Trần Hưng Đạo

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trần Hưng Đạo (1232?[1] - 1300) là danh tướng thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, là người có công lớn trong ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông. Đồng thời ông còn là một nhà nghiên cứu quân sự với các bộ binh pháp Binh thư yếu lượcVạn Kiếp bí truyền. Ông còn được người dân Việt tôn sùng như bậc thánh, nên còn được gọi là Đức thánh Trần.

Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn (陳國峻), là con trai của An Sinh vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú, sinh ra tại vùng nay là Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nguyên quán ở làng Tức Mặc, ­­­­­­­­huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm sinh của ông là năm 1231.[cần dẫn nguồn] Ông còn có hiệu là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (chữ Hán: 興道大王陳國峻).

Ông vốn có tài quân sự, lại là tôn thất nhà Trần, do đó trong cả ba lần quân Nguyên Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống nhà Nguyên lần thứ hai và thứ ba, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân Nguyên - Mông ra khỏi đất nước.

Sau khi kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ ba thành công. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lui về sống ở Vạn Kiếp. Ông đã dựa vào địa thế vùng Vạn Kiếp mà Kiếp Bạc là trung tâm để lập phủ đệ và quân doanh làm phòng tuyến chiến lược giữ mặt đông bắc của Đại Việt. Ông còn cho trồng các loại cây thuốc để chữa bệnh cho binh sĩ và nhân dân trong vùng.

Mùa thu tháng 8, ngày 20 năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (tức ngày 11-10-1300 theo lịch Gregory đón trước[2]), Hưng Đạo Vương mất. Theo lời dặn, thi hài ông được hoả táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ.

Sau khi ông mất, triều đình phong tặng là Thái sư Thượng Phụ Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương. Nhân dân Đại Việt vô cùng thương tiếc người anh hùng dân tộc đã có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc nên lập đền thờ ông trên nền Vương phủ gọi là đền Kiếp Bạc. Người dân Đại Việt kính trọng vinh danh Đức Thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi.

[sửa] Các điển tích Thiếu thời

Đại Việt Sử ký Toàn thư có chép: "Lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: 'Người này ngày sau có thể cứu n­ước giúp đời'."[3]

Khi lớn lên, ông có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ. An Sinh vương Trần Liễu trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (tức vua Trần Thái Tông - Trần Cảnh), mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh Vương cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được"[3]. Do An Sinh vương Trần Liễu lấy người chị của công chúa Lý Chiêu Hoàng là Thuận Thiên công chúa, còn Trần Cảnh cưới Lý Chiêu Hoàng khi bà mới 7 tuổi. Sau này Lý Chiêu Hoàng không có con nên năm 1237, Trần Thủ Độ bắt vợ của Trần Liễu lúc ấy có thai ba tháng về làm vợ Trần Cảnh (chị thay cho em). Chính vì lẽ đó mà Trần Liễu oán giận Trần Cảnh. Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải[3].

Năm 4-5 tuổi, Trần Hưng Đạo theo cha là Khâm Minh Thái vương (tức Trần Liễu) đi Ái Châu, nơi giam cầm trọng tội[cần dẫn nguồn]. Trưởng công chúa Thụy Bà thương anh cả vô tội bị đầy, bèn năn nỉ anh kế[cần dẫn nguồn] là Thái Tông, xin nhận Trần Hưng Đạo làm con đem về Thăng Long nuôi dạy. Để tránh sự xoi mói ghẻ lạnh của triều đình, Trần Hưng Đạo được trưởng công chúa Thụy Bà gửi tại chùa Phật Quang (làng Khúc Thủy, Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội) nhờ trụ trì chùa dạy dỗ cho tới năm lên 10[cần dẫn nguồn].

Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời cha trăng trối để dò ý hai gia nô thân tín là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người gia nô bẩm rằng: "Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi".[3]

(Lấy từ tích cũ: Sở Chiêu Vương chạy loạn ra nước ngoài, có người làm thịt dê tên là Duyệt đi theo. Sau Sở Chiêu Vương trở về nước, ban thưởng cho Duyệt. Duyệt từ chối và nói: "Nhà vua mất nước, tôi không được giết dê, nay vua về nước, tôi lại được làm nghề giết dê, tước lộc thế là đủ còn thưởng gì nữa"[5].)

Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người. Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ vương Trần Quốc Hiến: "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?"[3]

Hưng Vũ vương Trần Quốc Hiến thưa: "Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!"[3]

Trần Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm Trần Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Trần Quốc Tảng tiến lên thưa: "Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ."[3]

Trần Quốc Tuấn rút gươm mắng: "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra" và định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha.

Sau đó, ông dặn Hưng Vũ vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng."[3]

Năm Thiệu Bảo thứ 7, Ất Dậu, 1285, thế giặc bức bách, hai vua ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ nguyên (sông Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh ngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn (mũi biển thuộc châu Vạn Ninh, gần Móng Cái, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) để đánh lừa giặc.

Lúc ấy, xa giá nhà vua phiêu giạt, mà Trần Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của An Sinh vương, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống gậy không mà đi. Còn nhiều việc nữa, đại loại như thế[6].

Sử gia Ngô Sĩ Liên viết: "Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải thành thực tin nhau, sáng suốt khéo xử, như hào cửu tứ của quẻ Tùy (xem Kinh Dịch) thì mới có thể giữ tròn danh dự, làm nên sự nghiệp. Nếu không thế thì nhất định sẽ mang tai họa. Quách Tử Nghi nhà Đường, Trần Quốc Tuấn nhà Trần đã làm được như vậy."[6]

[sửa] Quan hệ với Trần Quang Khải

Trước kia, Trần Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương bắc đến. Trần Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tới bảo: "Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc."[3]

Trần Quốc Tuấn thưa: "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Thái sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Thượng tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn."[3]

Một hôm, Trần Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng." Trần Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho."[3]

Trước đây, hai ông tuy một là Quốc công tiết chế, một là Thượng tướng thái sư nhưng do lo lắng về mối thù của Trần Liễu để lại mà có mối hiềm nghi xa cách. Sau khi được Trần Quốc Tuấn tắm cho, hai ông trở nên thân tình, tin tưởng nhau, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng thêm mặn mà[3]. Trong việc giúp đỡ nhà vua, hai ông đều đứng hàng đầu.

[sửa] Quyền phong tước

Vì có công lao lớn trong cả 3 lần chống nhà Nguyên nên vua gia phong ông là Thượng quốc công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu thì phong tước rồi tâu sau. Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào[3]. Khi quân Nguyên vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi[3].

Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự, bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi Trần Thánh Tông vờ bảo Trần Quốc Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi". Trần Quốc Tuấn trả lời: "Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng". Vì thế, đời Trùng Hưng, lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến phương bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên. Sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn bệnh dịch, nhiều người cầu đảo ông. Còn có lời đồn rằng, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn[3]. Trần Quốc Tuấn từng soạn các sách như Binh gia diệu lý yếu lược (quen gọi là Binh thư yếu lược) và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy các tỳ tướng, dụ họ bằng bài Hịch tướng sĩ.Trần Quốc Tuấn từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỷ Tín chết thay để cứu thoát Hán Cao Tổ, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử. Ông dạy đạo trung như vậy.Nhân dân Việt Nam vô cùng kính trọng ông do công lao hai lần lãnh đạo đất nước chống lại được họa Thát Đát (Mông Cổ). Dưới vó ngựa của Mông Cổ, các nước Hồi giáo hiếu chiến ở Trung Á, các công quốc Moskva, Novogrod (nước Nga ngày nay) cũng không thể nào bảo vệ được nền độc lập của mình. Lãnh thổ của Đế quốc Mông Cổ, theo chiều ngang, kéo dài từ Viễn Đông (gồm cả Triều Tiên) đến tận Moskva, Muhi (Hungary), Tehran, Damascus; chiều dọc từ Bắc Á xuống tới cả biên giới Ấn Độ, Miến Điện. Trong cơn lốc chinh phục của họ, chỉ có Thái Lan (Sukhothai) thoát khỏi họa diệt vong nhờ sách lược cầu hòa, Nhật Bản may mắn nhờ một trận bão biển làm thiệt hại bớt tàu của Mông Cổ, và Đại Việt nhờ khả năng lãnh đạo của Hưng Đạo Đại Vương mà giữ được bờ cõi.Mông Cổ không xâm chiếm được Ấn Độ, họ chỉ tiến được đến biên giới miền bắc Ấn ngày nay và bị chặn lại. Họ cũng chỉ vào được miền bắc Miến Điện trong một thời gian ngắn rồi phải rút lui. Ngoài Đại Việt đánh bại được đế chế Mông Cổ còn có Java (Indonesia), Ai Cập, Ấn Độ.

Năm thuộc hạ tài giỏi và trung thành của Trần Hưng Đạo

Yết Kiêu | Dã Tượng | Cao Mang | Đại Hành | Nguyễn Địa Lô

ấy dân làm gốc

Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?"[3]

Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy."[3]

Khi sắp mất, ông dặn con rằng: "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau phục".[3]

Trần Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, quân Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất lại là vì vậy.

Mùa thu, tháng 8, ngày 20, năm Canh Tý (tức 3 tháng 9 năm 1300), Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp Đạo Đại Vương.

Vua Trần Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ của Trần Quốc Tuấn, ví ông với Thượng phụ (Lã Vọng ngày xưa bên Trung Quốc).

Nhân dân sùng kính phong thánh

Sau khi mất, Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở nhiều nơi, trong đó lễ hội lớn nhất ở đền Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay, nơi ngày xưa là phủ đệ của ông. Ông được người dân nhiều đời sùng kính phong Thánh tức là Đức thánh Trần, đây là điều hiếm hoi trong lịch sử chỉ dành riêng cho vị danh tướng nhà Trần. Ngày lễ chính thức được tổ chức vào ngày ông mất (20 tháng 8 âm lịch hàng năm). Nhân dân không gọi trực tiếp tên của ông mà gọi là Hưng Đạo Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức thánh Trần, hoặc gọi là Cha (Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ).

Cách gọi danh hiệu của ông cũng khác các vị vương. Các vương đều được gọi theo Tước và Tên, như Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, còn riêng ông được gọi bằng Họ và Tước là Trần Hưng Đạo. Đây là cách gọi vốn chỉ dành riêng cho các vị vua là Họ và Miếu hiệu (như Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông), qua đó có thể thấy dân gian coi ông ngang với các vua Trần.

Các đền thờ Hưng Đạo Đại Vương có thể thấy ở khắp nước Việt Nam.

Hịch tướng sĩ Binh gia diệu lý yếu lược (hay Binh thư yếu lược) Vạn Kiếp tông bí truyền thư [sửa] Gia đình [sửa] Cha mẹ An Sinh vương Trần Liễu Mẹ: Thiện Đạo quốc mẫu húy Nguyệt? [sửa] Anh em Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung (anh trai) Vũ Thành vương Trần Doãn (anh trai) Trần Quốc Khang (em trai). Năm 1237, khi công chúa Thuận Thiên - vợ Trần Liễu - có mang Quốc Khang 3 tháng thì bị Trần Thủ Độ ép lấy Trần Thái Tông. Trần Thị Thiều (em gái). Làm hoàng hậu của Trần Thánh Tông, mẹ đẻ của Trần Nhân Tông, được phong là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu. [sửa] Vợ Công chúa Thiên Thành tức Nguyên Từ quốc mẫu (?-1288), lấy tháng 2 năm 1251[7]. [sửa] Con

Trần Hưng Đạo có 4 người con trai và 2 người con gái.

Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn[6](Hiến, Nghiện[8]): võ tướng. Minh Hiến vương Trần Quốc Uất[6]: võ tướng. Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng[6]: võ tướng, cha vợ của Trần Anh Tông, ông nội của Tư đồ Văn Huệ Vương Trần Quang Triều (trọng thần của Trần Minh Tông). Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện[6] (Nghiễn)[8]: võ tướng, nhà khai khẩn đất đai. Khâm Từ hoàng hậu: vợ vua Trần Nhân Tông Anh Nguyên quận chúa: vợ của Phạm Ngũ Lão Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng

—Trả lời Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông cuối năm 1284

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.

—Hịch tướng sĩ

Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt

—Trả lời Trần Anh Tông về quốc sách giữ nước trước khi mất

Yết Kiêu Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới: menu, tìm kiếm

Yết Kiêu (1242-1301; chữ Hán: 歇驕) là anh hùng chống giặc ngoại xâm vào đời nhà Trần, người có công giúp Nhà Trần chống giặc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII với biệt tài thủy chiến. Ông là người bơi lặn giỏi, đã sử dụng tài của mình để đục thuyền của quân xâm lược Nguyên Mông.

ết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, con trai của Phạm Hữu Hiệu và bà Vũ Thị Duyên.

Yết Kiêu quê tại làng Hạ Bì, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (nay thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Có nhiều truyền thuyết trong dân gian về cuộc đời và những chiến tích của ông. Theo đó, Yết Kiêu sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mất sớm. Từ nhỏ, ông đã phải lăn lộn trên sông nước để kiếm sống và nuôi mẹ. Ông là gia nô trung thành và cận vệ đắc lực cho Trần Hưng Đạo.

Tương truyền, ông nhà nghèo, hằng ngày ông phải đi mò cua bắt ốc, bắt cá đem bán lấy tiền đong gạo nuôi thân. Ông có sức khỏe và dũng cảm lạ thường. Một hôm thấy hai con trâu trắng đang húc nhau trên bãi cát, ông dùng đòn gánh phang, cả hai con trâu chạy biến xuống nước. Ông mới biết hai con trâu mình vừa đánh là trâu thần, sờ lại đầu đòn gánh thì thấy còn dính vài cọng lông, ông liền nuốt lấy, từ đó mà ông bơi lặn giỏi. Ông lội nước hàng mấy dặm như đi trên đất và thường lặn lội bắt cá, mò trai cả ngày dưới nước.

Hiện nay vẫn còn đền thờ Yết Kiêu, gọi là đền Quát, thuộc tả ngạn sông Đò Đáy, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Tên của ông được đặt tên cho một phố ở Hà Nội, nơi có trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội mà thường được biết đến với tên gọi Mỹ thuật Yết Kiêu.

[sửa] Tên gọi

Theo chú thích trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, tên gọi Yết Kiêu là tên một loài chó săn ngắn mõm. Cách dùng tên thú đặt tên cho người nói lên địa vị làm "nô" thấp kém của họ.[1] Yết Kiêu là đại diện cho lực lượng nô tỳ, có vài trò lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên.

[sửa] Cuộc đời và truyền thuyết [sửa] Can gián [sửa] Giữ thuyền ở Bến Tân “

Yết Kiêu cùng với Dã Tượng là hai gia nô trung thành của Hưng Đạo Vương. Khi quân Nguyên tới, Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân (trên sông Lục Nam), Dã Tượng đi theo Hưng Đạo Vương. Khi quân Việt thua chạy, thủy quân bị tan cả. Hưng Đạo Vương định rút theo lối chân núi. Dã Tượng nói:

- Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không dời thuyền.

Hưng Đạo Vương đến Bãi Tân, chỉ có thuyền Yết Kiêu vẫn còn ở đó, vui mừng nói:

- Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng là chim thường thôi.

Nói xong chèo thuyền đi, kỵ binh Nguyên đuổi theo không kịp. Hưng Đạo Vương rút về Vạn Kiếp, chia quân đón giữ ở Bắc Giang.[2]

Ý Trần Hưng Đạo muốn nói: người tướng tài giỏi, nổi tiếng phần lớn cũng là nhờ những người chung quanh mình ra sức làm việc, phò tá, nếu chỉ có một cá nhân mình thì không sao có thể làm nên sự nghiệp lớn

ấy giờ, giặc Nguyên kéo mấy trăm chiếc thuyền theo đường biển vào đánh chiếm Đại Việt. Yết Kiêu không quản mùa đông giá rét, đêm đêm lặn xuống biển, nằm dưới đáy thuyền, lấy dùi sắt nhọn đục thủng thuyền. Thuyền giặc bị nước biển chảy ồ vào, chìm ngay. Quân giặc sợ lắm. Lúc đầu chúng không hiểu vì lẽ gì. Sau giặc chăng lưới vây bắt được Yết Kiêu. Chúng hỏi ông:

- Nước mày có bao nhiêu người có tài bơi lặn như mày?

Ông đáp:

- Nước Nam có rất nhiều người có tài bơi lặn như tôi. Hiện nay họ vẫn ẩn nấp ở dưới biển để đục thuyền, chỉ một mình tôi chẳng may bị bắt. Nếu các ông tha tôi ra tôi sẽ dẫn các ông đến chỗ họ ẩn nấp, tha hồ cho các ông bắt.

Bọn giặc hí hửng vì tưởng bở, chúng lấy một chiếc thuyền nhẹ chở ông đi. Thừa lúc giặc sơ ý và không nhìn thấy, ông nhảy tùm xuống biển, lặn trốn về doanh trại quân ta, tiếp tục cùng quân dân ta đánh giặc cứu nước. Quân giặc đành trơ mắt nhìn nhau căm tứ

Dã Tượng (chữ Hán: 野象) và Yết Kiêu là hai gia thần thân tín của Trần Hưng Đạo. Dã Tượng là người có tài thuần phục và chỉ huy đội voi ( Dã Tượng có nghĩa là voi rừng)(tượng binh) ở Vạn Kiếp còn Yết Kiêu là người chỉ huy đội lính đánh sông. Đoạn văn sau trích từ Đại Việt sử ký toàn thư có nhắc đến ông:

Trước đây, Hưng Đạo Vương có người nô là Dã Tượng và Yết Kiêu, đối xử rất hậu. Khi quân Nguyên tới, Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân, Dã Tượng thì đi theo. Đến lúc quan quân thu trận, thuỷ quân tan cả. [Hưng Đạo] Vương định rút theo lối chân núi. Dã Tượng nói:"Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không dời thuyền".

Dã tượng đã lập nhiều chiến công trong Kháng chiến chống Nguyên - Mông, đời Trần. Ông cùng với Yết Kiêu, Cao Mang, Đại Hành và Nguyễn Địa Lô là 5 thuộc hạ tài giỏi và trung thành của Hưng Đạo Vương. Trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, ông đóng góp đắc lực, tận tình bảo vệ chủ tướng. Chính ông và Yết Kiêu có công lớn trong trận bắt sống Toa Đô. Ông nổi tiếng là một tướng dũng cảm tài giỏi dưới trướng của Trần Hưng Đạo

Cao Mang tên đầy đủ là Lư Cao Mang là một trong năm vị tướng tài ba và trung thành nhất của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn[cần dẫn nguồn], là người có công lớn trong ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Cao Mang sinh vào khoảng năm 1232 mất năm 1286[cần dẫn nguồn]. Ông được Hưng Đạo Vương hết mực tin tưởng và trọng dụng, ông là cận vệ đầu tiên của Hưng Đạo Vương[cần dẫn nguồn].

Nguyễn Địa Lô là một gia nô của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Khác với Yết Kiêu và Dã Tượng, Nguyễn Địa Lô có tên họ đầy đủ hơn. Địa Lô có tài bắn cung bách phát bách trúng.

Năm 1285, khi đạo quân của Toa Đô vừa từ Chiêm Thành tiến ra đến Nghệ An, tướng chỉ huy quân đội của nhà Trần ở đấy là Trần Kiện đã hèn nhát bỏ đi đầu hàng. Sự kiện này đã gây cho cuộc kháng chiến lúc bấy giờ những tổn thất rất lớn.

Toa Đô lập tức sai người dẫn Trần Kiện về Yên Kinh (Trung Quốc). Nhưng, khi bọn Trần Kiện vừa đến biên giới phía Bắc, các đội dân binh ở đây, dưới sự chỉ huy của một số thủ lĩnh kiệt xuất như Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh đã đón đánh cho tơi bời. Nguyễn Địa Lô cũng có mặt trong cuộc tập kích này và chính ông đã bắn chết Trần Kiện.

Đến nay, sau hơn 700 năm đại thắng Nguyên - Mông, các nhà nghiên cứu quân sự, sử gia, chính trị gia, các danh tướng mọi thời đại trong và ngoài nước vẫn không ngừng tìm hiểu và tôn vinh thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn. Cách dùng binh độc đáo, nghệ thuật quân sự kỳ tài, tấm gương đạo đức của ông mãi mãi là tài sản vô giá không riêng của dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu diễn biến và cục diện chiến tranh trong toàn bộ cuộc đời Hưng Đạo vương thấy rõ một điều ông không chỉ chủ động trên chiến trường đang diễn ra mà luôn giành toàn bộ tài năng, tâm huyết, chuẩn bị mọi mặt từ trước đó và cả sau khi chiến tranh đã kết thúc. Khi quân Nguyên - Mông sang xâm phạm Đại Việt lần thứ nhất (1258), ông mới 30 tuổi đã được cử làm Đại tướng tác chiến với đội quân xâm lược (đội quân toàn thắng, chúng đã chiếm gần hết châu Âu, châu Á. Nhà Tống, thành trì phong kiến đối đầu cuối cùng của Trung Nguyên đang bên bờ vực diệt vong). Trong chiến đấu với quân Nguyên - Mông lần thứ nhất đã cho ông những kiến thức quý giá trong tác chiến với giặc Mông Cổ, tư duy chiến thuật của chúng, tham vọng cũng như những thủ đoạn quân sự, ngoại giao và cả những điểm yếu của kẻ địch để từ đó có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trong các lần đánh giặc sau này.

Khoảng thời gian từ năm 1258 tới cuộc chiến tranh xâm lược của đại quân Nguyên - Mông lần thứ hai là 30 năm. Khi ấy Hưng Đạo vương ở vào tuổi gần sáu mươi, tuổi mà sự hiểu biết và kinh nghiệm dày dặn cũng như đỉnh cao trí tuệ đang độ sung sức nhất. Ông biết trước đế chế Nguyên - Mông sẽ bằng mọi giá thôn tính Đại Việt, điều mà các hoàng đế hiếu chiến Trung Quốc thường làm và cũng thường thất bại sau một thời gian đô hộ. Lịch sử Việt Nam cũng đã chứng minh rằng, khi chế độ đô hộ của giặc phương Bắc bị nhân dân Đại Việt đánh bại cũng là lúc bắt đầu sự cáo chung một chế độ chính trị của đế quốc ấy. Thôn tính phương Nam, chắc chắn giặc Nguyên - Mông đã có những toan tính sâu xa về vùng đất nhiều sản vật, khoáng sản, hàng vạn dặm biển cũng là mưu đồ bá chủ thế giới của chúng (quân Nguyên - Mông từng hai lần tổ chức tiến đánh quần đảo Nhật Bản và các vùng đảo ngoài biển nhưng gặp bão lớn không tiến binh được cho thấy tham vọng không có độ dừng của chúng).
           Hưng Đạo vương đã lường trước những khó khăn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông lần thứ hai. Khó khăn đã được ông giải quyết từng bước thấu đáo, triệt để không những trong phương lược chống giữ mà còn biểu hiện rõ nét và thống nhất từng bước đi trước đó hàng chục năm. Nếu như lần đầu tiên, quân Nguyên - Mông đánh xuống phương Nam bị quân dân nhà Trần dưới sự lãnh đạo của Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ, vua Trần Thái tông, các tướng lĩnh tài giỏi như Lê Phụ Trần, Trần Quốc Tuấn... còn diễn ra với tương quan lực lượng khá cân bằng cũng như độ khốc liệt, xảo quyệt, hiếu sát của chúng (địch thua rút chạy hiền lành đến mức dân gian gọi chúng là giặc Phật) thì đến khi giặc Nguyên - Mông sang xâm lược lần thứ hai đã hoàn toàn khác. Chúng thôn tính Đại Việt bằng chiến tranh chớp nhoáng, sở trường của giặc bấy giờ. Bằng cách đánh này, chúng đã không có địch thủ dưới gầm trời nữa. Tác chiến với một đội quân quá mạnh, vừa tinh nhuệ, vừa hiểm ác trong khi đó quân dân ta đã 30 năm không quen chiến trận là một điều nan giải. Nhà Tống, một đế quốc phong kiến hùng mạnh với trăm vạn đại quân và hàng ngàn tướng giỏi vừa bại vong dưới vó ngựa Nguyên - Mông đã tác động tâm lý xấu tới những nước nhỏ như Đại Việt trước khi chiến tranh xảy ra. Bản thân hai vua Trần (nhà Trần khi ấy có chế độ Thái thượng hoàng vẫn còn can dự triều chính) cũng chưa hẳn đã hạ quyết tâm trong việc kình chống với giặc dữ, thậm chí có lúc đã muốn tạm hàng để nhân dân khỏi bị giết hại. (Trần Thánh tông và Trần Nhân tông vô cùng yêu dân. Bản thân Trần Nhân tông sau các chiến thắng đã đi tu, là một trong ba vị tổ Trúc lâm sáng lập phái Thiền thuần Việt).

Giải quyết bài toán này, Hưng Đạo vương đã khéo léo khi khích lệ lòng quân (bằng tổng duyệt binh tại Đông Bộ Đầu); lòng dân (bằng Hội nghị Diên Hồng - một hội nghị có tính toàn quốc có thể nói là sớm nhất trong các triều đại); lòng tự tôn, tự trọng của giới tôn thất, tướng lĩnh, quí tộc triều Trần (Hội nghị Bình Than). Bằng ý chí kiên cường, trí tuệ thiên tài và đặc biệt là tâm đức một lòng một dạ vì Tổ quốc, Hưng Đạo vương chính là ngọn cờ đầu, vị thống soái quân sự, vị thủ lĩnh tinh thần kiệt xuất cùng nhân dân cả nước làm lên những võ công lịch sử. Khi quân Nguyên - Mông tràn sang với quân số trên 50 vạn cùng những tướng lĩnh tài giỏi bậc nhất với sự cầm đầu của thái tử Thoát Hoan - con trai hoàng đế Đại Nguyên Hốt Tất Liệt, cục diện chiến tranh là vô cùng bất lợi với quân và dân triều Trần. Cũng phải hiểu thêm rằng, vốn liếng chính trị của mỗi tướng soái, đặc biệt là các hoàng tử, thái tử Nguyên - Mông khi ấy hoàn toàn dựa vào chiến công mà họ lập được trên các chiến trường. Các huân công chính là vòng nguyệt quế, tấm thảm đỏ để mỗi hoàng tử, thái tử dần từng bước lên ngôi vị thiên tử nên khi được giao trọng trách thôn tính một nước nào đó cũng có nghĩa là vua cha đã bắt đầu đặt niềm tin, đặt những viên gạch nền móng cho vị hoàng đế tương lai. Một xu thế thịnh hành của đế chế Nguyên - Mông hồi ấy.
          Tháng 1 năm 1285, Thoát Hoan cầm đầu đội quân chủ lực cùng những tướng soái thạo chinh chiến dẫn đại quân từ Ung Châu - Trung Quốc tiến thẳng vào Lộc Châu - Đại Việt (nay là Lộc Bình - Lạng Sơn) gần như không phải gặp sự kháng cự nào đáng kể. Đầu tháng 2 năm 1285, đại quân Nguyên - Mông tiến công ải Nội Bàng (một trọng trấn quan trọng có đại quân của Hưng Đạo vương do Phạm Ngũ Lão chỉ huy trấn giữ). Đây là trận tác chiến lớn đầu tiên với quân chủ lực nhà Trần mà sử sách đôi bên đều chép lại nhưng không phải ai cũng hiểu đó là trận đánh có tính chiến thuật của Trần Quốc Tuấn để phục vụ việc lui binh chiến lược của ông.

Đúng như dự kiến, đại quân Nguyên - Mông đã dùng chiến tranh chớp nhoáng đánh Đại Việt. Ta sử dụng chiến lược từng bước lui binh, bảo toàn lực lượng, bỏ ngỏ kinh thành cho giặc dữ. Đây là một chiến lược hết sức đúng đắn và cho đến lúc ấy, đại quân Nguyên - Mông hẳn không hiểu hết được đó là diệu kế của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Trước đó, vó ngựa Nguyên - Mông tung hoành khắp châu Á, châu Âu đều quen với tác chiến đánh công kiên tức là công phá thành trì vì các nước thuộc Trung Quốc, Tây Á, Bắc Á, châu Âu (bao gồm nhiều nước thuộc Liên Xô cũ) Bắc Âu… thì các đối thủ đều sử dụng thành trì bền vững phòng thủ chống lại quân Nguyên - Mông từ xa tới và phần lớn đều bại vong trước sự công phá của các Đại hãn Mông Cổ. Lần đầu tiên, giặc Nguyên - Mông chiếm kinh thành một nước xa xôi phương Nam vô cùng dễ dàng. Thực ra Hưng Đạo vương cũng đã tổ chức những trận đánh nhỏ để yên lòng hai vua, tạo kinh nghiệm tác chiến cho các tướng sĩ thuộc quyền cũng là từng bước tạo sự kiêu căng cho quân địch.

Trong khi thái tử Thoát Hoan hành binh khá thuận tiện, mau chóng chiếm được kinh thành Thăng Long thì mũi vu hồi do tướng Nạp Tốc Lạt Đinh thống lĩnh từ Vân Nam đánh vào biên giới Tây Bắc nước ta với ý đồ xé nhỏ sức mạnh quân sự của vương triều Trần, tạo thế gọng kìm nhằm bắt sống vua tôi nhà Trần. Đạo quân này ít gặp sự kháng cự trong hành tiến nhưng chúng cũng rất thận trọng trong tác chiến. Khi Thoát Hoan thua trận tháo chạy thì bọn chúng cũng tháo chạy qua đường Vân Nam và bị truy kích thiệt hại nặng nề. Cầm chân đội quân này là Thượng tướng quân Trần Nhật Duật, một danh tướng trẻ tuổi của vương triều Trần khi ấy.

Sau khi đạt được ý đồ cầm chân địch, thực hiện mệnh lệnh của Hưng Đạo vương, Trần Nhật Duật lui binh về hội sư với các cánh quân khác, bảo vệ các vua Trần tại Thiên Trường và sau này nhận trọng trách đánh trận then chốt, làm lên chiến thắng vang dội Hàm Tử. Bước đầu, có thể nói, các cánh quân xâm lược Đại Việt toàn giành thắng lợi nhưng không làm tổn thất nhiều chủ lực nhà Trần. Ngược lại, quân đội nhà Trần liên tiếp thoái lui bảo toàn lực lượng. Cục diện chiến tranh rơi vào thế lơ lửng, mơ hồ mà kẻ địch khó lòng nhận biết. Chúng vẫn chưa chủ động và áp đặt được thế trận trên chiến trường.
         Dưới quyền thái tử Thoát Hoan có không ít những tướng lĩnh, những tên hán gian cáo già bắt đầu nghi ngờ chiến lược lui binh của Trần Quốc Tuấn. Chúng hết sức cảnh giác và thận trọng sau khi chiếm được kinh thành Thăng Long và hạ lệnh cho đại quân của nguyên soái Toa Đô, khi ấy được cử đi đánh Chiêm Thành bằng đường biển đang tác chiến có lợi ở mặt Nam của Đại Việt quay sang tiến công Nghệ An, dùng thế gọng kìm để bắt hai vua Trần và Trần Quốc Tuấn tại hành cung Thiên Trường (một hành cung dã chiến của triều Trần trong kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai). Nguyên soái Toa Đô, một tướng soái vào hàng kiệt xuất nhất của đế chế Nguyên - Mông chấp hành mệnh lệnh và hiểu rõ ý đồ chiến lược của thái tử Thoát Hoan cùng bộ sậu. Cần bắt được các vua Trần, tiêu diệt Trần Quốc Tuấn tự khắc Chiêm Thành không đánh cũng tan vỡ nên lập tức đem bảy vạn quân thủy bộ phá ải Nghệ An tiến ra Bắc. Cục diện chiến tranh trở lên hết sức bất lợi cho vương triều Trần. Toa Đô cùng quân tướng phá vỡ ải Nghệ An, hung hăng tiến đánh Thanh Hóa, kẹp các vua Trần và bộ chỉ huy quân sự tối cao của vương triều vào giữa trùng vây. Trong lúc thế nước thập phần nghiêng ngả, nhiều tôn thất quí tộc đua nhau ra hàng địch, đại quân, các vua Trần bốn bề thọ địch cũng là lúc tài năng quân sự của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn hiển lộ ở đỉnh cao nhất. Phân tích rõ thế yếu của quân ta và cục diện chiến tranh bất lợi, các tôn thất dao động khi các mặt trận bị vỡ, Trần Quốc Tuấn hiểu rõ nếu để Toa Đô và Thoát Hoan hội sư thành công cũng đồng nghĩa với sự diệt vong của Đại Việt và vương triều Trần. Ông thừa lệnh hai vua, cử Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, người văn võ toàn tài, đặc biệt là tài năng quân sự với nhãn quan chiến lược sâu sắc vào Thanh Hóa, Nghệ An chặn giặc, cầm chân đội quân Toa Đô. Hưng Đạo vương cử những bộ tướng giỏi nhất của mình trong đó đặc biệt là tướng quân Phạm Ngũ Lão (viên tướng giỏi bậc nhất của vương triều Trần sau này khi ấy là gia tướng của ông) vào tác chiến dưới sự chỉ huy của Trần Quang Khải. Những ngày tác chiến gian khổ với quân Toa Đô là những kinh nghiệm chiến đấu quý giá mà tướng lĩnh triều Trần có được. Một mặt, các vua Trần và Trần Quốc Tuấn dùng kế hoãn binh, sai sứ đi gặp Thoát Hoan xin cầu hòa và dùng kế dâng công chúa An Tư, em ruột Trần Thánh tông cho Thoát Hoan với mục đích kéo dài thời gian để tìm đại kế thoát khỏi cục diện thập phần bất lợi. Mặt khác, Trần Quốc Tuấn điều phần lớn quân sĩ chủ lực rút ra mạn biển, vùng đất chưa xảy ra chiến sự, theo đường biển đi thẳng vào Thanh Hóa, khéo léo hành quân luồn trở lại sau lưng đội quân Toa Đô phá thế chiến lược của chúng. Đội quân Toa Đô sau hung hăng ban đầu như mũi tên cứng bắn đã hết tầm. Đại quân ta cùng hai vua đã tránh được sức mạnh của địch, luồn trở lại sau lưng chúng với sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân, từng bước gây thanh thế trở lại. Sau nhiều tháng cầm cự, quân và dân triều Trần dần quen với cuộc chiến gian khổ, tích lũy kinh nghiệm, tìm hiểu sở trường, sở đoản của địch. Đây là phương châm chiến lược của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã vạch ra từ trước đó.
          Cánh quân Toa Đô bị rơi vào thế bùng nhùng của cuộc chiến tranh, điều mà các tướng soái Nguyên -Mông hết sức ngán ngẩm (bọn chúng chỉ quen tác chiến với chủ lực địch bằng quyết chiến theo kiểu sống mái lấy thịt đè người). Đại quân Thoát Hoan thì lần chần có ý chờ vào thắng lợi của nguyên soái Toa Đô trong khi thời tiết ẩm thấp phương Nam đầu xuân cuối hè bắt đầu phát huy tác dụng ảnh hưởng xấu với giặc phương Bắc chỉ quen đánh trận trên bình nguyên Trung Quốc.

Thời cơ phản công chiến lược đã tới. Đội quân của Toa Đô sau khi vồ hụt bộ chỉ huy tối cao của vương triều Trần đã bắt đầu rệu rã và thất lợi trong tác chiến. Sau khi chiếm được kinh thành Thăng Long, có được thông tin về những thắng lợi ban đầu của đội quân Toa Đô, thái tử Thoát Hoan cũng đã cử viên tướng kiêu dũng nhất của mình là Ô Mã Nhi cùng hơn một vạn quân thủy cùng Khoa Triệt (Koncak), Lý Hằng đem hơn một vạn quân bộ vừa truy kích vua Trần vừa hỗ trợ Toa Đô với ý đồ tìm diệt và đập tan đạo quân chủ lực của nhà Trần, kết thúc chiến tranh còn bản thân thái tử vẫn ăn chơi dông dài ở Thăng Long (một sai lầm biến Thoát Hoan thành trò hề trong lịch sử).
           Tháng 5 năm 1285, Trần Quốc Tuấn điểm binh tướng, chấn chỉnh đội ngũ, hạ mệnh lệnh hành binh tổng phản công.

Đầu tháng 6 năm 1285, Hưng Đạo vương hạ lệnh tấn công A Lỗ (vùng ngã ba sông Hồng và sông Luộc ngày nay) và đại thắng. Vạn hộ hầu Lưu Thế Anh, chỉ huy các tướng lĩnh của địch ở đây đã phải bỏ đồn tháo chạy.

Thời cơ đuổi giặc đã đến. Hưng Đạo vương triệu tập các tướng lĩnh bàn kế thu phục lại giang sơn. Tính toán thần diệu và có tính chiến lược của Hưng Đạo vương là chủ động đánh tan liên quân Toa Đô - Ô Mã Nhi ngay tại vùng đại bản doanh của chúng (Hàm Tử - thuộc Khoái Châu - Hưng Yên ngày nay). Trận quyết chiến chiến lược này được giao cho Thượng tướng Trần Nhật Duật, vị tướng văn võ toàn tài và vô cùng độc đáo trong vương triều chỉ huy. Trần Nhật Duật đã ghi tên mình vào lịch sử quân sự bằng chiến thắng Hàm Tử lừng lẫy.

Chiến thắng Hàm Tử có tính bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông lần thứ hai, tạo thế và lực mới có lợi cho ta, tạo đà cho một chuỗi các chiến thắng Tây Kết, Chương Dương, Thăng Long… và Thoát Hoan phải rời bỏ kinh thành, ôm mối nhục của kẻ bại trận, hoảng loạn lui binh tạo ra một vết nhơ với đội quân Nguyên - Mông từng bách chiến bách thắng.

Chiến thắng Hàm Tử thể hiện tinh hoa nghệ thuật quân sự của Hưng Đạo vương khi lựa chọn thời cơ đánh trực diện với một thê đội mạnh (liên quân Toa Đô - Ô Mã Nhi khi ấy có khoảng trên bảy vạn) một cách tự tin bằng sở trường của mình (thủy binh) có phối hợp các binh chủng khác (pháo binh, kỵ binh, bộ binh, dân binh, thậm chí là cả những đội Tống binh chiến đấu dưới cờ của Trần Nhật Duật). Cách đánh hết sức linh hoạt, quả cảm (chiến thuyền của ta nhỏ hơn rất nhiều các hải thuyền của Toa Đô), tiêu biểu nhất là nghệ thuật dùng hỏa công, tài bơi lặn… đặc biệt là lòng dũng cảm tuyệt vời của quân và dân nhà Trần, đức hy sinh, xả thân vì dân tộc là những nhân tố quyết định tạo nên chiến thắng. Đây có lẽ là một trong những trận đánh căng thẳng bậc nhất trên cương vị tổng chỉ huy của Hưng Đạo vương. Khi ấy ông không trực tiếp ở chiến trường và việc trao nhận thông tin ngày ấy là cả một vấn đề hết sức khó khăn (thành bại của trận đánh này sẽ liên quan trực tiếp tới cục diện chiến tranh). Từ xưa đến nay, bàn về chiến thắng then chốt Hàm Tử, các sử gia và các nhà quân sự đều thống nhất rằng đây là chiến thắng quan trọng nhất trong kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai. Đây cũng là trận quyết chiến quan trọng nhất, võ công lớn nhất của Thượng tướng Trần Nhật Duật, vị danh tướng khi ấy mới bước vào tuổi 30.

Chọn được đột phá khẩu làm rung chuyển đạo quân trên 50 vạn của Thoát Hoan là một nước cờ cao diệu của Hưng Đạo vương. Đạo quân xâm lược sau thất bại choáng váng Hàm Tử đã đổ vỡ dây chuyền. Thái tử Thoát Hoan không thể cứu được cục diện tan vỡ dường như đã nằm trong tính toán từ trước của Trần Quốc Tuấn. Trong tác chiến với giặc Nguyên - Mông, cả ba lần, chưa bao giờ ông dồn chúng vào đường cùng mà luôn đánh từng bước để cho chúng đến nước bí phải thua trận và từ đó tháo chạy. Đó cũng là nghệ thuật quân sự đặc sắc mà trong ấy việc tiết kiệm xương máu sĩ tốt luôn được đặt lên hàng đầu. Quân đội nhà Trần khi ấy quân số luôn chỉ bằng một nửa đạo quân xâm lược nên nếu chọn cách tác chiến trực diện với chúng theo kiểu đánh bạc năm ăn năm thua thì hậu quả sẽ khôn lường (điều mà tướng lĩnh các nước Trung Nguyên đã chuốc lấy bại vong khi chọn cách đánh này dù quân số của họ luôn nhiều hơn quân Mông Cổ). Chọn lối đánh tránh mũi nhọn của địch, làm chúng mệt mỏi chán nản, dần mất ý chí chiến đấu trong khi không ngừng nuôi dưỡng sĩ khí, lòng yêu nước của quân và dân chờ cơ hội phản công là một biểu hiện trí tuệ quân sự kiệt xuất của Hưng Đạo vương Trần.
          Sau chiến thắng Hàm Tử, cục diện chiến tranh thay đổi, Hưng Đạo vương Trần lập tức tổ chức một loạt cuộc tập kích lớn vào các căn cứ của quân Nguyên – Mông và chiến thắng vang dội: Tây Kết, Chương Dương... đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi Đại Việt.

*
* *

Trong lần thứ ba đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông (1287- 1288), một lần nữa, Hưng Đạo vương lại thể hiện vai trò quân sự kiệt xuất của mình cùng với quân và dân triều Trần đánh gục vĩnh viễn ý chí xâm lược Đại Việt của chúng.

Sau thất bại nhục nhã năm 1285, Nguyên thế tổ Hốt Tất Liệt vô cùng tức giận và gần như ngay lập tức hạ mệnh lệnh cất quân rửa nhục thua trận. Khi ấy triều đình Đại Nguyên có sự phân hóa lớn trước việc đánh Đại Việt. Theo trình tự, khi thái tử Thoát Hoan đưa tin đã chiếm được kinh thành Thăng Long (1285) thì kế hoạch tiến đánh Nhật Bản đã được phê chuẩn và đội hải thuyền hùng hậu của đế chế Nguyên - Mông đang gấp rút hoàn thiện những công việc cuối cùng để giong buồm tiến quân ra biển. Nhưng tin thắng trận chưa nguội thì bỗng sét đánh mang tai. Thái tử điện hạ chui ống đồng lê lết cùng đám tàn quân bại trận nơi phương Nam như một cái tát giáng vào vị hoàng đế bách chiến bách thắng Hốt Tất Liệt. Không chịu được nhục, Hốt Tất Liệt lập tức bãi bỏ kế hoạch tiến đánh Nhật Bản, dồn lực lượng, đặc biệt là đội hải thuyền hùng mạnh trỏ ngọn cờ xâm lược về phương Nam với dã tâm san bằng Đại Việt, tuyệt diệt triều Trần. Vị hoàng đế hiếu chiến lại giao cho con trai Trấn Nam vương Thoát Hoan tổng chỉ huy 50 vạn hùng binh lập công chuộc tội. Trấn Nam vương dường như không còn sự lựa chọn nào khác. Cãi mệnh vua cha cũng rơi vào tội chết mà cầm quân xuống phương Nam thì khả năng bại nhiều hơn thắng là điều khó tránh. Y đã quá rõ mảnh đất xa xôi lầy lội phương Nam. Không riêng y, tổ tông bao thế hệ người phương Bắc, những đế chế hùng mạnh đã không ít lần thảm bại nơi vùng đất quật cường Đại Việt. Trong tâm thế tiến hành chiến tranh như vậy, y đã gần như nắm phần bại vong. Điều này giải thích tại sao, Hưng Đạo vương từng nói một câu theo tôi là hay nhất trong cuộc đời mình: "Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh. Cho nên, năm trước quân Nguyên vào cướp, thì có kẻ đầu hàng chốn chạy. Nhờ uy tín của tổ tông và thần võ của bệ hạ, nên quét sạch được bụi Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa. Vả lại, chúng còn nơm lớp cái thất bại của Hằng, Quán năm trước, không còn chí chiến đấu. Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn".

Người đứng đầu toàn quân, vị thánh tướng hiền minh bậc nhất của Đại Việt đã ung dung nói như vậy tức là cái thế toàn thắng đã nắm chắc trong lòng bàn tay. Thái tử Trấn Nam vương Thoát Hoan hành quân trong tư thế u uất như vậy thì bại vong là điều không thể tránh khỏi.

Nhưng đối với đế chế Nguyên - Mông, việc chấp hành mệnh lệnh xâm lược luôn có ý nghĩa sống còn ngay lập tức với những kẻ thuộc quyền. Ngay cả hoàng thân quốc thích nếu chống lệnh cũng đồng nghĩa với việc phải nhận hình phạt chém đầu. Đó là bản chất cuồng bạo hiếu sát của kẻ đi xâm lược cũng là mầm thất bại từ trong trứng nước của chúng.

Cuối năm 1287, với ý định lập công chuộc tội, quyết chí rửa nhục thua trận, Trấn Nam vương Thoát Hoan thống xuất 50 vạn quân chia làm ba đường thủy bộ tiến đánh Đại Việt. Đội quân chủ lực khoảng 30 vạn do Trấn Nam vương trực tiếp thống lĩnh, Bình chương Áo Lỗ Xích (A-gu-rúc-tri) đảm đương cương vị phó tướng, Hữu thừa A Bát Xích (A-ba-tri) làm đại tướng tiên phong. Đạo quân này còn có một thê đội do viên tướng người Hán lão luyện Trình Bằng Phi mang theo An Nam quốc vương Trần Ích Tắc (bù nhìn) theo hướng Tây từ hành kinh Quảng Tây tiến sang Lạng Sơn. Đội quân thứ hai được tập hợp từ thủ phủ Vân Nam do Bình chương Ái Lỗ (A-rúc) tiến theo thượng du sông Hồng. Đội quân thứ ba, đội hải thuyền hùng hậu (bao gồm hàng trăm thuyền chiến và thuyền lương) do các danh tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và đại tướng Vạn hộ hầu Trương Vân Hổ thống xuất từ căn cứ biển Khâm Châu (Quảng Đông) tiến vào hướng Đông Bắc Đại Việt theo cửa biển Vân Đồn vào sông Bạch Đằng. Đây là đội quân rất quan trọng, không những anh dũng thiện chiến mà đặc biệt là toàn bộ quân nhu, hậu cần, lương thảo của các đạo quân bộ đều do đội quân này cung cấp. Đây là một tính toán có tính chiến lược (nhưng phiêu lưu) của Thoát Hoan. Các mưu sĩ của y luôn cho rằng quân Nguyên - Mông thường yếu về thủy binh. Trong các lần tác chiến trước, sở dĩ Đại Việt giành được thắng lợi là do ưu thế và khả năng thủy binh của quân tướng nhà Trần. Với tính toán đặt ưu thế thủy binh lên hàng đầu, dồn binh lực cho thủy binh chứng tỏ quyết tâm cũng là dã tâm của Trấn Nam vương trong lần xâm lược này là nghiền nát Đại Việt bằng mọi giá.

Tháng 12 năm 1278 ba cánh quân Nguyên - Mông nhất tề tiến đánh Đại Việt.
Cũng như những lần trước, chiến thuật lui binh nhường thế thượng phong cho đại quân Nguyên - Mông của Hưng Đạo vương được triển khai ngay từ những ngày đầu.

Rút kinh nghiệm lần thua trận trước, sau khi phá tan một số ải lũy thuộc Lạng Sơn, Thoát Hoan bất thần hạ mệnh lệnh ào ạt tiến công Vạn Kiếp, đại bản doanh của Hưng Đạo vương. Tính toán của Thoát Hoan là một mặt triệt thoái trung tâm chỉ huy chiến tranh của triều Trần, một mặt hội sư thủy bộ tại Vạn Kiếp (hải thuyền của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp cũng đang tiến như vũ bão vào Vạn Kiếp) gây thanh thế, sau đó mới tiến đánh Thăng Long theo hai đường thủy bộ mà mục đích chính là tiêu diệt thủy quân Đại Việt.

Một lần nữa thái tử Trấn Nam vương lại mắc mưu Hưng Đạo vương. Trong việc quân cơ, Thoát Hoan luôn chỉ là một học trò vụng về. Biết trước đám tướng lĩnh người Hán sẽ tham mưu cho thái tử Thoát Hoan kế sách đánh chiếm Vạn Kiếp trước khi tiến chiếm Thăng Long, Trần Quốc Tuấn sau vài trận cản giặc đã mau chóng điều quân chủ lực khỏi Vạn Kiếp, rút lui toàn bộ lực lượng một cách an toàn khiến một lần nữa đại quân xâm lược lại vồ hụt đội quân chủ lực triều Trần.

Cũng thực hiện chiến lược né tránh chủ lực địch, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật sau trận tao ngộ chiến tại ngã ba sông Bạch Hạc đã khéo léo rút quân theo mệnh lệnh của Hưng Đạo vương một cách thần tình trước mũi viên đại tướng cáo già Ái Lỗ làm cho gọng kìm đánh xuống từ phía Tây của quân Nguyên - Mông giáng vào thinh không, hoàn toàn mất phương hướng. Cứ mỗi khi cánh quân vu hồi với vai trò là đội kỳ binh này bị treo lơ lửng không có đối tượng tác chiến (bao giờ cũng là Thượng tướng quân Trần Nhật Duật) thì ngày tàn của chúng dường như đã điểm. Cánh quân này chỉ còn dặt hoang mang lo lắng trong lộ trình đằng sau quay của mình khi phải đối phó với nỏ cứng tên độc của những tù trưởng yêu nước và đám dân binh thiện chiến người dân tộc, những con dân Đại Việt kiên cường.
          Cánh quân thủy do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp thống lĩnh, một thứ vũ khí chiến lược của quân đội Nguyên - Mông đánh thẳng vào biển Vạn Ninh (Móng Cái) tiến đánh Ngọc Sơn, tiến đánh cửa biển An Bang (Quảng Yên) đánh hành tiến và liên tiếp đánh thắng các binh thuyền nhỏ của Đại Việt thuận vào dòng Bạch Đằng tiến về Vạn Kiếp. Thủy binh của ta do Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, viên mãnh tướng của vương triều Trần tổ chức trận quyết chiến với Ô Mã Nhi nhưng thất bại. Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp tưởng như không còn địch thủ và vô cùng hứng khởi khi đã đập tan đội chiến thuyền của Đại Việt do viên tướng thủy quân vào bậc giỏi nhất Trần Khánh Dư mà quên mất đối với các tướng lĩnh triều Trần, bản lĩnh chiến đấu, tâm thức dân tộc và đặc biệt là sự yêu nước tuyệt vời của quần chúng nhân dân luôn là mối họa khôn lường đối với mọi đạo quân xâm lược. Hí hửng với chiến thắng ban đầu, bỏ mặc kệ đoàn thuyền lương của đại tướng Trương Vân Hổ lặc lè phía sau, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp cấp tốc hành quân đánh thẳng vào Vạn Kiếp, tưởng như sắp sửa bắt được Hưng Đạo vương để rửa nhục thua trận trước kia.
Nhưng kẻ đi xâm lược tính không bằng trời tính.

Chắc hẳn điều này, Ô Mã Nhi khi nằm trong bụng cá chắc gì đã tỉnh ngộ ra. Nực cười thay cho những tên xâm lược Đại Việt vốn bao giờ cũng có kết cục giống nhau: bại vong, nhơ nhuốc và uổng mạng. Trần Khánh Dư, một chiến tướng thủy quân giỏi bậc nhất của triều Trần sau thất bại choáng váng ban đầu đã tĩnh trí sử dụng đòn hồi mã thương tuyệt diệu trong lịch sử quân sự Việt Nam. Chiến thắng Vân Đồn như một đòn trời giáng đánh sập xương sống của con trăn khổng lồ khiến quân tướng xâm lược Nguyên – Mông tuy nhiều nhưng đã bắt đầu rơi vào trạng thái lơ lửng, hoang mang, bất an, mất ăn mất ngủ.

Ngày tàn của chúng đã điểm. Sau khi chiếm được Vạn Kiếp, sắp đặt quân binh tiến chiếm Thăng Long một cách dễ dàng, Thoát Hoan cùng các tướng lĩnh bàn kế sách tiến thủ. Một mặt Thoát Hoan cho quân thủy bộ ba mặt truy kích các vua Trần mà điển hình là hành động dã man tàn bạo quật phá Chiêu Lăng (lăng mộ vua Trần Thái tông), đốt phá làng mạc, hãm hiếp, cướp bóc, tàn sát dân lành vô tội. Nhưng chúng đã từng bước rơi vào thế lơ lửng (thế mà quân Nguyên – Mông luôn vô cùng sợ hãi) không biết tiến lui ra sao. Không tìm được dấu tích vua Trần và bộ chỉ huy tối cao của Hưng Đạo vương ở các vùng Long Hưng - Thái Bình, Thiên Trường – Nam Định, thái tử Thoát Hoan quay trở lại Thăng Long bắt đầu lo ngại cho số phận biệt vô âm tín của đoàn thuyền lương - đại tướng Trương Vân Hổ. Như ngồi trên đống lửa, Trấn Nam vương quở trách Ô Mã Nhi hành binh vô nguyên tắc và hạ mệnh lệnh phải quay trở lại tìm đón thuyền lương cũng là lúc tin thất thiệt báo trận đại bại của Vạn hộ hầu Trương Vân Hổ đến tai Thoát Hoan. Như con thú điên cuồng, Thoát Hoan biết rằng sinh mạng chính trị của mình từ nay đã thập phần nguy ngập nhưng cũng chỉ biết chôn chặt trong lòng chứ không dám lộ ra để toàn quân rối loạn.
          Nhận mệnh lệnh lên đường đón đoàn thuyền lương Trương Vân Hổ, Ô Mã Nhi cùng đội hải thuyền tiến đến cửa Đại Bàng thì gặp thủy quân của ta. Trong tư thế không còn sự kiêu dũng ban đầu, lại đã có thông tin đoàn thuyền lương đã bị thủy binh Đại Việt đánh tan, Ô Mã Nhi bị thủy quân Đại Việt đánh thiệt hại nặng. Quân ta đốt phá và đánh đắm hàng trăm chiến thuyền địch. Đội hải thuyền hùng hậu của mười phần đã tổn thất đến năm sáu phần. Không còn con đường nào khác, Ô Mã Nhi, viên tướng khát máu nhất thất vọng đưa quân theo sông Bạch Đằng trở lại Vạn Kiếp.

Tình hình của đại quân Thoát Hoan ở Thăng Long cũng không khấm khá gì. Đứng trước nguy cơ bị tập kích bất cứ lúc nào từ nhiều hướng, đám tướng tá dưới quyền Thoát Hoan đã không có được cơ mưu nào chỉ còn nước bàn lùi: “Ở Giao Chỉ không có thành trì để giữ, không có lương thực để ăn mà thuyền lương của Trương Văn Hổ lại không đến, khí trời lại nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống giữ lâu được, sẽ làm hổ thẹn triều đình, nên toàn quân mà về thì hơn”.

Như một thứ biện bạch của phường trộm cắp. Trong tâm trạng đi cũng dở, ở không xong, thái tử điện hạ Trần Nam vương Thoát Hoan không ngờ ngày tàn của mình lại chóng đến làm vậy. Tâm trạng rối bời vừa sợ hãi vừa điên loạn, tháng 3 năm 1288, Thoát Hoan hạ lệnh triệt phá kinh thành Thăng Long, chia quân làm hai đạo thủy bộ rút về nước. Một mệnh lệnh hành quân ô nhục nhất của đạo quân xâm lược.
Trong các trận thắng khi truy kích giặc rút chạy, tiêu biểu nhất phải kể đến là chiến thắng Bạch Đằng.
Về đại thắng trên sông Bạch Đằng, có thể nói đây là một tính toán thần diệu của Hưng Đạo vương mà sử sách không ngớt lời ca ngợi. Đến nay nước sông tuy chảy hoài/ Mà nhục quân thù khôn rửa nổi (Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu.)

Đoán biết trước ý định rút quân của đại quân Thoát Hoan cũng là lúc quyết định tổ chức một trận đại thủy chiến đánh gục ý chí xâm lược Đại Việt của Đế chế Nguyên - Mông (lần xâm lược này thủy binh giặc đã gây không ít khó khăn cho ta, đặc biệt là Ô Mã Nhi rất hiếu chiến và càn dỡ) Hưng Đạo vương quyết định mai phục lớn tại sông Bạch Đằng, chủ trương chôn vùi toàn bộ thủy quân địch.
          Tiếp thu và phát huy kinh nghiệm của Ngô Vương Quyền từng đại thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Hưng Đạo vương cho quân sĩ và dân binh đẵn hàng ngàn cọc gỗ lim vót nhọn, đầu bịt sắt cắm xuống lòng sông tạo thành một bãi chông khổng lồ, một cái bẫy liên hoàn sẵn sàng chôn vùi toàn bộ đội hải thuyền của Ô Mã Nhi.

Chiến thuyền của ta được trang bị gọn nhẹ, sức cơ động cao, khả năng tác chiến linh hoạt, đặc biệt là việc thông thạo các luồng lạch, nắm bắt việc lên xuống của thủy triều, mỗi doi cát, ghềnh đá, sình lầy quân và dân ta đều thuộc như trong lòng bàn tay. Đúng như dự đoán của Hưng Đạo vương, đạo thuỷ quân của Ô Mã Nhi sáng sớm ngày mùng 9 tháng 4 năm 1288 dần tiến vào vùng đất chết.
          Mặc dù đã có nhiều kinh nghiệm trận mạc, lại từng đánh thắng đội chiến thuyền của Trần Khánh Dư nhưng trong cuộc rút quân về nước lần này chiến tướng Ô Mã Nhi luôn thấp thỏm. Biết được tâm can bất an của viên đại tướng mà vua cha rất yêu cũng là muốn bảo vệ đội hải thuyền - vốn liếng thủy quân của hoàng đế Đại Nguyên, thái tử Thoát Hoan sai đại tướng Trình Bằng Phi đem kỵ binh hộ tống quân thủy rút cho chắc ăn. Tính toán thì như vậy nhưng thực tiễn chiến trường diễn ra không theo ý của kẻ xâm lăng. Với địa hình không thuận lợi, nhiều ao hồ, đầm lầy, các cửa sông lau lách um tùm, dân binh Đại Việt trên đà thắng lợi ngày đêm truy sát. Đám kỵ binh Trình Bằng Phi không những không hỗ trợ được quân thủy rút chạy mà còn bị tỉa dần, thủy bộ không ứng chiến được cho nhau. Mỏi mệt và có nguy cơ tan rã dọc đường, đến Đông Triều, kỵ binh Trình Bằng Phi không sang được sông đành phải quay trở lại Vạn Kiếp. Đây là một sai lầm chiến thuật của thái tử Thoát Hoan, gây lên sự mệt mỏi hoang mang, không phát huy tác dụng sự hỗ trợ thủy bộ còn làm nao núng lòng quân. Điều này cho thấy thực chất khả năng quân sự của thái tử Thoát Hoan còn rất nhiều hạn chế nếu không muốn nói là yếu kém, dốt nát, điều tối kỵ của một thống soái hàng đầu, còn là tối kỵ với những quyết sách của hoàng đế Đại Nguyên. Xưa nay, việc dùng binh chọn tướng của Đế chế Nguyên - Mông luôn rất nghiêm ngặt, không hiểu tại sao lại có thảm trạng nực cười đến thế.

Khi đó những bãi cọc ngầm hàng ngàn chiếc lừng lững ẩn tàng trong lòng nước thẳm sẵn sàng nhổm lên dạy cho lũ xâm lược một bài học nhớ đời. Những đội chiến thuyền gọn nhẹ, dũng mãnh, thiện chiến và đặc biệt là lòng căm thù giặc sâu sắc của tướng lĩnh, của nhân dân Đại Việt đã ở lúc đỉnh điểm đang chờ đón chúng. Sự chín muồi, kinh nghiệm dày dặn và đặc biệt là tư duy chiến lược sâu sa đánh một trận để trăm nghìn năm sau phương Bắc nhắc đến Bạch Đằng giang là tim đập chân run đã được những bộ óc tối cao của vương triều Trần đặt lên bàn cờ chiến trận.

Trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm đã diễn ra và sự đại thắng đương nhiên thuộc về những người chính nghĩa. Đội hải thuyền rút lui do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy ngả cờ im trống rạng sáng ngày 9 - 4 - 1288 tiến vào khúc sông Bạch Đằng. Bốn bề im ắng rợn người. Hai bên bờ sông lau sậy um tùm chìm trong sương trắng loênh loang tràn lấp khắp lòng sông. Tiếng quạ kêu sương rởn óc thỉnh thoảng rộ lên trên nền trời xám xịt. Thủy triều đang độ cường, dâng ứ. Sóng đánh oàm oạp vào các mạn thuyền. Một không khí u hiểm mơ hồ giăng mắc khắp lòng sông Bạch Đằng như ẩn chứa những căm hờn từ tiền kiếp. Soái thuyền Ô Mã Nhi được hộ tống bằng những chiến thuyền lớn tưởng như lọt vào một chốn mê cung và lũ lính tráng trên thuyền nửa tỉnh nửa mơ sau tháng ngày chiến chinh dằng dặc. Chúng chỉ mơ ước ngửi thấy mùi muối biển. Mùi muối biển đồng hành với sự lọt thoát khỏi vùng đất phương Nam luôn dình dập những chết chóc không báo trước. Đám tướng giặc, sau năm tháng chiến trận đã bắt đầu nếm bụi thời gian chỉ ao ước chóng được về quê hương bản quán quẳng bỏ gươm giáo mà cầm lấy cuốc cày trong công cuộc mưu sinh tuổi xế chiều. Bọn ngu ngốc mơ hồ có biết đâu chúng đã hoàn toàn lọt vào trận địa mai phục của Hưng Đạo vương. Tiếng pháo lệnh phá tan thinh không. Sương mù bị xé toang từng mảnh. Từ trên trời rơi xuống, từ dưới nước nhô lên, từ các cửa sông lau lách um tùm vọt ra vô số chiến thuyền và tiếng những dũng sĩ hô vang sát Thát ầm ầm lao vào thuyền giặc. Một biển lửa rừng rực bốc lên, những chiến thuyền Đại Việt thốc như bay lướt trên mặt sóng nhằm thẳng vào soái thuyền Toa Đô với một khí thế triều dâng thác đổ. Lần đầu tiên trong cuộc đời chinh chiến, viên tướng cáo già lão luyện cảm nhận rất rõ mình chính là con mồi của những thợ săn thiện chiến. Một tướng soái thiên triều lừng lẫy dọc ngang thiên hạ bây giờ không còn tự chủ nổi bản thân mình nói gì đến hô hào quân tướng thoát khỏi trùng vây thiên la địa võng. Than ôi! So với Hưng Đạo vương ta chỉ là một nhãi nhép quen cậy thế chủ cắn càn và giờ đây, nơi xa xôi kia, hẳn chủ ta đang vui vầy cùng bầy tiên nữ đoái hoài gì đến thảm cảnh của đám lâu la mạt vận. Trong những rùng mình liên tiếp, Ô Mã Nhi hô đám bộ tướng mở đường máu hòng thoát ra biển. Trong cơn tuyệt vọng, phải xuống đao với cả những người lính gàn bướng cản trở cuộc tháo thân, Ô Mã Nhi cay đắng lục tìm trong trí nhớ những tội ác mà y vô cớ gây cho đám dân lành con đỏ phương Nam. Đội hải thuyền tả tơi rách nát hỗn quân hỗn quan tuyệt vọng mở được đường máu thoát ra phía biển để lại trùng trùng những kêu than la khóc đang nghỉm dần dưới lòng sông ngầu máu. Đang định hạ lệnh triệu tập đám tàn tướng vừa mau chóng tháo thân bỏ mặc kệ thương binh tử sĩ khi phía trước không còn chiến thuyền của Đại Việt cũng là toan tạ ơn trời đất mở lượng hiếu sinh cho nhìn thấy trời đất Trung Nguyên, bái lạy Đại Nguyên Hoàng đế Hốt Tất Liệt sau đó muốn chém muốn giết thì tùy bỗng đâu phía trước bầu trời bỗng sập xuống đen kịt. Toàn bộ dòng sông Bạch Đằng nhan nhản cọc gỗ lim bịt thép nhọn ào ạt dâng lên bốn phía vây chặt toàn bộ đội hải thuyền còn lại đang hí hửng tẩu thoát ra biển. Không kịp than trời trách đất. Chỉ những tiếng ục oặc vang rền ghê rợn. Những dũng sĩ cọc nhọn hay thần tướng thần binh nhà trời mọc chi chít sao sa dựng từng chiến thuyền thiên quốc bẻ vặn răng rắc quật xuống lòng biển thẳm. Trong cơn tuyệt vọng cuối cùng, Ô Mã Nhi cùng lũ Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ (Si - ga - ri), Lý Thiên Hựu… hoàn toàn bị chia cắt và mất liên lạc trong tiếng gào rống rợn người. Ngày tàn của lũ ngông cuồng đã điểm. Trời đất cũng phẫn lộ nổi cơn giông bão sấm sét giáng xuống đầu quân cướp nước. Xung quanh không còn nổi lấy một tên lính hộ vệ, Ô Mã Nhi chết đứng trên soái thuyền đã bắt đầu bén lửa vì bị cọc sắt đâm thủng đang dần chìm xuống đáy sông. Một đời dọc ngang thiên hạ gây bao tội ác để có được những chiến công bằng máu bỗng chốc tan thành mây khói. Trong điên loạn, họ Ô điên rồ lao xuống nước xiết toan trà trộn vào đám tàn quân bị dân binh bắt trói đóng cũi như loài súc vật. Vị đại tướng thiên triều bỗng chốc trở thành tù binh trong tiếng sát Thát rền vang. Sau này trong bụng cá, nơi thế giới bên kia, không biết Ô tướng quân có lục tìm và xâu chuỗi nổi để lý giải tường minh về thất bại ô nhục của mình. Điều này chỉ người đời sau mới biết.

*
* *

Quốc công tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, vị thánh tướng hiền minh của dân tộc, tầm vóc tài năng quân sự kiệt xuất vượt ra khỏi gianh giới Đại Việt, là một trong mười tướng lĩnh tài giỏi nhất mọi thời đại được thế giới tôn vinh. Tài năng quân sự của ông biểu hiện rõ nhất là giá trị sớm nhận thức được nguồn sức mạnh của nhân dân trong giữ nước, đánh giặc ngoại xâm. Trong sự nghiệp hiển hách ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, Hưng Đạo vương có vai trò đặc biệt quan trọng. Ông được vua Trần tin yêu, giao quyền tiết chế, thống suất cả vương hầu, tông thất, tướng lĩnh, dân binh, điều động toàn quân chống giặc. Bản lĩnh của Hưng Đạo vương thể hiện ở quyết tâm đánh địch và đánh thắng địch mạnh không gì lay chuyển, ngay cả những lúc thế nước ngàn cân treo sợi tóc đều tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng, là ngọn cờ giữ vững lòng quân, lòng dân. Khi sự mất còn của đất nước trong gang tấc, quân xâm lược tưởng như đã đè bẹp được ý chí đấu tranh của Đại Việt, nội bộ quý tộc và quan lại vương triều đã nao núng, thậm chí hàng địch thì Hưng Đạo vương vẫn một mực hiên ngang, củng cố và giữ vững lòng tin vào đại thắng của chính nghĩa.

Tài năng kiệt xuất của Hưng Đạo vương chính là việc nhận thức rõ nhân dân mới là nguồn sức mạnh giữ nước, nguồn sức mạnh vô địch, nguồn sức mạnh mà không một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục. Ông luôn chăm lo sức dân ngay từ thời bình cũng như trong thời chiến. Chủ trương sâu sắc của ông mà đỉnh cao là tư tưởng: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc mới là thượng sách giữ nước”.

Cũng hiếm người nhìn ra việc đoàn kết nội bộ là việc sống còn, là yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh, nâng cao quốc lực, tiền đề cho thắng lợi cuối cùng như ông. Cũng chính Hưng Đạo vương, sau các chiến thắng lừng lẫy đã xác định, đại ý: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục nên quân địch đã phải bị bắt”. Yếu tố đoàn kết từ thượng tầng triều đình đến hạ tầng dân chúng, đoàn kết quân dân, đoàn kết toàn quân, xây dựng đội quân “phụ tử chi binh” chính là khơi dậy mạch nguồn sức mạnh từng bước tiến tới toàn thắng. Đó là nguồn sức mạnh vô địch mà nhân dân Đại Việt không những đứng vững mà còn chiến thắng đế quốc Nguyên - Mông.

Hưng Đạo vương trong với cương vị thống soái quân sự là một nhà chiến lược đại tài mà sử sách ắt hẳn sẽ còn bàn đến nhiều. Chiến lược quân sự của ông thực ra rất giản dị, đó là lấy nhỏ thắng lớn, cả nước đánh giặc, lấy đoản binh chống trường trận, không những có tính khoa học mà còn có tính thực tiễn rất cao mà đỉnh cao là chiến thắng cuối cùng. Từ lịch sử nghìn năm dựng nước và giữ nước, khi mà dân tộc Đại Việt luôn phải chiến đấu với các kẻ thù hùng mạnh gấp bội thì chiến lược quân sự của ông là hết sức đúng đắn. Chính từ chiến lược đúng đắn ấy, dân tộc ta đã chuyển từ tình thế hiểm nghèo sang chủ động, sáng tạo xoay chuyển thế trận, sáng tạo tạo dựng thời cơ. Khi thời cơ chín muồi chuyển sang tổng phản công, biết chọn đúng hướng, đúng mục tiêu, đánh những trận có tính quyết định khiến kẻ thù đông mà mất ưu thế, giảo quyệt mà thúc thủ, tàn ác mà phải run sợ, chuẩn bị kỹ cho cuộc chiến tranh xâm lược mà phải sớm tháo chạy nhục nhã thực là việc cổ kim chưa từng thấy.

Nghệ thuật quân sự của Hưng Đạo vương trong nhiều nét nổi bật thì tính chủ động và linh hoạt là một nét nổi trội hàng đầu. Trong những lúc tình thế hiểm nghèo, nghiêm ngặt nhất, ông vẫn biết cách chủ động điều địch trên các chiến trường theo chủ ý của người cầm quân, chủ định điều địch khi chúng ở thế thượng phong vẫn phải chạy theo ý đồ chiến lược của ta. Thực chất là dắt mũi chúng, xỏ mũi chúng mà chúng hoàn toàn không biết hoặc có biết cũng không có cách gì khắc chế được. Tư duy chiến lược của ông khiến địch khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn. Đó cũng là nền tảng làm lên chiến thắng giặc Nguyên - Mông.

Nghệ thuật quân sự của Hưng Đạo vương là việc phát động toàn dân tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Đại Việt, có lẽ ba lần kháng chiến Nguyên - Mông sự xuất hiện thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc ở khắp các thôn làng ngõ xóm, sự kết hợp chiến đấu của quân chủ lực triều đình với dân binh các dân tộc anh em diễn ra khăng khít là sớm nhất. Đó là một thế trận vô cùng sâu rộng, vô cùng chủ động và bền vững, không ngừng tiến công trên các mặt trận, tạo ra sức mạnh mà kẻ thù không lường hết được và đương nhiên chúng phải đại bại trước thế trận toàn dân.

Hưng Đạo vương không những là vị thống soái quân sự cao nhất mà còn là một nhà lý luận, nhà tư tưởng quân sự nổi tiếng với nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Điển hình của lý luận quân sự của ông thể hiện cao nhất ở Hịch tướng sĩ và sau này là bản di chúc lịch sử thể hiện tinh hoa khí phách dân tộc Đại Việt trong việc đánh giặc giữ nước. Tư tưởng quân sự của ông là tư tưởng quân sự tiến bộ, kết hợp tri thức quân sự đông tây kim cổ với thực tiễn chiến tranh, thực tiễn chiến trường và khả năng tác chiến của nhân dân. Tư tưởng quân sự của ông đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đầy sức sống, rất uyên thâm. Tư tưởng quân sự của ông là dựa vào dân, khoan thư sức dân, xây đoàn kết toàn dân, toàn quân và thể chế chính trị cầm quyền. Đó là những tư tưởng vượt thời gian, luôn có mặt trong mọi thời đại mà hậu thế đã tôn vinh.

Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn không chỉ có tài năng kiệt xuất về quân sự mà ông còn là một tấm gương sáng về lòng trung nghĩa, coi việc nước, coi giang sơn Tổ quốc cao hơn mọi hiềm khích riêng tư, Tổ quốc cao hơn ngai vua, cao hơn những tư thù, tị hiềm, vị kỷ. Dưới trướng của ông, những bậc hiền tài lương tướng trưởng thành và được trọng dụng, là giường cột quốc gia. Những tướng lĩnh được ông đào tạo không những có biệt tài đánh giặc, họ còn thể hiện đức cao vọng trọng từ chính tấm gương của ông. Đó là một điều vô cùng hiếm hoi trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300), Bình Bắc Đại nguyên soái Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn qua đời. Theo di huấn, thi hài ông được hỏa táng, tro chôn trong rừng An Sinh nơi thực ấp cũng là một suy nghĩ thấu đáo và vô cùng giản dị của vị thánh tướng.

Vua Trần Anh tông truy tặng Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn tước: Thái sư Thượng Phụ Quốc Công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại vương. Nhân dân có cách tưởng niệm riêng của mình. Chỉ có nhân dân mới có cái nhìn đúng đắn nhất về Đức Ngài. Toàn quốc hầu như chỗ nào nhân dân cũng lập đền thờ Ngài và suy tôn Ngài là Đức Thánh Trần.

Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, vị anh hùng dân tộc vĩ đại đi vào lịch sử, đi vào thế giới huyền thoại, thế giới tâm linh, đã trở thành Đức Thánh được nhân dân thờ phụng. Vị thánh tướng hiền minh bằng xương bằng thịt thiêng liêng bậc nhất trong các thần thánh được toàn dân suy tôn, tưởng vọng của dân tộc Việt Nam.

PHÙNG VĂN KHAI

(Tạp chí VNQĐ- Số 4, Lý Nam Đế, Hà Nội)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro