NPC -木- MỘC

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

http://jeongkimchi.wordpress.com/kiem-vong-3/

CUỘC ĐỜI CÁC NHÂN VẬT NPC TRONG GAME KIẾM VÕNG 3

Ác Nhân Cốc

Tên: Vương Di Phong (王遗风)

Môn phái: Ác Nhân cốc (恶人谷)

Vị trí: Chủ nhân Ác Nhân cốc, đứng đầu trong Thập đại ác nhân

-

Vương Di Phong.

Thân là một người trong giang hồ, phải biết đến tên của hắn.

“Tuyết ma phúc thủ phiên vân vũ, Tạ Uyên đàm tiếu đình phong lôi” (Tuyết ma chỉ vung tay là đảo lộn mây mưa, Tạ Uyên nói chuyện phiếm cũng có thể đình chỉ sấm gió), đây tuy là hai câu nói học trò của Hạo Khí minh dùng để khen tặng Minh chủ Tạ Uyên, thế nhưng nhìn vào từng mặt chữ vẫn có thể thấy được Hạo Khí minh đối với chủ nhân của Ác Nhân cốc, Tuyết ma Vương Di Phong thực sự rất kiêng kị!

Hắn là hậu duệ thông minh của thư hương thế gia Vương gia, hắn là nhất mạch truyền nhân duy nhất của võ lâm Hồng Trần, hắn là Tuyết ma phẫn nộ tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành, hắn còn là kẻ nguy hiểm đệ nhất thiên hạ: đương Đại chủ nhân của Ác nhân cốc!

“Nhất túy giang hồ tam thập xuân, yên đắc thư kiếm giải Hồng Trần” (Giang hồ say rượu một lần qua ba mươi xuân, không gì có thể khuấy đảo Hồng Trần)

Hồng Trần nhất chi, trong võ lâm từ trước đến nay ít có người biết lai lịch thế nào, xưa nay chỉ độc truyền cho nhất mạch. Võ học Hồng Trần nặng về tu tập tâm thần, kẻ không có trí tuệ toàn vẹn hòa hợp thì không có cơ may nhòm ngó đến con đường này. Giữ cho mình tâm tĩnh, thao túng ý chí địch, đây chính là cảnh giới cao nhất trong võ học, chiêu thức chém giết phản vi mạt lưu vũ kĩ(kỹ thuật không được lưu truyền). Hồng Trần đệ tử luôn luôn du hí phong trần, tiêu sái vô câu (vô câu: không bị trói buộc), Vương Di Phong này là truyền nhân một đời của Hồng Trần.

Đối với Vương Di Phong, Ẩn Nguyên hội từng có nhận xét: “Trong giang hồ, có người tôn kính hắn, có người thóa mạ hắn, cũng có người thương hại hắn, nhưng không có ai có đủ can đảm bất kính với hắn…”

Thần Công (triều đại Võ Tắc Thiên) năm thứ nhất (CN năm 697), Vương Di Phong được sinh ra tại thư hương danh môn Vương gia. Hắn thuở thiếu thời đã sớm thông tuệ, tâm tư so với người khác cực kì sắc bén, đối với người trong ngoài bất nhất, lời nói tiếu lí tàng đao, hắn có thể nhất nhất phát hiện, ngay từ lúc còn nhỏ đã biết rõ lòng người hiểm ác, là đứa trẻ thiên chân vô lự hoàn toàn không có cơ hội cảm nhận khoái nhạc cuộc sống. Thường phải luôn tự mình chịu đựng thống khổ mà không thể tâm sự cùng ai, nội tâm giày vò là có thể tưởng tượng được.

Trong nhà nào của Vương gia cũng đều lưu trữ rất nhiều sách vở phong phú trong đó có cả bản in kinh sử. Vương Di Phong vì muốn giải trừ nỗi khổ trong lòng mà từ năm sáu tuổi liền vùi đầu vào sách vở, trong mười năm xem hết toàn bộ kinh thư nhưng vẫn không giải được. Đường Khai Nguyên năm thứ nhất (CN năm 713), Hồng Trần thượng đại đệ tử Nghiêm Luân trong một lần dạo chơi đến nơi này, nghe nói đến điểm xuất sắc của Vương Di Phong, lập tức đi đến Vương phủ một phen, Vương Di Phong thiên tư chân chính thích hợp với con đường võ học Hồng Trần, mục đích của Hồng Trần môn phái, Vương Di Phong cũng có chút động tâm, liền đi theo Nghiêm Luân rời khỏi nhà vui vẻ tập luyện võ học tâm pháp.

Vương Di Phong đối với võ học Hồng Trần có ngộ tính rất cao, mười một năm sau khi võ công đại thành thì tái xuất giang hồ đi du hí, nhưng trong lòng đã nghĩ dù kết thúc cũng sẽ không trở về. Nguyên lai là Hồng Trần tâm pháp vốn coi trọng việc thể nghiệm và quan sát kẻ thù bên ngoài, hắn sau khi tu tập thì lý giải về suy nghĩ trong lòng người khác lại càng thêm tinh tế tỉ mỉ, người trước sau như một vốn đã vô cùng khó tìm, khắp nơi trên cõi đời này toàn là những kẻ khẩu thị tâm phi, hắn chứng kiến càng nhiều, nhân thế trong mắt lại càng tối tăm thêm một phần, hắn rơi vào trong khúc mắc bậc này, mấy phen chỉ muốn giương tay tẫn hết u sầu.

Đường Khai Nguyên năm thứ mười chín (CN năm 731), Vương Di Phong và Nhân Diệp Phàm đi đến Đường Môn, trên con đường thông thương ở Tự Cống, Ba Thục(*) gặp Văn Tiểu Nguyệt — người trọng yếu nhất trong cuộc đời của hắn.

(*Ba Thục [巴蜀] là tên ngày xưa của Tứ Xuyên, Tự Cống [自贡] là địa hạt thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc)

Tự Cống có Đào Hương lâu, Văn Tiểu Nguyệt là một vũ kĩ nhất danh trong lâu. Vương Di Phong trên đường đi qua Đào Hương lâu, trong lâu hoan ca không dứt, hắn buồn bã ngẩng đầu, kia nhãn thần kinh hãi, kia tuyết bay đầy trời, hành lang đầy tranh điêu khắc, đều ngưng tụ thành nữ tử trong khung cửa sổ kia.

Nàng la y cởi ra một nửa ngồi trong lòng ân khách, ánh mắt thanh triệt trong veo, sáng ngời như sao, tựa như chưa từng bị thế gian này nhiễm bẩn, từ trong mắt nàng tìm không ra một tia giả dối cùng nhơ bẩn của nhân thế, ba mươi năm phiền não của Vương Di Phong bỗng nhiên giống như được mở ra một cánh cửa, nhiệt huyết trong lồng ngực xao động, xao động mà không hiểu vì sao, dục vọng ầm ĩ thét dài, thế nhưng lo sợ này chẳng qua chỉ làmột hồi  mộng cảnh bị hắn kêu lên một tiếng thì bừng tỉnh, hắn quyết ý phải gặp nữ tử này hỏi vì sao có thể “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”(*) như thế.

(*Nguyên văn là “thanh liên độc thế, ứ nê bất nhiễm” [青莲独世, 淤泥不染], nghĩa là sen xanh chỉ có một trên đời, bùn lầy không nhiễm bẩn được)

Đêm đó, Tuyết ma lừng danh thiên hạ giữa trời đầy gió tuyết lẳng lặng đứng cả tròn một buổi tối, lắng nghe nhuyễn ngữ ôn ca trong lâu kia, nhìn xem ngọn đèn dầu bên khung cửa tàn lụi, đến tận khi đêm khuya thanh vắng, vạn vật tắt tiếng, tuyết thấm nặng y phục.

Người được gọi là Văn Tiểu Nguyệt nghe thấy tiếng gió tuyết, biết rằng đêm nay tuyết lớn gió lạnh, nhưng lại không nhìn thấy nam tử áo trắng đứng im bên dưới khung cửa kia. Văn Tử Nguyệt trời sinh bị mù, thế giới trong mắt nàng hết thảy đều chỉ là một màu đen, chưa bao giờ biết đến trên đời này còn có một Vương Di Phong phong phạm bậc này ít ỏi khó gặp, mà cho dù có thấy được, thì cũng chỉ là một vị khách qua đường vội vàng trong cuộc đời của nàng mà thôi.

Bắt đầu từ ngày ấy, Đào Hương Lâu có thêm một vị khách mới, hắn khí phách khoáng đạt, tiêu sái nho nhã, vừa nhìn đã biết là một vị ẩn sĩ đọc nhiều thi thư, mọi người đều gọi là Vương công tử. Vương công tử mỗi lần đến Đào Hương Lâu đều chỉ gọi Văn Tiểu Nguyệt đến tiếp, nếu như có người hẹn trước, hắn liền ngay ngắn ngồi chờ. Văn Tiểu Nguyệt từ đấy về sau có thêm một vị bằng hữu thú vị, nàng biết hắn tên là Vương Di Phong, hắn không giống những vị khách khác, mỗi ngày đến đây đều chỉ cùng nàng nói chuyện phiếm, hắn kiến thức uyên bác, trời Nam biển Bắc, nhàn văn dật sự (chuyện tầm phào, chuyện ít người biết), dã sử kỳ nhân (chuyện xưa, người kỳ lạ), mỗi ngày đều kể không hết chuyện, không cái nào giống cái nào, thường khiến nàng phải che miệng cười to. Tiểu Nguyệt cũng không nói nhiều, Vương Di Phong nói hết nửa ngày, nàng chỉ đáp lại kể về một chút chuyện nhà, nàng biết hắn thật sự đang lắng nghe, kiên nhẫn vô cùng. Nàng nói rằng mình từ nhỏ hai mắt đã mù, tới tận bây giờ đếu không nhìn thấy thứ gì, Vương công tử nói: “Chuyện không như ý trong thiên hạ không mười thì cũng chín, không cần để ý”. Nàng nói năm mười lăm tuổi thì bà ngoại đã thu dưỡng bọn nàng chết đi, nàng cùng Đại Kim, Nhị Ngân ba người giãy giụa sống qua ngày, Vương công tử thở dài không thôi. Đợi nàng nói đến chuyện bản thân nương nhờ thanh lâu, đời sống lay lắt của người trong nhà dần dần biến chuyển, về sau được chọn vào trong tam tài tứ bảo, ngày qua ngày lại dần trở nên khó khăn, Vương công tử im lặng không nói.

Một thời gian dài sau này, nàng mới biết Vương Di Phong tài hoa hơn người, gia đình giàu có, thuở nhỏ cũng phải chịu cảnh hết lần này đến lần khác nội tâm giày vò thì liền nảy sinh đồng cảm với hắn. Nàng kiến thức không nhiều nên không biết phải khuyên nhủ như thế nào mới được, nhưng nàng lại không biết mỗi ngày vào những lúc được ở cùng nàng, nhất là khi được nhìn thấy ánh mắt của nàng, cặp mắt thủy chung vẫn luôn thanh triệt trong suốt, thống khổ quấy nhiễu trong tâm Vương Di Phong nhiều năm liền được gột rửa không còn dấu vết.

Ngày mười lăm tháng tám, ngày hội Trung thu, màn đêm phủ đến ngàn dặm không một gợn mây, trăng tròn sao thưa, Văn Tiểu Nguyệt cùng Vương Di Phong tâm tình nửa ngày, trong lòng nàng cao hứng về nhà đến bước chân cũng bởi vậy mà nhẹ nhàng hơn. Vương Di Phong đứng từ xa nhìn, tâm theo đó cũng phấn chấn hẳn lên, hắn mới vừa rồi đã chuộc thân cho Tiểu Nguyệt, từ nay về sau nữ tử đơn thuần này hẳn là sẽ càng thêm vui vẻ, hắn nhìn thấy đám nhỏ mở cổng ra nghênh đón nàng, nhìn thấy nụ cười vô cùng rực rỡ trên gương mặt nàng, hắn bỗng nhiên hiểu ra, nơi này chính là điểm cuối cho chuyến lữ hành của hắn.

Hạ Đại Thiên đừng trong ngõ nhỏ nhìn ra, y nhìn thấy đám trẻ con mở rộng cửa nghênh đón nàng, y thấy trên gương mặt nàng nở ra nụ cười tươi sáng vô cùng, nụ cười của y cũng sáng lạn không kém, y nhớ lại tờ ngân phiếu trị giá khổng lồ mới vừa rồi, lúc Vương Di Phong đưa cho Triệu ma ma, Hạ Đại Thiên đứng ở phía sau bọn họ, khi đó y vừa bị Huyền Tự Trác một vị khách hào phóng mắng là tay chân vô dụng. Tay chân y đương nhiên là không được nhanh nhẹn, bởi sáu ngày trước y cùng các huynh đệ đi ngang qua một con hẻm, tự tại tiêu dao, chẳng qua đui mù đụng trúng thiếu gia con nhà giàu người ta, các huynh đệ bị túm cổ, trốn rồi lại trốn, kế sinh nhai lúc này mới khốn đốn thế này, cậu y tìm cách đưa y đến Đào Hương lâu trốn, chẳng qua y không hề tình nguyện ở lại trong này dòm sắc mặt người ta, y luôn là người có chí thiếu niên, kết bè kết đảng, khiếu tụ sơn lâm mới là nghiệp lớn mà y Hạ Đại Thiên mong muốn.

Phiền não của y chính là như vậy, thế nào ông trời lại thả xuống cho y một cái cơ duyên: y biết Vương công tử này mỗi ngày đều đến Đào Hương lâu, chỉ đích danh Tiểu Nguyệt mù lòa kia, số tiền lớn như vậy lại hao phí trên người kẻ tàn phế đó, y quan sát Vương công tử ngay cả ánh mắt cũng chưa từng nháy một cái liền biết ngay ở trên người hắn có không ít giấy bạc. Thế nhưng y lại chưa bao giờ có nửa điểm chủ ý muốn hạ trên người vị công tử kia, bởi vì y từ nhỏ đều nhờ vào đánh nhau đầu đường mà lớn lên, đối thủ mạnh yếu gì không đánh cũng có thể nhận ra, Vương công tử này mặc dù trông nho nhã văn nhược, nhưng đến gần hắn toàn thân tóc gáy phải dựng đứng, cho dù là Vương lão đại ở thành Đông cũng không đáng sợ như vậy. Có điều Hạ đại Thiên lại biết rõ nội tình của Tiểu Nguyệt, một nữ tử mù lòa, trong nhà có tới ba đứa nhóc, y nghĩ đến số giấy bạc giá trị lớn kia, không biết Vương công tử hào phóng này cho cô nương mù lòa kia nhiều ít thế nào.

Y sờ sờ lên chiếc búa trên lưng, thấy Tiểu Nguyệt vừa đi vào cửa, Vương Di Phong nhanh chóng xoay người, đi mất, Hạ Đại Thiên liền hít sâu vào một hơi, trước khi hạ thủ, tay phải ổn! Đây là thiết luật của giang hồ. Hắn đi nép vào trong bóng đen dưới mái hiên, giơ tay gõ cửa, nghe thấy giọng nói của Tiểu Nguyệt bên trong cánh cửa vọng ra: “Vương đại ca à?”, trong giọng nói có một tia vui mừng, y cũng có một tia mừng thầm, mở cửa đi, như vậy sẽ không phải tốn công phá cửa mà vào. Y nghe then cửa lạch cạch được kéo ra, nhìn thấy cô nương mù lòa xinh đẹp đứng ở đó, hai tay khẽ vân vê cổ tay áo lộ ra vài phần ngượng ngùng, y nhìn vào ánh mắt kia, trong suốt không vẩn đục, đưa tay giơ búa lên….

Y hít vào một hơi thật sâu, trong phòng bày biện đơn giản đều đã bị mình lật tung mấy lần, chỉ thu hoạch được mấy lượng bạc vụn trong tay, Hạ Đại Thiên bỗng nghĩ rằng, có khi nào hắn đã lầm, bất quá chuyện này đều là do Vương công tử kia, ngân phiếu hắn đưa cho ma ma quả thật rất mê người, có ai nghĩ rằng một người hào phóng như vậy lại chưa từng cho cô nương mà hắn thích một chút tiền bạc đâu, thật là một thằng khốn a! Nghĩ đến những năm tháng tiêu dao bỗng dưng tan biến, bất quá y còn trẻ là vẫn còn cơ hội, Hạ Đại Thiên nghĩ đến đây liền bình tĩnh lại, nghe nói vùng Lưỡng Quảng (chỉ 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây) rất dễ phát tài, bóng đêm u ám tĩnh lặng, y nhìn thấy chòm sao Tử Vi(*) phía cuối chân trời đang dần dần rõ nét, quyết định hướng đi của mình.

(*Tử Vi [紫薇], là một trong 14 chính tinh và còn là sao đầu tiên trong “khoa tử vi” nên được gọi là sao vua, thường được kết hợp với chóm sao Thiên Phủ để tạo thành một lá số tử vi)

Ngày hôm sau, cũng là ngày mười sáu tháng tám, ngày phát sinh sự việc, những người chứng kiến đều đã chết hết. Người ngoài mơ hồ phỏng đoán, xác nhận rằng Vương Di Phong hẳn là đã gặp phải thảm sự, mất đi chỗ dựa tinh thần duy nhất trong cuộc sống, trong lòng tích tụ bi phẫn, tức giận khuynh thành, chém giết hơn mấy vạn người trong thành, máu bay ngàn dặm, Tự Cống từ nay về sau lâm vào trong quỷ vực Đại Đường, ác danh của Vương Di Phong phụ nhụ (phụ nữ + trẻ em)đều biết.

Thế nhân nếu gặp phải tình cảnh khó có thể chống lại được, hoặc là thề sống thề chết đấu tranh, hoặc là cúi đầu thuần phục, lòng người thiện ác, vốn là cộng sinh cùng tồn tại. Nhưng tính cách cùng tài hoa này của Vương Di Phong, cũng không thể tạo ra được một kết luận để bản thân vừa lòng, Văn Tiểu Nguyệt vốn là thầy thuốc tinh thần của hắn, Tiểu Nguyệt vừa chết, tính tình Vương Di Phong liền đại biến, hắn lấy tà ác làm nguồn gốc cho thái độ làm người, nương nhờ Ác Nhân cốc, lấy ác làm hướng chủ tâm. Vài năm sau khi đã tụ tập đầy đủ Thập đại ác nhân, Khai Nguyên năm thứ hai mươi (CN năm 732) suất lĩnh đệ tử Ác Nhân cốc đánh tới Côn Lôn, các phái thất bại thảm hại, gây nên một sự kiện khiến tất cả nghe đều phải rợn người, dần giành được vị trí đứng đầu Thập đại ác nhân.

Cả võ lâm công án mãi cho đến khi huyết long xuất uyên (máu rồng chảy xuống vực), tức sau khi nguyên đại sư huynh của Vương Di Phong – Tiêu Sa – chạy trốn khỏi Thiếu Lâm trì quốc Thiên Vương điện mới có thể sửa lại án sai, trên thực tế, tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành chính là Tiêu Sa giáo chúng của Vu Minh giáo, vì để trả thù chuyện sư môn đối xử bất bình với mình, Tiêu Sa đã trù tính hãm hại Vương Di Phong, tính cách Vương Di Phong không kiềm chế được, cộng thêm trạng thái lúc đó bị kích thích mà có phần điên cuồng, thế nên võ lâm vẫn cho rằng đó là do Vương Di Phong gây nên.

Tên: Mạc Vũ - 莫雨

Môn phái: Ác Nhân cốc - 恶人谷

Vị trí: Đứng thứ ba trong thập đại ác nhân

-

“Tiểu phong tử” (kẻ điên) Mạc Vũ chính là người được chủ nhân của Ác Nhân cốc Vương Di Phong coi trọng nhất, cũng là kẻ mà chúng nhân Ác Nhân cốc sợ hãi nhất.

Tổ tiên là gia thần dưới trướng Hán vương, hậu nhân tham vinh hoa phú quý, cùng với Trì gia liên hợp giết bạn phản chủ, dùng thuốc độc giết toàn bộ Dương gia và Tiếu gia cũng là gia thần của Hán vương. Nào biết thiên hạ nhân quả báo ứng, hơn mười năm sau, con trai nối dõi của Tiếu gia là Tiếu Dược Nhân vì báo thù cho gia môn mà đã đem loại độc Mạc gia dùng với Tiếu gia năm đó chế biến cho càng thêm độc rồi hạ vào trong huyết mạch của Mạc gia. Mạc gia vì vậy mà diệt môn, chỉ để lại đứa con trai nhỏ là Mạc Vũ lưu lạc giang hồ. Mạc Vũ dù tránh được cái chết, nhưng ngày này qua đêm khác lại bị đau đớn trong huyết mạch tra tấn đến phát điên. Bởi vậy Mạc Vũ từ nhỏ tính cách đã rất hung dữ, ngẫu nhiên còn có thể phát cuồng mà tấn công mọi vật quanh mình. May mà được một gia đình tốt bụng ở làng Đạo Hương thu dưỡng mới không chết đói đầu đường. Trong làng Đạo Hương hắn cùng với Mao Mao trở thành một đôi bạn tốt.

Làng Đạo Hương cũng không phải là một ngôi làng nhỏ tầm thường, là nơi mà võ lâm minh chủ Đường Giản ẩn cư năm đó. Sau đó Đường Giản giả chết, để lại bí tích Không Minh Quyết ở trong mộ, cơ duyên trùng hợp thế nào lại được Mạc Vũ và Mao Mao nhỏ tuổi tìm thấy. Về sau làng Đạo Hương bị sơn tặc tập kích, Mạc Vũ cùng Mao Mao đành lưu lạc giang hồ, nương tựa vào nhau mà sống, nếm trải không biết bao nhiêu đau khổ nhân gian.

Thời gian trôi qua nhanh sau đó tình cờ gặp được Ngoạn Gia ở Phong Hoa cốc trên đỉnh núi Tử Nguyên, bởi vì Không Minh Quyết mà hai người bị kẻ cắp vây khốn, trong lúc khủng hoảng Mao Mao thả người nhảy xuống vực, mong được thoát thân, chung quy không ngờ tới quân tử lại giả nhân giả nghĩa, đám người tự xưng là nhân sĩ hiền giả, nhưng lại bị lợi ích làm mờ tâm trí đến ngay cả súc vật cũng không bằng, sau đó được Tuyết ma Vương Di Phong của Ác Nhân cốc cứu, từng câu từng chữ nói ra trong lúc đó là không còn muốn bận tâm tới phân tranh thiện ác thế gian này nữa, bởi vì muốn tìm kiếm con đường sinh tồn trong cuộc đời mà đi theo Vương Di Phong.

Về sau Mạc Vũ điên cuồng tu luyện Không Minh Quyết — kết quả công lực tăng quá cao dẫn đến tẩu hỏa nhập ma, bệnh điên càng nguy kịch. Bệnh điên của Mạc Vũ lúc này là đã không ai có thể chữa được, thế nhưng không thể không cảm thán vận khí của Mạc Vũ thật sự quá tốt, Hồng Trần bí ý của Vương Di Phong (võ công của lão Vương) hoàn toàn có thể áp chế được cuồng tính của Mạc Vũ, quả thật có thể coi như trời không tuyệt đường sống.

Đương nhiên Mạc Vũ ở trong cốc ngày qua ngày cũng không thể khoái hoạt cho được, một là bởi vì người bạn thân Mao Mao dù chưa chết nhưng lại trở thành một thành viên của Hạo khí minh, từ nay về sau hễ gặp mặt thì đã là tử địch; hai là bởi vì Tiếu Dược Nhân cùng nằm trong thập đại ác nhân vô duyên vô cớ chĩa mũi dùi vào mình — Mạc Vũ chung quy không biết đến Mạc gia và Tiếu gia vốn là kẻ thù truyền kiếp.

Cảnh ngộ của Mạc Vũ kỳ thật cũng không cần nhiều lời làm gì, Lý Phục đã có đánh giá từ trước — “Qua những việc ly kỳ mà hắn đã trải qua, nếu không có nơi vạn ác che chở, chỉ sợ sớm đã chết rồi.”

Tương lai của Mạc Vũ và Mao Mao còn chưa biết phải đi trên con đường nào? Mà Mạc Vũ lại cùng một thành viên khác của Hạo khí minh – Khả Nhân trong lúc đó nảy sinh tình cảm, cũng trở thành một bí ẩn đầy hấp dẫn….

Về phần thù hận giữa Mạc gia và Tiếu gia, theo lý thuyết xã hội nếu thù cũ đã qua đi, cừu nhân đã hóa thành đống xương trắng từ lâu, đoạn ân oán này hẳn là phải tiêu tán mới đúng. Chẳng qua khi nhớ tới hình dáng tái nhợt gầy yếu của Tiếu Như Thủy cùng đôi mắt giăng đầy tơ máu của Mạc Vũ thì lại cảm thấy lời này nói ra không khỏi quá mức quang minh chính đại…

Tàng Kiếm Sơn Trang

Tên: Diệp Anh - 叶英

Môn phái: Tàng Kiếm sơn trang - 藏剑山庄

Vị trí: Đại trưởng môn

Diệp Anh là con trưởng của Diệp Mạnh Thu, khi y hơn hai mươi tuổi liền được cha yên tâm giao cho Tàng Kiếm sơn trang, tại Tàng Kiếm đại hội lần thứ ba dùng tay làm kiếm độc đầu với Pháp Vương Minh giáo, giúp cho Tàng Kiếm cáng thêm hiển hách.

Diệp Mạnh Thu khổ tâm cô nghệ mất hai mươi lăm mùa trăng sáng lập ra gia nghiệp Tàng Kiếm quảng đại, năm năm mươi tuổi, bởi vì thời trẻ gian khổ mà sâu sắc cảm thấy lực bất tòng tâm, nhưng hắn dưới gối còn có hai đứa con, là Diệp Anh và Diệp Huy, thế nên đối với việc thủ thành cũng không hề phiến não.

Diệp Anh thuở nhỏ trầm mặc ít lời, Khai Nguyên (niên hiệu vua Đường Huyền Tông) năm đầu tiên (CN năm 713), Diệp Anh bắt đầu học tứ quý kiếm pháp của Diệp gia, chậm chạp cực kì, Diệp Mạnh Thu đã truyền đạt hết bộ kiếm thức, nhưng Diệp Anh vẫn thường không dụng nổi một chiêu, cho dù dụng được thì cũng bất thành chương pháp (không làm đúng cách thức), con trai thứ Diệp Huy lại trời sinh không thích tập kiếm, việc này khiến cho Diệp Mạnh Thu ảo não vô cùng. Con cả thừa vị (kế thừa vị trí) vốn là thiên kinh địa nghĩa (điều hiển nhiên), Diệp Mạnh Thu lại chỉ cảm thấy Tàng Kiếm sơn trang không có nổi người nối nghiệp, so với bản thân thiên tư tài hoa thế này, sao lại có thể sinh ra đứa con vụng về thế kia. Hắn trong lúc giận dữ thường không thể giữ mình, hay quở trách Diệp Anh, vì tức giận mà cấm ăn phạt quỳ là chuyện bình thường. Diệp Huy thấy vậy, không đành lòng, lần nào lén đem đồ ăn nước uống đến đưa cho đại ca đang bị phạt.

Nhưng ngoài dự đoán nhất, là Diệp Anh luôn nhẫn nhục chịu đựng, chưa từng cãi lại. Y không nói ra, cả ngày đăm chiêu nên chẳng ai biết, Diệp Huy đưa đồ ăn nước uống tới, y liền đến ăn, trên mặt một tia ủy khuất cũng không thèm biểu lộ, so sánh với Diệp Huy lúc nào cũng vì đại ca mà hốt hoàng lo sợ, giống như kẻ chịu phạt mỗi ngày chính là hắn vậy.

Năm tháng thấm thoát, Diệp Anh sống một mình trong mộ kiếm, mỗi ngày trong tay cầm kiếm, yên lặng nhìn theo tháng năm tuần hoàn, nhưng chưa bao giờ thi triển một chiêu thức. Khai Nguyên năm thứ bảy (CN năm 719), Tàng Kiếm sơn trang tổ chức danh kiếm đại hội lần thứ hai, Công Tôn đại nương của Tiêu Âm cốc đắc chủ (đoạt giải) lần trước đến làm khách. Nàng rảnh rỗi bước chậm, trên đường gặp phải Diệp Anh đang ôm kiếm ngắm hoa, ngày kế tiếp trong lúc nói chuyện phiếm liền nói với Diệp Mạnh Thu: “Đúng là huyết thống của Diệp thị, quả nhiên nhân tài xuất hiện lớp lớp, trước có trang chủ đại tài, hưng thịnh Tàng Kiếm, hôm qua ngẫu nhiên nhìn thấy lệnh công tử tiến cảnh (ý nói xuất thần vào cảnh giới), phải nói kiếm đã đạt đến cảnh giới, quả thật hậu sinh khả úy!” Diệp Mạnh Thu nghe vậy kinh hỉ không hiểu, nguyên lai Diệp Anh năm tám tuổi tập kiếm, Diệp Mạnh Thu thi triển vũ kỹ, y dĩ nhiên ghi nhớ trong phút chốc, trong lòng cũng có tưởng niệm, chẳng qua do trí nhớ Diệp Anh quá nhanh, cha muốn y phát chiêu, y vận kiếm, một kiếm đâm ra ngay cả đối thủ phản kích như thế nào, thân thể mình ứng đối như thế nào đều nghĩ đến, sơ học kiếm thuật của y căn bản là thiếu thốn, nhưng tâm tư sở đạt lại hoàn toàn thích hợp với kiếm đạo chí lí. Từ đó về sau y sống một mình ở mộ kiếm, quãng thời gian sáu năm này, đều đặt trên thân kiếm.

Trong lúc nói chuyện cũng có người khác ở bên, việc kiếm kỹ của Diệp đại công tử được Công Tôn đại nương khen ngợi được giang hồ lưu truyền một đoạn thời gian. Bất quá sau đó mấy năm, Diệp Anh chưa bao giờ hiển lộ thanh danh trên giang hồ, mãi đến Khai Nguyên năm thứ mười sáu (CN năm 729), đợi đến danh kiếm đại hội lần thứ ba, Diệp Anh đánh bại Pháp Vương thì mọi người mới biết kiếm pháp của người thanh niên này cao thâm, đã sớm trở thành bậc thầy rồi.

Sau cuộc chiến ở Phong Hoa Cốc, Diệp Anh cảm giác được thiên hạ phong vân biến ảo sâu sắc, thực lực trong tay Tàng Kiếm lại không có khả năng kiếm soát được, chỉ mong sao dòng xoáy loạn thế không ảnh hưởng đến, quyết ý bế quan lỉnh ngộ vô thượng tâm kiếm, nhắm tăng cường năng lực tự bảo hộ của Tàng Kiếm.

Đường Khai Nguyên năm hai mươi bốn (CN năm 736), Diệp Anh bế quan tu kiếm, khi xuất quan cũng là lúc hai mắt đã mù……

Diệp Huy – Tàng Kiếm Sơn Trang | Khúc Vân – Ngũ Độc Giáo

Tên: Diệp Huy - 叶晖

Môn phái: Tàng Kiếm sơn trang - 藏剑山庄

Vị trí: Nhị trang chủ

-

“Thạch trung kiếm” Diệp Huy

Diệp Huy, nhị trang chủ của Tàng Kiếm sơn trang, mặc dù xuất thân từ kiếm hiệp thế gia nhưng lại không quá hứng thú với tập võ. Với hắn mà nói, giống như đại ca Diệp Anh mỗi ngày ôm kiếm ngồi ngốc, hay giống như tam đệ Diệp Vĩ chạy lung tung gây chuyện sinh sự, cũng đâu có bằng hắn kiểm kê nhân sự tài vật trong trang, ngày nào cũng như ngày nào nhàn nhã tự tại.

Diệp Huy làm việc rất có trật tự, nghiêm cẩn dị thường. Hắn chẳng có chút hứng thú với việc cùng người khác tranh đấu, chém chém giết giết đến tận khi Diệp Anh bị hiểu lầm năm đó, hắn lưng phải mang trọng trách, đành miễn cưỡng bản thân tu tập kiếm thuật, đợi cho Diệp Anh trở thành một thiên tài kiếm đạo được công nhận, Diệp Mạnh Thu có người kế tục, Diệp Huy mới vui vẻ vứt bỏ võ thuật, từ nay về sau hiếm có khi nào chạm vào kiếm.

Trong Tàng Kiếm sơn trang, Diệp Anh thì thường xuyên bế quan luyện kiếm, Diệp Vĩ thì yêu thích khiêu chiến lung tung, Diệp Mông thì tâm tư hào phóng, Diệp Phàm lại thích ngao du giang hồ, Diệp Tịnh Y trời sinh nhu nhược, bọn họ đều là kẻ không thích tham dự vào mấy việc vặt vãnh.

Huynh đệ Diệp gia phần lớn đều không bị lễ pháp bó buộc, xử sự rất tự nhiên, chỉ duy có Diệp Huy, cực kì chú trọng đến chính phái. Hắn vốn cùng Khúc Vân của Thất Tú yêu mến nhau, đến khi biết được mẹ của Khúc Vân chính là giáo chủ Ma Sát La của tà phái Ngũ Độc giáo thì vất vả khó khăn đoạn tuyệt, bế môn không chịu nhìn Khúc Vân, sau cùng khiến cho giai nhân nản lòng thoái chí, bỏ hắn mà đi, việc này trong lòng Diệp Huy vẫn luôn là chuyện đáng tiếc.

Tên: Khúc Vân - 曲云

Môn phái: Ngũ Độc giáo - 五毒教

Vị trí: Giáo chủ

-

Khúc Vân, là giáo chủ Ngũ Độc giáo, là “Chiêu tú” của Thất Tú, là con gái của Phương Kiền, là em gái cùng cha khác mẹ của cốc chủ Vạn Hoa cốc Đông Phương Vũ Hiên. Một người có thân phân không tầm thường nhất định sẽ có một đoạn cố sự cũng không tầm thường.

Khúc Vân năm đó là một trong Thất Tú vang danh thiên hạ, chính là cái gọi là “Ca bãi dương liễu lâu tâm nguyệt, vũ đê đào hoa phiến để phong” (ca hát bên dương liễu lưu lại tâm trăng, nhảy múa dưới cánh đào làm nổi gió). Mê đảo không biết bao nhiêu danh môn đệ tử, thiếu niên anh tuấn, thế nhưng Khúc Vân đã sớm đem tấm lòng thiếu nữ trao đến cho nhị trang chủ của Tàng Kiếm sơn trang, Thạch trung kiếm Diệp Huy mất rồi. Diệp Huy lúc ấy vẫn còn là thiếu niên thanh xuân chính trực, hăng hái, cùng Khúc Vân chính là trai tài gái sắc, sát cánh bay, khiến không ít người phải ao ước.

Nhưng phong vân trên trời thì không bao giờ đo lường được, ngay tại thời điểm hai người sắp nắm được tương lai tốt đẹp thì một lão nhân thần bí xuất hiện, phá vỡ giấc mộng mĩ lệ của cả hai.

Lão nhân đó không phải ai khác mà đúng là Hữu trưởng lão của Ngũ Độc giáo Ngải Lê, đi cùng là một người phụ nữ trung niên Miêu tộc, trưởng lão Ngải Lê cho Khúc Vân hay biết thân phận thật sự của mình, giúp hai mẹ con đoàn tụ, cũng nói luôn tình hình hỗn loạn trong nội bộ giáo chúng, năm vị thánh sử lại không ai nhường ai, mang dục vọng tranh đoạt vị trí giáo chủ, Ngũ Thánh giáo hiển hách một thời lúc này đang có nguy cơ sụp đổ. Ngay lúc nguy cấp, một vầng sáng ánh lên trong đầu Ngải Lê, nhớ lại giáo chủ còn một người con gái ruột, vì thế cầm theo di thư đã được Ma Sát La viết sẵn đi tìm Khúc Vân, buộc nàng kế nhiệm vị trí giáo chủ, làm rạng rỡ Ngũ Thánh giáo.

Tin tức này đối với Khúc Vân mà nói không thể nghi ngờ chính là ngũ lôi oanh đỉnh, một đứa trẻ từ nhỏ lớn lên với thân phận cô nhi giờ biết được chính mình còn có một mẫu thân, hơn nữa vị mẫu thân này còn là người khiến nhân sĩ giang hồ sợ tránh còn không kịp Giáo chủ của Ngũ Độc giáo, không những thế, còn muốn mình tiếp nhận cái vị trí giáo chủ này.

Ban đầu Khúc Vân kiên quyết không muốn trở về, dù sao nàng cùng với nơi này đã có cảm tình lâu năm, huống chi ở đây còn có Diệp Huy, làm sao nàng có thể rời đi cho được. Rơi vào đường cùng, Ngải Lê chỉ còn cách đem chân tường với cho Diệp Huy. [thằng cha già này là cội nguồn của tội lỗi ="= bây giờ chia cách Huy-Vân, sau này lại hại Phi Lượng]

Sau khi Diệp Huy biết được chân tướng, bị kích động không kém Khúc Vân là bao, Diệp Huy từ nhỏ được tiếp nhận nguồn giáo dục nho gia, là một trong ngũ hiệp của Tàng Kiếm xem trọng chính tà đối lập, cho nên đối diện với Khúc Vân đến tìm mình muốn thương lượng là đóng cửa không nhìn thấy.

Việc Diệp Huy không chịu gặp mình khiến Khúc Vân đau lòng đến chết, cho rằng Diệp Huy để ý đến xuất thân của mình, trong một lúc mất hết đi can đảm, cảm thấy tình cảm là một thứ khác xa với sự tín nhiệm của người thân, người mình yêu nhất kỳ thật lại không hề yêu mình, suy nghĩ lại, đi theo trưởng lão Ngải Lê trở về Miêu Cương, tiếp nhận vị trí giáo chủ Ngũ Thánh giáo.

Khúc Vân trong lúc học tập tối thượng tâm pháp của Ngũ Thánh giáo thì bề ngoài dần dần có biến hóa, từ một nữ tử tuổi xuân phong tình vạn chủng biến thành bộ dạng của một đứa bé gái, loại biến hóa này ngay cả Tam triêu nguyên lão Ngải Lê của Ngũ Thánh giáo cũng không biết được nguyên nhân, chỉ có thể đoán rằng nội công tâm pháo của cả Ngũ Thánh giáo lẫn Thất Tú phường đều thiên về âm nhu, tụ lại một chỗ mới tạo thành kết quả như vậy.

Khúc Vân vì bị Diệp Huy vứt bỏ, thất vọng vô bờ, không tín nhiệm bất luận kẻ nào nữa, nhất là những nam tử thiếu niên tiêu sái, cho dù tu luyện võ học của Ngũ Độc khiến thân thể nàng nhỏ đi, cũng chưa bao giờ hối hận. Thẳng đến khi Tôn Phi Lượng vì nàng nhảy xuống vạn cổ huyết trì, tận mắt nhìn thấy sư đệ tuấn mỹ mà mình vẫn luôn bảo vệ thuở nhỏ trong huyết trì khiến da tróc thịt bong, dung mạo bị hủy, cơ thịt toàn thân bành trướng, vỡ ra, đôi mắt trong suốt vì thống khổ cuối cùng biến thành mơ hồ, cuồng nhiệt, nhưng thủy chung không hề rời khỏi nàng dù chỉ một khắc thì Khúc Vân mới biết được, nàng sau cùng vẫn là không thể quên được khoảng thời gian ở cùng người kia, nam tử tên Diệp Huy kia từ này về sau sẽ dần nhạt nhòa đi trong tâm trí, nàng thề rằng sẽ dùng cả đời này dâng hết tôn kính của nàng để yêu thương sư đệ, cho dù y không còn cảm nhận được cái gì đi chăng nữa.

Tên: Tôn Phi Lượng - 孙飞亮 

Môn phái: Thất Tú phường - 七秀坊

-

-

Tôn Phi Lượng là một trong số ít những nam hài mà Thất Tú phường thu dưỡng (Tôn Phi Lượng không phải là người của Thất Tú phường), bởi vì trước đây bộ dáng dị thường tuấn mỹ mà trở thành trường hợp đặc biệt. Từ nhỏ thiên tư thông tuệ, nhận thức hơn người, về sau Tôn Phi Lượng lớn lên lại tuấn tú nho nhã, tác phong nhẹ nhàng. Thế nhưng thiếu niên Tôn Phi Lượng lại yêu một người hơn mình rất nhiều tuổi là Khúc Vân. Tôn Phi Lượng lúc nhỏ vì nhìn thấy Khúc Vân cùng Diệp Huy ở ngay trước mặt mình ôm ấp âu yếm nhau mà phi thường thống khổ.  (Hai bạn này cũng sẽ có cố sự riêng, mà mình thì chẳng muốn edit chút nào =”=)

Thiên Bảo (niên hiệu của Đường Huyền Tông) năm thứ hai (CN năm 743) sau khi biết được tin tức Khúc Vân đi vào Ngũ Độc, Tôn Phi Lượng không hề do dự, ngay lập tức bỏ xuống hết thảy đi đến Miêu Cương, sau đó trải qua đau khổ mà kẻ khác khó có thể tưởng tượng được, Tôn Phi Lượng cuối cùng gặp được Khúc Vân. Nhưng lúc này Khúc Vân đã không còn hy vọng, không thể tin tưởng bất kỳ một nam nhân nào trên đời này nữa.

Tôn Phi Lượng cũng không nóng lòng muốn chứng minh tâm ý của mình với Khúc Vân, y một mực yên lặng ở bên cạnh Khúc Vân, tin tưởng sẽ có một ngày Khúc Vân chập nhận y, chẳng qua bản thân hắn cũng không nghĩ việc đó sẽ đến quá nhanh.

Tả trưởng lão Ô Mông Quý đối với vị tân giáo chủ mạc danh kỳ diệu này trong tâm vẫn luôn tồn tại bất mãn, tại Thiên Bảo năm thứ hai (CN năm 743) ở Đường Thư Nhạn châm ngòi xuất lĩnh thân tín của mình phát động phản loạn. Mặc dù có hữu trưởng lão Ngải Lê đừng về phía Khúc Vân, nhưng bởi vì Ô Mông đã sớm mưu tính trước, “Linh Xà Sử” Mã Tác trong “Ngũ Sử” lại là con gái lão, mà bên cạnh đó tứ sử lại tọa sơn quan hổ đấu (ngồi trên núi xem hổ đánh nhau = ngư ông đắc lợi), cho nên ngay từ đầu tình thế đối với Khúc Vân rất không có lợi, đại quân phản loạn một trận đã đến gần Chúc Dung cung mà Khúc Vân cư trụ.

Ngay tại tình thế chỉ mảnh treo chuông, Ngải Lê đưa ra một phương pháp khiến kẻ khác phải nghẹn họng trân mắt, sử dụng phương pháp thi luyện (luyện xác chết) từ thời thượng cổ mà Ngũ Thánh giáo phong ấn đã lâu. Loại phương pháp này cần dùng người vốn có võ công cao thâm, rồi dùng thêm các vật kịch độc, cuối cùng luyện thành thi nhân tối cường. Bất đồng với phương pháp bình thường dùng cổ lô (một loại cổ – sâu độc) luyện chế thi nhân là, loại phương pháp này chỉ cần một thời gian ngắn, hơn nữa uy lực vĩ đại, có thể đem công lực của mình tăng lên tới mấy chục lần. Nhưng loại phương pháp này cũng có khuyết điểm trí mạng, phương pháp dùng cổ lô luyện chế thi nhân bình thường chỉ dùng thi thể luyện chế, mà loại phương pháp này phải thi cổ trên người sống, người nhận cổ phải chịu nỗi khổ vạn cổ ăn tim, nhưng lại không thể mất đi ý chi hôn mê, bằng không công sức liền đổ sông đổ bể. Bởi vì trăm ngàn năm qua Ngũ Thánh giáo dùng thử phương pháp này luyện chế thi nhân thì đều thất bại không một lần ngoại lệ, cho nên dần dần bị người ta quên mất.

Tôn Phi Lượng biết rõ sau đó phải lập tức để cho Ngải Lê trưởng lão thi cổ trên người mình.

“Vân, xin tha lỗi, đây là lần đầu tiên ta cố lấy dũng khí ra để gọi tên ngươi như vậy, bởi vì Ngải Lê trưởng lão nói cho dù thành công, ta cũng sẽ mất đi trí nhớ, biến thành một đại độc thi lấy giết chóc làm thói. Ta sợ nếu ta không gọi một tiếng như vậy, về sau cũng sẽ không còn cơ hội. Ta biết, trong lòng ngươi, ta so ra kém hắn, ta cũng không cầu ngươi có thể yêu ta, nhưng là một ngày nào đó ngươi sẽ minh bạch, trên đời này nếu có người yêu ngươi nhất…….thì đó nhất định là ta.”

Nói xong những lời này, tiếp theo Tôn Phi Lượng không hề quay đầu lại mà nhảy thẳng vào vạn cổ huyết trì Ngải Lê đã chuẩn bị tốt. Ngải Lê trưởng lão quả nhiên nói không sai, tại thời điểm Ô Mông Quý dẫn đệ tử xông vào Chúc Dung cung, Tôn Phi Lượng mang theo thống khổ mà thường nhân khó có thể tưởng tượng được đứng vững, thành công biến thành một đại độc thi đáng sợ. Luyện cổ thuật thời thượng cổ quả nhiên không giống bình thường, tình thế lập tức nghịch chuyển, lúc này tứ sử cũng đứng về phía Khúc Vân, phản loạn nhanh chóng bị trấn áp, Ô Mông Quý dẫn theo số ít thân tín chạy trốn tới Hắc Long đàm, thành lập Thiên Nhất giáo.

Vậy Tôn Phi Lượng đâu? Y đã hoàn toàn mất đi trí nhớ, trừ bỏ nghe theo mệnh lệnh của Khúc Vân ra thì không hề biết suy nghĩ một vấn đề gì, ngẫu nhiên sẽ vươn hai bàn tay vô cùng thô to ra ý đồ muốn chạm vào mắt cá chân Khúc Vân một chút, có lẽ là sâu trong lòng y vẫn còn sót lại một chút bản năng chăng. Ngũ Thánh giáo có thể đè ép biến động xuống, công lao của Tôn Phi Lượng là rất lớn, đệ tử Ngũ Độc giáo đối với y phi thường tôn kính, dạy em trai Tử Giai phải gọi y là “Đức Kháng”, trong Miêu ngữ có nghĩa là “Thung lũng mỹ lệ”.

Tên: Lý Thừa Ân - 李承恩

Môn phái: Thiên Sách phủ - 天策府

Vị trí: Thống lĩnh

-

Lý Thừa Ân là hậu nhân của Đại Đường công thần khai quốc Lý Tích, thừa kế chức vị Anh quốc công.

Lý gia có nhiều thế hệ trung lương, đều trung thành với Lý Đường (thời nhà Đường 618-907) vô cùng, ngày trước Anh quốc công Lý Tích giỏi về dụng binh, lịch sử xưng lão là “Lâm địch ứng biến, động hợp thì ky” (gặp địch ứng biến, hành động đúng thời cơ). Mà sự nghiệp đến đời thứ ba Anh quốc công Lý Kính bởi vì muốn giữ gìn chính thống của Lý Đường, khởi binh chống nhà Chu, nhưng chỉ như trứng chọi đá, phải chịu thảm diệt tộc. Nhưng Lý Thừa Ân lại gặp nạn không chết, nhờ chúng gia tướng liều chết bảo vệ mà may mắn thoát khỏi kiếp nạn này

Lý Thừa Ân là người giỏi mưu lược và tâm kế, cả kỹ thuật dùng thương cũng là không ai theo kịp. Phủ quy của Thiên Sách phủ chính là do Lý Thừa Ân định ra, Lý Thừa Ân được ví như “Thiên Sách phủ hữu sử lịch lai tối cường thống lĩnh” (thống lĩnh mạnh mẽ nhất trong lịch sử phong phú của Thiên Sách phủ), cuộc sống của hắn có phần được truyền thuyết hóa.

Lý Thừa Ân từ nhỏ đã mất đi song thân, toàn bộ đều dựa vào ơn dưỡng dục của chị gái và anh rể mà lớn lên. Cũng bởi vì gia cảnh không được đầy đủ, nên ngoài việc bình thường phải rèn luyện võ nghệ gia truyền ra thì từ nhỏ hắn nhất định phải ra ngoài làm việc để kiếm thêm bù vào chi phí trong gia đình. Năm mười bảy tuổi, hắn phục vụ tại một cửa tiệm bán quần áo có cùng một nữ tì cảm mến nhau, kết quả làm đối phương mang thai, Lý Thừa Ân cũng vì thế mà bị đuổi ra ngoài, đánh phải về nhà đổi sang nghề bán thuộc trị thương, thông qua giới thiệu của anh rể, kết bạn với Tần Di Nham, tìm về thân phận của chính mình.

Có lẽ do thuở nhỏ mất đi cha mẹ, cho nên hắn có phần khát kháo đối với nữ tử lớn hơn mình, Lý Thừa Ân tuy rằng không được gặp mặt mối tình đầu của mình nhưng trong lòng lại khó có thể quên. Sau khi bước vào Thiên Sách, anh rể thay hắn tìm đối tượng rồi thúc giục hắn mau thành gia nhưng đều bị hắn lấy lý do đương lúc chính trị thời buổi rối ren mà uyển chuyển cự tuyệt. Có lẽ là Lý Thừa Ân ngay từ đầu đã đoán trước được sinh mệnh của mình rồi sẽ như chim sợ cành cong, không muốn kéo người vô tội cũng rơi vào bi kịch này, nên mới lựa chọn như vậy. Vào lúc đó mà nói thì loại ý tưởng lấy chuyện lớn trong thiên hạ làm chí nam nhi cũng coi là cái dị số.

Lý Thừa Ân sau khi trải qua cuộc nổi loạn lui quân chạy về Trường An, vẫn luôn đàm nhiệm chức hộ vệ ở bên người Huyền Tông Lý Long Cơ, thế nhưng ngay cả khi đại quân của An Lộc Sơn vây công vào tận bên trong thành, Lý Long Cơ cũng không chịu chuẩn cho Lý Thừa Ân tham gia vào cuộc chiến, lệnh hắn theo mình cùng đào tẩu [có mùi gian tình =)))))], bởi vì sau chuyện Tần Di Nham xả thân, không muốn lại lần nữa hy sinh tình mạng của một ái tướng. Sau nhóm người Lý Thừa Ân đến được đô thành, ngay lập tức lại gặp vấn đề về thuế thu mà nổi lên nội đấu, hắn cho rằng kết cục thằng bại sớm đã định, không muốn lại mang đến rắc rối cho thị dân, lại thêm chuyện chiến hữu bị chủ công giam lỏng qua đời đả kích, hắn thà nguyện chết trong quang vinh ngay tại lúc này! Về sau phản quân đột kích, Lý Thừa Ân giục ngựa nhảy vào trong đại quân bỏ mình, hưởng thọ bốn mươi sáu tuổi.

Tên: Kì Tiến - 祁进

Môn phái: Thuần Dương quang - 纯阳观

Vị trí: Ngũ đệ tử của Lữ Động Tân

Kì Tiến là ngũ đệ tử của Lữ Động Tân, một trong năm Tử hư tử (ảo ảnh tím?) của Thuần Dương. Hắn bộ dạng anh tuấn tiêu sái, tính tình lạnh lùng cao ngạo, lại còn ngang ngược hiếu thắng, nhưng vẫn khiến cho rất nhiều nữ đệ tử và nữ tử trong giang hồ đem lòng ái mộ. Đường Tử Y của Đường môn cũng nằm trong số đó, chỉ trong lần đầu tiên gặp gỡ đã yêu mến Kì Tiến, còn mặt dày vô sỉ tìm người tới cửa làm mối. Kì Tiến ghét nhất là loại nữ nhân thích hư vinh này, cũng chưa bao giờ tin có nhất kiến chung tình (tình yêu sét đánh). lạnh lùng từ chối bà mối, lại còn quay qua châm chọc Đường gia một phen khiến Đường Ngạo Cốt không biết giấu mặt đi đâu, vẫn luôn ôm hận trong lòng.

Kì Tiến vốn là một cô nhi, từ nhỏ yêu thích tập võ, cực kì thích dùng kiếm, trong kiếm lại yêu nhất là ngân kiếm, đối với kiếm thuật quả là như say như túy (say mê). Lòng tràn đầy chí hướng, hy vọng một ngày kia có thể “Học hành văn vũ nghệ, hóa dữ đế vương gia” (học văn học võ để được sánh cùng bậc đế vương). Vì thế hắn trăm phương nghìn kế muốn giành được một chức quan, năm mười lăm tuổi bởi vì kiếm pháp cao cường mà được đại hồng nhân bên người Huyền Tông, đương triều đại hoạn quan Cao Lực Sĩ coi trọng, được tuyển vào trong Thần Sách quân làm luyện tập sinh, năm mười bảy tuổi thì được riêng Cao Lực Sĩ sở dụng làm thiếp thân thị vệ.

Cùng dốc lòng phục vụ cho Cao Lực Sĩ còn có người đứng đầu trong đại nội sát thủ, “Phần hải kiếm” Cơ Biệt Tình, Kì Tiến đối với y từng có ơn cứu mạng, thế nên đối với Kì Tiến y càng thêm ưu ái, phá lệ giúp đỡ, vài lần liều mạng cứu giúp, cũng đề cử hắn làm việc cho Ngự sử Lí Lâm Phủ, về sau hai người lại còn kết hợp tạo thành một tổ hợp sát thủ khiến người trong giang hồ hễ nghe thấy đều bị biến sắc – “Ám tương”.

Cao Lực Sĩ, Lí Lâm Phủ không ngừng giao cho bọn hắn nhiệm vụ giết người diệt trung (trung thần), mà Kì Tiến trẻ tuổi chuyên tâm khiến hắn càng trở nên vượt trội, lương tâm mê muội làm ra rất  nhiều việc không giống người. Nhưng rồi hắn đối với việc bị Cao, Lí hai người đem mình trở thành công cụ cảm thấy thập phần bất mãn, bởi vì Kì Tiến cảm thấy làm cho cuộc sống của mình trở nên có giá trị mới là quan trọng nhất.

Lúc này, Cao Lực Sĩ vì muốn lấy lòng Huyền Tông mà nói rằng Thuần Dương có thể luyện chế được thuốc trường sinh bất lão, liên tục phái Kì Tiến đến Thuần Dương đòi thuốc. Sau một thời gian, Kì Tiến ngược lại còn bị cuộc sống đạo sĩ hấp dẫn, lại được Lữ Động Tân cảm hóa, hơn nữa kiếm pháp của Thuần Dương làm hắn dao động, quyết định thay hồn đổi xác. Một lần nữa quay trở lại làm người, liền cùng với đám người Cao, Cơ phân rõ ranh giới, bái Lữ Động Tân làm sư phụ, từ nay về sau một lòng tu đạo luyện kiếm.

Nhưng mười bảy năm trôi qua, Kì Tiến vẫn chưa thể hoàn toán thoát khỏi trói buộc thế tục. Trong tiềm thức hắn là phải làm chuyện gì đó khiến cho người đời phải ca tụng mới không uổng công sống trên cõi đời này. Hơn nữa hắn tính tình hiếu thắng, đối với chính mình hay người khác đều có yêu cầu rất cao, bình thường nói chuyện không đem theo cảm tình, thường khiến người khác hiểu lầm. Trước chuyện tình cảm, Kì Tiến quả thật là một thằng ngốc, hình như ngoại trừ kiếm và sư phụ thì cái gì hắn cũng không để ý.

Trong lòng Kì Tiến vẫn luôn canh cánh hai việc, thứ nhất là Đại sư huynh Tạ Vân Lưu đả thương sư phụ, phản bội Thuần Dương. Năm đó khi Tạ Vân Lưu ra khỏi Thuần Dương thì Kì Tiến còn chưa bái nhập môn đường, nhưng hắn vẫn luôn nghe thấy các sư huynh sư tỷ nói về việc này. Hắn bình sinh rất tôn kính sư phụ Lữ Động Tân, việc Tạ Vân Lưu gây ra năm đó đúng là đại bất kính với sư tôn, từ đó nảy sinh căm ghét với Tạ Vân Lưu, kèm theo ghét luôn nhất mạch đệ tử Kì Tĩnh Hư, ngày thường cũng lộ vẻ xem thường, nói chuyện lạnh lùng trào phúng. Hắn cực kì thống hận những người phản giáo, thế nên ngày sau việc Phương Khinh Nhai và Vũ Trác Thừa phản giáo chạy trốn khiến hắn vô cùng tức giận.

Thứ hai là sự kiện ám sát một nhà Cốc Vân Thiên. Nguyên lai năm đó Kì Tiến nhận được mệnh lệnh đi ám sát một vị quan nhỏ tên là Cốc Vân Thiên, kết quả đêm đó Cốc quý phủ cả một nhà cao thấp đều phải chịu chung cảnh thàm sát. Ngay lúc đang thanh lí hiện trường, chuẩn bị rút lui, Kì Tiến phát hiện có cá lọt lưới – ấu nữ của Cốc gia Cốc Chi Lam. Lúc ấy Kì Tiến thấy nàng tuổi còn nhỏ, nhất thời cảm thấy không đành lòng, liền giấu nàng đi, sau đó cụng đem người đi theo. Về sau Kì Tiền biết được là bị người lường gạt thì hối hận mãi không thôi. Mà Cốc Chi Lam gặp phải biến cố lớn, một đêm đầu bạc, tiếp theo được cậu ruột là Bùi Nguyên tìm được lưu lại Vạn Hoa cốc, bái làm môn hạ, đi theo Bùi Nguyên học tập y thuật.

Một lần, Kì Tiến ngẫu nhiên viếng thăm Vạn Hoa cốc, gặp lại Cốc Chi Lam. Lúc này nàng đã hơn hai mươi tuổi, tuy rằng một đầu tóc bạc, nhưng vẫn không thể che giấu được gương mặt thanh lệ tuyển mĩ kia. nàng lại thiện lương đơn thuần, cáng khiến cho một kẻ không tin vào nhất kiến chung tình là Kì Tiến phải nhất kiến chung tình. Lúc Kì Tiến biết được thân phận của Cốc Chi Lam, nhất thời không biết làm sao, cảnh tượng năm đó hiện lên ngay trước mắt.

Tên: Cốc Chi Lam - 谷之岚

Môn phái: Vạn Hoa cốc - 万花谷

-

Đây, có lẽ là cố sự về một mối tình. Nếu phải,  thì nó chính là một đoạn tình yêu vĩnh viễn cũng không thể vượt qua, nếu không phải, như vậy chẳng qua chỉ là cố sự về một nam nhân nỗ lực bồi thường cho một nữ nhân.

Một Thuần Dương cao đồ (học trò giỏi) từ bức màn sát thủ đen kịt đi ra, một Vạn Hoa tân tú (đóa hoa mới) vẫn luôn sống trong bóng ma toàn gia tử vong thảm trạng, một cuộc hành trình đến Trường An đầy sát khí, vạch trần một câu đố kinh thiên, lại chia rẽ một đôi võ lâm giai thoại.

Vào một đêm mười bảy năm trước, trăng mờ, gió lặng, thích hợp tàn sát, Cốc gia vốn luôn an bình bị bao phủ bởi máu tanh nồng nặc. Kì Tiến năm đó, hắc y sát thủ lạnh lùng tàn nhẫn, bởi vì một sai lầm tin vào tin tức giả mà hắn cùng đồng bọn, tạo ra thảm án diệt môn Cốc gia. Thế nhưng, có một ấu nữ của Cốc gia may mắn nhờ vào sự mềm lòng của Kì Tiến mà còn tồn tại.

Mười bảy năm sau, Kì Tiến lọt vào mắt xanh của Lữ Động Tân mà trở thành một Thuần Dương Tử hư tử, nghiễm nhiên đã là tinh anh của chính đạo. Sát khí hắc ám đã trôi qua từ lâu, không hề quay trở lại, tâm linh đã sớm niêm phong lại phần lạnh lùng kia. Thế nhưng, trong một lần ghé thăm Vạn Hoa, một lần nữa gặp lại nàng, ấu nữ đã thoát nạn năm đó. Cảnh tượng đó hình dung ra sao?! Mưa bụi mờ ảo, tàn hoa mênh mông, bạch y trắng thuần, giai nhân xuất hiện, là vui mừng, là ưu tư, là nhíu mi, là mỉm cười, thản nhiên đẹp như tranh vẽ. Bên hàng cây cao sừng sững, một nam tử ngây ngốc dõi theo đứa trẻ mồ coi của Cốc gia đã vong hồn dưới chính lưỡi đao của mình, tất cả tư vị đó, chúng ta không thể nào biết được. Chỉ biết, sau đó không lâu, trên giang hồ lại có thêm một đôi tiên lữ, nam hiệp nữ tú, người bên ngoài nhìn vào chỉ thấy một Cốc Chi Lam thiện lương cùng xinh đẹp đã làm tan chảy băng giá trong lòng một Thuần Dương lăng hư tử (lăng hư: phiến băng trống rỗng), nhưng có lẽ là không thấy được, sâu trong tâm Kì Tiến, chỉ sợ áy náy lại càng nhiều hơn thôi…….

Song tinh phong huyết vũ trong giang hồ hẳn nhiên sẽ không dễ dàng buông tha cho một đôi thần tiên quyến lữ tồn tại, mai phục Trường An, thích khách hắc ám, động bọn khi xưa, chuyện ngày đó Kì Tiến vẫn cố gắng không để Cốc Chi lam biết. Đó là loại kinh hoàng như thế nào, một kẻ thù diệt môn, làm sao có thể tương cứu trong lúc hoạn nạn? Vì áy náy, Kì Tiến giết chết người truyền tin năm đó, muốn đổi lấy một cái quay đầu của người kia, nhưng lại không biết rằng, khi mà mọi sự đã rồi, chẳng cần biết nguyên nhân sâu xa là có tội hay vô tội, vẫn là không cách nào quay lại, huống chi, quá trình tạo nên một kết cục như thế này lại là máu tanh tàn khốc.

Cuối cùng của cuối cùng, khi Cốc Chi Lam nhìn thấy hai cái đầu người thì hờ hững nói: “Việc này chớ nên nhắc lại… Ta hiện tại không muốn thấy hắn, hãy cho ta vài năm……” Đúng vậy, nàng không oán hận, cũng không nói gì đến mãi mãi. Bời vì tình yêu, tình yêu làm cho nữ nhân mù quáng, làm cho nữ nhân yếu ớt, làm cho nữ nhân chất đầy mâu thuẫn, nàng muốn quên, quên đi cừu hận đông đặc trong tim, quên đi điều mà nàng vốn không muốn quên nhất, đơn giản chính là, tình yêu.

Nhiều năm về sau, Cốc Chi Lam vẫn không thể cùng Kì Tiến ở bên nhau. Cho dù Kì Tiến thiên sơn vạn thủy (nghìn nùi vạn sông) làm ra Thiên Sơn Tuyết Liên cũng chẳng bao giờ có thể cứu vớt chuyện đã rồi….. Kì Tiến sau cùng đành phải tịch liêu mà nói, hẹn nàng tại Hoa Sơn thượng đẳng cốc dù là ba năm, năm năm, ba mươi năm, hay năm mươi năm.

Tạo hóa trêu người, mệnh trung (người mà định mệnh sắp đặt) nhất định sẽ có duyên mà không có phận……..

VẠN HOA CỐC

Đương nhiệm môn chủ: Đông Phương Vũ Hiên

-

Quy mô nhân số: môn hạ đệ tử ước chừng trăm người, kì nhân dị sĩ ước chừng hai trăm người, câm điếc tôi tớ chừng trăm người.

-

Vị trí: Vạn Hoa cốc tọa lạc tại bên trong quần sơn, hoàn toàn bị vây trong những vách đá cao và dốc, cần phải đi xuyên qua một đường hầm bí mật mới có thể đến được.

Bối cảnh:

Đại Đường Khai Nguyên năm thứ hai mươi ba, Vạn Hoa cốc chủ Đông Phương Vũ Hiên du lịch tứ phương, dường như trong lúc nhầm lẫn đi vào Tần Lĩnh thanh nham(*), thấm khen ngợi trong vùng núi phía tây lại có một nơi thần tiên thế này, vì thế kêu gọi các hiền sĩ đang quy ẩn lúc này, hợp lại đặt tên là “Vạn Hoa cốc”.

(*Núi Tần Lĩnh [秦岭] dãy núi màu đen nằm ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, là nơi sinh sống của nhiều loài động thực vật hiếm lạ)

Môn phái Vạn Hoa cốc có thể nói là do một mình Đông Phương Vũ Hiên thành lập, hắn nhờ vào nhân cách cường đại đầy mị lực của chính mình, lôi kéo kỳ nhân dị sĩ trong thiên hạ, trong một thời gian, Vạn Hoa cốc trở thành nơi có luồng tư tưởng vượt quá quy củ nhất, có bầu không khí tự do nhất trong thời kì Đại Đường. Trăm sông đổ về một biển, tích tiểu thành đại, Vạn Hoa cốc lấy tư tưởng dung nạp này mà thu nhận hết tất thảy, trở thành thánh địa của đủ loại tư tưởng đủ loại nhân tài tinh thông.

Đông Phương Vũ Hiên cầm kì thi họa không chỗ nào không hiểu không thứ nào không tinh, sau khi thành lập Vạn Hoa cốc, thường mời các nhân vật nổi tiếng trong xã hội cùng cao thủ võ lâm vào cốc chơi cờ phẩm trà, ẩm rượu gẩy đàn. Dần dà, Vạn Hoa cốc thế mà lại trở thành nơi phong nhã đệ nhất trên giang hồ, rất nhiều nhóm danh sĩ chán ghét cuộc sống võ lâm, quan trường hiểm ác đều lựa chọn đến Vạn Hoa cốc ẩn cư. Tên tuổi của Vạn Hoa cốc rộng khắp, cơ hồ có thể đánh đồng với Trường Ca môn đương thời. Nhưng Vạn Hoa cốc cùng Trường Ca môn vẫn có điểm bất đồng, Trường Ca môn là nơi tụ tập của tao nhân mặc khách, xem trọng thơ từ ca phú, ngâm thơ đối nghịch với những việc phong nhã, mà Vạn Hoa cốc có thể nói là nơi tụ tập của đủ hạng người, kỳ nhân dị sĩ các loại đều có thể tìm được một nơi dung thân trong Vạn Hoa cốc.

Nhưng nếu bước chân vào giang hồ, sẽ rất khó mà không hỏi đến thế sự. Giang hồ rất nhanh truyền ra chuyện Vạn Hoa cốc chủ Đông Phương Vũ Hiên kỳ thật chính là người nhà Phương gia trên Hiệp khách đảo, bởi vì một nguyên nhân nào đó mà đi vào Trung Nguyên, trong một quãng thời gian cái tên Hiệp khách đảo này lại khiến cho võ lâm được dịp xôn xao một phen.

Nghe nói “Vạn Hoa bí kíp” được chia thành bảy bộ là “Tổng cương”, “Võ kinh”, “Kì kinh”, “Thư kinh”, “Y kinh”, “Cầm kinh” và “Tạp kinh”. Đây là do nhóm kì nhân dị sĩ ẩn cư trong Vạn Hoa cốc hao tốn mười năm công sức nôn ra máu mà hoàn thành, nội dung đa dạng phong phú, ẩn tàng tinh thâm, trong đó “Võ kinh” và “Y kinh” là được nhân sĩ võ lâm chú ý nhất.

Sự thần kì của y thuật Vạn Hoa cốc là điều mà mọi người đều biết, người đang hành tẩu trong giang hồ khó tránh khỏi các loại thương bệnh, nghe nói “Y kinh” hàm chứa y thuật có công dụng khởi tử hồi sinh, hơn nữa quan trọng hơn chính là, y thuật của Vạn Hoa cốc là khắc tinh với độc thuật của Ngũ Độc, nhân sĩ võ lâm phải ăn khổ của Ngũ Độc chỉ hận không thể sớm có ngày đoạt được “Y kinh”.

Nhưng khiến mọi người chú ý nhất vẫn là “Võ kinh” trong “Vạn Hoa bí kíp”, nguyên bản cũng không có gì quá quan trọng, nhưng là có người mua được tin tức cao giá từ Ẩn Nguyên hội cho biết, một bộ trong tâm đắc võ công của Phương gia có viết về “Vạn Hoa bí kíp”, lập tức lại gợi lên hồi tưởng của mọi người về năm đó. Trong một lúc, Vạn Hoa cốc trở thành tiêu điểm của toàn võ lâm.

Kỹ năng môn phái:

Chỗ tinh diệu nhất của võ học Vạn Hoa là điểm huyệt cắt mạch, có thể trực tiếp khống chế sinh tử của một người. Thông qua việc đem y thuật tinh xảo cùng thủ pháp điểm huyệt kết hợp lại, vừa có thể chữa thương nối mạng cho đồng bạn, ổn định chiến cuộc, vừa có thể đứng ra chiến đấu, dùng thủ pháp tinh diệu chế địch khống trận, quả thật là võ học đệ nhất nắm trong tay toàn cục.

-

Cảnh tượng môn phái:

Trong Tần Lĩnh bên ngoài Trường An, có một nơi gọi là “thanh nham”, sâu trong núi non trùng điệp đó, đoạn tuyệt nhân thế, bốn mùa như xuân, quanh năm hoa nở rộ rực rỡ. Nắm đó Đông Phương Vũ Hiên lạc đường trong núi, vô tình đi nhầm vào nơi đây, tán thưởng trong vùng núi phía tây lại có thể có một nơi như tiên cảnh thế này, vì thế lúc đó liền tiến hành chiêu nạp hiền sĩ đang ẩn cư, tập hợp đặt tên là “Vạn Hoa cốc”.

Giống như Đào hoa nguyên trong Đào công sở kí, cửa vào Vạn Hoa cốc cũng có chút mập mờ, cho nên người trong giang hồ nghe nói thì nhiều, nhưng chân chính đi qua thì không được bao nhiêu.

“Vạn Hoa tinh trú hải, Nam Cương(*) ngũ độc đàm” (Vạn Hoa sao trong biển, Nam Cương đầm ngũ độc) cùng được xưng là kì cảnh trong thiên hạ, đều là nơi tụ hội của muôn loài kì hoa dị thảo. “Tinh trú hải” chính là một biển hoa, mà Lạc Tinh hồ thanh triệt lại là con mắt của biển hoa ấy, mấy căn nhà tranh là chỗ ở trong cốc. Vô luận bên ngoài thời tiết ra sao, trong Vạn Hoa cốc vẫn như cũ cành lá xum xuê, vạn hoa tranh nhau khoe sắc. Không trung trong cốc cũng đặc biệt không minh, cùng nhiều loại hoa lộng lẫy trong Hoa hải tôn nhau lên, phàm nhân đi vào, chắc chắn phải kinh sợ vì tiên cảnh chốn nhân gian này.

(*Nam Cương [南疆] có lẽ chính là Miêu Cương, nằm ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, là nơi tập hợp của nhiều dân tộc thiểu số)

Hoa hải:

Liếc mắt một lần nhìn Hoa hải chỉ thấy hoa ngập tràn, nhìn kỹ hơn, mỗi bông đều không cùng loại. Hơn mười năm qua, từ lầu các Tây Vực đến bồng lai Đông Hải, từ đồng bằng Bắc Cương đến tiên sơn Nam Hải, hoa cỏ ở khắp mọi nơi đều bị đệ tử Vạn Hoa đi khắp thiên hạ hái về, lại thêm khí hậu Vạn Hoa cốc rất thích hợp cho vạn vật sinh trưởng, còn được Hoa thánh Hoa Vũ Tình chính tay nuôi trồng, Hoa hải đã trở thành một kì cảnh ngập hoa duy nhất khắp bốn bể này, hoa hồng cánh xanh, cẩm tú như biển.

Nơi này có một chỗ kì cục, ban ngày ở trong này nhìn qua nhìn lại một hồi vạn hoa trộn lẫn khó mà phân biệt, vừa đến ban đêm, làm người là vô pháp nhìn được hoa sắc, thế mà hoa cỏ lại đột nhiên lóe ra vô số ánh sáng kì lạ, cùng nước trong Lạc Tinh hồ ánh sáng giao quyện đến chói lòa, tựa như có người dùng tuyệt đại thần thông đem bầu trời ngân hà chuyển xuống nhân gian vậy, cho nên mới gọi là “Tinh trú hải”.

Tam tinh vọng nguyệt:

Đều là kì vật trong Vạn Hoa, lấy tam tinh vọng nguyệt (trăng rằm) làm tâm, bên trong thung lũng trung tâm của Vạn Hoa cốc có ba đỉnh núi, xếp thành hình tam giác, cao ngất tận chân mây. Đông Phương Vũ Hiên dùng một bậc thầy về gió, đem ba tòa thạch phong liên kết hợp bích, phân trí kiến trúc. Bởi vì vách đá cao vút dựng đứng khó mà trèo lên, nên đặc biệt mời đến hơn hai trăm thợ lành nghề, hao phí hết ba ngày mới kiến tạo được. Ở trên đỉnh núi xây dựng Tích Tinh lâu, chính là cư thất của cốc chủ Đông Phương Vũ Hiên, người ta bảo nơi này nằm trên giường mà như nằm trên mây, giơ tay có thể hái được sao trời.

Thấp hơn một chút là Mịch Tinh điện, nhị lão cư trú ở nơi này, lại đúng là một cái Thưởng tinh cư, là nơi Dược vương Tôn Tư Mạc dùng để luyện đan. Người trong cốc có thể xuôi theo bậc thang đá bên cạnh Mịch Tinh điện và Thưởng tinh cư đi lên, giữa Mịch Tinh điện và Trích Tinh lâu có một khe núi sâu ngàn thước, Nhất Hành tiên sinh thiên hạ nhất tuyệt đã xây dưng ở đây một bộ máy ròng rọc hiên ngang đâm thẳng lên trời cao, dọc theo dây thừng bên cạnh căn nhà có thể tự do thoải mái đi xuyên qua mây, chẳng khác nào thần tiên.

Vào lúc đêm khuya gió lành, trong cốc sẽ lại mời tân khách đến dùng bộ máy ròng rọc này, trèo lên Trích Tinh lâu ngắm trăng, những người có thể được mời thường quay trở về sau ba tháng, thế nhưng cũng không thể tả nổi nơi chốn kỳ diệu ấy.

Tiên tích nham:

Cầm kì thư họa thi tửu hoa, bách dược thần công tuyệt thiên hạ. (Đàn cờ văn vẽ thơ rượu hoa, trăm dược thần kì tinh xảo thiên hạ)

Tiên tích nham ở trong một cốc nhỏ, trong cốc là nơi “thất thánh” cùng văn nhân nhã sĩ trong giang hồ tụ họp.

Tiên tích nham có bốn kì cảnh, một là “Tiên nhân kì cục”, bên trong có một bàn cờ vô cùng lớn, dường như che kín cả đá núi, giống như có người dùng nội lực cực cao khắc thành trên đá núi, nhưng Tiên tích nham toàn bộ đều là đá hoa cương, phi thường cứng rắn, lại có người có thể dùng lực của chính mình đoạt lấy thiên uy, thật là không thể tưởng tượng nổi, cho nên được người trong cốc tôn sùng gọi là nơi dấu vết của tiên nhân đi qua. Cốc chủ Đông Phương Vũ Hiên vẫn thường ở đây bày ra một ván cờ quý rồi mời người đến hóa giải, hoặc là cùng với cao nhân chơi cờ.

Hai là “Phi bộc vi họa”, tục truyền rằng Họa thánh Lâm Bạch Hiên ở nơi này vẽ thác nước Châu Hoa mà tạo thành bức tranh, cho nên được gọi như vậy.

Ba là “Không cốc thiên âm”, là một sơn cốc có dạng hình tròn, mỗi khi Nhạc thánh Tô Vũ Loan tại đây đánh đàn, tiếng đàn rơi rớt khắp nơi, tiện bề cho núi đá thác nước trong cốc tương hòa, hồi âm phụ họa hỗn vang, đúng lúc, trong cốc đều là thiên âm, lại khó mà tìm thấy được cội nguồn của âm thanh, tựa như âm thanh của trời cao vậy.

Bốn là “Diệu bút như chuyên”, Thư thánh Nhan Chân Khanh tại nơi này truyền thụ văn chương thư pháp, vào mỗi sớm tinh mơ, trong cốc sẽ lại văng vẳng tiếng viết thư.

Sương khói lượn lờ quanh năm trong cốc, đối diện ba hướng bắc, tây, đông đều là thác nước phi lưu, trong ao hồ bên cạnh mõm đá được trồng đầy hoa sen.

Tên: Bùi Nguyên - 裴元 

Môn phái: Vạn Hoa cốc - 万花谷

Vị trí: Đại đệ tử

Đại đệ tử của Dược vương Tôn Tư Đồ, Bùi Nguyên là đại sư huynh hướng dẫn người mới nhập môn trong Vạn Hoa cốc, bị người trong giang hồ gọi là “Hoạt nhân bất y” (người còn sống thì không chữa), thật ra lại là một kẻ sợ phiền phức, mãnh liệt yêu thích thanh tĩnh, cho nên mới hy vọng người đến “đã chết” rồi mới hẵng tìm hắn chữa trị, đừng tùy tiện đến quấy rầy cuộc sống của hắn.

Bùi Nguyên ngày thường tuấn lãng bất phàm, nho nhã phong lưu, được nhiều nữ đệ tử trong cốc yêu quý. Y thuật cao tuyệt, Vạn Hoa cốc trừ Tôn Tư Mạc thì không có người nào sánh bằng hắn. Bùi Nguyên cho rằng Vạn Hoa cốc là nơi tìm kiếm cảnh giới cao nhất của y thuật, ốm đau vụn vặt đã có thầy thuốc bình thường lo liệu, không cần người nào cũng đến xin chữa trị, Vạn Hoa không thể cắt đứt sinh lộ của y giả trong thiên hạ. Một vài giang hồ nhân sĩ cần Bùi Nguyên chữa trị nhưng bị hắn cự tuyệt đuổi ra khỏi cửa tặng hắn một danh hiệu, gọi là “Hoạt nhân bất y”. Nhưng tình cảm mà Bùi Nguyên ôm ấp trong đó há lại để thường nhân có khả năng lĩnh hội.

Bùi Nguyên có một người cháu gái bên ngoại là Cốc Chi Lam. Cốc Chi Lam năm năm tuổi, trong phủ từ trên xuống dưới đều bị Lăng Tuyết các “Trường An cổ y” giết người diệt khẩu toàn bộ, lúc ấy Cốc Chi Lam may mắn thoát khỏi nạn này, sau đó một đêm đầu bạc. Về sau Bùi Nguyên đem nàng tiếp nhập Vạn Hoa cốc nuôi nấng, cho nàng bái làm môn đệ của Vạn Hoa, trăm phương ngàn kế tím kiếm phương pháp biến tóc bạc thành đen cho nàng. Cốc Chi Lam sau này cùng một trong năm “Tử hư tử” của Thuần Dương là Kì Tiến cảm mến nhau, mà Kì Tiến lại chính là sát thủ năm đó diệt môn cốc gia. (Hai bạn này sau này sẽ có cố sự riêng)

Sau Thuần Dương chưởng giáo Lý Vong Sinh phát thư mời đến Thiếu Lâm, Thiên Sách, Thất Tú và Vạn Hoa tứ đại môn phái, thỉnh cầu mỗi môn đều tự phái ra một một môn nhân, tùy thời đi trước đột nhập vào di tích cung điện Thần Vũ trên đảo cùng Tạ Vân Lưu hội họp, để làm chứng. Bùi Nguyên lấy thân phận nhân chứng của Vạn Hoa nhất phái đi trước.

Bùi Nguyên vốn xuất thân gia cảnh không tồi, nhưng gia tộc bởi lúc trước vì Tiếu dược nhân cùng người khác đấu độc mà vô tội bị cuốn vào, khiến cho người nhà Bùi Nguyên tất cả đều bị nhiễm độc mà chết. Bùi Nguyên không biết là bị hạ độc, những tưởng do ôn dịch gây nên, về sau còn cố tình lập chí học y cứu người trong thiên hạ, đi khắp nơi bái sư học nghệ, có không ít sư phụ, hầu như trở thành một tuyển tập nhiều trường phái dài dằng dặc.

Y thuật của Bùi Nguyên về sau đạt thành thì làm nghề y cứu người, bắt đầu cảm thấy được bản thân lợi hại, nhưng dần dần trong lòng nảy sinh nghi hoặc, bởi vì mình có thể trị không ít bệnh, chính là vẫn trị không hết người trong thiên hạ. Bùi Nguyên khi đó tuổi hãy còn trẻ, đối với y thuật ở phương diện nào đó có thể nói là thiên tài, mang trên người ước nguyện to lớn chữa trị cho người trong thiên hạ, nhưng cũng bởi vậy mà lâm vào bế tắc không thể trị hết người trong thiên hạ.

Sau đó Bùi Nguyên lại nghĩ nếu mỗi người đều có thể học được y thuật, thì tất có thể tự chữa cho mình. Vì thế hành tẩu tứ phương truyền thụ y thuật. Nhưng lúc đi liền gặp phải khốn cảnh. Bùi Nguyên xuất thân gia cảnh tốt, nên nghĩ dân chúng bình thường cũng giống hắn đọc đủ thứ thi thư, trên thực tế thì rất nhiều người còn không biết chữ, không có nền tảng y học, cho nên truyền thụ y thuật gặp phải khó khăn.

Ngay lúc Bùi Nguyên nản lòng thoái chí hết sức, hắn gặp được một người đủ để ảnh hưởng đến hắn cả đời, chính là Tôn Tư Mạc.

Tôn Tư Mạc lớn tuổi, kiến thức rộng rãi, lại từng trải nhân sinh, việc đã thấy qua cũng rất nhiều. Cho nên khuyên Bùi Nguyên, nói với hắn tuy rằng hiện tại không phải ở nơi nào mọi người cũng đều có y thuật, nhưng chưa hẳn về sau không thể. Mười năm không thể thì một trăm năm, một trăm không thể thì một ngàn năm, nhất định sẽ có một ngày dân chúng không còn vì bệnh tật mà khổ sở nữa. Tôn Tư Mạc lại nói tiếp, cho nên chúng ta hiện tại làm thầy thuốc, trừ bỏ trị bệnh cứu người còn có một trách nhiệm chính là đem y thuật truyền thừa về sau, như vậy y thuật mới có thể tiến bộ phát triển.

Bùi Nguyên bởi lĩnh ngộ này mà sau đó quyết ý đi theo Tôn Tư Mạc, phát triển y thuật.

Mới đầu Bùi Nguyên là y giả nhân tâm (tâm của thầy thuốc đặt trên người dân), đi khắp nơi trị bệnh, cho nên thanh danh là ở bên ngoài. Chính bởi vì đi theo Tôn Tư Mạc mà Bùi Nguyên vẫn chưa nhập nghề y. Về sau Tôn Tư Mạc thế nào cũng không trị bệnh cho người khác, toàn tâm toàn ý đặt vào việc biên soạn y thư, Bùi Nguyên thì lại phụ trách việc đi tìm thầy thuốc cùng nghề tra hỏi tư liệu. Tuy rằng Tôn Tư Mạc cùng Bùi Nguyên nỗ lực nhiều mặt, nhưng lúc ấy người muốn bảo mật tay nghề y thuật cũng không ít. Hơn nữa Bùi Nguyên y thuật không tồi, lại lo lắng cho dân nghèo, không khai dược bậy bạ, cơ hồ lúc ấy là chống lại tất cả các thầy thuốc. Có thể nói có một thầy thuốc tốt như Bùi Nguyên, chính là chặt đứt tài lộ hành nghề sinh sống của những thầy thuốc khác.

Nhưng Bùi Nguyên còn có ước nguyện to lớn là truyền thừa y thuật. Để có thể hoàn thành y thư, Bùi Nguyên đã thề với những thầy thuốc kia, chỉ cần mọi người có thể trả lời những nghi hoặc của hắn, hoàn thiện y thư, hắn nguyện ý từ nay về sau hễ người nếu còn sống thì sẽ không trị.

Chuyển ngữ: Mộc

Tranh: Y Xuy Ngũ Nguyệt

Nguốn: baidu.com

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro