Lại thằng nhóc Emil - Astrid Lindgren - P1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trân trọng giới thiệu một truyện cực dễ thương mình vừa tìm được trong lúc lang thang vô mục đích trên internet J: Lại thằng nhóc Emil (Astrid Lindgren)

Người dịch: Vũ Hương Giang

Nhà xuất bản: NXB HỘI NHÀ VĂN

Năm sản xuất: 2008

Đánh máy & sửa chính tả: nutuongcuop

Ngày hoàn thành: 14/01/2009

Emil mắc đầu trong liễn súp Emil làng Lönneberga là tên một thằng nhóc sống ở làng Lönneberga. Đó là một thằng nhóc hiếu động và bướng bỉnh chứ không ngoan ngoãn được như các bạn, mặc dù trông nó dễ thương. Mà quả dễ thương thật những lúc nó không gào thét.

Mắt Emil xanh và tròn xoe, gương mặt cũng tròn, hai má đỏ au, mái tóc sáng màu vừa bông vừa mềm. Mọi nét gộp lại khiến nó trông dễ thương đến nỗi người ta có thể tưởng đâu Emil là một thiên thần nhỏ đích thực. Nhưng ai ơi chớ có tưởng bở.

Thằng nhóc lên năm tuổi và khỏe như một con bò mộng nhỏ. Nó sống trong trang trại Katthult ở làng Lönneberga tại Smăland, một vùng đất thuộc Thụy Điển. Và bởi dân vùng Smăland nói tiếng địa phương Smăland nên Emil cũng đặc sệt giọng ấy. Đấy đâu phải lỗi của nó. Giả sử nó muốn lấy mũ, nó không nói như những đứa trẻ khác: "Cho con xin cái mũ", mà nói: "Đưa con cái mú!" Cái "mú" của Emil là một chiếc mũ mềm xanh lơ có lưỡi trai màu đen, trông xấu chết. Bố đã mua cho nó trong một lần lên thị trấn.

Emil rất khoái cái mũ. Tối tối hễ đến lúc phải đi ngủ, nó lại nói: "Đưa con cái mú!" Tuy nhiên mẹ lại cho rằng Emil không nên mang mũ lên giường . Bà định cất chiếc mũ trên mắc áo ngoài hành lang. Thế là Emil hét toáng lên khiến cả làng Lönneberga đều nghe: "Đưa con cái mú!"

Cứ như vậy suốt ba tuần lễ, đêm nào Emil cũng ngủ với cái mũ sùm sụp trên đầu. Rốt cuộc nó có sao đâu, dù hơi bó đầu một tẹo. Cái chính là Emil được làm theo ý mình, đấy mới là điều nó quan tâm nhất. Đặc biệt Emil không thích nghe theo những gì mẹ muốn. Lần nọ, vào ngày lễ Giáng sinh, mẹ tìm cách dỗ Emil ăn món đậu đũa, vì rau rất có lợi cho sức khỏe. Nhưng Emil bảo không.

- Con định không khi nào ăn rau sao? - Mẹ nó nói.

- Có chứ ạ, - Emil đáp, - nhưng phải đúng là rau.

Rồi rất lặng lẽ, nó đến ngồi sau cây thông Noen và bắt đầu gặm lá thông. Nhưng nó đã vội dừng lại vì bị lá thông nhọn chọc vào mồm.

Emil ương bướng thế đấy. Nó muốn quyết định về bố mẹ mình, về trang tại Katthult, và thích nhất là quyết định cho cả làng Lönneberga luôn, nhưng dân làng Lönneberga đâu có chịu.

- Khổ thân cái nhà anh chị Svensson ở trang trại Katthult, có thằng con nghịch như quỷ sứ! - Họ nói. - Ngữ ấy chẳng bao giờ nên người được.

Dân làng Lönneberga nghĩ vậy đó! Giá mà họ biết được rồi ra Emil sẽ trở thành người như thế nào, hẳn họ đã không nói thế. Giá mà họ biết có ngày Emil sẽ trở thành chủ tịch hội đồng xã, khi nó lớn lên ấy! Chắc bạn không biết chủ tịch hội đồng xã là cái gì, nhưng đó là một thứ rất tuyệt, tôi xin đảm bảo với bạn, và rốt cuộc Emil sẽ trở thành thứ đó.

Nhưng giờ chúng ta cứ xem xem chuyện gì đã xảy ra khi Emil còn bé và sống trong trang trại Katthult ở làng Lönneberga tại Smăland cùng với bố tên là Anton Svensson, bà mẹ tên là Alma Svensson và đứa em gái nhỏ Ida. Gia đình họ còn nuôi một đầy tớ trai là chú Alfred và một cô hầu gái là cô Lina.. Vì thời Emil còn bé, ở làng Lönneberga và đâu đâu cũng sẵn đầy tớ và người hầu. Đám đầy tớ trai lo cày cuốc, chăn ngựa và bò kéo, chở rơm rạ ngoài đồng về và trồng khoai tây, trong khi đám hầu gái lo vắt sữa bò, dọn rửa, giặt giũ, quét tước và hát dỗ lũ trẻ.

Bây giờ thì bạn biết những ai sống ở trang trại Katthult rồi nhé: bố Anton, mẹ Alma, bé Ida, chú Alfred và cô Lina. Ngoài ra còn có hai con ngựa, vài con bò kéo, tám con bò sữa, ba con lợn, chục con cừu, mười lăm con gà mái, một chú gà trống, một chú mèo và một chú chó. Rồi đến Emil.

Katthult là một trang trại nhỏ xinh đẹp với một ngôi nhà quét vôi đỏ nằm giữa những cây táo và tử đinh hương trên một triền đồi. Bao quanh trang trại là những cánh đồng, bãi cỏ, những cánh rừng nhỏ, một cái hồ và một khu rừng to ơi là to.

Katthult sẽ yên bình xiết bao, nếu thằng nhóc Emil không ở đó.

- Lúc nào nó cũng gây chuyện chẳng lành, cái thằng nhóc này, - cô Lina nói. - Mà nếu chính nó không gây chuyện đi nữa, thì cũng xảy ra quá đủ chuyện với Emil. Thật cháu chưa từng thấy thăng oắt nào như nó!

Nhưng mẹ Emil vội bênh con:

- Emil có đến nỗi nào. Hôm nay nó chỉ véo con bé Ida mỗi một cái và làm đổ váng sữa để pha cà phê, chỉ thế thôi mà.... ừ, thì đúng là thằng bé có đuổi con mèo chạy quanh chuồng gà thật. Nhưng dù sao thì tôi cũng thấy nó bớt hiếu động và ngoan hơn rồi.

Emil không hề độc ác, không thể nói là nó ác. Cả bé Ida và con mèo nó đều rất quý. Nhưng nó phải véo bé Ida một chút, nếu không đời nào con bé chịu đưa miếng bánh phết mứt của mình cho nó chứ, còn con mèo thì Emil rượt đuổi với tất cả niềm thương mến, cốt chỉ để thử xem mình có chạy nhanh bằng con mèo không. Nhưng con mèo làm sao hiểu được.

Đó là ngày mồng 7 tháng Ba, cái ngày mà Emil thật đáng yêu khi chỉ véo bé Ida có mỗi một cái, chỉ làm đổ váng sữa và đuổi theo con mèo. Nhưng bây giờ bạn hãy nghe về những ngày khác nữa trong cuộc đời Emil, khi có nhiều chuyện xảy ra hơn, hoặc do chính Emil gây ra, như cô Lina nói, hoặc đơn giản chỉ bởi bao giờ cũng có lắm chuyện xảy ra với thằng bé.

Chúng ta có thể bắt đầu với một ngày thứ Ba. Đó là...

=========

Thứ Ba, ngày 22 tháng Năm, ngày Emil chui đầu vào liễn súp

Hôm đó bữa trưa ở trang trại Katthult có món súp thịt bò. Cô Lina bưng súp đựng trong cái liễn sâu có vẽ hình hoa lên và mọi người ngồi quanh bàn ăn thưởng thức món súp, đặc biệt là Emil. Nó thích súp, và hễ nó ăn súp là nghe thấy liền.

- Con cứ phải húp sụp soạp như thế mới được sao? - Mẹ nó hỏi.

- Nếu không thế, thì làm sao người ta biết được đây là súp ạ, - Emil đáp.

Mọi người tha hồ chén thỏa thích, chẳng mấy mà liễn súp cạn sạch. Chỉ còn một hớp nhỏ ơi là nhỏ đọng lại dưới đáy liễn. Emil muốn ăn nốt hớp súp ấy, và muốn như thế chỉ có mỗi một cách chui đầu vào liễn súp để cố húp thôi. Thế là Emil làm liền, và mọi người lắng nghe tiếng nó húp trong liễn rõ mồn một.

Nhưng rồi Emil định rút đầu ra, và - không thể tin nổi - nó không rút ra được. Đầu nó mắc kẹt trong đó. Sợ quá nó nhảy phắt dậy khỏi bàn và đứng đó với liễn súp như một chậu cây úp lên đầu, sụp xuống tận dưới mặt, che hết cả mắt lẫn tai. Emil vừa cố giằng cái liễn vừa gào toáng lên. Cô Lina cũng phát hoảng.

Cái liễn đẹp của nhà ta, - cô xuýt xoa - Ôi cái liễn hoa quý là thế của nhà ta! Giờ thì biết đựng súp vào đâu cơ chứ?

Là vì nếu đầu Emil cứ ở trong cái Liễn thì không đổ súp vào được nữa, chí ít cô Lina cũng hiểu như thế, mặc dù bình thường cô không sáng ý cho lắm.

Nhưng mẹ Emil nghĩ đến nó nhiều hơn.

- Ôi trời, làm sao chúng ta lôi thằng bé ra được đây? Chúng ta phải lấy thanh sắt chọc lò mà đập vỡ cái liễn thôi.

- Mình có điên không hả? - Bố Emil kêu lên. - Mua cái liễn mất những bốn đồng bạc đấy! - Để cháu thử xem đã, - chú đầy tớ khỏe mạnh và chăm chỉ Alfred nói. Chú nắm hai quai liễn và lấy hết sức bình sinh nhấc cái liễn lên. Nhưng ăn thua gì chứ? Emil cũng bị nhấc bổng lên, vì đầu nó mắc cứng trong đó. Thế là nó giãy giụa hai chân trong trạng thái treo lơ lửng để rồi lại được hạ xuống đất.

- Thôi đi! Bỏ cháu xuống! Thôi đi, đã bảo mà! - Nó gào lên. Thế là chú Alfred đành thôi.

Giờ thì ai nấy đều ỉu xìu thật sự. Họ xúm quanh Emil trong bếp và ra sức nghĩ cách. Bố Anton, mẹ Alme, bé Ida, chú Alfred và cô Lina. Không ai biết làm sao lôi nổi Emil ra khỏi liễn súp.

- Nhìn kìa, anh Emil khóc đấy, - bé Ida nói, tay chỉ vào mấy giọt nước mắt to tướng đang rỏ từ mép liễn rồi từ từ lăn dài trên má Emil.

- Khóc đâu mà khóc, - Emil cãi, - Nước súp thịt thì có!

Nó vẫn tỏ ra gan lỳ như nó vốn thế, nhưng bị mắc kẹt trong liễn súp hẳn chẳng sung sướng gì. Mà sẽ thế nào nhỉ, nếu nó vĩnh viễn không rũ bỏ được cái liễn này? Tội nghiệp Emil, đến bao giờ nó mới lại có thể đội mũ lên đầu? Mẹ Emil xót xa cho thằng con bé bỏng của mình. Bà lại toan lấy que cời đập vỡ cái liễn, nhưng bố Emil ngăn lại.

- Không đời nào! Cái liễn đáng giá những bốn đồng bạc. Tốt hơn là chúng ta nên đến Mariannelund tìm ông bác sĩ. Ông ấy sẽ lôi ra được. Thế nào ông ấy cũng chỉ lấy ba đồng tiền công, vậy là chúng ta kiếm được một đồng.

Mẹ Emil thấy sáng kiến này hay. Xét cho cùng, đâu phải ngày nào cũng kiếm được hẳn một đồng bạc. Nhất là khi nghĩ có thể dùng đồng bạc ấy mua bao nhiêu thứ đồ lặt vặt, một món quà gì đó cho bé Ida chẳng hạn, vì con bé phải ngồi nhà trong lúc thằng anh Emil được đi chơi xa.

Thế là người ở trang trại Katthult tất bật cả lên. Cần phải cho Emil ăn vận thật tươm tất, phải tắm rửa cho nó và cho nó diện bộ quần áo đẹp nhất. Không thể chải đầu cho Emil, cũng không thể lau rửa tai cho nó, mặc dù rất cần phải như thế. Tuy nhiên mẹ nó vẫn cố thử luồn ngón tay chỏ từ dưới miệng liễn súp lên để cọ tai cho Emil. Nhưng kết cục thật tồi tệ vì đến lượt ngón tay của bà cũng bị kẹt lại trong liễn súp.

- Vâng vâng như thế đấy, - bé Ida nói. Còn bố Anton nổi giận thật sự, mặc dù bình thường ông hiền lành đến thế.

- Lại có kẻ cũng muốn mắc kẹt trong liễn súp hả? - Ông quát lên. - Xin cứ việc! Rồi tôi sẽ lấy cỗ xe lớn chở cô rước tất cả các người đến ông bác sĩ ở Mariannelund.

Nhưng mẹ của Emil giật mạnh và rút được ngón tay ra.

- Thôi con cứ để tai bẩn mà đi cũng được, Emil ạ, - bà vừa nói vừa thồi phù phù vào ngón tay. Thế là Emil nở một nụ cười mãn nguyện trong liễn súp và bảo:

- Đúng là lần đầu tiên cái liễn có lợi cho con.

Nhưng lúc này chú Alfred đã cho xe ngựa đến đỗ bên cầu thang lớn. Emil đi ra để trèo lên xe. Trông nó rõ bảnh bao với bộ cánh Chủ nhật kẻ sọc, đôi ủng cài cúc màu đen và cái liễn súp - ừ thì trông nó cóphần hơi lập dị với cái liễn chụp kín đầu, nhưng cái liễn có vẽ hoa đẹp ra phết và nom lại giông giống một chiếc mũ mùa hè theo mốt mới. Thứ duy nhất khiến người khác để ý là chiếc mũ này sụp khá sâu, che kín cả mắt của Emil.

Bây giờ họ muốn khởi hành đến Mariannelund.

- Nhớ trông nom bé Ida cẩn thận khi chúng tôi vắng nhà nhé! - Mẹ Emil dặn với. Mẹ ngồi cùng bố trên băng ghế trước. Emil ngồi ghế sau cùng cái liễn. Còn chiếc "mú" của Emil để trên ghế, ngay cạnh nó. Thì lúc quay về nhà nó cũng phải có gì đội đầu chứ. May mà nó lại nghĩ ra!

- Thế cháu phải nấu gì cho bữa tối đây ạ? - Cô Lina kêu lên khi xe ngựa vừa chuyển bánh.

- Tùy cô, - mẹ Emil đáp. - Giờ tôi đang bận nghĩ chuyện khác.

- Thế thì chắc cháu lại nấu món súp thịt bò, - cô hầu gái nói. Nhưng đúng lúc đó cô thoáng trông thấy cái gì có vẽ hình hoa khuất sau lối rẽ trên đường và sực nhớ chuyện gì đã xảy ra. Cô quay sang chú Alfred và bé Ida với đầy vẻ ưu phiền.

- Xem ra tối nay sẽ chỉ có bánh mì và thịt lợn nguột, - cô nói.

Emil đã được đi Mariannelund nhiều lần. Nó thích ngồi vắt vẻo trên xe ngựa ngắm những con đường chạy ngoằn ngoèo và những trang trại mà nó đi ngang qua, nhìn lũ trẻ sống trong trang trại đó, rồi những con chó sủa nhặng xị sau bờ giậu, rồi bò rồi ngựa được chăn thả trên những bãi cỏ. Nhưng lúc này ít thú vị hơn. Lúc này nó ngồi trên xe với cái liễn sùm sụp che kín mắt và chỉ còn trông thấy một phần tý tẹo đôi ủng của mình qua khe hở dưới miệng liễn súp. Nó phải luôn mồm hỏi bố:

- Mình đến đâu rồi bố? Đã qua trang trại Bánh Rán chưa? Sắp đến trang trại Lợn Xinh chưa?

Chả là Emil tự đặt cho mỗi trang trại ven đường một cái tên riêng. Bánh Rán là tên trang trại mà lần nọ Emil đi xe ngựa ngang qua thấy hai đứa nhóc béo tròn đứng bên bờ giậu chén bánh rán. Còn trang trại Lợn Xinh được gọi theo một chú lợn con ngộ nghĩnh mà thi thoảng Emil vẫn xoa lưng.

Nhưng lúc này thì Emil đang ngồi buồn bã ngó xuống đôi ủng củamifnhh, chẳng thấy đâu bánh rán lẫn chú lơn con ngộ nghĩnh. Thế nên không có gì lạ khi nó cứ hỏi dồn:

- Chúng mình đang ở đâu rồi ạ? Sắp đến Mariannelund chưa bố?

Phòng chờ chỗ ông bác sĩ đến là đông người khi Emil bước vào với liễn súp trên đầu. Lập tức hết thảy những ai có mặt đều cảm thương Emil. Họ hiểu vừa xảy ra một tai nạn nhỏ. Riêng một lão già thấp bé cất tiếng cười độc địa, làm như mắc kẹt trong liễn súp là điều vui nhộn lắm không bằng.

- Hô hô hô! Lạnh cóng ở tai hả, nhóc con? - lão hỏi.

- Đâu ạ! - Emil đáp. - Thật hả? Thế sao lại cần cái bịt tai?

- Vì nếu không tai cháu sẽ lạnh cóng, - Emil đáp. Dù còn bé, nó vẫn có thể thật dí dỏm.

Nhưng rồi nó được gọi vào phòng khám. Ông bác sĩ không cười nó chỉ nói:

- Chào cháu! Chào cháu! Cháu làm gì trong đó vậy?

Mặc dù không thể nhìn thấy ông bác sĩ, nhưng Emil vẫn phải chào ông ấy chứ. Nó bèn cúi đầu rõ thấp - tất nhiên cùng với cái liễn. Choang! Cái liễn nằm đó, vỡ làm hai mảnh. Là vì Emil vô tình cụng đầu rất mạnh xuống bàn viết của ông bác sĩ.

- Thế là tan tành bốn đồng bạc, - bố Emil khẽ bảo mẹ Emil. Nhưng ông bác sĩ nghe được.

- Đúng, nhưng dẫu sao anh chị cũng kiêm được một đồng đấy, - ông nói - Vì tôi vẫn lấy năm đồng tiền công mỗi khi giải thoát các chú bé ra khỏi những liễn súp. Chú bé này đã giải quyết được rồi.

Bố Emil trở nên phấn khởi, thầm biết ơn thằng con đã đập vỡ cái liễn và nhờ thế kiếm được hẳn một đồng. Ông vội nhặt hai mảnh liễn, lôi vợ con ra về.

Nhưng ra tới ngoài đường, mẹ Emil bảo:

- Tuyệt quá! Chúng ta lại vừa kiếm được một đồng! Để mua gì đây nhỉ?

- Không mua bán gì hết, - bố Emil đáp. - Đồng bạc ấy sẽ để tiết kiệm. Nhưng cũng là công bằng và ít tốn kém nếu thưởng cho Emil năm xu. Khi về nhà nó được phép bỏ năm xu ấy vào con lợn đất của nó.

Nói đoạn ông liền lục trong hầu bao lấy ra đồng năm xu đưa cho Emil. Thử đoán xem Emil có sướng không nào? Rồi họ lên đường trở về làng Lönneberga.

Emil thích chí ngồi ở băng ghế sau với đồng năm xu trong tay, cái "mú" trên đầu, và từ trên xa quan sát tất cả những đứa trẻ, những con chó, con ngựa, con bò, con lợn mà nó bắp gặp trên đường.

Giá Emil chỉ là một thằng bé bình thường thì ngày hôm đó đã chẳng xảy ra thêm chuyện gì. Nhưng Emil không phải là một thằng bé bình thường. Thử đoán xem nó làm gì? Phởn chí, nó đút đồng năm xu vào mồm, và đúng lúc cả nhà đi ngang qua trang trại Lợn Xinh, từ băng ghế sau khẽ vang lên tiếng "Ực". Đó là Emil nuốt phải đồng năm xu.

- Ôi, - Emil kêu lên, - sao nhanh thế nhỉ. Thế là mẹ nó lại có chuyện mới để ca thán.

- Trời ơi, làm sao lấy đồng năm xu ra khỏi bụng thằng bé được đây? Chúng ta phải quay lại chỗ ông bác sĩ thôi.

- Thế à, mình tính toán giỏi gớm nhỉ, - bố Emil nói. - Chẳng lẽ chúng ta phải trả ông bác sĩ năm đồng để lấy lại đồng năm xu sao? Hồi còn đi học, mình được mấy điểm môn toán thế không biết?

Nhưng Emil rất thản nhiên trước sự cố. Nó vỗ vỗ bụng bảo:

- Con tự làm con lợn đất cũng được và giữ đồng năm xu trung bụng tốt chẳng kém gì con lợn đất ở nhà. Vì lợn đất ở nhà cũng có moi được tiền ra đâu. Con thử moi bằng dao ăn mãi rồi, con còn lạ gì.

Nhưng mẹ Emil không nhân nhượng. Bà đòi quay lại Mariannelund tìm ông bác sĩ.

- Ngày trước, khi thằng bé nuốt tất cả chỗ cúc quần, em có nói gì đâu, - mẹ nhắc bố nhớ lại. - Nhưng một đồng năm xu khó tiêu hóa hơn, nó có thể gây hậu quả tồi tệ, mình nghe em đi!

Và mẹ đã thành công khi khiến bố sợ đến nỗi ông cho ngựa quay đầu và đánh xe trở lại Mariannelund. Vì thật ra bố Emil cũng lo lắng cho con trai.

Thở không ra hơi, ba bố mẹ con xông vào phòng ông bác sĩ.

- Các vị quên gì à? - ông bác sĩ hỏi.

- Không, thưa bác sĩ, chỉ là .... cháu Emil nuốt phải một đồng năm xu, - bố Emil nói. - Vâng giá như bác sĩ có thể mổ cho cháu một tẹo ... với giá bốn đồng gì đó.... Đồng năm xu ấy xin biếu bác sĩ luôn cũng được ạ.

Nhưng Emil đã giật giật gấu áo bố, thì thào:

- Bố đừng có làm thế nhá! Đồng năm xu ấy là của con.

Ông bác sĩ không nghĩ đến việc lấy đồng năm xu của Emil. Ông bảo không cần phải mổ thì vài hôm nữa đồng năm xu ấy cũng sẽ tự ra.

- Nhưng có lẽ cháu nên ăn năm chiếc bánh mì con độn nho, - ông dặn Emil. - Như thế đồng năm xu sẽ có bầu có bạn và không cào vào dạ dày cháu.

Một ông bác sĩ tuyệt vời làm sao! Mà lần này ông cũng không lấy tiền. Bố Emil hài lòng đến rạng rỡ cả mày mặt khi ba người ra tới ngoài đường.

Nhưng lúc này mẹ Emil lại muốn vào ngày hiệu bánh của hai chị em nhà Andersson để mua cho Emil năm chiếc bánh mì con độn nho.

- Không đời nào, - bố nói. - Ở nhà chúng ta cũng có bánh mì độn nho.

Emil ra chiều nghĩ ngợi. Nó giỏi cân nhắc suy tính và cũng thấy đói rồi. Vì vậy nó bảo:

- Con còn giữ một đồng năm xu cơ mà. Giá mà lấy ngay ra được thì con cũng thừa sức tự mua bánh mì nho.

Nó suy nghĩ thêm giây lát rồi bảo:

- Bố, thế bố không cho con vay tạm năm xu trong vài ngày được ạ? Con sẽ trả cho bố mà, con thề đấy!

Thế là bố chịu thua và cả ba đi đến hiệu bánh của hai chị em nhà Andersson mua cho Emil năm chiếc bánh mì con độn nho, những chiếc bánh rất rất ngon, tròn, vàng rộm và có rắc đường . Loáng cái, Emil đã chén hết.

- Đây là loại thuốc tốt nhất con được dùng từ bé đến giờ, - nó nhận xét.

Lúc này bố Emil bỗng vui vẻ và phấn chấn tới mức không còn biết mình đang làm gì.

- Dẫu sao hôm nay chúng ta cũng kiếm được kha khá tiền, - ông tuyên bố và bỏ luôn ra năm xu mua cho bé Ida ở nhà một gói đường thanh.

Bạn phải biết rằng chuyện này diễn ra vào cái thời mà trẻ con không hề bận tâm xem chúng có hai hàm răng hay không, chúng ngốc ngếch và kém hiểu biết như chúng vốn như thế. Ngày nay lũ trẻ làng Lönneberga không ăn đồ ngọt nữa, nhưng bù lại chúng có hai hàm răng.

Sau đó cả nhà quay lại trang trại Katthult. Bố chỉ vừa đặt chân qua cửa nhà, còn chưa kịp cởi bỏ mũ và áo khoác, đã vội lôi hai nửa liễn súp ra gắn lại. Cũng chẳng khó khăn gì, vì cái liễn chỉ vỡ làm đôi.

Thấy vậy, cô Lina sướng đến nỗi nhảy cẫng lên và reo to với chú Alfred lúc bấy giờ đang tháo ngựa khỏi cỗ xe.

- Từ nay ở Katthult lại có súp thịt bò rồi nhá!

Đấy là cô Lina tưởng thế! Chắc hẳn cô đã quên mất Emil.

Chiều hôm ấy Emil chịu khó chơi với bé Ida lâu một cách khác thường. Nó dựng hẳn cho em một ngôi nhà giữa các tảng đá giữa bãi cỏ để chui ra chui vào. Bé Ida thích lắm. Và chỉ thi thoảng, khi muốn chén một miếng trong chỗ đường thanh của Ida, Emil mới véo em một cái. Nhưng rồi trời sẩm tối và hai anh em thấy đã đến lúc phải vào nhà. Chúng xuống bếp xem mẹ có ở đó không. Không có mẹ. Chẳng có ai dưới bếp. Chỉ thấy mỗi cái liễn súp để trên bàn, đã được gắn lại đẹp đẽ.

Emil và bé Ida đến bên bàn ngắm nghía cái liễn kỳ lạ đã được chở đi lòng vòng suốt cả ngày hôm nay.

- Anh tưởng tượng xem, nó đã đến tận Mariannelund! - Bé Ida trầm trồ, rồi hỏi: - Anh Emil, anh làm thế nào mà chui đầu vào cái liễn được thế?

- Có gì khó đâu, -Emil đáp. - Anh chỉ làm thế này này!

Đúng lúc đó mẹ bước vào bếp. Và thứ đầu tiên bà trông thấy là thằng bé Emil đang đứng đó với cái liễn chụp kín đầu. Emil ra sức lôi cái liễn ra, và con bé Ida thét toáng lên. Emil cũng thét toáng lên. Vì nó đang mắc cứng trong cái liễn y như lúc ban trưa.

Thế là mẹ chạy đi lấy thanh sắt chọc lò, thẳng tay đập vào cái liễn, khiến cả làng cùng nghe thấy. Choang! Cái liễn tan thành ngàn mảnh, rơi như mưa rào quanh người Emil.

Bố đang ở chuồng cừu, nhưng nghe tiếng động vội chạy vào. Bố dừng lại trên ngưỡng cửa bếp, sững sờ hết nhìn Emil lại nhìn những mảnh vỡ dưới sàn, rồi đến thanh sắt chọc lò trên tay mẹ.

Chẳng nói chẳng rằng, ông quay gót trở lại chuồng cừu. Nhưng hai hôm sau ông được Emil trả lại đồng năm xu. Chí ít đầy cũng là niềm an ủi nho nhỏ.

Phải, giờ thì bạn đã biết đại khái Emil là người như thế nào. Đó là thứ Ba, ngày 22 tháng Năm, ngày xảy ra sự cố với cái liễn súp. Nhưng có thể bạn muốn nghe thêm về một ngày Chủ nhật nọ. Đó là...

=========

Chủ nhật, ngày mồng 10 tháng Sáu, ngày Emil kéo bé Ida lên đỉnh cột cờ

Chủ nhật, ngày mồng mười tháng Sáu, trang trại Katthult mở tiệc. Sẽ có nhiều khách đến từ làng Lönneberga, và từ những nơi khác nữa. Mẹ Emil bận bịu nấu nướng suốt mấy ngày nay.

- Sẽ tốn kém đấy, - bố Emil nói. - Nhưng đã ăn thì phải cho ra ăn! Chỉ cần đừng hà tiện. Mặc dù mình có thể nặn những viên thịt băm bé đi một tẹo.

- Em làm món thịt viên đúng chuẩn miễn chê. -Mẹ Emil nói. - Vừa đủ to, vừa đủ tròn, và rán vừa đủ độ.

Mà quả đúng thế. Ngoài ra mẹ còn làm món sườn, món thịt bê cuốn và món sa-lát cá, rồi thì cá muối, bánh táo, lươn nấu đông, lại cả chè thạch, và hai cái bánh ngọt to tướng nữa, chưa kể còn món xúc xích đặc biệt, ngon đến nỗi nhiều người chẳng quản đường xa, thậm chí từ tít thị trấn Vimmerby và Hultsfred cũng sẵn sàng đánh đường đến tận đây để được thưởng thức.

Cả Emil cũng rất thích ăn loại xúc xích này.

Hôm nay quả là một ngày đẹp dành cho tiệc tùng. Mặt trời lên rực rỡ, những cây táo và tử đinh hương nở hoa. Tiếng chim hót ngập tràn không trung. Cả trang trại Katthult nằm trên triền đồi đẹp như một giấc mơ. Sân trước được dọn quang, mọi ngóc ngách trong nhà đều được quét tước sạch sẽ, các món ăn đã chuẩn bị xong. Chẳng còn thiếu thứ gì. Ồ không, vẫn còn thiếu một thứ đấy.

- Ồ chúng ta quên chưa kéo cờ lên rồi! - Mẹ Emil sực nhớ ra.

Thế là bố Emil vội vắt chân lên cổ chạy đến chỗ cột cờ, theo sát ông là Emil và bé Ida. Chúng muốn xem kéo cờ lên như thế nào.

- Tôi nghĩ lần này chúng ta sẽ có một bữa tiệc vui vẻ và dễ chịu, - mẹ Emil bảo cô Lina khi chỉ có hai người trong bếp.

- Vâng, nhưng có sẽ lẽ chắc chắn hơn khi cứ nhốt Emil lại như lần trước ấy, bà nhỉ?

Mẹ Emil nhìn cô hầu gái đầy trách móc, nhưng không nói gì.

Thế là cô Lina vác mặt lên, lẩm bẩm:

- Cháu thì thế nào cũng được! Để rồi xem sẽ xảy ra chuyện gì.

- Emil là thằng bé dễ thương, - mẹ Emil nói rất quả quyết. Qua cửa sổ bếp, bà trông thấy thằng bé dễ thương đang chạy lăng quăng và chơi với em gái nó. Bà thấy hai đứa đều xinh đẹp như thiên thần: Emil trong bộ cánh Chủ nhật kẻ sọc, trên mái tóc bồng bềnh là chiếc mũ lưỡi trai, còn bé Ida mặc váy mới màu đỏ, một chiếc đai nơ trắng quấn quanh cái bụng mũm mĩm. Mẹ Emil cười tủm tỉm. Nhưng rồi bà lo lắng ngó xuôi con đường xuống là và nói:

- Không biết bao giờ ông Anton nhà tôi mới chịu kéo cờ lên đây, vì khách khứa của chúng ta có thể đến bất kỳ lúc nào.

Xem ra mọi việc rồi sẽ suôn sẻ. Nhưng thật bực quá - đúng lúc bố Emil đang bận bịu với lá cờ thì chú Alfred tất tả chạy từ phía chuồng bò đến, miệng kêu lên:

- Bò nhà ta đẻ! Bò nhà ta đẻ!

Tất nhiên đó là con bò cái Broka. Con bò hư thế thì thôi, nhè đúng lúc người ta đang bấn lên với hàng trăm thứ việc rồi lại còn phải kéo cờ mà đẻ cơ chứ!

Thế là bố đành bỏ tất cả đó để chạy xuống chuồng bò. Nhưng hai anh em Emil vẫn ở bên cột cờ.

Bé Ida ngửa cổ hết cỡ ngó lên quả cầu bằng vàng trên đỉnh cột cờ.

- Sao mà cao thế! - Cô bé nói. - Từ trên ấy thể nào cũng nhìn được tới tận Mariannelund!

Emil nghĩ ngợi, nhưng không lâu.

- Chúng mình có thể thử thật nhanh, - nó nói. - Có muốn anh kéo em lên trên ấy không?

Bé Ida bật cười. Ồ, anh Emil thật đáng yêu, lúc nào cũng có những sáng kiến đến là ngộ.

- Có, em muốn nhìn thấy Mariannelund! - Bé Ida đáp.

- Thì em sẽ thấy, - Emil ân cần nói. Nó cầm cái móc vốn dùng để móc lá cờ móc vào chiếc đai nơ ở bụng Ida. Xong đâu đấy nó cầm chắc dây kéo cờ bằng cả hai tay.

- Bắt đầu này, - Emil tuyên bố.

- Hi hi,- bé Ida cười.

Thế là bé Ida được kéo lên đến tận đỉnh cột cờ. Rồi Emil buộc thật chặt dây vào chân cột, giống như bố nó vẫn làm, vì nó không muốn làm Ida rơi xuống đất và bị đau. Lúc này bé Ida đã được neo chắc chắn và ngay ngắn hơn bao giờ hết ở trên kia.

- Có trông thấy Mariannelund không? - Emil gọi với lên hỏi.

- Không ạ, chỉ thấy làng Lönneberga thôi, - bé Ida hét xuống.

- Dào, chỉ thấy làng Lönneberga thôi à... thế đã muốn xuống chưa?

- Chưa, chưa đâu. Nhìn làng Lönneberga cũng thích lắm. Nhưng, ô kìa, khách đang đến kia kìa! Tất cả mọi người đang cùng đến kìa!

Và khách khứa kéo đến thật. Trên sân lớn của trang trại chẳng mấy chốc đã đầy xe và ngựa. Khách đã lũ lượt qua cổng tiến dần đến phía nhà chính.

Đi đầu là bà Petrell quý phái. Bà thậm chí đi xe ngựa từ mãi tận thị trấn Vimmerby đến đây để ăn món xúc xích của mẹ Emil. Bà là một phụ nữ rất đỏm dáng với chiếc mũ cắm lông đà điểu, khắp người chỗ nào cũng lộng lẫy. Bà hài lòng ngó quanh. Trang trại Katthult nằm phơi mình dưới nắng giữa những cây táo và tử đinh hương trông thật xinh đẹp. Ồ, mọi thứ ở đây đều tràn ngập không khí tiệc tùng, cờ cũng đã được kéo lên. Đúng, cờ đã được kéo lên, bà Petrell thấy rồi, cho dù bà hơi bị cận thị.

Cờ gì thế này? Bỗng bà Petrell dừng lại với vẻ vô cùng bối rối. Không hiểu vợ chồng nhà Svensson ở trang trại Katthult nghĩ ngợi ra sao mà lại như thế nhỉ? Đúng là không hiểu nổi.

Vừa lúc ấy bố Emil từ chuồng bò đi ra. Bà Petrell bèn gọi:

- Này Anton, bạn tốt nhất của tôi ơi, thế này là nghĩa làm sao hả? Sao nhà anh chị lại treo cờ Đan Mạch hả?

Emil đứng ngay cạnh bà. Nó không biết cờ Đan Mạch là gì. Nó đâu biết cờ Đan Mạch là tên lá quốc kỳ mang hai màu đỏ trắng của đất nước Đan Mạch, nơi những người Đan Mạch sinh sống. Nhưng có một điều nó biết chắc, ấy là cái vật mang hai màu đỏ trắng treo chót vót trên đỉnh cột cờ kia không phải là cờ Đan Mạch.

- Hihi! Đấy chỉ là Ida thôi mà! - Emil nói. Và bé Ida ở trên cao cũng bật cười.

- Hi hi, là con đây mà! - Cô bé reo lên. - Con nhìn được khắp cả làng Lönneberga.

Nhưng bố Emil không cười. Ông tất tả chạy tới hạ Ida xuống. Cô bé hớn hở:

- Từ cái lần anh Emil nhúng con vào thùng mứt dâu, mãi đến bây giờ con mới lại được vui như thế!

Ấy là Ida nhắc tới cái hôm hai anh em chơi trò thổ dân da đỏ, Emil đã nhúng em gái nó vào thùng mứt dâu để toàn thân cô bé đỏ au như một người da đỏ.

Phải, Emil luôn làm cho Ida vui. Thế mà chẳng ai thèm cảm ơn nó. Ngược lại thì có! Giờ đây bố tóm chặt cánh tay nó mà lắc lấy lắc để.

- Mình đã bảo mà, - cô Lina lẩm bẩm khi trông thấy hai bố con đi về phía xuởng mộc. Đây luôn là nơi Emil bị phạt giam sau mỗi lần nghịch dại.

Emil gào khóc.

- Chính nó muốn nhìn thấy Ma-ri-anne-u-nd đấy-chứ, - nó thổn thức.

Nó thấy bố khá lá bất công. Chưa từng có ai dặn nó không được cho bé Ida nhìn thấy Meriannelund. Còn Ida không nhìn quá được làng Lönneberga thì đó đâu phải là lỗi của nó chứ!

Emil cứ thế mà khóc. Nhưng chỉ đến lúc bố khóa cửa xong bỏ đi là nó nín liền.. Thực ra ở trong một xưởng mộc cũng thích đáo để. Trong này có bao nhiêu là mẩu gỗ và những tấm ván đầu thừa đuôi thẹo có thể dùng làm khối thứ. Mỗi lần bị phạt giam trong xưởng mộc sau một trò nghịch ngợm nào đó. Emil lại tự đẽo cho mình một hình nhân nhỏ ngộ nghĩnh. Nó đã đẽo được tất cả năm mươi tư hình nhân và xem ra con số này vẫn còn tăng đều.

- Mình thèm vào bữa tiệc thiu của họ, - Emil tự nhủ. - Nếu bố thích thì đi mà treo cờ lấy. Mình sẽ lại đẽo một hình nhân và mình sẽ cau có, cáu bẳn thật là lâu cho họ biết tay.

Emil biết bố lại sắp thả mình ra ngay thôi. Chưa bao giờ nó phải ngồi lâu trong xưởng mộc cả.

"Chỉ cần đủ để con suy nghĩ thấm thía về lỗi của mình và sẽ không tái phạm nữa," bố luôn nói như vậy.

Còn Emil thì biết nghe lời ở chừng mực hiếm khi nó lặp lại lần thứ hai một trò nghịch ngợm, mà luôn nghĩ ra một trò mới toe.

Lúc này nó ngồi đây cặm cụi đẽo hình nhân và suy nghĩ về trò nghịch dại treo bé Ida lên. Hình nhân đã xong vì Emil đâu có nghĩ ngợi gì nhiều, mà nó lại đẽo gọt rất nhanh và thuần thục.

Bây giờ Emil muốn ra ngoài. Nhưng hẳn mọi người quá mải tiệc tùng nên đã quên mất nó. Nó đợi, đợi mãi, nhưng chẳng ai đến cả. Thế là Emil bèn nghĩ cách tự giải thoát.

Chui qua cửa sổ chăng? Cái đó không quá khó, Emil nghĩ. Cửa sổ ở trên cao thật, nhưng Emil có thể leo tuốt lên chồng ván xếp vô cùng thuận tiện ngay sát tường. Emil mở cánh cửa sổ, toan nhảy ra ngoài. Nhưng nó chợt thấy những chiếc lá han tua tủa mọc từ dưới lên bên ngoài cửa sổ. Emil đã từng sờ thử vào lá han nên quá rõ rồi, giờ không muốn lại bị nếm mùi nữa. "Mình đâu có điên," nó tự như. "Nhất định mình sẽ nghĩ ra chiêu gì đấy hay hơn."

Nếu bạn đã từng đến trang trại như Katthult, thì bạn biết rằng ở đó có rất nhiều ngôi nhà mọc san sát nhau. Hễ cứ đến đấy là tự nhiên lại muốn chơi trò trốn tìm. Ở trang trại Katthult không chỉ có một kho cỏ, một chuồng dành cho ngựa lẫn bò, một chuồng lợn, một chuồng gà và một chuồng cừu, mà còn có một loạt các căn nhà nhỏ và kho. Có một nhà hun khói, nơi mẹ Emil hun món xúc xích tuyệt ngon của bà này, rồi nhà giặt, nơi cô Lina giặt tất cả quần áo chăn màn bẩn này, rồi còn có hai căn nhà nhỏ đứng kề nhau nữa. Trong một căn la kho củi và xưởng mộc, còn căn thứ hai là kho chứa đồ và kho thực phẩm.

Chiều chiều Emil và bé Ida thường chơi trốn tìm và len lỏi giữa những căn nhà này. Tất nhiên chúng không mò vào nơi có lá han mọc.

Nhưng đúng lúc này thì Emil hầu như chẳng chơi gì được. Nó phải chôn chân tại đây chỉ vì trên khoảng đất nhỏ xen giữa xưởng mộc và kho thực phẩm mọc lên quá nhiều lá han.

Emil nghĩ ngợi. Nhìn cửa sổ bên kho thực phẩm mở toang, nó nảy ra một sáng kiến. Hẳn là rất dễ dàng bắc một tấm ván từ cửa sổ xưởng mộc sang cửa sổ kho thực phẩm rồi bò qua bên đó. Nó đã ngồi trong xưởng mộc quá đủ lâu rồi, hơn nữa nó bắt đầu thấy đói bụng.

Một khi đã nảy ra ý hay thì Emil chẳng bao giờ mất công cân nhắc nữa. Loáng một cái, tấm ván đã sẵn sàng và Emil bắt đầu bò qua. Trông thật nguy hiểm, vì tấm ván thì mỏng mà Emil thì nặng.

"Nếu phen này thoát thì mình sẽ cho Ida con búp bê chăn cừu của mình, mình hứa đấy," Emil vừa bò vừa lẩm bẩm. Tấm ván kẽo kẹt nghe ghê người. Khi nhìn thấy đám lá han phía dưới, Emil phát hoảng và loạng choạng.

- Cứu với! - Nó kịp hét lên trước khi bị tuột khỏi tấm ván. Chỉ thiếu một chút nữa là nó bị rơi xuống đám lá han, nhưng đúng tích tắc cuối cùng nó quắp được hai cẳng chân vào tấm ván và lại đu người lên được. Lúc này nó đã bình tĩnh hơn và bò sang kho thực phẩm.

"Trò này thật chả khó gì," nó lẩm bẩm. "Nhưng dù sao bé Ida vẫn được con búp bê ... của mình..... mình nghĩ thế....... hay để lần khác...... biết đâu đến lúc ấy nó cũng bị hỏng rồi.... Ừ, phải tính xem nên làm thế nào..."

Emil đẩy mạnh cho tấm ván tụt trở lại xưởng mộc. Với nó, mọi thứ cứ là phải đâu và đấy. Nó chạy tới vặn thử cửa kho từ bên trong, nhưng cửa bị khóa.

- Mình biết ngay mà, - nó nói. -Nhưng thể nào họ cũng sắp đến lấy xúc xích, và mình sẽ biết một kẻ đào tẩu thành công.

Emil hểnh mũi hít hít. Mùi trong kho thực phẩm đến là thơm. Nhưng ở bàn tiệc cũng có bao nhiêu món ngon. Emil ngó quanh. Ô đúng rồi, ở đây cứ là tha hồ chén! Dưới trần nhà treo hàng dây nào đùi lợn hun khói, nào bánh tiết cuộn tròn, vì bố đặc biệt thích ăn bánh tiết với thịt lợn và nước sốt kem. Còn ở góc kho đằng kia, bên cạnh chiếc bàn gấp để đầy những bánh pho mát vàng ươm và những vại gốm đựng bơ tươi và chiếc hòm đựng đủ loại bánh mì. Phía sau bàn có cái thùng gỗ đựng đầy thịt lợn muối, còn bên cạnh là chiếc tủ lớn, nơi mẹ chuyên cất nào nước dâu ép, nào dưa chuột muối, nào lê, nào dâu đất. Nhưng ngăn giữa của tủ thì mẹ dành để cất loại xúc xích đặc sản của mẹ.

Emil rất khoái xúc xích, thật đấy!

Lúc này bữa tiệc ở trang trại Katthult đang vào lúc rôm rả nhất, khách khứa đã dùng cà phê và bánh ngọt. Lúc này họ chờ cho bụng ngơi bớt để có thể ăn thịt lợn rán, xa-lát cá, xúc xích và nhiều món khác nữa.

Nhưng chợt mẹ Emil la lên:

- Ồ, chúng ta quên mất Emil! Nó đã bị phát giam suốt từ nãy tới giờ, tội nghiệp thằng bé!

Bố Emil lập tức chạy tới xưởng mộc, có Ida te tái theo sau.

- Giờ con được phép ra rồi, Emil! - Bố vừa gọi vừa mở toang cánh cửa. Đoán xem ông ấy có ngạc nhiên không? Bên trong chẳng có Emil nào cả.

- Nó chuồn qua lối cửa sổ rồi, cái thằng ranh này, - bố nói.

Nhưng khi thò đầu ra và trông thấy bậu cửa sổ những bụi lá han vẫn mọc thẳng đứng mà không bị xéo nát thì ông đâm hoảng.

- Ở đây có cái gì không ổn, - ông nói. Không ai bước vào chỗ này cả, ít nhất cũng không một dấu chân người.

Bé Ida bắt đầu khóc. Anh Emil bị làm sao rồi? Cô Lina thường xuyên hát một bài hát rất buồn. Bài hát kể về một cô bé biến thành chim bồ câu bay lên trời và không còn phải ngồi trong cái thùng đinh gớm ghiếc mà người ta cầm tù nó. Anh Emil chẳng vừa bị giam là gì. Ai biết được liệu anh ấy có biến thành con gì để bay đi không! Bé Ida vội ngó quanh xem có con chim bồ câu nào quanh đó không. Nhưng vật duy nhất mà nó thấy là một con gà mái lông trắng, béo múp, đang luẩn quẩn bới giun trước xưởng mộc.

Con bé òa khóc, chỉ tay vào con gà:

- Hay anh Emil đây, - nó nói.

Bố không tin. Nhưng để cho chắc, bố chạy lại hỏi mẹ xem có bao giờ mẹ nhận thấy ở Emil một biểu hiện biết bay không.

Mẹ bảo không. Thế là trang trại Katthult trộn rộn cả lên. Chuyện ăn uống tạm gác lại sau cũng không sao. Mọi người chạy túa đi tìm Emil.

- Nhất định thằng bé phải ở trong xưởng mộc, - mẹ Emil nói. Thế là mọi người đổ xô tới đó tìm cho kỹ.

Nhưng ở đây chẳng thấy Emil nào cả. Chỉ thấy năm mươi lăm hình nhân nhỏ bằng gỗ xếp hàng ngang trên một cái giá. Bà Petrell chưa từng trông thấy một lúc nhiều hình nhân bằng gỗ như thế, bèn hỏi ai đã đẽo ra chúng.

- Chẳng ai khác ngoài thằng bé Emil nhà chúng tôi, - mẹ Emil đáp và bắt đầu khóc. - Thằng bé mới đáng yêu làm sao!

- Ồ phải, - cô Lina vừa nói vừa vác mặt lên. Đoạn cô nói thêm: - Tốt nhất là hãy tìm kiếm ở kho thực phẩm.

Ý kiến này của cô Lina không đến nỗi ngớ ngẩn. Mọi nguời lại kéo nhau chạy sang kho thực phẩm. Nhưng ở đấy cũng không có Emil nốt!

Bé Ida cứ khóc rấm rứt mãi. Khi chẳng bị ai nhìn, cô bé đến bên con gà mái lông trắng thì thào:

- Đừng bay lên trời, Emil yêu quý nhé! Em sẽ cho anh ăn thóc và cả xô đầy cơm thừa canh cặn, chỉ cần anh ở lại Katthult!

Nhưng con gà mái không muốn hứa hẹn gì cả, nó kêu lên quang quác và bỏ đi.

Khổ thân những người ở trang trại Katthult cứ nhọc công tìm kiếm! Họ sục vào kho củi, kho chứa đồ, chẳng ở đâu có Emil! Rồi trong chuồng ngựa, chuồng bò, chuồng lợn, cả trong chuồng gà nữa - không có Emil! Trong chuồng cừu, trong nhà hun khói, nhà giặt - cũng không có Emil nốt! Cuối cùng họ nhòm xuống giếng. Dưới giếng cũng không thấy Emil, và thế là đáng mừng, nhưng giờ đây tất cả đều bật khóc. Và những người dân làng Lönneberga có mặt dự tiệc hôm nay rỉ tai nhau:

- Thật ra Emil là một thằng bé đáng yêu! Nó đâu phải là thằng bé nghịch như quỷ sứ........mà tôi cũng chưa bao giờ như thế đâu nhé!

- Chắc cu cậu ngã xuống suối mất rồi, - cô Lina nói. Con suối ở Katthult chảy xiết, rất dữ và nguy hiểm, trẻ con bé dễ bị chết đuối ở đây.

- Cháu nó không được phép ra đó, cô biết rõ rồi mà! Mẹ Emil nghiêm khắc nói.

Cô Lina vác ngay mặt lên.

- Thì chính vì thế mà lị! - Cô đáp.

Tất cả xô nhau chạy ra suối. May quá không tìm thấy Emil ở đó. Dầu vậy mọi người vẫn khóc nhiều hơn ban nãy. Thế mà mẹ Emil đã đinh ninh rằng họ sẽ có một bữa tiệc vui vẻ và đầm ấm lắm!

Bây giờ thì chẳng còn chỗ nào để mà tìm nữa.

- Chúng ta biết làm gì bây giờ hả trời! - Mẹ Emil than.

- Dù sao cũng phải đi lấy cái gì ra ăn đã, - bố Emil nói, và ông có lý vì ai nấy đều đói sau một hồi lo lắng và tìm kiếm.

Mẹ Emil lập tức dọn tiệc. Khi bưng món sa-lát cá ra, nước mắt bà rỏ cả vào đấy, nhưng bà vẫn đặt nó lên bàn, bên cạnh các món thịt bê cuộn, thịt lợn rán, bánh ngọt và nhiều món khác.

Bà Petrell liếm môi. Bàn tiệc trông đầy hứa hẹn. Nhưng chưa thấy món xúc xích thì bà còn chưa yên tâm.

Đúng lúc ấy mẹ Emil kêu lên:

- Cô Lina, chúng ta quên món xúc xích! Cô chạy đi lấy mau lên!

Cô Lina chạy liền, tất cả hồi hộp chờ đợi, còn bà Petrell gật gù:

- Ồ phải, xúc xích! Đúng lúc buồn thế này, ăn món ấy sẽ thấy ngon miệng đấy.

Cô Lina quay lại kia rồi. Không thấy xúc xích.

- Tất cả theo tôi, tôi chỉ cho xem cái này! - Cô Lina nói.

Trông cô có vẻ hơi bí hiểm, nhưng cô vẫn thế luôn nên chẳng ai để ý làm gì.

- Giờ cô lại nghĩ ra những trò gì ngu ngốc nữa đây? - Mẹ Emil nghiêm giọng hỏi.

Lina càng tỏ vẻ bí hiểm tợn, cô cười khe khẽ và là lạ.

- Cứ theo tôi, - cô nói. Thế là tất cả những ai đến dự tiệc tại Katthult đều đi theo cô.

Cô Lina le te chạy trước, còn mọi người ngạc nhiên theo chân cô đến kho thực phẩm. Suốt dọc đường cô Lina cứ cười khúc khích một mình, nghe lạ lắm. Cô đẩy cánh cửa kho nặng trịch, bước qua ngưỡng cửa khá cao, rồi dẫn mọi người đến trước cái tủ to, mở cánh cửa tủ khiến nó kêu cót két, và chỉ vào ngăn giữa, nơi mẹ Emil luôn cất xúc xích. Giờ ở đó tịnh chẳng thấy cái xúc xích nào, nhưng thấy Emil.

Thằng bé đang ngủ. Nó nằm giữa cả đống vỏ xúc xích mà ngủ, cái thằng bé đáng yêu nhất trần đời này! Còn mẹ nó thì sướng vui khôn tả, như thể bà vừa phát hiện trong tủ nhà mình cả một mỏ vàng. Có sao đâu, nếu Emil đã tọng hết vào bụng tất cả chỗ xúc xích! Tìm thấy Emil trong tủ lại chẳng ngàn lần tốt hơn là tìm thấy vài cân xúc xích ấy chứ! Cả bố Emil cũng nghĩ thế.

- Hi hi, anh Emil kia rồi! - Bé Ida hoan hỉ. Anh ấy không bị phù phép, hoặc chỉ bị phù phép một tẹo.

Không thể tin nổi việc một thằng bé được tìm thấy sau khi ních căng một bụng xúc xích lại có thể làm nhiều người vui sướng đến thế.

Rốt cuộc ở trang trại Katthult vẫn diễn ra một bữa tiệc vui vẻ và đầm ấm. Mẹ Emil tìm thấy một chiếc xúc xích nhỏ còn sót lại do Emil chịu không ăn nổi nữa. Và bà Petrell mừng rõ đón nhận ngay. Tất cả những ai dù chẳng được ăn xúc xích, cũng không phải bụng đói ra về. Họ tha hồ chén thỏa thích thịt lợn rán, thịt bê cuốn, thịt viên, cá muối, cá nướng, chè thạch và lươn nấu đông. Kết thúc bữa tiệc. Họ còn tráng miệng món bánh ngọt tuyệt vời nhất phủ đầy thạch dâu và kem tươi.

- Bánh này ngon nhất trên đời! - Emil nói. Và nếu bạn từng được nếm một chiếc bánh ngọt như chiếc bánh ở Katthult, hẳn bạn biết Emil đã phát ngôn một câu chí lý.

Trời dần về chiều, hoàng hôn hiền hòa phủ bóng xuống trang trại Katthult, xuống làng Lönneberga và khắp vùng Smăland. Bố Emil hạ cờ xuống, Emil và bé Ida đứng xem bên cạnh.

Rồi tiệc tàn. Tất cả lên đường ai về nhà nấy. Những cỗ xe nối đuôi nhau lăn bánh. Bà Petrell quý phái rời Katthult sau cùng trên cỗ xe ngựa. Emil và bé Ida còn nghe tiếng vó ngựa lộp cộp lắng dần giữa những triền đồi.

- Mong là bà ấy tử tế với con chuột của anh, - Emil nói.

- Chuột nào cơ? - Bé Ida hỏi.

- Con chuột mà anh đút vào xắc tay bà ấy chứ con chuột nào, Emil đáp.

- Sao anh lại làm thế? - Bé Ida hỏi.

- À, tại anh thương con chuột, - Emil đáp. Suốt đời nó chẳng nhìn thấy gì ngoài cái tủ to đựng xúc xích. Anh nghĩ, làm như thế chí ít con chuột cũng một lần được nhìn thấy thị trấn Vimmerby.

- Nếu bà Petrell tử tế với nó, - bé Ida nói.

- Ồ, nhất định là bà ấy tử tế với nó rồi, - Emil nói.

Đó là ngày mồng 10 tháng Sáu, ngày mà Emil treo bé Ida lên đỉnh cột cờ và xơi hết chỗ xúc xích. Có lẽ bạn còn muốn nghe chuyện cuối cùng xảy ra vào ngày mồng 8 tháng Bảy. Ấy là...

==============

Hultsfred

Chú Alfred, đầy tớ trang trại Katthult, rất yêu trẻ con. Đặc biệt là Emil. Emil ngỗ nghịch và ương ngạnh, nhưng chú Alfred chẳng bận tâm. Chú vẫn yêu quý Emil như thường và đẽo cho nó một khẩu súng gỗ đẹp tuyệt vời. Trông y như một khẩu súng thực thụ, mặc dù tất nhiên không thể dùng để bắn rồi.

Vậy mà Emil vẫn vừa bóp cò khẩu súng của nó vừa hét: "Pằng! Pằng!", khiến nhiều ngày trời lũ chim sẻ ở trang trại Katthult không dám thò ra khỏi tổ. Emil yêu khẩu súng của nó đến nỗi ban đêm nó muốn đem súng cả lên giường ngủ.

- Đưa con cái "sún"! - Nó gào lên giọng địa phương đặc sệt và bất bình khi mẹ hiểu sai, tất tả mang "mú" đến cho nó.

- Con không muốn cái "mú", - nó hét lên . - Con muốn cái "sún"!

Thế là nó được toại nguyện.

Phải, Emil yêu khẩu súng, Nhưng nó còn yêu chú Alfred, người đã đẽo khẩu súng cho nó hơn nữa. Vì thế việc Emil khóc khi chú Alfred lên đường đến Hulsfred làm nghĩa vụ quân sự chẳng có gì là lạ.

Hẳn bạn không hiểu người ta làm gì khi thực hiện nghĩa vụ quân sự, nhưng bạn thấy đấy, trước kia người ta vẫn gọi thế khi đi lính. Tất cả đầy tớ trai ở làng Lönneberga và ở đâu cũng vậy thôi, đều phải làm nghĩa vụ quân sự và trở thành người lính.

- Lại nhè đúng lúc nhà ta đang định chở rơm về cơ chứ, - bố Emil phàn nàn.

Bố chẳng muốn mất chú Alfred vào giữa mùa thu hoạch chút nào vì như thế trang trại Katthult sẽ rất bấn người. Nhưng bố có phải là người quyết định bao giờ đám đầy tớ trai trong làng Lönneberga phải đến Hulsfred để làm lính đâu, mà chính là đức vua và đám tướng lĩnh của ngài chứ. Hơn nữa, rồi chú Alfred sẽ lại trở về nhà sau khi được huấn luyện xong - mà cũng chẳng lâu đâu. Thế nên thật ra Emil cần gì phải khóc, nhưng nó vẫn cứ khóc, cả cô Lina nữa. Là vì đâu chỉ có một mình Emil yêu quý chú Alfred.

Chú Alfred không khóc. Chú bảo: ở Hulsfred người ra có thể sống cuộc đời vui nhộn và nói chung là rất sướng. Khi chiếc xe chở chú Alfred rời bánh và mọi người buồn bã đứng vẫy tay tiễn biệt, thì chú nhỏm phắt dậy vừa hát vừa reo lên hoan hỉ để mọi người hết lo lắng.

Bài hát mà chú hát như sau:

Nơi thành phố Eksjö lễ hội sớm trưa

Thiên hạ vui cười nhảy múa say sưa,

Cứ xem các cô nàng Hulsfred đong đưa,

Thế nào một cô cũng bị tớ cưa.

Halli halllo, tớ sướng chưa,

Halli halllo, tớ sướng chưa!

Rồi không ai còn nghe được tiếng hát của chú Alfred nữa, vì cô Lina bắt đầu khóc tu tu, khóc to hết cỡ. Lát sau chiếc xe chở chú Alfred khuất sau lối rẽ.

Mẹ Emil tìm cách an ủi cô Lina:

- Thôi đừng buồn thế, Lina! Cô chịu khó đợi đến ngày mồng 8 tháng Bảy có lễ hội ở Hultsfred, rồi chúng ta sẽ tới đó thăm Alfred.

- Con cũng muốn tới Hultsfred để sống một cuộc đời vui nhộn và thăm chú Alfred,

- Emil tuyên bố. - Con nữa! - Bé Ida nói.

Nhưng mẹ lắc đầu.

- Những lễ hội như thế không phải dành cho trẻ con bé. Trẻ con đến đấy chỉ tổ bị lạc đường giữa đám đông chen chúc mà thôi.

- Con thấy bị lạc giữa đám đông mới vui, - Emil nói. Nhưng chẳng ăn thua gì.

Ngày mồng 8 tháng Bảy bố mẹ cùng cô Lina đi Hultsfred dự lễ hội từ sáng sớm, để Emil và bé Ida ở nhà cho bà Krösa-Maja trông coi. Krösa-Maja là một bà lão nhỏ bé thỉnh thoảng vẫn đến Katthult giúp dăm ba việc lặt vặt.

Bé Ida là một đứa trẻ ngoan ngoãn. Cô bé lập tức ngồi vào lòng bà Krösa-Maja và xin bà kể cho mình nghe một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất của bà. Thế thôi đã đủ khiến Ida mãn nguyện và hạnh phúc.

Nhưng Emil thì khác. Tay lăm lăm khẩu súng gỗ, nó đi ra chuồng ngựa, bước chân giận dữ đến mức gót giầy kêu lên ken két.

- Mình đừng hòng cam chịu, - Emil nói. Mình muốn đến Hultsfred sống cuộc đời vui nhộn y như những kẻ khác, mình đã quyết rồi đấy. Mày có hiểu không hả, Julla?

Câu hỏi cuối cùng nó dành cho con ngựa cái già đang gặm cỏ trên bãi cỏ phía sau chuồng. Ở trang trại Katthult còn có một chú ngựa non tên là Markus. Nhưng Markus đang trên đường chở bố mẹ và cô Lina đi Hultsfred. Thế đấy, những người khác thì được phép đi chơi xa và vui vẻ.

- Nhưng tao biết có hai kẻ sẽ đuổi kịp họ, khiến họ ù cả tai lên, - Emil nói. Đó là mày và tao đấy, Julla ơi!

Đã nói là làm. Emil đóng dây cương vào con ngựa cái già Julla và dắt nó rời bãi cỏ.

- Mày không việc gì phải sợ,- nó bảo Julla. - Chú Alfred sẽ rất mừng khi tao đến, và chắc chắn mày sẽ tìm được bà ngựa già đáng mến khác để cùng ngồi buôn chuyện, nếu mày cũng muốn nếm mùi cuộc đời vui nhộn tý chút.

Emil lùa con ngựa đến bên cổng trang trại, vì nó cần có bước đệm để leo lên ngựa. Cái thằng nhóc này đúng là tinh ranh thật!

- Nào, lên đường! - Nó nói, - Halli hallo, tớ sướng chưa! Chúng ta sẽ chào tạm biệt bà Krösa-Maja khi trở về.

Thế là con Julla đi nước kiệu xuôi theo những triền đồi, còn Emil ngồi ngay ngắn và can trường trên lưng ngựa với khẩu súng trước ngực. Đúng, phải mang khẩu súng theo, nếu bây giờ chú Alfred là lính thì Emil cũng muốn như chú. Chú Alfred có súng của chú, thì Emil có súng của nó, hai khẩu gần như là một, cả hai chú cháu đều là lính, phải thế chứ, Emil nghĩ.

Con Julla đã già, không thể đi nhanh. Để con ngựa không bị mất hứng, Emil bèn hát cho nó nghe.

Con ngựa của tớ chẳng phi như gió,

Rệu rã rồi, chân cẳng nó.

Có hề chi?

Cõng tớ, nó vẫn đàng hoàng phi,

tuy nước kiệu hơi chậm tí ti -

trên những con đường phẳng lỳ.

Dù con Julla hết đi nước kiệu lại giậm chân tại chỗ hoặc lê từng bước mệt mỏi, thì cuối cùng cả hai đứa, nó và Emil, cũng vẫn đến được Hultsfred.

- Ha! - Emil reo. - Cuộc đời vui nhộn bắt đầu!

Nhưng thằng bé bỗng im tịt và trố mắt lên. Cố nhiên nó biết trên thế giới có rất nhiều người, nhưng nó ngờ đâu tất cả số người ấy lại đổ dồn về đông nghìn nghịt trên bãi cỏ rộng dành cho lễ hội Hultsfred. Chưa bao giờ Emil nhìn thấy người đông đến thế, hàng ngàn người đang xúm xít xung quanh bãi cỏ, trên khoảng trống ở giữa là các chú lính đang bồng súng trên vai, rồi tập quay phải, quay trái, đủ thứ như lính vẫn quen làm. Một ông già béo, lùn, vẻ mặt dữ tợn, cứ cưỡi ngựa chạy vòng quanh và hò hét bắt các chú lình làm thế này, làm thế nọ. Vậy mà các chú lính cũng chịu, nhất nhất làm theo ý ông ta. Emil thấy kỳ cục.

- Chú Alfred không phải là người ra lệnh ở đây hay sao? - Nó hỏi mấy thằng bé nông dân đứng cạnh đó. Nhưng lũ này còn mải xem các chú lính nên không trả lời nó.

Emil khá thích thú xem cảnh các chú lính bồng súng trên vai, nhưng không được lâu. Chỉ một lát sau nó đã nghĩ phải gặp chú Alfred, vì xét cho cùng nó đến đây là để thăm chú ấy. Nhưng tất cả các chú lính đều mặc quân phục màu tím than và giống như như đúc. Tìm ra chú Alfred giữa cái đám này đây có dễ.

- Ô hô, hay chờ tới lúc chú Alfred trông thấy tao.- Emil bảo con Julla. - Rồi chú ấy sẽ chạy ù đến với tao, còn lão già độc ác kia nếu thích thì đi mà múa may với khẩu súng.

Và để chú Alfred có thể nhìn thấy mình. Emil cưỡi ngựa đi qua tất cả các chú lính, miệng hét to hết cỡ:

- Chú Alfred, chú ở đâu?Lại đây chú ôi, rồi chúng ta sẽ sống một cuộc đời vui nhộn! Chú không thấy cháu hay sao, chú Alfred ơi?

Có chứ, tất nhiên chú Alfred có trông thấy Emil đến. Emil với "mú" và "sún" của nó trên lưng con ngựa cái già Julla. Nhưng chú Alfred đang đứng giữa đám lính và không dám đi ra vì sợ lão béo già lùn độc ác suốt nãy giờ cứ hò hét và ra lệnh kia.

Thay vì chú Alfred, lão già béo lùn độc ác cưỡi ngựa đến bên Emil và hỏi một câu ân cần:

- Chuyện gì xảy ra vậy, cậu bé của ta? Cháu bị lạc bố mẹ sao?

Đây là câu hỏi ngu ngốc nhất mà đã từ lâu lắm Emil mới nghe thấy.

- Cháu đâu có bị lạc, cháu đang ở đây cơ mà! - Nó đáp. - Nếu có người đang bị lạc thì đó là bố mẹ cháu.

Mà nó nói chí phải. Trẻ con bé có thể bị lạc nơi lễ hội rộng lớn ở Hultsfred, mẹ đã bảo thế. Vậy mà sự thực giờ đây chính bố cùng mẹ và cô Lina đang kẹt cứng giữa đám đông và cả ba đều cảm thấy tuyệt vọng chẳng khác gì trẻ lạc, vì không ai trong số họ nhúc nhích nổi một bước.

Nhưng Emil thì họ có trông thấy, thật thế! Họ nhìn thấy họ đến trên lưng con ngựa cái già với đầy đủ "mú" và "sún". Bố Emil nói:

- Bây giờ phải lôi được thằng Emil về, bắt ngồi đẽo một hình nhân mới.

- Được rồi, - mẹ bảo. - Nhưng làm sao túm được nó đây?

Phải, vấn đề là thế! Nếu bạn đã từng dự lễ hội ở Hultsfred, bạn sẽ hiểu ở đó đông đúc và nhộn nhạo tới mức nào.

Đám lính vừa tập tành xong và rầm rập đi khỏi, lập tức cả sân bãi rộng mênh mông này tràn ngập người là người. Khi ấy ta có cảm giác dường như không thể tìm ra chính bản thân mình nữa, huống hồ tìm ra Emil.

Không riêng bố mẹ Emil tìm nó, mà cả chú Alfred cũng tìm nó. Vì lúc này chú đã được tự do, không phải tập tành gì nữa. Lúc này chú muốn vui chơi cùng Emil. Nhưng đơn giản là không thể tìm ra ai giữa cái đám đông lễ hội này. Hầu như tất cả những người có mặt tại đây đều đang nháo nhác chạy quanh tìm kiếm ai đó. Chú Alfred tìm Emil còn Emil tìm chú Alfred, mẹ tìm Emil, cô Lina tìm chú Alfred, còn bố tìm mẹ.

Phải, mẹ đã bị lạc khác lâu. Sau hai tiếng đồng hồ chạy đôn chạy đáo, rốt cuộc bố mới tìm thấy mẹ đang vô cùng tuyệt vọng và kẹt cứng giữa hai người đàn ông cao lớn kềnh càng đến từ thị trấn Vimmerby.

Nhưng Emil chẳng tìm thấy ai, cũng không ai tìm thấy nó. Vậy là Emil hiểu nó đành phải một mình bắt đầu cuộc đời vui nhộn vậy, nếu muốn vớt vát được tí chút.

Thế nhưng trước khi có thể bắt đầu, Emil còn phải lo tìm cho Julla một con ngựa già nào đó để cùng buôn chuyện đã, nó trót hứa thế rồi.

Emil chẳng kiếm đâu ra một bà bạn già cho Julla. Nhưng nó tìm được con Markus, như thế càng hay. Bị buộc vào thân cây, con Markus đang đứng nhai rơm bên rìa rừng phía sau. Sát cạnh nó là cỗ xe ngựa của trang trại Katthult mà Emil quá quen thuộc. Con Julla mừng ra mặt khi trông thấy con Markus. Emil bèn buộc nó vào cùng thân cây với con Merkus và lấy từ trên xe xuống một ôm cỏ khô. Thời đó người ta luôn chở cỏ khô theo cho ngựa. Ngay lập tức con Jullia bắt đầu ăn và Emil cảm thấy mình cũng đã đói bụng.

- Mặc dù thật ra mình không ăn cỏ khô, - Emil nói.

Mà cũng tội gì phải ăn. Ở lễ hội đầy rẫy những gian hàng nhỏ, nơi người ta có thể mua bánh mì bơ, xúc xích, bánh mì con và bánh ngọt bao nhiêu tùy thích, miễn là có tiền.

Còn với kẻ nào muốn sống cuộc đời vui nhộn thì ở đây cũng có cơ man trò chơi giải trí: một rạp xiếc này, một sàn nhảy này, và một sân chơi đu quay và nhiều thú vui khác..... Bạn thử hình dung xem, ở đây thậm chí còn có cả một nghệ sĩ nuốt kiếm, rồi một nghệ sĩ nuốt lửa - ông ta nuốt được lửa, rồi lại một quý cô xinh đẹp lộng lẫy có râu quai nón - nhưng cô này không nuốt được gì khác ngoài cà phê và bánh mì sau mỗi giờ đồng hồ. Tất nhiên cô ta không thể làm giàu nổi với cái tài mọn đó, nhưng may mà còn có bộ râu. Cô ta phô bộ râu để thu tiền, và cũng kiếm được kha khá.

Ở lễ hội Hultsfred cái gì cũng phải trả tiền. Mà Emil lại chẳng có tiền. Thế nhưng nó lại là một thằng nhóc tinh ranh, như tôi đã nói. Emil muốn xem được càng nhiều càng tốt và nó bắt đầu từ rạp xiếc, vì việc đó dễ nhất. Nó chỉ cần trèo lên một cái hòm đằng sau rạp, rồi ngó qua một lỗ thủng trên lều rạp.

Thế nhưng tiết mục của chú hề đang nhảy nhót và chọc cười trên sàn diễn khiến Emil cười khiếp quá, đến mức nó ngã huỵch khỏi cái hòm, đầu va vào một hòn đá. Thế là nó nhổ toẹt vào rạp xiếc. Hơn nữa nó thấy đói bụng, bụng còn cồn cào hơn cả ban nãy.

- Một cuộc đời vui nhộn mà không có gì ăn thì cũng vứt đi, - Emil nói. - Mà không có tiền thì lấy gì ăn. Vậy mình phải nghĩ cách thôi.

Nó đã thấy người ta có rất nhiều cách kiếm tiền ở lễ hội, vậy cũng phải có cách nào cho nó chứ. Lửa và kiếm thì nó chịu không nuốt được rồi, râu nó cũng chẳng có - nó nên làm gì đây?

Emil cứ đứng đực ra mà nghĩ ngợi. Rồi nó thấy một ông già mù nghèo khổ ngồi trên một cái hòm ngay giữa đám đông. Ông già ca những bài ca u buồn nhất, nghe rất thê lương, thế mà ông lại được thưởng tiền. Ông đặt dưới đất, ngay bên cạnh chân mình, một cái mũ và những người thân thiện đi ngang cứ bỏ xu vào đấy suốt.

Mình cũng làm được tốt, Emil nghĩ, may quá mình có mang "mú" theo. Nó bèn đặt cái mũ xuống đất, ngay trước mặt, sửa tư thế đứng và bắt đầu hát cho những ai muốn nghe:

Con ngựa của tớ chẳng phi như gió....

Thoáng cái, một đám đông đã bu kín quanh nó.

- Ồ, một chú bé mới dễ thương làm sao! - Họ nói. - Chắc nó phải nghèo lắm mới ra đây đứng hát kiếm tiền.

Thời đó có nhiều trẻ em nghèo chẳng có gì ăn. Lúc này một quý bà thân thiện tiến đến gần Emil và hỏi:

- Anh bạn nhỏ của tôi, hôm nay cháu đã có gì ăn chưa?

- Thưa có, nhưng chỉ là cỏ khô thôi ạ, - Emil đáp.

Câu trả lời khiến ai nấy đều thương xót. Một bác nông dân thấp bé tốt bụng đến từ làng Vena ứa nước mắt. Bác ta khóc vì thương đứa trẻ nghèo rất đỗi cô đơn đang đứng đó với mái tóc bồng bềnh mới đẹp làm sao.

Tất cả bèn đua nhau bỏ vào "mú" của Emil những đồng hai xu, năm xu và mười xu. Bác nông dân thấp bé tốt bụng đến từ làng Vena lục tìm trong hầu bao đồng hai xu, nhưng rồi bác ta kịp nghĩ lại trước khi quá muộn và đút tọt đồng tiền trở lại túi mình. Bác ta thì thào bảo Emil:

- Nếu chú mày đi cùng với ta đến chỗ ta để xe, chú mày có thể lấy thêm ít cỏ khô!

Nhưng bây giờ Emil đã giàu với một cái mũ đầy tiền. Nó chỉ muốn bỏ đi và mua cho mình thật nhiều bánh mì bơ, bánh mì con, bánh ngọt và nước quả.

Sau khi đã ních tất cả vào bụng, Emil bỏ ra bốn đồng và hai mươi xu để đi bốn mươi hai vòng đu quay. Trước đây nó chưa từng được đi đu quay nên không hề biết trên thế gian lại có trò vui nhộn như thế.

Rõ ràng mình đang sống một cuộc đời vui nhộn, Emil nghĩ khi ngồi quay tròn trên đu quay, khiến mái tóc bồng bềnh của nó tung bay. Từ bé mình đã biết nhiều trò vui nhưng trò này thì chưa.

Rồi nó đi xem nghệ sĩ nuốt kiếm, nghệ sĩ nuốt lửa và quý cô có râu quai nón. Thưởng thức xong những trò đó nó chỉ còn thừa lại hai xu.

Mình có thể hát thêm một bài hát nữa và lại làm đầy "mú" của mình, Emil nghĩ. Ở đây ai ai cũng thân thiện thế cơ mà.

Nhưng rồi nó cảm thấy buồn ngủ. Nó không muốn hát nữa, cũng không muốn có tiền nữa. Thế là nó đem đồng hai xu cho ông lão mù. Sau đó nó chạy loăng quăng một chút và tìm chú Alfred.

Nếu Emil nghĩ rằng ai ai cũng thân thiện thì nó đã nhầm. Thế nào hôm ấy chẳng có kẻ này hay kẻ khác xấu xa độc ác cũng mò đến Hultsfred dự lễ hội. Thời đó trong vùng có một tên trộm khét tiếng đang tác oai tác quái. Hắn được gọi là Quạ Đen. Khắp vùng Smăland đều sợ hắn. Người ta có thể đọc trên tờ "Nhật báo Smăland " và trên tờ "Bưu điện Hultsfred" về những vụ trộm cướp mà hắn gây ra. Bất kỳ ở đâu có hội hè, họp chợ hoặc cứ ở đâu có người và tiền tụ hội, là thế nào Quạ Đen cũng xuất hiện và trộm cắp những gì hắn có thể khoắng được. Để không ai nhận dạng được mình, mỗi lần hắn lại gắn một bộ râu và bộ ria khác. Lúc này hắn đã mò đến lễ hội Hultsfred và với chiếc mũ mềm rộng vành đen sì cùng bộ ria giả cũng màu đen, hắn đang len lỏi quanh đó để xem xem có gì thó được không. Không ai biết kẻ phất phơ lượn lờ kia chính là Quạ Đen, nếu biết thì hẳn tất cả đã sợ phát khiếp.

Nhưng giá mà Quạ Đen thông mình thì hắn đã không mò tới lễ hội Hultsfred vào đúng cái ngày mà Emil từ làng Lönneberga cũng có mặt ở đó với khẩu súng gỗ của nó.

Lúc này Emil lặng lẽ đi loanh quanh tìm chú Alfred. Nó đi ngang qua căn lều của quý cô có bộ râu quai nón và tình cờ nhìn qua cửa lều thấy cô ta đang ngồi đếm tiền. Hẳn cô ta muốn biết trong cái ngày Chủ nhật may mắn duy nhất ở Hultsfred này mình đã kiếm được bao nhiêu tiền nhờ bộ râu. Chắc số tiền không ít, vì cô ta cười tủm tỉm, hài lòng vuốt râu. Sau đó cô ta phát hiện ra Emil.

- Cứ vào trong này đi, cậu bé, - cô ta gọi. - Cậu cứ việc vào ngắm bộ râu của ta hoàn toàn miễn phí. Vì trông cậu rất dễ thương.

Thật ra Emil ngắm bộ râu rồi, nhưng đã được mời thì tội gì nó từ chối. Mà bởi lần này được miễn phí hoàn toàn, nên nó bước vào trong lều - với đủ cả mũ lẫn súng - định bụng sẽ ngắm quý cô có râu một cách hào phóng, với quãng thời gian mà lẽ ra nó phải chi hai mươi lăm xu.

- Làm thế nào mà cô nuôi được bộ râu đẹp thế ạ? - Nó lịch sự hỏi.

Nhưng quý cô có râu chưa kịp trả lời thì một giọng ghê sợ rít lên:

- Đưa ngay tiền ra đây, nếu không ta sẽ vặt trụi bộ râu của ngươi!

Đó là Quạ Đen, hắn đã lẻn vào lều lúc nào không ai hay biết.

Quý cô có râu tái mét cả mặt mũi - cố nhiên trừ chỗ râu mọc. Người phụ nữ đáng thương đang định trao hết số tiền cho Quạ Đen thì Emil thì thào bảo:

- Cầm lấy súng của cháu này!

Quý cô có râu cầm lấy khẩu súng gỗ mà Emil thận trọng dúi cho. Trong lều khá tối nên không thể nhìn rõ vật gì. Quý cô có râu đinh ninh là khẩu súng thật và có thể bắn được. Nhưng hay hơn tất cả là chính Quạ Đen cũng tưởng như vậy:

- Giơ tay lên không ta bắn! - Quý cô có râu thét.

Bây giờ tới lượt Quạ Đen tái mét mặt, hắn giơ tay lên quá đầu, người run lẩy bẩy, trong khi quý cô có râu la toáng lên gọi cảnh sát, đến nỗi khắp khu vực lễ hội đều nghe thấy.

Cảnh sát đến, và kể từ đó người ta không bao giờ còn nhìn thấy Quạ Đen nữa, dù ở Hultsfred hay bất kỳ đâu, và nạn trộm cắp ở Smăland cũng chấm dứt. Phải, phải, chuyện là thế đấy. Quý cô có râu quai nón trở nên tiếng tăm lừng lẫy, vì đã bắt được Quạ Đen. Nhưng chẳng ai viết một dòng về Emil và khẩu súng gỗ của nó. Vì vậy tôi cho rằng đã đến lúc phải có ai đó kể lại diễn biến thực sự của câu chuyện.

- May quá cháu đã đem theo cả "mú" và "sún" đến Hultsfred. - Emil nói khi cảnh sát giải Quạ Đen đi để bỏ tù hắn.

- Phải, cháu là một cậu bé ngoan, - quý cô có bộ râu quai nón nói. - Vì vậy cháu được phép ngắm bộ râu của ta hoàn toàn miễn phí, bất kể lúc nào cháu muốn.

Nhưng Emil đã thấm mệt. Nó chẳng thiết ngắm bộ râu nào nữa, cũng chẳng thiết sống cuộc đời vui nhộn hay bất cứ thứ gì khác nữa. Nó chỉ muốn ngủ. Vì lúc này bóng tối đã phủ xuống khắp khu vực lễ hội ở Hultsfred. Một ngày dài đã trôi qua, vậy mà Emil vẫn chẳng tìm thấy chú Alfred! Bố mẹ và cô Lina cũng mệt rồi. Họ đã tìm kiếm Emil khắp nơi khắp chốn, bây giờ chẳng ai còn hơi sức đâu mà tìm tiếp

- Ôi, chân tôi ê ẩm này, - mẹ than vãn, còn bố cau có gật đầu.

- Phải, những lễ hội kiểu này vui gớm, - bố nói. - Nào ta quay về Katthult thôi. Chẳng còn cách nào khác đâu.

Thế là họ lê bước đi đến bìa rừng để thắng ngựa và xe lên đường. Rồi họ trông thấy con Julla bị buộc vào cùng một thân cây với con Markus và đang nhai rơm.

Mẹ Emil òa lên khóc.

- Ôi trời, Emil bé bỏng của tôi đâu rồi? - Mẹ nói. Nhưng cô Lina vác mặt lên.

- Nó thì có bao giờ là không gây rắc rối đâu, cái thằng ngỗ nghịch ấy. Nó đúng là đồ quỷ sứ, - cô nói.

Vừa lúc họ nghe tiếng ai đang chạy lại, người đó thở không ra hơi. Đó là chú Alfred.

- Emil đâu? Tôi tìm nó suốt cả ngày.

- Nó ở đâu tôi không cần biết, - cô Lina nói, rồi ngúng ngẩy bỏ lên xe để đi về nhà. Và bạn hãy tưởng tượng xem, cô giẫm luôn phải Emil! Trên xe vẫn còn lại ít cỏ khô. Emil nằm trên đống cỏ khô ấy, ngủ khì Nhưng nó thức giấc khi bị cô Lina giẫm phải, và trông thấy một người mặc quân phục màu xanh lơ đang thở hổn hển đứng ngay cạnh xe. Nó bèn giơ một cánh tay quàng lên cổ chú Alfred.

- Chú đây rồi, chú Alfred! - Nó nói và lại ngủ thiếp đi.

Thế là cả nhà lên đường đi về Katthult. Con Markus phải kéo xem, còn con Julla - được buộc vào xe - tấp tểnh chạy theo sau. Thi thoảng Emil tỉnh giấc giữa chừng, trông thấy cánh rừng thẫm đen và bầu trời đêm mùa hạ trong trẻo. Nó ngửi thấy mùi cỏ khô, mùi ngựa, mùi đêm tối, nghe tiếng vó ngựa cộp cộp và tiếng bánh xe cót két. Còn nói chung nó ngủ suốt quãng đường và mơ thấy chú Alfred sắp được giải ngũ về nhà. Về Katthult với Emil. Và cũng đúng là chú sẽ về thật.

Đó là ngày mồng 8 tháng Bảy, ngày mà Emil sống cuộc đời vui vẻ ở lễ hội tại Katthult. Bạn nghĩ sao, liệu hôm ấy có còn ai nữa cũng tìm Emil không? Bạn hãy hỏi bà lão Krösa-Maja ấy! Đừng, tốt hơn bạn đừng hỏi, kẻo bà Krösa-Maja lại tức giận đến đỏ ửng cả hai cánh tay lên, đến cả ngày cũng chưa hết đỏ cho mà xem.

Giờ thì bạn đã nghe Emil làm những gì trong các ngày mồng 7 tháng Ba, 22 tháng Năm, mồng 10 tháng Sáu và mồng 8 tháng Bảy, nhưng còn nhiều ngày khác trong lịch của một đứa muốn bày trò nghịch ngợm như Emil. Gần như hàng ngày, trong suốt cả năm, thằng bé lúc nào cũng gây chuyện, nhưng đặc biệt là vào các ngày 19 tháng Tám, 11 tháng Mười và mồng 3 tháng Mười Một.

Hô hô hô, tôi không thể nín cười khi nghĩ đến chuyện Emil đã làm trong ngày mồng 3 tháng Mười một.

Nhưng tôi chẳng kể ra đâu, tôi đã hứa với mẹ của Emil rồi. Mặc dù sau đó dân làng Lönneberga đã phải tổ chức một cuộc họp nội bộ. Họ thấy thương cho vợ chồng nhà Svensson ở trang trại Katthult có thằng con ngỗ nghịch. Vì vậy họ họp lại và mỗi người đóng góp năm mươi xu. Sau đó bỏ chỗ tiền vào một cái túi vải nhỏ và cùng tìm gặp mẹ Emil.

- Có lẽ số tiền này đủ để anh chị gửi cháu Emil sang Mỹ, - họ nói.

Phải, nếu chuyện đó xảy ra nhỉ! Gửi Emil sang Mỹ....

Nếu chuyện đó xảy ra, có trời biết rồi họ sẽ lấy ai làm chủ tịch hội đồng xã cho họ đây? Là tôi muốn nói về sau này, khi Emil đã thành đạt ấy.

May mà mẹ Emil không nghe theo những đề nghị ngu xuẩn kiểu đó. Bà nổi giận, quăng luôn túi tiền đi, khiến những đồng tiên xu bay vung vãi khắp làng Lönneberga.

- Emil là một thằng bé dễ thương, - bà nói. - Và chúng tôi yêu nó như nó vốn thế!

Mặc dù vậy chắc bà vẫn lo lắng cho Emil. Các bà mẹ bao giờ cũng thế, nếu người khác phàn nàn về con mình.

Tối đến, khi Emil nằm trên giường với "mú" và "sún" của nó, mẹ bèn vào ngồi với nó một lát.

- Emil, - mẹ nói. - Con sắp lớn và sắp đi học. Sẽ ra sao đây, nếu con cứ là một cậu bé nghịch ngợm và quậy phá như thế này?

Emil nằm trên giường và trông chẳng khác gì một thiên thần nhỏ với đôi mắt xanh tròn và mái tóc bồng bềnh sáng màu.

- Halli hallo, tớ sướng chưa, - nó hát, vì nó chúa ghét nghe những chuyện đại loại như thế.

- Emil, - mẹ nghiêm giọng nói. - Con nghĩ thế nào, sẽ ra sao khi bắt đầu khai giảng?

- Thôi được, - Emil cười. - Thì con sẽ thôi quậy, con nghĩ thế...... nếu con đi học.

Mẹ nó thở dài.

- Phải, bố mẹ mong là như vậy, - mẹ nói và đi ra cửa.

=============

Emil phải đẽo nhiều hình nhân nữa

Bạn đã từng nghe gì về Emil ở làng Lönneberga chưa? Cái thằng bé sống trong trang trại Katthult ở làng Lönneberga thuộc vùng Smăland ấy? Chưa ư? Ai chứ dân làng Lönneberga - tôi cam đoan với bạn thế - thì không ai không biết cái thằng bé kinh khủng ở trang trại Katthult, cái thằng bé Emil từng gây chuyện nhiều hơn cơm bữa, đã khiến dân làng Lönneberga khiếp sợ đến nỗi chỉ muốn gửi nó sang Mỹ. Phải, phải, có thể thật, dân làng Lönneberga đã quyên một túi đầy tiền, rồi đem đến gặp mẹ Emil và bảo:

- Có lẽ số tiền này đủ để anh chị gửi cháu Emil sang Mỹ.

Họ tin rằng làng Lönneberga sẽ yên tĩnh hơn nhiều nếu Emil không còn sống ở đó, và cố nhiên họ có lý. Nhưng mẹ Emil đã nổi giận đùng đùng, quăng ngay túi tiền ra cửa sổ, khiến những đồng tiền bay vung vãi khắp làng.

- Emil là một thằng bé dễ thương, - bà nói. - Chúng tôi yêu nó như nó vốn thế.

Còn Lina, cô hầu gái của trang trại Katthult thì bảo:

- Thì chúng ta cũng phải nghĩ cho người Mỹ một tý chứ. Họ có làm điều gì xấu với chúng ta đâu. Hà cớ gì chúng ta lại đem thằng bé Emil quàng vào cổ họ?

Mẹ Emil nghiêm khắc lừ mắt với Lina, khiến cô nhận ra mình vừa nói điều gì ngu ngốc. Cô bắt đầu lắp bắp, định sửa sai:

- Vâng thưa bà, chả là trên tờ "Thời bào Vimmerby" có đăng tin về trận động đất khủng kiếp bên Mỹ.... Ý cháu là....... bên ấy có quá nhiều tai họa, nếu như bây giờ lại thêm thằng Emil.....

- Im đi, Lina! - Mẹ Emil nói. - Cô xuống chuồng bò mà vắt sữa đi, đấy mới là việc của cô.

Thế là Lina xách xô sữa chạy xuống chuồng bò. Cô ngồi xuống, vắt lấy vắt để khiến sữa văng tung tóe. Cô Lina luôn làm việc tốt nhất mỗi khi cô hơi nổi giận. Vì thế nên lúc này cô vắt sữa hăng hơn bình thường, miệng làu nhàu:

- Thì cũng phải công bằng một tí chứ! Sao lại bắt người Mỹ phải gánh chịu mọi khổ ải. Nhưng nếu được, mình sẵn sàng đánh đổi với họ, mình nghĩ.......mình nghĩ mình sẽ viết cho họ thế này: "Đấy, phần các ngươi thằng bé Emil! Mau gởi động đất sang đây cho tôi!"

Chỗ này thì cô Lina hơi quá lời. Cô rõ khéo tự phong cho mình là người viết thư sang Mỹ, chính cô, người mà đến viết chữ nước mình cho ngay dân ta ở Smăland đọc còn chẳng viết nổi.

Không, nếu có ai đó viết thư sang Mỹ thì đó chỉ có thể là mẹ của Emil. Bà rất chăm viết. Bà ghi chép tất cả những trò nghich của Emil vào một cuốn vở màu xanh cất trong ngăn kéo.

- Mình làm thế để làm gì? - Bố Emil hỏi. - Tự nhiên lại ghi chép tất cả những trò khỉ của thằng nhóc gây ra! Chỉ tổ tốn giấy tốn mực. Mình có nghĩ tới điều đó không?

Mẹ Emil chẳng buồn bận tâm điều đó. Bà cứ miệt mài ghi lại tất cả. Rồi đến một ngày, khi Emil lớn, thằng bé sẽ biết được những việc nó đã làm hồi nhỏ. Chí phải, rồi ra nó sẽ hiểu vì sao tóc mẹ nó bạc, và biết đâu nó vẫn yêu mẹ bất chấp mái tóc đã bạc màu vì nó.

Giờ bạn không được hiểu rằng Emil là một đứa trẻ vô giáo dục. Ồ không, mẹ nó đã rất có lý khi nói rằng Emil là một thằng bé dễ thương và trông chẳng khác gì một thiên thần với đôi mắt xanh ngoan đạo vào mái tóc sáng màu bồng bềnh. Chắc chắn là Emil ngoan và mẹ nó đã công bằng, mẹ nó cũng đã viết điều này một cách đầy tin tưởng vào cuốn vở màu xanh.

"Hôm qua Emil ngoan," - ngày 27 tháng Bảy bà viết vào cuốn vở. "Cả ngày thằng bé không gây ra chuyện gì. Có lẽ vì nó đang sốt cao và đơn giản là không còn sức để nghịch ngợm."

Nhưng chỉ sang ngày 28 tháng Bảy, cơn sốt của Emil đã lui tới mức các trò nghịch ngợm của nó chiếm liền tù tì nhiều trang trong cuốn vở. Vì thằng bé khỏe như một chú bò mộng nhỏ, và nếu không ốm thì nó dư sức bày trò tai quái.

- Chưa từng thấy một thằng oắt nào như nó! - Cô Lina nói.

Có lẽ bạn nhận thấy cô Lina không mấy hài lòng với Emil. Cô yêu quý bé Ida, em gái của Emil, một cô bé ngoan ngoãn và biết vâng lời hơn nhiều. Nhưng chú Alfred, đầy tớ trai của trang trại Katthult, lại ưng Emil- chẳng biết tại sao. Còn Emil rất yêu quý chú Alfred. Hai chú cháu cùng chơi đùa với nhau mỗi khi chú Alfred xong việc. Emil học được ở chú mọi điều có ích, ví như cách buộc đai ngựa, cách câu cá măng và nhai thuốc lá. Vâng, điều sau cùng chắc không đặc biệt có ích, và Emil cũng chỉ thử có mỗi một lần, nhưng nó vẫn thử, vì nó muốn làm được tất cả những gì chú Alfred làm được và bắt chước chú trong mọi việc. Chú Alfred đã đẽo cho nó một khẩu súng gỗ - chú thật tốt, phải không? Đối với Emil, khẩu súng gỗ này là báu vật quý giá nhất. Báu vật quý thứ nhì là cái mũ lưỡi trai xấu xí mà bố đã mua cho Emil trong lần ông vào thành phố và không biết rõ mình đang làm gì.

- Con thích cái "sún" và cái "mú" của con, - Emil luôn nói như vậy với giọng địa phương đặc sệt của người vùng Smăland. Không có tối nào mà nó không tha cả súng và mũ lên giường ngủ.

Bạn còn nhớ những ai sống ở trang trại Katthult chứ? Bố của Emil tên là Anton, rồi mẹ của Emil tên là Alma, em gái của Emil tên là Ida, chú đầy tớ tên là Alfred, cô hầu gái tên là Lina, và cả Emil tên là Emil nữa.

Và đương nhiên chúng ta không được phép quên Krösa-Maja. Đó là một bà lão gầy gò sống ở một túp lều trong rừng. Thi thoảng bà đến trang trại Katthult để giúp những việc lặt vặt như giặt giũ, nhồi xúc xích, hoặc để hù dọa Emil và bé Ida với những câu chuyện rùng rợn của bà, những câu chuyện về thần linh, ma quỷ, về lũ sát nhân, trộm cắp và những thứ hay ho đại loại mà bà biết rõ.

Nhưng có lẽ bây giờ bạn muốn nghe một chút về những trò nghịch ngợm của Emil? Trừ những hôm thằng bé bị sốt, còn ngày nào nó chẳng quậy phá. Chúng ta có thể từ tốn nhặt ra một ngày bất kỳ trong cái mớ hỗn độn đầy những trò quỷ của Emil, và thử xem xem nó đã làm gì nhé.

==========

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro