên bờ. Mà người trung niên họ Vương cũng nương theo đà quăng nàng, xoay luôn mình một vòng nữa cho cái trớn được mạnh hơn, thân hình lão như bánh xe quay, vòng quay vừa đuối là lão đáp xuống bờ theo nàng.

Người trung niên tự cứu bằng phương pháp đó, thuộc hạ của y còn bám víu nơi những mảnh gỗ lập tức theo gương, chụp bọn phu thuyền làm y như vậy.

Phu thuyền đâu có võ công như Ngô Phụng mà cũng chẳng được Ngô Khẩu Thiên can thiệp như với Ngô Phụng, nên bọn Vạn Ma Sơn Trang lợi dụng chúng dễ dàng, quăng chúng xuống nước rồi bọn Vạn Ma Sơn Trang đạp lên đầu vai chúng lấy đà nhảy lượt nữa là vào đến bờ.

Trong khoảng khắc, có hơn mười tên thuộc hạ lên đến bờ.

Ba trong số bốn đại hán quanh mình họ Vương thì lại làm khác hơn, họ nhặt một mảnh gỗ nhỏ, quăng mảnh gỗ xuống mặt sông rồi dùng thuật đề khí nhảy xuống mảnh gỗ đó, dí nhẹ chân lấy đà nhảy lượt thứ hai.

Người thứ tư thì kém may mắn, lại rơi ngay xuống nước.

Bọn Vạn Ma Sơn Trang lên bờ bằng cách đó được thì các đại hán của phe Thương Nhân cũng làm được như thường.

Nhưng phe Thương Nhân lên bờ rồi là phóng chân chạy tứ tán, vì ba hán tử của họ Vương vung tay tới tấp tung ám khí toan sát hại họ.

Có đến năm sáu người bị ba hán tử Vạn Ma Sơn Trang giết chết. Số còn lại cứ chạy.

Ba hán tử định đuổi theo, người trung niên vẫy ta ngăn chận:

– Mặc chúng. Cứ chuẩn bị ứng chiến đi.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 68

Lôi Quyền Ngân Đạn

Sự tình diễn biến ngoài chỗ tưởng của bọn Quan Sơn Nguyệt.

Nơi bờ, Ngô Phụng lật mình ngang qua, toan trờ dậy, nhưng người trung niên nhanh hơn, vọt mình tới, tung chân đá nàng lăn đi mấy vòng, chiếc bao bằng lụa hình vuông văng khá xa. Lão ta bước theo liền, trông thấy mặt trên của chiếc bao thấm nước, lão sợ nước đến độ chẳng dám mó tay vào, nhặt một cành cây khơi chỗ mối cột, mở ra.

Bên trong lớp lụa là một chiếc hộp bằng gỗ, hình vuông, lão dán mắt nhìn kỹ một lúc, khi biết chắc chắn là hộp chẳng dính một giọt nước nào, mới cúi mình xuống, cầm lấy, cất vào người.

Cơn giận của lão ta còn thừa, sẵn cành cây nơi tay, lão vút nó xuống mình Ngô Phụng, lão vung tay khá mạnh, qua vài cái vút là có máu rướm ra trên mình nàng.

Quan Sơn Nguyệt cực kỳ phẫn nộ, thét:

– Lão tặc! Ngươi hèn đến độ hạ thủ người thất thế, lại là một nữ nhân ...

Chàng muốn vợt mình đến nơi can thiệp, nhưng Ngô Khẩu Thiên ngăn chặn:

– Đừng, Quan đại hiệp, lão ta dẫn dụ bọn mình lên bờ đó!

Quan Sơn Nguyệt gằn giọng:

– Không lẽ ở đây mà nhìn lão ta hành hạ con gái của tiên sanh?

Ngô Khẩu Thiên khẽ thở dài:

– Còn biết làm sao hơn, đại hiệp? Nếu chúng ta liều lĩnh lên bờ, thì cả bọn chết hết với chúng! Lão phu không tưởng chúng lợi hại đến mức độ đó!

Quan Sơn Nguyệt nhìn lên, thấy y phục của Ngô Phụng ráo dần, máu phun ra nhiều hơn trước, máu nhuộm luôn cả cành cây, vậy mà người trung niên vẫn chưa chịu dừng tay, cứ vút xuống liên hồi, càng vút càng gia tăng công lực.

Ngô Phụng nằm trên mặt đất, lăn qua lộn lại, oằn oại tránh né, quả thật nàng có gan lỳ, đau thì chịu đau, vẫn cắn răng không hề kêu đau một tiếng.

Ngô Khẩu Thiên rung giọng nói:

– Phụng nhi cho rằng mình thông minh, hành động liều lĩnh phải chịu khổ như thế, nếu nó nhẫn nại chút nữa thì làm gì bọn đối phương chẳng chết dưới lòng nước? Nó nông nổi quá nên có chủ ý đó ...

Quan Sơn Nguyệt toan lên bờ.

Ngô Khẩu Thiên lại ngăn chặn:

– Đừng nóng nảy, đại hiệp.

Quan Sơn Nguyệt hét:

– Cứ ở đây mãi mà nhìn sao chứ?

Ngô Khẩu Thiên đáp:

– Lão ấy rất mê luyến Phụng nhi, bất quá chỉ vì tức giận mà đánh nó như vậy, song lão cũng nương tay, chỉ làm xây sát da thịt của nó thôi chứ không gây thương tổn cho nội phủ đâu. Quan đại hiệp không nên quá lo lắng.

Quan Sơn Nguyệt vẫn phẫn nộ như thường, cố vùng vẫy thoát ra khỏi tay lão, đồng thời thốt:

– Kẻ bị đánh là con gái của các hạ, thực ra thì chẳng liên quan gì đến tại hạ, nhưng nhìn nàng bị hành hạ như thế, tại hạ xót xa thay cho nàng, còn tiên sanh là đấng sanh thành, lại có thể dửng dưng được! Lạ thay! Trên đời này, thiết tưởng chẳng mấy kẻ giống tiên sanh!

Ngô Khẩu Thiên thoáng thẹn, vì thẹn thành giận, xẵng giọng đáp:

– Này, Quan đại hiệp, việc của cha con lão phu không ai mượn đại hiệp chen vào.

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Tự nhiên! Tại hạ chen vào làm chi chứ? Có điều, tại hạ nhận ra lịnh ái cũng là một nhân vật trong võ lâm dù sao thì lệnh ái cũng là người đồng đạo nên tại hạ vì đạo nghĩa mà thấy bất nhẫn, vì đạo lý mà tại hạ không nở lấy mắt nhìn nàng thọ khổ thọ nhục ...

Ngô Khẩu Thiên đỏ mặt:

– Quan đại hiệp! Lòng nhân của đại hiệp lão phu vô cùng cảm kích, song chẳng lẽ đại hiệp không thấy cạm bẫy chúng đang giăng ra chờ đợi bọn ta sao?

Còn làn nước kia phân cách, chúng chẳng làm gì được bọn ta, cho nên ...

Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:

– Tại hạ muốn lên đó, các hạ lên hay không thì tùy ý.

Thốt xong, chàng giắt thanh Hoàng Diệp Kiếm nơi lưng, tung mình xuống nước, lội vào bờ.

Về thủy tánh, chàng cũng không thạo cho lắm, bất quá chàng không quá sợ như bọn người trung niên kia thôi, chàng vừa đề khí vừa quạt tay xuống nước lấy trớn, đẩy mình tới, tiến dần, tiến dần. Tiến như vậy, dĩ nhiên không nhanh, chàng lội độ mấy thước, bỗng có người nâng chàng lên.

Người nào đó nâng chàng lên, lại còn dụng lực quăng chàng tới trước. Một cái quăng bằng mười cái lội, nhờ vậy chàng tiến nhanh hơn.

Thoạt đầu chàng cứ tưởng là Ngô Khẩu Thiên theo sau, nhưng nhìn kỹ lại thì người đó chính là trại chủ Thương Nhân, y vốn là thủ lãnh mấy mươi thủy trại, nên bơi lội rất tài. Quan Sơn Nguyệt bảo:

– Buông ra đi, Thương huynh, để một mình tại hạ lội vào cũng được!

Thì ra, Thương Nhân nâng chàng lên, quăng đi, rồi vọt theo, nâng tiếp và quăng tiếp, chuyền Quan Sơn Nguyệt vào nhanh hơn, chàng không muốn nhờ người làm việc đó, nên bảo Thương Nhân cứ để mặc chàng.

Thương Nhân cười nhẹ, đáp:

– Điều cần yếu là Quan đại hiệp phải bảo trì công lực, đừng phí sức một cách vô ích. Lên trên đó rồi, đại hiệp sẽ gặp toàn những tay cừ, nếu công lực kém giảm đi thì khó tránh thảm bại với chúng.

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Thương huynh cứ để tại hạ lên một mình ...

Thương nhân lộ vẻ không vui:

– Nói sao thế, Quan đại hiệp! Tại hạ dẫn theo mình trên mười huynh đệ, hiện tại chỉ còn lại năm sáu người, có lẽ nào tại hạ không báo cừu cho họ ...

So sánh Thương Nhân với Ngô Khẩu Thiên, Quan Sơn Nguyệt không khỏi ngậm ngùi cảm khái cho người thủ lĩnh ba mươi sáu thủy trại, từng ngang dọc khắp sông hồ.

Thương Nhân cười nhẹ, trong nụ cười ẩn ước có niềm đau khổ, nói tiếp:

– Quan đại hiệp đàm thoại với lão già họ Ngô đó, tại hạ nghe rõ lời lẽ đôi bên, Ngô Khẩu Thiên từng tự hào là bậc anh hùng, giàu lòng hiệp nghĩa, song xem ra vị tất có cái khí độ ngang với một tên cường đạo là tại hạ đây ...

Quan Sơn Nguyệt không nói gì.

Thương Nhân lại tiếp:

– Hôm nay, gặp được đại hiệp, tại hạ cho rằng mình có cái vinh hạnh lớn nhất trong đời, nếu mà được kết giao với đại hiệp thì quả thật tại hạ mãn nguyện bình sanh đó!

Hai người đã đến bờ.

Số thủ hạ còn lại của Thương Nhân cũng theo y mà lên.

Đến lúc đó, người trung niên mới ngừng tay roi, không đánh Ngô Phụng nữa, rồi y điểm nụ cười lạnh, thốt:

– Thế ra các ngươi vẫn không chịu từ bỏ cái mộng chiếm đoạt Bích Ngọc Phụng Hoàng!

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Tại hạ đâu có màng đến vật đó?

Người trung niên vẫn giữ nụ cười mai mỉa:

– Không vì bích ngọc thì đến đây làm chi?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:

– Tại hạ không thích chứng kiến cảnh nam nhân hành hạ nữ nhân, sở dĩ thế tại hạ đến đây để cảnh tỉnh các hạ, ít nhất đối với đồng loại, cũng phải có phần nào nhân đạo.

Người trung niên bật cười ha hả:

– Lão phu sống đến tuần tuổi này, lần thứ nhứt mới nghe một người nói câu đó với lão phu. Và người nói câu đó lại là một tiểu tử chưa ráo máu đầu! Thật là đất nước bao la, chẳng hiếm chi bọn thừa can đảm! Hẳn là từ nay lão phu phải mở rộng đôi mắt nhìn xa hơn, để mà phòng bị hạng trẻ ăn nói ngông cuồng.

Lão day qua một người đứng bên cạnh, hỏi:

– Hàn Phương! Tiểu tử đó là ai vậy?

Đại hán mang tên Hàn Phương, chính là người đã vào khoang thuyền đầu tiên tìm Ngô Phụng rồi chạy thoát đi.

Suy nghĩ một chút, lộ vẻ bối rối đáp:

– Thuộc hạ không nhận thức hắn, bất quá thuộc hạ nghe Hắc Phụng Hoàng gọi hắn là Quan đại hiệp, có lẽ hắn là nhân vật gần đây nổi tiếng trên giang hồ, họ Quan tên Sơn Nguyệt, Lịnh Chủ Minh Đà Lịnh, những người mang họ Quan thành danh trên giang hồ rất hiếm ...

Thương Nhân chận lời:

– Ngươi nói đúng, chính là Minh Đà Lịnh chủ đó, trên giang hồ làm gì có bậc đại hiệp tuổi trẻ như vậy?

Người trung niên gật đầu:

– Phải! Lão phu có nghe nói đến cái tên này.

Rồi lão day qua gã thuộc hạ trách:

– Hàn Phương ngươi thật là hồ đồ, một con người như vậy có mặt trên thuyền mà ngươi chẳng hay biết chi cả! Thảo nào mà chúng ta chẳng dở sống dở chết giữa dòng sông? Rồi đợi đến trang viện xem ngươi sẽ phúc lịnh thế nào cho biết!

Hàn Phương tỏ vẻ sợ hãi cực độ hấp tấp nghiêng mình thốt:

– Sư gia quở trách là đáng lắm, thuộc hạ sơ suất thành ra mới có sự tai hại đó! Chỉ vì Minh Đà và Độc Cước Kim Thân là vật bất ly thân mà Quan Sơn Nguyệt thì ...

Người trung niên khoát tay:

– Được rồi, thôi đi! Chính ta lần này cũng sơ suất như ngươi, đến cả con chuột nước già kia và Hắc Phụng Hoàng có mặt mà ta cũng chẳng phát giác, may mà Bích Ngọc Phụng Hoàng chưa sang tay khác chứ nếu vật đó mất đi thì làm sao phúc lịnh sau này? Bây giờ, ta giao cho các ngươi thu thập những tên đó, nên nhớ là cần hành động gấp, càng gấp càng hay, phải tranh thủ thời gian đấy nhé!

Hàn Phương giật mình, đáp:

– Sư gia! Về phần của mấy con chuột nước kia thì chẳng thành vấn đề, chỉ có cái gã họ Quan kia thì sợ rằng bọn thuộc hạ khó mà thành công với gã! Phải chi mà sư gia chịu ra tay tiếp trợ cho phần nào ... Vạn nhất mà bọn thuộc hạ có bề gì ...

Người trung niên nổi giận:

– Khốn nạn! Giờ đây đâu còn ở trên thuyền nữa mà ngươi cố kỵ điều này lẽ nọ? Ta không thể tin một «Phích Lịch Thần Quyền» của Vạn Ma sơn trang lại không thủ thắng trước một đứa bé con!

Hàn Phương nghiêng mình:

– Phải! Phải! Thuộc hạ nhất định không đề nhục mạng của sư gia!

Thốt xong, hắn hướng qua Quan Sơn Nguyệt, nhìn chàng bằng ánh mắt ngạo nghễ hỏi:

– Các ngươi vào một lượt, hay từng người một?

Thương Nhân chịu không nổi vẻ khinh người của hắn, nổi giận hét:

– Câm cái mồm thúi của ngươi lại! Sá gì cái bọn vô danh tiểu tốt của sơn trang Vạn Ma của các ngươi mà lên giọng hống hách? Trước mặt Quan đại hiệp mà các ngươi dám buông lời ngông cuồng ...

Hàn Phương lạnh lùng chặn lại:

– Vạn Ma Sơn Trang không có thinh danh là vì từ lâu không hề can dự vào việc trên giang hồ, chứ nếu đã xuất đạo thì các ngươi đâu còn được sống sót đến ngày hôm nay? Đừng nói những lời vô ích, cứ bước tới đi, cho ta thanh toán sớm, đừng làm mất thì giờ quý báu của ta!

Thương Nhân khoát chiếc Thiết Toán Bàn một vòng định xuất thủ, nhưng Quan Sơn Nguyệt chận y:

– Khoan, Thương huynh! Tại hạ muốn hỏi mấy câu cho rõ ràng.

Chàng nhìn vào mặt Hàn Phương, hỏi liền:

– Vạn Ma Sơn Trang của các vị, thật sự là cái chi?

Hàn Phương cười lạnh:

– Hãy đợi ta bắt ngươi giải về căn cứ rồi, Diêm Vương gia sẽ cáo tố cho ngươi biết.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng rút thanh Hoàng Diệp Kiếm thủ nơi tay, gằn từng tiếng:

– Thế thì tại hạ bắt buộc phải động thủ, tại hạ cũng muốn biết cái tài của các vị như thế nào.

Hàn Phương nhìn thanh kiếm của chàng, thốt:

– Càng hay! Ta sẽ dùng hai tay không, thu thập ngươi!

Thương Nhân có vẻ không bằng lòng:

– Quan đại hiệp, tại hạ nghĩ cuộc chiến này là phần của tại hạ ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Thương huynh cân nhắc thử xem, vũ công của Thương huynh và vũ công của tại hạ có khác biệt nhau ra sao?

Thương Nhân giật mình:

– Tại hạ làm sao sánh được với Quan đại hiệp?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Rồi bây giờ, Thương huynh ước độ tài năng của địch như thế nào?

Thương Nhân đáp nhanh:

– Chúng có ra gì mà mình phải quan tâm? Trên thuyền, một tên đã bị tại hạ dùng chiếc bàn toán đưa về Tây thiên, còn một gã thị bị Ngô cô nương tung đi chỗ khác chơi!

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Ngô huynh có biết ý tứ của chúng như thế nào chăng? Tại thuyền thì chúng chẳng có vẻ gì là lợi hại cả, song lên bờ rồi, chúng lại dám thách thức đối phương, như vậy hẳn chúng phải có chỗ sở cậy chứ?

Thương Nhân chớp mắt mấy lượt, chừng như thức ngộ một điều gì, đáp:

– Ý tứ gì thì chưa biết được rõ điều chắc chắn là chẳng phải chúng quá dại mà tìm cái chết. Có lẽ chúng sở cậy vào một phương tiện, một biện pháp nào đó, và chúng tin tưởng chế ngự được bọn mình, như Quan đại hiệp vừa suy luận ...

Hàn Phương vọt mình thốt:

– Ngươi nói đúng. Trên đất liền, «Phích Lịch Thần Quyền» không còn bị hạn chế như tại giữa dòng sông.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Thương huynh nghe y nói đó chăng?

Thương Nhân cương quyết:

– Tại hạ không nao núng chút nào!

Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

– Thương huynh có thể chấp nhận một thỉnh cầu của tại hạ chứ?

Thương Nhân chính sắc mặt:

– Bất cứ việc gì, nếu Quan đại hiệp phân phó là tại hạ sẵn sàng làm ngay.

Quan Sơn Nguyệt nghiêm giọng:

– Thương huynh và năm vị anh hùng đi theo Thương huynh đó, ly khai nơi này độ mười trượng, người này đứng cách người kia ba trượng, rồi chú ý theo dõi tại hạ đối phó với «Phích Lịch Thần Quyền».

Thương Nhân trố mắt:

– Quan đại hiệp muốn vào cuộc trước thì cứ vào, hà tất anh em tại hạ phải ly khai nơi đây?

Quan Sơn Nguyệt vẫn giữ vẻ nghiêm:

– Nếu oai lực của môn Thần quyền đó quá mạnh, tại hạ chẳng may táng mạng, thì sáu vị lập tức nhảy xuống sông, lội nhanh sang bờ đối diện.

Thương Nhân không vui:

– Đại hiệp tính như vậy là xem thường bọn tại hạ lắm đó. Giả như đại hiệp yếu thế, thì anh em tại hạ phải xông vào tiếp trợ chứ, lẻ đâu lại chỉ lo đến sự an toàn cá nhân?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Tất cả đều sẵn sàng chết chung tại chỗ, còn ai sau này lo việc báo cừu?

Thương Nhân suy nghĩ một chút:

– Như đại hiệp đó mà còn thất bại, thì làm sao tìm ra người để báo cừu? Ai có cái tài ba làm được việc đó?

Quan Sơn Nguyệt nói nhẹ:

– Tại hạ vừa từ Ngũ Đài Sơn đến đây, nơi đó có một môn phái mới thành lập, tên Thái Cực Môn, do Trương Thanh cô nương chủ trì. Trong môn phái đó có một số cao thủ. Nếu cần nghĩ đến việc báo cừu, thì chúng ta có thể đặt kỳ vọng nơi họ. Điều thỉnh cầu của tại hạ đối với Thương huynh là cốt lưu lại một vài người để đến đó báo tin.

Thương Nhân đáp:

– Nếu cần báo tin thì một người cũng đủ, sao lại phải cần đến sáu người?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Phải! Một người thôi cũng đủ, cho nên tại hạ mới bảo các vị đứng cách xa nhau ba trượng một, tránh «Thần Quyền Phích Lịch» tàn sát trọn số nếu tất cả cùng quây quần một chỗ. Tản mác ra như vậy, chúng ta có hy vọng ít nhất cũng có một người sinh tồn. Ngoài ra đối phương đông người, chúng ta hiệp nhau một chỗ thì họ dễ bao vây, còn phân tán ra thì chúng không đủ người ngăn chặn.

Người trung niên giật mình, thốt:

– Tiểu tử khá lắm đó, thảo nào mà chẳng sớm thành danh trên giang hồ!

Bình sanh, lão phu không khen ai cả, bây giờ phá lệ tán dương ngươi đó!

Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:

– Tại hạ chờ xem cái gan của các hạ to lớn như thế nào mà dám thách thức bọn tại hạ như vậy.

Người trung niên thản nhiên:

– Vạn Ma Sơn Trang chẳng bao giờ sợ ai tìm đến báo cừu ...

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Người, thì có thể là các hạ không sợ, nhưng nước thì Vạn Ma Sơn Trang sợ là cái chắc, và các vị chẳng bao giờ dám để việc này bị lộ ra ngoài.

Người trung niên biến sắc mặt.

Quan Sơn Nguyệt cấp tốc vận công chuyển nội lực vào thanh Hoàng Diệp Kiếm, bắn kiếm khí bức đối phương lùi lại mấy bước. Đoạn, chàng gọi to:

– Thương huynh! Cấp lui lại sát bờ sông đi!

Thương Nhân không nhích động, nhưng thủ hạ của y có hai người bước tiến sát bờ sông, nhảy luôn xuống nước, ló đầu lên nhìn vào cục diện.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, thốt:

– Bây giờ chúng ta có thể yên tâm ứng chiến rồi. Thương huynh ơi, kiên nhẫn chờ một chút đi, rồi muốn vào thì vào, muốn chạy thì chạy. Gì thì chẳng biết chứ bắt đầu từ hôm nay, Vạn Ma Sơn Trang sẽ trải qua những ngày sóng gió, người trong trang không còn hưởng sự an ninh như thời gian cũ ...

Người trung niên lại biến sắc lượt nữa, giục:

– Hàn Phương, động thủ gấp đi chứ! Tốc chiến, tốc thắng có lợi hơn.

Hàn Phương đưa tay lên.

Bọn Quan Sơn Nguyệt ngưng thần chú ý, mười phần giới bị.

Người trung niên bật cười ha hả, đưa tay chỉ xuống sông, thốt:

– Tiểu tử ơi! Ngươi dù lợi hại, cũng không chu đáo, thủ hạ của ta được huấn luyện kỹ, không cần ta ra lịnh mà vẫn làm được những việc phải làm, làm đúng lúc để ngừa hậu hoạn.

Quan Sơn Nguyệt quay đầu lại.

Phía sau chàng, có hai thủ hạ của người trung niên đứng chặn đường rút lui xuống bờ sông, còn hai thủ hạ của Thương Nhân thì đã thành hai xác chết nổi lờ đờ trên mặt nước. Hiển nhiên, hai người đó bị đối phương bắn độc tiễn mà táng mạng. Bất giác, Quan Sơn Nguyệt sững sờ.

Người trung niên cười lớn:

– Gừng và quế, càng già càng cay, ngươi mới ngần ấy tuổi đời, dù cho có thông minh thì sự thông minh của ngươi bất quá chỉ mới tượng hình, bất quá chỉ là một điểm nhỏ, dùng điểm nhỏ thông minh đó đối phó với lão phu, có khác nào ngươi nuôi mộng hái trăng, làm gì thành công được? Tuy nhiên, lạp phu cũng nhìn nhận ngươi khá lắm, ngươi vượt bình thường đáng cho người ta chú ý.

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Các hạ không nên quá tự đắc. Chưa chắc gì «Phích Lịch Thần Quyền» của các hạ sẽ làm chi được tại hạ.

Người trung niên bật cười ha hả:

– Như bọn Hàn Phương thì có thể là chúng không làm chi ngươi nổi, bởi công lực chúng còn ở mức tầm thường, nhưng nếu lão phu xuất thủ thì ngươi không hy vọng gì tẩu thoát đâu. Khó lắm, tiểu tử ơi, lão phu thấy ngươi khó sống sót lắm.

Niềm tin tất thắng của Quan Sơn Nguyệt hiện tại mong manh quá, chàng không đáp lại tiếng nào.

Song, Thương Nhân thì cười vang lên, cười đến độ gây ngạc nhiên cho toàn thể.

Hàn Phương nổi giận, thốt:

– Sắp chết đến nơi, lại không lo trối trăn, còn cười như điên là nghĩa gì? Có cái chi đáng cho ngươi cười đâu?

Thương Nhân phất chiếc bàn toán, những con toán khua chạm vào nhau, kêu lạch cạch, y biểu hiện sự đắc ý của y. Y đáp:

– Ta nghĩ đến cái câu lão già kia vừa nói đó mà. Cái câu gừng quế càng già càng cay đó!

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Đừng đùa nữa, Thương huynh!

Thương Nhân cười to hơn:

– Tại hạ đâu có đùa! Tại hạ đang nghĩ đến lão già họ Ngô, chúng ta có nhận xét sai lầm về lão ấy. Chẳng phải lão tham sống sợ chết đâu. Mưu của lão rất thâm ...

Quan Sơn Nguyệt quay đầu nhìn lại, thấy mảnh ván thuyền còn đó, nhưng Ngô Khẩu Thiên thì đã biến đi đàng nào mất rồi. Đến cả tấm bố chiêu khách trước đó còn nằm tại bờ sông bây giờ cũng mất luôn. Điều đó chứng minh là lão ta đã chuồn xuống nước rồi, len lén lội vào bờ lấy lại tấm bố, nghe lọt câu chuyện của chàng và sau cùng âm thầm lẻn đi.

Người trung niên biến sắc mặt, nhưng còn biết làm sao kịp nữa?

Thương Nhân tiếp tục cười vang:

– Giả như hôm nay ta may mắn được thoát nạn, thì ngày sau, nếu gặp lại lão già đoán số mạng đó, chắc là ta phải tránh xa, lão ấy lợi hại không tưởng nổi.

Cả ngươi nữa, tuy ngươi là một tay gian hoạt đáng khiếp, song không sánh kịp họ Ngô đâu.

Người trung niên hét:

– Ngươi còn hy vọng sống sót? Hừ! Rõ là ngươi nuôi mộng!

Quan Sơn Nguyệt bình thản điểm một nụ cười:

– Là nam nhi, khi chọn cái kiếp sống giang hồ thì còn màng đâu đến sự sanh tử nữa? Chết là một cái gì chực chờ khách giang hồ ở mỗi đoạn đường, mỗi bước đi, chết sao cho đáng giá, chết sao cho đừng oan uổng, chết đúng lúc, đúng nơi. Chết như vậy, thì nên chết, đừng bao giờ chết bậy ở bất cứ trường hợp nào, thời gian, địa điểm nào.

Người trung niên thấy khí khái của chàng, bất giác khích động mạnh.

Thương Nhân ưỡn ngực, cười ha hả:

– Quan đại hiệp ơi! Nghe đại hiệp nói rồi, tại hạ nghĩ con người không tránh được một lần chết, mà cường đạo thì hiếm có một dịp chết tốt, chết đẹp, giả như trong trường hợp này, bất hạnh mà tại hạ chết đi, thì đúng là một cái chết đầy vinh hạnh cho tại hạ vậy.

Ngô Phụng cố nhẫn cơn đau, dùng hai đầu gối bò đến gần, kêu thảm thiết:

– Quan đại hiệp ơi, chính tôi làm liên lụy đến đại hiệp. Như chúng tôi có bất hạnh ra làm sao, thì cũng chỉ vì chiếc Bích Ngọc Phượng Hoàng, nhân có phát thì quả phải lãnh, còn đại hiệp thì hoàn toàn chẳng có lý do ...

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Ngô cô nương không nên thắc mắc, cứ biết cho rằng chúng ta đều là người trong vũ lâm, chúng ta là đồng đạo ...

Người trung niên bực dọc, day qua Hàn Phương, gắt:

– Hàn Phương, ngươi còn chờ gì nữa? Cái lão tướng số đó đã chuồn đi rồi, còn lại bọn người này, ngươi nên thu thập bọn chúng gấp, để minh còn lên đường chứ. Biết đâu đối phương sẽ chẳng ngăn chận đường về của chúng ta, hoặc kịp thời theo dõi chúng ta nếu cứ dần đà ở đây mãi?

Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:

– Các hạ cho rằng cứ giết hết bọn này thì chẳng còn ai khám phá ra vạn Ma Sơn Trang nữa sao?

Người trung niên lộ vẻ cao ngạo:

– Đừng tưởng khám phá ra Vạn Ma Sơn Trang là một việc dễ làm. Phải biết sơn trang của lão phu được sáng lập gần trăm năm nay, trong thời gian dài đó, trên giang hồ chẳng ai biết được nó ở địa phương nào. Chỉ cần các ngươi chết đi, là Vạn Ma Sơn Trang cầm như an ổn chẳng khác bàn thạch.

Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:

– Sở dĩ từ trước đến nay, chưa có ai phát hiện được căn cơ của các vị, là vì các vị vận khí còn đỏ. Hiện tại thì hình tích của các vị đã bị lộ rồi, nếu Trương cô nương biết được, thì dù cho các vị có chạy lên trời, cũng chưa chắc chắn tìm được sự sống.

Người trung niên niên lắc đầu:

– Trời đất rộng bao la, nàng có biết ta ở đâu mà tìm?

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Vừa rồi, có năm sáu người của các hạ chạy trốn, hẳn là họ không chịu nổi sự khắc nghiệt của các hạ. Muốn đến Vạn Ma Sơn Trang, không còn gì hơn là dùng các người đó làm hướng đạo.

Người trung niên lại biến sắc.

Lão trầm lặng một lúc lâu, chẳng nói tiếng nào, song lão day qua Hàn Phương đưa tay ra hiệu bảo hắn chuẩn bị phát động.

Đột nhiên, Thương Nhân đưa cao chiếc Thiết Toán Bàn lớn tiếng gọi:

– Quan đại hiệp, đã có lão họ Ngô chạy báo tin rồi, thì chúng ta có chết hay sống sót đi nữa, điều đó chẳng thành vấn đề. Vậy thì, đại hiệp nên nhường trận đầu cho tại hạ nhé.

Y đưa cao chiếc bàn toán, con toán kêu vang, đoạn cất cao giọng hét:

– Anh em đâu! Hãy vì các huynh đệ bỏ mạng, mà làm một cái chi, cho họ được an ủi hồn thiêng nơi suối vàng đi nào!

Ba người, theo tiếng hét của y nhào tới.

Hàn Phương cũng quát to, đánh ngang một quyền. Lập tức gió thổi, sấm nổ, khí thế mường tượng bão đùa, sấm động. Cuối cùng, hắn cũng phát xuất «Phích Lịch Thần Quyền», dĩ nhiên khí thế cực kỳ hung mãnh.

Ba thuộc hạ của Thương Nhân lướt tới, chưa kịp đánh ra một chiêu thức nào đã bị bắn bay ngược trở lại. Nói là người bị bắn bay, thực ra là da thịt nát bấy, những mảnh vụn bay vèo vèo trở lại, máu văng tung tóe, như một cơn mưa rào.

Một chiêu «Phích Lịch Thần Quyền» sát hại ba người! Lợi hại không tưởng nổi.

Thương Nhân tuy miệng gào, song chân lùi, y thoái hậu tránh gấp mà vẫn bị quyền phong cuốn theo hất y ngã nhào. Vừa rơi xuống đất, y thét lên:

– Lợi hại thật!

Chiếc bàn toán bằng thép của y bỗng vỡ tung, những con toán bay đi như hạt tuyết cuốn theo gió lốc, tất cả những con toán đó cùng bay đến Hàn Phương.

Hàn Phương tựa hồ không phòng bị. Đến khi hắn định vận công, phát chiêu thì đã muộn rồi. Hắn hấp tấp xoài mình xuống đất, lăn đi, tránh cơn mưa con toán, khi hắn đứng lên thì Thương Nhân thét:

– Chết này!

Thì ra, Thương Nhân còn giữ lại một số con toán phòng hờ. Bây giờ, y giác độ rất chuẩn, thấy Hàn Phương đứng lên, y tung ra luôn. Trong trường hợp đó làm sao Hàn Phương tránh kịp?

Hai tiếng bách bách vang lên, hai con toán xuyên thủng da chui vào mặt hắn.

Thương Nhân vốn kỳ vọng sự thành công nơi lần phát xuất thứ hai, do đó y dùng tất lực bình sanh phóng con toán. Tấu xảo làm sao, hai con toán lại xuyên tét mí mắt Hàn Phương, chui vào trũng mắt thay thế đôi mắt thật của hắn.

Thương Nhân bật cười lớn:

– Thì ra ngoài «Phích Lịch Thần Quyền», các công phu khác của bọn ngươi rất bình thường.

Hàn Phương cảm thấy đau quá, không chịu nổi, nhào xuống đất lăn lộn, lăn đến bên cạnh Ngô Phụng.

Ngô Phụng chụp một viên đá to bằng quả trứng, nhắm kỹ càng, đập vào đầu hắn. Nàng không quăng, mà lại đập, bởi Hàn Phương đến vừa tầm tay. Nàng đánh rất mạnh, đánh với trọn vẹn niềm căm phẫn để trả đũa trận roi vừa rồi.

Dĩ nhiên, cái đánh đó phải trúng đích, và đầu Hàn Phương vỡ vụn ra một phần lớn, máu phun ra óc phọt ra.

Thương Nhân tiếp tục cười vang:

– Được lắm, Ngô cô nương! Cô nương làm một việc bù trừ đáng giá hết sức.

Bọn huynh đệ tại hạ, bất hạnh táng mạng cũng yên tâm ngậm cười nơi suối vàng.

Người trung niên biến sắc, hét oang oang:

– Thứ tặc tử vô sỉ! Dám dùng đến thủ đoạn đó, thì thật là hèn! Lạp phu thề sẽ đập nát xác các ngươi thành đống xương thịt nhão như bùn!

Lão gọi lớn:

– Đỗ Cửu, Huỳnh Khương đâu?

Đại khái lão gọi hai hán từ bên ngoài, xông vào tấn công, nhưng lão gọi mấy lượt, hai hán tử đó đứng nguyên tại chỗ, bất động. Lão quýnh quáng, đồng thời hết sức lấy làm lạ, vội bước tới xem sự trạng như thế nào.

Nơi cổ họng mỗi đại hán có một lỗ thủng nhỏ. Cả hai đã chết từ lâu.

Thương Nhân bật cười ha hả:

– Thương Nhân này đã là thủ lãnh ba mươi sáu thủy trại trên khắp mặt nước sông hồ, thì hành sự luôn chủ trương công bằng, ai có tội thì phạt tội, ai có công thì thưởng công. Hai tên đó chết đi, hẳn là chưa biết kẻ sát hại mình là ai! Này lão già kia, lão muốn đập nát xác chúng ta thành những đống xương thịt nhão như bùn, thiết tưởng lão phải tự mình ra tay mới được!

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Chàng nghĩ, Thương Nhân quả thật chẳng phải là tay tầm thường như chàng ước độ. Chỉ vì, chàng đứng bên cạnh y nhưng chẳng phát hiện y xuất thủ từ lúc nào, sát hại hai đại hán ở phía hậu.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 69

Kỳ Tình Xảo Ngộ

Thần sắc biến đổi âm trầm, người trung niên hướng về Thương Nhân từ từ bước tới, hai tay đưa ra, hai tay trắng, mềm, mường tượng bột nắn, song ước ẩn một cái gì gây khiếp đảm nơi đối phương.

Dĩ nhiên, Thương Nhân phải hồi hộp lo âu, vô ý trung lùi lại, bên kia tiến tới một bước thì bên này lùi một bước, bên lùi cứ lùi mãi, dần dần đến gần xác chết của Hàn Phương. Rồi Thương Nhân vấp phải xác chết, loạng choạng ngã xuống.

Người trung niên vương tay chụp y, trong khi quá khiếp y không còn một điểm năng lực kháng cự.

Quan Sơn Nguyệt vừa cử cao thanh kiếm vừa chạy đến, người trung niên vụt đứng thẳng lưng quát:

– Ngươi dang ra!

Khi nào Quan Sơn Nguyệt nghe theo lời của lão mà dang?

Nhưng, lời nói của đối phương không hiệu lực, thì cái oai khí của đối phương dường như toàn năng, oai khí đó gieo khiếp đảm nơi chàng, rồi cũng như Thương Nhân, vô ý trung chàng lùi lại hai bước.

Lùi, khiếp đảm, song chàng vẫn còn giữ trọn vẹn tánh quật cường, tay nắm đốc kiếm chặt hơn. Nếu đối phương có động tác nào bất lợi cho Thương Nhân, thì chàng sẵn sàng can thiệp với bất cứ giá nào.

Trước hết người trung niên lấy chiếc điếu lưng ra, hất cái xác của Hàn Phương qua một bên, sau đó mới chỉ hạt thiết châu trong vũng máu, thốt:

– Lão phu không bao giờ xuất thủ đối với những kẻ tay không tấc sắc, ngươi hãy nhặt lấy hạt thiết châu đó mà dùng.

Thương Nhân giật mình, do dự một chút, cuối cùng đưa tay nhặt con toán.

Người trung niên lạnh lùng hỏi:

– Đủ chưa? Nếu chưa đủ thì nhặt thêm mấy hạt nữa đi.

Thương Nhân rung rung giọng:

– Để làm gì?

Người trung niên trầm lạnh giọng:

– Ngươi giết Hàn Phương, ngươi giết hai tên thủ hạ của lão phu, thủ pháp ngươi khá cao minh đó, lão phu chấp nhận cho ngươi thi triển lại một lần nữa cái thủ pháp đó, giả như ngươi có mệnh hệ nào thì cũng không oán hờn lão phu hẹp lượng.

Thương Nhân cố lấy lại tinh thần, gượng điểm một nụ cười, thốt:

– Thủ pháp của ta chẳng có gì siêu kỳ cả, bất quá chỉ thừa lúc đối phương không phòng bị mà chiếm một thắng thế thôi. Chứ ngươi thì, ngươi có chuẩn bị rồi, vả lại tài năng của ngươi cũng trội hơn ...

Người trung niên ngăn chận:

– Đừng nói nhảm, lão phu dửng dưng trước mọi lời tán dương xoa dịu hoặc cầu tình, cứ chụp lấy cơ hội mà tranh thủ sinh tồn, vì đây là cơ hội duy nhất cho ngươi.

Thương Nhân suy nghĩ một chút, buông rơi thiết hạt châu xuống đất, rồi đáp:

– Hiện tại, tay ta không có tấc sắt nào, tùy ngươi muốn hạ thủ thì cứ làm!

Người trung niên tợ hồ không tường nổi đối phương áp dụng phương pháp lỳ như vậy, thoáng giật mình hỏi:

– Một thủ lãnh ba mươi sáu thủy trại mà lại có thái độ hèn được sao? Trẻ con quá!

Thương Nhân điềm nhiên:

– Đâu có chi hèn? Ngươi thừa hiểu là ta không làm gì thương tổn ngươi được nên cố ý tỏ ra mình anh hùng, khoa trương thái độ đại phương, từ lâu lắm rồi, ta chỉ dùng chiếc bàn toán để thâu vào chứ không hề chi ra thì khi nào ta lầm mưu ngươi?

Người trung niên nổi giận:

– Thế là ngươi không chịu động thủ?

Thương Nhân mỉm cười:

– Ta nhận thấy tài không hơn địch thì làm gì có hứng mà động thủ? Dù cho ta có động thủ hay không, chung quy cũng chẳng tránh khỏi cái chết, như thế ta còn làm một việc vô ích làm chi cho mất thì giờ?

Người trung niên suy nghĩ một chút, cười lạnh thốt:

– Lão phu là Vương Thập Phương, bình sanh tự phụ mình là tay thừa cơ trí, do đó mới được ủy thác chức vụ sư gia trong Vạn Ma Sơn Trang, không ngờ hôm nay lại gặp kẻ đối đầu lợi hại ...

Thương Nhân cũng cười lạnh, thốt:

– Thập phương thì đâu đã có gì kỳ lạ? Chiếc bàn toán của ta còn tính toán được đến thập nhất phương kia mà, hơn ngươi một phương rõ ràng, nếu ngày nào đó ta lọt vào Vạn Ma Sơn Trang, thì cái chức sư gia hẳn là ngươi phải nhường lại cho ta.

Vương Thập Phương khoát tay:

– Không nên nói nhảm. Ngươi không có vũ khí, ta không hề dùng «Phích Lịch Thần Quyền» đánh ngươi, cho nên ta chuẩn cho ngươi một cơ hội.

Thương Nhân mỉm cười:

– Giả như ta không động thủ, thì ngươi không có cớ gì để tắc trách hành động sát hại ta, có phải vậy không?

Vương Thập Phương trừng mắt:

– Chưa hẳn là vậy.

Thương Nhân đánh tiếp một đòn tâm lý thâm hơn:

– Ta biết mà! Có thể là quy củ của Vạn Ma Sơn Trang bắt buộc điều đó!

Vương Thập Phương biến sắc mặt:

– Nói bậy!

Thương Nhân mỉm cười:

– Ta nói không nhảm đâu! Trước đây, ngươi ra lịnh cho Hàn Phương hạ sát bọn ta, hắn có thể xuất thủ ngay được chứ, nhưng hắn cứ dần dà mãi, chờ bọn ta phát động rồi hắn mới khởi thế phản công. Thật ta không hiểu nổi tại sao trang chủ Vạn Ma Sơn Trang lại chấp định một quy tắc hoang đường như vậy.

Vương Thập Phương phẫn nộ:

– Ngươi không xuất thủ, chẳng lẽ lão phu buông tha luôn cho ngươi?

Thương Nhân tiếp:

– Ta không tin ngươi buông tha, song vô luận như thế nào, ta nhất định không xuất thủ. Ngươi có muốn giết ta, thiết tưởng cũng chẳng dễ đâu. Ta dám chắc ngươi vận dụng tâm cơ một cách khổ sở để tìm lý do tắc trách hành động.

Liệu ngươi có tìm được lý do chăng?

Vương Thập Phương thừ người một lúc, rồi thở dài nói:

– Thương Nhân! Lão phu chịu thua, ngươi cứ đi đi!

Thương Nhân lắc đầu:

– Ta không đi.

Vương Thập Phương quắc mắt:

– Lao phu tha chết cho, sao ngươi không đi?

Thương Nhân lại cười:

– Ta không đến nỗi quá ngu mà mắc mưu ngươi. Ta nghĩ, các ngươi còn có một quy định nào khác.

Vương Thập Phương quát:

– Quy định gì?

Thương Nhân giải thích:

– Quy tắc thứ nhất của các ngươi, là không giết người khi người không động thủ. Ngươi tha ta, nhưng ngươi đâu có tha hai tên thuộc hạ của ta? Chúng nó nhảy xuống sông đó, chúng có phản kháng các ngươi đâu? Thế mà các ngươi cũng giết được chúng. Cho nên ta nghĩ, dù sao thì sao, ta nhất định không ly khai nơi này, để tránh khỏi cái tiếng đào tẩu.

Vương Thập Phương cực kỳ phẫn nộ, cao giọng thốt:

– Được rồi, lão phu bắt buộc phải phục ngươi, ngươi thông minh đó, đoán trúng quy củ của Vạn Ma Sơn Trang. Ngươi ở đây, lão phu cũng ở đây, thử xem đến lúc nào, ngươi mới bỏ đi.

Thương Nhân bật cười ha hả:

– Ngươi quyết thi gan với ta? Hay quá! Ngươi hãy nhìn trời kìa, mây kéo như vậy đó, không lâu lắm, sẽ có một cơn mưa to đổ xuống, mưa là có nước, ta chỉ sợ khi nước đổ xuống sẽ có điều bất lợi cho ngươi.

Vương Thập Phương nhìn trời, thần sắc trầm trọng.

Lâu lắm, lão thốt:

– Thương Nhân! Ngươi bức lão phu vi phạm quy củ của bổn trang đó nhé!

Thương Nhân cười hì hì:

– Ta đâu có quyền năng cấm đoán ngươi làm cái việc đó? Ngươi muốn vi phạm thì tùy ngươi, song hãy nhớ là ngươi còn phải trở về sơn trang, phục lịnh chủ nhân. Ngươi đã nghĩ ra cách phúc đáp với chủ nhân chưa, mà vội hăm dọa ta?

Vương Thập Phương hừ một tiếng:

– Những kẻ tùy hành của ta đều chết hết, còn ai đâu nữa mà ta sợ sự vi phạm bị tiết lộ?

Thương Nhân ngạo nghễ:

– Ngươi tin chắc là sự bí mật được bảo toàn à? Ngươi có nghĩ đến chuyện Vạn Ma Sơn Trang cho người âm thầm theo dõi ngươi, giám thị hành động của ngươi chăng? Xuất phát một đoàn người quan trọng như các ngươi, thi hành công tác bên ngoài, hẳn chủ nhân của ngươi cũng đề phòng các ngươi chểnh mảng phận sự, hoặc giả sanh tâm phản phúc. Như vậy, ngươi đừng tưởng qua mặt được chủ ngươi.

Vương Thập Phương quát lớn :

– Câm! Câm ngay! Lão phu không muốn nghe ngươi nói nhiều hơn. Chẳng lẽ lão phu không biết rõ hơn ngươi à?

Thương Nhân đắc ý:

– Bởi ngươi thừa hiểu như vậy, nên không dám hạ độc thủ. Vậy cần gì ngươi lý luận, giảng giải dài dòng với ta?

Vương Thập Phương giận quá, song giận thì giận, chứ là gì được bây giờ?

Thương Nhân buông câu nào, cũng trúng tim đen lão ta, phong phóc.

Trong khi đó thì trời tối lại, dần dần.

Vương Thập Phương cũng bối rối dần dần, càng phút càng bối rối hơn. Tuy nhiên, lão vẫn giữ thần sắc âm trầm không tỏ lộ một cảm nghĩ nào nữa.

Thương Nhân khích :

– Trời sắp đổ mưa rồi đó nhé. Ngươi hãy quyết định nhanh đi.

Vương Thập Phương suy nghĩ một lúc lâu, đoạn cất cất giọng sang sảng thốt:

– Vương Thập Phương kính bẩm chủ nhân Vạn Ma Sơn Trang, vì sự tình cấp bách, bắt buộc thuộc hạ phải làm cái việc vi phạm uy điều. Mong chủ nhân lượng xét cho. Khi trở về sơn trang. Thập Phương này sẽ cúi đầu thọ nhận hình phạt.

Thương Nhân thuận miệng mà nói, nói phóng chừng, chứ thực sự đâu có biết là có người theo dõi giám thị bọn Vương Thập Phương? Thế mà y đoán đúng!

Trông Vương Thập Phương khẩn cầu vu vơ, y thấy buồn cười hết sức.

Nhưng y giật mình, nụ cười tắt ngay, bởi có giọng lạnh lùng đâu đây vang lên:

– Không thể được! Xuất ngoại lần này, đành rằng ngươi làm tròn nhiệm vụ, đoạt được chiếc Bích Ngọc Phụng Hoàng song sự thành công đó mất cái giá trị của nó bên cạnh bao nhiêu lỗi lầm ngươi đã làm. Ngươi để lộ điều cơ mật của sơn trang, nếu bổn chủ nhân không theo dõi, thì chẳng biết ngươi còn phạm bao nhiêu lỗi lớn nữa không thể bù trừ! Bây giờ ngươi còn đưa ra một sự thỉnh cầu vô lý, như thế là nghĩa gì chứ?

m thinh vừa dứt, từ không trung rơi xuống một đống gì, mọi người cùng đổ mắt nhìn.

Thì ra, là một đống đầu người, máu tươi còn chảy ròng ròng, đầu của bọn hán tử đã bỏ cuộc, chạy đi lúc lên bờ.

Rồi một vật khác rơi theo. Vật sau nầy là chiếc bố chiêu bài của Ngô Khẩu Thiên.

Quan Sơn Nguyệt và Thương Nhân kinh hãi, cùng biến sắc mặt, Ngô Phụng rú lên một tiếng thảm, hôn mê ngay.

Gương mặt Vương Thập Phương đổi thành màu đất, lão ta rung rẩy người trông thảm lạ.

Người từ trong chỗ kín khuất phát âm vọng ra, quả thật là kỳ bí, âm thanh mường tượng phát xuất từ chín tầng không vọng xuống, mà đầu lâu và mảnh bố cũng do từ trên cao xa rơi xuống.

Người đó ẩn mình trong mây hay sao? Điều đó thì chẳng ai tin được như vậy rồi, song không ai biết y ẩn mình ở nơi nào mà liên lạc với Vương Thập Phương.

Cũng chẳng ai hiểu y là nam nhân hay nữ nhân, thuộc lứa tuổi nào, vì âm thanh rất lạnh lùng, khô khan, dường như chẳng phải thứ âm thanh của con người.

Lâu lắm, Vương Thập Phương mới lấy lại bình thường, tuy nhiên lão ta chưa hết run, giọng nói vẫn rung chứng tỏ lão còn quá sợ:

– Chủ nhân có điều gì chỉ thị cho thuộc hạ?

Trên không trung, âm thanh của người thần bí vọng xuống:

– Hậu hoạn, đã do ta tiêu trừ rồi, còn ba người đó, là vấn đề do ngươi giải quyết, người hãy tùy tiện mà liệu lý, xử trí, bất quá, ngươi nên nhớ, vi phạm quy củ của sơn trang thì số phận nào sẽ được dành lại cho ngươi sau này.

Vương Thập Phương vừa lấy lại tinh thần, vụt biến sắc một lần nữa, sững sờ một lúc lâu, khói từ cối điếu bốc lên, khói màu xanh, phản ánh với những đốm lửa bắn ra như sao. Lão rít, lão phun, khói tỏa thành một đám sương mơ, lan rộng dần dần, khói hướng về Thương Nhân bay tới.

Thương Nhân kinh hãi, đưa tay khoát, như để chống cự lại luồng khói mà y sợ là có độc.

Vương Thập Phương mỉm cười, thốt:

– Chung quy rồi ngươi cũng xuất thủ! Lão phu có thể hạ sát ngươi đó nhé!

m thanh từ trên không vọng xuống:

– Cái mưu đó được lắm, phải vậy chứ, nếu không thì chức sư gia của ngươi bay theo khói là cái chắc!

Bị quở, thì hãi hùng tới tái mặt, được khen thì gan ruột nở nang gương mặt của Vương Thập Phương tươi lại ngay.

Không chậm trễ lão đánh ra cùng một lúc, tay trên chân dưới một chưởng và một cước, lão dùng chiêu thức cực kỳ độc, quyết hạ sát đối phương cấp tốc.

Thương Nhân bình tĩnh quan sát chiêu công của địch, đoạn lạng người qua một bên, né tránh. Đồng thời, y đánh trả lại một chưởng vào hông Vương Thập Phương.

Vương Thập Phương hụp mình xuống vừa đủ nhường cho chưởng lực của Thương Nhân phớt qua, rồi lão dùng chiếc túi da đựng thuốc phất vào đùi đối phương, cùng một lúc lão phun luôn một đợi khói, trong khói có lửa chớp như sao, mường tượng có tiếng kêu lách tách.

Thương Nhân không dám kinh thường, vội nhún chân nhảy vọt lên không.

Nhưng, Vương Thập Phương vung chiếc điếu, đập cối điếu vào sau ót của Thương Nhân, nếu tử huyệt ở chỗ đó bị chạm thì Thương Nhân mất mạng ngay.

Lơ lửng ở trên không, lại đánh từ dưới lên, từ phía hậu tới, Thương Nhân tài nào xoay trở trách đòn kịp?

Vương Thập Phương cầm chắc với thế công đó, lão hạ đối phương, không còn nghi ngờ gì nữa.

Nhưng, đúng như lão không ngờ một ánh sáng vàng chớp lên, chiếc điếu của lão bị tiện đôi, tay còn nắm cần điếu, còn cối điếu thì bay đi, rơi xuống một góc xa xa.

Hiển nhiên, Quan Sơn Nguyệt xuất thủ cứu mạng Thương Nhân.

Vương Thập Phương giật mình quát:

– Tiểu tử làm gì thế?

Quan Sơn Nguyệt hoàng ngang ngọn kiếm, cao giọng đáp:

– Tại hạ không thể lấy mắt nhìn người lâm nạn mà không cứu.

Vương Thập Phương nổi giận:

– Thân ngươi chưa chắc gì ngươi bảo toàn nổi, còn can thiệp vào việc của kẻ khác là nghĩa gì chứ?

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Việc đó chưa đến, các hạ khoan đề cập vội. Ít nhất, hiện tại, tại hạ còn sống như thường, và còn sống được phút giây nào là tại hạ dành phút giây đó để làm việc thiện, khi nào chết sẽ hay. Mà chắc gì ai làm cho tại hạ chết nổi? Cho các hạ biết, nhát kiếm vừa rồi chỉ cảnh cáo các hạ thôi đó nhé, chứ nếu tại hạ muốn giết người, thì chiếc điếu đâu bị hủy diệt như vậy?

Vương Thập Phương giận dữ hét:

– Câm ngay! Ngươi tưởng nhát kiếm của người gây tổn thương cho lão phu dễ dàng à?

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Nên thức thời vụ một chút, các hạ ạ! Nếu biết là các hạ ngoan cố, thì tại hạ đã chuyển mũi kiếm vào người thay vì chặt chiếc điếu. Tại hạ bình sanh hành sự quang minh chánh đại không muốn hại chết ai một cách oan uổng. Muốn giết một người, tại hạ luôn cảnh cáo trước, rồi mới hạ thủ sau. Do đó các hạ chưa mất mạng dưới nhát kiếm.

Vương Thập Phương cười lạnh:

– Chiếc áo của ta, bằng da con linh dương, đao kiếm, dù bền đến đâu cũng không chặt đứt nổi!

Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:

– Vậy sao? Thế thì các hạ nhìn xuống tà áo xem sao!

Vương Thập Phương cúi mình xuống phía dưới, thấy tà áo bị cắt mất một đoạn vài độ thước, phần bị cắt rơi ngay cạnh chân của lão ta.

Chiếc áo đó, là một vật báu của lão, mặc nó vào là lão không còn sợ đao kiếm chạm mình, hiệu năng của nó đã được chứng minh qua nhiều cuộc giao đấu, nhưng hôm nay lão gặp phải Quan Sơn Nguyệt với thanh Hoàng Diệp Kiếm, chiếc áo không còn là vật bảo đảm an toàn cho lão nữa.

Nếu Quan Sơn Nguyệt chẳng nương tình, đưa lưỡi kiếm lên cao hơn nhắm vào một chỗ nhược nào đó trên thân thế nào, liệu lão có trách khỏi mất mạng hoặc tồn thương không?

Lão thẹn, quá thẹn thành giận, gương mặt trắng xanh của lão bổng ửng đỏ lên, lão ngưng tụ công lực, định phát xuất «Phích Lịch Thần Quyền».

Quan Sơn Nguyệt đã thấy Hàn Phương sử dụng môn công đó, biết là một công phu lợi hại, chính Hàn Phương sử dụng mà còn ghê gớm như thế, thì Vương Thập Phương phải mãnh liệt hơn gấp trăm lần. Chàng cũng ngưng thần giới bị, chờ đợi đối phương xuất thủ.

Nhưng, từ trên không trung, âm thanh bí mật vọng xuống:

– Vương Thập Phương, ngươi định giở «Phích Lịch Thần Quyền» ra thi thố phải không?

Vương Thập Phương hấp tấp đáp:

– Tiểu tử này có võ công rất cao, nếu không thì thế môn công đó thì cũng làm gì hắn nổi.

Người trên không trung cười lạnh:

– Giả như vừa rồi, hắn quyết giết ngươi, thì có còn dùng thần quyền mà đối phó với hắn chăng?

Vương Thập Phương biến sắc mặt sợ hãi hỏi:

– Chủ nhân định chỉ thị thuộc hạ như thế nào?

Người trên không trung, lạnh lùng thốt:

– Luận về tình lý, thì lần xuất phát này, Vạn Ma Sơn Trang đại bại, tất số người bị tiêu diệt, trừ ngươi. Trách nhiệm đó về ai?

Vương Thập Phương vội đáp:

– Lỗi do nơi thuộc hạ. Thuộc hạ xin nạp mình chịu mọi hình phạt! Thuộc hạ nguyện hy sinh tánh mạng này chuộc lại lỗi lầm ...

Người trên không trung «hừ» một tiếng:

– Nạp mình chịu mọi hình phạt? Chứ ngươi trốn tránh được sao? Còn như hy sinh chuộc lỗi lầm thì Vạn Ma Sơn Trang cần phải dùng đến kẻ cầm như chết rồi nhưng được tha thứ cho sống sót, xuất lực đối địch sao?

Vương Thập Phương sợ quá, nhủn người ngã ngồi ngay tại chỗ.

Người trên không trung lại cười:

– Ngươi đừng quá khiếp mà thành ra có bộ dạng đó. Người ta tha chết cho ngươi thì ta cũng không thể giết ngươi, chỉ vì sanh mạng của ngươi không còn ở trong tay của ta nữa, ta không màng đến ngươi làm gì.

Vương Thập Phương lại đứng lên, ngẩng mặt hỏi:

– Thế chủ nhân muốn cho thuộc hạ phải làm như thế nào?

Người trên không trung trầm lạnh giọng:

– Trao Bích Ngọc Phụng Hoàng cho người ta.

Vương Thập Phương không biết được dụng ý của chủ nhân như thế nào, song không dám cãi, ngoan ngoãn đưa tay vào mình lấy chiếc hộp bằng gỗ ra.

Người trên không trung bảo:

– Để xuống đất.

Vương Thập Phương y lời.

Người trên không trung tiếp:

– Gã họ Quan kia, hiện tại, chiếc Bích Ngọc Phụng Hoàng là vật sở hữu của ngươi đó, cho nên ta không cam tâm nhường nó qua tay ngươi.

Quan Sơn Nguyệt vội thốt:

– Tại hạ đâu có muốn chiếm nó?

Người trên không trung cao giọng:

– Vô luận là ngươi muốn hay không muốn, vật đó cũng về tay ngươi rồi, ngươi cầm nó, mang đến Vạn Ma Sơn Trang, ta muốn tự tay đoạt hồi nó từ tay ngươi.

Quan Sơn Nguyệt hoang mang, chẳng hiểu đối phương giở trò quỷ gì, mà cũng không biết có thái độ nào thích hợp với hoàn cảnh.

Người trên không trung lại tiếp:

– Vương Thập Phương, mang nữ nhân họ Ngô và tên thủ lĩnh các thủy trại đó, về thẳng Vạn Ma Sơn Trang, làm con tin, nếu gã họ Quan sợ mà không dám đến, thì chúng ta sẽ giết họ.

Vương Thập Phương «vâng» một tiếng, bước nhanh về phía Thương Nhân.

Quan Sơn Nguyệt đinh ninh là Thương Nhân sẽ phản kháng, ngờ đâu Vương Thập Phương đến sát bên y rồi mà y vẫn sững sờ ngây người như tượng gỗ.

Người trên không trung cười lạnh, thốt:

– Ta đã điểm trúng huyệt đạo của hắn, thủ pháp của ta, chỉ có mỗi mình ta giải khai mà thôi, do đó ta cảnh cáo ngươi, đừng tìm cách cứu giải hắn, dù cho ngươi có giành hắn tại đây, ngươi cũng vô phương cứu sống hắn.

Chính Quan Sơn Nguyệt đang có ý định ngăn trở Vương Thập Phương, nhưng nghe nói thế, lập tức bỏ ngay ý định đó, chàng chỉ còn có cách là mở to mắt nhìn Vương Thập Phương hành động.

Thương Nhân không khác một xác chết, thân thể oặc òa oặc oại trên vai Vương Thập Phương.

Khi Vương Thập Phương tiến về phía Ngô Phụng, người trên không trung ngăn chặn:

– Vương Thập Phương, sở dĩ công tác của ngươi không thành, phần lớn là do nữ nhân, vậy ngươi không nên chạm đến mình nàng nữa, hãy gọi nàng đi theo ngươi.

Ngô Phụng lúc đó đã tỉnh lại rồi, nghe thế liền ngẩng cao mặt đáp:

– Ta không đi đâu cả.

Người trên không trung cười khà khà:

– Nếu ngươi không muốn cho cái lão tướng số biến thành một oan hồn, thì nên ngoan ngoãn nghe lời ta.

Ngô Phụng lộ vẻ khích động:

– Gia gia tôi còn sống à?

Người trên không trung đáp:

– Nếu lão chết rồi, thì ta đã quăng chiếc đầu của lão xuống cho ngươi trông thấy, thay vì quăng tấm bố chiêu bài. Nhưng bây giờ nếu ngươi chỉ nói với ta nửa tiếng không thôi, lập tức chiếc đầu của lão rơi liền, lăn lông lốc cạnh chân ngươi cho ngươi xem.

Ngô Phụng không dám ngoan cố nữa.

Người trên không trung cười khanh khách, tiếp:

– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi nói rằng, tại Ngũ Đài Sơn, có con bé họ Trương tài tình lắm, ta hỏi nàng có thủ đoạn thần xuất quỷ một như ta chăng? Nàng có dám chống đối ta chăng?

Cho đến phút giây này, Quan Sơn Nguyệt chưa biết mảy may về đối tượng.

Bởi thế, chàng do dự, không dám vội đáp lời.

Người trên không trung cười vang, tiếp luôn:

– Vấn đề đó, ta để tùy ngươi thong thả suy nghĩ. Ta chỉ đề tỉnh ngươi một câu này, là trong vòng ba hôm, nếu ngươi không đến Vạn Ma Sơn Trang thì ta sẽ bắt người tại Ngũ Đài Sơn làm áp lực với ngươi, cứ mỗi hôm ta giết một tên, cho ngươi xem ...

Quan Sơn Nguyệt không còn dằn lòng được nữa, hét to:

– Không cần chờ đợi ba hôm hay mấy hôm, hiện tại các hạ cứ xuống ngay đây, chúng ta giải quyết vấn đề ngay lập tức. Tại hạ còn bao nhiêu chuyện khác phải làm, không thể vì một chuyện này mà bỏ các việc đó.

Người trên không trung cười nhẹ, đáp:

– Ngươi muốn giải quyết ngay vấn đề, song ta thì không muốn hội kiến ngươi trong hiện tại. Ta đưa ra một thời hạn ba hôm, ngươi đến hay không tùy ngươi vậy. Nên nhớ ta không khi nào sợ ngươi trốn mất.

Đoạn y gọi:

– Vương Thập Phương! Chuẩn bị ly khai cục trường!

Vương Thập Phương đáp ứng một tiếng.

Quan Sơn Nguyệt toan bước tới ngăn cản, bỗng một tiếng đùng vang lên, khói mờ bốc trước mặt, che khuất nhãn tuyến của chàng. Khói lan nhanh, bao bọc chung quanh chàng, chẳng biết thứ khói gì, dày độ bao nhiêu.

Chàng vung kiếm chạy loạn trong vầng khói, nhưng chỉ chạy loanh quanh trong vòng một trượng tròn thôi, nếu chàng vượt ra ngoài phạm vi đó một bước, thì có một kình lực hất chàng trở lại chỗ cũ.

Không lâu lắm, vầng khói đó tan đi, áp lực bên ngoài cũng nhẹ đi Quan Sơn Nguyệt lúc đó mới hoạt động được theo ý muốn. Nhưng còn gì làm nữa? Chàng không thấy một bóng người nào quanh chàng. Đến cả những xác chết, trước đó nằm la liệt trên mặt đất, bây giờ cũng biến mất như những người sống. Chỉ còn lại cái hộp bằng gỗ, đựng Bích Ngọc Phụng Hoàng nằm trước mặt chàng, cách không xa lắm.

Chàng bước tới, thất trên hộp có một mảnh giấy, không chậm trễ, chàng đọc:

«Nếu thật có cái tâm phó ước như lời đề nghị, thì ngươi không nên mở vội chiếc hộp này, bởi vật trong hộp vị tất thuộc quyền sở hữu của ngươi, cái quyền đó chỉ thuộc đứt về ngươi sau khi cuộc ước hội diễn tiến xong. Còn như ngươi không muốn đến Vạn Ma Sơn Trang thì ngay bây giờ đi thẳng đến Ngũ Đài Sơn thông tri bằng hữu của ngươi bảo tất cả nên tìm chỗ an toàn lẩn tránh, may ra bọn ấy còn giữ được chiếc đầu trên cổ.» Bên dưới mảnh giấy là một dọc tên người, tên Trương Thanh, Giang Phàm, Liễu Y Ảo, Lạc Tiểu Hồng, và những người khác trong Thái Cực Phái, nhưng chỉ là tên nữ nhân, không có tên một nam nhân nào cả, cứ đó mà suy, người bí mật kia hiểu rất rành tình hình trên Ngũ Đài Sơn như lòng bàn tay.

Quan Sơn Nguyệt không khỏi kinh hãi. Chủ nhân Vạn Ma Sơn Trang là ai, mà lại có tài thông thiên triệt địa như thế? Trương Thanh dù có Xà Thần bên cạnh liệu nàng đủ tài năng đương cự với người bí mật này chăng?

Nếu chàng giữ nguyên tánh khí ngông cuồng, không chịu đến thẳng Vạn Ma Sơn Trang, hội ước với y, thì chắc chắn là bọn Trương Thanh sẽ bị hại nơi tay độc của người này? Dĩ nhiên chàng không muốn có việc như vậy. Thì còn có cách là phải đến Vạn Ma Sơn Trang, hội ước với người bí mật.

Nội cái việc hội kiến với con người tài ba đó, cũng đáng giá cho cuộc viễn hành ngoài chương trình dự liệu, không nói chi đến việc cứu cha con Ngô Khẩu Thiên và Thương Nhân, việc mà chàng phải làm, không thể bỏ qua được.

Nhưng, Vạn Ma Sơn Trang ở tại địa phương nào? Muốn đến đó, phải do lộ trình nào? Con người bí mật đó, an bài mọi việc rất chu đáo, song lại quên mất chỉ chỗ cho chàng.

Chàng thừ người một lúc, rồi cất chiếc hộp vào mình.

Đúng lúc đó, từ phía sau lưng chàng, có âm thinh vọng đến:

– Ngươi nhất định phó ước!

Quan Sơn Nguyệt vụt quay người lại, thấy một thiếu nữ bận áo trắng, bỏ xõa tóc dài, phủ kín đôi bờ vai, mặt đẹp nhưng rất lạnh lùng. Chàng giật mình, hỏi:

– Cô nương là ai?

Thiếu nữ nhạt giọng đáp:

– Tôi là thị tỳ. Chủ nhân Vạn Ma Sơn Trang lưu tôi lại đây. Tôi tên là Ngọc Phương.

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Ngọc cô nương ...

Thiếu nữ vẫn lạnh lùng, chận lại:

– Họ của tôi đâu phải là Ngọc? Tên tôi là Ngọc, thiếu hiệp cứ gọi Ngọc Phương, đừng thêm hai tiếng cô nương làm chi. Tôi không xứng đáng.

Quan Sơn Nguyệt giật mình, cảm thấy thiếu nữ này bất cận nhân tình không tưởng nổi, thảo nào mà nàng chẳng có bộ mặt lạnh như giá băng. Chàng còn nói được gì nữa với nàng. Suy nghĩ một lúc, chàng hỏi:

– Chủ nhân cô nương là ai?

Nàng đã bảo chàng đừng dùng hai tiếng cô nương, song không gọi như vậy thì xưng hô bằng cách nào bây giờ?

Ngọc Phương lạnh lùng đáp:

– Nếu thiếu hiệp định phó ước, thì khi nào song phương gặp nhau thiếu hiệp sẽ hiểu, cần gì phải hỏi?

Quan Sơn Nguyệt bình sanh chưa hề gặp cái thứ người ngang ngạnh lạnh lùng hầu như chẳng có mảy mai lễ độ, dù muốn dù không chàng cũng có giận ít nhiều, cũng may là nàng còn gọi chàng với hai tiếng thiếu hiệp, nếu nàng dùng cái tiếng ngươi cộc lốc, hẳn là chàng phải tức tràn lòng.

Không muốn nói nhiều với nàng nữa, Quan Sơn Nguyệt buông gọn:

– Đi!

Ngọc Phương không cười, nhếch khóe mắt xéo qua, khinh khỉnh:

– Quyết tâm phải không?

Quan Sơn Nguyệt sừng sộ:

– Tự nhiên. Nếu không, thì tại hạ bảo đi làm gì?

Bây giờ thì Ngọc Phương không kiêng nể nữa:

– Vậy thì ngươi lên ngồi trên lưng ta đây, ta cõng ngươi đi.

Nàng khom mình xuống.

Quan Sơn Nguyệt giận hơn một chút nữa:

– Nói bậy! Ta không có chân sao, lại phải nhờ ngươi cõng?

Ngọc Phương trầm giọng:

– Đi chậm như ngươi, thì ba năm nữa cũng chưa đến nơi, ngươi nên nhớ là hạn định chỉ có ba hôm thôi đấy.

Thốt xong, chẳng đợi Quan Sơn Nguyệt có đồng ý hay không, nàng bước nhanh tới, vươn tay điểm vào một huyệt đạo nơi hông chàng.

Chàng nghe toàn tân tê dại, muốn cự nự cũng không còn một điểm nhỏ khí lực để phản kháng.

Ngọc Phương chụp Quan Sơn Nguyệt, đặt lên lưng nàng rồi lạnh lùng bảo:

– Có đói, có khát hay muốn gì, cứ nói thật với ta, ta sẽ dừng lại cho đừng cậy tài giở thói làm càng mà phải khổ.

Nàng nhún chân, thân mình vọt tới, nàng chạy nhanh hơn bay, Quan Sơn Nguyệt phải phục thầm, nhưng chàng cũng thẹn, giận.

Thẹn và giận cũng vô ích khi chàng không còn làm gì được nữa.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 70

Tâm Cao Ý Cuồng

Chẳng biết bao lâu thời gian, chẳng biết bao dài lộ trình rồi, Quan Sơn Nguyệt chỉ hiểu là chàng khó chịu hết sức, thời gian lâu và lộ trình dài càng làm cho chàng khó chịu đựng trong bao lâu nữa?

Dù lâu bao nhiêu cũng chẳng quá ba ngày, đã chỉ là ba ngày, chàng cũng không chịu nổi. Nếu đi như thế này nhiều ngày nữa, chắc là chàng phải chết vì bực. Cái khổ cho chàng hầu như cùng cực là Ngọc Phương không chọn những con đường lớn mà đi, nàng chọn những con đường mòn nhỏ, để trách sự dòm ngó của khách lữ hành, nàng lại không đi theo một chiều hướng duy nhất, khi rẽ Đông, khi quẹo Tây, lao vòng qua Bắc và trở về Nam. Có lúc nàng vượt núi cao, có lúc qua sông rộng, khi đi xuyên qua rừng, khi lướt qua những cánh đồng bao la bát ngát.

Đường dù khó, thân pháp của nàng nhanh nhẹ, bộ pháp vững vàng, nàng đi nhứ bước trên nhung lụa, êm ái ung dung, không hề lộ vẻ khó khăn vất vả.

Quan Sơn Nguyệt phải phục nàng, càng phục nàng chàng càng sợ chủ nhân Vạn Ma Sơn Trang, bởi một nữ tỳ mà có bản lĩnh phi thường như vậy thì chủ nhân ghê gớm đến mức độ nào nữa? Một con người, chưa đầy hai mươi tuổi, có được một bản lĩnh cao cường như thế đó, họa chăng nàng luyện võ ngay từ lúc còn nằm trong bụng mẹ mới đạt đến mức thành tựu cao với. Chàng dù sao cũng là tay có hạng chứ, thế mà nàng chỉ vươn tay là chàng bị áp đảo ngay!

Trong khi chàng đang miên man nghiền ngẫm với bao nhiêu ý niệm trong đầu, thì thái dương cũng chuyển dần về Tây, rút ngày ngắn lại. Không khí mất sáng dần dần, màn đêm sắp phủ xuống vạn vật, tính ra, cả hai đã trải qua hai tiếng đồng hồ rồi, và Ngọc Phương cũng đã vượt ít nhất là mấy trăm dặm đường.

Chừng như Ngọc Phương mệt mỏi, Quan Sơn Nguyệt nhận ra sự kiện đó qua hơi thở dập dồn của nàng. Ngực chàng áp lên lưng nàng, ngực áo ướt, chứng tỏ lưng nàng có rịn mồ hôi.

Cuối cùng, nàng rẽ bước vào một khu rừng, tìm chỗ bình thản dừng chân lại, đặt Quan Sơn Nguyệt xuống đất, sau đó thu nhặt những lá khô, làm nệm tạm, cho Quan Sơn Nguyệt nằm. Kế tiếp, nàng gom những cành khô chất đống lại, để đốt lửa đêm.

Sau cùng, vẫn với giọng lạnh, nàng hỏi:

– Ngươi muốn ăn gì không!

Không còn khí lực, hoàn toàn do người định đoạt số phận, chỉ vâng theo sự an bài của người ta, Quan Sơn Nguyệt cảm thấy tủi nhục vô cùng. Chàng «hừ» lạnh một tiếng đáp cộc lốc:

– Cái gì ta cũng chẳng thèm ăn!

Mãi đến bây giờ, nét cười thoáng hiện nơi gương mặt của Ngọc Phương.

Nàng hỏi lại:

– Ngươi giận à?

Quan Sơn Nguyệt cũng «hừ» một tiếng như trước, không hồi đáp.

Giận là cái chắc rồi, song giận thì để trong tâm, chứ nói ra làm sao cho tiện.

Ngọc Phương cười thành tiếng, tiếp:

– Ngươi xem được quá! Được ở chỗ có dõng khí, vượt qua một đoạn đường dài mà còn giận nổi, kể cũng có hạng đấy. Ngươi biết không, trước đây, ta từng cõng nhiều người người như ta cõng ngươi, những người đó sau khi ta đặt xuống đất mỗi lần dừng chân nghỉ, đều kinh khiếp đến độ tan biến thần hồn, làm gì họ còn giận nổi được như ngươi.

Quan Sơn Nguyệt động tính hiếu kỳ hỏi:

– Trước đây, ngươi cũng có cõng người như thế này?

Ngọc Phương gật đầu :

– Có chứ! Mỗi khi chủ nhân mời khách đến trang, đều dùng phương thức này. Ta cõng tất cả là bốn người rồi, nhưng kết cuộc chẳng một ai đến trang, tất cả đều bị ta giết dọc đường.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Tại sao ngươi giết họ?

Ngọc Phương cười nhẹ :

– Họ thấy ta có bản lĩnh vượt núi băng rừng, khiếp quá biến sắc như người chết. Cái thứ vô dụng như vậy, có xứng đáng gì cho chủ nhân phải thừa tiếp?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một lúc:

– Chắc là chủ nhân của ngươi có vũ công cao lắm?

Ngọc Phương đáp:

– Tự nhiên. So với ta, chủ nhân cao minh không biết gấp mấy trăm ngàn lần.

Thú thật với ngươi, ta không ức lượng nổi mức độ cao thâm của người. Bất quá ngươi có thể so tài với chủ nhân của ta.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– So với ngươi, ta còn kém xa, làm gì có việc tương đương với chủ nhân ngươi được chứ?

Ngọc Phương mỉm cười:

– Đừng khách khí quá vậy. Thật ra, thuật khinh công của ta cũng có hạng, ta còn có công phu điểm huyệt linh diệu hơn ngươi. Nhưng, ngoài hai thứ công phu đó ra, về những môn khác thì ta dở tệ.

Quan Sơn Nguyệt tặc lưỡi:

– Biết rành hai môn đó cũng đủ lắm rồi. Ngươi đưa tay ra, là ta co rúm, dù ta có công phu cao, cũng chẳng còn thi thố được, thì có cũng như không, ích lợi gì đó mà ỷ trượng vào?

Ngọc Phương lắc đầu:

– Ngươi yên trí. Khi giao đấu với ngươi, chủ nhân sẽ không dở thủ pháp điểm nguyệt đâu. Bởi vì công phu đó, trên đời này chỉ mỗi một mình chủ nhân luyện đến độ siêu huyền nhập ác, đem một môn công vô địch thủ thắng trước mặt ngươi, thì vinh hạnh gì cho chủ nhân ta?

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

– Thế chủ nhân dùng môn công gì giao đấu với ta?

Ngọc Phương dài thích:

– Dùng cái sở trường của ngươi. Giả như ngươi chuyển dùng kiếm, thì người sẽ đánh kiếm. Vả lại, người cũng không bằng vào nội lực mà tranh thắng, chỉ luận thấp cao về chiêu thức thôi.

Quan Sơn Nguyệt cúi đầu trầm tư. Chàng tìm một phương pháp giao chiến với con người thần bí, quái dị đó.

Ngọc Phương mỉm cười, hỏi:

– Đừng vận dụng tâm tư trong lúc này làm gì. Cứ chờ khi nào cuộc trắc nghiệm can đảm thực hiện xong, ngươi sẽ có cơ hội tranh chấp với chủ nhân, lúc đó ngươi hãy suy nghĩ.

Quan Sơn Nguyệt lại một phen kinh ngạc:

– Ngươi nói cái gì là trắc nghiệm can đảm?

Ngọc Phương tiếp:

– Trong đời, chủ nhân không ghét gì hơn là bọn có lá gan bé bằng lá gan chuột. Cho nên, những nam nhân trong trang khi được sử dụng, giao phó thi hành công tác, đảm nhiệm một trách vụ gì, đều phải trải qua một cuộc trắc nghiệm tại Hắc Ngục Vong Hồn, xem họ có can đảm hay không ...

Quan Sơn Nguyệt hoang mang:

– Hắc Ngục Vong Hồn là cái gì?

Ngọc Phương lắc đầu:

– Ta cũng không hiểu rõ, bất quá ta chỉ biết rằng, Hắc Ngục Vong Hồn được tạo lập với mục đích trắc nghiệm bọn nam nhân. Nơi đó, có ba cõi ảo ảnh cực kỷ khủng khiếp, cõi đầu đã khủng khiếp rồi, cõi kế lại còn khủng khiếp gấp trăm ngàn lần cõi trước, và kém trăm ngàn lần cõi sau.

Quan Sơn Nguyệt bắt đầu sanh hứng, lại hỏi:

– Khủng khiếp thế nào? Có làm chết người chăng?

Ngọc Phương cười mỉa:

– Đã nói là ảo ảnh, thì làm gì có việc gây chết cho người? Tuy nhiên nếu ngươi nhát quá, vào đó mà khiếp sợ cực độ, cũng dám chết lắm. Chết như vậy, là vì sợ, chứ đâu phải Hắc Ngực Vong Hồn giết người ...

Quan Sơn Nguyệt cười vang:

– Nếu chẳng phải là cạm bẫy giết người, thì có gì đáng sợ đâu mà phải chết vì sợ?

Ngọc Phương nghiến răng, lời nói của Quan Sơn Nguyệt gây niềm bất mãn nơi nàng. Nàng trầm giọng, thốt:

– Ngươi đừng khinh thường, đến việc rồi ta chỉ sợ ngươi mất cả thần hồn, không còn tự chủ được nữa. Từ ngày chủ nhân thiết lập Hắc Ngục Vong Hồn đến nay chưa có một tay nào sang đến cõi thứ ba. Có kẻ giỏi lắm là đến cõi thứ hai, và phần đông xỉu ngay cõi thứ nhất.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Ngươi chẳng đã nói rằng tất cả nam nhân trong trang đều phải trải qua cuộc trắc nghiệm như thế, nhưng trên thuyền, ta thấy ngoài Vương sư gia ra còn có mấy nam nhân nữa mà? Họ được chủ nhân sử dụng, tức nhiên là họ có qua cuộc trắc nghiệm. Họ phải lọt qua cõi thứ ba, chủ nhân mới hài lòng mà sử dụng họ chứ?

Ngọc Phương đáp:

– Dùng người là một lẽ, trắc nghiệm là một lẽ khác. Vương sư gia xỉu ngay tại cõi thứ hai, nhờ vậy mà y có một địa vị cao hơn bọn kia chỉ vào Hắc Ngục Vong Hồn là hôn mê ngay tại cõi thứ nhất. Tuy nhiên, Vương sư gia còn kém Trầm tiên sanh.

Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:

– Trầm tiên sanh là ai?

Ngọc Phương mỉm cười:

– Trầm tiên sanh là bằng hữu của chủ nhân, tiên sanh qua lọt hai cõi, song lại xỉu ở cõi thứ ba, chủ nhân khen ngợi là tay khá, nên dùng lễ đối đãi, xem như một bậc nhân tài.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Chủ nhân ngươi có ý tưởng kỳ quái thật! Tại sao lại nghĩ ra cách trắc nghiệm lạ lùng thế?

Ngọc Phương không đáp câu đó, cứ giải thích luôn cách tuyển dụng thủ hạ của trang chủ Vạn Ma Sơn Trang:

– Chủ nhân không giết ai cả, chỉ dùng bọn người xỉu tại cõi thứ nhất làm nô dịch, dùng bọn người xỉu tại cõi thứ hai làm quản sự, làm sư gia ...

Quan Sơn Nguyệt chặn lời:

– Người lọt qua hai cõi, được đối xử như khách, giả như có người qua hết ba cõi thì sao? Chủ nhân ngươi dành thái độ nào cho họ?

Ngọc Phương nghiêm sắc mặt:

– Rất mực kính trọng.

Quan Sơn Nguyệt «ạ» lên một tiếng.

Ngọc Phương tiếp:

– Chủ nhân không tin rằng trên đời có người thông qua cả ba cõi. Tuy vậy người hằng ước mong một ngày nào đó, một nhân tài xuất hiện, vào Hắc Ngục Vong Hồn, như vào cảnh trí thanh lịch, không mảy may kinh tâm khiếp đảm. Chủ nhân từ lâu quá tịch mịch ...

Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:

– Sự tịch mịch của kẻ tài cao, không người đối địch? Con người ta không ai cam chịu cái tịch mịch, điều đó thì rất thường. Nhưng bày ra Hắc Ngục Vong Hồn, để trắc nghiệm tài năng và can đảm của kẻ khác, rồi lại xem như cừu địch những ai lọt qua đủ ba cõi. Như vậy là nghĩa gì?

Ngọc Phương giải thích:

– Tài học của chủ nhân cầm như thông thần, công lực cao thâm cùng cực, bình sanh tự ví mình như bậc thánh hiền, nên rất chịu cái câu:

«Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch». Bởi, có ai đáng mặt tri kỷ của hạng thánh hiền? Do đó, phàm gặp người tài cao, dù người đó là cừu địch, chủ nhân vẫn kính trọng. Ta nói cừu địch, là nói về phương diện so hơn kém tài năng, chứ không theo chủ trương tranh chấp quyền lợi.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Tôn kính mà đem cái địch ý đối xử với nhau à?

Ngọc Phương gật đầu:

– Đúng vậy. Địch, là ngang nhau, bởi ngang nhau nên tôn kính, vì ngang nhau mà song phương đều muốn trên nhau, do đó có địch ý. Địch ý đưa nhau đến chỗ cao siêu, đi dần đến thập toàn chứ không tiêu diệt nhau. Cho nên, có sự kính trọng bậc đồng tài, trên tài, và đối với bọn thông thường thì dùng quyền thế mà sai khiến. Bước ra một tấc đường, là ngươi gặp vô số kẻ tầm thường, trái lại bậc tài năng thì đi khắp non sông, chưa chắc sẽ gặp được một tay. Như vậy, có phải bậc hiền tài là hy hữu chăng?

Không đồng quan niệm, Quan Sơn Nguyệt và Ngọc Phương tranh luận với nhau mãi, chàng thì cho rằng trang chủ ngông cuồng mới có ý tưởng quái đản, thiết lập Hắc Ngục Vong Hồn, nàng thì bảo là chàng cũng ngông cuồng không kém, dám tự phụ qua lọt đủ ba cõi trong ngục tối đó.

Ngông cuồng, nên không sợ, bởi kẻ điên còn biết sợ gì?

Quan Sơn Nguyệt cãi, không sợ là vì thừa can đảm, còn đủ lý trí để nhận định mọi khủng khiếp hiện ra, tìm cách giải trừ, đối phó, không hẳn là không sợ tại vì ngông cuồng.

Cuối cùng, họ chấm dứt cuộc cãi vả, ở chỗ bất đồng ý kiến, rồi Ngọc phương lấy trong tay áo ra một chiếc bọc, có đủ cơm khô, cá thịt khô, có cả một bao đậu.

Nàng bày số lượng đậu ra trên mặt đất, rồi chu miệng hú một tiếng dài.

Từ trên không trung, một con chim ưng xuất hiện, xuyên qua cành lá, bay xuống.

Nàng vẫy tay ra hiệu, chim ưng há mỏ gắp chiếc bao đậu, bay trở lên không.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Ngươi nuôi nó?

Ngọc Phương đáp:

– Chủ nhân nuôi đúng hơn. Dùng sai khiến trong những công việc vặt.

Nàng mời chàng ăn.

Chàng cứ ngồi yên. Vì bị điểm huyệt, chàng còn làm sao cử động được mà ăn uống?

Phát giác điều đó, Ngọc Phương đưa tay võ nhẹ nơi mình chàng, thốt:

– Cứ theo sự phân phó của chủ nhân thì ta phải đút cho ngươi ăn, nhưng ta nghĩ, làm vậy thì ngươi sẽ tủi thẹn, tạm thời ta nương tình một chút, cho ngươi được tự tiện.

Nửa thân trên thoải mái ngay sau khi nàng giải huyệt, Quan Sơn Nguyệt chỉ còn tê dại nửa thân dưới thôi. Tay cử động được song chân không nhúc nhích.

Chàng cau mày, hỏi:

– Tại hạ có trốn đi đâu? Tại sao chủ nhân dành thái độ đó đối với khách?

Chàng bắt đầu xưng tại hạ, lễ độ đã trở về với chàng, bởi chàng nghĩ rằng nói năng thô bạo với một nữ nhân, dù cho nữ nhân đó có là cừu nhân đi nữa thì cũng kém đẹp. Bất quá, trong thời gian qua, vì quá tức, uất mà chàng hằn học, lỗ mãng, bây giờ, cơn giận đã nguôi rồi, chàng thấy cần nhã nhặn với nữ nhân.

Phần chàng là thế, còn Ngọc Phương thì chàng không quan tâm lắm, mặc nàng muốn xưng hô làm sao, tùy sở thích của nàng.

Ngọc Phương mỉm cười, đáp:

– Đâu phải ta sợ ngươi trốn? Đó là ta không muốn để cho ngươi tiêu hao thể lực, giúp ngươi khi đến Vạn Ma Sơn Trang rồi, ngươi còn nguyên vẹn tinh thần để ứng phó với mọi thử thách.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng, không nói gì, cứ ăn, uống.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 71

Trong Tận Đáy Lòng

Quan Sơn Nguyệt ăn, uống như vũ bão, Ngọc Phương ở bên cạnh cứ cười, đợi chàng ăn xong nàng mới thốt:

– Ta không ngờ cái bụng của ngươi to quá, chẳng kém bụng một con heo nái. Nếu sớm biết như vậy, thì ta đã chuẩn bị một số lượng thực vật nhiều hơn, để ngươi không kêu la thiếu thốn.

Quan Sơn Nguyệt bật cười khanh khách:

– Đủ lắm rồi, cô nương! Tại hạ rất no, bình sanh chưa lần nào ăn no như hôm nay.

Ngọc Phương lại cười:

– Thế ra, từ lâu rồi, ngươi luôn luôn ăn đói? Chỉ có lần nầy thôi, ngươi mới ăn đầy đủ số lượng? Vậy là ngươi lớn lên, bằng vào cái đói chứ không nhờ ăn no, uống đậm!

Họ cười với nhau, Ngọc Phương mất dần cái vẻ lạnh lùng lúc ban đầu, tuy nàng chưa tỏ rõ sự thân thiện.

Bỗng, Quan Sơn Nguyệt đưa tay ký trên đầu mình kêu một tiếng cốc, thốt:

– Đáng chết! Đáng chết thật!

Ngọc Phương giật mình:

– Việc gì thế?

Quan Sơn Nguyệt tặc lưỡi:

– Tại hạ chỉ cố ăn, quên mời cô nương! Lại ăn sạch sành sanh, không dành phần cho cô nương ...

Ngọc Phương cười xòa:

– Ăn ráo trơn ráo trọi rồi mới nhớ đến ta, ngươi chẳng thấy là quá muộn và vô ích hay sao chứ?

Quan Sơn Nguyệt cúi đầu, giấu vẻ thẹn.

Ngọc Phương lại nói tiếp:

– Nói vậy chứ, không sao đâu. Ta không ăn cũng chẳng quan hệ gì đó.

Xem ngươi ăn, ta cao hứng quá, cũng nghe no rồi.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Cô nương có ý tứ gì, nói lên câu đó?

Ngọc Phương đáp:

– Ngươi là tri âm của ta. Giả như ta có công khó tìm các thức ăn cho ngươi, mà ngươi chỉ ăn qua loa, lấy lệ, thì ta buồn biết bao nhiêu? Ngươi ăn thành thật, ăn nhiều như vậy, là hưởng ứng sự chí tình của ta. Tự nhiên, ta cao hứng, và khi con người cao hứng, dù không ăn gì cũng cảm thấy no lòng, no với niềm vui tràn ngập.

Dù nàng nói như thế, Quan Sơn Nguyệt vẫn không hết áy náy, tự trách mình quá thô lỗ, kém tế nhị.

Ngọc Phương an ủi luôn:

– Phàm là anh hùng, hảo hán, thì cái khí khái, lắm lúc khó tránh cương mãnh, thô bạo, chẳng những trong hoạt động, mà cả đến cái ăn cái uống cũng biểu hiện cá tính đó ít nhiều. Ngươi không nên thắc mắc, chính ta lại hoan nghênh lối ăn uống như vũ bão của ngươi lắm chứ.

Rồi nàng lại ôn tồn bảo:

– Chắc là ngươi mệt mỏi nhiều. Vậy, hãy nghỉ ngơi một lúc đi.

Nàng lấy một vuông khăn lụa, nhúng nước, trao cho Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt tiếp lấy, tạ ơn nàng, rồi lau mặt mày. Bổng chàng giật mình, thần sắc lộ vẻ kinh ngạc.

Ngọc Phương lấy làm lạ, hỏi:

– Ngươi làm sao thế?

Quan Sơn Nguyệt hỏi lại:

– Cô nương ... cô nương không sợ nước à?

Chàng nhớ lại sự việc đã qua, bất cứ người nào của Vạn Ma Sơn Trang ở trên thuyền ngày đó, đều sợ nước như sợ rắn rết. Rồi bây giờ, Ngọc Phương dám nhúng khăn vào nước, trao khăn ướt cho chàng. Như thế, phải là một sự kiện lạ lùng.

Ngọc Phương mỉm cười đáp:

– Trong Vạn Ma Sơn Trang chỉ có nam nhân là không được để nước vấy vào mình, còn nữ nhân thì tha hồ mà vọc, mà nhúng.

Quan Sơn Nguyệt đi từ kinh ngạc nầy đến kinh ngạc khác:

– Sao lại có việc khác biệt như vậy?

Ngọc Phương giải thích:

– Chủ nhân nói rằng nam nhân được cấu tạo bằng đất, mà đất thì không thể vấy nước, đất đẫm nước tất phải rã rời ...

Quan Sơn Nguyệt thất vọng. Trong tâm chàng, niềm thắc mắc lớn lao qua những ngày rày, là sự sợ nước của người trong Vạn Ma Sơn Trang. Chàng mong mỏi khám phá ra được sự bí mật đó, dịp tốt đã đến, nhưng Ngọc Phương lại giải thích rất ngây ngô, chàng chung quy vẫn thắc mắc như thường.

Tuy nhiên, chàng không lộ vẻ gì chứng tỏ là quá tha thiết với vấn đề đó, nhiều lắm là chàng để lộ phần nào sự kinh dị do hiếu kỳ mà có vậy thôi. Rồi chàng hỏi:

– Còn nữ nhân? Chất gì cấu tạo nên nữ nhân?

Ngọc Phương cười nhẹ:

– Ngươi đoán thử xem!

Quan Sơn Nguyệt đáp gọn:

– Nước, nước cấu tạo nên nữ nhân!

Chàng còn đoán cái gì khác nữa, nữ nhân không sợ nước, thì đúng là nước rồi.

Ngọc Phương bật cười ròn rã:

– Hay ghê! Hay hết sức! Ngươi có cái lối nói năng giống chủ nhân vô cùng!

Ta không ngờ một chàng trai có tâm tình cứng rắn như ngươi, mà cũng đưa ra một luận điệu như vậy!

Quan Sơn Nguyệt giả vờ ngây ngô, hỏi:

– Thế chủ nhân của cô nương nói làm sao?

Ngọc Phương đáp:

– Chủ nhân nói rằng, nữ nhân là nước, bất quá người nói hơi rành rẽ hơn ngươi một chút vậy thôi. Chủ nhân nói thêm rằng, thứ nước cấu tạo nên nữ nhân, có pha trộn nhiệt tình và tàn nhẫn.

Quan Sơn Nguyệt ừ hử lấy lệ. Vấn đề do Ngọc Phương vừa nêu ra đó, không gây được một hứng thú nào nơi chàng. Do đó, chàng chuyển hướng câu chuyện, tìm một đề tài khác để tranh luận, rồi nhân cuộc tranh luận, chụp sơ hở của đối tượng, khai thác mà phăng lần manh mối về việc nam nhân Vạn Ma Sơn Trang sợ nước. Chàng hỏi:

– Còn chủ nhân? Có sợ nước không?

Ngọc Phương đáp:

– Tự nhiên là không sợ.

Quan Sơn Nguyệt sáng mắt lên:

– Vậy chủ nhân thuộc phái nữ.

Ngọc Phương điểm một nụ cười, gật đầu:

– Mà làm sao ngươi biết được chủ nhân là nữ?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Không sợ nước, thì là nữ rồi chứ gì? Không sợ nước là được cấu tạo bằng nước chớ không bằng đất, dù có ướt át cũng chẳng rã rời kia mà!

Ngọc Phương lại cười:

– Ngươi đoán đúng! Nhưng, không hoàn toàn đúng. Và cái phần còn sai đó hiện tại thì ta không thể giải thích tường tận cho ngươi hiểu được. Sau khi gặp chủ nhân rồi, ngươi sẽ hiểu, tự nhiên mà hiểu.

Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:

– Giả như chủ nhân của cô nương đúng là nữ nhân, thì tại hạ rất sợ gặp người.

Ngọc Phương hỏi gấp:

– Sao kỳ vậy?

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ đáp:

– Tại hạ có nghe giọng nói của chủ nhân cô nương. Bằng vào giọng nói mà đoán người, tại hạ nghĩ rằng chủ nhân cô nương có dung mạo đáng khiếp lắm. Có thể vì dung mạo không gây nổi thiện cảm đó, mà chủ nhân hành động quái dị, nghịch thường.

Ngọc Phương chớp mắt:

– Ngươi có thể nghe âm thinh mà đoán dung mạo người được à?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Tại hạ thấy, đoán như thế không sai lắm. Tại hạ từng gặp rất nhiều nữ nhân, trong lứa tuổi thanh thiếu, những nàng ấy không đến đổi xấu xí, họ có âm thanh rất êm dịu, lời nói của họ lọt vào tai ngọt như mật rót ...

Ngọc Phương vụt biến sắc mặt:

– Gặp chủ nhân rồi, tốt hơn hết là ngươi đừng đề cặp đến nữ nhân, tránh được điều đó là ngươi có lợi. Ta cũng nên tỏ cho ngươi biết là chủ nhân không có dung mạo như ngươi tưởng tượng đâu. Bất cứ nữ nhân nào trong số quen biết với ngươi, nàng ấy có xinh đẹp đến đâu, đem so sánh với chủ nhân thì vẫn còn kém, kém ít nhất cũng mười phần, nếu ta có nói kém trăm phần hẳn là ngươi không tin.

Và thinh âm của chủ nhân không đáng sợ như ngươi vừa nói đó ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Vậy cái âm thinh mà tại hạ nghe lọt, tại bờ sông hôm đó, chẳng phải là do chủ nhân ngươi phát ra sao?

Ngọc Phương trầm gương mặt:

– Chính chủ nhân phát ra âm thinh đó. Nhưng, chẳng phải là giọng thật ...

Quan Sơn Nguyệt lấy làm kỳ. Một người làm gì có thể phát âm dưới nhiều giọng? Chàng hỏi:

– Chủ nhân có nhiều âm điệu như vậy à?

Ngọc Phương «hừ» một tiếng:

– Ít nhất cũng hơn mười âm điệu, cho ngươi biết. Cái giọng mà ngươi nghe tại bờ sông hôm ấy, là thứ giọng chủ nhân dùng để nói năng với kẻ dưới tay.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– m thinh thật của chủ nhân như thế nào?

Ngọc Phương trầm gương mặt lượt nữa:

– Ta hy vọng ngươi không có dịp nghe.

Quan Sơn Nguyệt còn muốn hỏi gì nữa, nhưng Ngọc Phương đã thu dọn những chén bát trước mặt, cho có khoảng trống, đoạn bảo:

– Đừng hỏi nhiều! Ta cho ngươi biết bao nhiêu việc đó, kể cũng quá đáng rồi đó, đáng lẽ thì ta phải giữ bí mật, ngươi hiểu chưa? Bây giờ, cứ ngủ đi, ngủ gấp. Chúng ta chỉ có hai giờ để ngủ thôi, không nên phí phạm.

Nàng vươn tay, điểm dưới nách Quan Sơn Nguyệt, trong khi chàng phòng bị, bởi chàng đoán chắc thế nào nàng cũng làm cái việc đó, sau lúc chàng ăn xong.

Cho nên, thấy nàng vừa chớp tay, chàng né mình tránh liền.

Ngọc Phương chuyển bàn tay từ dưới nách ra trước ngực, nơi đó là tử huyệt, nếu điểm trúng bất cứ huyệt nào là Quan Sơn Nguyệt ít nhất cũng thọ thương nặng. Bất giác, nàng thu hồi công lực.

Nhưng, trước một dịp may như vậy, khi nào Quan Sơn Nguyệt bỏ qua?

Lập tức, chàng vươn tay chụp theo, trúng cổ tay nàng.

Mạch môn của nàng bị chế trụ, nàng bị dồn vào cái thế thụ động, hoàn toàn chịu sự sai xử của chàng.

Ngọc Phương biến sắc mặt, cử ngay bàn tay kia lên. Vô ích, ngón tay nàng có chạm vào mình Quan Sơn Nguyệt thật, dù vậy chẳng làm gì chàng nổi, bàn tay của nàng như mất hết công lực, chạm vào mình chàng nhẹ như tay trẻ nít sờ. Bởi Quan Sơn Nguyệt chuyền công lực sang qua nàng, ngang mạch môn, lực đạo của chàng phá tan kình lực của nàng, biến tay nàng mềm dịu như bún.

Nàng càng biến sắc hơn, kêu lên:

– Ngươi định làm gì chứ?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Tại hạ không làm gì cả. Bất quá, tại hạ không muốn làm hình nộm trong tay cô nương, như trước vậy thôi.

Nàng hét lớn:

– Nhưng, ngược lại, có lợi cho ngươi! Ta muốn tốt cho nên mới biến ngươi thành hình nộm chứ!

Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cười:

– Tại hạ không chịu ơn một cách hồ đồ như thế, cô nương đừng bận tâm lo liệu cho tại hạ. Nếu bắt buộc tại hạ phải nằm trên lưng cô nương, cho cô cõng thêm vài hôm nữa, thì thà giết tại hạ còn hơn. Tại hạ thích chết hơn làm làm một tên phế thải. Bây giờ nên đặt điều kiện đi.

Ngọc Phương trợn tròn đôi mắt:

– Điều kiện gì?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Cô nương chỉ cách cho tại hạ giải khai huyệt đạo về hạ bộ của tại hạ, cho tại hạ hành động tự do, thì tại hạ sẽ buông tha cô nương. Bằng không, thì luôn cô nương cũng chẳng nhích động được một bước nhỏ, y như tại hạ vậy!

Ngọc Phương lắc đầu:

– Không được! Chủ nhân phân phó, ta phải làm như thế, ta đâu dám trái lịnh?

Quan Sơn Nguyệt thuyết phục:

– Cô nương yên trí, chấp nhận điều kiện đi. Đến trước mặt chủ nhân rồi, tại hạ sẽ lãnh phần giải thích, chịu trách nhiệm hoàn toàn, nếu chủ nhân hẹp hòi quở phạt.

Ngọc Phương cười khổ:

– Chắc gì chủ nhân chịu nghe ngươi giải thích? Thôi thì ngươi cứ giết ta đi là ổn tiện ...

Thấy nàng lộ vẻ cương quyết, Quan Sơn Nguyệt biết là chẳng khi nào nàng chấp nhận để cho chàng được tự do, giả như chàng cũng quyết làm trái ngược lại ý của nàng, thì nàng dám tự sát lắm. Bất giác, chàng lỏng bàn tay, rồi thở dài thốt:

– Tại hạ không biết Vạn Ma Sơn Trang có thủ đoạn xử trí những thuộc hạ như thế nào? Tuy nhiên, còn một vấn đề cuối cùng nầy, tại hạ hy vọng cô nương giải đáp ...

Ngọc Phương kinh ngạc. Nàng không tưởng Quan Sơn Nguyệt có thái độ cởi mở đối với nàng như vậy. Nhìn chàng một chút, nàng hỏi:

– Ngươi muốn biết điều chi?

Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt nghiêm trang, cất tiếng:

– Vấn đề tại hạ muốn biết, là mục đích chân chính của chủ nhân cô nương, tại sao không để tại hạ đi đứng tự do, mà lại bắt cô nương phải cõng về căn cứ?

Ngọc Phương chớp mắt:

– Chứ ta đã chẳng nói với ngươi rồi đó sao? Chủ nhân muốn cho ngươi giữ nguyên công lực khi về đến Vạn Ma Sơn Trang.

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Có đích xác đó là lý do duy nhất không?

Ngọc Phương gật đầu:

– Phải! Đến Vạn Ma Sơn Trang rồi, ta sẽ giải huyệt cho ngươi, ngươi khôi phục hành động, ta bảo đảm vũ công của ngươi không hề bị mảy may ảnh hưởng do sự tê liệt dọc đường.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu, đoạn thở dài, thốt:

– Tuyển chọn cô nương vào công tác nầy, quả thật chủ nhân biết dùng người lắm. Sự thành thật của cô nương hiện rõ nơi gương mặt, không ai biết được có một ngụy tạo nào!

Nói như thế, là chàng hoài nghi Ngọc Phương giả vờ, dù chàng nhượng bộ trước niềm kiên quyết của nàng, chàng vẫn cho là nàng giả vờ niềm kiên quyết đó. Giả vờ, hay sự thể chẳng đặng đừng, cũng thế thôi. Chàng cho rằng làm việc đó, nàng có phần nào miễn cưỡng, bởi không dám trái lịnh của chủ nhân, thì còn làm chi hơn là bắt buộc phải lấy giả làm thực?

Tuy nhiên, Ngọc Phương vẫn cãi:

– Chẳng có gì đáng cho ngươi hoài nghi cả, sự thực là thế đó, ngươi càng suy diễn càng làm nhọc tâm tư thôi, không ích lợi gì.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Thì tại hạ cũng cố mà tin là sự thực đó. Bất quá, tại hạ thắc mắc ở điểm này, là rõ ràng hành trình chỉ đòi hỏi thời gian một ngày thôi, mà chủ nhân cô nương lại dùng cái lối đón rước khách như thế nầy, để kéo dài thời gian thành ba hôm. Cô nương nghĩ có đáng lấy làm lạ chăng? Có ai đón tiếp khách lại mong cho khách đến chậm? Làm mọi cách cho khách diên trì trên con đường phó ước?

Ngọc Phương thoáng giật mình, hỏi:

– Tại sao ngươi có ý tưởng đó?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Trước hết, chúng ta hãy tính xem, trong ngày hôm nay đi được bao nhiêu dặm đường ...

Ngọc Phương đáp chận:

– Đại khái, độ bảy trăm dặm.

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Trong vùng Tứ Xuyên, trừ Vu Sơn ra, chẳng có một khu núi non nào chiếm khoảng rộng bảy trăm dặm. Tại hạ lại tin rằng hiện tại chúng ta không giẫm chân lên đất địa Vu Sơn, bởi lẽ giản dị nhất là tại hạ quen thuộc vùng núi non đó như lòng bàn tay. Huống chi, ven vùng Vu Sơn, còn có một con sông!

Nếu tại hạ đoán không lầm, thì nơi đây là vùng Kim Phật Sơn, giáp giới hai địa phương Xuyên và Kiềm. Vạn Ma Sơn Trang ở tại đây sao?

Ngọc Phương lắc đầu:

– Không phải đâu!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Tại hạ nhận ra, suốt ngày nay, chúng ta chạy loanh quanh mãi trong vùng.

Ngày mai, còn phải chạy loanh quanh như vậy nữa, để cuối cùng sang ngày kia thì đùng một cái, chúng ta đến nơi, cái nơi đó chỉ cách nơi nầy độ mấy dặm, mấy mươi dặm là cùng. Và nơi đó, hẳn là Nghiêu Long Sơn!

Ngọc Phương biến sắc kêu lên:

– Ngươi ... làm sao ngươi biết ...

Hiển nhiên, Quan Sơn Nguyệt hoàn toàn đúng. Thần thái của Ngọc Phương chứng minh điều đó một cách hùng hồn.

Chàng cười hì hì, đáp:

– Cô nương hỏi làm gì? Hãy đáp cho tại hạ biết đi. Có phải sơn trang ở tại Nghiêu Long Sơn chăng?

Ngọc Phương nín lặng.

Quan Sơn Nguyệt hỏi để mà bắt bí nàng, chứ cần gì chàng nghe nàng các nhận?

Chàng lại cười, tiếp luôn:

– Lấy hành trình một ngày, nhân lên gấp ba, để tỏ ra địa phương ở rất xa, phải vượt đúng ba ngày đường, với toàn tốc lực, điều đó có dụng ý gì, hở cô nương?

Ngọc Phương thừ người một thoáng, rồi đáp bâng quơ:

– Ta có biết đâu! Chủ nhân bảo sao, ta làm y như vậy thôi.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, nói:

– Nếu chủ nhân muốn thế, thì tại hạ không nên buộc khó cô nương làm gì.

Bất quá, ngày mai, chúng ta không cần đi đâu hết, tránh khỏi vất vả vô ích trọn một ngày. Chúng ta cứ ở đây đợi đúng ngày, đúng giờ, ba ngày qua rồi, thì đi thẳng về Nghiêu Long Sơn.

Ngọc Phương lại lắc đầu:

– Điều đó, ta không dám chủ trương đâu. Ta phải tuân hành mạng lịnh của chủ nhân.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Lần nầy, cô nương cứ nghe lời tại hạ đi, tại hạ bảo đảm là cô nương không hề bị quở phạt.

Ngọc Phương làm gì tin được lời nói đó.

Nhưng từ đâu đó, trong chỗ khuất kín, một âm thinh vọng ra:

– Chẳng cần phải đợi đủ ba hôm. Hiện tại, ngươi có thể khởi hành. Hạn cho ngươi vào giờ ngọ ngày mai, phải đến sơn trang. Này, gã họ Quan kia, ngươi là một tay khá đấy!

Nghe âm thinh đó, Ngọc Phương biến sắc, bởi chính là âm thinh của chủ nhân Vạn Ma Sơn Trang, thứ âm thinh tàn khốc, lạnh lùng, mà chủ nhân dùng đối thoại cùng thuộc hạ.

Quan Sơn Nguyệt gọi to:

– Chủ nhân đã có mặt quanh quẩn nơi đây, tại sao không xuất hiện để gặp nhau?

Người trong chỗ khuất cười lạnh, đáp:

– Giờ gặp mặt, nơi gặp mặt, là vào giờ ngọ ngày mai, đâu phải bất cứ tại đâu và trong bất cứ phút giây nào!

Câu nói không dài lắm, tiếng đầu nghe gần, tiếng cuối cùng nghe xa, chứng tỏ đối tượng vừa thốt vừa rời cục trường, câu nói dứt là người cũng đã khá xa rồi.

Quan Sơn Nguyệt gọi to hơn:

– Chủ nhân chấp thuận cho tại hạ tự mình di động chứ?

Từ xa xa, chủ nhân đáp vọng lại:

– Nếu ngươi không sợ nhọc, thì tùy tiện làm sao cũng được.

Chủ nhân đi xa rồi, sự việc cũng chẳng can gì đến nàng, mà Ngọc Phương vẫn sợ, hiện tại nàng còn sợ như thường.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ, trấn an nàng:

– Người ta đã đi rồi, cô nương bình tịnh lại đi chứ, sợ gì mà sợ dài lâu thế?

Ngọc Phương lộ vẻ lo:

– Thật ta không tưởng là chủ nhân lảng vảng quanh vùng. Hôm nay ta nói với ngươi quá nhiều lời, mà lại toàn là những việc thuộc phạm vi bí mật trong trang ... Đáng lẽ ta không nên nói với ngươi ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Cô nương càng nói, tại hạ càng khó hiểu! Cho dù là những điều đó thuộc phạm vi cơ mật đi nữa ...

Ngọc Phương càng lo lắng nhiều hơn, hấp tấp chận lời:

– Ta đã mấy phen khuyến cáo ngươi, ít nói năng một chút nhưng ngươi cứ hỏi dồn mãi! Trong sáu nàng hầu cận chủ nhân, ta là người cẩn thận hơn hết, thế mà hôm nay cái lưỡi của ta ngứa ngáy lạ lùng ... Chẳng rỏ ma trù quỷ ám làm sao mà ta không còn dè dặt như thường ngày ...

Quan Sơn Nguyệt bật cười khan:

– Ma trù quỷ ám là lẻ đương nhiên, bởi Vạn Ma Sơn Trang là nơi nặng mùi tà khí, một nơi tụ tập quỷ ma, phát xuất những trò quỷ ma kia mà! Không lạ lùng chi đâu, cô nương ơi!

Ngọc Phương nổi giận:

– Ta đang lo chết đây, ngươi vui sướng gì mà đùa cợt chứ?

Quan Sơn Nguyệt cười hì hì:

– Ai bảo cô nương lo rối lên rồi quýnh quáng như kiến bò quanh chén nóng?

Nếu chủ nhân cô nương có ý trừng phạt, thì đâu phải đợi đến lúc về đến Sơn Trang mới ra oai? Theo tại hạ thấy thì, quý chủ nhân phải xuất thủ ngay từ lúc đầu rồi. Người không xuất thủ là không quở trách đó.

Ngọc Phương cau mày:

– Ngươi không biết được đâu! Chủ nhân cố kỵ nhất là sự nói lén nói lút sau lưng người ... Dĩ nhiên nói lén lút như vậy là bình luận người, mà bình luận trong chiều hướng không đẹp lắm ...

Quan Sơn Nguyệt lại cười:

– Nếu chủ nhân là một nữ nhân, thì những gì cô nương nói hôm nay với tại hạ, chẳng phải là những lời bình luận xấu, quý chủ nhân không quở trách cô nương được. Nhớ lại xem, cô nương nói toàn là những sự tốt cho người kia mà!

Vậy tại hạ khuyên cô nương cứ an tâm.

Ngọc Phương không tin tưởng như chàng vừa nói đó. Nàng hỏi:

– Chưa bao giờ ngươi gặp chủ nhân, dù chỉ là một lần, dù trong phút giây ngắn ngủi, thì làm sao ngươi biết được người?

Quan Sơn Nguyệt cười khanh khách:

– Có thể quý chủ nhân là một người phi thường, nhưng một người dù là phi thường, vẫn do xương thịt cấu tạo, như vậy là vẫn còn lẩn quẩn trong thường tình, thử hỏi có ai nghe thiên hạ nói tốt cho mình mà oán ghét thù hận kẻ nói tốt đó chăng? Tại hạ nghĩ, phi thường ở các tài năng, song vẫn bình thường ở tự ái.

Ngọc Phương khoát tay:

– Ngươi nói bậy rồi! Chủ nhân chúa ghét những lời nịnh bợ.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Đối diện mà nói, thì là nịnh bợ, cách mặt mà phê bình, đó là tôn kính. Chủ nhân không thích được nịnh bợ, song chẳng lẽ cấm đoán luôn người khác tỏ sự tôn kính?

Ngọc Phương cúi đầu, trầm ngâm một lúc. Rồi nàng thốt:

– Quả thật hôm nay chủ nhân có thái độ hơi khác thường! Từ lâu, mời khách là có hạn lệ ba hôm. Dù cho khách đến sớm hơn một giờ, một khắc, cũng chẳng bao giờ phá lệ ...

Quan Sơn Nguyệt cứ cười luôn:

– Bởi có chỗ diệu dụng, nên quý chủ nhân đặt thành lệ ba hôm. Song, chỗ diệu dụng đó, bị tại hạ khám phá rồi, thì còn giữ lệ làm quái gì nữa? Cho nên, cuộc tương hội càng diễn ra sớm, càng hay. Chúng ta đi đi, cô nương!

Ngọc Phương không đi liền, mà lại hỏi gấp:

– Diệu dụng đó như thế nào?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Giả như cô nương không biết đi, tốt hơn hết, cô nương không nên hỏi làm gì. Bởi đương nhiên rồi tại hạ cũng tỏ bày cho mà biết. Có điều, nếu cô nương biết, thì có thể chủ nhân sẽ sanh tâm nghi kỵ.

Ngọc Phương động tính hiếu kỳ, nhưng lại e dè, niềm sợ hãi thoáng hiện nơi đôi mắt. Nàng thốt:

– Nếu vậy, thì ta không hỏi làm chi. Từ đây đến Vạn Ma Sơn Trang con đường còn độ bảy tám trăm dặm dài, ta đi thì không khó khăn lắm, chỉ sợ ngươi không đủ sức vượt qua. Ngươi nghĩ sao?

Quan Sơn Nguyệt cười lớn:

– Tại hạ dù là vô dụng, song có lý nào vô dụng đến độ kém một nữ nhân?

Ngọc Phương nhìn xéo chàng một thoáng:

– Ta có ý tốt với ngươi đó nhé. Ngươi thử suy nghĩ xem, vượt qua đoạn đường dài bảy tám trăm dặm, lúc đến đích rồi, ngươi phải thần suy lực giảm, như vậy làm sao vào được ngục tối Vong Hồn?

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Nếu lúc đến nơi, tại hạ giữ nguyên tinh thần phấn khởi thì chỉ sợ không vượt nổi cái ngục quái dị đó. Cho nên, tại hạ hy vọng khi đến Vạn Ma Sơn Trang, càng mệt nhọc càng có lợi, mệt nhọc đến độ không còn cử động nổi lại càng hay.

Ngọc Phương trố mắt, nửa tin nửa ngờ, toan nói chi đó, Quan Sơn Nguyệt khoát tay, rồi tiếp nối:

– Nếu cô nương không muốn mất sự tin cậy của chủ nhân thì đừng hỏi gì nhiều nữa. Hãy giải khai gấp huyệt đạo nơi đôi chân của tại hạ đi. Rồi chúng ta chuẩn bị khởi hành.

Ngọc Phương lại do dự, chưa chịu xuất thủ.

Quan Sơn Nguyệt gắt:

– Chủ nhân cô nương đã phân phó như vậy, chẳng lẻ cô nương không tuân?

Ngọc Phương không còn biết làm sao hơn, đành đưa tay giải huyệt cho chàng.

Quan Sơn Nguyệt tung mình đứng lên, lập tức chạy đi về phía trước mặt, đồng thời gọi vọng lại:

– Đi chứ, cô nương! Nghiêu Long Sơn ở về phía Tây Nam, con đường đó nhất định là tại hạ không lầm lạc được.

Ngọc Phương cứ sợ chàng lạc lối, cấp tốc chạy theo sau.

Không lâu lắm, nàng vượt qua mặt chàng.

Quan Sơn Nguyệt nghiến răng gia tăng tốc lực, quyết bắt kịp nàng.

Cả hai một trước một sau, cùng thi đua mà chạy, thân hình lao đi vun vút như hai mũi tên, lúc ngày tranh sáng trong khi đêm còn muốn giữ tối tăm, thì cả hai nhìn xa xa thấy lờ mờ một tòa núi. Và không lâu lắm, vầng thái dương đã phóng những tia sáng đầu tiên vượt đỉnh cao hơn.

Ngọc Phương mệt, hơi thở không tiếp nối điều hòa, còn Quan Sơn Nguyệt thì nhễ nhại mồ hôi. Nàng không dám đề nghị dừng chân nghỉ mà chàng cũng nhất định chạy luôn. Họ chỉ còn cách sơn cước độ hơn dặm đường.

Quan Sơn Nguyệt trông thấy Ngọc Phương nhợt nhạt thần sắc, cực kỳ tiều tụy, nàng nhọc phờ đến độ mặt tím lại, bất giác sanh lòng bất nhẫn, thốt:

– Chúng ta dừng chân một chút đi, cô nương! Đã đến nơi rồi còn lo ngại gì nữa.

Ngọc Phương trầm giọng:

– Không cần thiết! Từ đây lên đỉnh núi, còn hơn hai mươi dặm nữa đó, mà lại không có lối đi, muốn đến tận nơi, chúng ta phải hoàn toàn nhờ thuật khinh công. Ngươi đã cho rằng càng mệt nhọc càng có lợi cho ngươi, thì ta cũng cố gắng giúp ngươi được toại nguyện. Bởi, ta ước mong ngươi không bỏ cuộc ngay tại cửa ải thứ nhất hoặc thứ hai, trong Hắc Ngục Vong Hồn.

Thay vì dừng lại, thốt xong, nàng vọt mình đi, nhanh hơn trước.

Quan Sơn Nguyệt giật mình, tiến nhanh lên, sánh đôi với nàng mà chạy.

Đến chân núi, Ngọc Phương đâm đầu vào vùng đá lởm chởm mà tiếp tục phóng mình, cứ mỗi cái nhảy là nàng vượt độ ba bốn trượng xa, và nơi đặt chân lại nhọn hơn mũi đao, kiếm. Giả như nàng đặt chân sai một phân thôi, thì chắc chắn là phải trượt xuống hố sâu, lòng hố cũng lợp đầy đá nhọn.

Vượt như thế được mấy mươi trượng, bất thình lình trong một cái nhảy cao, thay vì đáp xuống như trước thì thân hình nàng mềm lại, tợ hồ mất lực, sau đó rơi xuống như chiếc lá rụng.

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi vươn tay ra, chụp áo nàng.

Máu từ miệng nàng phún ra, bắn vào đầu, vào mặt chàng.

Nàng mở đôi mắt, lờ đờ nhìn chàng, thốt qua giọng yếu ớt:

– Đừng quan tâm đến ta. Ngươi cứ lên trên đó đi. Ta đã hiểu cái dụng ý của chủ nhân rồi. Hắc Ngục Vong Hồn là nơi chứa chất đầy khủng bố, nơi đó con người hành động hoàn toàn bằng tâm cơ, ý thức, chứ không sử dụng công lực như tại các chiến trường. Nơi đó, chỉ có những ảo cảnh, do ảo tưởng mà sanh ra.

Ai vào đó với tâm thần càng ổn định thì ảo cảnh càng dễ hiện ra và hiện với mức độ khủng khiếp càng cao. Bởi, tâm thần có ổn định thì tưởng tượng mới phát sanh.

Còn như ngươi quá mệt nhọc, thì đến chỗ dừng chân rồi, ngươi còn biết có mỗi một việc là nghỉ ngơi, đối với ngoại cảnh, ngươi không buồn quan tâm đến ...

Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cười, mang nàng đến một tảng đá bằng phẳng, đặt xuống đó, rồi làm mấy động tác cứu tỉnh nàng hoàn toàn, giúp nàng tiêu trừ lao nhọc, khôi phục nguyên trạng.

Ngọc Phương thở phào, dần dần nàng nghe trong mình khoan khoái trở lại.

Tuy nhiên, nàng luôn miệng giục:

– Ngươi đi đi! Đừng quan tâm đến ta! Cứ để ta ở đây, bất quá sau một lúc ta sẽ khỏe lại. Chẳng có gì đáng lo cả.

Quan Sơn Nguyệt lại cười, thốt:

– Cô nương yên trí, đến đó chậm một chút cũng chẳng sao. Tại hạ lưu lại đây với cô nương một lúc nữa.

Một lúc sau, chàng lại tiếp:

– Những gì cô nương vừa nói đó, có đúng thật, song chỉ đúng một phần thôi.

Mệt nhọc quả có làm cho con người quên đi ngoại cảnh, song điều cốt yếu chẳng phải nằm trong sự kiện đó đâu.

Ngọc Phương thoáng giật mình, nhưng nàng không hỏi chi.

Quan Sơn Nguyệt tiếp luôn:

– Thoát lực quá độ rồi, cô nương không còn dụng lực nữa được, dù để làm một cử động nhỏ. Vậy cô nương cứ để tại hạ mang luôn lên trên đó.

Thốt xong, không đợi nàng phát biểu ý kiến, chàng bế xốc nàng lên, vọt đi liền.

Ngọc Phương cố vùng vẫy, không khứng để cho chàng mang đi như vậy.

Nàng luôn miệng phản đối:

– Buông ta ra! Đặt ta xuống ngay! Ngươi làm cái điệu nầy, chủ nhân trông thấy, ngươi cũng mất mạng luôn với ta!

Quan Sơn Nguyệt cười hì hì:

– Chủ nhân của cô nương đâu có quá hẹp hòi mà sanh ghen vì các việc nhỏ mọn nầy? Nếu người là nam nhân, thì có ghen cũng hợp lý, bởi ai lại để người đẹp nằm trong tay một nam nhân khác, khi người đẹp đó lệ thuộc vào mình?

Nhưng, chủ nhân của cô nương vẫn là nữ nhân như cô nương kia mà!

Ngọc Phương không đáp, nơi khóe mắt, lệ trào ra từng hạt.

Nàng thương cảm? Vì nguyên nhân nào? Nàng đổ lệ cho ai, cho chính nàng, hay cho Quan Sơn Nguyệt?

Chỉ có nàng mới hiểu nổi những điều phức tạp đang phát sanh nơi tâm tư, phức tạp hiện ra nơi gương mặt nàng.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 72

Nghĩa Bất Dung Từ

Quan Sơn Nguyệt vận dụng toàn công lực, vượt qua nhiều đỉnh núi, đến một gành đá, chàng dừng chân lại.

Gành đá cao độ mấy mươi trượng, đứng bên dưới mà nhìn lên, chàng đoán là nó trơn trợt vô cùng, bởi chung quanh nhẵn thín bóng láng như mặt thủy tinh. Làm sao phi thân lên trên gành đá đó, chàng tin chắc là chẳng có chỗ nào nhám nhúa để đáp xuống mà khỏi bị trượt. Nếu trượt chân, cả hai phải rơi xuống hố sâu, bỏ mạng luôn. Huống hồ, con người dù tài ba đến đâu cũng chẳng làm sao vượt nổi một chiều cao hằng mấy mươi trượng.

Ngoài cái cách duy nhất dùng thuật phi đằng mà lên đó, chàng không thấy một con đường nào khác.

Bên trên gành đá, ẩn ước có nhiều tòa kiến trúc, tựa hồ nơi đây là căn cứ địa chính thức của Vạn Ma Sơn Trang.

Làm sao lên đó?

Ngọc Phương đã khôi phục tinh thần phần nào, có điều sức lực còn suy nhược quá, hiện tại nàng vòng tay quanh hai đầu vai chàng, đeo cứng cho dù muốn dù không nàng cũng trở thành một gánh nặng cho chàng.

Quan Sơn Nguyệt cau mày, lẩm nhẩm:

– Làm sao lên trên đó?

Ngọc Phương nhắm mắt lại đáp:

– Nơi khoảng giữa gành đá, có một đường dây buông lơ lửng, nắm đường dây đó mà giật, đầu trên có lục lạc, lục lạc reo vang, người ta thòng giỏ xuống mình ngồi vào giỏ, người bên trên kéo giỏ lên.

Quan Sơn Nguyệt đảo mắt tìm, quả thấy đường dây ẩn kín trong một cái hang nhỏ, chỉ lộ ra ngoài một khoảng độ mấy tấc thôi. Cũng vì đầu dây không dài lắm, nên lúc đầu chàng không trông thấy, hơn nữa, nó lại ở một mức độ cao bảy tám trượng, chàng làm sao nhận định nó được giữa những dây cỏ dù không nhiều nhưng cũng chẳng ít!

Chàng lập tức đặt Ngọc Phương xuống, rồi nhún chân tung bổng người lên.

Nhưng, Ngọc Phương cố đeo dính nơi vai chàng, dịu giọng thốt:

– Hãy bế ta một lúc nữa đi! Đừng bỏ rơi ta vội như thế này ...

Quan Sơn Nguyệt cau mày, từ từ gỡ tay nàng ra, đồng thời dùng giọng trang nghiêm thốt:

– Cô nương! Thế cô nương đến đây chẳng qua vì đạo nghĩa mà thôi, phàm con người thấy đồng loại gặp khó khăn thì tiếp trợ nhau cho được việc, tại hạ tuyệt nhiên chẳng có dụng tâm bất chính xin cô nương đừng hiểu lầm.

Ngọc Phương trầm ngâm một lúc lâu, mặt lộ vẻ u buồn, đáp:

– Ta biết, ngươi chẳng có ý tứ gì, song ... song ...

Quan Sơn Nguyệt thấy nàng úp mở, không thổ lộ thực trạng tâm tư, hơi bực phần nào, đáp với giọng hằn học:

– Cô nương đã biết tại hạ không phải là phường hiếu sắc, thì tốt hơn đừng nói chi nhiều.

Ngọc Phương nhắm đôi mắt lại, từ nơi khóe mắt, vài hạt lệ trào ra, long lanh như hạt châu, buồn thảm tiếp:

– Quan đại hiệp! Tôi biết đại hiệp là bậc anh hùng, thịnh danh rất trọng, rền vang khắp sông hồ, tôi cũng biết luôn đại hiệp đã lưu ấn tượng trong lòng bao kiều nữ, đại hiệp là nhân vật chánh của quá nhiều cuộc diễm tình, biết như vậy rồi thì tôi cũng phải biết nốt là khi nào tôi gây được một xúc động nhỏ nào trong thâm tâm của đại hiệp. Tôi là một thiếu nữ bần tiện, tôi tự biết mình, đại hiệp ơi ...

Bây giờ, nàng đổi lối xưng hô, và sự thay đổi đó chứng tỏ nàng đang nói những lời chí thành nhất đời.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Cô nương càng nói, càng đi xa thực tế! Con người hùng do cô nương vừa phác họa đó, chỉ có trong tưởng tượng dồi dào của cô nương thôi.

Ngọc Phương vụt mở mắt, tinh quang bắn sáng rực, giọng nàng cũng trở nên cứng rắn:

– Không khi nào tôi nuôi hy vọng đại hiệp lưu ý đến tôi. Những gì tôi vừa tỏ bày, chẳng phải để biểu hiện một tình yêu đối với đại hiệp, tôi chỉ thực nghiệm một nhận xét về con người thôi, để cho biết cái tư vị cuộc tiếp xúc này, để tìm hiểu hoài bão của một người thành danh đang thời tuổi còn trẻ, bọn tôi tất cả sáu người đều được chủ nhân ưu đãi, sủng ái, cả sáu người chưa ai biết được cái tư vị đó, chưa ai có dịp thực nghiệm một nhận xét như tôi vừa tường trình, trừ tôi với dịp duy nhất này. Làm được việc này rồi, giả như tôi có bị chủ nhân sát hại, tôi vẫn vui mà về chốn mịt mờ, thiên thu phiêu phưởng. Tôi thành thật đa tạ Quan đại hiệp thẳng thắn giải tỏa niềm thắc mắc mà tôi đeo mang từ lâu, và cầu chúc đại hiệp vượt êm ba cửa ải khó khăn trong Vong Hồn Hắc Ngục.

Thốt xong, nàng tung mình lên, vương tay chụp đầu dây báo động.

Tiếng lục lạc reo vang, từ bên trên, một chiếc giỏ được thòng xuống.

Quan Sơn Nguyệt còn bàng hoàng trước những sự giãi bày của nàng, cứ theo sự thố lộ của nàng, thì chẳng hóa ra chủ nhân không phải là nữ nhân sao.

Nếu chủ nhân là nữ, thì tại sao nàng tha thiết với niềm sủng ái do nhân vật đó dành cho? Tại sao nàng cần thực nghiệm hoài bão của một nữ nhân qua cá nhân chăng?

Chàng không lưu ý đến chiếc giỏ, chỉ trố mắt nhìn nàng hỏi.

– Cô nương đã chẳng nói với tại hạ, chủ nhân là nữ nhân đó sao?

Ngọc Phương lạnh lùng:

– Quả có nói như vậy.

Quan Sơn Nguyệt càng lấy làm lạ hơn:

– Thế thì có chi đáng nói đâu? Nữ nhân sủng ái nữ nhân kể ra cũng là việc thường mà?

Ngọc Phương lắc đầu:

– Không biết được chiều sâu sự việc thì đại hiệp đừng hỏi gì là hơn.

Rồi nàng bước tới, vào chiếc giỏ mà ngồi.

Quan Sơn Nguyệt với niềm hoang mang cực độ, thẫn thờ theo nàng, vào ngồi trong giỏ.

Chiếc giỏ được kéo lên từ từ.

Bên trên, có một tòa nhà khá lớn, kiến trúc rất trang nhã, chung quanh có tường cao bao bọc, tường sát mé gành, cửa vào có vọng lầu gác.

Trên vọng lầu gác, có bốn chữ to lớn là Vạn Ma Sơn Trang, kèm hai vế liễn hai bên, đại khái bao hàm cái nghĩa đời có hai đường thiện ác, mang tâm ác mà đi trên đường thiện, vẫn ác như thường mang tâm thiện mà đi trên đường ác thì vẫn gặt hái được cái quả lành như thường.

Theo Quan Sơn Nguyệt nhận xét, thì hai vế liễn này chỉ có cái ý giải thích tên xưng sơn trang mà thôi. Chủ nhân ngầm phân tách ý nghĩa bao gồm trong hai tiếng Vạn Ma.

Nơi cửa vọng lâu, có một thanh niên áo xanh, thứ áo dành cho hạng nho sinh. Thanh niên có nghi biểu hiên ngang, tay cầm quạt, chiếc quạt phe phẩy mãi dù không khí chẳng oi bức gì. Y có vẻ phiêu nhiên thoát tục, bất quá sắc diện thì lạnh lùng, biểu hiện sự thiếu vắng cảm tình hoàn toàn. Sự thiếu vắng đó, do tánh trời sanh, hay bắt buộc phải có bởi vai tuồng của một vở kịch?

Ngọc Phương bước ra khỏi giỏ, nghiêng mình chào:

– Trầm tiên sanh!

Thanh niên «hừ» một tiếng lạnh nhạt, xa xôi, khinh miệt, đoạn buông gọn:

– Đến sớm quá!

Ngọc Phương tiếp:

– Vị Quan đại hiệp này có thuật khinh công rất cao, trên hẳn tỳ nữ đó tiên sanh.

Thanh niên lại «hừ» một tiếng lạnh nhạt hơn, xa xôi hơn, khinh miệt hơn. Rồi y thốt:

– Chẳng trách ngươi dành cho hắn nhiều cảm tình, vì hắn mà ngươi dám vi phạm sơn quy, ta mầng cho ngươi đó nhé, cái tâm nguyện bình sanh của ngươi được thỏa rồi, thì có chết cũng không còn ân hận!

Ngọc Phương biến sắc mặt trầm lặng một lúc lâu, mới đáp:

– Tỳ nữ biết mình có tội nặng, ngay từ phút giây này, xin đến thẳng yết kiến chủ nhân, lãnh cái chết.

Nàng toan bước tới, để vào nhà. Thanh niên ngăn lại, thốt:

– Bất tất! Uyển Hoa không nghe biết gì những lời ngươi nói đâu. Ta không báo cáo thì chẳng bao giờ nàng biết. Ngươi có muốn ta báo cáo chăng?

Ngọc Phương thoáng giật mình, thấp giọng đáp:

– Nếu tiên sanh có lòng che chở cho, thì tỳ tử cảm kích vô cùng.

Thanh niên khoát tay:

– Đừng nói những tiếng khách sáo. Mà cũng không cần cảm kích. Ta chỉ mong là ngươi ghi nhận nơi tâm, thế cũng đủ rồi.

Ngọc Phương ngửng mặt nhìn lên lạnh lùng tiếp:

– Trầm tiên sanh! Nếu thật sự tiên sanh có tâm nguyện đó, thì tại sao tiên sanh không trình bày với chủ nhân?

Thanh niên sững sờ.

Ngọc Phương tiếp luôn, giọng lạnh lùng hơn:

– Tiên sanh thiếu can đảm thấy rõ.

Chừng như thanh niên phẫn nộ phần nào. Y cất tiếng hơi to:

– Nói bậy! Ta không hề sợ nàng ...

Ngọc Phương chụp ngay cơ hội:

– Thế càng hay. Bất cứ lúc nào, nếu tiên sanh được sự đồng ý của chủ nhân, thì lập tức tỳ tử tuân mạng. Phải chi tiên sanh sớm có cái khí khái của nam nhân một chút, thì tỳ nữ đâu hướng về ngoại nhân mà cầu cạnh?

Thốt xong, nàng mạnh dạn bước đi, qua cửa vọng lâu, thanh niên bước tới ngăn chận, nhưng ánh mắt sắc lạnh của nàng làm cho y gờm gờm, rồi y buông xuôi đôi tay xuống.

Quan Sơn Nguyệt gọi gấp:

– Cô nương! Khoan đi chứ, hãy đưa tôi đến gặp mặt chủ nhân.

Từ bên trong vọng cửa, Ngọc Phương quay đầu lại, đáp:

– Trầm tiên sanh sẽ làm cái việc đó hộ tôi, tôi cần đi gặp chủ nhân gấp để phúc lịnh.

Quan Sơn Nguyệt toan bước theo nàng.

Thanh niên lại dang tay chặn, hỏi:

– Các hạ là Minh Đà Lịnh Chủ Quan Sơn Nguyệt?

Quan Sơn Nguyệt nhận ra, lúc đối thoại với Ngọc Phương, con người đó để lộ rõ ràng tà khí, chàng đố kỵ y ngay, bây giờ nghe y hói, chàng cười lạnh một tiếng, buông cộc lốc:

– Chủ nhân đã về đây rồi, đương nhiên là có nói cho các hạ biết tại hạ là ai.

Như vậy, cần gì phải hỏi!

Thanh niên trầm gương mặt:

– Này, họ Quan! Tại Vạn Ma Sơn Trang, thân phận của ngươi chưa được xác định kia mà. Thì, đối với ta, ngươi nên giữ lễ độ một chút. Trừ ra ngươi qua lọt ba cửa ải trong Hắc Ngục Vong Hồn, hoặc ít nhất cũng hai cửa, thì ngươi mới có tư cách vênh mặt với ta. Cái khẩu khí cao hãnh của ngươi đó, hãy giữ lại, đợi khi nào có địa vị cao hơn ta hãy mang ra mà dùng. Chứ nếu không thì ngươi nên đếm từ ngày mà chờ chết.

Quan Sơn Nguyệt giật mình, không tưởng là đối tượng câu mâu quạu quọ đến độ không giấu nổi sự bất mãn. Có lẽ y bất mãn từ lúc vào đây, và giữ sự bất mãn đó cho đến một ngày nào có đủ tài năng giúp y cao mặt mà đối diện với chủ nhân. Chàng dùng giọng khích, thốt:

– Thì ra, các hạ là người «bị» chủ nhân xem như bằng hữu?

Xem như bằng hữu mà dùng cái tiếng «bị» thì đúng là có sự miễn cưỡng rồi, sự miễn cưỡng sở dĩ có bởi lòng nhân đạo của chủ nhân, bởi nhu cầu nhân lực trong Vạn Ma Sơn Trang. Và, bị xem như bằng hữu trong Sơn Trang thì có khác nào được chọn làm thuộc hạ? Có điều là cái thứ nô dịch thân tín thôi.

Thanh niên cười lớn. Y hãnh diện mà cười, hay cười để che lấp sự thẹn ngượng? Tuy nhiên, vẻ cao ngạo hiện lộ nơi gương mặt y, phát xuất qua giọng cười của y, điều đó chứng tỏ y hãnh diện hơn là thẹn ngượng. Bằng cớ, là y cao giọng thốt:

– Phải đó. Trong Vạn Ma Sơn Trang, chỉ có mỗi một mình Trầm Quân Lượng này là có thể gọi tên tộc của Uyển Hoa. Trừ một Uyển Hoa ra, tất cả gặp ta đều phải cúi đầu.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Uyển Hoa là tên của chủ nhân?

Trầm Quân Lượng gật đầu:

– Ừ! Nàng họ Điền! Toàn danh tự là Điền Uyển Hoa. Hiện tại, biết thì cứ biết, chứ ngươi chưa đủ tư cách gọi ngay tên họ của nàng đâu. Ta khuyên ngươi nên dùng hai tiếng chủ nhân, chứ đừng xưng hô Uyển Hoa, Tạo Hoa gì cả.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Tại hạ đâu có ý gì cầu cạnh, kết giao với nàng?

Trầm Quân Lượng cười lạnh:

– Ngươi dù muốn cầu cạnh, chắc gì được toại nguyện? Đừng tưởng bất cứ ai cũng có thể với cao được! Cái cao, là sự ưu đãi của tạo hóa dành riêng cho một số người rất ít, còn cái thấp là sản hữu của đại chúng, ngươi hiểu chứ?

Quan Sơn Nguyệt nổi nóng:

– Ngươi vào gọi nàng ra đây gấp cho ta!

Trầm Quân Lượng bật cười ha hả:

– Gọi Uyển Hoa ra đây nghinh tiếp ngươi? Thế ngươi đang nằm mộng đấy à? Chưa trải qua Hắc Ngục Vong Hồn, ngươi lấy tư cách gì mà đòi tiếp xúc với nàng? Thân phận của ngươi tại đây chưa xác định kia mà!

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Ta có cần thân phận quái gì đâu? Ta chẳng hề có ý lập thân tại Vạn Ma Sơn Trang, sở dĩ ta muốn gặp nàng, là vì ta có chút việc cần giải quyết thôi.

Trầm Quân Lượng lại cười vang:

– Đến Vạn Ma Sơn Trang rồi mà ngươi còn tưởng là sẽ ra đi được thong thả à? Ngươi lại nuôi thêm một cái mộng thứ hai!

Quan Sơn Nguyệt kêu to:

– Các hạ tránh qua một bên, và đừng nói vớ vẩn nữa. Tự tại hạ đi tìm nàng cũng được rồi.

Chàng mạnh dạn bước tới.

Trầm Quân Lượng rẹt chiếc quạt, phát nhẹ, một đạo kình lực vút ra.

Quan Sơn Nguyệt có cảm giác bị đấm mạnh vào ngực, vội lùi mấy bước:

Trầm Quân Lượng cười lạnh, thốt:

– Minh Đà Lịnh Chủ quả nhiên danh bất hư truyền, chịu nổi một chiêu «Thanh Phong Từ Lai» của tại hạ. Tuy nhiên, với tài năng đó, các hạ chỉ kỳ vọng được sung vào chức chấp sự sư gia mà thôi, không hơn không kém.

Quan Sơn Nguyệt nghe lồng ngực đau nhói. Chính cái đau đó làm cho chàng phẫn nộ, chàng «hừ» lên một tiếng, rút ngay thanh Hoàng Diệp Kiếm nơi hông cầm tay hét:

– Nếu các hạ không tránh qua một bên, thì tại hạ phải thất lễ đó.

Trầm Quân Lượng điềm nhiên quét ánh mắt từ đầu chàng xuống chân, thốt:

– Vương sư gia có thuật lại, ngươi cũng biết một vài chiêu khá, sử dụng hơi rành thanh kiếm trong tay ngươi đó. Ngươi cố biểu diễn cho ta xem đi nào. Ta muốn biết cái tài của Minh Đà Lịnh Chủ đáng giá bao nhiêu đồng tiền, mà giang hồ dư hơi ba hoa ca ngợi từ mấy năm qua.

Y lại giở cái giọng xấc, lên mặt kẻ cả đối với Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Tại hạ nói một lần nữa, và là lần cuối đấy nhé, các hạ hãy bước qua một bên ngay!

Người ta không giữ lễ độ với chàng, chàng vẫn giữ lễ độ đối với người ta, xưa nay chàng không hề có cái lối đánh võ miệng, dù cho đối diện với kẻ tử thù, chàng cũng nhã nhặn ôn hoa như thường. Huống hồ, ở đây chàng gặp một người kiêu căng, sính tài.

Trầm Quân Lượng vừa rẹt chiếc quạt, vừa đáp:

– Muốn cho ta tránh qua một bên, cũng chẳng khó khăn gì, bất quá ngươi cứ tỏ ra cái tài, bức ta tạt qua, hoặc giả ngươi quật ngã ta, rồi lướt qua trên thân xác ta mà đi vào.

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Các hạ nhất định gây phiền phức cho nhau à? Đừng tưởng rằng thanh kiếm này không bén!

Ánh kiếm thoáng chớp lên, thân hình theo kiếm bay tới, chiêu thức phát xuất liền.

Trầm Quân Lượng rẹt chiếc quạt, nhưng trước thì xòe, bây giờ thì xếp. Cầm chiếc quạt, y tiến thẳng vào vùng kiếm ảnh.

Một tiếng «coong» to lớn vang lên, lửa bắn bốn phía, song phương đã chạm chiêu đầu tiên.

Vừa lúc đó, từ bên trong cửa vọng lầu canh, một thị nữ tuổi trẻ bước ra, thốt:

– Trầm tiên sanh, chủ nhân bảo tiên sanh dừng tay.

Trầm Quân Lượng nhún chân nhảy vọt về phía hậu, hỏi!

– Tại sao? Chẳng lẽ hắn thắng nổi ta?

Thị nữ đáp:

– Chủ nhân không có ý nghĩ như thế. Chỉ vì, hiện tại chưa phải lúc đọ sức tranh tài. Chủ nhân yêu cầu tiên sanh đưa y thẳng đến Hắc Ngục Vong Hồn.

Trầm Quân Lượng không phục:

– Đưa hắn đi để làm gì? Hắn đâu có muốn lưu lại sơn trang của chúng ta mà hòng quăng hắn vào lò thực nghiệm?

Thị nữ mỉm cười:

– Cái đó thì xin lỗi tiên sanh nhé, bởi tiên sanh không có quyền quyết định.

Trầm Quân Lượng nổi giận.

– Muốn đưa hắn đi, ngươi cứ tự mình đưa đi, ta chẳng phải là tay nô bộc, ta không thể làm công việc của bọn phục dịch.

Thị nữ lại cười:

– Chủ nhân nói rằng, hôm nay tánh khí của Trầm tiên sanh thay đổi lạ lùng quá. Tiên sanh hoàn toàn biến thành con người khác, mất hết phong độ ung dung nhàn nhã của ngày thường. Chủ nhân rất thất vọng vì tiên sanh đó nhé.

Trầm Quân Lượng tợ hồ muốn phác tác, nhưng nghĩ sao đó, y lại dằn tâm quay đầu bước vào cửa lầu.

Thị nữ nhìn Quan Sơn Nguyệt, điểm một nụ cười, thốt:

– Trầm tiên sanh giận bỏ đi rồi, vậy là tôi phải dẫn đại hiệp đi. Xin Quan đại hiệp theo tôi.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Có phải là đi tiếp xúc với chủ nhân cô nương chăng?

Thị nữ vẫn cười, lắc đầu:

– Không! Trước hết, đại hiệp đến Hắc Ngục Vong Hồn.

Quan Sơn Nguyệt cũng lắc đầu:

– Không! Tại hạ không đến nơi đó đâu. Tại hạ đến đây với mục đích cứu người.

Nữ nhân cười nhẹ:

– Ngọc Phương bép xép quá, đem mọi việc tiết lộ hết với đại hiệp. Chủ nhân biết trước thế nào đại hiệp cũng nêu lên câu đó, cho nên đã sớm an bài, đại hiệp không thể không trải qua địa điểm đó được.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận.

Thị nữ điềm nhiên đáp:

– Ngô Khẩu Thiên bị bỏ nơi cảnh giới thứ nhất trong Hắc Ngục Vong Hồn, còn Thương Nhân thì ở tại cảnh giới thứ hai. Ngô Phụng và Ngọc Phương ở tại cảnh giới thứ ba. Như đại hiệp có ý muốn cứu người, thì cái thế bắt buộc phải vào đó rồi vậy. Tốt hơn hết, đại hiệp nên dạo qua một chuyến đi, dù sao thì đại hiệp cũng không nỡ bỏ các người đó trong chỗ tối tăm lạnh lẽo. Giả như họ chết đi, thì có phải là đại hiệp hối hận suốt đời chăng?

Quan Sơn Nguyệt giật mình, hỏi gấp:

– Bỏ họ vào đó? Để làm gì chứ?

Thị nữ mỉm cười, đáp:

– Thì để cho đại hiệp vào cứu họ, chứ còn để làm gì nữa. Chẳng phải đại hiệp đến cứu người đó sao? Cứu người, phải cứu bằng công lực, chứ nói năng mấy tiếng mà xong được cho à?

Quan Sơn Nguyệt vội đáp:

– Cha con họ Ngô và Thương Nhân sở dĩ lâm nạn, là do tại hạ, tự nhiên tại hạ phải cứu họ.

Thị nữ tiếp:

– Còn Ngọc Phương? Nàng lâm nạn, thế chẳng do đại hiệp hay sao?

Chẳng lẽ đại hiệp không cứu nàng? Mà thôi, cứu ai thì tùy đại hiệp, bỏ ai cũng tùy đại hiệp. Tôi chỉ có việc cho đại hiệp biết là hiện tại họ đều ở trong Hắc Ngục Vong Hồn ...

Thốt xong nàng mỉm cười, nụ cười châm chích, mỉa mai, nửa trách phiền, nửa khiêu khích. Rồi nàng quay mình bước đi.

Quan Sơn Nguyệt đi theo sau nàng. Dù muốn dù không, chàng cũng phải đến ngục tối, bởi chẳng ai chịu đưa chàng vào gặp chủ nhân, thì chàng còn làm sao hơn?

Qua khỏi vọng cửa lầu, chàng đến một tòa đại sảnh, sảnh đường trống không, chẳng có một vật nào, ngoài một chiếc thang bằng gỗ.

Thang gỗ đưa lên lầu canh, thị nữ đưa tay chỉ chiếc thang thốt:

– Bên trên đó, là cảnh giới thứ nhứt của Hắc Ngục Vong Hồn, đại hiệp cứ đi lên, tôi không thể theo đại hiệp nữa. Lão già họ Ngô đang ở trên đó, chắc là đang run vì lạnh. Muốn cứu người, đại hiệp phải hành động gấp, chỉ sợ lão ấy sẽ cóng mình mà chết đấy nhé.

Nàng bỏ chàng tại đó, ly khai đại sảnh.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút, đoạn tra kiếm vào vỏ, mạnh dạn bước lên thang.

Thang có mấy mươi bậc, lên nốt chiếc thang, chàng đến đỉnh lâu.

Trước mắt chàng, là một vọng cửa bằng gỗ, trên cửa có tấm biển, ba chữ nhỏ, hai chữ lớn hiện rõ:

«Vong Hồn Đệ Nhất Giới».

Hai bên cửa, có vế liễn:

«Vô mãnh vô cương, bạo hổ phùng hà, thất phu hà kham ngôn dõng.

Vô úy vô nổi, đường tý đường xa, Chí sĩ tự tri sở cường.» Đại ý, câu liễn cảnh cáo con người đừng tự đắc, tự tôn, đừng ỷ tài ỷ sức, tuyệt đối không nên cho mình là vạn năng, làm được tất cả mọi việc trên đời.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Câu liễn nói đúng đạo lý, song chẳng biết bên trong kia có những gì đáng chờ đợi ta?

Chàng toan đưa tay đẩy cánh cửa, bỗng một luồng gió lạnh thổi tạt vào mặt.

Lập tức, chàng ngưng thần vận khí, chuyển cương khí khắp người, chuẩn bị sẵn sàng rồi, mới bước vào.

Vừa bước ngang ngưỡng cửa chàng nhận ra cảnh sắc đột nhiên biến đổi, trước mắt chàng là những chiếc giường bằng giá băng, trên giường có những người cụt tay, cụt chân, có nam, có nữ, người nào cũng nhợt nhạt thần sắc. Có điều họ vẫn còn sống.

Quái dị nhất, là ở dưới mỗi chiếc giường, có một bồn lửa, cháy không phải do một nhiên liệu thông thường nào, mà là bằng xương người, thịt người, tay chân người.

Một người nào đó kêu lên:

– Lạnh quá! Trời ơi! Lạnh chết đi! Khẩn cầu ngươi thêm lửa vào cho ấm một chút đi!

Người vừa phát âm đó, là một nữ nhân, tác độ trung niên đang run hơn cầy sấy.

Quan Sơn Nguyệt giật mình. Lý trí cảnh giác cho chàng biết đó là những ảo tưởng, nhưng con mắt trông ra sự tình như vậy, lỗ tai nghe rõ những lời kêu than như vậy, thì làm sao mà chàng chẳng cho là thực tế?

Tuy nhiên, chàng cố dằn lòng, không lưu ý đến lời kêu rên thống thiết cửa nữ nhân, cứ thẳng đường đi tới. Đảo mắt nhìn qua chàng ước độ gian nhà đó rộng hơn mười trượng vuông là có một chiếc giường, dĩ nhiên là giường bằng giá băng, giường xếp thành hàng, hai giường đối diện với nhau.

Có trên hai mươi chiếc giường. Và tự nhiên có trên hai mươi người thọ thương.

Lửa bên dưới giường bốc cháy mạnh ngọn, song băng giá chẳng hề tiêu tan.

Nhờ cương khí vận hành khắp thân thể, Quan Sơn Nguyệt không nghe lạnh, nhưng những lời kêu thảm thống thiết của những người đó vang vọng đến tai chàng, làm chàng cũng cảm thấy lạnh luôn. Lạnh lòng, lạnh ý, chứ chưa lạnh thân xác.

Tiếng kêu thảm tiếp nối vang lên:

– Yêu cầu ngươi thêm lửa! Thêm thật nhiều vào! Lạnh chết ta đi thôi!

Lần này, chính là một nam nhân tác độ trung niên, cất tiếng kêu than. Lửa bên dưới chiếc giường của y suy yếu lắm rồi, hầu như chực tắt. Y lạnh quá, thân hình rung rung, đến phát ra tiếng động, tiếng của răng đập vào răng, xương chạm với xương.

Quan Sơn Nguyệt không dằn lòng được, buột miệng hỏi:

– Các vị là những ai? Tại sao lại ở chốn này?

Nam nhân đó đáp:

– Ngươi hãy thêm lửa cho ta đi, ta lấy lại khí lực, rồi mới cáo tố với ngươi được. Úy da! Ta không chi trì nổi nữa rồi. Ngươi hãy làm một cái gì, giúp ta ngươi sẽ được phước lớn!

Niềm thống khổ càng phút càng hiện đẫm trên gương mặt của y, thinh âm càng phút càng thê thảm. Nhìn y, không ai chịu đựng nổi cảm xúc vầy vò.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Lấy cái gì mà thêm vào?

Người đó chừng như không còn nói năng gì được nữa. Cánh tay tả của y đã bị đứt mất rồi, đôi chân thì chỉ còn thừa lại một đoạn xương đùi, hiện tại còn cánh tay hữu.

Y nhếch cánh tay hữu lên, hết sức yếu đuối, biểu hiện cái ý cho Quan Sơn Nguyệt biết là chỉ còn cánh tay đó thôi, có thể dùng làm nhiên liệu gầy lại ngọn lửa hồng.

Làm sao Quan Sơn Nguyệt nỡ chặt cánh tay đó, quẳng vào bồn lửa?

Trong khi chàng do dự thì người đó nhắm mắt lại, thân hình rung rung, vẻ thống khổ biểu lộ rõ rệt.

Người ở trên giường bên cạnh y kêu lên:

– Ngươi cứ chặt cánh tay hữu của y, quăng gấp vào bồn, nếu lửa bên dưới tắt đi, thì không làm sao gầy lại được, và y sẽ vĩnh viễn chịu thống khổ ...

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Các ngươi chịu hình phạt như thế này, thì thà chết đi còn sướng hơn ...

Người đối thoại thở dài, đáp:

– Nếu mà ngươi có cách làm cho bọn ta chết được, thì đó là ngươi làm một công đức. Khi nào bọn ta cam chịu cái hình phạt này? Chỉ vì bọn ta muốn chết mà không làm sao chết được đó thôi. Ngươi nên thêm lửa cho y gấp đi!

Quan Sơn Nguyệt rút thanh trường kiếm, nhắm ngay khoảng tim của người đang oằn oại đâm thẳng vào.

Thanh kiếm lút sâu vào ngực người đó, y rú lên một tiếng. Nhưng, nhát kiếm không kết liễu tánh mạng của y.

Quan Sơn Nguyệt rút thanh kiếm ra khỏi ngực y, máu theo kiếm vọt ra, máu vọt khỏi vết thương liền đông đặc lại.

Người bên cạnh kêu lên.

– Ngươi không giết chết bọn ta được đâu! Ngươi xem nơi chiếc giường gần đấy, có một người, chỉ còn có cái đầu thôi, mà cũng chẳng chết đước thay, hà huống y còn nhiều bộ phận hơn? Phương pháp duy nhất làm cho bọn ta dịu cơn đau khổ là giữ cho ngọn lửa mãi mãi cháy mạnh, lửa còn thì cơn lạnh bớt xâm nhập vào mình, bớt hành hạ ...

Quan Sơn Nguyệt nhìn về phía đó, quả nhiên thấy một chiếc đầu người, đầu của một nữ nhân, bên dưới cổ, còn một phần ngực. Một con người trong tình trạng đó, vẫn sống được, thật là lạ.

Chàng không biết làm sao hơn, đành chặt cánh tay hữu của người đã van kêu chàng, quẳng cánh tay đó vào bồn lửa bên dưới giường, ngọn lửa lập tức bốc cao, người đó hết rên ngay.

Y mở mắt ra, buột miệng thở phào, thở luôn mấy cái, xem chừng khoan khoái lắm.

Việc đó gây phấn khởi cho toàn thể nạn nhân trong gian nhà, và ai ai cũng kêu gọi chàng.

Đến nữ nhân còn độc một chiếc đầu đó, cũng van cầu chàng thêm lửa.

Chàng nhận thấy, ai ai cũng chỉ cần có lửa thôi, chẳng ai nhờ chàng cứu thoát khỏi gian nhà đó.

Chàng lần lượt cắt từng bộ phận của từng người một, quăng bộ phận đó vào bồn lửa bên dưới giường. Làm công việc đó, mắt thấy máu hồng tuông đổ, mũi ngửi da thịt xuông chảy khét lẹt, chàng như quên mình ở trong cảnh huống nào.

Riêng về nữ nhân chỉ còn một chiếc đầu đó, thì chàng cảm thấy khó khăn vô cùng. Cắt phần da thịt nào để quăng vào lửa đây? Cái đầu, thì không thể cắt rồi. Còn cổ? Cũng không luôn! Nửa phần ngực gần đôi vú? Cũng không thể nốt.

Chàng hỏi:

– Tại hạ làm sao giúp cô nương đây?

Chàng muốn hỏi, phải cắt phần nào trong cái phần còn lại gồm đầu, cổ và vú.

Nữ nhân đáp:

– Ngươi cứ tùy tiện! Cắt chỗ nào cũng được!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút, đoạn vung kiếm chém vào đầu nàng.

Kiếm chạm đầu, vang lên một tiếng khô khan, như chạm vào một vật bằng kim khí cực kỳ cứng rắn. Nếu là kim khí thực sự, thì không một kim khí nào chịu nổi với thanh Hoàng Diệp Kiếm của chàng. Nhưng, chiếc đầu của nữ nhân không hề hấn gì cả!

Nữ nhân kêu lên:

– Ngươi đừng làm một việc vô ích. Chẳng một biện pháp nào làm cho ta dứt trừ vĩnh viễn niềm đau khổ, kể cả sự kết liễu sanh mạng ta. Ngươi cứ giúp ta, gây lửa cháy cao ngọn là được. Còn lại nơi ta bộ phận nào, ngươi cứ cắt mà quăng vào bồn.

Rồi nàng giục:

– Động thủ gấp đi!

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Giả như cái phần cuối cùng của cô nương được cho vào bồn lửa, thì cô nương sẽ ra sao?

Nữ nhân đáp với giọng bi thảm:

– Nếu chỉ còn lại có mỗi một chiếc đầu trụi, thì ta vĩnh viễn chịu đau khổ, chứ còn ra sao nữa. Song ta chẳng quản chi hết, ta chỉ biết là đỡ khổ vì lạnh lúc nào, hay lúc ấy thôi. Được như vậy, là ta mãn nguyện lắm rồi.

Quan Sơn Nguyệt lại suy tư mấy phút:

– Tay chân của người khác, quẳng vào bồn lửa bên dưới giường của cô nương, có được chăng?

Nữ nhân lại kêu gấp:

– Không được! Không được! Da thịt xương của người nào, chỉ sưởi cho người đó. Vả lại, các bộ phận nơi mình của mỗi người đâu phải là nhiều, dùng cho chính mình còn không đủ, có dư đâu mà đem cho người khác? Không được!

Ngươi đừng làm một việc vô ích.

Người trong gian nhà kêu rú lên hãi hùng, họ sợ Quan Sơn Nguyệt chặt tay chân thân thể của họ, đem dùng cho người khác, làm như thế là họ phải thiếu lửa.

Thiếu lửa, họ chịu làm sao thấu với cái lạnh này?

Quan Sơn Nguyệt cắn môi. Dù nữ nhân đã bảo như vậy, song ý chàng đã quyết, trở ngược thanh kiếm, tự chặt cánh tay chàng.

Chàng nghĩ, có tay chân quẳng vào bồn là có lửa, mà lửa thì vẫn nóng lửa làm cho nạn nhân bớt lạnh, chứ đâu có thứ lửa chọn lựa, của ai nấy dùng.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 73

Nghĩa Khí Con Người

Chàng cảm thấy lạnh qua cái chạm của thanh kiếm với làn da, sau đó cánh tay tả của chàng rơi xuống. Điều làm cho chàng kinh dị hơn hết là chàng không nghe đau đớn chút nào.

Rồi chàng cúi mình xuống nhặt cánh tay rơi quăng vào bồn lửa dứa chiếc giường của nữ nhân.

Lửa bốc cháy cao ngọn, nữ nhân lộ vẻ khoan khoái vô cùng.

Hiện tại thì mường tượng chàng không thiết tha đến sự việc gì khác cả, ngoài cái việc gây niềm khoan khoái cho ngoại nhân và việc chàng vừa làm đó là trọng yếu, có lẽ chàng còn làm nữa, làm mãi cho đến khi nào không thể làm được.

Gian nhà lạnh trở nên tịch tịnh phi thường, một thứ tịch tịnh cô đọng vì lạnh.

Chàng nhìn qua đầu vai. Hiện tượng trước mắt làm chàng sững sờ. Hiện tượng đó là nơi chỗ bị chặt chẳng có máu! Không một điểm máu nào rỉ ra! Như chàng chặt vào một cành cây khô, cành gãy không một giọt mủ cây rịn chảy.

Nữ nhân như hiểu được sự nghĩ ngợi của chàng nên vội giải thích:

– Máu không chảy đâu. Bởi vì máu trong người vốn nóng, vào đây rồi khí lạnh làm ngưng đọng, máu chẳng chảy được.

Như hiểu, như không hiểu, Quan Sơn Nguyệt miễn cưỡng gật đầu. Nhưng liền sau đó chàng hỏi:

– Không hẳn là vậy. Bằng cớ là vừa rồi tại hạ chặt cánh tay của người kia, máu vẫn chảy kia mà?

Nữ nhân cười thảm:

– Giữa bọn ta và ngươi có chỗ bất đồng. Máu của bọn ta là thứ máu lạnh, đã lạnh thì không đọng lại cho nên phải chảy ra.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Làm gì có việc như vậy?

Nữ nhân thở dài:

– Việc chỉ không thể có ở bên ngoài, tại đây vẫn có như thường.

Quan Sơn Nguyệt chợt tỉnh ngộ thầm nghĩ:

“Nàng nói có lý. Chính ta thấy tận mắt có những người tàn phế đến độ khó sống mà họ vẫn sống được như thường. Và bằng chứng hùng hồn nhất là kẻ kia chỉ còn có một cái đầu mà vẫn sống!”.

Chàng hỏi:

– Các ngươi làm sao lại lọt vào nơi này?

Nữ nhân nhếch nụ cười khổ đáp:

– Bọn ta là những kẻ tối độc ác trên thế gian nên bị đưa vào đây để phải chịu dày vò, hành hạ, phải trải qua mọi khổ đau. Riêng về ta thì trong dĩ vãng ta đã làm rất nhiều tội ác, ta là kẻ độc hại nhất trong số người tại đây.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Tại hạ xem cô nương chẳng có vẻ gì là ác độc cả.

Chàng trở về cái giọng lễ độ như thường nhật.

Nữ nhân thở ra:

– Cái thiện ác của con người phát sanh từ nơi tâm tánh chứ nào phải biểu lộ nơi dung mạo, hình dáng? Nhìn vào dung mạo, hình dáng mà ức đoán phẩm cách con người thì không làm sao đúng được.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Thế cô nương đã làm những việc gì?

Nữ nhân trầm lặng rất lâu, sau cùng thở dài mấy lượt rồi từ từ thốt:

– Không thể nào nhớ hết, cũng như chẳng làm sao nhớ rõ ràng. Đại khái thì ... bất cứ điều ác nào mà con người làm được là ta có làm cả. Ta đã làm hết, chẳng sót một điều nào.

Quan Sơn Nguyệt đang nghĩ ngợi mông lung, những người kia lại kêu lên thê thảm, những tiếng kêu than đó đưa chàng trở lại thực cảnh quá đau thương.

Tất cả đều kêu lên những tiếng vang cầu như nhau:

– Lửa! Hãy thêm lửa cho ta! Thêm mau đi.

Tiếng kêu than của họ kích thích chàng mãnh liệt, chàng bước đến gần một nam nhân chỉ còn thừa lại nửa thân trên với đôi cánh tay.

Chàng đưa cao thanh kiếm định chặt một cánh tay của người đó.

Ngờ đâu người đó lại buông giọng trách:

– Ngươi không công bình! Ngươi đã chặt cánh tay của ngươi gầy lửa cho nàng ấy, đến lượt ta ...

Nữ nhân chận lời:

– Trên mình ta đâu còn phần da thịt nào dùng được nữa. Còn ngươi thì các bộ phận thừa thãi quá mà. Tại sao không dùng tới bộ phận của ngươi, lại đòi hỏi người ta chia chác những cái của người ta? Đã đến nông nỗi này rồi mà ngươi chưa chịu từ bỏ tánh tham à?

Nam nhân cười lạnh:

– Tội ác của ngươi nhiều quá, ngươi làm ác nhiều hơn ta thì ngươi phải chịu hành hạ nhiều hơn ta chứ. Còn như nói về tánh tham thì con người ai lại không tham? Bất quá tham nhiều, tham ít, tham kín đáo, tham lộ liễu.

Nữ nhân hướng qua Quan Sơn Nguyệt:

– Đừng quan tâm đến hắn. Ngươi đừng hy sinh cho kẻ chẳng bao giờ biết ăn năn tự hối.

Nam nhân kêu lên:

– Bây giờ mà nói đến việc tự hối ăn năn thì quá muộn rồi. Dù có hồi đầu hướng thiện, ta cũng vẫn chịu thống khổ như thường. Hiện tại ta không cần gì hơn là lửa, thứ lửa tối cao cho sanh mạng của ta, lửa ở dưới giường.

Quan Sơn Nguyệt trầm tư một chút rồi cử kiếm định cắt một phần da thịt trên mình chàng tặng nam nhân đó, cho hắn không phân bì nữa, nhưng nữ nhân lại gọi:

– Đừng hy sinh vô lý. Ngươi toan hủy diệt bản thân sao?

Quan Sơn Nguyệt đáp gọn:

– Phải cho vị nhân huynh đó một mảnh da thịt.

Nữ nhân lắc đầu:

– Hắn là kẻ bại hoại, ngươi không nên hy sinh cho những kẻ bại hoại!

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ.

Chứ nàng không là kẻ bại hoại sao? Chính nàng đã tự thú có làm rất nhiều tội ác kia mà, nhiều hơn tất cả những người hiện diện tại đây kia mà. Thì tại sao nàng đòi hỏi người ta hy sinh cho nàng, còn đối với kẻ khác thì nàng lại ngăn cản?

Chàng đáp:

– Tại hạ bất chấp các vị là người tốt hay người xấu. Tại hạ chỉ nhìn vào hiện cảnh của tất cả, thương hại cho tất cả nên muốn giúp các vị được phần nào hay phần ấy vậy thôi. Vì thương hại mà làm thì không thể cân phân việc làm cũng như xét đoán con người mà mình muốn giúp. Tại hạ không tiếc chi cả, miễn sao giúp ích được cho các vị thì thôi.

Thốt xong, chàng cắt chân tả quăng vào chiếc lò dưới giường của nam nhân đó.

Tất cả những người còn lại trong gian nhà đều cất tiếng kêu van:

– Tốt quá! Tốt quá! Còn bọn ta đây! Hãy làm cái gì giúp bọn ta đi!

Còn lại một chân, Quan Sơn Nguyệt nhảy cò cò đến cạnh một lão nhân.

Lão nhân là người còn nhiều bộ phận hơn tất cả những kẻ khác, hai tay hai chân còn đủ, chỉ có phần ngực là bị khoét một lỗ lớn.

Quan Sơn Nguyệt định cắt một mảnh thịt tặng lão, nhưng lão vội gạt đi, thốt:

– Ta không cần ngươi tiếp trợ.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:

– Tại sao?

Lão nhân đáp:

– Thịt xương của ngươi không giúp cho ta được đâu. Ngọn lửa sanh mạng của ta không phải cấu tạo bằng thứ nhiên liệu huyết nhục. Muốn giúp ta, ngươi chỉ có mỗi một phương pháp mà thôi, đặc biệt hơn phương pháp giúp người khác.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Phương pháp gì?

Lão nhân nhắm đôi mắt lại:

– Thôi, ta không nói làm chi. Ta có nói ra vị tất ngươi chấp nhận.

Quan Sơn Nguyệt nóng nảy:

– Thì lão trượng cứ nói đi mà! Nếu là việc trong sức của tại hạ, tại hạ nhất định đáp ứng lão trượng ngay.

Lão nhân suy nghĩ một chút:

– Cái phần khiếm khuyết nơi ta là một quả tim. Nếu ngươi móc lấy tim của ngươi trao cho ta thì ta có thể ly khai cái địa phương quỷ quái này, không còn chịu khổ vì khí lạnh cóng người.

Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ khẳng khái:

– Điều đó có gì là khó khăn đâu lão trượng!

Lão nhân cười lạnh tiếp:

– Ngươi không nên đáp ứng hấp tấp như vậy. Ngươi biết không, hiện tại ngươi chưa thấm thía cái lạnh giết người của nơi này là vì ngươi còn có con tim trong lồng ngực. Giả như ngươi móc lấy nó trao cho ta thì ngươi làm cái việc thay thế ta, ở vào vị của ta, và lập tức ngươi phải thống khổ như ta đang thống khổ, như mọi người chung quanh đây thống khổ.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ một chút.

Một người bên cạnh cất tiếng:

– Ngươi không thể móc tim tặng lão được. Nếu ngươi làm như vậy thì phải chịu thống khổ hơn tất cả mọi người tại đây.

Lão nhân lạnh lùng thốt:

– Phải! Ta đã già rồi, cho dù có thống khổ cũng chẳng cần phải chịu bao nhiêu năm nữa. Còn ngươi, ngươi đang thời thanh thiếu, tương lai của ngươi còn dài, ngươi còn nhiều mộng đẹp đang chờ đợi, ngươi không nên hy sinh cho ta là phải.

Quan Sơn Nguyệt trầm tư mấy phút nữa.

Lão nhân tiếp:

– Ta ra khỏi nơi này rồi bất quá ta hưởng dụng một vài năm an nhàn dật lạc nữa thôi, một vài năm ngắn ngủi rồi ta cũng sẽ chết thôi. Chứ còn ngươi mà nằm tại đây ở cái vị trí của ta, thì chẳng biết là đến thời gian nào ngươi mới được giải thoát.

Đột nhiên Quan Sơn Nguyệt hoành ngọn kiếm rọc nơi ngực mình, đoạn quăng trường kiếm, dùng tay mà móc lấy con tim ra trao cho lão nhân. Chàng thốt:

– Lão trượng cầm đi.

Lão nhân do dự:

– Ngươi thật tâm tặng ta?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:

– Đúng vậy.

Lão nhân tiếp:

– Ngươi tặng ta như vậy, chẳng biết đến ngày nào mới có người thứ hai tặng ngươi con tim để thay đổi vị trí cho ngươi ly khai nơi này. Ngươi có hối hận chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tại hạ không hề hối hận. Vả lại, tại hạ cũng không chờ đợi kẻ thứ hai đến đây thay đổi vị trí cho tại hạ. Vậy lão trượng tiếp nhận quả tim này đi, rồi cắt hết những bộ phận còn lại trên người tại hạ phân phát cho các vị kia.

Lão nhân trầm giọng:

– Thế là ngươi chết còn gì?

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Các vị cầu mong được chết mà không chết được, nếu tại hạ chết được thì có phải là hạnh phúc hơn tất cả các vị tại đây sao? Lão trượng cứ tự lo cho mình, cầm lấy quả tim này, và làm hộ cho tại hạ phần việc vừa nhờ đó, rồi ly khai nơi này đi.

Lão nhân trầm ngâm lâu lắm, sau cùng hỏi:

– Ngươi còn việc chi trên đời này chưa làm xong? Ngươi có cần nhờ ta làm nốt cho hoàn thành chăng?

Quan Sơn Nguyệt suy tư một chút:

– Việc chưa hoàn thành còn rất nhiều, song chẳng có việc nào ngoại nhân làm được. Không một ai thay thế tại hạ thi hành những việc đó lão trượng ạ.

Lão nhân mỉm cười:

– Nếu thế thì nhẹ nhàng cho ta quá.

Thốt xong, lão chụp quả tim nơi tay chàng nhét vào ngực lão.

Quả tim vừa rời khỏi tay, Quan Sơn Nguyệt cảm thấy cơn lạnh đột nhiên xâm chiếm toàn thân, một cái lạnh hãi hùng bình sanh chàng chưa hề cảm giác.

Lạnh không do từ ngoài vào mà mường tượng phát sanh từ xương cốt, chàng không còn đứng vững được nữa, ngã ngay xuống chiếc giường băng giá của lão nhân. Thống khổ đã đến với chàng, một thứ thống khổ không có danh từ mô tả. Chàng chỉ mong chết để được tự giải thoát.

Lão nhân nhích bước toan ly khai gian nhà, Quan Sơn Nguyệt vội gọi:

– Lão trượng ơi! Lão trượng quên giết chết tại hạ rồi.

Lão nhân cười lạnh:

– Trong ngục Hàn Băng này, không một ai do cái chết mà tự giải thoát được.

Ngươi phải thọ nhận thống khổ vô cùng cho đến khi nào ngọn lửa sanh mạng bên dưới giường tự động tắt thì thôi.

Quan Sơn Nguyệt giật mình hỏi:

– Lửa sanh mạng đến lúc nào mới tắt?

Lão nhân mỉm cười:

– Khó nói lắm. Cho đến khi nào ngươi hoàn toàn mất hết hy vọng về sanh mạng của ngươi thì ngọn lửa đó mới tắt. Niềm hy vọng đó, ngươi còn nhiều hay ít?

Quan Sơn Nguyệt bối rối:

– Tại hạ không hiểu được ...

Lão nhân chận lại:

– Thế thì khó thật. Trong niềm thống khổ, ngươi cố gắng giữ bình tĩnh suy tư cho đến lúc nào ngươi cảm thấy những hy vọng biến thành tuyệt vọng thì ngọn lửa sanh mạng tự động tắt liền.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Thế các vị kia đều còn hy vọng?

Lão nhân lắc đầu:

– Không. Đối với sanh mạng, họ chẳng còn một điểm hy vọng nào cả. Nếu còn hy vọng thì đó là hy vọng được chết gấp, có chết gấp mới được giải thoát mọi sự khốn khổ.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Thế thì ngu quá! Muốn chết không xong, phải thọ nhận mọi sự thống khổ!

Cứ chịu thống khổ rồi chết, bởi tất cả mọi sự thống khổ cuối cùng rồi cũng đưa đến chỗ chết. Tại sao họ cố nuôi dưỡng sự thống khổ bằng cách gầy ngọn lửa sanh mạng cho tồn tại mãi mãi?

Lão nhân mỉm cười:

– Ta hy vọng ngươi không ngu như họ và tìm được cách giải thoát.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Còn cách giải thoát nào khác hơn là cách hủy diệt thân thể mình? Tại hạ hiểu rồi lão trượng ạ! Vậy lão trượng hãy chặt tay, chặt chân của tại hạ hết đi, phân cấp cho các vị tại đây mỗi người một chút ít.

Chưa làm theo lời chàng, lão nhân chỉ nhặt thanh trường kiếm cắt một chút thịt của chàng quang vào lò bên dưới giường.

Chàng cảm thấy niềm thống khổ giảm đi một chút. Bây giờ chàng mới biết tại sao các người tại đây dám chặt tay, chặt chân, lóc thịt quăng vào lò lửa. Thì ra tự hủy diệt như vậy để có ngọn lửa cháy đều, bản thân không đau đớn vì sự cắt chặt đó, trái lại còn khoan khoái nhiều.

Lão nhân mỉm cười hỏi:

– Ngươi có muốn thêm lửa chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tại hạ không muốn thêm lửa. Nhưng lão trượng cứ cắt thịt của tại hạ thêm lửa cho các người kia đi.

Lão nhân thốt:

– Cái ngọn lửa của ngươi đó, chỉ duy trì được mấy phút thôi nó sẽ tàn và ngươi sẽ thấy đau đớn cực độ, không bút mực nào tả nổi niềm đau đớn đó. Vậy tốt hơn, ngươi hãy dành cơ thể của ngươi lại để tự dụng.

Quan Sơn Nguyệt tỏ vẻ kiên quyết:

– Không đâu! Tại hạ không cần! Trong đời tại hạ chỉ có mỗi một hy vọng là làm sao giúp đỡ được đồng loại, không đem hạnh phúc lại cho người được thì ít nhất cũng làm giảm thiểu niềm đau khổ của người. Tại hạ mong lão trượng thành toàn ý nguyện của tại hạ.

Lão nhân lắc đầu:

– Người như ngươi thật hiếm thấy trên đời. Hiện tại ngươi chỉ còn có mỗi một xác thân, đem cái xác thân đó phân chia ra cho mọi người thì ngươi còn cái gì đâu? Trong lúc đó ngươi lại chưa chết, hơn nữa, nếu chưa chết thì niềm hy vọng giúp đỡ đồng loại vẫn còn. Ngươi mới làm sao giúp đỡ đồng loại? Đã không giúp được ai, chính ngươi cũng không tự giải thoát được, thì dù muốn dù không ngươi cũng trở thành một kẻ vô dụng.

Quan Sơn Nguyệt càng kiên quyết hơn:

– Lão trượng nói đó là tương lai, còn ý tại hạ muốn là muốn nói cho hiện tại.

Tương lai ra sao tại hạ chẳng cần biết đến, chỉ hiểu là trước mắt đây nếu có thể làm cho đồng loại bớt khổ đau thì tại hạ sẵn sàng làm liền. Vậy lão trượng cứ cắt chân tay tại hạ phân phối cho mỗi người một ít đi.

Lão nhân thở dài:

– Ngươi muốn thế, ta bắt buộc phải làm cho ngươi vui lòng.

Lão vung kiếm lên chặt chân tay của chàng chia ra từng khúc, dĩ nhiên chàng phải đau, song ý đã quyết rồi, dù đau chết đi nữa chàng vẫn muốn làm.

Chàng cắn răng, nhận thọ niềm đau hành hạ. Khi lưỡi kiếm áp vào gò má chàng, chàng có cảm giác là thân thể không còn thuộc về chàng nữa.

Lão nhân dừng tay hỏi:

– Ngươi có muốn ta chừa lại cho ngươi chút đỉnh nào chăng? Ngọn lửa dưới giường ngươi sắp tàn diệt rồi đó.

Quan Sơn Nguyệt không còn một điểm khí lực nào để giúp chàng lắc đầu.

Chàng chỉ còn có cách là chớp chớp mắt để tỏ thái độ cự tuyệt.

Lão nhân thở dài, mang tất cả các phần xương thịt vừa chặt ra đó đem quăng vào lò lửa dưới giường của mọi người, mỗi lò một ít.

Quan Sơn Nguyệt không thấy bao nhiêu người quanh chàng khoan khoái ra làm sao, chỉ nghe từ các nơi vọng về tai chàng những tiếng cảm tạ. Đồng thời tiếng kêu la rên xiết cũng lắng dịu lại.

Đó là niềm an ủi duy nhất cho chàng, chàng có cần chi hơn?

Cơn thống khổ hành hạ chàng cực độ, nhưng dù có đau hơn nữa chàng vẫn vui bởi vì cái đau đó là sự thể hiện lòng bác ái của chàng mà! Chàng cắn răng, nhắm mắt cố chịu đau.

Bỗng chàng cảm thấy có ai đó nâng bổng chiếc đầu của chàng lên và mọi niềm thống khổ đột nhiên tan biến. Chàng mở vội đôi mắt ra, bất giác giật mình, nhận thấy đang ở bên ngoài chứ không còn trên chiếc giường ở trong gian nhà nữa. Điều làm cho chàng kinh dị hơn hết là thân mình của chàng còn trọn vẹn.

Chàng tự hỏi:

“Hình hài của ta, ta đã phân chia cho những người kia hết rồi, sao lại còn nguyên như thế này?”.

Chàng không tin có sự kiện như vậy dù là sự thật rõ ràng, sự thật của chính chàng.

Quái dị hơn nữa là thanh Hoàng Diệp Kiếm đang ở trong tay chàng!

Chàng quay đầu nhìn lại, thấy gian nhà còn đó như trước, những người tàn phế cũng còn đó trên những chiếc giường bằng băng giá như trước. Chỉ có mỗi một việc đổi khác là chiếc giường của chàng thì trống không.

Lão nhân mà chàng khẳng khái cứu đang đứng cạnh chàng, miệng điểm một nụ cười. Cạnh chân người đó có một người đang nằm, người nằm chính là vị tướng số Ngô Khẩu Thiên.

Chàng hoang mang cực độ hỏi:

– Cái gì như thế này? Cái gì?

Nụ cười của lão nhân lồng vẻ trang nghiêm tôn kính, niềm tôn kính đó dĩ nhiên dành cho Quan Sơn Nguyệt, dù tuổi chàng so với lão còn thấp kém rất nhiều. Lão vòng tay thốt:

– Mừng cho Quan đại hiệp đã thông qua cảnh giới thứ nhất trong Hắc Ngục Vong Hồn. Lão phu là Tần Tử Minh, nhiệm chức chấp sự tại ngục tối này, kính thỉnh đại hiệp sang qua cảnh giới thứ hai.

Quan Sơn Nguyệt lại càng hoang mang hơn:

– Tại hạ ... tại hạ đã vượt qua cảnh giới thứ nhất rồi sao?

Tần Tử Minh gật đầu:

– Phải. Có nhiều dũng sĩ thông qua cảnh giới thứ nhất, nhưng họ dùng nhiều phương thức, toàn là những phương thức thông thường, chỉ có cách của Quan đại hiệp là khác biệt, và tại giới cảnh này chỉ có mỗi một Quan đại hiệp là dùng một phương thức khác biệt đó thôi. Lão phu hết sức kính phục.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Những người khác làm cách nào để thông qua mà lão trượng cho là thông thường? Thế họ không chặt tay, chặt chân, cắt từng bộ phận như tại hạ à?

Tần Tử Minh giải thích:

– Có gì đâu, chẳng hạn họ nương theo tánh bạo tàn xem sự đau khổ của đồng loại như một trò giải trí, họ thản nhiên bước đi ngang qua những cảnh tượng đau thương, tai thì lờ đi trong khi quanh mình tiếng kêu than rên xiết vang lên thê thảm. Họ là những bạo nhân nhưng cứ tưởng mình là dũng sĩ, ở đây không ai buồn tranh luận làm gì nên cứ gọi luôn như thế cho tiện ...

Dừng một chút lão tiếp:

– Là bạo nhân, họ không có lòng nhân như Quan đại hiệp, họ chuyên dùng bạo, còn đại hiệp thì chuyên dùng nhân, họ không thể được xếp chung hạng với đại hiệp. Trong khi họ bị chủ nhân liệt vào hàng nô bộc thì Quan đại hiệp lại tỏ ra là con người đáng tôn kính ...

Trầm ngâm một chút, lão tiếp luôn:

– Từ trước đến nay, chỉ có một người có chút lòng nhân, người đó là Trầm tiên sinh. Tuy nhiên, sánh với Quan đại hiệp thì Trầm tiên sinh còn kém, kém rất xa.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Có phải Trầm Quân Lượng chăng?

Tần Tử Minh gật đầu:

– Phải đó. Trầm tiên sinh chỉ tiếp giúp người khác cắt tay, cắt chân gầy lửa sanh mạng thôi, chứ không hề tự chặt tay, chặt chân lão mà duy trì lửa cho người khác như Quan đại hiệp đã dám làm. Cho nên lúc gặp nữ nhân đó, lão ta đi luôn không hề quan tâm đến nàng.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Những hiện tượng trong gian nhà băng giá này đều là thật cả, hay giả tạo?

Tần Tử Minh mỉm cười hỏi lại:

– Đại hiệp nhận thấy như thế nào? Giả hay thật?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Thật khó mà nói cho đúng. Nếu tại hạ cho rằng thật thì làm gì có sự thật như vậy?

Tần Tử Minh nghiêm sắc mặt tiếp:

– Chủ nhân bổn trang có tài học thông thiên triệt địa, chẳng có việc gì mà người không làm nổi. Hai tiếng không thể, cầm như mất nghĩa đối với người.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Vậy những hiện tượng này toàn là sự thật?

Tần Tử Minh đáp lững lờ:

– Có thể là thật, có thể là giả. Có cái thật, có cái giả.

Quan Sơn Nguyệt hết sức hoang mang sự tình quả là hồ đồ cùng cực.

Tần Tử Minh cười tiếp:

– Trong gian nhà lạnh, nhất thiết đều là thật, chỉ có những điều ứng hiện trên thân thể của đại hiệp là do ảo cảnh sanh ra thôi. Cho nên đại hiệp «xả thân» cứu người mà tự mình chẳng hề bị tổn hại.

Quan Sơn Nguyệt muốn hỏi thêm, Tần Tử Minh khoát tay chận:

– Những điều có thể nói, lão phu đã nói hết rồi. Nếu đại hiệp còn nghi vấn gì khác, xin kiên nhẫn đợi đến lúc gặp chủ nhân sẽ hỏi. Bây giờ xin mời đại hiệp tiến vào cảnh giới thứ hai.

Quan Sơn Nguyệt đưa tay chỉ Ngô Khẩu Thiên thốt:

– Người này ...

Tần Tử Minh vội thốt:

– Lão ta bị chủ nhân dùng một thủ pháp phong bế huyệt đạo, đại hiệp đã qua được cảnh giới thứ nhất rồi thì lão đương nhiên được cứu, lão phu sẽ đưa lão đến chủ nhân, nhờ chủ nhân giải huyệt.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Theo sự nhận xét của tại hạ thì cảnh giới thứ nhất của Hắc Ngục Vong Hồn có hai phương diện. Phương diện bên ngoài là trắc nghiệm dũng khí của đương sự. Còn phương diện bên trong như thế nào? Lão tiên sinh có thể giải thích cho tại hạ hiểu được chăng?

Tần Tử Minh mỉm cười:

– Chủ nhân có cái lập luận về dũng khí không giống như phần đông khách giang hồ. Do đó, lão phu không thể nào giải thích dụng ý của chủ nhân cho rõ ràng được. Vậy đại hiệp cứ tiến tới rồi cũng có dịp thắc mắc của đại hiệp sẽ được cởi mở hoàn toàn. Dịp đó sẽ đến với đại hiệp khi nào cả ba cảnh giới đều được đại hiệp thông qua, cuộc hội kiến giữa đại hiệp và chủ nhân sẽ khai diễn, đại hiệp trực tiếp nêu vấn đề với chủ nhân.

Nhiều nghi vấn nổi lên trong tâm tư Quan Sơn Nguyệt, nghi vấn trước chưa giải tỏa thì nghi vấn sau lại hiện, dồn chồng chất lên nhau gây hoang mang cực độ cho chàng. Nhưng hỏi thì đối tượng không chịu giải thích, chàng còn làm sao hơn. Chỉ còn có cách là gặp mặt chủ nhân thôi.

Chàng nóng nảy cần gặp mặt chủ nhân gấp. Muốn gặp gấp tất phải cố gắng vượt nốt hai cảnh giới còn lại, càng nhanh chóng càng đỡ nôn nao hơn.

Nghĩ thế, chàng vòng tay thốt:

– Về phần Ngô tiên sinh, tại hạ xin nhờ lão tiên sinh lo liệu hộ. Bây giờ xin lão tiên sinh chỉ cho tại hạ biết cảnh giới thứ hai của ngục tối Vong Hồn ở tại địa phương nào.

Tần Tử Minh trước hết đáp lễ, sau đó mới đáp:

– Cảnh giới thứ hai ở trước mặt kia, đại hiệp tiến tới theo đường hành lang này, lão phu khỏi phải hướng dẫn. Về phần Ngô Khẩu Thiên thì đại hiệp cứ yên trí, đã có lão phu liệu lý.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu bước đi ngay.

Hành lang quanh co, chàng qua khỏi mấy khúc quanh đến một tòa nhà lầu.

Cũng có bảng trước cửa, cũng có chữ «Đệ Nhị Giới Vong Hồn». Có điều đôi liễn nơi đây thì không đồng nghĩa với đôi liễn ở cảnh thứ nhất. Đại khái khuyên con người thoát tục tìm nhàn, bao nhiêu việc trên đời dù thành dù bại chung quy rồi thế nhân cũng chẳng nắm giữ được gì để về trong lòng đất lạnh.

Vọng cửa không có chiếc vòng cơ quan đóng mở như ở cửa của cảnh giới thứ nhất. Quan Sơn Nguyệt chẳng biết phải làm cách nào để tiến vào trong.

Chàng dừng lại suy tư. Chàng bình tâm, tịnh ý, lắng tai nghe.

Có âm thanh rất nhỏ vọng ra, âm thanh phát xuất từ hai bên tả hữu, một bên là tiếng róc rách như nước chảy, một bên là tiếng lăng líu như chim hót.

Có nước là có khe suối, có chim là có cây cối. Như thế bên trong có núi rừng, khe suối?

Khe suối chứ chẳng phải sông, bởi nước xuôi dòng không phát sanh tiếng róc rách được, chỉ có nước suối chảy theo triền chạm đá mà phát ra âm thanh đó.

m thanh khác loại do hai bên phát xuất gieo một nghi vấn cho chàng. Một bên là sơn, một bên là thủy. Chàng phải đi bên nào. Chàng quyết định gấp bởi chàng muốn thông qua cảnh giới này gấp. Người xưa có lưu lại câu này:

«nhân giả lạc sơn, trí giả lạc thủy». Chàng không dám ví mình là bậc trí, bất quá chàng nhận thấy mình có chút lòng nhân, không còn do dự nữa chàng hướng về phía có tiếng chim kêu mà đi tới.

Sở dĩ chàng lọt vào bên trong là vì ở đây có vọng cửa nhưng cửa không có cánh đóng mở. Nhìn vào bên trong, chàng trông thấy một cảnh giới mông lung, man mác, không tối lắm nhưng chẳng sáng sủa chút nào.

Không có cửa để mở, không có cơ quan dùng đóng mở cũng như báo hiệu sự hiện diện của người ngoài, thì làm sao gọi được người bên trong tiến ra để chàng hỏi han? Cho nên chàng chỉ bằng vào sự suy đoán mà vào trong, cương quyết vào bởi bắt buộc phải vào.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 74

Một Lần Thử Lửa

Nghe tiếng chim tìm phương hướng, Quan Sơn Nguyệt từ từ dò từng bước, chàng tiến như vậy chẳng rỏ được bao lâu, mà cũng chẳng biết đi được bao nhiêu dài. Chàng tự hỏi, đi như thế này lúc nào mới thoát ra ngoài vùng hắc ám.

Rồi chàng cũng trông thấy một tòa núi. Chàng chẳng biết tại sao tòa núi hiện lộ trước mắt chàng, trong khi chàng chăm chú nhìn thì không phát giác ra sự chi cả, đến lúc vô tình nó hiện ra sừng sững.

Qua màn hắc ám, thoạt đầu, chàng thấy núi lờ mờ, bỗng chốc nó hiện lộ ra rất rõ ràng.

Một hòn núi đặc biệt, không giống như các hòn núi khác trên thế gian nầy!

Tiếng chim vang lên, song chẳng có chim.

Hương hoa phảng phất, song chẳng có hoa.

Thế thì chàng thấy gì? Điều chàng thấy, thật khó mà tin, song bắt buộc chàng phải tin, bởi nó sờ sờ trước mắt kia! Một quả núi cấu tạo bằng xương trắng!

Một tòa bạch cốt sơn!

Xương bất đồng hình thể, có thứ xương từ đoạn, tay chân, đầu lâu, có thứ xương nguyên hình người.

Núi không cao lắm, nhưng lại rộng. Chàng chỉ thấy một mặt thôi, còn mặt đối chiếu thì chẳng rõ trải lan ra đến bao nhiêu dặm dài nữa!

Chỉ thấy một hòn núi xương thôi, ai ai cũng phải rợn lạnh mình. Huống hồ, trên đỉnh núi, phiêu phưởng những âm hồn?

Phiêu phưởng, tự nhiên xê dịch, mà hồn xê dịch, trông như một cái chợ ma!

Quan Sơn Nguyệt chưa từng trông thấy quỷ mà chàng cũng không tin trên đời có quỷ. Không tin có quỷ, thì những hình ảnh kia là gì? Chàng dùng tiếng gì để gọi những hình ảnh có ngoài hai tiếng quỷ, ma?

Phải là ma, quỷ hay không, thì chẳng biết điều chắc chắn là chẳng phải con người sống!

Tiếng chim bây giờ cũng biến đổi, không còn êm tay nữa, chàng nghe như tiếng ma gào, quỷ khóc.

Hương hoa cũng biến thành mùi tanh thúi nực nồng.

Chàng có cảm tưởng mình lạc lõng vào một vùng cổ mộ, nơi đây người ta không chôn xác chết, mà chỉ chất thành đống, để mặc các xác rữa thịt, rả xương theo năm tháng trôi qua.

Quan sơn Nguyệt không sợ hãi đến hôn mê, song cái đũng khi giúp chàng tiến tới, hầu như tan biết mất rồi.

Khi ý tưởng quay mình trở lại chợt hiện trong tâm tư chàng, thì chàng thấy một mảnh gỗ, trên gỗ có hai hàng chữ:

«m dương giới vô hồi đấu lộ, Vạn Kiếp hỏa luyện bất tử thân.» Quan Sơn Nguyệt giật mình, nhìn đôi hàng chữ, suy nghĩ miên man, qua một lúc rất lâu, chàng vẫn chưa tìm được ý nghĩa chính xác. Bất quá, chàng nhận thức sơ khai là mình đang ở trong cảnh giới thứ hai của Hắc Ngục Vong Hồn vậy thôi.

Đến cảnh giới nầy, chàng còn trải qua một cuộc trắc nghiệm dũng khí, giả như chàng quá hãi hùng trước những hiện tượng quái đản, rồi bỏ cuộc trở ra, thì đành là có sự mất mặt, song sự mất mặt chẳng đáng kể, điều quan trọng là chàng không cứu được người.

Người chàng định cứu đây, là Thương Nhân, nếu chàng bỏ cuộc là Thương Nhân phải chết. Chàng chẳng có trách nhiệm gì về cái chết của Thương Nhân, nếu cái chết đó đến với y.

Song, biết rằng sự sống chết của một con người ở trong tay chàng, thế mà chàng dửng dưng được, bỏ rơi được con người lâm nạn, thì có khác gì chàng giết y? Và chàng còn đâu cái lòng nhân mà chàng từng tự hào?

Ý niệm quay trở lại tan biến ngay, chàng bất chấp việc gì sẽ xảy ra trong những bước đường sẽ tới, cứ đi, đi thẳng, mạnh dạn mà đi. Vả lại, biết đâu con đường trở lại chẳng nguy hiểm hơn đoạn đường đi tới? Bởi, chàng không đến đổi quá ngu mà chẳng hiểu là người ta bố trí cái dễ để dụ dẫn chàng đi vào, sau đó người ta sẽ giăng mắc cạm bẫy để ngăn lắp con đường ra. Và muốn thoát đi, lối thoát hiển nhiên ở trước mặt, chứ đường lùi thì nhất định là bị đoạn hậu rồi.

Hiểm tượng đầu tiên dọa khiếp chàng là những âm hồn đang phiêu phưởng trên đỉnh bạch cốt sơn kia.

Nhưng, chàng không tin là những âm hồn đó sẽ gây tổn hại chi cho chàng nổi.

Chàng thở một hơi dài không khí, đặt tay lên chuỗi trường kiếm đeo nơi hông, ngực ưởn ra, giẫm chân lên những lớp xương chất thành nấc thang, từ từ tiến lên.

Chàng thong thả bước đi, không lâu lắm, lên đến đỉnh, chen mình giữa đám u linh.

Những u linh chừng như kinh hoàng trước sự hiện diện của chàng, chúng nhốn nháo lăng xăng quanh mình chàng, mường tượng tìm đường ẩn tránh.

Đúng như vậy, Quan Sơn Nguyệt đi tới, chàng đi đến đâu thì âm hồn nơi đó tản mác ra, chúng xô đẩy dồn ép nhau mà tránh, có những âm hồn chậm chạp, yếu đối, không chịu đựng nổi, phải ngã nhào.

Tuy nhiên, dù chúng chạy nhảy xô đẩy, ép dồn nhau, hay ngã xuống, chung quy vẫn phiêu phưởng trên không gian. Chúng chẳng hề chạm đất.

Cũng có một vài u linh, bị «đồng loại» hất văng xa xa, rơi theo triền núi xương, những u linh đó bật kêu như người sống, thê thảm, hãi hùng, chúng chưa rơi đến đất là biến thành những vãng khói, gió nhẹ lướt qua, quét tan những vãng khói đó ngay.

Quan Sơn Nguyệt hết sức lấy làm lạ. Ma, quỷ là cái gì mà phần đông thiên hạ sợ hãi, cho dù cái thứ ma quỷ sợ ngược lại người đi nữa, thì ma quỷ đó lẻ loi, đơn độc, chứ khi chúng tụ họp thành đàn, thì âm hồn nầy sợ còn có âm hồn kia không sợ, chúng nương tựa nhau, chúng uy hiếp người sống như thường.

Sao lại có thứ âm hồn sợ người? Trong khi người lại đơn côi cô độc? Giả như sợ, thì bất quá chúng tản ra xa xa, chẳng dám gần chàng vậy thôi, cớ sao chúng mãi chạy tán loạn như thế? Chạy đến đổi giẫm bừa lên nhau, xô lấn nhau như giành cái sống? Rồi tại sao chúng kêu gào thê thảm, tỏ rõ sự khủng kiếp cực độ?

Những âm hồn tại đây gồm đủ những hạng tuổi, từ thiếu nhi đến lão nhược.

m hồn bị xô đẩy phải văng đi, là những âm hồn già nua, yếu đuối, hoặc những thiếu nhi không đủ sức chịu đựng trước những làn sóng tản mác của hạng tráng niên.

m hồn nào bị rơi xuống triền rối là phải tiêu tan, điều đó câm như một cảnh chết, có khác chăng là cái chết đó của những âm hồn, của những kẻ đã chết một lần rồi.

Muốn truy nguyên sự tình, Quan Sơn Nguyệt nhận thấy chàng cần tiếp cận đám u linh.

Như đã nói, chàng làm sao tiếp cận chúng được, bởi chàng đi đến đâu là chúng tản mác nhanh nơi đó. Cứ mỗi lần chúng tản mác như vậy là có mấy âm hồn tan biến. Chàng càng muốn tiếp cận chúng, càng gây nên «chết chóc» cho một vài âm hồn. Dù là cái chết của hồn ma, phách quỷ, Quan Sơn Nguyệt vẫn bất nhẫn như thường.

Tại tòa núi do xương trắng chất thành đống cấu tạo nên, có rất nhiều âm hồn chen chúc vào nhau, hầu như không còn một lỗ hở nào giữa nhau cả. Chỉ vì chàng xuất hiện nơi đó, mà một số âm hồn phải bị hủy diệt.

Đại khái thì cái kết luận của chàng như vậy trước hiện hình, và chàng nhận thấy là chẳng một âm hồn nào chịu để mình rơi xuống triền núi, mà cũng chẳng muốn tiếp cận với chàng.

Tuy âm hồn không còn sanh mạng nữa, nhưng chúng cũng không muốn bị hủy diệt, nên phải tranh nhau thành ra cường tráng thì còn vững vàng, mà suy nhược thì rơi xuống để rồi tan biến.

Dù là âm hồn, khi âm hồn biết sợ hủy diệt, và không tránh khỏi bị hủy diệt, thì cái cảnh đó tính cũng đáng thương hại lắm. Nhất là những âm hồn tan biến vì sự xuất hiện của chàng lại là những âm hồn suy yếu, vô thế, vô năng, những âm hồn cần được bảo vệ hơn tất cả.

Lòng nhân nào không nhắm vào những kẻ vô thế năng trước nhất? Bởi trong số những người đáng thương hại, thì kể yếu đuối đáng được kẻ chuyên tâm hành thiện lưu ý đến nhiều hơn người còn một vài phương tiện tự túc, tự vệ.

Quan Sơn Nguyệt không nỡ đi tới nữa, vừa dừng chân lại, chàng hỏi liền:

– Các âm hồn có thể nói năng chăng?

m hồn là những cái bóng, thì làm sao nghe được làm sao nói được? Vì khẩn cấp mà chàng mất sáng suốt, buông một câu hỏi ngây ngô.

Ngờ đâu, bên cạnh chàng, một âm thinh suy nhược vang lên:

– Được!

Quan Sơn Nguyệt giật mình.

Tuy nhiên, chàng chưa tin hẳn là âm hồn phát ngôn được. Chàng lập lại câu hỏi:

– Các ngươi nói tròn câu chuyện được chăng? Các ngươi có thể nghe tròn câu nói của ta chăng?

m thinh đó đáp:

– Tròn.

Quan Sơn Nguyệt gấp giọng:

– Các ngươi thực sự là cái gì?

Cái gì là sao? Có lẽ chàng muốn hỏi, thực sự các ngươi là ma, hay quỷ là người còn sống, nhưng chàng tóm lược bao nhiêu ý tứ vào một câu gọn, thành ra mơ hồ quá.

Thinh âm đó thở dài:

– Những u linh vạn kiếp bất thường! Vạn kiếp không hề bị thương tổn.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Có thật những u hồn mãi mãi tồn tại trên thế gian sao?

m thinh đó tiếp nối với tiềm thê lương:

– Sự thật trước mắt đó ngươi không mục kích sao mà còn hỏi?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:

– Do đâu, các ngươi tụ hội tại đây?

m thinh đó đáp:

– Xác chôn ở đâu, u hồn tụ ở đó, chôn xác là phần việc của người sống, chúng ta không thể chọn lựa cho mình một chỗ nào. Thì cái việc chúng ta đồng quy tụ tại đây, không thuộc chủ trương của chúng ta, như vậy câu hỏi của ngươi không giải đáp được. Chúng ta chỉ yêu cầu ngươi đừng theo đuổi mà làm hại chúng ta thôi.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Ta làm hại các ngươi?

m thinh đó tiếp:

– Phải! Ngươi là người sống, chúng là những u hồn, những kẻ đã chết đi rồi, còn phiêu phưởng lại trần gian một bóng mờ. U minh cách biệt, sanh tử phân chia, người sống nơi mình có thứ lửa tam muội. Thứ lửa đó chạm đến là u hồn phải tan biến.

Quan Sơn Nguyệt mới hiểu tại sao những u hồn sợ chàng như thế.

Thì ra, chúng sợ tam muội hỏa, chạm vào chúng là chúng ta biến ngay.

Chàng suy nghĩ một chút, thốt:

– Các ngươi sợ người sống, thế sao không tìm một nơi u tịnh mà ẩn nấp?

m thinh đó thở dài:

– Hồn không xa xác, xác chôn tại đâu, hồn phải ở đó. Xác là nơi hồn nương tựa, bỏ đi rồi là lạc lõng bơ vơ, hà huống ly khai nơi nầy là hồn tiêu, phách tán.

Thì làm sao đi tìm một nơi u tịnh? Ngươi chẳng thấy, chẳng nghe đó sao. Những u hồn chạm vào người của ngươi, bị văng ra khỏi núi, gió mạnh quét qua hồn tan phách biến liền. Hồn phách vừa tan, u hồn vẫn kêu than thê thảm dù biết có kêu lên cũng chẳng ích gì ... Thì làm sao chúng ta rời khỏi nơi nầy được, để tìm một nơi ngàn năm chẳng có bóng sanh nhân?

Quan Sơn Nguyệt núi lặng một lúc lâu, rồi hỏi tiếp:

– Các ngươi ở tại đây độ bao nhiêu thời gian rồi?

m thinh đáp:

– Bao lâu thì không nhớ rõ, nhưng chắc chắn là từ khi chết đến nay. Nơi đây, không có năm tháng ngày giờ, không đêm không ngày, vĩnh viễn là một khung cảnh mông lung, huyền ảo. Trong một khung cảnh mông lung, huyền ảo như thế, còn ai giữ được ấn tượng thời gian?

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Trước, các ngươi không biết đã ở tại đây được bao lâu rồi, nhưng sau các ngươi sẽ còn ở độ bao lâu nữa?

m thinh đó đáp:

– Làm sao ta biết được điều đó? Ta không đoán nổi đến thời gian nào thì xương trắng của ta tiêu tan, hồn phách của ta tiêu tan.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Thế là các ngươi phải ở lại đây chờ đến ngày hủy diệt?

m thinh đáp:

– Phải. Người chết đi, còn hồn, hồn chết nữa thì «thần» mới diệt. Thần diệt là «siêu». Có siêu mới trở lại cõi đời. Vòng luân chuyền là vậy đó.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc, điểm một nụ cười, hỏi:

– Ta không giống các ngươi à?

Thinh âm đó cười lạnh một tiếng, đáp:

– Trên đời, làm gì có thần tiên trường sanh bất tử chứ? Những cái đó do con người thêu dệt ra để lừa gạt người, chắc ngươi từng nghe chuyện của Lữ Nham, Trương Tần, họ được thiên hạ từ nhiều thế hệ qua thần thánh hóa, song tất cả đều có mặt tai đây.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Ở đây?

Thinh âm đáp:

– Xa thì xa nghìn vạn dặm tận chân trời, gần thì gần bên đây trước mắt chúng ta.

Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, hỏi:

– Ngươi là Lữ Thuần Dương sao?

Thinh âm thở dài:

– Lúc sống, ta lấy hiệu là Sơn Nham đạo nhân, học được trò ảo thuật mà con mắt, mê loạn tâm thần, quy tụ được bảy bằng hữu, cộng thành một nhóm tám người, cùng nhau du hí khắp nhân gian, lưu lại cái tên là Bát Tiên, thực sự cái việc đó chỉ là việc khi người, mà cũng tự khi luôn, trong số có ta và Trương Quả Lão có vận khí tốt hơn hết, nên xương tàn được nằm yên giữa lòng núi, không hứng chịu phong sương mài giũa, xâm nhiễm, nhờ thế mà hồn còn kết tụ chưa tan biến như phần đông. Sáu người kia đều tan biến cả rồi, tan biến lẫn cả hình xương và phách quỷ.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ, lâu lắm mới thốt:

– Điều đó ... khó mà làm cho con người tin tưởng ...

Thinh âm tiếp:

– Ta lấy sự chứng nghiệm của bản thân, nói cho ngươi nghe tại sao ngươi chưa hiểu rõ?

Quan Sơn Nguyệt sửa chữa câu nói:

– Thực sự, chẳng phải ta không tin, có điều ta nghĩ, những gì người vừa nói có vẻ kỳ quái hết sức. Đã là Bát Tiên, các ngươi thuộc về thời cổ, các ngươi đã chết ít nhất trên ngàn năm rồi, thế tại sao còn ở lại nơi nầy? Và làm gì thứ xương trải qua ngàn năm mà vẫn tồn tại?

Thinh âm cười nhẹ:

– Bọn ta là những kẻ học đạo, tự nhiên phải biết cách chọn đất chôn xương, và tự nhiên phải chọn cho mình một khoảnh đất tốt, nhờ thế mà giữ được hồn tàn cốt rủ đến ngày nay. Dù không được trường cửu, ít nhất cũng dài lâu hơn người thường.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Như vậy, thì sớm muộn gì cũng đi đến chỗ hủy diệt, tiên sư lưu lại hồn tàn cốt rủ đó để làm gì? Cố giữ gìn cho những thứ đó bất diệt, hẳn cũng phải có một dụng ý chứ?

Chàng thay thái độ, đổi cách xưng hô, dù không tin con người đối thoại là bậc thần tiên, ít ra cũng hiểu con người đó có một niên kỷ khá cao.

Thinh âm thở dài liên tiếp mấy lượt, đoạn đáp:

– Ngươi vừa nêu một vấn đề, cho rằng một vấn đề ngu cũng được, mà là thông minh cũng được. Ta đây, dù mang tiếng là bậc thần tiên, cũng chẳng đáp nổi câu hỏi của ngươi. Ta chỉ có thể hỏi lại ngươi một câu, ngươi đáp được câu hỏi của ta, là cầm như ngươi thấu triệt phần nào vấn đề đang thành hình trong tâm não của ngươi.

Quan Sơn Nguyệt buông nhanh:

– Tiên sư cứ chỉ giáo.

Thinh âm nín lặng một lúc lâu, đoạn cất tiếng hỏi:

– Con người, ai cũng biết là mình phải chết và cái chết đến vội đến vàng, thế tại sao ai ai cũng muốn sống, càng sống dai càng thích chí?

Quan Sơn Nguyệt đáp vu vơ:

– Chỉ vì ở cảnh sống có những cái mà người ta lưu luyến, không đành dứt khoát để ra đi.

Thinh âm tiếp:

– Thì bao nhiêu u hồn tại Bạch Cốt Sơn nầy cũng vì cái lý do đó mà không muốn bị hủy diệt.

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– U hồn khác với người sống, u hồn đâu có hưởng những lạc thú nhân sanh, thì còn gì mà lưu luyến?

Thinh âm tiếp:

– Ngươi nói thế là sai. Đành rằng người sống mới hưởng thọ lạc thú, người chết không còn được hưởng lạc thú nữa. Nhưng dù cho đã chết đi, u hồn vẫn chưa tan, thì ký ức vẫn còn đeo đuổi theo u hồn, chính cái ký ức đó gieo niềm lưu luyến xa xăm, không hưởng thọ thực sự, u hồn vẫn hồi tưởng, luôn luôn man mác mơ hoài.

Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc lâu, trầm giọng thốt:

– Đời là biển khổ, mang xác thân lạc lõng giữa dòng đời, là chịu những cái khổ triền miên tiếp nối. Thì chết đi là giải thoát. Nhưng chết là sự giải thoát xác thân, u hồn vẫn khổ trong giới cảnh lung linh, khi nào u hồn tiêu diệt, thì lúc đó mới được giải thoát hoàn toàn. Cho nên, tại hạ nghĩ sống không bằng chết, chết không bằng thần hồn tan diệt. Bởi tan diệt là sự giải thoát hoàn toàn ...

Quan Sơn Nguyệt chưa dứt câu, thinh âm chận lại, cười mấy tiếng:

– Ta luận theo người chết, ngươi đứng trong cương vị người sống mà đối thoại, tự nhiên khó gây niềm thông cảm với nhau. Ta thì không thể sống lại rồi, để song phương cùng ở trong một trường hợp, vậy ngươi hãy chờ đến lúc tắt thở, ngươi trở thành một u hồn như ta, lúc đó ngươi sẽ có một suy tưởng khác biệt hẳn lý luận hiện tại của ngươi. Ở đây cũng có rất nhiều cao tăng phật môn, lúc sống họ cũng lập luận như ngươi, nhưng sau khi chết rồi ...

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Rồi sao?

Thinh âm cười, đáp:

– Sau khi chết rồi, họ đều hối tiếc lúc sống đã bỏ trôi khoảng thời gian kiếp đời trong hư không, họ tưởng tượng những lạc thú mà người ngoài tục hưởng thọ, họ muốn sống trở lại để làm như mọi người hưởng thọ, lấp bằng cái trống không của kiếp đời với tất cả mọi niềm vui hoan lạc. Sống trở lại không được, họ cầu mong được hủy diệt nhanh chóng, để sự hối tiếc không ray rứt vầy vò liên tục.

Hiện tại thì họ khổ sở vô cùng. Chính cái cảnh nầy là khổ hải của họ, chứ chẳng phải lúc sống trên đời đâu.

Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc:

– Tại sao lại cầu mong hủy diệt mà không được? Có một cách rất giản dị cho họ là cứ nhẩy ra khỏi tòa Bạch cốt sơn này, gió từ xa cuốn về quét tan u hồn của họ. Họ chẳng hiểu được cái lẽ giản dị đó sao?

Thinh âm lại cười khổ, giải thích:

– Ở đây, không u hồn nào lại chẳng biết lẽ giản dị đó. Có điều, u hồn hội đủ phương tiện làm thì lại không muốn làm, còn những u hồn muốn làm lại không nắm được phương tiện để làm. U hồn có phương tiện là những u hồn ở vòng ngoài, họ muốn nhảy, cứ nhảy xuống triền, chẳng gây xáo trộn gì cho u hồn nào ở bên trong cả. Những u hồn kém phương tiện là những u hồn ở tận trong lòng núi, nếu nhích động thì phải làm xáo trộn đồng loại ở vòng ngoài, hơn nữa vượt đi rồi là gây khoảng trống, ngay tại lòng núi, mà ở đây thì không thể có những khoảng trống, vì lòng núi trống rỗng thì cả tòa núi phải sụp đổ, bao nhiêu u hồn phải bị hủy diệt, sự kiện đó, bọn ta chẳng ai muốn có xảy ra.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Đã biết u hồn tiêu tán là giải thoát, thế mà các vị không tạo cơ hội cho toàn thể giải thoát bằng chính sự tự giải thoát của mình, chẳng hóa ra các vị ích kỷ lắm sao?

Thinh âm thốt:

– Như ta đã nói, u hồn như kẻ sống, vẫn còn luyến tiếc mùi đời qua ký ức, do đó có một số đông chưa chịu hủy diệt để giải thoát. Ngươi chẳng thấy trên đời, có lắm người muốn chết, vì chán cái sống chán chường, nhưng họ không thể chết vì cái chết của họ sẽ gây tai hại cho những người chung quanh, hoặc những người có liên quan đến họ. Bọn ta vì tránh tai hại cho đồng loại mà không thể tự hủy diệt đó thôi. Bọn ta tự hủy diệt, để tìm giải thoát, trong khi phần đông còn luyến tiếc, chưa chịu hủy diệt như bọn ta, thì hành động đó cầm như vô nhân đạo.

Quan Sơn Nguyệt suy lời thinh âm, xét đến mình, trọn đời chàng, chàng chưa hưởng được một lạc thú nào, là vì chàng mãi lo giúp cho bao nhiêu kẻ khác được sinh tồn. Thì, trách làm sao được u hồn kia có thể giải thoát được nhưng vẫn giam mình trong cảnh khổ? Sự hủy diệt của họ sẽ gây bất mãn, oán hận nơi đồng loại, nên họ nhẫn nhục, mà không thể làm theo ý muốn được.

Chàng thở ra, thốt:

– Không ngờ trong cảnh chết vẫn còn có lụy phiền như vậy. Sau nầy có chết đi, tại hạ tìm cách chết sao cho âm hồn tiêu tán luôn cùng một lúc với thể xác.

U hồn đó thoáng giật mình, thốt:

– Người còn thanh thiếu, tại sao lại sớm bi thương vơ vẩn? Ngày trời còn nhiều, phải bám lấy sự sống mà hưởng thọ mọi lạc thú nhân sinh, giả như ngươi có điều bất mãn, thì ngươi cũng có thể san bằng với thời gian thừa thãi. Nghe ta đi, cứ hưởng những cái gì sẵn có, đồng thời tìm những cái chưa có mà hưởng nốt, hưởng thật nhiều, sau nầy khi trở thành một u hồn như ta, thì ngươi sẽ được khoan khoái mà hưởng thụ lại một lần nữa, bằng ký ức, cho dù không thực tế, ngươi cũng thấy sướng như thường.

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Tiên sanh chừng như có ít nhiều thiên kiến, mỗi con người đều có một xử cảnh riêng biệt, trong xử cảnh khác nhau, con người không thể hành động như nhau, duy trì một tư tưởng giống nhau, do đó thành quả trên trường đời cũng chẳng giống nhau, và dĩ nhiên những thành quả đó có nhiều sắc thái như vui buồn, sướng khổ, cay đắng, ngọt thơm ...

U hồn nín lặng một chút:

– Thôi được! Ta cũng không dư hơi đâu mà tranh luận với ngươi dông dài, chúng ta mỗi người mỗi cảnh, dương thì ta có trải qua rồi, hiện tại ta ở trong cảnh âm, mà người cũng không hiểu nổi. Ta chỉ khuyên ngươi một điều, là ngươi nên cẩn thận trong bước đường sắp tới, đừng bao giờ xung chạm làm tiêu tán u hồn của lão hòa thượng phía trước đó nhé.

Quan Sơn Nguyệt đáp ứng:

– Tiên sanh yên trí, tại hạ ghi nhớ lời tiên sanh dặn dò.

U hồn lại tiếp:

– Ngươi không có ý xung tán họ, chưa phải là đủ, ngươi còn cần cẩn thận hơn nữa, là rất có thể họ tìm ngươi mà chạm vào để mong được giải thoát. Vậy ngươi phải lưu ý tránh xa, thật xa họ nhé. Ngươi không tâm đụng họ, họ lại tìm đụng ngươi, thì cái hậu quả tai hại cho bọn ta đây do bên nầy hay bên kia gây ra, cũng đồng dạng thôi.

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Thế thì tại hạ phải làm sao đây? Dường như tiên sanh có nói là họ bị các u hồn khác bao quanh mà? Họ đâu có thể tự tiện xông ra mà đụng chạm vào tại hạ?

U hồn đáp:

– Sự tình là vậy đó, song khi ngươi đi tới, những u hồn chưa muốn giải thoát, phải né tránh ngươi, bọn hòa thượng kia nhân dịp đó xông ra, điều ấy họ làm rất dễ vì vòng vây bên ngoài đã tan vỡ, không còn cái gì ngăn trở họ nữa. Kẻ tránh người, chạy đi, bỏ khoảng trống cho kẻ muốn đụng chạm ngươi. Huống chi, vị trí của họ lại nằm ngay trên lộ trình của ngươi. Chỉ còn có cách là ngươi phải thay đổi đường đi lối bước, thay vì thẳng tiến, thì phải đi vòng quanh.

Quan Sơn Nguyệt vội hỏi:

– Còn có đường khác nữa sao?

U hồn đáp:

– Còn. Ngươi hãy đi vòng theo triền núi, ngươi sẽ không đụng chạm với họ.

Quan Sơn Nguyệt nhìn ra, theo con đường do u hồn vừa chỉ, thấy các u hồn nơi đó đều là yếu đuối, gồm lão nhược, phụ nữ, trẻ con. Họ nghe u hồn đối thoại với chàng vừa bảo như vậy, tất cả đều kêu la, than khóc ồn ào, khó chịu hết sức.

Rồi âm phong từ bốn phía vốc lên, âm phong không mạnh song thê thảm phi thường. Quan Sơn Nguyệt bất nhẫn đáp:

– Nếu tại hạ theo đường đó mà đi tới, thì những u hồn bạc nhược kia khó tránh được hủy diệt ...

U hồn đối thoại đáp:

– Chỉ còn có cách đó thôi. Ngươi không theo con đường ấy thì bắt buộc phải xẻ núi xuyên lối mà đi. Ta không còn biện pháp nào giúp ngươi nữa. Phàm con người sống, ai ai cũng gặp hoặc hữu hạnh, hoặc bất hạnh, thì u hồn cũng thế, tất cả đều khổ không bằng một nhóm người nhỏ khổ, nói một cách khác hy sinh một phần nhỏ, tránh hủy diệt toàn thể. Thì, điều bất hạnh của một nhóm nhỏ sẽ là sự đại hạnh của mốt số lớn lao.

Quan Sơn Nguyệt nổi giận, trách:

– Tiên sư lúc sống, được mọi người trọng vọng, tôn sùng, sao lúc chết đi lại nói năng vô nhân phi đạo như vậy? Phàm ai có lòng nhân, thì đối xử trong mọi trường hợp, cũng phải căn cứ vào nhân đạo chứ, có đâu tính toán, cân phân chú trọng đến sự hữu ích lớn mà dám làm những điều vô nhân đạo nhỏ? Tội ác là tội ác, lớn nhỏ gì cũng là tội ác, đâu có chuyện hủy diệt số nhỏ để bảo gìn số lớn?

Thật là bất cận nhân tình! Thật là tự tư!

U hồn đối thoại cười nhẹ:

– Lúc làm người sống, thì ta rất chú trọng đến nhân tình, nhưng khi trở thành một u hồn, tự ta ta chưa đủ sức bảo vệ ta, thì ta còn tâm tư đâu lại lo liệu cho kẻ khác chứ? Ở đây, không ai lo sợ cho cái họa của kẻ khác, cũng như không tìm cái phúc cho kẻ khác. Ở đây, thiếu hẳn tình tương thân tương trợ, mà chỉ có cạnh tranh thôi.

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:

– Mặc dù tiên sanh nói gì, tại hạ không thể làm như vậy được.

U hồn đối thoại hỏi:

– Thế người định làm như thế nào?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Tại hạ quay đầu, trở lại con đường cũ, hạ sơn ...

U hồn kêu lên kinh hoàng:

– Đừng! Ngàn vạn lần, ngươi không nên làm như vậy!

Quan Sơn Nguyệt nổi giận:

– Tại sao chứ? Tại hạ không muốn đụng chạm đến các vị thì tại hạ trở lại.

Có cái gì ngăn trở, không cho tại hạ trở lại?

U hồn rung rung giọng tiếp:

– Không có cái gì ngăn trở được người, song ngươi không thể trở lại. Lúc vào đây, ngươi chẳng nhìn kỹ tấm mộc bài à? Mộc bài ghi mấy chữ:

«m dương giới vô hồi đấu lộ», quá rõ ràng kia mà! Người đã lên núi rồi, thì không còn quay đầu được nữa. Rằng ngươi cương lý, trở lại thì đúng là ngươi hại bọn ta đó.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Tiên sư nói cái gì thế? Tại hạ chẳng hiểu nỗi.

U hồn thở dài:

– Dưới chân Bạch Cốt Sơn, có một thứ lửa ngầm ngầm từ muôn đời, lửa đó cái tên là Kiếp Hỏa, bởi lâu năm người ta gọi là Vạn Niên Kiếp Hỏa, ngươi trở lại là lửa đó bốc bừng lên liền. Chính ngươi cũng bị chôn vùi trong biển lửa đó, nói chi đến bọn ta là những u hồn, từ lâu phưởng phất tại đây với niềm sợ hãi triền miên trước mọi đe dọa bốc cháy của những ngọn lửa đó.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Một lúc lâu, chàng hỏi:

– Tới không được, lui không xong, thế tại hạ phải làm sao đây?

U hồn suy tư một phút, đáp:

– Ta không dám bày biểu chi cho ngươi cả. Vậy ngươi cứ tùy tiện mà hành động.

Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

– Giả như tại hạ rút kiếm, tự chém chết mình, điều đó có được chăng?

U hồn đáp:

– Được chứ! Bất quá, bọn ta đâu dám yêu cầu ngươi làm một việc như vậy?

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Tại sao?

U hồn giải thích:

– Nếu ngươi chết tại đây, tự nhiên không có người thu liệm thi hài của ngươi, thi hài đó phải bộc lộ trước phong sương, chim chóc sẻ mỗ, rỉa ngươi sẽ cảm thấy đau đớn khổ sở phi thường.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Người chết rồi, thì cảm giác cũng tiêu tan, còn biết gì mà thê rằng đau khổ.

U hồn cười nhẹ:

– Ngươi lại nói lẩn quẩn nữa rồi. Ta đã giải thích cho ngươi hiểu đại khái rồi mà! Xác ở đâu, hồn ở đó, hồn xương xác, nêu niềm thống khổ đến với ngươi, xác không cảm giác như hồn bị xúc động như thường. Tóm lại, ngươi không đau xác, mà ngươi lại đau hồn. Ngươi hiểu rõ chưa?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc nữa:

– Ngoài phương pháp đó, tại hạ đành chịu, chẳng biết phải làm sao bây giờ.

U hồn thốt:

– Ta thấy cần phải nhắc lại ngươi một lần nữa, toàn diện khổ không bằng phiến diện khổ. Toàn thể khóc, tự nhiên phải thê thảm hơn một nhóm người khóc.

Nếu bắt buộc ngươi phải gây khóc hận thì dù sao ngươi cũng tránh gây hại cho số đông, và nhắm vào số ít. Vậy ngươi nên đi theo triền núi, như ta đã chỉ, bất đắc dĩ mà ngươi chạm phải số ít, thì cũng đành thôi, ngược lại, ngươi cứu được số nhiều.

Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ trang nghiêm, cương quyết thốt:

– Toàn diện khổ, không bằng phiến diện khổ, phiến diện khổ không bằng cá nhân khổ. Tại hạ thấy phương pháp đó hữu hiệu hơn hết.

Những u hồn bao quanh chàng, lúc đó tản mác ra, trừ một Lữ Nham. Lữ Nham thốt:

– Sự quyết tâm của ngươi, bọn ta rất hoan nghinh, bất quá khi ngươi tự sát, thì ngươi nên hành động từ từ, ngươi tự cắt chầm chậm, thì máu chỉ rỉ ra chứ không phún vọt thành tia dài, vấy cả hình hài của bọn ta. Ngươi biết không, nếu bọn ta vấy máu của ngươi, thì dù muốn dù không cũng phải chia sớt niềm đau của ngươi sau khi chết, mình đã quá khổ vì chính mình, lại còn phải chia sớt gánh chịu thêm phần của kẻ khác, thì kể ra cũng bất công đấy chứ. Ta nghĩ, ngươi đâu có muốn gây khổ cho bọn ta?

Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới biết tại sao các u hồn đều tản mác ra xa xa, cả Lữ Nham thốt xong câu cũng bước tránh ra ngoài. Quan Sơn Nguyệt căm hận, gằn từng tiếng:

– Các vị đã chết rồi mà vẫn còn giữ lòng tự tư, tự lợi, như thế đâu đáng cho tại hạ phải thận trọng?

U hồn cười mỉa, đáp:

– Tự ngươi muốn vậy, nào ai yêu cầu, thúc giục ngươi đâu? Có điều, người chết đi, cũng đừng nên di lụy cho người khác. Đã chết rồi mà còn hại được người khác, thì quả thật ác độc cùng cực đó nhé!

Quan Sơn Nguyệt thở dài, từ từ rút kiếm, từ từ cắt ngang qua yết hầu. Niềm đau từ từ xâm chiếm, từ chỗ bị cắt lan dần khắp thân thể. Cuối cùng, niềm đau hành hạ quá mạnh, chàng suýt hôn mê mấy lượt.

U hồn bất mãn, thốt:

– Một vết thương, không đủ! Ngươi phải cắt thêm mấy chỗ nữa đi, cho máu phân tán theo các vết thương mà chảy ra, máu tản mác tất nhiên chảy yếu. Máu chảy yếu, có lợi cho bọn ta nhiều. Ta nghỉ, ngươi đâu có lòng nào gây hại cho bọn ta?

Quan Sơn Nguyệt không nói thêm tiếng gì nữa, rút thanh trường kiếm khỏi vết thương, rồi xốc ngược mũi kiếm, cố chịu đau, đâm thốc vào mấy yếu huyệt trên mình chàng.

U hồn cất tiếng chỉ thị chàng:

– Đâm cạn cạn một chút, như vậy vết thương mới không lớn, ngươi cảm thấy ít đau, còn có thể vận khí ngăn chậm máu chảy được thế là hay lắm. Ngươi cắn răng cố gượng đi, khi nào gây được hơn mười vết thương rồi, sẽ buông lơi huyết mạch, ngươi có thể chết gấp như ý muốn, mà máu của ngươi cũng không bắn vọt quá xa, không gây tai hại gì cho bọn ta. Làm nhanh đi!

Thực sự, Quan Sơn Nguyệt cảm thấy đau đớn cực độ, song không thể không làm, chàng tự cắt cứa, đâm vào mình như tự thi hành một bản án lăng trì.

Thử hỏi, có ai gan lỳ như chàng vậy chăng?

Trước sau, chàng chẳng hề rên xiết, chàng cảm giác cái chết từ từ đánh đuổi sanh lực nơi chàng, xâm chiếm cơ thể chàng dần dần.

Chàng nghe, bên tay văng vẳng tiếng cười đắc ý của đám u hồn.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 75

Chính Nghĩa Sáng Ngời

Trong lúc niềm đau cực độ dầy vò, chỉ còn chờ cái chết đến với chàng, dù nó đến chậm xong rồi cũng sẽ đến, Quan Sơn Nguyệt cảm giác mình từ từ rời khỏi xác.

Chàng biết rõ, mình phải chết chắc chắn, và bây giờ đây thì đã chết rồi, chân chánh chết rồi. Bởi, chàng nhận ra cái xác của chàng đang ở trước mắt chàng, như vậy chàng và xác là hai, chứ không còn là một nữa.

Cái xác đó còn rỉ máu, máu rơi từng giọt, từng giọt xuống Bạch Cốt Sơn, mà Bạch Cốt Sơn chỉ là một gò cấu tạo thành do một đống xương trắng.

Chàng đưa mắt nhìn ra bốn phía, thấy đám u linh ùn ùn kéo tới, tuy vẫn còn giữ cái dáng dè dè, e sợ, chàng cảm thấy mình chẳng khác những u linh chút nào.

Rồi, những u linh đó từ từ bớt dè dặt, từ từ dạn di hơn. «Họ» đã hết sợ chàng rồi.

Chàng vẫn còn nghe, còn thấy được như thường, nhưng trừ cái xác của chàng ra, chàng chẳng thấy cái u linh của chàng như thế nào, trong con mắt chàng, u linh của chính chàng là một bóng mờ mờ, hư ảo.

Những u linh kia, đến gần chàng rồi, bao vây bốn phía, u linh nầy một câu, u linh kia mấy tiếng, cùng nhau bàn luận.

Họ thốt với nhau:

– Cái gã đó xem ra vẫn có lương tâm!

– Chắc là gã không thích sống nữa, sự sống không làm gã khoan khoái tí nào, nên gã định chết để tìm giải thoát. Gã có hiểu câu chết rồi không những chẳng giải thoát, mà còn đau khổ hơn nhiều. Rồi đây, chim chóc sẽ đến, rỉa thây gã, lúc đó gã sẽ biết.

– Đến cái lúc mà gã thọ tội, nhất định là gã sẽ kêu la, gã làm huyên náo lên.

Chẳng ai được yên tĩnh với gã đâu. Chúng ta nên lôi gã, quăng ra ngoài kia đi!

– Làm vậy coi sao được! Dù sao thì gã cũng có vì chúng ta.

– Cái gì mà được với không được? Sở dĩ chúng ta còn bảo trì u hồn tàn dư nầy, là vì còn tham vọng hưởng thọ bằng hồi ức, nếu còn gã ở bên cạnh, gã làm ồn lên, chúng ta hưởng thọ cái quái gì được nữa? Sự ồn ào của gã sẽ làm rối loạn hồi ức của chúng ta.

– Ta xem, tất cả chúng ta nên nhẫn nại một chút, không lâu lắm đâu, xác gã sẽ bị chim chóc ăn hết, cơ thể gã sẽ chỉ còn thừa lại những đoạn xương trắng, lúc đó đó gã sẽ hết thống khổ, tự nhiên gã không kêu la rên xiết nữa.

– Không được! Ai biết được là chúng ta còn tồn tại trên thế gian nầy bao nhiêu lâu nữa? Chúng ta không nên vì gã mà lãng phí những phút giây quý báu, cứ vất gã đi xa xa đi là hay hơn hết.

Chàng nghe cuộc đối thoại phảng phất vọng đến tai, rồi mông lung thấy mấy u linh đó túm lấy chàng, quăng đi xa xa nơi triền núi. Chàng cực lực vùng vẫy, song vô ích.

Khi các u linh đó sắp sửa buông tay, một âm thinh vang lên:

– Không được! Hiện tại, máu thịt của hắn chưa tan rã, phải chờ cho các thứ đó tan rã trước, rồi các ngươi mới có thể quăng hắn đi, như vậy thần khí của hắn có tiêu tan, cũng vô hại cho chúng ta. Nếu bây giờ các vị quăng vội vàng, thần khí tan trước, máu thịt chưa tan, sanh ra mùi hôi thúi, chúng ta không chịu nổi đâu.

Một u linh hỏi:

– Vậy chúng ta phải làm sao?

m thinh vừa ngăn chặn đó đáp:

– Cứ đưa hắn đến hiệp đoàn với bọn hòa thượng kia đi.

U linh tán thành:

– Phải! Đến đó rồi, hắn muốn gây uyên náo, cứ gây, bọn hòa thượng kia cố mà chịu đựng, chúng ta không còn phải khổ với hắn nữa.

Nhiều u linh phụ họa theo:

– Hay! Chủ ý đó được lắm!

Quan Sơn Nguyệt có cảm giác bị u linh đó đưa đi, và chẳng phản kháng được, chàng bi phẫn cực độ, oán khí bốc cao. Chàng vì u linh mà hy sanh, các u linh lại đối xử với chàng như vậy, thì còn nghĩa lý gì nữa chứ? Cái bọn u hồn nầy, quả thật vong ân bạc nghĩa, tự lợi tự tư quá chừng.

Bỗng, một luồng hơi ấm bay qua chạm vào ngực chàng.

Tức khắc, chàng khôi phục vũ công, việc làm trước nhất của chàng là vung hai cánh tay, thoát khỏi sự cưỡng chế của các u linh.

Hai u linh qua phản ứng của chàng, ngã nhào, họ cũng kêu lên:

– Không xong! Hắn chết rồi, mà cũng tồn mang vũ công theo nữa chứ!

Một u linh khác tiếp nói:

– Lỗi tại chúng ta! Chàng ta muốn cho hắn chết gấp, nên mới có việc đó.

Bây giờ, hắn trở thành một con quỷ dữ, chúng ta sẽ thảm khổ vì hắn từ đây!

Rồi có mấy u hồn quỳ xuống trước mặt chàng, van cầu:

– Chúng ta không hề xung phạm đến ngươi đó nhé, sự tình đó do Lữ Nham bày biểu, ngươi muốn báo phục thì hãy tìm Lữ Nham mà làm chi thì làm, chúng ta không liên can.

Lữ Thuần Dương thốt:

– Thật các ngươi chẳng có chút lương tâm nào? Ta uốn ba tấc lưỡi, nói đến khan cổ khô môi, mới khuyên hắn từ bỏ sanh mạng được đó, chứ đâu phải dễ dàng gì? Cái lợi, tất cả đều hưởng, sao bây giờ lại đổ trút mọi tội lỗi lên đầu ta?

Bọn u hồn đồng kêu lên:

– Ngươi! Chính lại ngươi! Bảo hắn chết, sao ngươi không nói cho hẳn biết là phải chết triệt để? Thành ra bây giờ, cái khí dữ của hắn không tiêu tan, biến hẳn trở thành quỷ dữ, hiện tại ngọn Bạch Cốt Sơn nầy trở thành giang sơn của hắn rồi đó nhé!

Lữ Thuần Dương tiếp:

– Các ngươi đừng lo quýnh quáng lên như vậy. Chúng ta còn có một phương pháp đối phó với hắn kia mà! Nhân lúc thi thể hắn chưa tan rã, chúng ta quăng thi thể hắn ra khỏi Bạch Cốt Sơn là được.

Một u linh cất tiếng:

– Tay chân chúng ta không còn cử động được, thì làm sao đời cái xác của hắn đi nơi khác?

Lữ Thuần Dương đáp:

– Rất đơn giản! Hiện tại thì thi thể chưa sình, chúng ta có thể dùng phương pháp xác choàng hồn, vậy một người nào đó trong các ngươi, nhập hồn vào xác hắn, rồi nhảy vọt khỏi Bạch Cốt Sơn là xong chuyện.

Bọn u linh lại kêu lên:

– Phương pháp đó được lắm, song ai chịu nhập vào xác hắn đây?

Tất cả đều nín lặng, tựa hồ chẳng ai muốn làm cái việc đó cả. Cuối cùng, có một u linh lên tiếng:

– Lữ Nham! Chủ ý đó, do ngươi xướng xuất, vậy ngươi hãy làm đi!

Lữ Nham vội đáp:

– Không được! Ta đã vì các ngươi mà xuất lực một lần rồi, tránh cho các ngươi đời đời kiếp kiếp trầm luân. Ta không thể hy sinh thêm một lần nữa đâu!

U linh đó cao giọng:

– Ngươi không thể làm cũng phải cố gắng mà làm, bắt buộc phải làm. Chỉ vì ngươi sơ hở mà tạo hắn thành một con quỷ dữ, còn chúng ta bất quá thọ tội thêm một chút thôi, ai bảo ngươi làm ra vẻ thông minh, bày biểu bậy bạ khiến cho hắn chết gấp như thế?

Rồi tất cả cùng động thủ, chụp Lữ Nham đưa lên cao, ý chừng muốn quăng Lữ Nham đến thi thể của Quan Sơn Nguyệt.

Lữ Nham cố hết sức mình, vùng vẫy.

Quan Sơn Nguyệt vụt kêu to:

– Dừng tay!

Đám u linh bất động liền.

Quan Sơn Nguyệt phẫn nộ, quát:

– Các ngươi định làm gì chứ?

Lữ Nham đáp nhanh:

– Chúng định bức ta mượn xác ngươi mà hoàn hồn, cho ngươi chết luôn, đời đời kiếp kiếp trong cảnh trầm luân.

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Thế ngươi không chán ghét ta sao? Tại sao ngươi phản đối hành động của bọn kia?

Lữ Nham không đáp. Một u linh đáp thay:

– Y sợ đấy. Rất có thể là y bị hủy diệt theo ngươi!

Quan Sơn Nguyệt lại cười lạnh:

– Thì ra là thế! Các ngươi đưa qua, đẩy lại nhau, cuối cùng rồi chẳng một kẻ nào chịu làm.

Lữ Nham vội thốt:

– Cái lũ đó là bọn vong ân bội nghĩa.

Quan Sơn Nguyệt quát to:

– Câm ngay! Cái chủ ý đó do ngươi đề xuất mà!

U linh kia kêu gấp:

– Phải đấy! Cho nên, y đã làm nên tội thì y phải đền tội.

Chính u linh đó toan động thủ, Quan Sơn Nguyệt nổi giận, quát:

– Không một kẻ nào được nhít động. Ta không biết các ngươi thực sự là những cái quái gì, bỗng không lại từ bỏ sanh mạng để thành toàn các ngươi, chứ theo cái tánh của ta thì rất có thể quăng tất cả xuống chân núi đấy.

Đám u hồn nín lặng, u hồn nào cũng lộ vẻ sợ hãi.

Quan Sơn Nguyệt thở dài, hỏi:

– Còn cái bọn hòa thượng tại đâu? Ta đã thành toàn các ngươi, thì khi nào ta lại các ngươi mà sợ? Các ngươi không thích ta, thì ta thấy thẹn mà nhập vào hàng ngũ của các ngươi, nên muốn đến nơi khác.

Lữ Nham vội đáp:

– Đám hòa thượng ở ngay giữa lòng núi.

Quan Sơn Nguyệt tiếp:

– Tốt! Ta không muốn các ngươi tranh chấp với nhau nữa đó. Phần ta, ta cứ đến đó, ở chung với đám hòa thượng. Bất quá ta cảnh cáo các ngươi, đừng một ai chạm vào cái xác của ta!

Đám u hồn đồng thanh đáp:

– Phải! Phải! Bọn ta không dám đâu.

Quan Sơn Nguyệt lại thở dài:

– Ta không phải sợ bị hủy diệt, cảnh sống không có gì đáng cho ta lưu luyến, thì cảnh chết lại vui gì? Sao cho bằng sớm được giải thoát? Có điều, ta không muốn cái bọn ô trược như các ngươi chạm vào xác ta.

Lữ Nham thốt gấp:

– Vậy ngươi tự mình hoàn hồn vào xác mình đi, để tìm đường giải thoát, thế có hay hơn không?

Quan Sơn Nguyệt giật mình, thầm nghĩ:

“Có thể ta sẽ làm như vậy lắm, những gì ở đây ta chưa hiểu hết cho rõ ràng, ta cứ đi tìm các u hồn khác, tiếp xúc với chúng xem sao rồi hãy tính.”.

Lữ Nham ngăn lại:

– Ngươi bất tất đi tìm u hồn tiếp xúc nữa, tại Bạch Cốt Sơn nầy có hai thứ u hồn, một thứ nỗ lực giữ gìn cho được tồn tại như bọn ta đây, còn thứ kia thì ngược lại, chỉ muốn được hủy diệt thôi.

Quan Sơn Nguyệt hỏi:

– Như đám hòa thượng đó, phải chăng?

Lữ Nham giải thích:

– Không hẳn chỉ có cái bọn đó là muốn như vậy. Cũng có những u hồn khác, họ là những con người lúc sống chịu hầu hết những khổ đau trên đời, thì ký ức của họ không ghi chú những gì đáng quyến luyến thiết tha cả, họ không hề biết một lạc thú nhân sanh, như vậy họ còn muốn tồn tại để làm gì?

Dừng lại một chút, Lữ Nham tiếp:

– Họ khổ suốt đời, khi chết đi, mang theo những hình ảnh khổ, họ sanh lòng tật đố, họ tìm một cách để gây nên cảnh hủy diệt đại đồng, toàn diện, cho bao nhiêu u hồn tại đây cùng hủy diệt như họ. Cũng may, họ là thiểu số ...

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Ta phải đi tìm bọn đó. Ta luận đàm cùng họ, sự tiếp xúc với họ rất cần cho ta.

Lữ Nham suy nghĩ một chút:

– Ngươi đi tìm họ, kể ra cũng chẳng quan hệ gì, điều mà ngươi cần lưu ý là đừng bao giờ để mình chịu ảnh hưởng của họ. Hiện tại, ngươi là quỷ dữ duy nhất tại Bạch Cốt Sơn nầy, tất cả u linh quy tụ tại đây đều chịu sự chi phối nơi ngươi, nói một cách khác, tất cả u linh tại đây, hoặc tồn tại, hoặc hủy diệt đều do ngươi cả.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Thế thì ta cao hứng quá! Bất quá, các ngươi cứ yên tâm ta không để cho ta bị ảnh hưởng của họ đâu. Ta không tin rằng trên thế gian, chẳng có một người nào tốt, ta cũng không tin là Bạch Cốt Sơn nầy chẳng có một u hồn nào lương thiện. Giả như bọn đó là những u hồn bại hoại, thì ta sẽ có cách xử trí.

Lữ Nham hỏi gấp:

– Ngươi sẽ làm gì?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Ta sẽ đuổi các ngươi ra khỏi Bạch Cốt Sơn, cho gió cương khí thổi tạt vào, cho các ngươi tan biến ...

Tất cả u linh quanh chàng cũng rập nhau kêu lên kinh hãi, nhưng Quan Sơn Nguyệt dửng dưng, không màng đến họ, cứ bước những bước dài, dõng dạc đi tới.

Chàng cảm thấy thân mình nhẹ nhõm, xê dịch như chiếc lá rơi, thân thể nhẹ nhưng khí hùng lại bốc cao muôn trượng.

Chàng chỉ muốn đi nhanh, càng chóng đến nơi càng hay, đi như thể có sanh gió mạnh quanh mình, gió đó thổi tạt vào những u hồn dọc đường, họ ngã lăn ra, nhào lên nhau, họ vừa bị gió quật ngã, tự họ cũng tìm được né tránh chàng, tránh gió, gây thành cái cảnh hỗn loạn, điểm xuyết thêm những tiếng kêu la vang dội.

Chàng là u hồn có oai quyền nhất tại Bạch Cốt Sơn, mỗi cử động của chàng kể như một quyết định đối với các u hồn khác, một quyết định tồn tại, hay hủy diệt.

Nghĩ đến đều đó, chàng buồn cười hết sức. Chàng không ngờ, chàng phải chết tại Bạch Cốt Sơn, và chàng cũng chẳng không ngờ luôn, khi chết đi, u hồn cũng có oai khí như lúc sống, ai ai cũng ngán sợ chàng cả. Cái địa vị bá chủ giữa đám u hồn, đến với chàng như ngọn gió bên đường, từ cánh đồng không quét đến, rồi quyện quẩn quanh chàng.

Bất ngờ cực độ! Giờ đây, có u hồn nào dám kháng cự chàng?

Nhưng, với oai quyền đó, chàng chẳng thu hoạch được cái gì tốt đẹp! Một thứ oai quyền đối với những bóng hình phiêu phiêu phưởng phưởng, một thứ oai quyền hư vô, không thực tế nên không ích lợi gì. Thì có mà chi?

Chàng bỗng sanh buồn, man mác buồn, chàng mang niềm buồn mông lung diệu vợi đó mà đi tới, đi một lúc lâu, chàng gặp một nhóm u hồn khác. Cứ nhìn vào cái dáng bên ngoài của những u linh đó, chàng cũng nhận ra họ là những đệ tử Phật môn, trong đó có chen lẫn một vài u hồn không tu đạo.

Những đệ tử Phật môn, hoặc ngồi xếp bằng tròn nhập định, hoặc đứng lặng suy tư xuất thần, cũng có người nằm dài trên mặt đất. Họ bị một vần sương buồn bao quanh, trông họ đáng thương vô cùng với cảnh thê thảm.

Thê thảm vì sương buồn bao phủ mờ mờ, thê thảm vì hầu hết đều thở dài, than ngắn, dù là kẻ đang nhập định, chốc chốc cũng bừng tỉnh để hòa đồng âm thinh trong tiếng than thở của toàn thể. Họ tỏ vẻ xa xôi với hiện cảnh quá, Quan Sơn Nguyệt đã đến gần rồi mà họ chẳng hề hay biết.

Dù cho có u hồn nào hay biết, u hồn đó cũng không lưu ý đến chàng.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, dừng chân lại đứng nhìn họ một lúc, sau cùng chàng vỗ tay lên đầu vai một lão tăng.

Lão tăng đưa tay, hất tay chàng ra khỏi vai, rồi gắt:

– Bước đi nơi khác!

Cái hất tay đó, không làm sao Quan Sơn Nguyệt rời tay khỏi vai lão, trái lại chính lão bị chấn động rồi ngã nhào. Lão lồm cồm ngồi dậy, hỏi:

– Ngươi là ai?

Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:

– Ta là một u hồn. Một u hồn mới.

Lão tăng không hỏi nữa, nhưng từ xa xa một thiếu nữ hỏi vọng lại:

– Ngươi đến đây để làm gì?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Ta không làm gì cả. Ta đến đây vì cái lũ kia đuổi ta đến.

U hồn thiếu phụ không hỏi nữa.

Quan Sơn Nguyệt chờ một lúc lâu, không nghe thiếu phụ nói gì thêm, cất tiếng hỏi lại:

– Tại sao chẳng ai mở miệng nói gì hết?

Thiếu phụ cười lạnh mấy tiếng:

– Có cái gì hay ho đâu mà nói!

Quan Sơn Nguyệt tiếp với giọng lạnh:

– Ta biết, tất cả các ngươi đây, ai ai cũng trải qua nhiều nỗi thương tâm, ta biết tất cả các ngươi đều mong cầu được hủy diệt, ao ước cho điềm u linh của các ngươi tiêu tán, nhưng chẳng bao giờ các ngươi chẳng thấy hy vọng toại nguyện, thì ít nhất các ngươi cũng bắt chuyện phiếm với nhau, cho cảnh tịch mịch bớt đè nặng trên điềm u linh đó chứ? Tại sao các ngươi cứ trầm mặc mãi, khiến cho tịch mịch cứ nặng nề thêm như thế?

Thiếu nữ chưa kịp đáp, bốn năm lão tăng đã hét lên:

– Cút! Cút đi khỏi nơi nầy gấp! Không ai mượn ngươi lải nhải, xốn tai bọn ta lắm.

Quan Sơn Nguyệt hơi giận:

– Trước khi chết, các ngươi là những kẻ xuất gia mà! Sao các ngươi ăn nói cộc lốc thế? Con nhà Phật có thái độ như vậy sao?

Câu nói đó mường tượng gây căm phẫn cho đa số, bọn lão tăng cùng nhảy dựng lên, cùng nhào tới. Một lão tăng quát:

– Ngươi bắt bọn ta, nhốt đống ta đây, làm cho bọn ta khổ sở cùng cực, như vậy cũng chưa vừa lòng sao, lại còn tìm đến chốn nầy mà tạo thêm khổ cho bọn ta nữa? Bọn ta phải đánh chết ngươi mới hả cho!

Quan Sơn Nguyệt cố ý không hoàn thủ, cứ để cho họ tay đấm, chân đá, những cái đấm đá đó bay tới tấp đến mình chăng, ào ào như mưa to đổ xuống.

Nhưng, chàng không nghe đau đớn gì cả. Trái lại, các u linh chạm vào người chàng rồi, đều bị bật dội trở lại có u linh lại ngã ngay, bò lăn chiêng.

Cảnh hỗn loạn diễn ra, trông họ hết sức thương hại.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Các ngươi nóng giận, múa may làm chi cho khổ lấy mình thế? Ta đã chết rồi các ngươi múa may cũng vô ích, có lẽ nào ta lại chết một lượt thứ hai nữa?

Bọn lão tăng lóp ngóp chở dậy, cũng sửng sốt, chẳng ai biết phải làm gì, đối phó với tình hình.

Bỗng, một người kêu lên:

– Cái thằng nầy còn nguyên vẹn vũ công! Gã đã trở thành một lệ quỷ rồi đó nhé!

Mấy người khác cũng kêu lên:

– Đúng vậy! Gã là một con quỷ dữ!

Bỗng, tất cả cùng rộ lên cười lớn.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:

– Các ngươi cười chi?

Một lão tăng cười to hơn trước, thốt oang oang:

– Kiên nhẫn thọ nhục mấy trăm năm qua, bây giờ có dịp hả hơi, thì cứ cười mà xả hơi.

Lão lại vọt mình tới, hai tay vươn ra, nhằm đôi mắt của Quan Sơn Nguyệt mà đâm vào.

Dù không muốn hoàn thủ, vô hình trung bản năng tự vệ bừng dậy, bất giác chàng cất cao cánh tay lên, gạt ngang qua.

Lão tăng bị bắn đi xa. Lão bay vọt lên trên đỉnh đầu các u linh kia, bay luôn ra khỏi Bạch Cốt Sơn, rơi xuống triền. Lập tức, lão biến thành một đợt khói mờ, trong phút giây, đợt khói tan biến mất dạng.

Quan Sơn Nguyệt có cảm giác đôi chân nhích động nhẹ nhẹ.

Tiếp theo đó, mấy lão tăng nữa nhào tới.

Lần nầy thì Quan Sơn Nguyệt chẳng dám dùng tay mà gạt bắn họ như trước.

Chàng trụ hình, đứng vững, để mặc họ chạm vào người chàng.

Các lão tăng đó phảng phất còn nhớ những chiêu thức vũ công, họ chỉ nhằm vào những yết huyệt trên người chàng làm mục tiêu mà đá chân, đấm tay.

Quan Sơn Nguyệt như lần trước, chẳng cảm giác đau đớn nào cả. Chàng không nhúc nhích, song nội lực trong người chàng do sự phản ứng tự nhiên phát sanh, chàng không làm gì nhưng nội lực của chàng cũng bắn dội các lão tăng trở lại tung bay khỏi đầu các u linh khác, rơi xuống triền, biến thành khói, tiêu tan như u linh trước.

Rồi từ bên dưới chân núi, một tràng tiếng nổ vang lên ầm ầm, Bạch Cốt Sơn nứt ra, một phần lớn tách rời khỏi núi.

Quan Sơn Nguyệt biết ngay sự tình như thế nào rồi.

Các u linh lão tăng lợi dụng vũ công còn nguyên vẹn của chàng làm cho thần khí tiêu tan, xương cốt của họ cũng tan biến luôn. Do đó, có khoảng trống trong lòng Bạch Cốt Sơn, lớp núi bên ngoài sụp xuống, lấp lỗ trống đó.

Nhanh như chớp, chàng tung mình lên cao, tránh cái chụp của các lão tăng, sau đó chàng đáp xuống giữa một nhóm u linh khác.

Vừa lúc đó, Lữ Nham đến nơi, hỏi gấp:

– Thật sự ngươi muốn làm cho bọn ta tiêu tan hết phải không?

Quan Sơn Nguyệt nổi giận, gắt:

– Nói nhảm! Chính chúng nhào vào người ta, chứ ta thì có làm gì đâu mà ngươi đổ lỗi?

Lữ Nham giật mình, lẩm nhẩm:

– Không ngờ bọn trọc đó khả ố cùng cực như vậy. Ngươi hãy lui ra xa xa đi, đừng để chúng chạm vào mình ngươi. Ta quên dặn dò ngươi điều đó!

Hiện tại tình thể đổi khác rồi, Quan Sơn Nguyệt thoái xuất vô hình trung chàng tạo ra một kình lực, kình lực đó phát ra, chấn động những u hồn ngoài tầng, những u hồn nầy kết thành một vòng vây, vòng vây bị chấn động, một lỗ hổng bày ra.

Rồi những u hồn nội tầng do lỗ hổng đó, chạy ùa ra, u hồn ngoại tầng cố ngăn chận, song làm sao ngăn chận nỗi?

Lữ Nham hỏi gấp:

– Ngươi có thể giúp đỡ một chút việc chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Ta giúp thế nào được? Nếu ta cử động, thì các u hồn khác sẽ tiêu tan nhanh chóng. Như vậy có khác nào ta giục chúng hủy diệt gấp?

Lữ Nham lo lắng ra mặt:

– Đúng vậy! Đó là một sự cố kỵ ... Tuy nhiên, còn có biện pháp nầy, là ngươi có thể lợi dụng vũ công, bắt chúng, đưa trở vào. Nếu được, đem chúng trám vào lỗ hổng, cho vòng vây liên lạc lại như cũ.

Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:

– Ích lợi gì mà cần làm như vậy? Chúng không tự động bỏ ra ngoài sao?

Lữ Nham giải thích:

– Ngươi không hiểu. Trong lòng Bạch Cốt Sơn, có gió cực lạnh, gió đó quét trúng vào u hồn nào, thì u hồn đó như đông lại thành giá băng, không còn hành động tùy ý được nữa.

Quan Sơn Nguyệt cũng hoang mang phần nào trước cảnh rối loạn của các u hồn, vì hoang màng nên chàng mất tự chủ, hành động kém suy nghĩ, hay đúng hơn chàng không kịp suy nghĩ gì cả, nghe Lữ Nham bảo thế, chàng vội chụp hai u hồn, quăng đến lỗ hổng.

Động tác đó làm kinh động đến các u hồn khác, chúng như bị cầm chân lại tại chỗ. Rồi chúng nhóm tụ lại thành một khu, chúng quanh quẩn trong khu đó, không còn dám loạn động như trước.

Tất cả đều im thin thít, chỉ có một thiếu phụ khóc than rên tỉ:

– Tại sao ngươi giúp bọn kia, gây tổn hại cho bọn nầy?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Các ngươi tự mình không tha thiết đến sự tồn tại, cái tâm tùy tiện các ngươi, muốn làm chi thì làm, tại sao các ngươi lại lôi cuốn người khác vào cảnh đồng quy ư tận?

Thiếu phụ vẫn khóc:

– Chứ ngươi không hãm hại bọn ta sao? Ngươi quăng hai u hồn đó, trám bít lỗ trống, gió lạnh luồng lộn quanh đây, làm cho bao nhiêu u hồn trở nên băng giá, ngươi cố ức độ hai u hồn đó thọ khổ như thế nào qua hành động của ngươi chăng?

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Chúng làm sao?

Lữ Nham lo âu bối rối, thốt gấp:

– Đừng nghe lời mụ ấy! Đừng! Mụ ta chỉ nói nhảm thôi.

Quan Sơn Nguyệt khoái tay:

– Ngươi im đi, để ta hỏi nàng cho biết sự tình như thế nào.

Thiếu phụ tiếp:

– Ngươi cũng biết, lúc sống, chúng ta không hạnh phúc chi, lúc chết vẫn còn bị cái khổ sanh tiền đeo đuổi, dù tử hậu vẫn bị ám ảnh như thường, cho nên chúng ta đều mong ước được hủy diệt sớm, để được giải thoát sớm ...

Quan Sơn Nguyệt chận lại:

– Ta hiểu điều đó nhưng các ngươi muốn hủy diệt mà lôi cuốn các u hồn khác cũng hủy diệt theo các ngươi, trong khi họ không muốn như vậy. Thử hỏi hành động của các ngươi có hợp lý không chứ? Mà thôi, ta không nói chi đến việc đó nữa, bây giờ ta thử hỏi ngươi, hai u hồn kia rơi xuống đó, gặp gió lạnh rồi, chúng sẽ phải ra sao mà ngươi quá tha thiết cho chúng, trách cứ ta nặng lời?

Thiếu phụ đáp:

– Gió lạnh bên dưới rít từng cơn, mỗi cơn gió quét qua như ngàn đao bén cắt cứa da thịt, họ vừa lạnh, vừa đau, đau không tưởng nỗi. Ta nghĩ, dù cho họ có là đồng, là sắt, là đá, họ cũng không chịu nổi cảnh đó.

Quan Sơn Nguyệt nhớ lại số ngươi ở cảnh giới thứ nhất trong ngục Vong Hồn, tất cả đều mong được chết hơn là chết đau mà sống. Ở cảnh giới thứ hai nầy, cũng có cái trường hợp đó, u hồn muốn hủy diệt hơn là tồn tại trong đau đớn.

Chàng trầm ngâm một chút, rồi hỏi:

– Có cách nào cứu chúng ra khỏi nơi rơi xuống đó chăng?

Thiếu phụ đáp:

– Chúng ta không thể xuống đó được, nếu xuống là bị lạnh như họ ngay.

Chỉ có mỗi một mình ngươi.

Lữ Nham vội ngăn:

– Không được. Đành là với vũ công còn lại nơi ngươi, ngươi xuống đó, chịu đựng nỗi cái lạnh một thời gian, song ngươi đưa chúng lên trên rồi, chính ngươi cũng bị đông lạnh như họ, thay thế cho họ. Ngươi sẽ ở dưới đó mãi mãi.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một, đoạn bất thình lình chạy vụt về lỗ hổng.

Lữ Nham khuyên:

– Đừng tự chuốc khổ, ngươi hãy nghe lời ta. Bên dưới đó lạnh lắm!

Quan Sơn Nguyệt buông nhanh:

– Ta muốn biết cái lạnh đó như thế nào.

Lữ Nham vẫn khuyên:

– Đừng liều lĩnh!

Quan Sơn Nguyệt cứ theo lỗ hổng đó, nhảy xuống.

Nhưng, chàng biết hết sức lấy làm lạ. Còn đâu là Bạch Cốt Sơn? Bên dưới đó, là khung cảnh trong sáng, chẳng có u hồn, chẳng có lạnh, không khí ấm áp vô cùng.

Chàng đã đi qua cảnh giới thứ hai của Hắc Ngục Vong Hồn.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 76

Thắng Mực Tàu, Đau Lòng Gõ

Người nghinh đón Quan Sơn Nguyệt bên ngoài cảnh giới thứ hai, vẫn là Tân Tử Minh. Lão đứng đó, nhìn chàng, điểm nhẹ một nụ cười trong tay có cầm một cái chén. Chén đó chứa một thứ nước cốt, bốc lên ngùn ngụt. Lão trao cái chén nước cốt đó cho chàng.

Quan Sơn Nguyệt chưa hết giật mình vì găn lại lão ta ở đây càng lấy làm lạ hơn khi thấy lão trao chén cao cho chàng. Chàng hỏi:

– Các hạ làm gì thế?

Tân Tử Minh cười đáp:

– Mầng cho Quan đại hiệp, lấy cái tâm nhân đạo vô biên, độ các vong hồn thoát ly cảnh giới thứ hai. Chén cao nầy có cái tên là Vong Ưu Cao, hòa với nước thành cao, để nguyên trạng là tán, xin đại hiệp uống ngay đi.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, lại hỏi:

– Tại sao các hạ muốn cho tại hạ phải uống chén cao đó?

Tần Tử Minh nghiêm sắc mặt:

– Cảnh giới thứ hai của Hắc Ngục Vong Hồn, tuy toàn là hư ảo cấu thành, song vẫn do một học vấn huyền lĩnh chỉ dẫn phương pháp. Bởi đại hiệp vừa thoát từ mông lung, hư ảo mà ra, có lẽ tâm hồn cần phải được trấn định, hoặc tẩy trừ những dấu vết lo ngại, cho nên cần phải uống thứ Vô Ưu Cao nầy, để lấy lại bình tĩnh, sáng suốt.

Rồi lão tiếp:

– Đại khái, cái lý do khiến đại hiệp uống chén thuốc là thế còn như những gì khác thì tại hạ không hiểu lắm, sức học về khoa huyền linh của tại hạ rất kém.

Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:

– Thế là các hạ không giải rõ lý do chánh yếu của chén thuốc rồi. Uống một chén thuốc mà không hiểu cái công dụng thực sự của nó như thế nào, thì làm sao dám uống, hở các hạ?

Lão đáp:

– Tại vì lão phu không giải thích rành rẽ, nên đại hiệp chẳng được yên tâm.

Chén thuốc nầy giúp đại hiệp phục hồi phần tiêu hao của ngươn thần khi đại hiệp xâm nhập vào cảnh giới thứ hai. Hơn nữa, khi ra khỏi cảnh giới thứ hai đó rồi, đại hiệp vẫn còn hoang mang, thương cảm những u hồn trong đó, chén thuốc này giúp đại hiệp quên tất cả những ảo cảnh, để cái tâm được bình tịnh vậy thôi. Tóm lại, chén thuốc sẽ trả đại hiệp về nguyên trạng, từ thể xác lẫn tinh thần, trước khi vào cảnh giới thứ hai.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ hỏi:

– Uống chén thuốc vào, là nhất thiết việc gì cũng quên mất?

Tần Tử Minh gật đầu:

– Phải đó! Trang chủ đi khắp sông núi hải hồ bốn phương đất nước, tìm kỳ dược phối hợp lại, chế luyện ra thứ Vô Ưu Tán này, và chính người đích thân nấu nước, hòa thuốc cho đại hiệp dùng đó.

Quan Sơn Nguyệt đã cầm cái chén nơi tay, sắp sửa uống. Nghe Tần Tử Minh thốt đoạn cuối cùng, chàng liền ngưng tay lại, rồi hỏi:

– Chính Trang chủ đích thân hòa thuốc đấy à?

Tần Tử Minh gật đầu luôn:

– Phải! Và sự tình đó không phải thường thường có đâu nhé! Trang chủ bình sanh có tình tự tôn, đối với bất cứ ai cũng từ trên cao nhìn xuống. Duy đối với Quan đại hiệp thì người phá lệ cũ, cam tâm hành hạ mình làm một cái gì để giữ tròn lễ độ với đại hiệp. Đại hiệp nên hiểu, loại thuốc này pha không khéo thì hiệu dụng không đúng mức đấy. Không khéo là ở chỗ nước nhiều nước ít, nước nóng nước nguội, ngoài ra còn phải dùng một phân lượng vừa vặn ...

Lão ta kết luận:

– Công phu lắm đó, đại hiệp ơi!

Quan Sơn Nguyệt lạnh lùng:

– Nhưng, phải mất bao nhiêu thời gian hở lão trượng?

Tần Tử Minh cười đáp:

– Đại hiệp mỉa mai Trang chủ quá đi thôi. Dù sao thì Trang chủ cũng dành cho đại hiệp một điểm chân thành. Phải biết nấu chén thuốc nầy, Trang chủ dùng trọn bốn thùng nước, ngồi trước lò mà đun củi, đun mãi cho đến khi nước còn đúng một chén nầy. Đại hiệp tưởng tượng đi, cũng phải mất bao nhiêu thời gian.

Quan Sơn Nguyệt giật mình:

– Mất nhiều thời gian như thế sao? Vậy là công phu đâu phải nhỏ!

Tần Tử Minh giục:

– Uống đi, đại hiệp, đừng để thuốc nguội mất linh hiệu. Thuốc nấu xong mất một ngày, áp dụng phương pháp đặc biệt, giữ cho thuốc nóng suốt một ngày nữa.

Đại hiệp đừng để nó nguội rồi phải phí công nấu lại, mất thì giờ lắm.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Nấu một hôm, bảo trì nhiệt độ một hôm, mà tại hạ thì ở tại Hắc Ngục Vong Hồn ...

Tần Tử Minh chận lời:

– Ba hôm rồi đó!

Quan Sơn Nguyệt không tin:

– Làm gì đến ba hôm? Ta nhận thấy, chỉ hơn mấy khắc thôi ...

Tần Tử Minh lắc đầu:

– Lão phu không hề bịa chuyện, nói vu vơ đâu. Đại hiệp ở đây được ba hôm rồi vậy. Thực ra thì cũng còn nhanh đó nhé, trong ba hôm mà đại hiệp từ sanh vào tử, rồi từ tử lại sanh, chẳng khác nào một cuộc luân hồi trên cõi thế. Làm một cuộc luân hồi, người ta ấn định thời gian ít nhất cũng năm sáu mươi năm đến một trăm năm, trừ trường hợp yếu tử, còn đại hiệp chỉ có ba hôm thôi, mà cũng xong cuộc luân hồi. Thế chẳng đáng gọi là nhanh sao?

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Thật tại hạ không ngờ mình lại ở đây quálâu như vậy. Tại hạ cứ cho rằng mình như mới vào đây thôi, thế mà đã qua ba ngày đêm liền!

Chàng không ngần ngại, uống cạn chén cao Vô Ưu. Thứ cao đó vừa đắng, vừa cay, uống vào rồi, chàng muốn mửa ra ngay, song chàng cắn răng, cố nuốt cho thuốc theo hơi nuốt chạy luôn xuống bụng.

Tần Tử Minh tiếp lấy chén không, niềm vui lộ trên gương mặt, lão thốt:

– Đại hiệp uống chén cao, thật là hay vô cùng! Trang chủ chỉ sợ đại hiệp từ khước thôi.

Miệng còn đắng, Quan Sơn Nguyệt nhăn nhó mặt mày, nhưng cũng cố điểm một nụ cười gượng gạo, hỏi:

– Tại sao Trang chủ lại sợ như vậy?

Tần Tử Minh giải thích:

– Trang chủ nghĩ rằng, trong tình thế chưa phân biệt là địch hay là bằng hữu của nhau, đại hiệp tất phải cẩn thận phòng bị, và cái lẽ đương nhiên là không khi nào dám uống thứ gì do một người mà mình chưa tin tưởng trao cho. Phải biết, như lão phu đã nói, nấu được chén cao Vô Ưu đó, Trang chủ hao phí bao nhiêu thời gian và tâm tư! Cho nên người phải sợ đại hiệp từ chối. Và nếu quả thật đại hiệp từ chối thì cái công phu của người cầm như trôi theo dòng nước, cuốn theo ngọn gió đưa rồi!

Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:

– Trang chủ khéo đa nghi! Tại hạ hiện tại như con cá nằm trên thớt, con thịt nằm trong chuồng, sanh mạng đặt trọn nơi tay người, người muốn xử trí cách nào tùy hứng. Thì, muốn giết tại hạ, Trang chủ có thiếu chi phương tiện, đợi gì phải mất công nấu thuốc độc mấy hôm liền?

Tần Tử Minh thở dài:

– Đại hiệp quả thật cao kiến hơn người thường. Mà tánh tình lại sảng khoái, chẳng bù Trầm tiên sanh ...

Lão lại làm một cuộc so sánh giữa chàng và Trầm Quân Lượng!

Mùi vị đắng của thuốc đã qua, Quan Sơn Nguyệt chợt nghe vị ngọt thấm nhuần trong nước bọt, và một mùi thơm từ tâm phế lồng lên mũi. Kế đó, toàn thân thư thái vô cùng.

Bất giác, chàng vươn tay duỗi chân, làm mấy động tác luyện gân cốt, rồi hỏi:

– Lúc trước, Trầm Quân Lượng vượt qua cảnh giới thứ hai, cửa ngục Vong Hồn, phải mất bao nhiêu thời gian?

Tần Tử Minh đáp:

– Bảy hôm! Lúc y vượt qua cảnh giới, thì vẻ người phờ phạc, gân xương mỏi, khí lực kiệt, Trang chủ phải sai người đem cho y thứ thuốc Cố Thần Bồi Ngươn, y không dám uống, kết quả y mang khổ cho đến ngày nay, công lực chưa khôi phục toàn vẹn ...

Quan Sơn Nguyệt có gặp qua Trầm Quân Lượng, nhận thấy gương mặt y xanh nhợt, chừng như có bịnh. Bây giờ chàng mới hiểu nguyên nhân của tình trạng đó. Chàng trầm giọng hỏi:

– Thật vậy à? Y ở tại cảnh giới thứ hai này đến bảy hôm à?

Tần Tử Minh gật đầu:

– Thật chứ! Đúng bảy hôm. Tuy nhiên, vượt qua cảnh giới này đâu có phải là không khó khăn? Cho nên, dù y phí mất bảy hôm, kể ra cũng là một tay khá!

Phải biết, trong thời gian đó, y không ăn, không ngủ, luôn luôn ứng phó với mọi ấn tượng ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Các hạ hiểu sai lời nói của tại hạ. Tại hạ chỉ muốn biết y có uống Vong Ưu Tán như tại hạ hay không ...

Tần Tử Minh cười hì hì:

– Không. Vì chỉ có tinh thần và ngươn khí của y tiêu hao mà thôi.

Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

– Những ảo tưởng y gặp trong Vong Hồn Hắc Ngục có đồng dạng với những ảo tưởng của tại hạ chăng?

Tần Tử Minh đáp:

– Tự nhiên là đồng dạng. Sở dĩ y không cần uống Vong Ưu Tán là vì phương pháp vượt giới cảnh của y không giống với phương pháp của đại hiệp. Trang chủ không đành phí bỏ một thứ thuốc cực quý như thế.

Quan Sơn Nguyệt nghe cảm hứng trào dâng rạt rào. Đồng thời, chàng cũng động tính hiếu kỳ, hỏi tiếp:

– Y vượt cảnh giới với phương pháp như thế nào?

Tần Tử Minh đáp:

– Y dùng phương pháp tối tàn nhẫn, tối độc ác, để nguyên thân xác bằng xương bằng thịt mà đi.

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Thế các u linh không ngăn trở y?

Tần Tử Minh mỉm cười:

– Tự nhiên là có ngăn trở chứ! Các u linh khổ van cầu, thậm chí biểu hiện mọi hình dung khủng bố để dọa khiếp y, chúng làm mọi cách song không ngăn chận y nổi ...

Quan Sơn Nguyệt cau mày:

– Y thản nhiên nhìn các u linh và thần đồng tiêu diệt sao?

Tần Tử Minh gật đầu:

– Đúng vậy. Y làm như không thấy gì, ngang nhiên tiến tới, rồi vì ứng phó với hàng ngàn hàng vạn u linh, y mất hết bảy hôm, tâm lực tiêu hao quan trọng ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Thật tình tại hạ không hiểu nổi! Cảnh giới thứ hai lấy chữ Nhân là tiêu chuẩn, dụng ý là khảo nghiệm lòng nhân từ của con người, mà y lại dùng phương pháp tàn bạo để thông qua ...

Tần Tử Minh cười nhẹ:

– Đại hiệp nói câu đó nghe hay quá chừng! Lão phu xin hỏi đại hiệp, tiếp xúc với những u linh đó, đại hiệp có đồng tình với chúng chăng?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Có chứ! Tại hạ rất đồng tình với họ trong xử cảnh đó ...

Tần Tử Minh lắc đầu:

– Đại hiệp nghĩ như thế là bất đồng với thế nhân về tiêu chuẩn nhân từ rồi.

Chúng ở trong một xử cảnh mà mọi hy vọng đều không thể phát sanh, tuy nhiên họ vẫn nuôi niềm dục vọng, họ bị những dục vọng đó bao mờ tâm ý, như vậy đủ biết lúc sống họ không thuộc hạng người có đầy đủ thiện lương ...

Quan Sơn Nguyệt thở dài:

– Phàm là con người, ai không có dục vọng ít nhiều? Đó là cái tính thông thường của thế nhân mà! Thì, đâu thể lấy đó làm tội.

Tần Tử Minh cũng thở dài:

– Trời đất bất nhân, sanh loài chó má, rồi lại sanh hạng người hung ác để sát hại thứ chó má đó. Nhưng, đạo trời không khuyết kém, cho nên có cái lẽ báo ứng tương xứng, để thực hiện sự báo ứng đó, trời sanh luôn hạng anh hùng hiệp sĩ, có phận sự giết sĩ, có phận sự giết gian, sát bạo. Đại hiệp thấy cái chỗ mâu thuẫn lẩn quẩn của ý trời chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Cái đạo lý đó huyền diệu thâm hậu cực độ, chúng ta là những con người phàm tục, không làm sao hiểu nổi đâu.

Tần Tử Minh mỉm cười:

– Những u linh tụ họp tại Bạch Cốt Sơn đều là những con người lúc sanh tiền làm nhiều tội ác. Trừ diệt ác nhân, dù là linh hồn của ác nhân, cũng là một hành vi nhân đạo. Còn như đại hiệp có hành động vừa rồi thì đó là cái tâm của thánh nhân, so với hành vi nhân đạo thì hành vi thánh tâm cao hơn một bậc.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc, đoạn thốt:

– Bỏ qua những điều đó đi, đừng nói đến nữa. Tại hạ xin trở lại vấn đề của Trầm Quân Lượng. Y không uống Vô Ưu Tán thì ấn tượng của giới cảnh thứ hai vĩnh viễn còn khắc ghi trong tâm não của y ...

Tần Tử Minh cười nhẹ:

– Y quên hay không quên, cái đó chẳng quan hệ gì, bởi đối với các u linh, y chẳng mảy may thương tiếc, y hủy diệt chúng thì cũng do suy tư của y cho rằng lẽ đương nhiên là phải hành động như vậy. Y không hề thấy mình có lỗi ...

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Tại hạ vì chúng mà cam tâm hy sanh, như vậy đâu cần uống Vong Ưu Dược?

Tần Tử Minh cãi:

– Không, chính vì đại hiệp cam tâm nên cần phải uống Vong Ưu Tán đó. Bởi những ấn tượng bội nghĩa vong ân còn lưu đọng nơi tâm não của đại hiệp thì sau nầy lòng nhân cứu thế tế nhân của đại hiệp phải giảm đi, Trang chủ không tiếc công, tiếc thuốc, chẳng qua để bảo giữ cái tâm trung nghĩa của đại hiệp đó.

Quan Sơn Nguyệt bật cười sang sảng:

– Cái đó là vì Trang chủ của các vị quá lo nghĩ xa xôi mà thôi, tại Bạch Cốt Sơn, tại hạ nhất cử nhất động đều do bổn tâm mà làm, chứ không hề mong mỏi ở các u linh một sự báo đáp nào thì bổn tâm của tại hạ đâu có vì đám u linh đó mà cải biến chủ trương?

Tần Tử Minh cười nhẹ:

– Lão phu không hiểu gì hơn là nghe Trang chủ nói làm sao thì thuật lại làm vậy với đại hiệp. Còn như Vong Ưu Tán thì quả thật là một món thuốc rất quý đó đại hiệp, giả như đại hiệp không cần nhờ nó mà vong ưu, khước phiền thì nó cũng là một linh dược cực kỳ bổ dưỡng. Uống nó vào, đại hiệp vẫn có cái lợi như thường.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Nghe nói vị minh chủ của thủy đạo lục lâm là Thương Nhân bị giam tại cảnh giới thứ hai trong Hắc Ngục Vong Hồn ...

Tần Tử Minh gật đầu:

– Phải. Lúc đại hiệp vừa thoát ra ngoài là lão phu tuân theo lời giao ước, cứu tỉnh y rồi. Chỉ vì y thọ nội thương trầm trọng, cho nên lão phu đã đưa y đi điều trị.

– Tốt! Còn Ngô Phụng và Vương Phương, cả hai ở tại cảnh giới thứ ba, xin tiền bối đưa tại hạ đến đó gấp, để tìm cách cứu họ thoát ly nơi giam hãm. Tại hạ cũng muốn biết ở trong cản giới đó có những gì?

Tần Tử Minh mỉm cười:

– Thì lão phu xin làm tiền đạo, đưa đại hiệp đi!

Lão ta bước đi ngay khi buông dứt câu nói.

Họ đi chưa được bao xa, đã thấy một vọng cửa gỗ chắn ngang trước mắt, trên cửa chỉ có tấm bảng ghi mấy chữ:

«Đệ Tam Cảnh Giới Hắc Ngục Vong Hồn».

Không có những câu liễn như ở tại cửa hai cảnh giới thứ nhất và thứ nhì.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:

– Tại sao nơi đây không có liễn?

TầnTử Minh cười đáp:

– Hai cảnh giới trước, có liên hệ đến sự dõng và sự nhân, cho nên Trang chủ dán liễn để ngầm thức tỉnh người vào cảnh. Còn tại cảnh giới thứ ba này thì mục đích là trắc nghiệm trí lực, phàm trí là tri, mà cái sự biết của con người phải bao la vạn tượng, biến hóa đa đoan, con người tùy cơ mà ứng biến, do đó không thể dùng một vài mươi chữ, gói ghém trong một đôi câu liễn mà biểu đạt được trọn vẹn tất cả quyền vi, tế nhị. Cho nên, Trang chủ không đặt liễn tại đây.

Quan Sơn Nguyệt không nói gì thêm nữa, đưa tay đẩy cửa.

Tần Tử Minh bước theo vào.

Quan Sơn Nguyệt cau mày hỏi:

– Vào cảnh giới này, tại hạ không đi một mình được sao?

Tần Tử Minh gật đầu:

– Đúng vậy. Ở đây, những hiện tượng đều là thực tế, khác với những ảo ảnh ở hai cảnh trước. Lão phu phải đi theo, phòng bất trắc cho đại hiệp.

Quan Sơn Nguyệt lại cười, không hỏi nữa, ung dung bước tới, tuy ung dung song vẫn chững chạc, niềm cương quyết dồn cả xuống đôi chân đó.

Giả như chàng biết rằng mình sắp đi vào cảnh cùng, chàng cũng đi như thường. Và chàng nghĩ, có hối hả, vội vàng, chung quy rồi cũng phải đi thì tại sao mình chẳng ung dung cho ra cái vẻ?

Bên trong, chẳng có cái gì là đặc biệt, bất quá như một gian phòng rộng rãi của một nữ nhân thông thường.

Chàng vào đó một lúc rất lâu, song chẳng có một người xuất hiện, chẳng có một sự tình phát sanh. Chán nản quá, chàng hỏi:

– Đây là nơi nào?

Tần Tử Minh đập nhẹ tay xuống một chiếc ghế, bảo:

– Đại hiệp đừng nóng nảy, cứ bình tâm ngồi xuống đi. Cái gì phải đến, sẽ đến với đại hiệp mà!

Quan Sơn Nguyệt không cần suy nghĩ, ngồi xuống ngay.

Ngoài một mùi hương thoang thoảng phất qua mũi, chàng chẳng phát hiện ra một sự tình nào khác cả.

Ngồi một lúc, chàng toan mở miệng hỏi Tần Tử Minh, nhưng chàng vừa quay đầu sang phía lão ta, chàng không còn thấy lão ở đó nữa.

Lão đi đâu? Đi từ lúc nào?

Quan Sơn Nguyệt bắt đầu hồi hộp. Nhưng hồi hộp là vì hiếu kỳ, vì chàng biết là trong phút giây sắp tới đây sẽ có sự lạ, chứ chẳng phải vì mất bóng Tần Tử Minh mà chàng phải nao núng. Chàng đâu cần sự có mặt của lão bên cạnh chàng? Bình sanh chàng rất ghét sự ỷ lại kia mà!

Mùi hương lạ đó càng lúc càng nghe nặng, ngồi trong phòng kín, ngửi mùi nặng dù là mùi thơm, con người cũng cảm thấy tâm não hôn trâm không nhiều thì ít.

Chàng ngẩng mặt nhìn lên một bức vách, thấy hai cánh cửa sổ rất dài. Bên ngoài cửa sổ là hoa cỏ, cây lá, không được xum xuê cho lắm, gió từ xa từng cơn thổi đến, gây tiếng động xạc xào. Chàng đứng lên, định mở tung rộng rãi hai cánh cửa sổ đó cho thoáng khí lọt vào làm loãng mùi hương nặng bên trong. Nhưng, đứng lên rồi, vừa cất chân chàng như đóng đinh tại chỗ, mà chàng chỉ cảm thấy không còn một điểm khí lực để nhấc chiếc chân. Làm sao chàng hiểu được nguyên nhân sự tình?

Nhưng rồi chàng nhớ lại, ở đây người ta trắc nghiệm trí và lực thì sự kiện này hẳn cũng do công cuộc trắc nghiệm trí và lực mà có. Cho nên chàng bình tâm lại ngay, chờ xem cái gì sẽ xảy ra kế tiếp!

Đợi mãi, chẳng thấy gì, chàng mệt mỏi quá chừng, muốn ngồi xuống ghế, chứ cứ đứng như thế này thì biết đứng đến bao giờ? Là con người bằng xương bằng thịt, có ai đứng nguyên một chỗ suốt ngày? Có ai chịu nổi việc làm đó?

Nhưng, định ngồi xuống, chàng chợt cảm thấy mình cũng không còn khí lực làm cái việc ngồi xuống nữa. Rồi chàng bắt buộc phải đứng như vậy, đứng như một pho tượng gỗ mà phải lâu lắm.

Sau cùng, chàng nghe có tiếng cười khúc khích ở phía sau, tiếng cười tập thể do năm sáu nữ nhân phát ra. Chàng muốn quay đầu nhìn lại nhưng cần cổ chàng cứng đờ, không làm sao lắc, chuyển, xoay được theo ý muốn. Bắt buộc, chàng đành ỳ ra như thế, để mặc cho các nữ nhân đó từ từ tiến đến gần chàng.

Rồi có vật chi đó, rơi xuống nền, nhưng âm thinh thì mường tượng một vật rơi xuống nước. Trong khi đó, bọn nữ nhân cũng cười khúc khích như trước.

Chừng như họ dùng một thứ tiếng lóng, nói năng với nhau. Tuy nhiên, giọng cười nghe rất dịu, tiếng nói cũng dịu như vậy.

Có nàng bạo dạn, vươn tay nắm lưng áo của chàng, chực cởi ra.

Chàng hét lên:

– Các ngươi làm gì thế?

Người phía sau lưng không hề lưu ý đến chàng, cứ tiếp tục làm cái việc cởi áo của chàng, họ đã mở đường dây lưng cột ngang áo, họ đã cỡi chiếc áo ngoài của chàng và bắt đầu cởi đến áo trong.

Quan Sơn Nguyệt sôi giận cực độ, nhưng không làm sao động đậy được.

Rồi chàng làm lỳ, không màng đến họ nữa. Để mặc họ làm chi thì làm.

Khi áo ngoài, áo trong cởi hết rồi, chàng lại nghe tiếng tặc lưỡi phía sau lưng, những tiếng tán thán. Họ khen thân vóc của chàng cường kiện? Thân vóc đó hấp dẫn lắm à?

Chàng không cần suy tưởng nữa, các nữ nhân đó nói trắng trợn ra là con người chàng đẹp quá, đáng mê quá. Ngôn ngữ của họ đượm đầy cái chất dâm dật, chàng nghe phải lợm giọng, chói tai. Một nữ nhân thốt:

– Không ngờ một chàng trai mặt sắt dạ đồng, mà có thân hình quá đẹp!

Làn da của hắn đáng mê thật.

Một nữ nhân khác cười, thốt:

– Đúng rồi! Da hắn trắng như ngọc, mịn màng quá, hơn hẳn da của ta nhiều!

Lại một nữ nhân khác thở dài, thốt:

– Điều đáng tiếc là con người ngọc đó lại không phải là phần hưởng thụ của bọn chúng ta! Với thân phận của chúng ta thì còn hy vọng gì?

Một nàng khác gắt tiếng, chận nữ nhân đó:

– Tử liễu đầu mày dày mặt dạn quá chừng. Bảo ngươi đến đây trợ giúp hắn tắm rửa, tại sao ngươi không làm công việc giao phó, lại đứng đây mà nhìn, mà ngắm, rồi khích động tâm tình, mơ tưởng bậy bạ? Chẳng lẽ ngươi định thưởng thức cái hương vị lạ này hay sao chứ?

Nữ nhân bị chặn lời không phục, cao giọng cãi lại:

– Ta bị khích động tâm tình, chẳng lẽ các ngươi lại không bị khích động như ta? Ta không tin các ngươi là gỗ đá hay là những xác chết không hồn!

Các nữ nhân khác chừng như bị thức phá tâm sự, cũng thở dài, thốt:

– Động tâm mà làm gì? Ích lợi chi đó, thà lơ đi còn đỡ khổ hơn! Quy củ của Trang chủ rất sum nghiêm, ai dám chạm đến mình hắn mà động tâm? Ta nghĩ ngươi nên bóp chết con tim của ngươi đi, chứ để cho nó sôi động lên mãi rồi thì ngươi lại mất mạng luôn đó nhé.

Một nàng tiếp nối:

– Không hưởng thụ được thì chúng ta cứ sờ mó cái vóc ngọc ngà đó cũng được chứ! Có hao mòn chi đó mà sợ? Ăn nhiều không được thì tìm cách mà chấm mút tí ti cũng đỡ khổ đấy.

Rồi các nàng cùng cười lên hi hí, bảy tám bàn tay, bảy tám chiếc chân nhích động, chân chịu, tay bế, quăng Quan Sơn Nguyệt vào bồn tắm.

Quan Sơn Nguyệt không thể làm một cử động nhỏ để phản kháng.

Lúc quăng chàng vào bồn tắm, bọn nữ nhân không muốn cho chàng trông thấy mặt, nên để cho chàng nằm sấp, úp mặt xuống đáy bồn. Một nữ nhân lòn tay vào nước, nâng đầu chàng lên cho mũi và miệng chàng không ngộp nước, chàng chỉ thấy tay nàng trắng nỏn mà thôi.

Rồi bảy tám bàn tay bắt đầu chà xát lên mình chàng, có nàng vốc nước trong lòng bàn tay, rưới lên đầu, lên cổ chàng đùa giỡn.

Chúng vừa hành động vừa cười rúc rích ...

Bỗng dưng bị ngươi mang đi tắm rửa, cầm như chàng là một trẻ nít, tự nhiên Quan Sơn Nguyệt phải phẫn nộ, nhưng phẫn nộ thì cũng chẳng làm gì được.

Không phản kháng được, chàng chỉ còn có cách là quát tháo lên, song chàng nghĩ, dù có quát tháo vị tất bọn nữ nhân ngán, chẳng những chúng không ngừng công tác, trái lại còn cười thêm. Chàng đành bất động, chỉ thở dài, thầm kêu khổ.

Nghe chàng buông tiếng thở dài, các nữ nhân giật mình, cũng ngưng bặt tiếng cười, rồi một nàng cất tiếng hỏi:

– Tại sao ngươi thở dài?

Quan Sơn Nguyệt cố lấy giọng thật dịu, đáp không phải đáp:

– Các ngươi là người của Trang chủ?

Bọn nữ nhân gật đầu:

– Phải!

Một nàng hỏi tiếp:

– Ngươi hỏi để làm gì?

Quan Sơn Nguyệt điểm một nụ cuời:

– Trong bọn các ngươi, ta chỉ biết mặt có một nàng, nàng đó là Ngọc Phương, nàng đưa ta đến đây, dọc đường ta nhờ nàng chiếu cố săn sóc từng tí, từ cái ăn cái uống ...

Nữ nhân vừa hỏi chàng đó, cười nhẹ, hỏi tiếp:

– Ngươi còn nhớ đến nàng ấy?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Nhớ chứ! Ta luôn luôn nhớ dung mạo của nàng, tuy nàng ân cần săn sóc ta, song về phương diện cảm tình thì nàng tỏ ra hết sức lạnh nhạt, lắm lúc ta cho rằng nàng là con người máy, được giao phó bên cạnh ta thôi. Cho nên, suốt quãng đường dài, ta không dám tiếp cận nàng, cứ giữ khoảng cách lễ độ mà chiêm ngưỡng dung nhan, âm thầm chiêm ngưỡng dung nhan của nàng thôi!

Nữ nhân đối thoại lắc đầu:

– Ngươi dối lòng đó! Lời nói của ngươi khó tin lắm. Ta biết, trên giang hồ, có rất nhiều nữ nhân sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn cả hồn lẫn xác cho ngươi, các nữ nhân đó có nhan sắc trên hẳn Ngọc Phương, thế mà ngươi vẫn lờ tất cả, ngươi không mảy may chú ý đến một nàng nào ...

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Đâu phải ta dối lòng, bịa lời không thật? Chỉ vì các ngươi không hiểu đó thôi. Không phải ta vô tình đối với họ, bất quá ta không dám dính dấp đến họ.

Nàng nào cũng đòi làm vợ ta, mà ta thì không thích sống chung với bất cứ nàng nào, ta không có ý lập gia đình. Đối với nữ nhân, ai đẹp thì ta khen đẹp, ai tài thì ta phục tài, ta chỉ chiêm ngưỡng, tán thưởng chứ không hề muốn hưởng dụng ...

Nữ nhân hỏi gấp:

– Tại sao?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Ta sợ phiền lụy. Có gia đình là có phiền lụy. Ngoài ra, còn một điểm này, thái độ của ta bao giờ cũng chân thành, trung trực, nếu ta lấy vợ thì ta phải giữ cái tâm duy nhất đối với vợ. Như vậy, ta đâu còn tiếp xúc với những nữ nhân khác nữa?

Nữ nhân đó bật cười vang:

– Thì ra, ngươi là một kẻ đa tình! Muốn được tiếp cận tất cả nữ nhân trên đời nên phải cố tránh bị ràng buộc bởi một người. Thế mà bọn ta cứ cho rằng ngươi là con người đá, một con người không hề tìm thấy thích thú bên cạnh nữ nhân.

Quan Sơn Nguyệt cũng cười:

– Là con người, tất phải có tri có giác, không như cỏ cây mà thiếu vắng cảm tình. Bằng cớ là ta chấp nhận tiếp xúc với rất nhiều nữ nhân từ trước đến nay.

Nhưng đến lúc nghe họ tự nguyện hiến thân và đòi hỏi ta phải tiếp nhận sự cung hiến đó, lập tức ta xa chạy cao bay ...

Nữ nhân đó lại hỏi:

– Thế thì cái thái độ chân chánh của ngươi đối với nữ nhân như thế nào?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Xem nhau như bình thủy tương phùng, nếu cần giao duyên thì thời giao duyên không quá một đêm,một ngày, sau đó mỗi người một lối rẽ, không ai nợ ai một ý tình nào, không ai bắt buộc phải tưởng nhớ đến ai.

Chàng trầm giọng tiếp:

– Thử hỏi, trên thế gian này, có nữ nhân nào chấp nhân cái lối giao duyên như thế đó chăng?

Nữ nhân cười mỉa:

– Có chứ sao không?

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Có? Ở đâu?

Nữ nhân bỉu môi:

– Trong các xóm Bình Khang!

Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:

– Đúng lắm! Rất đúng! Bình Khang không phải là chốn xa lạ gì đối với ta.

Ta vẫn thường xuyên đến đó, nhưng rất tiếc là ta không gặp kẻ xứng tâm vừa ý.

Nới đó chỉ có hạng gái tầm thường, khó mà tìm được một nàng có ít nhiều nhan sắc. Ta muốn nói đến nhan sắc chân chánh, chứ không phải là thứ ngụy tạo với phấn son ...

Nữ nhân đối thoại cũng trầm lặng một lúc, đoạn hỏi:

– Ngươi đem những việc đó nói với bọn ta, để làm gì?

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Không có ý tứ chi cả. Bất quá ta muốn trông thấy các ngươi thôi.

Nữ nhân cười nhẹ:

– Trông thấy bọn ta rồi làm sao? Bất quá, bọn ta cũng thuộc phường son phấn ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Đâu có đến nỗi như thế! Tuy không trong thấy các ngươi, ta cũng có thể hình dung các ngươi qua một dung mạo mỹ miều cho dù các ngươi không là giai nhân thì ít nhất cũng trên hạng thông thường. Các ngươi đừng quên ta từng thấy được dung mạo Ngọc Phương. Mà Ngọc Phương là đồng bạn của các ngươi, đồng đội với các ngươi. Nội cái tiếng «đồng» cũng đủ nói lên những điểm tương tự mà mỗi nàng các ngươi cần phải có.

Nữ nhân lạnh lùng:

– Bọn ta không sánh kịp Ngọc Phương đâu!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Các ngươi nghĩ thế chứ thật sự đâu phải thế, và đương nhiên là ta không chấp nhận cái ý tưởng đó rồi. Ta không thấy mặt các ngươi, nhưng ta vẫn thấy được bàn tay, cánh tay các ngươi. Chẳng hạn như tay của nàng đang nâng chiếc đầu ta đây, nếu không là một mỹ nhân thì làm gì có bàn tay mềm dịu, cánh tay trắng mịn như thế? Làn da non mát đó chừng như không chịu nổi sự chà xát của tơ lụa mặc trên mình, dù là thứ tơ lụa nhẹ nhàng nhất, mịn màng nhất.

Cánh tay của nàng đang nâng đầu Quan Sơn Nguyệt bỗng rung rung lên, Quan Sơn Nguyệt biết là những lời nói của chàng đã gây xúc động nơi nàng này rồi. Chàng vội vã tiếp luôn:

– Mỹ nhân hầu hạ tắm rửa, đó là một diễm phúc cho nam nhân, được như vậy có nam nhân nào lại không cảm giác là mình đang bay bổng lên tận chín tầng mây? Tuy nhiên, dù cho sướng bao nhiêu đi nữa, mà không được trông thấy những gương mặt đẹp bên mình thì ta nghĩ rằng cái sướng đó giảm sút đi rất nhiều. Chẳng khác nào lúc ta đang đói, các ngươi cho biết là sẽ dọn một bữa tiệc lớn mời ta, nhưng khi vào tiệc rồi thì ta chỉ được ăn toàn những thức tưởng tượng.

Dù sao thì cái bánh vẽ cũng nhạt nhẽo lắm!

Nữ nhân đó chừng như do dự. Một nàng khác cao giọng thốt:

– Chúng ta cứ cho hắn thấy mặt đi!

Một nàng khác lại ngăn:

– Không được! Trang chủ đã phân phó ...

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Chính ta thỉnh cầu mà, Trang chủ có quở trách thì cứ nhằm vào ta mà quở trách, ta đảm nhận tất cả hình phạt, nếu Trang chủ muốn trừng phạt!

Bọn nữ nhân thì thầm với nhau một lúc, sau cùng thì lật ngửa Quan Sơn Nguyệt lên, tuy nhiên các nàng cũng đỏ mặt vì thẹn. Mà chàng cũng hổ thẹn không kém chúng. Bởi, cũng như chàng, bọn nữ nhân hầu hêt chỉ mặc một thứ áo rất mỏng, chiếc áo không đủ che thân, để lộ những đường cong tuyệt mỹ ...

Chúng hầu như trần truồng! Chàng cũng trần truồng!

Chúng vừa vào lứa tuổi hai mươi ba, hai mươi bốn trở lại thôi, da trắng nõn nà, tóc dài đen mượt. Nàng nào cũng xinh, cũng đẹp, mỗi nàng có một vẻ đẹp riêng biệt.

Chúng giương mắt nhìn chàng, cơn thẹn lòng qua rồi, nàng nào cũng muốn ăn tươi nuốt sống chàng cả.

Quan Sơn Nguyệt có ý nhìn mỗi nàng một lúc, nhìn cho no mắt, sau cùng, buông tiếng thở dài, thốt:

– Các ngươi lật sấp ta trở lại đi!

Một nàng lộ vẻ không vui, hỏi:

– Chẳng lẽ bọn ta như vầy vẫn chưa xứng ý ngươi ...

Quan Sơn Nguyệt lại thở dài:

– Không phải vậy đâu! Các ngươi đồng là những trang tuyệt sắc như nhau, nếu ta được gần kề một trong các ngươi thôi thì cũng là tam sanh hữu hạnh rồi, hà huống ta lại được bao nhiêu đây cùng chiếu cố một lượt? Trời, sáu mỹ nhân quây quần bên cạnh ta! Nằm mộng ta cũng chẳng hưởng được cái cảnh này!

Song ...

Chàng lại thở dài, rồi tiếp:

– Song ... để mà chi? Quanh mình có đến sáu tiên nữ, mà ta thì lại cứng đơ như xác chết lạnh thế này! Thà không trông thấy còn đỡ khổ hơn cho ta! Các ngươi lật sấp ta lại đi, ta van cầu các ngươi!

Bọn nữ nhân lộ vẻ khoan khoái. Một nàng hỏi:

– Chớ ngươi muố làm sao?

Quan Sơn Nguyệt hỏi lại:

– Chứ các ngươi muốn làm sao với ta, trước khi đến đây?

Nữ nhân đó cười, đáp:

– Bọn ta chỉ vâng lịnh tắm rửa cho ngươi, tắm xong rồi, mang ngươi lên giường. Những gì kế đó thì chỉ có Trang chủ biết mà thôi, bọn ta chẳng hiểu chi hết.

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Những gì kế đó, ta không nghĩ là nên hiểu mà làm gì. Ta chỉ biết, trước mắt đây ...

Một nữ nhân hấp tấp thốt:

– Ngươi nghĩ quấy rồi đó nhé! Bọn ta đâu phải là những kỹ nữ?

Quan Sơn Nguyệt lại cười:

– Ngươi hạ thấp giá trị của ngươi làm chi, ta đâu có ý tưởng như vậy? Ta không bao giờ mơ những chuyện phi phận cả. Ta biết quy củ của Trang chủ các ngươi rất sum nghiêm, dù ta có chết mê chết mệt vì các ngươi đi nữa, cũng chẳng bao giờ vọng động gây tai họa cho các ngươi đâu.

Một nữ nhân buột miệng thở dài:

– Giả như thật sự ngươi có cái tâm hướng về bọn ta thì dù phải chết bọn ta cũng vui, chết mà đáng giá thì cũng nên chết lắm. Tuy nhiên, chắc gì Trang chủ giết ngay bọn ta, có thể là nhiều hình phạt ghê gớm hơn cái chết sẽ được dành cho bọn ta đó.

Rồi nàng tiếp:

– Về phần ngươi, thực sự ngươi muốn gì, cứ nói ngay ra đi không phải ái ngại.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Các ngươi còn phải hỏi nữa sao? Ta còn muốn gì hơn là được tự do hoạt động, có như vậy ta mới âu yếm ấm ôm các ngươi được. Thú thật với các ngươi, được vuốt ve, mơn trớn các ngươi rồi, dù ta phải chết, ta cũng cam tâm!

Một nàng thoáng biến sắc mặt:

– Cái đó thì không thể được rồi. Đừng nói là chúng ta trả tự do hoạt động lại cho ngươi làm chi, giả như chúng ta muốn làm như vậy cũng không thể làm được.

Bởi tình trạng của ngươi hiện tại là do công hiệu của Vong Hồn Tán gây nên, chứ không phải tại bọn ta hạ thủ.

Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Một phút sau, chàng hỏi:

– Vong Hồn Tán giúp ta quên mọi ảo ảnh tại giới cảnh thứ hai trong Hắc Ngục Vong Hồn, chẳng lẽ nó có tác dụng nào khác nữa sao?

Bọn nữ nhân toan đáp. Tần Tử Minh đột nhiên xuất hiện. Bọn nữ nhân sợ hãi, đồng chạy đi tán loạn.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 77

Tiết Tháo Một Người

Đối với sự xuất hiện đột ngột của Tần Tử Minh, Quan Sơn Nguyệt không tỏ vẻ kinh dị như ở tại hai cảnh giới trước, trái lại chàng còn cau mày, trách:

– Tiền bối đến quả thật không đúng lúc.

Dĩ nhiên chàng cố ý biểu hiện niềm thất vọng bất mãn, nên giọng nói của chàng ẩn ước phần nào hằn học.

Tần Tử Minh nhẹ buông tiếng thở dài:

– Đại hiệp là bậc hào kiệt, từng biểu lộ đại nhân, đại dõng, tại sao lại có niềm lưu luyến với sắc dục? Trên đầu chữ sắc, có chữ đao rõ ràng, và người ta cũng từng khuyến cáo những ai thích hoa, rằng hoa thường có gai. Hoa có gai thì người chơi hoa phải dè dặt, sắc có đao, thì người thấy sắc phải đề phòng sắc. Từ xưa đến nay, có biết bao nhiêu trang hào kiệt bị thân bại danh liệt nơi tay mỹ nhân?

Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:

– Thánh nhân còn chưa dứt bỏ được cái tánh tham sắc, huống chi người phàm? Từ ngàn xưa đến ngày nay, anh hùng hào kiệt phỏng có mấy tay lạnh nhạt được với sắc hương? Tại hạ chưa phải là bậc hào kiệt anh hùng, thì hương sắc vẫn còn làm dao động con tim như thường.

Tần Tử Minh lại thở dài:

– Đại hiệp đừng quên mình đang ở trong cảnh huống nào ...

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Quên làm sao được, tiền bối! Hiện tại, tại hạ đang ở trong cảnh giới thứ ba của Hắc Ngục Vong Hồn!

Tần Tử Minh vội tiếp:

– Đại hiệp còn nhớ là tốt lắm. Trong cảnh giới thứ ba bất cứ nơi nào, từ bốn phía, từ trên, lẫn cả dưới, cũng đều có nguy cơ mai phục, nếu sơ suất một chút, là đại hiệp khó tránh được nạn tai, sáu nàng đó có cái hiệu xưng là Hồng phấn lục ...

Lão chưa dứt lời, Quan Sơn Nguyệt cười vang, thốt:

– Chắc sáu nàng đó được Trang chủ sai phái đến đây, để thử thách tại hạ chứ gì?

Tần Tử Minh gật đầu:

– Đúng vậy! Trang chủ rất luyến mến đại hiệp, cho nên trong Vong Ưu Tán, người có pha trộn phần nào Thanh Tâm Tể, giúp đại hiệp bảo trì tâm thần, khỏi phải bị sắc dục dao loạn, đồng thời hạn chế sự hành động của đại hiệp.

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:

– Thế thì kỳ quái quá. Đã có ý thử thách tại hạ, tại sao Trang chủ còn hạn chế hành động của tại hạ?

Tần Tử Minh lại thở dài lượt nữa:

– Sáu nàng đó, có cái hiệu xưng là Hồng phấn lục lệ, lệ đây là lệ hại, chứ không phải diễm lệ. Họ có ma lực cực kỳ lợi hại, trước kia Trầm Quân Lượng từng bị họ lung lạc đến điên đảo tâm hồn, suýt mất mạng vì họ. Còn đại hiệp, nhờ dược lực nên hành động bị ngăn trở, hạn chế, dù cho tâm thần có bị dụ hoặc, cũng còn cách vãn cứu. Giả như ...

Quan Sơn Nguyệt thốt:

– Không cần, tiền bối ạ! Tại hạ cam tâm tình nguyện thử thách để biết xem cái ma lực của Hồng phấn lục lệ lợi hại đến mức độ nào.

Tần Tử Minh lắc đầu:

– Nếu đại hiệp buông lời kiên quyết, chỉ trong một giây thôi, chẳng cần lâu hơn, thì tánh mạng khó bảo toàn vậy.

Quan Sơn Nguyệt cười hì hì:

– Chết ở cái nơi mình thấy sướng, thì đâu có sự hối tiếc? Con người ai không muốn được chết sướng?

Tần Tử Minh lại lắc đầu:

– Lão phu nói đã cạn lời rồi, nghe hay không nghe, còn tùy nơi đại hiệp đó nhé.

Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ cố chấp:

– Tiền bối giải trừ dược lực gấp cho tại hạ đi, giúp tại hạ khôi phục hành động rồi, là đủ. Các việc chi về sau đó, tiền bối khỏi phải bận tâm lo lắng.

Tần Tử Minh trầm ngâm một lúc, đoạn lấy trong mình ra hai hoàn thuốc, một đỏ một trắng, bỏ vào miệng chàng, rồi chỉnh thần sắc trang nghiêm, lão thốt:

– Hoàn đỏ, giải trừ tánh dược của Thanh Tâm Tể, giúp đại hiệp khôi phục hành động, hoàn trắng giúp đại hiệp bảo trì tánh dục, đại hiệp tùy tiện mà uống.

Quan Sơn Nguyệt đâu có thấy hai hoàn thuốc mà biết hoàn nào màu đỏ, hoàn nào màu trắng. Chàng hấp tấp hỏi:

– Tại hạ làm sao chọn lựa được? Chẳng lẽ uống hết cả hai? Tại hạ chỉ mong được khôi phục hành động thôi mà, chứ có cần đâu cái sự tiếp trợ tánh dục kiên cường?

Tần Tử Minh lắc đầu:

– Lão phu không thể chỉ điểm cho đại hiệp chọn lựa. Cứ bằng vào trí lực mà quyết định. Vì, cuộc trắc nghiệm trí lực vẫn còn tiếp tục trong cảnh giới nầy.

Thốt xong, lão bước đi, ẩn mình ngay.

Sáu thiếu nữ liền áp lại, vây quanh bồn tắm, giương tròn mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt đưa đầu lưỡi liếm qua hai hoàn thuốc, song không nhận ra mùi vị như thế nào cả, suy nghĩ một chút, chàng dùng mắt hỏi ý nơi các thiếu nữ, mà cũng nhờ các nàng chọn giùm.

Một nàng hỏi:

– Có phải là ngươi nhờ ta lấy hoàn thuốc màu trắng đưa cho chăng?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Sao lại hoàn màu trắng? Lấy hoàn màu đỏ đi!

Nữ nhân đó cười nhẹ:

– Ngươi đúng là không tiếc mạng sống mà! Hoàn thuốc đỏ có một dược liệu tăng dục mạnh vô cùng, ngươi uống vào rồi là lập tức phải thân cận nữ nhân, nguy hiểm hơn nữa là lòng dục không bao giờ được thỏa mãn, ngươi phải tìm nữ nhân mà thân cận, mãi cho đến lúc chết mới thôi cho.

Quan Sơn Nguyệt cười trây:

– Các ngươi có đến sáu người, ta chỉ có một, đang rầu héo ruột chẳng biết phải làm cách nào để được gần một trong các ngươi, một cũng đủ cho ta lắm rồi.

Huống hồ uống xong hoàn thuốc đó, ta sẽ có thể thân cận đủ sáu người? Có một loại thuốc quý báu như vậy, làm sao ta không ham?

Nữ nhân đối thoại đỏ mặt lên, cự nự:

– Sao ngươi ăn nói mặt dày mày dạng thế? Ngươi đừng có tin cái lão già ác ôn mắc dịch đó, bọn ta chẳng phải là Hồng phấn lục lệ chi chi cả, mà chỉ là sáu con sâu bọ đáng thương thôi.

Quan Sơn Nguyệt vẫn cười nham nhở:

– Ta bất chấp gì gì hết, ta cứ biết sáu ngươi là sáu nàng tiên, được gần các ngươi rồi mà chết luôn, ta cũng không ngán cái chết chút nào. Trong đời, đâu có cái chết nào sướng bằng cái chết như thế đó?

Chàng trầm tư một chút.

Nữ nhân đối thoại tiếp:

– Quân tử, thương người, lấy cái đức bảo vệ người, bọn ta không nỡ nhìn ngươi tại đây ...

Quan Sơn Nguyệt cố gắng ưởn dài thân hình ra, há miệng đớp ngay hai hoàn thuốc, nhai ngấu nghiến.

Thuốc vào dạ dày rồi, lập tức chàng cảm thấy sinh lực phục hồi, có phần mãnh liệt hơn trước, chàng tung mình lên, nhảy vọt ra khỏi bồn tắm.

Sáu nữ nhân hấp tấp chạy tứ tán, tất cả cùng bật cười vang.

Quan Sơn Nguyệt như phát cơn điên, để trần truồng như thế, đuổi bắt, nhưng sáu nàng có thân pháp linh hoạt quá chừng, họ lách qua, lòn lại, lâu lắm mà chàng chưa vớ trúng một nàng nào cả.

Sau cùng, chàng cũng chụp được một nàng, liền sau đó, chàng đè nàng xuống nền, toan cởi y phục của nàng.

Nữ nhân đó vừa vùng vẫy, vừa cười khúc khít, thốt:

– Người chết ơi! Thong thả chứ! Người ta còn ở đây đủ số, có ai chạy đi đâu mà ngươi vội? Rõ ràng ngươi là một quân tử giả.

Quan Sơn Nguyệt bỏ ý định cởi y phục của nàng, nhưng lại lòn tay vào sườn nàng, dùng ngón tay điểm vào một huyệt đạo, chế trụ mọi cử động của nàng.

Năm nữ nhân còn lại thấy thế cùng lộ vẻ kinh hãi.

Một nàng cất tiếng hỏi:

– Ngươi định làm chi đó?

Quan Sơn Nguyệt cười hì hì:

– Ta lười đuổi bắt các ngươi lắm, cho nên định chế trụ lần lượt các ngươi, sau đó thì ta thật tình hưởng khoái lạc mà khỏi cần phải đuổi bắt nữa, bởi đuổi bắt như vậy thì cái hứng không liên tục.

Nàng ấy cười thốt:

– Ngươi là một con quỷ sắc, mà lại là thứ quỷ tham bạo, tay cầm bình rượu, mắt cứ dán vào vò rượu, sợ người ta khuân mất đi! Bọn ta vâng lịnh Trang chủ đến đây hầu hạ ngươi, đương nhiên là phải tuân theo ý muốn của ngươi ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Nhưng ta không yên tâm!

Nàng ấy lại cười:

– Thì bọn ta cứ quanh quẩn bên ngươi, chờ ngươi phân phó, như vậy có được chăng?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Càng hay! Thế các ngươi bước lại đây tất cả đi.

Nàng ấy đưa tay chỉ thiếu nữ nằm trên mặt nền, bảo:

– Ngươi giải khai huyệt đạo cho nàng đi. Nàng như con heo chết, ngươi gần một con heo chết, phỏng có thú vị gì? Ngươi tự cho mình là trang phong lưu, tao nhã kia mà, sao lại làm mất cái phong cảnh khoái hoạt?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Dù thế nào, ta cũng không yên tâm, trừ khi các ngươi đến kề cận bên ta, lúc đó ta sẽ giải huyệt đạo cho nàng nầy. Ngoài ra, ta hy vọng các ngươi cũng lột hết y phục, để mình trần truồng, chúng ta sẽ làm một đại hội lõa thể.

Nàng ấy cười khúc khít:

– Không ngờ ngươi xem ra có vẻ đạo mạo lắm, nhưng lại có nhiều thủ đoạn sàm sỡ quá. Tuy nhiên, đại hội lõa thể mà họp ngay trên mặt đất, tất mất nhiều ý vị. Ngươi nên bế nàng ấy lên giường trước đi, bọn ta ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không! Chính các ngươi phải lên giường trước mới được.

Năm nàng cùng đưa mắt nhìn nhau, sau cùng kéo nhau lên giường.

Quan Sơn Nguyệt bế nàng kia, mang đến giường, đặt xuống rồi cười thốt:

– Bây giờ thì các ngươi cởi y phục ra đi.

Năm nàng do dự. Một nàng thốt:

– Bọn ta chỉ còn có mỗi một chiếc quần lót, như vậy chưa vừa ý ngươi sao?

Chiếc quần đó đâu có che dấu những bộ phận mà ngươi muốn nhìn? Huống chi bọn ta giữ chiếc quần đó lại, chẳng lẽ ngươi chẳng trông thấy chi hết sao?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không có ai ngắm hoa qua màn sương mù. Ngắm như thế làm sao chiêm ngưỡng trọn vẹn vẻ đẹp của hoa?

Nàng ấy cãi:

– Hoa hiện lờ mờ, đẹp như hoa lộ, nhờ ảo tưởng, ngươi nghĩ sai rồi đó nhé!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Ta đã nói, cái hội nầy là hội lõa thể, thì không ai được dùng một vật gì nhỏ nhặt, che đậy hình hài.

Năm nàng lại trì nghi một chút, rồi từ từ tuột luôn chiếc quần lót.

Quan Sơn Nguyệt nhìn lom lom, hết nàng nầy, đến nàng kia.

Một nàng giục:

– Lên đi chứ! Ngươi bảo làm sao, bọn ta làm vậy, ngươi còn chần chờ gì nữa sao?

Quan Sơn Nguyệt cười lớn:

– Lên chứ! Ta sẽ lên! Các ngươi xem ra còn nóng nảy hơn ta!

Chàng leo lên giường, cởi chiếc quần lót cho nàng bị chàng chế trụ cử động.

Một nàng bảo:

– Giải huyệt cho nàng ấy đi!

Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Ý! Ta quên mất ...

Chàng vươn tay vỗ nhẹ vào sườn thiếu nữ, nhưng bàn tay chưa chạm vào thiếu nữ đó, chàng hoành lại, chuyển hướng vổ sang một nàng khác bên cạnh, thủ pháp cực nhanh. Nhân cái nhanh đó, chàng điểm luôn huyệt đạo hai nàng, chứ không riêng một nàng, thành ra, nàng thứ nhất không được giải huyệt, lại thêm hai nàng nữa bị chế ngự.

Hai nàng sau cùng kêu lên kinh hãi, ngã ngửa ra giường.

Ba nàng còn lại cũng biến sắc mặt, lập tức nhảy dựng lên.

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt khi nào chịu bỏ qua, vung tay lên, vừa điểm trúng nàng thứ tư.

Bất ngờ nàng bị điểm huyệt đầu tiên phóng ra một ngọn cước, ngay hạ bộ của chàng. Cước pháp của nàng ấy cực nhanh, cơ hồ, Quan Sơn Nguyệt không tránh kịp, và như vậy là chàng phải bỏ mạng, bởi ngọn cước đó, nếu trúng sẽ làm dập nát ngọc hành của chàng.

Tuy nhiên, chàng từng vào nguy ra hiểm, kinh nghiệm có thừa, phản ứng đúng lúc. Chàng chỏi nhẹ tay xuống giường, tung mình thoát khỏi ngọn cước.

Thừa cơ hội đó, hai nàng còn lại nhảy xuống giường, và việc thứ nhất hai nàng cần làm là vớ chiếc quần lót xỏ nhanh vào chân.

Trong khi đó, Quan Sơn Nguyệt vọt mình đến cạnh chiếc bàn, chụp thanh Hoàng Diệp Kiếm. Vừa cầm xong thanh kiếm, chàng nghe một đạo kình lực từ phía hậu vút đến lưng. Không chậm trễ, chàng xoay người, hoành kiếm nghinh đón.

Đạo kình lực đó do một nàng vừa mặc xong chiếc quần phóng chân phát ra, chân bay tới, kiếm cũng bay tới, chân và kiếm chạm nhau, nếu chạm thì phần thiệt hại về chân là cái chắc.

Song, Quan Sơn Nguyệt vốn có sẵn chủ trương, vung kiếm đúng tầm, mũi kiếm không chạm vào da nàng, mà chỉ phớt qua lớp vải quần, chém đứt một mảng.

Nàng ấy biến sắc mặt hãi hùng, cấp tốc lùi lại.

Không ai dám tấn công chàng nữa.

Quan Sơn Nguyệt chống kiếm xuống nền, ngẩng cao mặt chính sắc thốt:

– Ta không muốn gây thương tổn cho một ai cả, các ngươi hãy biết điều một chút. Ta thừa hiểu chiếc quần của các ngươi là một vật chí báu phòng thân, nhưng nó không chịu nổi nhát kiếm của ta đâu!

Hai thiếu nữ còn lại không dám tiến, mà cũng chẳng dám lùi, thần sắc hiện lộ vẻ khó khăn.

Quan Sơn Nguyệt lại cười, tiếp:

– Cho các ngươi biết, cái trận thế Hồng phấn lục lệ do chủ nhân bày bố, ta đã lãnh giáo rồi đó, bây giờ thì các ngươi có chi cao minh, cứ giở ra luôn đi.

Hai nàng ấy bất động, cả hai chưa lấy lại bình tịnh hoàn toàn.

Song phương ghìm nhau như vậy một lúc lâu, bên ngoài có tiếng lạc bạc ngân vang. Hai thiếu nữ mường tượng phạm tội vừa được đại xá, vội vã bế các nàng bị điểm huyệt, toan lui ra khỏi phòng.

Quan Sơn Nguyệt cười, nhắc:

– Đừng quên lấy theo những chiếc quần của chúng nhé!

Hai thiếu nữ lại nhặt luôn quần của đồng bạn, rồi do cửa hông lui ra.

Quan Sơn Nguyệt buông kiếm xuống, lấy y phục mặc vào.

Chẳng rõ do ngả nào, Tần Tử Minh chợt hiện trước mặt chàng, vòng tay cười thốt:

– Cao minh! Cao minh thật! Lão phu không ức độ được mức thâm hậu định lực của đại hiệp, thành thử niềm lo ngại trước đây hóa ra thừa. Dám hỏi đại hiệp có ...

Quan Sơn Nguyệt vừa mặc y phục, vừa cười lạnh, đáp:

– Quý Trang chủ nói rằng cảnh giới thứ ba của Hắc Ngục Vong Hồn nầy rất lợi hại thì ra chỉ là một trò chơi hạ đẳng không hơn không kém. Lại có tiền bối phụ họa vào, thật là hay đó!

Tần Tử Minh vẫn cười, nói:

– Đại hiệp là bậc phi thường, Trang chủ rất nhiên phải nghĩ ra một thủ đoạn phi thường, để thực nghiệm chứ! Đừng tưởng sự việc vừa qua là một trò chơi hạ đẳng. Lão phu gọi bọn nữ nhân đó là Hồng phấn lục lệ, chẳng hề có ý dọa khiếp đại hiệu đâu. Từ trước đến nay, chưa có một nam nhân nào vượt qua nổi mặt trận phong lưu tình tứ của chúng!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Tại hạ chẳng thấy các nàng có vẻ gì đáng chú ý cả!

Tần Tử Minh đáp:

– Chỉ vì đại hiệp thông tuệ hơn người, cố ý làm như bị động tâm vì sắc, cho các nàng không giới bị, chúng tưởng đâu dễ đối phó với đại hiệp, rồi không cần thi thố ngón nghề, chứ thực ra chúng là những yêu nữ đấy, nắm vững cái thuật mê hoặc lòng người. Ai càng giữ nghiêm thái độ, chúng càng dễ thành công ...

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tại hạ không tin! Tiền bối cứ gọi họ trở lại đây, có bao nhiêu ngón nghề cứ giở hết ra xem!

Tần Tử Minh nhìn chàng một lúc lâu, đoạn cười mấy tiếng, lại lắc đầu thốt:

– Lão phu vừa rồi thất ngôn đó, dù chúng có ngón nghề cao diệu đến đâu, cũng cầm như vô dụng trước mặt đại hiệp. Chúng có thể làm dao động sắt, đá, nhưng với đại hiệp thì chúng phải chào thua!

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ, hỏi:

– Tiền bối bằng vào đâu mà dám nói như thế?

Tần Tử Minh lẩm nhẩm:

– Bằng vào đâu thì tự đại hiệp cũng thừa hiểu rồi, cần chi lão phu phải giải thích?

Quan Sơn Nguyệt so vai:

– Thật tình tại hạ chẳng hiểu chi cả.

Tần Tử Minh suy nghĩ một chút:

– Lão phu có trao cho đại hiệp hai hoàn thuốc ...

Quan Sơn Nguyệt cười lớn:

– Thực ra, hai hoàn thuốc đó đồng dạng với nhau, tiền bối cố ý vẽ vời cho sự việc tăng phần huyền ảo, bảo tại hạ tuyển chọn một trong hai. Tại hạ phải phí tâm cơ suy đoán, sau cùng nhân cử động của các nàng đó, tại hạ mới vỡ lẽ, rồi uống luôn cả hai hoàn cùng một lúc, có uống như vậy mới đóng kịch tròn vai với các nàng.

Tần Tử Minh hơi sượng, gượng cười thốt:

– Đại hiệp đích xác là thông minh cực độ, bởi đại hiệp uống cả hai hoàn nên các nàng đó không còn nghi ngờ nữa, rồi quên luôn một điều tối trọng yếu.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Đúng vậy đó. Chúng thấy ngọn lửa đang đốt soi đỏ mặt mày tại hạ, cứ tưởng là dược lực phát động, chứ có ngờ đâu hai hoàn thuốc đó chẳng có công hiệu mảy may đối với tại hạ. Xem ra, kinh nghiệm của chúng còn thiếu kém quá!

Tần Tử Minh đáp:

– Cũng không đáng trách các nàng sơ suất, bởi chúng thừa hiểu dược lực đó rất mạnh, ai uống một hoàn cũng có thể phát điên lên vì hỏa dục, huống hồ đại hiệp uống cả hai hoàn cùng một lượt? Tự nhiên chúng phải tin là đại hiệp bị dược lực quật ngã ...

Đoạn lão thở dài, rồi tiếp:

– Cứ cái tình hình nầy mà luận, thì chừng như đại hiệp có một bịnh tật gì, kín đáo lắm. Chính cái bịnh tật đó tiêu diệt tánh dục của đại hiệp, chứ có lẽ đâu ...

Quan Sơn Nguyệt cười vang:

– Tiền bối giàu tưởng tượng quá chừng! Làm gì tại hạ có tật kín? Cường tráng như tại hạ, có lý nào lại mang tật kín?

Tần Tử Minh tỏ vẻ không tin:

– Lão phu có đứng bên ngoài, theo dõi mọi diễn tiến giữa đại hiệp và sáu nàng đó. Lão phu thấy đại hiệp trơ trơ như gỗ đá, phàm một con người có tình dục, ít hay nhiều, ẩn hay lộ, cũng phải dao động thần sắc trước một lũ giai nhân phô rõ mọi nét diễm kiều, thế mới thuận lý chứ?

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Tiền bối luận cũng đúng. Tuy nhiên, tại hạ sanh ra vẫn như mọi người thường, bất quá tại hạ được dịp may uống mật con Hàn Xà ngàn năm, mật đó có công hiệu định tâm, cố ngươn, trừ tại hạ tự mình động tâm hay không, còn ra thì chẳng có một ai, hoặc một dược liệu nào làm cho tại hạ bị động tâm cả ...

Tần Tử Minh tỉnh ngộ:

– Thì ra là thế! Thảo nào mà đại hiệp chẳng khẳng khái uống cả hai hoàn thuốc!

Quan Sơn Nguyệt nói:

– Nhờ tiền bối để tỉnh tại hạ bằng một tiếng nói, biết được các nàng ấy là Hồng phấn lục lệ rồi, tại hạ đề cao cảnh giác ngay, không dám khinh suất thử thách cái mị thuật của chúng. Tại hạ lo ngại định lực không vững, vạn nhất mà tại hạ bị các nàng mê hoặc thì danh dự bình sanh sẽ cầm như quăng theo dòng nước cuốn.

Tần Tử Minh tán:

– Đại hiệp quả thật lợi hại. Chẳng những thừa sức chống lại mị lực của các nàng, đại hiệp còn có vũ công rất cao, thắng luôn chúng. Phải biết, chúng cũng là những tay có hạng lắm đấy nhé, giả như đại hiệp không chế ngự trước bốn nàng thì còn đủ sáu, chúng có thể ...

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Tại hạ hiểu chứ, chúng đâu phải là những kẻ tầm thường, giả như tại hạ không lừa được chúng cởi luôn cả quần ra, thì chưa chắc là tại hạ làm gì chúng nổi. Thứ lụa may quần của chúng, bằng chất gì thế?

Tần Tử Minh giật mình, song lấy ngay bình tĩnh, từ từ giải thích:

– Tơ của con thiên tằm đó. Đại hiệp làm sao biết được là quần của chúng ...

Quan Sơn Nguyệt cười hì hì:

– Rất đơn giản, tiền bối ạ! Thứ lụa đó rất mỏng, mặc vào mình hay không mặc, cơ thể vẫn hiện lộ rõ ràng. Như vậy, các nàng cần gì phải mặc, bởi quần áo che dấu được cái chi đâu? Thế mà các nàng vẫn mặc, chính sự kiện đó nói lên một duyên cớ. Tại hạ hiểu ngay, quần của chúng có một tác dụng khác hơn là che cơ thể.

Tần Tử Minh chớp mắt; – Đại hiệp thấy cái tác dụng như thế nào?

Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Thoạt đầu thì tại hạ chưa biết rõ. Cho nên, tại hạ phải thực nghiệm. Khi tại hạ quật ngã một nàng, cố ý giật, kéo thử xem thứ lụa đó có rách hay không. Tại hạ dụng lực khá mạnh, nhưng không xé rách nổi thứ lụa đó, chừng đó mới vỡ lẽ ra, quần là một vật báu hộ thân của các nàng. Bắt buộc, tại hạ phải dùng đến phương pháp điểm huyệt.

Tần Tử Minh mỉm cười:

– Nhưng phương pháp điểm huyệt cũng vô dụng!

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Khởi sơ, thì tại hạ chưa hiểu như vậy, cho nên mới điểm thử, ngờ đâu từ trong người nàng đó có một kình lực bắn ra, đón chận chỉ lực của tại hạ, và nàng ngã xuống luôn sau khi bị điểm trúng. Lúc đó tại hạ biết ngay là nàng vờ bị kềm chế.

Tần Tử Minh lại chớp mắt, nhưng không hỏi gì, chờ nghe chàng nói tiếp.

Quan Sơn Nguyệt lại tiếp:

– Họ tập luyện vũ công đến trình độ đó, là đạt đến mức hỏa hầu rồi, cho nên không ngán chỉ lực của tại hạ, đã không ngán thì tại sao lại còn mặc thứ quần hộ thân?

Tần Tử Minh thở dài:

– Trang chủ bố trí rất chu mật, tuy nhiên vẫn còn sơ hở!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Phải! Nếu không có chiếc quần đó, thì tại hạ có thể mắc mưu các nàng rồi. Khi nàng ta vờ ngã xuống, tại hạ tự hỏi, nàng đã luyện được một công phu cao diệu như vậy, thì cần gì phải mang một vật báu hộ thân? Nếu có vật hộ thân, thì phải có chỗ yếu nhược trong con người. Thông thường thì nữ nhân không luyện được đến tận các huyệt đạo ở chỗ kín, như huyệt Nhủ Tuyền, huyệt m Hội. Tại hạ đoán ngay là các nàng sở dĩ mặc thứ quần đó chỉ để bảo vệ hai huyệt đạo ấy mà thôi ...

Tần Tử Minh thở dài:

– Rồi đại hiệp bày ra cái hội khỏa thân, cho các nàng cởi luôn chiếc quần đó ra!

Quan Sơn Nguyệt lại cười:

– Thực ra, biện pháp đó rất sống sượng, tuy đề nghị như vậy, tại hạ vẫn không hy vọng là các nàng đáp ứng. Ngờ đâu, các nàng không hiểu rõ thâm ý của tại hạ, nên tin những lời quỷ quái của tại hạ ...

Tần Tử Minh gật đầu:

– Các nàng quá tự tin, lại đánh giá đại hiệp hơi thấp một chút, thành ra thất bại. Lão phu đứng bên ngoài, lúc đó thực sự thì chẳng tin là những lời của đại hiệp cho lắm.

Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:

– Cũng may là tiền bối không có mặt trong hàng ngũ của Hồng phấn lục lệ, nếu có vậy thì tại hạ phải thất bại rồi. Bây giờ thì cái trận phong lưu do Trang chủ lập ra, không quật ngã tại hạ, tiền bối thấy đó chứ!

Tần Tử Minh hơi thẹn, mặt thoáng hồng, chỉ gượng cười mấy tiếng, chứ còn biết nói gì nữa?

Vừa lúc đó, cánh cửa hậu vụt mở ra, một lũ người tiến vào nhà. Đi đầu là hai liễu đầu, tay cầm đường dây vàng, cột một chiếc lư hương, từ trong lư hương, những đợt khói xanh bay lên, khói tỏa một mùi hương mát dịu. Sau hai liễu đầu, là đám Hồng phấn lục lệ, sáu nàng vẫn y dạng như trước đó, bất quá, tóc bỏ xõa dài nhưng lại rẽ ra làm hai lọn, buông ra trước ngực, che kín cặp nhũ hoa.

Sau cùng là một tuyệt sắc giai nhân, tuổi chưa đến tam tuần, thần sắc cực kỳ oai nghiêm, ai trông cũng phải kinh sợ.

Tần Tử Minh nghiêng mình trước nữ nhân đó, cung kính thốt:

– Nô tài tham kiến Trang chủ!

Nữ nhân đó, vận cung trang, nhìn qua Tần Tử Minh rồi khoát tay, đoạn từ từ bước tới, trước hết, nàng cau mày, quở:

– Ngu! Sao chưa thu dọn sạch sẽ?

Trong số các nữ nhân theo hầu Trang chủ, có nàng Ngọc Phương, nghe trang chủ quở, vội bước ra toan thu thập bồn nước.

Trang chủ gắt:

– Không ai mượn ngươi! Hãy để cho bọn kia làm!

Sáu thiếu nữ trước, lập tức bước tới, đồng ra tay nâng chiếc bồn, định khuân đi.

Trang chủ lại thốt:

– Nước, không được đổ, các ngươi sáu người chia nhau ra mà uống.

Bồn chứa nước ít nhất cũng năm sáu thùng, chia phần nước đó ra cho sáu nàng, thì mỗi nàng phải uống suýt soát một thùng. Uống làm sao trôi?

Sáu nàng thoáng giật mình.

Trang chủ lạnh lùng tiếp:

– Sao? Ta nói chi, các ngươi không hiểu à?

Một nàng rung giọng hỏi:

– Thỉnh ý Trang chủ, có phải là uống ngay bây giờ chăng?

Trang chủ đáp:

– Tùy tiện! Uống bây giờ cũng tốt, để lại đó rồi từ từ mà uống, cũng tốt!

Sáu nàng đặt chiếc bồn xuống, khom mình kê sát miệng bắt đầu uống.

Quan Sơn Nguyệt bất nhẫn hết sức, toan mở miệng cầu tình cho các nàng.

Tần Tử Minh khều nhẹ, bảo chàng cứ điềm nhiên.

Trang chủ phát hiện ra chàng muốn can thiệp, bèn điểm một nụ cười hỏi:

– Có phải Quan đại hiệp cho rằng tôi xử trí quá nghiêm khắc đối với chúng chăng?

Quan Sơn Nguyệt đã hiểu, nàng chính là Trang chủ Vạn Ma Sơn Trang, nên chàng dè dặt, không đáp vội, thầm tính phải nói làm sao với nàng.

Vốn biết, quy củ của Vạn Ma Sơn Trang rất sum nghiêm, chàng nghĩ rằng nếu mở miệng van xin cho sáu nàng, biết đâu chàng chẳng làm cho tội lệ của các nàng thêm nặng?

Không nghe Quan Sơn Nguyệt đáp, Trang chủ cười mấy tiếng, rồi tiếp:

– Thực ra, hình phạt đó nhẹ nhất đấy. Nếu chiếu theo quy củ, thì các nàng phải bị móc mắt. Bởi, các nàng có mắt mà không ngươi, chẳng phân biệt được chân với giả, mắt đó trở thành vô dụng rồi, còn để làm chi?

Tần Tử Minh cúi đầu, cố lấy can đảm biện bạch cho các nàng:

– Trang chủ, cái việc nầy nghĩ ra cũng chẳng đáng trách các nàng. Chỉ vì Quan đại hiệp quá thông minh, nên ...

Trang chủ cười lạnh, chận lời:

– Phương pháp của Quan đại hiệp dùng đối phó với chúng, kể ra cũng thông minh đấy, nếu đổi lại là người nào khác thì chưa hẳn người đó lừa cho sáu nàng mắc mưu nổi. Dùng sắc mê hoặc người, trái lại bị sắc của người mê hoặc!

Quan Sơn Nguyệt nghe như kim chích màng tai, khó chịu hết sức, muốn nói một câu, song khi nào Trang chủ lại để cho chàng có dịp mở miệng, nàng tiếp luôn:

– Chúng có danh hiệu là Hồng phấn lục lệ, chúng đã làm điên đảo chẳng biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt rồi, giả như đại hiệp không có cái nghi biểu, tác phong làm cho chúng mê mệt, thì chắc là không bao giờ chúng bị đại hiệp chế ngự. Dù sao đi nữa, chúng cũng chẳng đáng trách, bởi trên đời nầy, người như đại hiệp phỏng có mấy tay? Cho nên, tôi chỉ phạt chúng uống nước tắm của đại hiệp thôi, phạt tượng trưng chúng, mà cũng là giúp chúng được thỏa niềm khát vọng qua cái hơi hướm của đại hiệp trong phần nước đó.

Quan Sơn Nguyệt cảm thấy ngôn ngữ đó không đáng nghe thêm dài lâu nữa, nên cười nhẹ, thốt:

– Trang chủ xử phạt họ như thế nào, tùy ý Trang chủ, việc đó có can chi đến tại hạ đâu? Bất quá, tại hạ thấy rằng, mỗi nàng uống hết một phần nước như vậy thì nhiều quá ...

Trang chủ điểm một nụ cười:

– Thế đại hiệp muốn rằng chúng nên uống từ từ?

Ngọc Phương kêu lên:

– Quan đại hiệp! Đừng can thiệp vào việc nầy làm chi ...

Trang chủ trừng mắt nhìn Ngọc Phương một thoáng, Ngọc Phương sợ quá, không dám nói gì thêm.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:

– Chẳng lẽ ...

Trang chủ cười nhẹ:

– Nước đó có pha chất liệu rất thơm, uống một lần là chỉ thọ một tội, phân ra nhiều lần, thì cái tội đó khó thọ nhận nổi ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình. Chàng nào biết được trong nước có chất gì, nhưng thấy sáu nàng trí mạng mà uống, nên hiểu ngay lời nói của Trang chủ có một đạo lý như thế nào đó, hiểu như thế, chàng không nói gì nữa.

Tần Tử Minh hỏi:

– Thỉnh ý Trang chủ, công cuộc trắc nghiệm Quan Sơn Nguyệt đại hiệp đã hoàn tất chưa?

Trang chủ gật đầu:

– Xong rồi, Quan đại hiệp là người duy nhất từ trước đến nay vượt qua được cảnh giới thứ ba trong Hắc Ngục Vong Hồn.

Quan Sơn Nguyệt không tưởng là cảnh giới thứ ba nầy lại quá đơn giản như vậy.

Đến Tần Tử Minh cũng nghi hoặc như chàng. Lão sững sờ một chút, đoạn thốt:

– Trong cảnh thứ ba nầy, có tất cả mười hai cách thức trắc nghiệm, mà Quan đại hiệp chỉ mới chịu qua một cách ...

Trang chủ trầm giọng:

– Ta nói xong, là xong!

Tần Tử Minh hấp tấp nghiêng mình:

– Phải! Phải! Bất quá lão nô tùy tiện mà hỏi ...

Trang chủ nói tiếp:

– Nếu ta không giải thích rõ ràng, thì hẳn là ngươi không phục. Trong cảnh giới thứ ba nầy, đành rằng có mười hai cách trắc nghiệm, nhưng với cách thứ nhất, chúng ta thất bại rồi, ta cứ tưởng là mình chu đáo lắm, không hề để lộ một sơ hở nhỏ. Ngờ đâu, Quan đại hiệp có thanh kiếm báu trong tay, tơ thiên tằm không chịu nổi sắc bén, phải bị rọc tét. Nếu Quan đại hiệp không gìn lòng nhân, thì một nhát kiếm đưa ra là bọn Hồng phấn lục lệ phải mất mạng rồi, cuộc trắc nghiệm chưa bắt đầu với cách thứ nhất là mình đã bị người ta phá hủy. Cho nên ta thừa nhận là trí lực không bằng Quan đại hiệp. Như vậy, còn đòi trắc nghiệm thêm với mười một cách khác mà làm chi nữa?

Tần Tử Minh day quay Quan Sơn Nguyệt, vòng tay thốt:

– Cung hỉ Quan đại hiệp ...

Bỗng một tiếng «bình» vang lên, cánh cửa mở tung, Trầm Quân Lượng bước vào cao giọng, thốt:

– Tôi không phục! Như vậy thì dành cho hắn nhiều tiện nghi quá!

Trang chủ trầm giọng:

– Trầm Quân Lượng! Nơi đây, ai là chủ nhân?

Dưới ánh mắt nghiêm lạnh của nàng, Trầm Quân Lượng khiếp ngay, tuy nhiên y ưỡn ngực, đáp:

– Tuy Trang chủ là chủ nhân, song Trang chủ phải công bình.

Trang chủ cười lạnh:

– Được! Ngươi muốn có công bình, ta cho ngươi cơ hội thấy công bình!

Ngươi muốn gì?

Trầm Quân Lượng đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt, đáp:

– Ít nhất, cũng cho tôi quyết đấu với hắn một trận, xem hắn có cao minh hơn tôi hay chăng?

Trang chủ mỉm cười:

– Được lắm! Vậy hai người bước ra đây!

Nàng bước đi trước, đồng thời gọi:

– Quan Sơn Nguyệt! Hãy ra ngoài!

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 78

Ung Dung Đối Phó

Trong nhất thời, Quan Sơn Nguyệt không thể quyết định là nên ưng thuận giao đấu với Trầm Quân Lượng, hay phải từ khước?

Ngọc Phương bước đến, thấp giọng bảo:

– Này Quan đại hiệp, con người đó càng ngày càng đáng ghét lạ, ăn nói khó nghe vô cùng. Thoạt tiên, Trang chủ còn kính trọng y, song dần dần y có thái độ quá quắt, lắm phen Trang chủ cũng bực mình vì y. Bây giờ đại hiệp đến đây rồi, thì đương nhiên y phải sụt hạng, thành thử y càng tức uất hơn.

Đại hiệp cứ nhận giao đấu đi, Trang chủ sẽ tùy cơ tiếp trợ, điều nầy thì tôi dám chắc đó!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Tại hạ không hề nghĩ đến việc mong vọng bất cứ ai tiếp trợ mình. Chỉ vì tại hạ không có lý do cùng y động thủ, có thế thôi!

Ngọc Phương thốt gấp:

– Quan đại hiệp! Tại Vạn Ma Sơn Trang, đại hiệp không thể tùy hứng mà hành động. Giả như đại hiệp muốn cứu người đưa đi khỏi nơi nầy, ít nhất đại hiệp cũng không nên gây bất mãn cho Trang chủ.

Trầm Quân Lượng ở bên ngoài, gọi:

– Quan Sơn Nguyệt! Có can đảm hãy bước ra ngay!

Ngọc Phương nắm tay Ngô Phụng đưa nàng ấy ra trước.

Quan Sơn Nguyệt hơi do dự một chút, đoạn theo hai nàng bước ra. Bên ngoài là một khoảng đất trống, hoa cỏ lưa thưa. Trầm Quân Lượng đứng tại trung tâm khoảng đất đó.

Trang chủ thì đứng bên cạnh, mặt lạnh như tiền.

Ngọc Phương, Ngô Phụng và Tần Tử Minh thì đứng chung với nhau tại một góc khác, xa xa.

Trong ánh mắt của Trầm Quân Lượng, lửa căm hờn chớp chớp, nhìn Quan Sơn Nguyệt, y gằn từng tiếng mạnh:

– Quan Sơn Nguyệt, hôm nay, còn ta là không ngươi, ngươi sống là ta chết!

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên đáp:

– Huynh đài nói năng nghiêm trọng quá đi thôi! Chúng ta nào có oán cừu chi với nhau đâu ...

Trầm Quân Lượng hét:

– Câm ngay! Ngươi biết không, ta đã dày công bảo vệ Uyển Hoa từ nhiều năm qua ...

Trang chủ quát to:

– Trầm Quân Lượng, ngươi buông tánh ngông cuồng phải không?

Trầm Quân Lượng cao giọng:

– Điền Uyển Hoa! Ngươi đừng đóng kịch trước mắt nhiều người! Nếu không vì ngươi thì làm gì ta phải giam mình tại vùng đất khổ nầy từ bao nhiêu năm tháng qua? Ngày nay, ngươi gặp mới, nới cũ ...

Quan Sơn Nguyệt chỉ biết Trang chủ tên là Điền Uyển Hoa mà thôi. Nhưng, những lời của Trầm Quân Lượng vừa nói đó, nghe khó hiểu quá. Giữa vị nữ chủ nhân và người phụ tá, có một niềm bí mật chi chăng?

Điền Uyển Hoa lạnh lùng thốt:

– Gã họ Trầm! Chính ngươi tự nguyện lưu lại đây, chứ không phải là ta cầm, ta mời, ta van cầu ngươi ở lại đâu nhé! Mà ta cũng chẳng đáp ứng ngươi một điều gì. Ngươi không nên mù quáng ăn nói hoang đường.

Trầm Quân Lượng sững sờ, liền theo đó bật cười lạnh, đáp:

– Uyển Hoa, ngươi thay đổi nhanh quá! Mới đêm qua đây ...

Điền Uyển Hoa nhanh miệng chận:

– Hôm qua, hay hôm kia, những ngày trước, chúng ta là đôi bằng hữu, ta xem ngươi như một bằng hữu, bởi tài năng của ngươi chỉ đáng được ta đối xử với tư cách đó thôi, không hơn. Nếu ngươi không thỏa mãn với cách đối xử đó, thì chúng ta sẽ không còn là bằng hữu nữa.

Nghe giọng nói của Trang chủ càng lúc càng lạnh lùng hơn, Trầm Quân Lượng không dám tranh luận dài dòng nữa, không tranh luận được thì uất khí phải bốc ngập lòng, y mang trọn bầu uất khí đó, trút lên đầu Quan Sơn Nguyệt. Y hét lớn:

– Gã họ Quan kia, bước lại đây mà tiếp nhận cái chết.

Thực sự, Quan Sơn Nguyệt không muốn có cuộc chiến nầy, nhưng cứ theo sự việc xảy ra, thì dù muốn dù không, chàng cũng phải động thủ rồi, mà động thủ là có trí mạng, giá như chàng cao tài hơn, tự bảo vệ được an toàn, thì ngược lại Trầm Quân Lượng phải chết. Chàng không giết y, tự y cũng tìm cái chết, chết cho khỏi thẹn vì bại, trước mặt Điền Uyển Hoa, trước mặt bao nhiêu thiếu nữ kia. Thế thì cuộc quyết đấu nầy, là cuộc đấu sanh tử rồi.

Con người đem sanh mạng ra làm trò thử thách với nhau với một lý do không chánh đáng được sao?

Biết không tránh được, thì Quan Sơn Nguyệt còn do sự làm gì? Càng do dự, chàng càng bị đối phương cho là hèn khiếp.

Chàng từ từ bước tới, cất cao giọng oai nghiêm, thốt:

– Các hạ quyết tâm chỉ giáo huynh đệ, thì huynh đệ tự nhiên phải tiếp nhận, chứ còn làm sao hơn?

Điền Uyển Hoa cười lạnh một tiếng, nói:

– Trầm Quân Lượng! Hãy nhìn xem cái phong độ của người ta kìa, rồi so sánh với phong độ của ngươi ...

Trầm Quân Lượng trầm gương mặt, đáp lạnh lùng:

– Hy vọng vũ công của hắn cũng như phong độ của hắn, phong độ hơn thì vũ công cũng cần phải hơn. Vũ công kém là vô phúc cho hắn.

Điền Uyển Hoa mỉm cười, thốt:

– Cái danh của Quan đại hiệp vang lừng khắp sông hồ suốt mười ba tỉnh Trung Nguyên, trong giới vũ lâm, còn ai không biết Minh Đà Lịnh Chủ! Ta tin rằng về vũ công, Quan đại hiệp vẫn cao minh hơn ngươi, cũng như về bất cứ phương diện nào khác.

Trầm Quân Lượng cười lạnh:

– Điều đó thì ngươi khoan cả quyết vội, đợi sau khi giao thủ rồi, mới biết ai hơn ai kém. Trên giang hồ, có thiếu chi kẻ mang hư danh, trà trộn trong hàng cao thủ thượng đỉnh?

Quan Sơn Nguyệt chẳng thiết đấu võ mồm, bước tới một bước, hỏi gọn:

– Các hạ muốn đấu như thế nào?

Trầm Quân Lượng đáp:

– Tùy ngươi đó. Riêng ta, ta dùng hai tay không, còn ngươi muốn dùng vũ khí gì cũng được, ta bất chấp.

Quan Sơn Nguyệt lập tức cởi thanh kiếm bên mình ra, thốt:

– Tại hạ không muốn chiếm phần tiện nghi, cứ dùng hai tay không mà lãnh giáo.

Ngọc Phương hấp tấp bảo:

– Quan đại hiệp! Không nên quá thành thực với y. Với thanh kiếm, nhất định là đại hiệp sẽ thắng y.

Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:

– Tại hạ không khi nào dùng vũ khí giao đấu với kẻ tay không.

Điền Uyển Hoa điểm một nụ cười:

– Hào khí của Quan đại hiệp cao thấu mây, tôi khâm phục vô cùng. Tôi xin vì đại hiệp, giữ thanh kiếm đó cho.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ, trao kiếm cho nàng và nói:

– Đa tạ!

Điền Uyển Hoa tiếp nhận thanh kiếm, đột nhiên rút nó ra khỏi vỏ, rồi vung tay loang một vòng, hoa kiếm phát sanh, chớp chớp, hoa kiếm bay đến Trầm Quân Lượng, như ngàn muôn cánh bướm bay quanh, phủ trên đầu Trầm Quân Lượng.

Trầm Quân Lượng kinh hãi, cấp tốc lùi lại mấy bước, nhưng ngực áo đã bị mũi kiếm rọc đứt mấy đường. Bất giác, y kêu lên thất thanh.

Sau khi phát xuất chiêu kiếm rồi, Điền Uyển Hoa mỉm cười lùi lại.

Qua cơn sửng sốt, Trầm Quân Lượng hỏi:

– Uyển Hoa! Ngươi làm thế là có ý tứ gì?

Điền Uyển Hoa vẫn cười:

– Ta muốn cho ngươi thấy rõ thanh kiếm của Quan đại hiệp sắc bén như thế nào, lớp khí công hộ thân của ngươi không làm sao chịu đựng nổi!

Trầm Quân Lượng cao giọng:

– Uyển Hoa, ngươi thiên vị rõ ràng. Trừ ngươi ra, trên đời nầy chẳng ai phá nổi hộ thân khí công của ta. Ngươi không tin cứ bảo hắn dùng kiếm giao đấu với ta đi!

Điền Uyển Hoa cười nhẹ:

– Hộ thân khí công có đáng kể gì, bởi Quan đại hiệp có sức học uyên thâm, bằng cớ là đại hiệp không cần dùng đến kiếm. Ta tin rằng đại hiệp có luyện «Hồi Ba Thủ Pháp».

Trầm Quân Lượng thoáng biến sắc, nhưng rồi cười lạnh, thốt:

– Ngươi chu đáo quá! Tiết lộ tuyệt học của ta, cho địch biết để dễ dàng ứng phó.

Quan Sơn Nguyệt giật mình. Chàng hiểu, khí công hộ thân có nhiều loại, phổ thông là các loại «Kim Chung Tráo», «Thiết Bố Sam», cao thâm nhất là «Vô Tướng Thần Công». Người luyện được môn công đó rồi thì không còn sợ đao kiếm, côn, bổng, quyền, chưởng, cước, chỉ nữa. Chỉ có môn «Hồi Ba Thủ Pháp» mới hóa giải nổi.

Điền Uyển Hoa vung kiếm đúng là nàng chỉ điểm cho chàng cách thức phá lớp khí công hộ thân của Trầm Quân Lượng vậy. Nàng gián tiếp truyền cho chàng một chiêu thức phản công. Tuy nhiên, nàng hành động lộ liễu quá chừng, thành thử Quan Sơn Nguyệt khó chịu hết sức.

Điền Uyển Hoa cười nhẹ, tiếp:

– Trầm Quân Lượng! Ngươi nên dè dặt nói năng một chút. Quan đại hiệp thừa hiểu là ngươi có luyện «Vô Tướng Thần Công», chẳng lẽ ngươi không nghe nói Quan đại hiệp dùng cách gì chế ngự bọn Hồng phấn lục lệ hay sao chứ?

Công phu của chúng do chính ngươi truyền dạy mà ...

Quan Sơn Nguyệt giật mình, không ngờ có việc đó. Chỉ vì các nàng mặc thứ quần áo đặc biệt đó, chàng thấy lạ nên nghĩ ra cách chế ngự vậy thôi, chớ nào biết các nàng có học môn khí công hộ thân? Bây giờ, chàng vỡ lẽ là các nàng có tập luyện «Vô Tướng Thần Công», nhưng luyện chưa đến mức tối hữu dụng đấy thôi, cho nên với chỉ pháp thông thường, chàng vẫn ức chế các nàng được như thường.

Trầm Quân Lượng biết thâm ý của Điền Uyển Hoa, song y còn làm gì được nữa, bởi nàng đã nói huỵch toẹt ra cho Quan Sơn Nguyệt nghe hết rồi!

Điền Uyển Hoa lại thốt:

– Sở dĩ ta nói thế, là để quy định một việc cho ngươi.

Trầm Quân Lượng hỏi:

– Ngươi quy định việc gì?

Điền Uyển Hoa điểm một nụ cười:

– Quan đại hiệp đối xử với ngươi đầy đủ lễ độ như vậy, ngươi phải xử sự làm sao cho công bình. Quan đại hiệp không dùng kiếm, là biểu hiện cái ý không uy hiếp sanh mạng của ngươi. Ngược lại, ngươi không nên sử dụng loại thủ pháp đó. Ngoài ra, ngươi cũng không được dùng vũ công bổn môn mà thủ thắng.

Trầm Quân Lượng cười lạnh:

– Ngươi yên trí, muốn giết hắn, ta sẽ không cần dùng đến «Phích Lịch Thần Quyền».

Điền Uyển Hoa nghiêm lạnh sắc mặt:

– Thế là tốt! Vạn nhất nếu ngươi giở dói một trò gì, ta phát hiện được là ngươi không nên trách tại sao ta cương quyết với ngươi.

Trầm Quân Lượng nhìn nàng, ánh mắt ngời niềm oán độc, rồi y chuyển ánh mắt về Quan Sơn Nguyệt, miệng thì lầm bầm nguyền rủa, chân từ từ nhích tới, từng bước, từng bước.

Quan Sơn Nguyệt đứng nguyên tại chỗ, dáng rất ung dung, xem chàng bình tịnh cực độ.

Còn cách độ bốn năm bước, Trầm Quân Lượng dừng chân.

Quan Sơn Nguyệt vẫn ung dung, còn y thì lộ vẻ nghi hoặc. Vẻ trấn định của Quan Sơn Nguyệt làm cho y khiếp quá, không biết nên xuất thủ như thế nào cho hợp lý. Tuy nhiên, y tin tưởng là sẽ đánh ngã Quan Sơn Nguyệt với quyền và chưởng của y.

Y thầm nghĩ:

“Tiểu tử nầy kín đáo quá chừng, giấu kín sở học, ta chẳng hiểu nổi nhược điểm của hắn. Trước hết ta không nên khinh địch và bằng mọi giá, ta phải giết hắn cho kỳ được.”.

Đắn đo một lúc lâu, y tung thử một chưởng thăm dò. Tung chưởng nầy y chỉ dùng năm thành lực, chưởng nhắm vào vai hữu của Quan Sơn Nguyệt, song có ngầm thi thố thủ pháp chụp huyệt đạo. Chỉ cần Quan Sơn Nguyệt xuất thủ, vô luận chàng đánh như thế nào, y cũng chiếm ngay tiên cơ, chụp vào mạch môn của chàng và chiêu kế tiếp của y sẽ kết liễu tánh mạng đối phương là cái chắc.

Nhưng phản ứng của Quan Sơn Nguyệt ngoài sở liệu của y. Chàng như không hay biết chi cả, không hoàn thủ, không né tránh.

Lối đánh của Trầm Quân Lượng rất chậm, để chiêu sau dễ dàng tiếp nối chiêu trước, qua một biến thế nhẹ nhàng. Nhưng chưởng của y còn cách đầu Quan Sơn Nguyệt độ thước, Quan Sơn Nguyệt vẫn y nhiên bất động. Y ngưng bàn tay trong khoảng cách đó một chút. Y tin rằng, trong khoảng cách đó, nếu vươn tay tới, là cầm chắc phải đánh trúng Quan Sơn Nguyệt, nhất định không có một biến hóa bất ngờ nào được.

Nghĩ như vậy, y hơi hối hận, là đã xuất thủ rất nhẹ, có thể là nội lực của đối phương thâm hậu, với năm thành nội lực, dù đánh trúng, vị tất y gây nổi thương tổn nơi đối phương. Y thấy cần phải gia tăng một chút công lực nữa. Rồi y thêm ba thành, đoạn đưa bàn tay vượt khoảng cách độ tấc đó liền.

Đối phương dù là bằng sắt, bằng đá cũng phải bẹp rí, đá cũng phải vỡ vụn.

Người bàng quan không khỏi kinh hồn. Và người lo sợ nhiều hơn hết, chính là Ngọc Phương. Nàng hiểu, vũ công của Trầm Quân Lượng cực kỳ cao thâm, giả như Quan Sơn Nguyệt muốn hứng thử một chưởng để ức lượng khí lực của đối phương ở mức độ nào, chưa chắc gì chàng chịu nổi.

Cạnh bàn tay của Trầm Quân Lượng vừa chớp lên, Ngọc Phương rú lên kinh khiếp ngay. Nhưng, nàng liền kêu lên một tiếng khác, cũng kinh khiếp như trước, có điều âm thinh đã đổi khác.

Thì ra, tiếng rú trước, bật ra vì lo sợ cho Quan Sơn Nguyệt, tiếng kêu sau phát xuất bởi sự tình diễn tiến ngược ý tưởng của nàng. Quan Sơn Nguyệt vẫn còn đứng y nguyên tại chỗ, mà Trầm Quân Lượng thì bị văng ra, xa ngoài một trượng, rơi xuống rồi, một chân như lết trên mặt đất.

Ngọc Phương kinh ngạc, các nàng khác cũng kinh ngạc, chỉ có Điền Uyển Hoa là thấy rõ động tác của song phương.

Thì ra, Quan Sơn Nguyệt phóng ra một ngọn cước cực nhanh, cước lực khá mạnh, tuy không phá nổi lớp chân khí hộ thân của Trầm Quân Lượng. Y chẳng việc gì, song dù sao thì y cũng bị đối phương đánh trúng, ngoài ra lại còn bị hất ngược trở lại, như vậy cũng đủ thẹn rồi.

Lảo đảo thân hình một chút, Trầm Quân Lượng mới đứng vững được. Gương mặt của y đã xanh xao, bây giờ xám xịt lại, hiển nhiên thẹn ba phần, phẫn nộ bảy phần. Hung quang bốc ngời nơi đôi mắt, mắt trợn trừng, đôi tròng suýt lọt khỏi mí.

Điền Uyển Hoa nhẹ buông tiếng thở dài, thốt:

– Này, Trầm Quân Lượng! Ta thấy ngươi nên xuôi tay nhận kém đi là phải hơn. Chứ ngươi lộ cái vẻ khó coi đó trước mắt ta, làm gì ta chẳng xốn xang, thương hại cho ngươi. Là bằng hữu với nhau từ nhiều năm, ta thành thật khuyên ngươi đó.

Trầm Quân Lượng hét lớn:

– Uyển Hoa! Đừng vờ thái độ từ bi! Ngươi mà xốn xang vì ta thì đúng là thái dương mọc Tây, lặn Đông vậy đó!

Điền Uyển Hoa nghiêm giọng:

– Thực vậy đó, Trầm Quân Lượng! Ta hết sức xốn xang vì ngươi. Bình thường, ngươi có cái dáng phong lưu lắm mà, sao bây giờ bỗng nhiên lại hầm hầm như quỷ đói toan xơi sống bịnh nhân? Trông ngươi trong tình trạng hiện tại, những ai trước kia ngưỡng mộ ngươi, phải thất vọng nặng nề.

Trầm Quân Lượng cười gằn:

– Được! Ngươi thất vọng, ta cho thất vọng luôn! Ta sẽ nghiền nát tiểu tử đó, thử xem ngươi phải thất vọng đến mức độ nào cho biết!

Điền Uyển Hoa chưa chịu buông tha, mỉa luôn một câu:

– Phàm đánh nhau, song phương cần phải giữ khí định, thần nhàn, nghiên cứu từng chiêu của địch, của mình. Ta trông vào tình trạng của hai người, cũng đủ biết ai sẽ thắng, ai phải bại!

Trầm Quân Lượng «hừ» một tiếng:

– Ngươi đinh ninh là ta không thủ thắng nổi?

Điền Uyển Hoa lắc đầu:

– Ta không hề tưởng như vậy. Ta chỉ hy vọng ngươi sửa đổi thái độ, thắng thì đừng kiêu, bại cũng không hận. Luôn luôn duy trì cái vẻ phong lưu tuấn nhã, để xứng đáng với đời, biểu hiện được tư cách hùng.

Nàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:

– Còn như, nếu cần khuyên ngươi, thì ta phải nói như thế nầy:

cao thủ đọ chiêu với nhau, hơn kém chỉ trong đường tơ kẽ tóc, định đoạt trong một cái chớp mắt, ngươi cần trầm tịnh, mới phản ứng đúng lúc, phản công đúng chiêu, khi sự sáng suốt, sự trấn định mất đi rồi, thì đừng hòng làm nên việc!

Trầm Quân Lượng nghe có lý, trầm ngâm một chút, mắt sáng lên, hỏi:

– Uyển Hoa! Thật sự ngươi đứng về phía nào?

Ngọc Phương hết sức lấy làm lạ. Nàng cũng có ý nghĩ như Trầm Quân Lượng, và tự hỏi vị nữ Trang chủ của nàng thực sự thiên về ai? Trước đó, rõ ràng là nàng bên vực Quan Sơn Nguyệt, cho nên nàng khích thích Trầm Quân Lượng đến phải rối loạn tâm thần vì phẫn uất. Rồi bây giờ, nàng đề tỉnh Trầm Quân Lượng, đề tỉnh một đấu thủ, có cái nghĩa là tiếp trợ gián tiếp đấu thủ đó, muốn cho đấu thủ đó đừng bại, tức nhiên phải thắng! Thế là nghĩa làm sao?

Điền Uyển Hoa mỉm cười, đáp:

– Ta không thiên về ai cả. Ta chỉ muốn xem tài nghệ của song phương thôi, tài nghệ đó phải được thi thố đúng mức tinh vi của sự học tập, ta muốn thấy song phương thượng võ, chứ không đấm đá như hạng vũ phu. Bởi cuộc giao đấu nầy là cuộc trắc nghiệm tài năng, chứ không phải là tranh đoạt một quyền lợi nào mà cần đánh nhau như hai kẻ mù.

Trầm Quân Lượng dần dần khôi phục bình tịnh, rồi y điểm nhẹ nụ cười, thốt:

– Đánh nhau trí mạng, như hai kẻ mù? Ngươi xem thường ta quá, Uyển Hoa!

Với vũ công của hắn, hắn không phương pháp nào gây tổn hại cho ta nổi đâu, bất quá ta vì cầu thắng gấp, mà thành ra mắc kế của hắn đó thôi.

Điền Uyển Hoa gật gù:

– Đã nắm được cái lẽ tất thắng rồi, thì ngươi cũng nên thắng một cách vinh quang chứ! Còn như, cậy sức mạnh, đánh ồ ạt, đánh như đẩy núi, phá rừng, thì cái thắng đó tầm thường quá.

Trầm Quân Lượng được nàng khích lệ, phấn khởi tinh thần, cao giọng thốt:

– Ngươi nói phải đó! Thật sự, vừa rồi ta có nóng nảy một chút, nên sơ suất.

Ngươi cứ chờ xem những gì xảy ra kế tiếp. Nhất định là ta sẽ kết thúc cuộc chiến nầy một cách vinh quang cho ngươi thấy. Phải chi ngươi nói sớm một chút, thì ta đâu có hứng một ngọn cước của hắn?

Điền Uyển Hoa cười nhẹ:

– Chỉ tại ngươi quá hấp tấp cho rằng ta có ý bênh vực hắn, sao ngươi không nghĩ, dù sao thì ta với ngươi cũng là bằng hữu với nhau từ nhiều năm qua rồi kia mà, còn hắn thì ... thì ... hắn đã vượt qua ba cõi trong Hắc Ngục Vong Hồn, hắn là gì của ta chứ?

Trầm Quân Lượng kêu lên:

– Là cừu địch chứ còn chi nữa?

Điền Uyển Hoa gật đầu, nói:

– Đúng đó! Ta đâu có thể ủng hộ cừu nhân, chống đối lại người nhà? Hẳn ngươi cũng biết thái độ của ta dành cho cừu nhân như thế nào chứ? Bây giờ thì ngươi đã rõ tại sao ta quy định với ngươi như vừa rồi đó chứ?

Trầm Quân Lượng cười lớn:

– Ta biết rồi! Đối với kẻ địch ngươi có ý tôn kính, còn ta thì khinh thường hắn, do đó ta làm cho ngươi nổi giận, bây giờ thì ngươi có thể yên trí được rồi. Dù ta có muốn giết hắn đi nữa, nhất định là ta sẽ dùng một thủ pháp trang nghiêm, ta sẽ có một thái độ trang nghiêm lẩn tôn kính ...

Điền Uyển Hoa gật gù:

– Cuối cùng rồi ngươi cũng hiểu được ý ta. Thế thì ta còn nói gì nhiều hơn?

Tuy nhiên, trước khi ngươi hạ thủ sát hại hắn, thì ngươi cũng nên nhớ là đã bại nơi tay hắn qua một chiêu.

Trầm Quân Lượng cười hì hì:

– Ta hiểu rõ ý tứ của ngươi lắm lắm. Ít nhất, khi ta hoàn lại món nợ vay nơi hắn, ta sẽ khách khí với hắn một chút, rồi sau đó, ta sẽ bắt đầu dùng sát thủ. Đối với một kẻ địch đáng kính như hắn, nhất định là ta phải xử sự công bình.

Điền Uyển Hoa đang cười, tắt nụ cười ngay, thốt:

– Phải đó! Ngươi nên nghĩ cách trả lại hắn cái chiêu vừa rồi, có thế mới đúng điệu.

Trầm Quân Lượng lúc đó đã biến thành một người ôn nhu văn nhã cùng cực.

Y bước tới, vòng tay thốt:

– Quan đại hiệp! Vừa rồi, tại hạ thọ ơn trọng chỉ giáo, lòng hết sức cảm kích. Kính thỉnh đại hiệp tiếp tục chỉ điểm thêm mấy cao chiêu nữa, tại hạ sẽ ghi nhớ thạnh đức đời đời ...

Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên, từ từ đáp:

– Các hạ bất tất phải khách khí, tại hạ tùy thời mà lãnh giáo đây.

Trầm Quân Lượng cười nhạt:

– Tại hạ xuất chiêu đây, một chiêu xuất phát mà tại hạ vẫn ở nguyên vị trí cũ, không hề nhích động tới, xin đại hiệp chú ý.

Y vươn tay nhắm đầu vai của Quan Sơn Nguyệt đánh ra.

Quan Sơn Nguyệt không dám xem thường như lần trước nữa, đưa hai tay lên, khoát ra rồi khóa chặt vào.

Trầm Quân Lượng không biến chiêu, cứ để tay trong tư thế cũ, còn tay kia thì vung ra, chận hai tay của Quan Sơn Nguyệt. Có tay sau ngăn chận thế phản công của Quan Sơn Nguyệt, Trầm Quân Lượng cứ đập tay trước xuống luôn đầu vai của chàng. Y phát xuất một lực lượng không quan trọng lắm, Quan Sơn Nguyệt chỉ bị ấn nhẹ xuống một chút.

Quan Sơn Nguyệt giật mình, luận về thủ pháp nhanh, thì chàng còn kém xa đối phương. Nếu đối phương dùng nội lực bằng một phần như kỳ phát chiêu trước, thì hẳn là nửa bên thân hình của chàng phải nát nhừ.

Đắc thủ với một chiêu, Trầm Quân Lượng ung dung thoái hậu, thốt:

– Với sự nhượng của đại hiệp lần nầy, tại hạ đã thanh toán xong món nợ rồi đó nhé, chẳng còn ai thiếu ai nữa. Nhưng, từ phút giây nầy trở đi, tại hạ sẽ dùng sát thủ đó, đại hiệp hãy thận trọng. Chúng ta không nên khách khí với nhau quá, bây giờ đại hiệp tấn công trước, hay tại hạ ra tay trước?

Quan Sơn Nguyệt biết dù có ngán sợ thì cũng thế thôi, chẳng làm sao hóa giải mối hiềm khích giữa chàng và đối phương được. Do đó, chàng đâm bướng, đáp:

– Các hạ chỉ có mỗi một phần ngực là có thể tấn công vào được mà thôi.

Tại hạ dù cho xuất thủ vị tất đánh trúng? Vậy tại hạ bỏ qua cơ hội và xin nhượng các hạ xuất thủ trước ...

Trầm Quân Lượng cười nhẹ:

– Đại hiệp khách khí thế thì tại hạ đành phải xuất thủ trước chứ biết sao?

Để cho cuộc giao thủ được công bằng hơn, tại hạ xin hứa là chỉ đánh vào ngực đại hiệp, chứ không đánh vào nơi nào khác trên mình đại hiệp. Đại hiệp chú ý, tại hạ xuất thủ đây.

Hai tay cùng vươn ra, quả nhiên y chỉ nhắm vào ngực Quan Sơn Nguyệt mà đánh.

Quan Sơn Nguyệt ẩn ước cảm giác quyền phong bức tới, dồn ép phần ngực nặng dần, nặng dần. Chàng hiểu ngay, đối phương lần nầy xuất phát công lực đầy đủ, không dùng hư chiêu như trước nữa. Chàng ức độ, với nội lực của chàng, nếu dùng cả hai tay, thì bất quá chàng chỉ có thể ngăn chận được một tay của đối phương thôi, chứ không làm sao hóa giải nổi cả hai tay quyền của địch. Như vậy, là chàng phải bị đối phương đánh trúng một tay.

Nhưng, chàng để tay địch đánh trúng nơi đâu? Phần ngực? Không thể để cho địch đánh trúng nơi đó được, vì địch đã tuyên bố sẽ đánh vào đó, nếu để cho y đắc thủ, là chứng tỏ chàng kém cỏi quá nhiều. Không cho địch đánh trúng ngực, thì phải làm sao?

Chàng định né mình qua một bên, tránh cho phần ngực được an toàn, đưa đầu vai ra chịu. Tay quyền của địch đánh trúng chỗ đó, dù cho có gãy xương vai, dù cho nát nửa thân mình mà chết đi, cũng chẳng sao, miễn địch không đánh trúng ngực là được rồi. Không bị đánh trúng ngực, là không mất mặt, có bại, có chết cũng chẳng sao, miễn đừng mất mặt là được. Nghĩ như thế, chàng thực hành ý định liền.

Hai tay Trầm Quân Lượng vừa bay sang, chàng lệch mình qua một bên, né ngực, đưa vai hứng.

Ngờ đâu, Trầm Quân Lượng thay vì đánh tới luôn, lại thu hồi tay về.

Thực ra, thủ pháp của y rất nhanh, tuy y rút tay về song bàn tay cũng chạm phớt qua đầu vai của Quan Sơn Nguyệt. Cái chạm phớt đó, không gây một cảm giác nào nơi Quan Sơn Nguyệt, làn da còn nguyên vẹn, nhưng vai áo thì rách, chẳng những rách, lại còn nát, quyền phong còn thoảng quanh mình Quan Sơn Nguyệt, làm bay lất phất những mảnh vải nát đó. Sự kiện đó cho thấy nội lực của y cực kỳ thâm hậu, và y thu hay phóng tùy ý, tùy thời.

Dù muốn dù không, thoát hiểm lần nầy, Quan Sơn Nguyệt cũng phải nhìn nhận đối phương là một tay cực kỳ lợi hại. Giả như y hạ luôn tay quyền xuống thì chàng đã táng mạng rồi.

Vẻ kinh hãi hiện rõ nơi gương mặt.

Trông chàng, Trầm Quân Lượng điểm nhẹ một nụ cười, thốt:

– Đại hiệp ứng biến nhanh quá, suýt chút nữa tại hạ đã mắc mưu rồi.

Y không biểu lộ một điểm nhỏ chế nhạo nào, song lời nói của y vẫn khích nộ Quan Sơn Nguyệt như thường. Bởi, chàng thức ngộ ra, dùng phương pháp đó tránh một chiêu quyền của y, hay đúng hơn, thay đổi mục tiêu của y, dù sao cũng tỏ là chàng khiếp nhược, không nhiều thì ít.

Tự xét tài năng không bằng người, thì sớm muộn gì cũng bị người đánh chết, không chết cũng thọ thương nặng, như vậy cần chi phải tránh né nữa?

Chàng đâm liều, bật cười sang sảng, đáp:

– Các hạ bất tất phải câu nệ tiểu tiết, các hạ có thể hạ thủ bất cứ nơi nào trên khắp thân mình của tại hạ, dù có kết quả như thế nào, tại hạ cũng vui mà tiếp nhận. Tuy nhiên, tại hạ không thể khoanh tay chờ thảm bại, ít nhất cũng phải hoàn lại các hạ một chiêu.

Trầm Quân Lượng cười vang:

– Quan đại hiệp có hào khí cao ngất mây xanh, tại hạ thật khâm phục. Để đáp lại thạnh tình của đại hiệp, tại hạ xin tán triệt phần chân khí hộ thân, cùng đại hiệp trao đổi một chiêu.

Y khẳng khái thu hồi «Vô Tướng Thần Công», quyết so chân lực với chàng.

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Các hạ có triệt hồi hay không triệt hồi «Vô Tướng Thần Công», điều đó chẳng quan hệ gì. Tại hạ xuất thủ, vẫn nhắm vào phần ngực của các hạ, duy nhất ở bộ phận đó thôi.

Thốt xong, chàng vung hai tay luôn, chưởng bay ra như gió, trong thoáng mắt xuất phát hơn mười chiêu.

Trầm Quân Lượng giật mình, lập tức vung tay nghinh đón.

Y nặng về thủ, nhẹ về công, trước thế công của Quan Sơn Nguyệt, y cũng nao núng phần nào, nên chuyên chú bảo trì phần ngực chặt chẽ.

              Tư Mã Tử Yên

Võ Lâm Phong Thần Bảng

Hồi 79

Cát Nhân Thiên Tướng

Lúc đó, đích xác Trầm Quân Lượng hết sức kỳ quái đến hãi hùng, y phát hiện ra, Quan Sơn Nguyệt chẳng phải là một kẻ hữu danh vô thực như một số người trên giang hồ ngoa truyền. Đúng là chàng có chân tài, và cái chân tài đó có thể gây khó dễ cho những cao thủ thượng thặng trong vũ lâm, từ cỡ y trở lên.

Có thể cho là nội lực của chàng không thâm hậu bằng y, nhưng hai cánh tay của chàng phát huy một lực lượng không dưới ngàn cân, hơn thế, những chiêu thức do chàng sử dụng lại cực kỳ tinh xảo.

Điểm duy nhất tạo cho y niềm tin cầm chắc cái thắng trước Quan Sơn Nguyệt, là nội công thuần túy tinh vi, về nội lực thì chú vào nhu, về ngoại lực thì chú vào cương, muốn cho nội công đó có tác dụng, thì cần thiết là Quan Sơn Nguyệt phải trực tiếp đánh trúng thân mình y. Nhân đó, y sẽ lợi dụng kình đạo ngầm của nội gia, trong khoảng cách độ một ly, một phân, quật khởi thế phản công, gây thương tổn cho đối phương dễ dàng.

Y thì nhu, còn Quan Sơn Nguyệt thì cương, y sẽ thắng là cái chắc. Nhưng, muốn nắm chắc phần thắng, thì đáng lẽ y không nên khoa trương trước khi song phương động thủ mới phải. Khổ nỗi, trước mặt Điền Uyển Hoa, y đã lỡ nói là chỉ công vào phần ngực của Quan Sơn Nguyệt thôi, chứ không hề nhắm vào một bộ phận nào khác trên thân thể chàng. Nói lỡ như vậy, là tự hạn chế phần đất chết trên mình Quan Sơn Nguyệt rồi. Mục tiêu của các chiêu công thu gọn nơi ngực, y không thể bạ đâu đánh đó được nữa.

Quyền của Quan Sơn Nguyệt xuất phát ra như gió, chiêu tiếp nối chiêu, không gián đoạn, chiêu sau lại mãnh liệt, biến ảo hơn chiêu trước.

Những chiêu của Quan Sơn Nguyệt thì tung hoành, còn những chiêu của y thì chỉ tập trung nơi phần ngực của đối phương.

Hai tay của Quan Sơn Nguyệt một ra một vào, ra thì tấn công, vào thì thủ hộ phần ngực. Hai tay giao chuyền, luôn luôn có một tay che chở phía trước, nếu Trầm Quân Lượng muốn đánh trúng ngực chàng, thì trước hết y phải đánh gãy tay chàng.

Dù cho đánh gãy tay chàng rồi, sau đó áp đảo được chàng thì chính y phản ngược lại lời tuyên bố vừa qua, nếu y có thắng được Quan Sơn Nguyệt đi nữa, Điền Uyển Hoa sẽ không lượng thứ cho y.

Y đâm lo, tự hỏi:

“Phải làm sao bây giờ đây? Làm sao cho hắn lơi đi cái thế thủ trong một phút, một giây thôi, cũng đủ cho ta làm việc rồi!”.

Y vừa nghinh chiến vừa nghĩ cách thủ thắng.

Quan Sơn Nguyệt trái lại chẳng bận lo nghĩ gì cả, bởi chàng biết rõ là mình không làm gì nổi đối phương, chàng chỉ hy vọng giữ chắc phần ngực thôi, miễn sao cho đối phương đừng kích trúng chỗ đó, giả như đối phương đánh trúng nơi khác, và làm cho chàng thiệt mạng đi nữa, cũng chẳng sao, bởi đối phương không làm đúng lời tuyên bố, chàng dù bại vong cũng không mất mặt.

Chàng luôn luôn nhớ rằng mình là Lịnh Chủ Minh Đà, đành rằng một Lịnh Chủ thất bại thì cũng có phần hổ thẹn thật, song chàng quan niệm chỉ có sự thất bại về võ thuật mới đáng thẹn, vì là kém tài.

Ngày trước, chàng có thất bại một lần, do tay Khổng Linh Linh, song Khổng Linh Linh dùng một loại ám khí, có tên là Thiên Tinh Sa, thất bại vì ám khí, chẳng phải là một sỉ nhục.

Giờ đây, đối phương có nội lực cao thâm hơn chàng, đối phương có thủ thắng chàng, điều đó hiển nhiên, bởi người giỏi bao giờ cũng hơn người dở. Tuy vậy, đối phương đã tuyên bố chỉ đánh vào phần ngực của chàng thôi, thì chàng phải cố thủ hộ phần ngực, nếu bị đánh trúng chỗ ngực thì mới đáng gọi là một sỉ nhục, chứ còn bị đánh trúng nơi khác, thì chẳng đáng thẹn chút nào. Trái lại, người hổ thẹn trong cuộc chính là người hành động sai lệch với lời tuyên bố.

Chàng không cầu thắng, bởi là một cái thắng khó khăn, chàng chấp nhận trước sự thất bại, miễn sao thất bại một cách quang vinh thôi. Quang vinh, vì chàng không để cho đối phương chạm đúng mục tiêu hoạch định.

Song phương đã trao đổi hơn hai mươi chiêu rồi. Họ vẫn còn ở trong cái thế quân bình.

Trầm Quân Lượng không làm sao tìm được một sơ hở nhỏ nơi ngực Quan Sơn Nguyệt, mà Quan Sơn Nguyệt cũng không phương đánh trúng vào những chỗ yếu nhược của Trầm Quân Lượng. Cho nên, cuộc đấu chỉ có phần ngoạn mục chứ không nguy hiểm chút nào.

Rồi họ tiếp tục cuộc chiến đến chiêu thứ ba mươi.

Trầm Quân Lượng bắt đầu mất bình tĩnh, càng phút y càng nóng nảy. Y tự nghĩ, nếu cuộc đấu kéo dài mãi, sau cùng dù cho ý có thắng, thì cái thắng đó cũng không vinh hạnh gì. Bởi, nếu y là người cao minh hơn địch, thì tại sao y không hạ địch nhanh chóng? Mà y thì luôn luôn muốn chứng tỏ là mình cao minh?

Với ý muốn tốc thắng đó, y nảy sanh một chủ trương tàn độc. Y nghĩ:

“Ta không nên gây thương tổn thể xác cho hắn làm gì, ta cứ làm cho hắn đau tinh thần, ta sẽ tạo cho hắn một cái nhục, rồi hắn sẽ tự động giải tỏa phần ngực đi, làm như vậy, ta sẽ không bị ai trách cứ, bởi chính hắn tình nguyện bỏ cái thế thủ ở phần đất mục tiêu, và ta không vi phạm sự thỏa ước, mặc dù thắng bằng cách đó chẳng vinh quang, minh chánh gì. Điều cần yếu cho ta là Điền Uyển Hoa đuối lý.”.

Chủ ý đã quyết định xong, y bỗng cười lên một tiếng, hai tay chớp lên, mường tượng dùng toàn công lực đánh vào phần ngực của Quan Sơn Nguyệt.

Dĩ nhiên, Quan Sơn Nguyệt càng cố gắng thủ kín đáo.

Nhưng, chiêu đó, chỉ là một chiêu hư, thay vì đánh thẳng vào ngực Quan Sơn Nguyệt với cả hai tay cùng một lúc, y chỉ vươn tới một tay, bàn tay y phớt ngang qua mặt chàng.

Y tát tay vào mặt chàng! Cái tát tay là một hành động cực kỳ khinh ngạo, kẻ bị tát phải cho rằng mình tiếp nhận một sỉ nhục lớn lao, kẻ đó chịu chết hơn là bị tát. Mà ai ai cũng thế, thà chết chứ khi nào chịu nhục?

Giả như Trầm Quân Lượng dùng lực quan trọng một chút, thì dù Quan Sơn Nguyệt không chết đi nữa, cái tát tay đó phải hạ bay một quai hàm của chàng, răng văng, máu đổ.

Không, Trầm Quân Lượng không có ý gây thương tổn thể xác, mà chỉ tạo một sỉ nhục cho chàng, cốt khích nộ chàng thôi.

Bất quá, tát tay đó lưu lại dấu năm ngón, ràng ràng nơi má chàng, chứ không gây một cảm giác đau đớn lắm.

Đánh trúng rồi, Trầm Quân Lượng cố ý cười thêm mấy tiếng nữa, đoạn thốt:

– Gương mặt của Quan đại hiệp mịn màng như mặt thiếu nữ, nếu mà chịu khó trát phấn, tô son thêm vào, thì đại hiệp nghiễm nhiên trở thành một giai nhân, làm ngây ngất lòng bao nhiêu trang thiếu niên anh tuấn.

Không đau mặt, Quan Sơn Nguyệt đau lòng, bất giác, chàng trầm thần sắc, gằn từng tiếng:

– Kẻ sĩ, thà chịu bị giết chứ không thể chịu nhục. Trầm huynh không nên dùng đến cái thủ đoạn đê tiện đó. Nếu Trầm huynh đánh mạnh tay hơn, đánh thực sự, dù có làm tại hạ chết luôn, tại hạ rất cảm kích vô cùng.

Trầm Quân Lượng cười nhẹ:

– Quan đại hiệp nói hơi thái quá rồi đó nhé. Huynh đệ đã tuyên bố là ngoài phần ngực ra, huynh đệ không gây tổn thương cho đại hiệp ở bất cứ một bộ phận nào khác trên người của đại hiệp mà. Như vậy huynh đệ đâu có thể tát mạnh tay được? Nếu rủi ro, đại hiệp sứt quai hàm, hay gãy răng đổ máu, thì chẳng hóa ra huynh đệ vi phạm thỏa ước sao?

Quan Sơn Nguyệt nổi giận thực sự. Chàng «hừ» gọn một tiếng, vươn dài tay tới như một ngọn trường mâu, công vào ngực của Trầm Quân Lượng.

Trầm Quân Lượng đưa tay lên, gạt ngang tay chàng. Thấy Quan Sơn Nguyệt phát xuất chiêu công đó, Trầm Quân Lượng vừa kinh vừa mầng. Kinh hãi, vì y phát hiện ra, ngạnh công của Quan Sơn Nguyệt quả nhiên tuyệt diệu. Chiêu quyền chàng vừa xuất phát có lực lượng ít nhất cũng trên ba ngàn cân, dù y có lớp khí công hộ thể cũng chưa chắc gì y chẳng bị dao động mạnh. Còn mầng, là vì phương pháp của y có hiệu lực rồi, nếu y khích thích chàng thêm vài lượt nữa, thì chàng sẽ sơ xuất thế thủ, bởi cơn giận sẽ làm mất ít nhiều sáng suốt.

Rồi y cười nhẹ thêm mấy tiếng, đưa cánh tay lên thốt:

– Hiện tại, mặt của đại hiệp chỉ đỏ một bên, trát phấn tô son nửa phần như vậy, xem không đẹp, cần phải trát đều, tô đều, mới trở nên một mỹ nhân hoàn toàn.

Đoạn, y cười hì hì, tiếp luôn:

– Đại hiệp lười quá đi thôi, chẳng chịu trang điểm cho mình thêm đẹp, vậy huynh đệ tiếp cho một tay nhé!

Nếu nửa bên mặt còn lại đó bị tát luôn, thì dù cho người ta không giết chết, chàng cũng chẳng còn mặt mũi nào mà sống sót thêm nữa, dù chỉ là một giây, một phút. Do đó, chàng nghênh đầu lên, mắt quắc nhìn tóe lửa, nhìn bàn tay của Trầm Quân Lượng, không chớp.

Trước ánh mắt của chàng, Trầm Quân Lượng cảm thấy khiếp phần nào.

Cánh tay của y dừng nguyên tại chỗ vừa đưa lên, y không dám vươn tới xa nữa, tuy nhiên cũng chưa rụt tay về hay hạ xuống.

Rồi y khẽ liếc sang bên cạnh.

Điền Uyển Hoa đang nở nụ cười lạnh, vẻ khinh miệt hiện rõ nơi mặt nàng, ánh mắt của nàng cũng biểu lộ sự bỉ ổi, khinh miệt.

Bất giác, y chạnh lòng, tự hỏi Điền Uyển Hoa có ý tứ gì? Nàng khinh miệt là cái chắc, nhưng khinh miệt ai? Y hay là Quan Sơn Nguyệt?

Nàng khinh miệt y? Tại vì y khiếp hãi trước thần sắc của Quan Sơn Nguyệt, hay không tán thành phương pháp của y? Y tự hỏi để thêm rối lòng, chứ làm gì có giải đáp? Tuy vậy, y cũng ức đoán như thế nầy:

“Điền Uyển Hoa tổ chức Vạn Ma Sơn Trang, đủ biết nàng chú trọng đến tà thuật rồi. Nội chữ Ma đó cũng thừa nói lên chủ trương của nàng. Thì, chắc chắn là nàng không bất mãn vì phương pháp do ta áp dụng, mà là vì ta tỏ ra khiếp hãi thôi ...”.

Y lại nghĩ luôn:

“Giả như nàng bất mãn vì hành động của ta, thì nàng đã can thiệp, ngăn trở ...”.

Cho rằng mình nghĩ đúng, Trầm Quân Lượng tiếp tục thực hiện chủ ý. Bàn tay y vội chớp lên, bay qua mặt Quan Sơn Nguyệt. Bàn tay đó nhằm bên má bị tát vừa rồi, chứ không nhằm vào phần má bên kia.

Chẳng phải y muốn đánh vào chỗ cũ, chẳng qua y đoán chừng động tác của Quan Sơn Nguyệt mà hành động. Y đoán, Quan Sơn Nguyệt sẽ tưởng là y công vào phần má kia, chàng thủ kỹ ở chỗ đó. Bây giờ y đánh ra, đánh ra một chiêu vờ, cho Quan Sơn Nguyệt phản công, khi chàng phản công, là cái thế thủ phải mất đi rồi, y sẽ biến hóa chiêu thức, đánh vào chỗ chánh yếu.

Ngờ đâu, đối với hư chiêu của Trầm Quân Lượng, Quan Sơn Nguyệt không xem ra gì, chàng không buồn ngăn đỡ, chỉ chờ y xuất phát luôn tay kia, lúc đó chàng phản công thực sự. Và, Trầm Quân Lượng lỡ bộ, cho lỡ luôn, y đánh tiếp tay kia ra. Dĩ nhiên, bàn tay nầy nhắm vào phần má còn nguyên vẹn.

Quan Sơn Nguyệt liền xuất phát cả hai tay. Hai tay đó không phản công hai chiêu của Trầm Quân Lượng, cho nên cả hai tay của Trầm Quân Lượng đều phải đánh trúng hai bên má của chàng.

Hai tay chàng nhắm vào phần ngực của Trầm Quân Lượng mà bay tới.

Đánh như thế là đòn đổi đòn, là liều rõ rệt.

Nhưng, cái liều của chàng không làm cho Trầm Quân Lượng nao núng, trái lại, y hân hoan vô cùng, bởi đó là cơ hội mà y chờ đợi từ lúc bắt đầu giao thủ. Cả hai tay của chàng đều bay ra, đương nhiên phần ngực của chàng bị bỏ trống. Lập tức, y rút một tay về, phòng vệ phần ngực, đoạn nhanh như chớp y trầm cánh tay kia xuống, dồn vào tay đó đến chín thành công lực, đập luôn vào ngực Quan Sơn Nguyệt. Cái chưởng đó, nếu trúng một khối kim cương, kim cương cũng vỡ tan, hà huống phần ngực con người vốn bằng thịt, bằng xương?

Bất quá, y tỏ ra cái vẻ đại phương của một con người minh chánh, chờ cho chưởng tâm xuống sát, chiêu thức thành hình thực sự rồi mới vận dụng kình lực đưa theo, cố ý gây chấn động bên trong, đứt tâm mạch, hư hoại tạng phủ nhưng bên ngoài thì chẳng có một dấu vết gì.

Chưởng tâm xoay đúng đích, kình lực phát huy rồi, Trầm Quân Lượng không dằn lòng được, để lộ sự đắc ý rõ rệt. Và y chỉ còn bật cười lên ha hả nữa thôi.

Nhưng, ý định cười, miệng chưa mở, hai bên má bị kích mạnh, mạnh đến đổi y chao người, thân hình lạng đi ra xa xa.

Thoạt tiên, thì y cảm thấy mình hơi hôn mê, sau đó thì y nghe đau quá, như có lửa đốt ở hai bên má, rồi y nghe mặn mặn nơi miệng.

Máu! Mùi máu bốc tanh trong khi kim quang loạn hiện trước mắt.

Y nghĩ, có lẽ Quan Sơn Nguyệt không tiêu nổi cái nhục thọ nhận một tát tay trước đó, rồi đâm liều, bỏ trống phần ngực để đổi đòn, đánh trả hai cái tát như trời giáng.

Tự y muốn tỏ cái khí độ anh hùng, nên triệt thu «Vô Tướng Thần Công», dù đầu y có là bằng sắt, cũng không chịu nổi hai cái tát của Quan Sơn Nguyệt, bởi thế đánh của Quan Sơn Nguyệt cực kỳ mãnh liệt, tuy chàng đánh vào má, nhưng xương sọ cũng phải bị vỡ luôn qua dư lực của chàng.

Cũng may, chân khí hộ thân của y tùy tâm mà phát huy, khi ngoại lực chạm mình là nội lực bên trong phát sanh ngay, tạo thành một cái sức phản kháng, đành rằng có chậm một chút, song cũng tiếp trợ y rất nhiều, không đến đổi nguy tánh mạng.

Y lại nghĩ, thọ nhận hai cái tát đó, kể ra cũng oan uổng thật, song bù lại, Quan Sơn Nguyệt bị đứt tâm mạch, tánh mạng hy hữu, thì điều oan uổng đó vẫn được an ủi lớn. Y há miệng, phun máu ứ đọng ra ngoài, trong máu có mấy chiếc răng vỡ vụn, y còn nghe đau nơi mặt.

Ngần ấy khổ, đánh đổi một sanh mạng của một con người mà y không thể cùng đội chung trời, sự đánh đổi đó cũng đáng giá lắm.

Phun máu, phun răng rồi, y lắc lắc chiếc đầu cho bớt xây xẩm mặt mày, lấy lại sự trấn định, chuẩn bị nhìn Quan Sơn Nguyệt nằm dài trên mặt đất, thất khiếu rỉ máu, tay chân co quắp.

Trầm Quân Lượng đinh ninh là Quan Sơn Nguyệt phải chết. Cho dù Quan Sơn Nguyệt có là mình đồng xương sắt cũng không sống nổi. Thế là y trừ diệt được một tình địch lợi hại! Từ nay, Điền Uyển Hoa sẽ hoàn toàn thuộc về y! Giả như nàng còn lưu luyến đến chàng trai đẹp, kiêu hùng, thì trong một thời gian ngắn, nếu y khéo chinh phục nàng, bóng hình của Quan Sơn Nguyệt sẽ phai mờ trong tâm não của nàng, bóng hình đó sẽ vĩnh viễn rút lui, nhường chỗ cho y len lỏi vào, ngự trị.

Y khoan khoái vô cùng, phác họa ra một viễn cảnh xinh tươi, ngút hương tình ...

Y thầm kêu:

“Uyển Hoa! Uyển Hoa! Từ nay, nàng sẽ là người của ta! Trọn vẹn của ta!”.

Tuy hai gò má đang trong một cảm giác tê dại khó chịu, Trầm Quân Lượng vẫn nhếch môi mỉm cười, cái cười sung sướng của một gã tình si đang say trong men chiến thắng, dù rằng một chiến thắng trên thủ đoạn ương hèn ...

Hết

Quan Sơn Nguyệt có chết thật chăng?

Trầm Quân Lượng sẽ ra sao?

Vạn Ma Sơn Trang có thái độ gì với Quan Sơn Nguyệt?

Quan Sơn Nguyệt có cứu kịp thời Ôn Kiều chăng? Chàng có gặp lại Độc Cô Minh chăng?

Trương Vân Trúc có thực hiện dã tâm hãm hại Quan Sơn Nguyệt để đoạt quyển bí kíp «Hãn Hải Tâm Pháp» chăng?

Và ngoài Điền Uyển Hoa ra, Quan Sơn Nguyệt xử trí như thế nào đối với Trương Thanh, cũng như đối với bao nhiêu nữ nhân khác ôm ấp mơ hoài một cuộc kết hợp với chàng?

Mời bạn đọc xem tiếp bộ «SA MẠC NHẤT HÙNG», mọi vấn đề gút mắc sẽ được kết thúc bằng nhiều thích thú bất ngờ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro