liêu trai chí dị quyển 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thi Thành Hoàng

(Khảo Thành Hoàng)

Ông nội người anh rể của ta họ Tống húy Đạo, là Lẫm sinh* trong huyện. Một hôm ông bệnh nằm trong nhà, thấy có viên lại cầm công văn dắt một con ngựa bờm trắng tới nói "Mời ông đi thi". Ông nói "Quan chấm thi chưa tới, làm sao mà thi?". Viên lại không đáp, chỉ giục đi mau. Ông ra sức cưỡi ngựa chạy nhanh theo, đường đi rất lạ, tới một nơi thành quách như kinh đô của bậc vương giả.

*Lẫm sinh: học trò trường phủ học ở Trung Quốc thời Thanh, được hưởng học bổng và miễn một số nghĩa vụ thuế má dao dịch.

Lát sau vào một Công thự, cung thất tráng lệ, ở trên có mười người ngồi, đều không biết là ai, chỉ nhận ra là có Quan Đế*. Dưới thềm bày hai cái bàn hai cái ghế, đã có một vị Tú tài ngồi trước, ông cũng tới ngồi cạnh. Bàn nào cũng có sẵn giấy bút, ngay sau đó đề thi đưa xuống, nhìn vào thấy có tám chữ "Nhất nhân nhị nhân, hữu tâm vô tâm" (Một người với hai người, hữu ý hay vô ý). Hai người làm bài xong trình lên, bài của ông có câu "Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng, vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt" (Có ý làm điều thiện, dù thiện cũng không thưởng, vô ý làm điều ác, dù ác cũng không phạt).

* Quan Đế. tức Quan Vũ, còn gọi là Quan Công, tự Vân Trường, em kết nghĩa và là tướng của Lưu Bị, Tiên chủ nhà Thục Hán thời Tam quốc, nổi tiếng nghĩa khí, được nhân dân Trung Quốc thờ là thần, thời Tống phong tặng là Quan Thánh Đế quân.

Các thần chuyền tay nhau xem, khen ngợi không thôi, gọi ông lên dụ rằng "ở Hà Nam khuyết một chỗ Thành hoàng, ông xứng đáng giữ chức ấy". Ông mới hiểu ra, lạy phục xuống khóc nói "Được ban mệnh lệnh, đâu dám chối từ! Nhưng còn có mẹ già bảy mươi tuổi không người phụng dưỡng, xin chờ khi đã trọn tuổi trời sẽ vâng mệnh giữ chức". Ở trên có một vị dáng mạo như bậc đế vương lập tức ra lệnh "Tra sổ xem mẹ ông ta thọ được bao nhiêu". Có một viên lại râu dài giở sổ ra xem lại một lượt bẩm rằng "Còn thọ chín năm nữa". Mọi người đang ngần ngừ, Quan Đế nói "Không sao, cứ sai Trương sinh thay, đủ hạn chín năm sẽ giao cho ông ta giữ chức cũng được", rồi nói với ông rằng "Lẽ ra phải đi nhận chức ngay, nhưng nay nghĩ tới lòng hiếu thảo nên cho hoãn chín năm, đến hạn sẽ lại triệu".

Lại khuyến dụ vị Tú tài kia mấy câu, hai người cùng lạy lui ra. Vị Tú tài nắm tay ông đưa ra tới ngoài thành, tự nói là họ Trương ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông), có thơ đưa tiễn nhưng ông quên cả, chỉ nhớ được hai câu "Hữu hoa hữu tửu xuân thường tại, Vô nguyệt vô đăng dạ tự minh" (Có hoa có rượu xuân thường cạnh, Không nến không trăng tối tự soi).

Ông đã lên ngựa, bèn chia tay rồi đi, về tới làng mới giật mình tỉnh dậy. Lúc ấy ông đã chết ba ngày rồi, mẹ ông nghe trong quan tài có tiếng rên rỉ bèn tới đỡ ra, nửa ngày sau mới nói được. Hỏi thăm thì hôm ấy ở Trường Sơn quả có Trương sinh chết.

Chín năm sau quả nhiên mẹ ông mất, ông lo liệu tang ma xong, tắm gội vào phòng nằm rồi tắt hơi. Cha vợ ông ở cửa tây trong thành, chợt thấy ông tới, nghi vệ lộng lẫy, tùy tùng rất đông, vào nhà lên thềm lạy một lạy rồi đi. Người nhà thảy đều ngờ sợ, không biết ông đã làm thần, vội tới làng để hỏi mới hay ông đã chết rồi. Ông có tự viết lại tiểu truyện của mình, tiếc là sau loạn đã mất, trên đây chỉ là tóm tắt lại mà thôi.

Người Trong Con Ngươi Trò Chuyện

(Đồng Nhân Ngữ)

Người học trò ở Trường An là Phương Đống, cũng có tài danh nhưng tính khinh bạc không giữ lễ nghi, cứ ra đồng gặp con gái đi chơi là lập tức theo tán tỉnh.

Một hôm trước tiết Thanh minh đi chơi ngoài thành thấy một chiếc xe nhỏ mui gấm rèm thêu, có vài người tỳ nữ cưỡi ngựa thong thả theo sau, trong đó có một nàng cưỡi con ngựa tốt, dung mạo rất đẹp. Bèn tới gần nhìn, thấy rèm xe đang vén lên, bên trong có một nữ lang trạc mười sáu tuổi, trang sức lộng lẫy, bình sinh chưa thấy ai đẹp như vậy nên mắt hoa đầu váng cứ đuổi theo nhìn, khi thì chạy lên trước, lúc thì tụt lại sau, theo suốt mấy dặm.

Chợt nữ lang gọi người tỳ nữ tới cạnh xe nói "Buông rèm xuống cho ta! Gã tiểu tử ngông cuồng kia ở đâu dám lại đây nhìn ngó?" Người tỳ nữ buông rèm xe xong ngoái nhìn sinh giận dữ nói "Đây là vợ mới cưới của Thất lang ở thành Phù Dung về nhà thăm cha mẹ, không phải như các cô gái nhà quê, phải dạy cho học trò hỗn láo nhà ngươi mới được". Dứt lời cầm một cục đất dính ở bánh xe ném vào mặt sinh, sinh tối cả mắt lại. Đến khi gỡ được bùn đất ra nhìn thì đoàn xe ngựa đã đi xa, sợ hãi trở về.

Thấy con mắt xốn xang rất khó chịu, nhờ người khác vạch mi mắt ra xem thì trong con ngươi có một cái màng, qua một đêm càng cộm thêm, nước mắt chảy giàn giụa không ngừng. Cái màng ấy ngày càng to, qua vài ngày dày như đồng tiền, mắt trái cũng bị sưng như vậy, thuốc thang gì cũng không khỏi, buồn rầu muốn chết, tự lấy làm hối hận.

Nghe nói kinh Phật có thể giải ách bèn tìm một quyển, nhờ người đọc cho để học thuộc lòng mà tụng. Buổi đầu còn thấy lo lắng phiền não, sau dần thấy tinh thần thư thái, ban tối rảnh rỗi thì ngồi xếp bằng lần tràng hạt mà niệm, được một năm thì thấy hoàn toàn yên ổn.

Chợt nghe trong con mắt bên trái có một giọng nói nhỏ như tiếng nhặng vo ve rằng "Tối tăm như ban đêm thế này, ai mà chịu nổi" Trong con mắt bên phải cũng có một giọng đáp "Hay chúng ta cùng ra ngoài chơi một lúc đi, cho đỡ buồn bực". Kế sinh dần dần thấy trong mũi có cái gì cọ quậy rất ngứa ngáy, như có con vật bò ra, một lúc lâu thì trở lại, lại theo lỗ mũi mà vào. Vào tới trong lại nói "Lâu quá không ra vườn chơi, giò lan Trân châu đã chết khô rồi".

Sinh vốn rất thích lan, trong vườn trồng rất nhiều, hàng ngày vẫn ra tưới bón, nhưng từ khi bị lòa thì lâu không hỏi tới. Lúc bấy giờ chợt nghe thấy thế, bèn căn vặn vợ "Sao lại để lan chết khô như vậy?". Vợ hỏi sao biết, sinh kể lạ nguyên do, vợ ra vườn nhìn xem thì giò lan quả đã khô quắt rất lấy làm lạ lùng. Bèn lặng lẽ núp lại trong phòng, thấy có hai người bé tí nhỏ hơn hạt đậu từ trong lỗ mũi sinh bò ra thoắt cái đã ra khỏi cửa, nhìn theo thì đã mất dạng. Loáng sau lại sóng đôi bay về, đáp xuống mặt sinh, lại như con ong về tổ chui trở vào, cứ như thế suốt hai ba hôm.

Chợt sinh nghe người bên mắt trái nói "Đường hầm quanh co khuất khúc, ra vào qua lại bất tiện quá, chẳng bằng mở lấy một cái cửa". Người bên mắt phải nói "Vách bên ta rất dày, không dễ đâu". Người bên mắt trái nói "Để ta phá thử xem, nếu được sẽ cùng ngươi dùng chung". Kế thấy trong con mắt trái như có cái gì xé toạc ra, giây lát mở mắt ra nhìn, thì lại thấy mọi vật như thường.

Sinh mừng rỡ nói với vợ, vợ tới xem thì thấy cái màng trong mắt trái đã vỡ ra một lỗ, tròng đen di động như hạt tiêu. Qua một đêm thì lớp màng mất sạch, nhìn kỹ vào thì thấy mắt có hai con ngươi nhưng mắt phải vẫn bị sưng phồng lên như cũ, mới biết hai người trong mắt đã sang ở chung một chỗ. Sinh tuy chỉ có một mắt, nhung sáng chẳng kém người còn đủ hai mắt, nhìn gì cũng thấy. Từ đó ngày càng tự kiểm thúc, người làng khen là có nết tốt.

Dị Sử thị nói: Làng ta có người học trò cùng hai người bạn đi trên đường, thấy xa xa có một thiếu phụ bèn thúc lừa chạy vượt lên ngâm đùa rằng "Có người đẹp chừ"* rồi nhìn hai người bạn nói "Đuổi theo mau" định trêu ghẹo đùa bỡn. Giây lát đuổi kịp thì là vợ con trai, mất cả khí thế, ngậm tăm không nói gì. Hai người bạn lại làm ra vẻ không biết, cứ bô bô bình luận này nọ. Người học trò sượng ngắt, ấp a ấp úng nói "Đây là con dâu lớn của ta", họ mới nhịn cười mà thôi đi. Kẻ tính hạnh khinh bạc thành ra tự làm nhục mình, thật đáng cười vậy. Đến như mù mắt hết thấy đường, thì đó là quỷ thần báo oán đấy. Thành chủ thành Phù Dung không rõ là thần nào, hay là Bồ Tát hiện thân chăng? Nhưng lang quân bé tí phá vách mở cửa, thì quỉ thần tuy ghét kẻ xấu nết cũng đâu không cho người ta tự sửa mình.

* "Có người đep chừ": nguyên văn là "Hữu mỹ nhân hề", chữ trong bài phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như hát khi khêu gợi Trác Văn Quân "Hữu mỹ nhân hề, kiến chi bất vương (vong), Nhất nhật bất kiến hề, tư chi như cuồng..." (Có người đẹp chừ, gặp rồi không quên, Một ngày không gặp chừ, nhớ như điên cuồng), ở đây người học trò đọc để trêu gái.

Bức Tường Vẽ Tranh

(Họa Bích)

Mạnh Long Đàm người Giang Tây cùng Hiếu liêm họ Chu lên trọ ở kinh đô, tình cờ tới chơi chùa nọ. Thấy điện Phật, hành lang, thiền phòng đều không có gì to lớn rộng rãi, chỉ có một nhà sư già trú ngụ.

Sư thấy có khách tới, xốc áo ra đón, dẫn đi xem khắp nơi. Trong điện có tượng thần sư Chí Công, hai vách vẽ tranh rất tinh xảo, nhân vật đều như thật, tường bên đông vẽ bức tranh Thiên nữ rắc hoa, trong có một người tóc xõa cầm hoa mỉm cười, môi son như động, sóng mắt như đưa.

Chu chăm chú nhìn một lúc lâu, bất giác thần trí tiêu tan, chợt thấy thân thể phơi phới như đằng vân giá vụ, đã lên tới trên vách. Thấy điện gác chập chồng không phải như ở cõi trần, có một vị sư già đang ngồi trên tòa giảng kinh, những người khoác áo hở vai đứng nghe rất đông,

Chu cũng trà trộn vào đứng trong đó. Giây lát thấy như có người ngầm kéo áo mình, quay nhìn thì thấy thiên nữ xõa tóc cười tủm tỉm quay đi bèn lập tức đi theo qua hành lang quanh co thì tới một gian phòng nhỏ, ngần ngừ không dám bước tới. Cô gái qnay đầu giơ cành hoa trong tay vẫy vẫy ra hiệu gọi, bèn bước theo vào, thấy trong phòng không có một ai. Chu sấn tới ôm, nàng cũng không chống cự gì lắm bèn cùng nhau giao hoan. Xong rồi nàng đóng cửa đi, dặn Chu đừng ho hắng, đến đêm lại trở lạì, như thế hai ngày.

Chị em bạn biết, cùng nhau kéo tới tìm được sinh, đùa nói với cô gái rằng "Tiểu lang trong bụng đã lớn, mà còn để tóc bồng bồng học làm gái chưa chồng à?". Rồi cùng đưa trâm cài tóc và hoa tai bảo búi tóc cao lên, cô gái thẹn thùng không nói năng gì. Một nàng nói "Chị em ơi, đừng ở đây lâu, e người ta không vui", mọi người cười rộ kéo đi.

Sinh thấy cô gái tóc mây búi cao, trâm phụng rủ thấp, so ra còn đẹp hơn nhiều so với lúc còn xõa tóc. Nhìn quanh không có ai bèn cùng nhau lên giường, mùi lan xạ thơm ngát ngây ngất lòng người. Còn đang vui vầy chợt nghe tiếng ủng da cồm cộp, khóa sắt loảng xoảng, lại có tiếng tranh cãi huyên náo.

Cô gái hoảng sợ vùng dậy cùng Chu ra nhìn trộm thì thấy một sứ giả giáp vàng mặt đen như sơn, tay khóa tay chùy, các thiên nữ đứng chung quanh. Sứ giả hỏi "Đã đủ cả chưa?", họ trả lời đã đủ cả. Sứ giả nói "Nếu có giấu diếm người dưới trần thì phải khai ngay ra, đừng để phải chịu tội", mọi người lại đồng thanh nói không có. Sứ giả quay người ngạc nhiên nhìn quanh như tìm kẻ trốn lánh, cô gái cả sợ mặt xám như tro, hớt hải nói với Chu "Trốn xuống gầm giường mau" rồi mở cánh cửa nhỏ bên vách trốn đi.

Chu nằm im không dám thở mạnh, kế nghe tiếng ủng da bước vào trong phòng rồi trở ra, không bao lâu tiếng ồn ào xa dần, trong lòng hơi yên nhưng ngoài cửa vẫn có người qua lại bàn bạc. Chu thấp thỏm hồi lâu, thấy ù tai hoa mắt không sao chịu nổi nữa, chỉ im lặng nghe ngóng chờ cô gái quay lại, cũng không nhớ được rằng mình vốn từ đâu tới đây.

Lúc ấy Mạnh Long Đàm ở trong điện, chớp mắt không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi sư, sư cười nói "Đi nghe giảng kinh rồi". Hỏi ở đâu, sư đáp không xa, kế lấy ngón tay búng lên tường gọi "Chu đàn việt, sao đi chơi lâu không về thế?" liền thấy trong búc tranh trên vách có hình Chu đang nghiêng tai nhón chân như nghe ngóng.

Sư lại gọi nói "Ông bạn đi cùng đợi lâu rồi!", Chu bèn lãng đãng trên vách bước xuống, lòng lạnh người ngây, mắt hoa chân nhũn. Mạnh cả sợ, từ từ hỏi han thì là Chu đang nằm duới gầm giường nghe tiếng gõ cửa như sấm bèn ra khỏi phòng nghe trộm. Cùng nhìn tới cô gái cầm hoa thì thấy tóc đã búi cao chứ không buông xuống như truóc. Chu hốt hoảng vái lạy sư già hỏi duyên cớ, sư cười nói "Ảo giác từ lòng người sinh ra, lão tăng làm sao giải thích được?". Chu lo lắng không nói ra, Mạnh sợ sệt không kìm được, lập tức đứng lên lần theo bậc thềm ra về.

Dị Sử thị nói: Ảo giác từ lòng người sinh ra, lời ấy giống như của kẻ có đạo. Người có lòng dâm tà sẽ sinh ra cảnh bậy bạ, người có lòng bậy bạ sẽ sinh ra cảnh đáng sợ. Bồ Tát điểm hóa kẻ mê muội, làm ra ngàn muôn ảo giác, đều do lòng người động mà nhìn thấy thôi. Sư già thiết tha điểm hóa, tiếc là không thấy hai người kia nghe xong chợt giác ngộ, xõa tóc vào núi vậy.

Trồng Lê

(Chủng Lê)

Có người nhà quê bán lê ở chợ, ngon ngọt thơm tho, bán giá rất đắt. Có một đạo sĩ khăn rách áo cũ đứng xin trước xe, người nhà quê đuổi không chịu đi, tức giận chửi mắng. Đạo sĩ nói "Một xe lê hàng vài trăm quả, lão nạp chỉ xin một quả, đối với cư sĩ có mất mát bao nhiêu, sao lại tức giận?".

Người chung quanh khuyên nên lựa một quả nhỏ cho để đạo sĩ đi, nhưng người nhà quê nhất quyết không chịu. Có người làm công trong phố thấy cãi vã bực mình bèn trả tiền mua một quả đưa cho đạo sĩ, đạo sĩ cảm tạ rồi nói vớì mọi người rằng "Người tu hành không được keo bẩn, ta có trái lê ngon, xin đưa ra mời khách".

Có người nói "Ông dã có được, sao không ăn?", đạo sĩ đáp "Ta chỉ cần cái hạt làm giống thôi". Rồi bóp vỡ quả lê, lấy hạt ra cầm trong tay, rút cái xẻng nhỏ trên vai đào đất sâu xuống mấy tấc, thả cái hạt lê vào rồi lấp lại, xin người trong chợ cho nước sôi tưới. Có kẻ hiếu sự chạy vào quán cơm cạnh đường xin được nước sôi, đạo sĩ bèn cầm lấy rót lên cái hố. Mọi con mắt đổ dồn vào, đều thấy cái mầm nhú lên, giây lát lớn thành cây lê, cành lá thưa thớt, chợt nảy hoa, chợt thành quả, to lớn thơm tho, kĩu kịt đầy cây.

Đạo sĩ bèn đứng ở trước cây hái chia cho mọi người đứng xem, trong giây lát hết sạch, rồi lấy cái xẻng chặt, cây lê kêu răng rắc hồi lâu đổ xuống, đạo sĩ bèn vác lên lấy cành lá che đầu, ung dung bỏ đi.

Lúc đạo sĩ bắt đầu làm phép, người nhà quê kia cũng đứng lẫn trong đám đông xem, vươn cổ nhướng mắt quên cả xe lê. Khi đạo sĩ bỏ đi mới nhìn lại xe thì lê đã hết sạch, mới biết vừa rồi ông ta phân phát đều là lê của mình. Lại nhìn kỹ thì thấy trong xe mất một cái cuốc, dấu gãy còn mới tinh, trong lòng tức giận. Vội vàng đuổi theo, qua khỏi góc tường thì thấy cái cuốc gãy vứt lại trên mặt đất, mới biết đó là đạo sĩ lấy làm thân cây lê. Đạo sĩ thì chẳng biết ở đâu, cả chợ cứ tủm tỉm cười.

Dị Sử thị nói: Người nhà quê khư khư tiếc của, sự ngây ngốc có thể thấy rõ, đến nỗi bị người trong chợ cười, có lạ gì. Từng thấy trong làng có người vốn nổi tiếng giàu có, mà bạn thân tới xin gạo thì tiếc của, kể lể rằng "Đây là mấy ngày ăn đấy" Có người giúp đỡ được một kẻ hoạn nạn, nuôi được một bữa cơm, thì tức tối kể lể rằng "Ăn bằng năm bằng mười người thường", thậm chí đối với cả cha con anh em cũng so kè từng ly từng tí. Thế mà tới lúc máu đỏ đen nổi lên thì dốc rương cờ bạc không nuối tiếc, kẻ cướp kề dao vào cổ thì vét tiền chuộc mạng không nề hà. Như hạng người ấy mới là nói không hết, chứ người nhà quê ngu ngốc kia đâu đã đủ để lạ lùng?

Đạo Sĩ Núi Lao

(Lao Sơn Đạo Sĩ)

Huyện ta có Vương sinh, bày hàng thứ bảy, là con nhà thế gia cũ. Lúc trẻ mộ đạo, nghe nói núi Lao (ở huyện Túc Mặc tỉnh Sơn Đông) có nhiều thần tiên, bèn khăn gói tới tìm, lên tới một ngọn núi, thấy có đạo quán rất tịch mịch u nhã. Thấy có một đạo sĩ ngồi trên nệm cỏ tròn, tóc trắng xõa tới vai nhưng dung mạo tráng kiện. Lạy chào bắt chuyện, thấy rất tinh thông đạo lý huyền diệu, xin nhận làm thầy.

Đạo sĩ nói "Sợ sức vóc mảnh dẻ không chịu nổi cực khổ", thưa rằng "Chịu được". Học trò của đạo sĩ rất đông, chiều tối kéo hết về, Vương đều vái chào làm lễ ra mắt rồi ở lại trong đạo quán. Mờ sáng đạo sĩ gọi Vương đi, đưa búa sai theo mọi người đốn củi, Vương kính cẩn nghe theo. Hơn một tháng tay chân nổi chai, không chịu nổi khổ cực ngầm có ý muốn về.

Một chiều hái củi về, thấy hai người đang cùng thầy uống rượu, trời đã tối vẫn không có đèn đuốc gì, thầy bèn cắt giấy thành hình tấm gương dán lên vách, trong chốc lát như vầng trăng sáng vằng vặc trên vách, chiếu rõ từng sợi tóc, đám học trò xúm quanh lui tới hầu hạ. Một người khách nói "Đêm đẹp vui vẻ không nên riêng hưởng", bèn cầm bầu rượu trên bàn chia cho bọn học trò, lại nói cứ uống thật say. Vương tự nhủ "Có bảy tám người, một bầu rượu làm sao mà đủ?".

Ai nấy đều đi tìm tô chén tranh nhau rót trước, chỉ sợ hết rượu nhưng rót đi rót lại mà rượu trong bầu vẫn không vơi, thầm lấy làm lạ. Giây lát một vị khách nói "Đã được ơn ban cho trăng sáng, nhưng vắng vẻ quá, sao không gọi Thường Nga tới?". Đạo sĩ bèn lấy đũa ném vào vầng trăng, thì thấy một mỹ nhân từ trong vầng ánh sáng bước ra, lúc đầu cao chưa đầy một thước, tới đất thì cao bằng người thường, lưng thon cổ đẹp, phấp phới múa khúc Nghê thường, múa xong hát rằng:

Tiên tiên ơi, về đi thôi

Chốn Quảng Hàn đây ta lẻ loi

Âm thanh trong trẻo cao vút sánh với tiếng tiêu. Hát xong lại múa vòng rồi nhảy lên bàn, trong chớp mát lại trở thành chiếc đũa. Ba người cười rộ, lại một vị khách nói "Đêm nay vui quá nhưng tửu lượng có hạn, xin tiễn bọn ta ở cung trăng được không?". Ba người dời bàn rượu dần dần vào vầng trăng, mọi người nhìn thấy ba người ngồi trong vầng trăng uống rượu, râu tóc đều rõ mồn một như nhìn vào trong gương.

Lát sau vần trăng tối dần, học trò đốt đuốc tới thì chỉ có đạo sĩ ngồi một mình ở bàn, mà khách đã đi mất rồi. Thức ăn trên bàn hãy còn mà vầng trăng trên vách chỉ còn là một mảnh giấy tròn như tấm gương mà thôi. Đạo sĩ hỏi mọi người "Đã uống đủ chưa?" thưa "Đã đủ rồi". "Đủ rồi thì đi ngủ cho sớm, đừng để lỡ việc kiếm củi sáng mai", mọi người vâng dạ lui ra. Vương thầm thích thú hâm mộ, không muốn về nữa.

Lại đến một hôm thấy khổ cực không thể chịu nổi mà đạo sĩ vẫn không dạy cho một phép thuật nào, không chờ được nữa bèn cáo từ nói "Đệ tử từ mấy trăm dặm tới học đạo, giả như không được dạy phép trường sinh thì cũng mong được dạy chút thuật nhỏ cho thỏa lòng cầu đạo.

Thế nhưng đã hai ba tháng, chẳng qua chỉ sáng đi hái củi chiều trở về, lúc đệ tử ở nhà chưa quen khổ cục thế này bao giờ". Đạo sĩ cười nói "Ta đã nói rằng ngươi không chịu nổi cực khổ, nay quả đúng thế, sáng mai sẽ đưa ngươi về". Vương nói "Đệ tử làm lụng nhiều ngày, xin thầy dạy qua một thuật nhỏ để không phụ công tới đây". Đạo sĩ hỏi muốn học thuật gì, Vương nói "Thường thấy thầy đi đâu, tường vách đều không ngăn cản được, nếu học được phép ấy cũng là đủ rồi".

Đạo sĩ cười nhận lời rồi truyền cho khẩu quyết, sai tự niệm lấy xong, hô lớn "Vào đi!" Vương thấy vách không dám bước vào, đạo sĩ lại nói "Thử vào xem!". Vương lại thong thả bước vào vách, nhưng gặp tường lại bị ngăn lại. Đạo sĩ nói "Cúi đầu vào mau, đừng chần chừ", Vương lại tránh ra mấy bước rồi chạy mau vào, tới tường thấy trống không như không có gì, quay lại nhìn thì đã ở phía ngoài rồi. Cả mừng trở vào tạ ơn, đạo sĩ nói "Về tới nhà nên giữ mình trong sạch, không thì phép không nghiệm đâu", rồi cấp cho lộ phí về nhà.

Vương về tới nhà khoe là đã học qua phép tiên, tường vách cứng rắn cũng không ngăn cản được. Vợ không tin, Vương bèn làm như trước, đứng cách tường mấy thước rồi lao nhanh vào, đầu va phải tường ngã quay ra. Vợ tới đỡ dậy nhìn, thì trên trán nổi cục u to bằng quả trứng. Vợ cười nhạo, Vương thẹn thùng tức tối, chỉ còn cách chửi đạo sĩ già bất lương mà thôi.

Dị Sử thị nói: Nghe chuyện này không ai không cười lớn, nhưng không biết rằng những kẻ như Vương sinh trên đời lại có rất nhiều. Nay có kẻ ngu xuẩn ưa chất ngọt có độc mà sợ thuốc đắng châm đau, lại có kẻ hút mủ liếm trĩ* dâng cái thuật khoe oai sính bạo để đón ý, khinh suất nói đem thuật này có thể hoành hành không ai cản trở nổi. Buổi đầu làm thử thì chưa từng không có chút ít kết quả, bèn cho rằng thiên hạ to lớn cũng có thể theo đó mà làm, nếu không húc đầu vào tường cứng mà ngã quay ra thì không chịu thôi đâu.

* Hút mủ liếm trĩ: nguyên văn là "thỉ ung tuấn trĩ", chữ trong Nam hoa kinh, Liệt Ngự Khấu, chỉ hành động nịnh hót hèn hạ để tiến thân của kẻ vô sỉ.

Nhà Sư ở Trường Thanh

(Trường Thanh Tăng)

Có nhà sư ở Trường Thanh (tỉnh Sơn Đông) đạo hạnh cao khiết, tuổi đã hơn tám mươi vẫn còn khỏe mạnh. Một hôm chợt ngã chúi xuống, các sư trong chùa chạy tới đỡ dậy thì đã viên tịch rồi. Nhưng nhà sư không biết mình đã chết, hồn cứ bay đi, tới địa giới tỉnh Hà Nam.

Ở Hà Nam có con nhà thân hào dẫn hơn mười người cưỡi ngựa thả ưng săn thỏ, ngựa lồng lên rơi xuống đất chết, hồn nhà sư vừa tới đó bèn nhập luôn vào, dần dần tỉnh lại. Đám đầy tớ xúm lại hỏi han thì cứ giương mắt nói "Sao ta lại tới đây?". Mọi người bèn đỡ về nhà, vào cửa thì đám thê thiếp môi son má phấn xúm lại thăm hỏi, phát hoảng nói "Ta là sư mà, sao lại tới đây?". Mọi người cho là còn choáng váng, ghé vào tai nhắc cho mà sư cũng chẳng hiểu nổi, bèn nhắm mắt không nói gì nữa. Cơm đưa tới nếu gạo xấu thì ăn, rượu thịt thì chối từ, đêm ngủ một mình, không cho thê thiếp hầu hạ.

Sau vài hôm chợt muốn dạo chơi, mọi người đều mừng rỡ. Ra tới bên ngoài, vừa dừng bước thì đám tôi tớ xúm tới, sổ sách tiền gạo tranh nhau đưa trình, nhao nhao xin lệnh. Công tử lấy cớ có bệnh còn mệt, nhất nhất chối từ, chỉ hỏi "Có biết huyện Trường Thanh tỉnh Sơn Đông ở đâu không?", mọi người cùng thưa có biết. Công tử bèn nói "Ta thấy buồn bực không vui, muốn tới đó chơi, mau sắp sửa hành trang". Mọi người nói vừa khỏi bệnh chưa nên đi xa, công tử không nghe.

Hôm sau lên đường, tới huyện Trường Thanh thấy phong cảnh vẫn như cũ, không phải hỏi đường một ai, đi thẳng tới chùa. Các sư đệ tử thấy khách sang tới, đón tiếp rất cung kính. Công tử hỏi "Sư già ở đâu?", họ đáp "Thầy bọn ta vừa mất". Hỏi mộ ở đâu, các sư bèn đưa tới, thì thấy ba thước mộ lẻ loi, cỏ hoang còn chưa phủ kín, các sư đều không biết khách có ý gì. Đến khi lên ngựa ra về, dặn rằng "Thầy của các ngươi là sư giữ gìn đạo hạnh, những vật còn để lại nên giữ cho kỹ, đừng để hư hỏng chút gì". Các sư vâng dạ, công tử bèn lên đường.

Về tới nhà ngơ ngác thẫn thờ, chẳng nhìn ngó gì tới việc gia đình. Được vài tháng ra cửa trốn đi một mình, về thẳng chùa cũ nói với đệ tử rằng "Ta là thầy các ngươi đây". Mọi người ngờ là nói đùa, nhìn nhau mà cười. Sư bèn kể lại chuyện nhập hồn vào xác lạ, lại nhắc lại việc làm lúc bình sinh, thảy thảy đều đúng, mọi người mới tin bèn đưa vào ở chỗ cũ, hầu hạ như ngày trước.

Sau gia đình công tử mấy lần đem xe kiệu tới năn nỉ xin trở về nhưng sư không ngó ngàng gì tới. Hơn một năm sau phu nhân sai đầy tớ tới thăm, đem rất nhiều quà cáp nhưng sư trả lại hết vàng lụa, chỉ nhận một chiếc áo vải mà thôi. Bạn ta có người tới đó kính cẩn xin gặp, thấy sư im lặng dốc lòng tu hành, tuổi chỉ trạc ba mươi mà học đạo hơn tám mươi năm rồi.

Dị Sử thị nói: Người chết thì hồn tan, mà hồn sư đi ngàn dặm chưa tan, là nhờ tính đã định vậy. Ta không lạ về việc sư sống lại mà lạ về chỗ bước vào nơi hương thơm sắc đẹp lại có thể dứt lòng trốn đi. Chứ nếu ánh mắt một phen lay động mà trong lòng sinh hương sắc thì có kẻ muốn chết còn không được kia, huống hồ là sư ư?

Hồ Gả Con Gái

(Hồ Giá Nữ)

Thượng thư bộ Lại họ Ân* người Lịch Thành (tỉnh Sơn Đông) lúc trẻ nhà nghèo, có can đảm. Trong làng có phủ đệ của nhà thế gia cũ, rộng vài mươi mẫu, lầu gác san sát nhưng thường thấy sự quái dị, vì vậy bỏ trống không ai ở. Lâu ngày cỏ hoa mọc đầy, ban ngày cũng không người nào dám vào. Có lần ông cùng các bạn bè học trò uống rưọu, có người nói đùa "Có ai dám vào đó ngủ lại một đêm, thì cả bọn góp tiền đãi một bữa rượu". Ông nhảy phắt dậy nói "Chuyện đó có khó gì?", bèn ôm một cái chiếu đi, mọi người đưa tới tận cổng, đùa nói "Bọn ta chờ ở đây, nếu thấy có gì lạ, cứ kêu to lên". Ông cười nói "Nếu có ma quỷ hồ tinh, sẽ bắt về làm chứng".

*Thượng thư bộ Lại họ Ân: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Sĩ Chiêm, tự Đường Xuyên, đỗ Cử nhân năm Canh tý (1540), đỗ Tiến sĩ năm Đinh mùi (1547) niên hiệu Gia Tĩnh thời Minh, làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại.

Bèn bước vào trong, thấy gai góc khuất lối, cỏ dại um tùm. Lúc ấy là đầu tháng, trăng non mờ mờ có thể nhìn thấy cổng nẻo, bèn lần theo vách đi một lúc mới tới lầu phía sau, lên hiên ngắm trăng thấy quang quẻ sạch sẽ đáng yêu liền dừng lại, trông về vầng trăng phía tây chỉ thấy như núi ngậm một sợi dây sáng mà thôi. Ngồi một lúc lâu chẳng thấy gì lạ, cười thầm lời đồn đãi hão huyền rồi trải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá nằm ngắm sao Ngưu lang Chúc nữ, một lúc thì thiu thiu ngủ.

Chợt duới lầu có tiếng giày lẹp kẹp đi lên, ông bèn giả ngủ hé mắt nhìn, thấy là một tỳ nữ cầm chiếc đèn lồng hình hoa sen, chợt trông thấy ông giật mình lui lại nói với người đi sau "Có người lạ ở đây". Người đi sau hỏi "Ai vậy?", trả lời "Không biết nữa". Giây lát có một ông già lên tới, tới sát ghé mắt nhìn ông rồi nói "Đây là quan Thượng thư họ Ân, nhưng đã ngủ say, cứ làm việc của ta đi, tướng công là ngươi không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quát nạt đâu".

Bèn kéo nhau lên cả trên lầu, mở hết cửa nẻo ra. Một lúc sau người qua lại càng đông, trên lầu đèn đuốc sáng như ban ngày, ông bèn khe khẽ trở mình, cất tiếng ho hắng. Ông già thấy ông tỉnh dậy bèn bước ra quỳ gối xuống nói "Tiểu nhân có đứa con gái gả chồng đem nay làm lễ rước dâu, không ngờ làm kinh động quý nhân mong ông bỏ qua". Ông đứng dậy đỡ ông già lên nói "Không biết đêm nay gia đình có việc vui mừng, thật thẹn không có lễ vật để tặng". Ông già nói "Được quý nhân quang lâm, trấn áp sự hung hiểm là may lắm rồi. Xin ông cảm phiền ngồi chơi thì càng quý hóa lắm". Ông vui vẻ nhận lời, bước vào trong lầu nhìn, thấy bày biện đẹp đẽ, lại có người đàn bà tới vái lạy, tuổi khoảng hơn bốn mươi, ông già nói "Đây là vợ quê của ta", ông bèn đáp lễ.

Chợt nghe tiếng đàn sáo inh tai, có người chạy mau từ dưới lên nói "Tới rồi". Ông già vội ra đón, ông cũng đứng chờ. Phút chốc có ngửơi cầm chiếc đèn lồng bằng sa đưa chàng rể vào, thấy tuổi khoảng mười bảy mười tám, dáng vẻ tuấn tú, ông già bảo làm lễ chào khách quý trước. Thiếu niên nhìn ông, ông như người giữ việc tiếp khách, bèn nhận nửa lễ chủ nhân, kế cha vợ chàng rể làm lễ với nhau, rồi ngồi vào bàn. Giây lát đám phụ nữ kéo lên đông đúc, rượu thịt bày ra la liệt, chén ngọc bình vàng sáng rực bàn ghế. Rượu được vài tuần, ông già gọi tỳ nữ mời tiểu thư ra, hồi lâu không thấy tới. Ông già đứng dậy vén màn hối thúc, giây lát một đám bà vú tỳ nữ đưa cô dâu ra, tiếng vòng ngọc lanh canh, mùi lan xạ thơm phức. Ông già bảo lạy người trên, nàng lạy xong đứng dậy tới ngồi cạnh mẹ, ông liếc nhìn thấy trâm phuợng dát ngọc biếc, vòng tai khảm minh châu, dung mạo đẹp tuyệt trần. Kế đó rót rượu vào chén vàng lớn chứa được vài đấu, ông nghĩ vật này có thể lấy để làm chứng với bạn bè bèn lén bỏ vào tay áo rồi giả say nằm phục lên bàn ngủ vùi. Mọi người đều nói "Tướng Công say rồi".

Không bao lâu nghe chàng rể xin rước dâu về, tiếng đàn sáo lại trỗi vang, nhộn nhịp xuống lầu ra đi. Kế chủ nhân dọn dẹp mâm chén thấy thiếu một cái chén uống rượu, tìm mãi không được, có người nói trộm là ông khách đang ngủ lấy, ông già vội bảo im, sợ ông nghe được. Lát sau trong ngoài yên ắng, ông mới trở dậy, thấy tối om không có đèn đuốc gì, chỉ còn mùi hương hơi rượu vẫn sực nức cả bốn bên.

Nhìn ra phía đông thấy trời đã rạng bèn thong thả bước ra, mò trong tay áo thì cái chén vàng vẫn còn, ra tới cổng thì các bạn bè học trò đã chờ sẵn, ngờ là ông đang đêm trở ra rồi gần sáng mới vào. Ông bèn đưa cái chén ra cho họ xem, mọi người kinh ngạc hỏi thăm, ông bèn kể lại mọi việc. Bạn bè đều nghĩ rằng học trò nghèo không thể có được vật này mới tin lời.

Về sau ông đỗ Tiến sĩ, làm quan ở huyện Phì Khâu (tỉnh Sơn Đông). Có nhà thế gia họ Chu mời ông ăn tiệc, sai lấy chén lớn uống rượu, lâu không thấy đem ra. Có đứa hầu nhỏ nói thầm với chủ nhân, chủ nhân có dáng tức giận. Giây lát mang chén vàng ra rót rượu mời khách uống, ông nhìn thì kiểu chén nét chạm giống hệt với cái thén của hồ, lấy làm ngờ vục bèn hỏi ở đâu chế tạo, chủ nhân đáp "Bộ chén này có cả thảy tám cái, đời cha ta làm quan khanh trong kinh tìm thợ giỏi chế ra, là vật gia bảo truyền đời, cất kỹ đã lâu. Nay được phủ quân hạ cố mới cho lấy trong hòm ra, thì chỉ còn có bảy cái. Ngờ là người nhà ăn trộm, nhưng dấu niêm phong mười năm vẫn còn nguyên, thật là không sao hiểu nổi". Ông cười nói "Chén vàng mọc cánh bay rồi, nhưng vật báu truyền đời không nên để mất, ta có một cái cũng hơi giống, xin đưa lại tặng".

Xong tiệc về dinh, lấy cái chén ruợn sai người đưa tới, chủ nhân xem kỹ rất hoảng sợ, đích thân qua cám ơn ông, hỏi từ đâu mà có. Ông bèn kể rõ đầu đuôi, mới biết vật trong vòng ngàn dặm thì hồ vẫn có thể lấy được, chỉ không dám giữ luôn mà thôi.

Kiều Na

(Kiều Na)

Khổng sinh Tuyết Lạp là dòng dõi Khổng phu tử, học vấn uẩn súc, giỏi làm thơ. Có người bạn học cũ làm Huyện lệnh Thiên Thai (tỉnh Chiết Giang) gủi thư mời, sinh tới thì người bạn vừa qua đời, bơ vơ không có tiền về, phải ngụ ở chùa Bồ Đà, chép thuê cho sư trong chùa.

Cách chùa hơn trăm bước về phía tây có tòa nhà của Đơn tiên sinh, vốn là con quan, vì chuyện kiện tụng nên sa sút, gia đình lại ít người bèn dời vào ở trong làng, tòa nhà thành ra bỏ hoang.

Một hôm tuyết lớn, trên đường vắng tanh, sinh ngẫu nhiên đi ngang, có một thiếu niên từ trong đi ra, phong tư anh tuấn, thấy sinh thì rảo bước tới chào hỏi rất lễ phép, mời vào nhà chơi. Sinh vui vẻ theo vào, thấy phòng ốc không rộng rãi lắm nhung chỗ nào cũng buông màn gấm, trên tường treo đầy thư họa của cổ nhân, trước bàn có một quyển sách, ngoài bìa đề Loan hoàn tỏa ký, sinh mở xem một lượt, đều là những chuyện mình chưa bao giờ nghe thấy. Sinh cho rằng thỉếu niên ở tòa nhà của họ Đơn thì ắt là chủ nhà, nên không hỏi thăm gia thế. Thiếu niên gạn hỏi tình cảnh của sinh, tỏ ý thương xót, khuyên sinh mở trường dạy học. Sinh than rằng "Ở nơi đất khách quê người, có ai chịu dương danh mách mối?". Thiếu niên nói "Nếu không chê, thì chính ta xin thụ giáo đây!". Sinh mừng rỡ nhưng không dám nhận là thầy, chỉ xin làm bạn, nhân hỏi "Tại sao lâu nay nhà này đóng kín cửa thế?" Đáp "Đây là Đơn phủ, vì công tử vào ở trong làng, nên nơi này bỏ hoang đã lâu. Ta họ Hoàng Phủ, quê quán vốn ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây), vì nhà cửa bị hỏa hoạn nên tạm ở nhờ", sinh mới rõ thiếu niên không phải là Đơn.

Đêm ấy hai người chuyện trò rất vui vẻ, ngủ chung một giường. Tảng sáng có đứa tiểu đồng vào đốt lò, thiếu niên dậy trước vào nhà trong. Sinh vẫn còn khoác chăn ngồi trên giường thì tiểu đồng vào nói "Thái Công tới". Sinh ngạc nhiên vội đứng dậy, thấy một ông già bước vào, râu tóc bạc phơ, cảm tạ nói "Tiên sinh không bỏ thằng con khờ dại của lão mới chịu dạy bảo cho nó, nhưng nó mới tập viết tập đọc, xin đừng lấy cớ là bạn mà coi nó ngang hàng". Kế sai mang ra biếu một bộ áo gấm và mũ lông điêu cùng giày tất mỗi thứ một món, chờ sinh rửa mặt chải đầu xong thì gọi dọn rượu. Các thứ vật dùng trong nhà không biết tên gì, chỉ thấy sáng ngời lóa mắt. Uống vài chén, ông già đứng lên từ tạ, chống gậy đi vào. Cơm xong, thiếu niên đem văn bài ra trình, mấy bài toàn là lối cổ văn, không hề giống lối khoa cử. Sinh hỏi, thiếu niên cười đáp "Ta không cần làm quan".

Tối đến lại bày tiệc rượu, nói "Đêm nay uống thật say rồi thôi, từ ngày mai trở đi không được uống nữa". Rồi gọi tiểu đồng nói "Ngươi xem Thái Công đã đi nằm chưa, nếu rồi thì lén gọi Hương Nô ra đây". Tiểu đồng vào, lát sau ôm cái túi thêu đựng cây đàn tỳ bà ra trước, kế có một tỳ nữ mặc áo đỏ bước vào, dung mạo xinh đẹp. Thiếu niên sai gảy khúc Tương phi, nàng cầm phím ngà gảy đàn, trầm bổng bi ai, tíét tấu khác hẳn nhạc thường. Lại sai mang chén lớn ra uống rượu, đến canh ba mới thôi. Hôm sau cũng dậy sớm đọc sách, thiếu niên rất thông minh, đọc qua là nhớ, sau hai ba tháng đã làm văn rất hay, bèn hẹn với sinh cứ năm ngày cùng nhau uống rượu một lần, lần nào cũng gọi Hương Nô tới góp vui.

Một đêm sinh say rượu nóng mặt cứ nhìn Hương Nô chằm chằm, thiếu niên hiểu ý nói "Đứa tỳ nữ này là gia phụ nuôi dạy từ lâu, ông trơ trọi không có gia đình, ta đã sớm hôm nghĩ tới lâu rồi, đang tính cho ông một mối rất xứng đáng". Sinh nói "Nếu có lòng tốt, phải tìm cho ta một người như Hương Nô mới được". Thiếu niên cười đáp "Ông thật là người thấy ít nên lạ nhiểu, như nó mà anh cho là đẹp thì sở nguyện của anh cũng dễ thỏa mãn thôi".

Được nửa năm sinh muốn ra ngoài dạo chơi, nhưng tới cổng thì hai cánh khóa chặt, hỏi thì thiếu niên đáp "Gia phụ sợ giao du làm rộn tâm trí nên đóng cửa tạ khách thôi!", sinh từ đó cũng ở yên.

Gặp hôm nóng bức dời ra học ngoài vườn, bụng sinh chợt nổi lên cái ung như trái đào, qua đêm lớn bằng cái chén, đau đớn rên rỉ, thiếu niên sớm tối săn sóc bỏ cả ăn ngủ. Vài hôm sau đau hơn, càng không ăn uống gì được, Thái Công cũng tới thăm, đứng nhìn thở dài. Thiếu niên nói "Đêm trước con nghĩ chứng bệnh của tiên sinh chắc em Kiều Na chữa được, đã cho người đến nhà bà ngoại gọi về, sao lâu quá chưa thấy tới". Bỗng tiểu đồng vào thưa "Cô Na đã tới, cả dì với Cô Tùng cũng cùng tới" , hai cha con vội ra đón. Lát sau thiếu niên đưa em gái lại, khoảng mười ba mười bốn tuổi, dung mạo xinh đẹp, dáng vẻ yểu điệu, sinh vừa nhìn thấy chợt quên cả đau đớn, tinh thần khỏe khoắn hẳn lên. Công tử nói "Đây là bạn thân của ta, tình như ruột thịt, nhờ em chữa bệnh giùm".

Cô gái bèn giấu vẻ thẹn thùng, vén tay áo dài tới trước giường thăm bệnh, trong lúc cầm tay bắt mạch, sinh ngửi thấy mùi hương thơm ngát. Cô gái cười nói "Tâm mạch động thì phải có bệnh này, nhưng tuy là chứng nguy hiểm vẫn có thể chữa được. Có điều cái ung đã lớn, phải rạch da khoét thịt mới xong".

Rồi tháo chiếc xuyến vàng trên cánh tay đặt lên chỗ đau từ từ ấn xuống, cái ung chợt nổi cao lên khoảng một tấc so với da thịt bên ngoài nhưng toàn bộ vùng bầm tím bên dưới đều gom cả vào bên trong chiếc xuyến chứ không loang rộng bằng cái chén như trước. Kế vén áo lấy ra một thanh bội đao mỏng như tờ giấy, đè xuyến cầm đao nhè nhẹ cắt chung quanh, máu bầm phun ra ướt đẫm giường chiếu.

Sinh thích vì được kề cận ngươi đẹp nên chẳng những không thấy đau đớn mà còn sợ việc mổ xẻ mau xong, không được ở cạnh nàng lâu. Phút chốc nàng đã cắt hết thịt thối, lục cục lòn hòn như những u bướu trên thân cây, lại gọi đem nước để rửa chỗ mới cắt, kế nhả ra một hoàn thuốc màu đỏ to bằng viên đạn lớn đạt lên thoa khắp xung quanh. Mới một vòng đầu chàng thấy nóng rần, vòng thứ hai thì thấy xót ngứa, vòng thú ba thì khắp thân thể mát mẻ. Cô gái thu viên hồng hoàn lại ngậm vào miệng, nói "Khỏi rồi đấy!", rồi rảo bước đi ra. Sinh nhảy phắt dậy, chạy theo cảm tạ.

Bệnh tật lâu ngày dường như hết sạch, nhưng từ đó trở đi cứ mơ tưởng dáng vẻ của nàng không khuây, bỏ bê sách vở, chỉ ngồi ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Công tử thấy thế nói "Đệ đã tìm chọn được một mối tốt đẹp cho huynh rồi!". Sinh hỏi là ai, Công tử đáp "Cũng là họ hàng với đệ". Sinh nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói "Thôỉ đừng!", rồi quay vào tường ngâm hai câu thơ cổ "Đã qua bể thẳm khôn còn nước, Ngoài chốn non Vu chẳng có mây*" Công tử hiểu ý, nói "Cha ta vẫn mến tài ông, thường muốn kết hôn nhân, nhưng ta chỉ có một đứa em gái còn quá nhỏ. Có con gái dì ta tên A Tùng, đã mười bảy tuổi không đến nỗi xấu xí. Nếu không tin, thì hàng ngày Cô Tùng vẫn dạo chơi ngoài vườn, ông núp trong hiên nhìn xem.

* Đã qua... có mây: nguyên văn là "Tằng kinh thương hải nan vi thủy, Trừ khước Vu Sơn bất thị vân", câu trong năm bài Khiển bi hoài của Nguyên Chẩn thời Đường khóc vợ chết.

Sinh theo lời, quả thấy Kiều Na dắt một mỹ nhân ra vườn, mày vẽ cong vút, chân mang giày phượng, xinh đẹp tương tự Kiều Na. Sinh cả mừng nhờ Công tử làm mối giùm.

Hôm sau công tử ở nhà trong đi ra, chúc mừng rằng "Việc xong rồi". Rồi dọn một chỗ ở riêng cho sinh làm đám cưới. Đêm ấy nhạc trỗi vang nhà, sinh như thấy người tiên trong trăng, đến khi cùng chăn gối lại ngờ cung điện Quảng Hàn chưa chắc đã ở trên trời cao. Sau khi thành vợ chồng, đôi bên rất tâm đầu ý hiệp.

Một đêm công tử nói với sinh "Cái ơn dạy bảo không lúc nào quên, nhưng gần đây Đơn tiên sinh kiện cáo đã xong, đòi nhà rất gấp nên định bỏ nơi này về Thiểm Tây, khó lại hội họp cùng nhau, trong lòng lấy làm vương vấn". Sinh xin đi cùng nhưng công tử khuyên nên về quê Sinh lấy làm khó khăn, công tử nói "Đừng lo, ta có thể tiễn ông về ngay lập tức". Không bao lâu ông già dẫn Tùng nương tới, lấy một trăm lượng vàng tặng sinh, công tử nắm tay hai vợ chồng, dặn nhắm mát đừng nhìn, rồi lướt đi trên không, chỉ nghe gió vi vút bên tai, hồi lâu công tử nói "Tới rồi!". Sinh mở mắt quả thấy quê mình, mới rõ công tử không phải là người. Mừng rỡ về gõ cửa, mẹ không ngờ con về, lại thấy con có vợ đẹp vui vẻ chuyện trò, đến khi nhìn lại thì công tử đă biến mất.

Tùng nương thờ phụng mẹ chồng rất hiếu thảo, đức hiền sắc đẹp đồn dậy xa gần. Sau sinh thi đỗ Tiến sĩ, được bổ chức Tư lý coi việc hình ở Diên An, đem cả nhà đi phó nhiệm, duy mẹ ngại đường xa không đi. Tùng nương sinh một con trai, đặt tên là Tiểu Hoạn. Sinh vì trái ý quan trên nên bị bãi chức, nhưng vì còn có việc trở ngại nên chưa về quê đuợc.

Một hôm ngẫu nhiên đi săn ngoài đồng, gặp một thiếu niên đẹp trai cưỡi ngựa thanh câu cứ ngoảnh nhìn mình, nhìn kỹ thì là Hoàng Phủ Công tử. Hai người cùng dừng ngựa buông cương, mừng mừng tủi tủi. Công tử mời sinh đi tới một thôn cây cối um tùm không thấy ánh mặt trời, vào nhà thì son son thếp vàng rực rỡ, rõ ràng là nhà thế tộc. Hỏi thăm cô em thì đã lấy chồng, bà nhạc đã mất vô cùng đau xót. Sinh nghỉ qua đêm rồi từ biệt ra về, dắt vợ cùng tới. Kiều Na cũng tới, bế con sinh đùa giỡn, nói "Bà chị làm rối loạn dòng giống nhà ta rồi". Sinh tạ ơn cứu mạng ngày trước nàng cười nói "Nay anh rể quý hiển, vết thương đã liền miệng, còn chưa quên nỗi đau à?" Chồng nàng là Ngô lang cũng tới chào sinh, ở qua đêm rồi đi.

Một hôm Công tử có vẻ lo lắng nói với sinh "Trời giáng tai họa, có cứu nhau được không?" sinh không biết chuyện gì nhưng cũng hăng hái nhận lời. Công tử bèn rảo bước ra gọi cả gia đình vào sảnh đường xếp hàng quỳ lạy. Sinh cả sợ vội hỏi, Công tử nói "Ta không phải là người mà là hồ. Hôm nay có tai nạn bị sét đánh, nếu ông chịu lấy thân ra cứu nạn thì cả nhà có thể được toàn sinh, nếu không thì xin ông bế con đi ngay cho khỏi bị vạ lây?". Sinh thề cùng sống chết, Công tử bèn bảo sinh cầm gươm đứng trấn ngoài cửa, dặn "Sấm sét đánh ầm ầm cũng đừng động đậy".

Sinh theo lời, quả thấy mây mù kéo tới che khuất ánh ngày, trời đất tối đen, ngoảnh nhìn chỗ ở cũ không thấy phòng ốc nhà cửa gì cả, chỉ thấy gò cao chót vót, hang sâu thăm thẳm. Đang lúc kinh ngạc thì một tiếng sét nổ ầm ầm chấn động núi non, mưa to gió lớn bật gốc cả những cây lâu năm, sinh hoa mắt choáng tai nhưng vẫn đứng sừng sững không hề nhúc nhích. Bỗng trong đám gió âm mây tối có một con quỷ mỏ sắc móng dài quắp một người trong hang ra bay thẳng lên mây, sinh thoáng thấy áo giày giống hệt Kiều Na vội nhảy lên vung kỉếm chém theo, người kia theo tay rơi xuống. Chợt núi lở sét ran, sinh ngã xuống bất tỉnh.

Lát sau trời tạnh, Kiều Na tỉnh dậy thấy sinh chết bên cạnh, oà khóc nói "Khổng lang vì ta mà chết, ta làm sao sống được?". Tùng nương cũng vừa bước ra, cùng nhau vực sinh vào nhà. Kiều Na bảo Tùng nương ôm đầu sinh, bảo anh lấy trâm cạy răng rồi vạch miệng ra, dùng lưởi đẩy viên hồng hoàn vào, lại kề môi mà phà hơi vào. Viên hồng hoàn theo hơì vào cổ kêu ùng ục, lát sau sinh tỉnh dậy, thấy người nhà xúm cả chung quanh, giật mình thấy như vừa tỉnh mộng. Rồi đó cả nhà sum họp, qua cơn lo sợ lại càng vui vẻ.

Sinh nghĩ nơi mồ mả âm u không thể ở lâu, bàn cùng về quê mình. Mọi người đều tán thành, chỉ có Kiều Na không vui. Sinh muốn nàng và Ngô lang cùng về nhưng nàng lo cha mẹ chồng không chịu xa con trai nhỏ nên bàn bạc cả ngày chưa quyết. Chợt một đưa tớ nhỏ nhà họ Ngô mồ hôi ròng ròng, hơi thở hơn hển chạy tới, mọi người hoảng sợ hỏi han thì ra cũng ngày hôm ấy cả nhà Ngô lang bị tai nạn sét đánh chết hết. Kiều Na giẫm chân đau xót khóc lóc, mọi người cùng nhau khuyên giải, việc cùng về quê sinh mới quyết.

Sinh vào thành sắp xếp vài hôm rồi gấp rút sửa soạn hành lý lên đường. Về tới nhà cắt khu vườn trống cho công tử ở, nhà thường khóa trái, sinh hay Tùng nương tới mới mở. Sinh cùng anh em công tử chén rượu cuộc cờ, chuyện trò thân mật như người một nhà. Tiểu Hoạn lớn lên diện mạo xinh xắn, hơi có vẻ hồ, ra phố chơi người ta đều biết là con của hồ.

Dị Sử thị nói: Ta không khen Khổng sinh về việc được vợ đẹp mà khen ở việc được bạn hiền thôi. Nhìn mặt có thể quên đói, nghe giọng có thể mỉm cười, được người bạn tốt như thế thì một lần trò chuyện yến ẩm có thể trao cả hồn phách cho, còn hơn cả điên đảo áo xiêm vậy.

Yêu Thuật

(Yêu Thuật)

Ông Vu lúc trẻ hào hiệp, thích quyền thuật, sức có thể cầm hai thùng nước giơ cao lên múa may như gió lốc. Trong niên hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628-1643) lên thi điện ở kinh đô, ngươi đầy tớ mắc bệnh không dậy nổi, Vu lo lắm.

Gặp lúc ở chợ có người thầy bói giỏi, có thể biết chuyện sống chết của người ta, Vu bèn tới xem cho người đầy tớ. Vừa tới nơi chưa kịp nói gì thì người thầy bói nói ngay "Ông định hỏi về bệnh của người đầy tớ phải không?", ông hoảng sợ vâng dạ. Người thầy bói nói "Người bệnh thì không sao chứ ông thì nguy đấy".

Ông bèn xem cho mình, người thầy bói gieo quẻ xong, ngạc nhiên nói "Sau ba ngày nữa ông sẽ chết". Ông kinh ngạc hồi lâu, người thầy bói ung dung nói "Bỉ nhân có thuật mọn, nếu ông đưa ta mười lượng vàng, ta sẽ khẩn cầu giúp cho". Ông nghĩ thầm sống chết có số, phép thuật nào cứu được nên không đáp, đứng dậy định về. Ngườì thầy bói nói "Tiếc chút ít tiền như vậy thì đừng hối hận, đừng hối hận". Những người yêu mến ông đều lo lắng thay, khuyên cứ dốc túi cầu xin nhưng ông không nghe.

Thấm thoát đến ngày thứ ba, ông ngồi ở nhà trọ im lặng chờ xem nhưng cả ngày không có gì lạ. Đêm đến đóng cửa khêu đèn, chống kiếm ngồi thẳng, hết canh một vẫn không thấy có gì làm mình chết đuợc đã toan đi ngủ. Chợt nghe chỗ song cửa sổ có tiếng loạt soạt, vội nhìn ra thấy một người nhỏ bé vác giáo chui qua kẽ hở mà vào, rơi xuống đất thì cao vọt lên như người thật. Ông nắm kiếm bặt dậy xông vào chém, người ấy theo gió dạt ra chưa trúng kiếm nhưng chợt nhỏ lại như cũ, lui lại chỗ kẽ hở cửa sổ định chạy. Ông chém vội nhát nữa, ngườỉ ấy theo kiếm ngã lăn ra, cầm đèn tới xem thì ra là một hình nhân bằng giấy bị chém đứt ngang lưng.

Ông không dám đi nằm, lại ngồi xuống chờ. Lát sau lại có một vật chui qua song cửa sổ vào, mặt mũi hung ác như quỷ. Ông chờ nó vừa rơi tới đất là xông vào chém ngay, nó bị đứt làm hai đoạn mà vẫn còn động đậy. Ông sợ nó lại vùng dậy bèn chém liên tiếp, nhát nào cũng trúng nghe bồm bộp, nhìn kỹ lại thì là một pho tuợng bằng đất, nát vụn cả ra.

Rồi đó ông kéo ghế tới ngồi trước cửa sổ chăm chú nhìn vào khe hở, hồi lâu nghe bên ngoài có tiếng thở mạnh như bò rồi có một vật lay mạnh song cửa, vách phòng rung lên muốn đổ xuống. Ông sợ bị tường sập đè lên, nghĩ chẳng bằng cứ ra đánh nhau, bèn đạp cửa sấn ra. Thấy một con quỷ to lớn cao ngang mái nhà, trong ánh trăng mờ mờ thấy mặt đen như than, mắt sáng rực lóe ánh vàng, trên người không áo, duới chân không giày, tay cầm cung lưng đeo tên. Còn đang hoảng sợ thì quỷ đã phát tên, ông vung kiếm gạt mũi tên rơi xuống đất, định sấn vào chém thì nó bắn tiếp phát nữa, ông vội nhảy qua tránh, mũi tên găm vào vách tường nghe phằm phặp, quỷ tức quá rút đao vung múa như gió chém mạnh tới. Ông sấn mau vào, thanh đao chém trúng tảng đá trong sân, tảng đá đứt đôi. Ông từ dưới khuỷu tay nó phóng kiếm đâm trúng ngực nghe leng keng, quỷ càng tức giận gào thét như sấm, xoay người chém nhát nữa. Ông lại cúi xuống lòn vào, thanh đao chém xuống đứt ống quần ông. Ông đã vào sát dưới ngực nó, hết sức chém mạnh, cũng nghe keng một tiếng, quỷ lăn ra nằm cứng đờ. Ông chém túi bụi vào nó, nghe tiếng vang như mõ, cầm đèn ra xem thì là một pho tượng gỗ to lớn như người thật, cung tên còn buộc ở lưng, mặt mũi chạm khắc rất hung dữ, những chỗ trúng kiếm đều có vết máu.

Ông bèn đốt đuốc chờ đến sáng, mới sực nghĩ ra rằng đám quỷ này đều do người thầy bói sai tới giết người để chứng tỏ thuật bói toán của y thần kỳ. Hôm sau ông kể cho tất cả bạn thân nghe rồi cùng nhau kéo tới chỗ người thầy bói. Người thầy bói thấy ông từ xa liền biến mất không thấy đâu nữa. Có người nói "Đó là thuật tàng hình, máu chó có thể phá được". Ông theo lời về chuẩn bị đầy đủ rồi tới. Người thầy bói lại biến mất như lần trước, ông vội lấy máu chó hất vào chỗ y đứng, thì thấy y đầu tóc mắt mũi dính máu chó bê bết, hai mắt rừng rực đứng như con quỷ, bèn bắt trói giải lên quan giết đi.

Dị Sử thị nói: Thường nói xem bói vì có điều nghi ngờ, song những kẻ hiểu đạo ấy mà không lầm về sự sống chết lại không có mấy người, nên xem bói mà lầm không bằng không xem bói. Vả lại cho dù nói rõ được ngày chết của ta thì có làm được gì? Huống hồ lại có kẻ mượn mạng sống của người để chứng tỏ thuật bói toán của mình là thần kỳ, thật chẳng rất đáng sợ sao?

Diệp Sinh

(Diệp Sinh)

Diệp sinh người huyện Hoài Dương (tỉnh Hà Nam) không rõ tên tự, văn chương tư phú đứng đầu một thời nhưng không thành đạt, lận đận mãi nơi trường ốc. Gặp lúc ông Đinh Thừa Hạc người Đông Quan tới làm Tri huyện ở đó, xem văn chương của sinh lấy làm lạ bèn mời tới nói chuyện, rất vừa ý liền sai ở lại trong dinh, giúp cho ăn học, thỉnh thoảng lại cho tiền thóc để giúp đỡ gia đình.

Đến kỳ khảo khóa, ông khen ngợi văn tài của sinh với quan Học sứ, kế sinh đỗ đầu, ông rất mong mỏỉ vào sinh, thi hương xong đòi văn bài của sinh để đọc, gỏ bàn đánh nhịp ngợi khen không ngớt. Không ngờ thời vận cản người, văn chương ghen mệnh, khi ra bảng thì sinh rớt, trở về ngơ ngác thẫn thờ, thẹn đã phụ lòng tri kỷ, thân gầy rộc như bộ xương, người ngây ra như tượng gỗ.

Ông nghe tin mời tới an ủi, sinh rơi lụy không thôi. Ông thương xót, hẹn lúc nào hết hạn về kinh sẽ đưa sinh cùng đi. Sinh rất cảm kích cáo từ ra về, đóng cửa không đi đâu nữa. Không bao lâu sinh lâm bệnh, ông thăm hỏi biếu tặng không ngớt nhưng sinh uống bao nhiêu thuốc vẫn không khỏi. Gặp lúc ông xúc phạm quan trên bị cách chức, lúc sắp về quê bèn viết thư cho sinh, đại lược rằng "Ta nay mai sẽ về Đông nhưng sở dĩ còn chần chừ là vì muốn chờ túc hạ đó thôi. Túc hạ tới buổi sáng thì buổi chiều ta khởi hành".

Thư đưa tới cạnh giường, sinh cầm thư xem khóc rồi nhắn người đưa thư về nói bệnh nặng khó khỏi ngay, xin ông cứ đi trước. Người ấy về thưa lại, ông không nỡ đi, nán lại để chờ. Qua mấy hôm chợt người canh cổng vào báo Diệp sinh tới, ông mừng rỡ ra đón hỏi han. Sinh nói "Vì cái bệnh của kẻ hèn để đại nhân phải chờ lâu, lòng rất áy náy, nay may đã có thể theo hầu".

Ông bèn gói ghém hành trang đi sớm, về tới làng sai con thờ sinh làm thầy, sớm tối bên nhau. Công tử tên Tái Xương, năm ấy mười sáu tuổi, chưa biết làm văn nhưng rất thông minh, sách vở thơ phú đọc qua hai ba lần là nhớ không sót một chữ. Được một năm thì công tử hạ bút thành văn, thêm có ông lo toan nên được vào học trường huyện. Sinh chép lại tất cả văn chương cử nghiệp của mình đã làm cho công tử học, đến khi vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đỗ á khôi.

Một hôm ông nói với sinh "Ông bỏ ra một mối tơ thừa mà giúp thằng nhỏ thành danh, nhung quả chuông vàng bị vứt bỏ mãi thì làm sao?". Sinh nói "Điều đó là có số mẹnh. Ta mượn phúc trạch của đại nhân mà hà hơi cho văn chương để người đời biết rằng nửa đời lận đận không phải vì kém tài, thế là thỏa nguyện rồi. Vả lại kẻ sĩ được một người biết đã đủ không ân hận, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?".

Ông thấy sinh xa nhà đã lâu, sợ lỡ kỳ sát hạch hàng năm, khuyên nên về thăm. Sinh rầu rĩ không vui, ông không nỡ ép bèn dặn công tử khi đến kinh thì nộp tiền mua chức cho sỉnh. Công tử lại đỗ kỳ thi hội, được bổ chức Chủ chính trong bộ, đưa sinh vào Giám, sớm tối có nhau.

Qua năm sau sinh thi hương ở kinh đỗ Cử nhân, gặp lúc công tử được bổ chức Điển vụ ở Hà Nam, nhân nói với sinh "Chuyến này đi không xa quý hương, nay tiên sinh đắc chí mây xanh, áo gấm về làng cũng hay". Sinh cũng mừng liền chọn ngày tốt lên đường, tới địa giới Hoài Dương thì công tử sai người ngựa đưa sinh về.

Tới nhà thấy cổng ngõ tiêu điều, sinh bùi ngùi lững thững đi vào sân. Vợ cầm cái nia đi ra, thấy sinh thì vứt xuống hoảng sợ bỏ chạy. Sinh buồn rầu nói "Ta nay đã nên danh phận, mới ba bốn năm không gặp, sao lại như không quen nhau thế?". Vợ đứng xa nói "Chàng chết đã lâu, sao còn nói là nên danh phận? Sở dĩ còn quàn linh cữu trong nhà là vì nhà nghèo con nhỏ mà thôi. Nay con cũng đã khôn lớn, đang tìm đất chôn cất, chàng đừng hiện hồn để dọa người còn sống". Sinh nghe nói ngậm ngùi, lững thững đi vào trong phòng, nhìn thấy linh cữu mình liền ngã xuống đất biến mất. Vợ kinh hãi nhìn lại chỉ thấy áo mũ không như cái xác ve lột, vô cùng thương xót ôm lấy khóc lóc.

Con trai sinh đi học về, thấy ngựa xe trước cổng bèn hỏi han rồi hoảng sợ chạy vào báo cho mẹ, mẹ gạt nước mắt kể lại, lại hỏi kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu đuôi. Người theo hầu về báo, công tử nghe tin nước mắt ròng ròng, lập tức sai thắng xe ngựa tới nhà sinh khóc lóc rồi bỏ tiền ra làm ma chay, chôn cất sinh theo lễ Hiếu liêm. Lại tặng tiền bạc cho con sinh rất hậu, đón thầy về dạy cho và nói với quan Học sứ, qua năm sau con sinh được vào học trường huyện.

Dị Sử thị nói: Hồn theo tri kỷ nên quên cái chết ư? Người khác nghe thì ngờ chứ ta thì tin lắm. Thiến Nương cùng lòng, hồn từng lìa khỏi gối 1, bạn bè ngàn dặm, dường còn nhận trong mơ 2, huống hồ tơ tằm vết nhặng, văn nhân quen bày tỏ tâm can 3, nước chảy non cao 4, học giả vẫn coi như tính mạng sao! Than ôi, gặp gỡ khó hẹn ngày, tao phùng không xứng ý nên hành tung trôi nổi để trước bóng ôm sầu, ngạo khí lăng tằng mà gãi đầu xót phận, than mặt mày tê gió bụi, bị ma quỷ tới cợt đùa 5. Ngoài bảng Tôn Sơn 6, thơ phú theo Công danh lạt lẽo, trong phường thi rớt, tóc râu cùng năm tháng phôi pha. Khóc ròng suốt trong kim cổ, chỉ có Biện Hòa 7, ngựa hay không được đoái hoài, nào ai Bá Nhạc 8. Ôm danh thiếp ba năm nhạt chữ 9, nhìn thân mình bốn bể không nhà. Người sống trên đời chỉ nên nhắm mắt đưa chân, mặc cho con tạo xoay vần mà thôi. Chứ trên đời những người tài giỏi mà lận đận như Diệp sinh chắc cũng không ít, mà lại muốn có Lệnh Uy trở lại 10 để họ theo mà sống chết chăng? Ôi!

1. Thiến Nương... khỏi gối: Ly hồn ký chép Trương Dật có con gái tên Thiến Nương rất xinh đẹp, đã hứa gả cho cháu là Vương Trụ, sau có người khác tới hỏi cưới, Dật ưng thuận. Cô gái nghe tin rất uất ức, Trụ cũng căm hờn bỏ đi, nửa đêm thấy một người lên thuyền theo, nhìn ra thì là cô gái, bèn đưa nhau trốn đi. Năm năm sau sinh được hai con trai, cô gái nhớ cha muốn về thăm, Trụ về trước xin lỗi Dật thì Thiến Nương đã bệnh nằm liệt giường năm năm rồi. Đến khi cô gái vào nhà thì cô gái trong phòng mừng rỡ chạy ra, hai người liền nhập vào làm một.

2. Bạn bè... trong mơ. Hàn phi tử chép thời Chiến quốc Trương Mẫn và Cao Huệ chơi thân với nhau, Mẫn nhớ Huệ nhưng đường xa không đi thăm được bèn tìm tới Huệ trong giấc mộng nhưng nửa đường lạc lối phải quay về, như thế ba lần.

3. Tơ tằm: tơ tằm lấy từ câu trong Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp "Chương cú tại thiên như kiển chi trừu tự" (Câu chữ trong bài như rút tơ tằm trong kén), chỉ việc dụng công làm văn. Vết nhặng nguyên văn là "nhăng tích", chưa rõ điển tích song có lẽ cũng chỉ việc làm văn nói chung. Văn nhân... tâm can lấy tích Lý Hạ thời Đường ra khỏi nhà thì dắt đứn tiểu đồng mang cái túi gấm cũ theo, nghĩ được câu thơ nào hay là viết bỏ vào túi, chiều tối trở về ngồi nghĩ cho thành bài, bà mẹ nói "Con thì phải tỏ bày cho hết gan ruột mới chịu thôi".

4. Nước chảy non cao: nguyên văn là "lưu thủy cao sơn". Lữ thị Xuân thu chép Bá Nha đánh đàn, Chung Tử Kỳ ngồi nghe, lúc Bá Nha nghĩ tới núi cao, Tử Kỳ nói "Hay làm sao, vòi vọi như núi Thái", lúc Bá Nha nghĩ tới nước trôi, Tử Kỳ nói "Hay làm sao, cuồn cuộn như nước chảy". Sau người ta dùng tích này chỉ kẻ tri âm tri kỷ.

5. Ma quỷ tới cợt đùa: Thế thuyết chép La Hữu thời Tấn nhà nghèo theo Hoàn Ôn, Ôn chu cấp cho nhưng không dùng. Sau trong phủ Hoàn Ôn có người được cử làm Quận thú, Ôn mở tiệc đưa tiễn, Hữu tới sau cùng. Ôn hỏi sao tới chậm, Hữu đáp "Được lệnh ông gọi đã ra đi từ sáng sớm, nhưng dọc đường gặp một con quỷ chế nhạo, nói Ta chỉ thấy ngươi tiễn người khác đi làm quan chứ chẳng thấy người khác tiễn ngươi đi làm quan, vì vậy nên tới muộn". Đây chỉ việc trắc trở công danh.

6. Ngoài bảng Tôn Sơn: Thi thoại chép Tôn Sơn thời Đường đi thi đỗ cuối bảng, có người cùng dự thi vờ tới hỏi thăm, Sơn đáp "Cuối bảng là Tôn Sơn, Người khác thì ngoài bảng". Đây chỉ việc thi rớt.

7. Khóc ròng... Biện Hòa: Hàn Phi tử chép Biện Hòa người nước Sở dâng viên ngọc chưa đẽo gọt cho Hoài vương, Hoài vương cho là viên đá bèn chặt chân trái của Hòa. Hoài vương chết, Hòa lại dâng cho Bình vương, Bình vương cũng cho là khi quân, sai chặt chân phải của Hòa. Bình vương chết, Kinh vương lên ngôi, Hòa ôm viên ngọc khóc dưới núi. Kinh vương biết chuyện sai thợ khéo gọt giũa, phá lớp đá ngoài thì được một viên ngọc rất đẹp, bèn phong Hòa làm Lăng Dương hầu. Cả câu ý nói có tài mà không được ai biết tới.

8. Ngựa hay... Bá Nhạc: Chiến quốc sách chép Bá Nhạc giỏi xem tướng ngựa, một hôm vào chợ bán ngựa chơi, có người bán ngựa hay tới nói "Ta đứng bán ở đây đã ba ngày mà không ai hỏi tới. Nhờ ông đi một vòng rồi tới nhìn ngựa của ta, nhìn xong quay đi nhưng lại ngoái đầu nhìn lại, ta xin dâng số tiền lời của một ngày". Nhạc theo lời, chỉ trong một buổi sáng người ấy đã bán đuợc giá gấp mười. Đây ý nói có tài mà không được ai giúp đỡ tiến cử.

9. Ôm danh thiếp... nhạt chữ: Hậu Hán thư, Trương Hành truyện chép Trương Hành tới đất Lạc chơi, mang theo một tấm danh thiếp nhưng không có ai để yết kiến mà đưa nên lâu ngày chữ trên tấm danh thiếp phai hết.

10. Lệnh Uy trỡ lại: Hậu Sưu thần ký chép Đinh Lệnh Uy là ngừời Liêu Đông vào núi Linh Hư học đạo, sau hóa thành con chim hạc bay về quê đậu trên cây hoa biểu nói "Hữu điểu hữu điểu Đinh Lệnh Uy, Khứ gia thiên niên kim thủy quy. Thành quách như cố nhân dân phi, Hà bất học tiên gia luy luy" (Có chim có chim Đinh Lệnh Uy, Học đạo ngàn năm nay mới về, Thành quách như xưa người đã khác, Sao chẳng theo tiên hóa hạc đi).

Vị Tiên Họ Thành

(Thành Tiên)

Chu sinh người huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông) cùng Thành sinh học chung từ nhỏ nên kết thành bạn thân. Thành nhà nghèo, quanh năm phải nhờ vả Chu, so về tuổi thì Chu lớn hơn nên Thành gọi vợ Chu là chị dâu, giỗ tết qua lại như một nhà.

Vợ Chu sinh được một trai thì bị bạo bệnh chết, Chu cưới vợ kế họ Vương, Thành vì nàng nhỏ tuổi nên chưa từng xin gặp mặt. Một hôm em trai Vương thị tới thăm chị, Chu bày tiệc mời ở nhà trong. Gặp lúc Thành tới chơi, người nhà vào báo, Chu sai mời vào. Thành không vào mà từ tạ ra về, Chu bèn dời tiệc ra nhà ngoài rồi đuổi theo gọi Thành quay lại. Vừa ngồi vào bàn thì có người vào báo tin đầy tớ giữ trại cho nhà Chu bị quan huyện phạt đánh rất đau.

Nguyên là đầy tớ chăn trâu nhà quan Lại bộ họ Hoàng để trâu xéo lên ruộng của Chu nên đôi bên cãi nhau, tên chăn trâu chạy về báo với chủ bắt đầy tớ của Chu giải lên quan phạt đánh thật nặng. Chu hỏi rõ đầu đuôi rồi nổi giận nói "Thằng đầy tớ chăn lợn họ Hoàng kia sao dám làm thế. Cha nó còn phải hầu hạ ông nội ta, vừa đắc chí đã không coi ai ra gì à?". Rồi giận sôi lên đứng phắt dậy định qua tìm Hoàng, Thành ấn ngồi xuống nói "Thời buổi ngang ngược này vốn không phân đen trắng, huống chi quan lại ngày nay quá nửa là lũ cướp, chỉ là không cầm giáo đeo cung thôi".

Chu không nghe, Thành năn nỉ mấy lần rơi cả nước mắt mới chịu thôi nhưng vẫn không nguôi giận. Trằn trọc suốt đêm, sáng ra nói với gia nhân "Họ Hoàng khinh ta thì ta tức, nhưng cứ để đó. Còn quan huyện là quan của tnều đình chứ không phải là quan của bọn quyền thế, nếu có chuyện tranh chấp thì cũng phải hỏi cả đôi bên chứ sao lại như con chó suỵt đâu chạy đó được? Ta cũng kiện đầy tớ nhà kia xem y phân xử thế nào".

Đám gia nhân đều vun vào, Chu bèn quyết ý cầm đơn kiện tới gặp quan huyện. Quan huyện xé đơn ném xuống đất, Chu tức giận chửi mắng, quan vừa thẹn vừa tức bèn bắt giam Chu. Gần trưa Thành qua thăm mới biết Chu đã lên huyện thưa kiện, vội đuổi theo cản lại thì Chu đã bị giam vào ngục, giẫm chân không biết làm sao.

Lúc bấy giờ vừa bắt được ba tên giặc biển, quan huyện và Hoàng đút tiền dặn chúng khai Chu là đồng đảng rồi vịn vào đó mà lột mũ áo nhà nho, tra tấn tàn nhẫn. Thành vào ngục thăm nhìn nhau cay đắng, bàn việc lên kinh kêu oan. Chu nói "Nay vướng vào trọng án như chim trong lồng, tuy có chú em yếu ớt cũng chỉ làm được việc đưa cơm tù mà thôi".

Thành sốt sắng nhận đi, nói "Đây là phận sự của ta, lúc có nạn không giúp nhau thì còn bạn bè làm gì". Rồi lập tức lên đường, em Chu định đưa tiền lộ phí thì đã đi lâu rồi. Thành tới kinh đô, chưa biết tới cửa nào kêu thì nghe đồn vua sắp đi săn bèn tính toán núp trong khu chợ gỗ, kế xa giá đi qua liền ra sụp lạy kêu khóc. Sớ được chuẩn xét giao cho dịch trạm chuyển về bộ viện thẩm tra tâu lại.

Lúc ấy vụ án đã qua hơn mười tháng, Chu đã bị khép bừa vào tội hình. Hình viện nhận được ngự phê hoảng sợ, cho thẩm xét lại bản cung khai và lời nghị án. Hoàng cũng sợ, mưu giết Chu bèn hối lộ cho người coi ngục để tuyệt đường cơm nước. Em Chu mang thức ăn vào thăm cũng bị cấm ngặt, Thành lại tới Hình viện tố cáo sự khuất khúc, Chu được gia ơn đem ra hỏi cung thì đã đói lả không dậy nổi. Quan Hình viện tức giận cho đánh chết người coi ngục, Hoàng khiếp đảm phải bỏ ra mấy ngàn lượng vàng chạy chọt nên được mập mờ xóa tội, quan huyện thì vì làm trái pháp luật bị đi đày. Chu được thả về, càng phục Thành là can đảm.

Thành sau vụ kiện tụng thì tình đời nguội lạnh bèn rủ Chu cùng đi ở ẩn, nhưng Chu còn đắm đuối vợ trẻ nên nghe nói thì cười là viễn vông, Thành tuy không đáp song đã quyết ý. Sau khi chia tay, mấy ngày không thấy tới, Chu sai qua nhà thăm dò thì người nhà nghĩ rằng đang ở nhà Chu, cả hai nơi đều không thấy mới nghi ngờ. Chu biết là có chuyện lạ, sai người đi dò hỏi khắp các chùa quán hang động, thỉnh thoảng lại đem vàng lụa chu cấp cho con Thành.

Tám chín năm sau Thành chợt tìm về, đội khăn vàng mặc áo lông, rõ ràng là đạo sĩ. Chu cả mừng nắm tay hỏi "Anh đi đâu làm ta tìm khắp nơi?", Thành cười đáp "Mây ngàn hạc nội không ở nơi nào nhất định, nhưng sau khi chia tay may vẫn mạnh khỏe".

Chu sai bày tiệc, nói qua nỗi niềm xa cách, muốn Thành hoàn tục nhưng Thành chỉ cười không nói. Chu bảo "Ngu thay! Sao có thể bỏ vợ con như đôi giày rách được?". Thành cười nói "Không phải thế, người định bỏ ta chứ ta đâu bỏ được ai?". Hỏi nơi ở, Thành đáp là trên cung Thuợng Thanh núi Lao Sơn. Kế nằm gác chân ngủ, Chu mơ thấy Thành trần truồng đè lên người mình nặng muốn tức thở, kinh ngạc hỏi làm gì nhưng Thành không đáp.

Giật mình tỉnh dậy gọi không thấy Thành lên tiếng, nhỏm dậy mò thì đã đi đâu mất. Lát sau định thần mới biết đang trên giường của Thành, hoảng sợ nói "Tối qua không say mà sao lẫn lộn đến thế này?". Bèn gọi người nhà, người nhà thắp đèn lên thì thấy rõ ràng là Thành. Chu vốn nhiều râu bèn lấy tay sờ thì thấy cằm lơ thơ chỉ có vài sợi, liền cầm gương soi rồi ngạc nhiên nói "Thành sinh ở đây thì ta đi đâu?". Kế sực hiểu ra, biết Thành dùng ảo thuật gọi mình đi ở ẩn, muốn vào phòng vợ nhưng em trai thấy mặt mũi khác hẳn nên ngăn lại không cho. Chu cũng không có cách nào làm rõ liền sai sắp ngựa và đầy tớ đi tìm Thành.

Mấy ngày thì tới núi Lao, ngựa chạy nhanh nên đầy tớ theo không kịp, Chu dừng lại dưới gốc cây chờ. Thấy khách mặc áo lông qua lại rất đông, trong có một đạo nhân đưa mắt nhìn, Chu nhân hỏi Thành thì đạo sĩ cười đáp "Cũng có nghe tên, hình như ở cung Thuợng Thanh", nói xong bỏ đi. Chu nhìn theo thấy ông ta đi xa khoảng hơn một tầm tên lại dừng lại chuyện trò với một người, cũng chỉ vài câu rồi đi. Người kia dần dần tới gần thì ra là một người bạn học, thấy Chu kinh ngạc hỏi "Bao nhiêu năm không gặp, nghe người ta nói ông lên non học đạo mà nay còn dạo chơi ở nhân gian sao?". Chu kể lại chuyện lạ, người kia giật mình nói "Thế thì ta vừa gặp Thành sinh mà tưởng là ông. Mới đi chưa bao lâu, chắc cũng không xa đâu".

Chu rất lạ lùng, nói "Quái thật, sao mặt mũi của mình mà nhìn thấy lại không nhận ra được thế?". Người đầy tớ cũng vừa tới, vội đuổi theo nhưng không thấy bóng dáng Thành đâu, nhìn lên chỉ thấy mịt mù xa tắp, không biết nên đi hay về. Kế tự nghĩ không biết về đâu bèn quyết ý đuổi theo tới cùng, nhưng đường cheo leo hiểm trở không đi ngựa được bèn đưa ngựa cho đầy tớ dắt về, lần mò đi tiếp. Thấy xa xa có đứa tiểu đồng ngồi một mình vội rảo bước tới gần hỏi đường, nói rõ duyên cớ. Tiểu đồng tự xưng là đệ tử của Thành rổi mang giúp khăn gói dẫn Chu cùng đi, dãi gió dầm sương lặn lội rất xa, ba ngày mới tới lại không phải nơi thế gian vẫn gọi là cung Thượng Thanh.

Bấy giờ là giữa tháng mười mà hoa rừng nở đầy lối đi, không giống như đầu mùa đông. Tiểu đồng vào báo tin khách tới, Thành lập tức ra đón, Chu mới nhận ra hình dáng của mình. Thành cầm tay dắt vào bày tiệc trò chuyện, Chu thấy có nhiều chim chóc màu sắc lạ lùng dạn dĩ, tiếng như đàn sáo cứ tới đậu ngay chỗ ngồi mà hót, rất lấy làm lạ nhưng lòng trần còn tha thiết không có ý ở lại. Dưới đất trải hai tấm bồ đoàn, Thành kéo cùng ngồi, đến quá canh hai thì muôn mối lo nghĩ đều lặng xuống, chợt như chớp mắt bỗng thấy mình và Thành lại đổi thân hình cho nhau, ngờ vực đưa tay sờ cằm thì thấy rậm râu như cũ.

Sáng ra Chu muốn về ngay, Thành cố giữ lại, qua ba ngày thì nói "Xin cứ nghỉ một lúc, sáng sớm sẽ đưa ông về". Vừa thiu thiu thì nghe Thành gọi "Hành trang đã sẵn rồi?", bèn trở dậy theo đi, thấy đường khác hẳn lối cũ.

Không bao lâu thì thấy làng quê hiện ra trước mắt, Thành ngồi đợi bên đường bảo cứ tự về. Chu lôi kéo không được đành lủi thủi đi, về tới cổng nhà gõ không thấy thưa, đang định trèo tường vào thì cảm thấy thân nhẹ như chiếc lá, nhảy một cái đã qua khỏi, vượt mấy lớp tường thấp thì tới phòng ngủ. Thấy bên trong đèn đuốc sáng trưng, vợ còn chưa ngủ mà đang rì rầm trò chuyện với người khác. Chu nhấm nước bọt chọc thủng giấy dán cửa sổ nhìn vào thì ra vợ đang uống rượu với một tên đầy tớ, bộ dạng rất lả lơi. Chu giận sôi lên toan xông vào bắt nhưng sợ có một mình không thắng nổi bèn lặng lẽ lui lại mở cửa chạy ra nói với Thành nhờ giúp sức. Thành hăng hái đi theo thẳng tới phòng ngủ, Chu vác đá đập cửa, bên trong hoảng sợ nháo nhác. Chu càng đập gấp nhưng cửa đóng rất chặt, Thành rút gươm đưa một nhát, cánh cửa toác ra. Chu sấn vào, tên đầy tớ lao ra cửa chạy, bị Thành đứng ngoài vung gươm chém đứt cánh tay tới tận vai. Chu bắt vợ tra vấn mới biết lúc mình bị giam thì nàng đã tư thông với tên đầy tớ, bèn mượn gươm chặt đầu vợ, khoét ruột treo lên cành cây trước sân rồi theo Thành trở ra.

Đang tìm đường về núi chợt giật mình tỉnh dậy thì thấy vẫn còn nằm trên giường, hoang sợ nói "Mộng mị bậy bạ làm rợn cả người". Thành cười nói "Mơ thì ông cho là thật, thật thì lại cho là mơ". Chu ngạc nhiên hỏi, Thành đưa gươm ra cho xem thì vết máu vẫn còn, Chu sợ phát khiếp nhưng thầm ngờ là Thành dùng ảo thuật lừa dối. Thành biết ý bèn sắp sửa hành trang đưa Chu về. Phút chốc tới đầu làng, Thành nói "Đêm ấy chảng phải là ta chống kiếm đợi ở đây sao! Ta đã chán cuộc đời nhơ đục, xin lại đợi ông ở đây. Nếu quá trưa mà ông không ra, ta sẽ đi".

Chu tới nhà thấy cổng ngõ tiêu điểu như không có người ở, bèn vòng qua nhà em. Em Chu thấy anh thì sa nước mắt kể "Sau khi anh đi, đang đêm cướp vào giết chị rồi khoét ruột bỏ đi, vô cùng thê thảm, đến nay quan lùng bắt chưa được". Chu như chợt tỉnh mộng bèn kể lại tình thật, dặn đừng truy cứu nữa, em Chu sững sờ hồi lâu. Chu hỏi thăm con trai mình, em gọi bà vú bế tới, Chu nói "Đứa nhỏ còn bọc tã lót này quan hệ tới việc nối dõi tông đường, em nên cố chăm sóc chứ anh nay muốn từ giã cõi trần rồi".

Rồi đứng lên đi ra, em trai nước mắt giàn giụa đuổi theo giữ lại, Chu chỉ cười đi thẳng không ngoái lại. Ra tới ngoài làng gặp Thành liền cùng đi, đi xa mới quay lại dặn "Ở đời thì việc nhẫn nhục là vui nhất". Em còn muốn nói thì Thành khoát tay một cái, lập tức không thấy đâu nữa, bèn ngẩn ra hồi lâu rồi khóc lóc trở về.

Em Chu là người chất phác vụng về, không biết coi sóc người nhà làm ăn nên qua vài năm nhà càng nghèo, con Chu dần lớn lên không thể đón thầy nên phải tự mình dạy cháu học.

Một hôm sáng sớm tới phòng sách, thấy trên bàn có một phong thư dán kín, ngoài đề gởi em trai. Cầm xem thì đúng là nét chữ của anh, mở ra thì trong không chẳng có gì, chỉ thấy một cái móng tay dài khoảng hai đốt tay, lấy làm kỳ quái. Bèn đặt cái móng lên nghiên mục rồi bước ra hỏi người nhà thư từ đâu tới nhưng không ai biết, quay vào nhìn thì cái nghiên đá đã biến thành vàng lóng lánh, vô cùng ngạc nhiên, đem thử lên đồng sắt đều như thế.

Từ đó giàu to, đem ngàn vàng cho con Thành, vì thế người ta đồn rằng hai nhà này có thuật điểm kim.

Vương Thành

(Vương Thành)

Vương Thành là con nhà thế tộc cũ ở Bình Nguyên (phủ thành Tế Nam tỉnh Sơn Đông), tính rất lười biếng nên sinh sống ngày càng chật vật, chỉ còn mấy gian nhà nát, vợ chồng ngủ trong ổ xơ gai, oán trách nhau thậm tệ.

Gặp lúc giữa mùa hè nóng nực, trong làng có cái vườn của họ Chu, tường vách đổ nát chỉ còn một ngôi đình, người làng nhiều kẻ tới ngủ nhờ, Vương cũng trong số đó. Sáng ra mọi người đã đi cả, mặt trời lên cao ba con sào Vương mới dậy, dùng dằng định về thì nhặt được chiếc thoa vàng trong đám cỏ, trên có khắc hàng chữ nhỏ "Phủ Nghi tân chế tạo".

Ông nội Vương là Nghi tân Hành phủ*, vật cũ trong nhà phần nhiều đều có dấu hiệu ấy, vì vậy Vương cầm chiếc thoa ngần ngừ. Chợt có một bà già tới tìm chiếc thoa, Vương tuy rất nghèo nhung không tham vặt bèn đưa ra trả lại.

* Nghi tân Hành phủ: Hành phủ tức Hành Cung vương Chu Hựu Huy, con thứ sáu vua Hiến tông nhà Minh, được phong tước vương năm Thành Hóa thứ 13 (1477), đến năm Hoằng Trị thứ 13 (1500) đời vua Hiếu tông được ra làm phiên vương ở Thanh Châu. Nghi tân là từ gọi chung con rể, cháu rể các thân vương thời Minh.

Bà già mừng rỡ cảm tạ, nói "Chiếc thoa không đáng bao nhiêu nhưng đây là kỷ vật của ông nhà ta để lại", Vương hỏi "Cụ nhà là ai?", bà già đáp là Nghi tân Vương Giản Chi trước kia. Vương giật mình nói "Đó là ông nội ta, sao bà gặp gỡ được?". Bà già cũng giật mình nói "Ngươi là cháu nội Vương Giản Chi sao? Ta là hồ tiên, một trăm năm trước có gần gũi với ông nội ngươi, sau khi ông mất thì lão thân ở ẩn, qua ngang đây đánh rơi chiếc thoa lại vào tay ngươi, không phải là số trời sao?".

Vương cũng từng nghe nói ông nội có vợ hồ nên tin lời, nhân mời tới nhà chơi, bà già bèn đi theo. Vương gọi vợ ra chào, bà già thấy áo rách đầu bù, mặt mày xanh xao hốc hác bèn than rằng "Ôi, con cháu Vương Giản Chi lại nghèo khổ đến thế này ư!". Lại nhìn gian bếp hư nát không nổi lửa mà nói "Gia cảnh thế này lấy gì để sống?". Vợ Vương bèn kể hết nỗi khổ, nghẹn ngào rơi lệ, bà già đưa chiếc thoa cho nàng bảo đem cầm lấy tiền đong gạo, ba ngày nữa sẽ tới thăm. Vương cố giữ lại, bà nói "Ngươi chỉ có một vợ mà nuôi không nổi, ta ở lại đây thì chỉ ngồi ngắm xà nhà chứ có ích gì?" rồi đi thẳng.

Vương kể lại đầu đuôi, vợ sợ lắm nhưng Vương ca tụng ơn nghĩa của bà già, dặn phải thờ bà như mẹ, vợ vâng dạ. Ba ngày sau quả nhiên bà già tới, đưa mấy đồng vàng bảo đong gạo và bột mì mỗi thứ một thạch, tối đến cùng vợ Vương nằm chung trên một cái giường nhỏ. Vợ Vương lúc đầu sợ sệt nhưng xét tình ý thấy bà rất trìu mến nên cũng không ngờ vực gì nữa. Hôm sau bà nói với Vương "Cháu đừng lười, nên tìm một nghề mọn mà làm chứ ngồi ăn không làm sao lâu dài được?". Vương thưa là không có vốn, bà nói "Lúc ông nội ngươi còn sống thì vàng lụa cứ mặc ý mà lấy, nhưng vì ta không phải là người trần, không cần tới các thứ ấy nên không lấy nhiều, chỉ để dành bốn mươi lượng vàng làm tiền phấn sáp. Đến nay vẫn còn, cất lâu cũng chẳng làm gì, ngươi cứ đem đi mua hết vải cát rồi mang gấp vào kinh, có thể lãi chút ít".

Vương vâng lời, mua hơn năm mươi tấm mang về, bà già bảo thu xếp hành trang, tính độ đường khoảng sáu bảy ngày là tới Yên Kinh, dặn rằng "Phải siêng đừng lười, phải gấp đừng hoãn, chậm mất một ngày, ăn năn đã muộn". Vương kính cẩn vâng dạ, xếp hàng vào bọc lên đường.

Dọc đường gặp mưa, áo giày ướt sũng, Vương bình sinh chưa trải sương gió nên mệt quá bèn nghỉ tạm lại quán trọ, không ngờ mưa cứ tầm tã đến tối, nước trên máng xối rót xuống như dây thừng. Qua đêm đường càng lầy lội, thấy người đi đường bùn ngập lút cổ chân, trong lòng rất nản. Chờ đến trưa đường mới hơi mới hơi khô ráo, nhưng mây đen lại kéo tới, lại đổ mưa lớn, phải ngủ qua đêm nữa mới đi được.

Gần tới kinh nghe đồn vải cát đang có giá, trong lòng mừng thầm nhưng vào tới kinh thành ghé lại quán trọ thì chủ trọ rất tiếc vì Vương tới chậm. Trước đó đường giao thông với phía Nam mới mở, vải cát tới rất ít, các nhà giàu sang trong kinh lại thường mua nhiều nên giá đắt gấp ba, nhưng trước đó một ngày thì những người buôn vải cát đổ tới đông nghẹt nên giá sụt hẳn, những người tới sau đều thất vọng.

Chủ trọ nói rõ cho Vương biết, Vương ưu uất không vui. Qua một ngày vải cát tới càng nhiều, giá càng sụt, Vương thấy không có lãi nên không chịu bán. Nấn ná hơn mười ngày, tiền ăn ở tính ra đã tốn khá nhiều, càng thêm lo buồn. Chủ trọ khuyên nên bán rẻ để tính cách khác, Vương nghe theo bán tháo hết, lỗ vơn mười lượng. Sáng dậy sớm định ra về, mở túi ra xem thì tiền đã mất sạch, phát hoảng nói với chủ trọ, chủ trọ cũng không biết làm sao.

Có người khuyên lên kêu với quan bắt chủ trọ bồi thường, Vương than "Đó là số phận của ta chứ chủ trọ có lỗi gì?". Chủ trọ nghe thế rất cám ơn Vương, tặng năm lượng vàng rồi an ủi khuyên về. Vương nghĩ không còn mặt mũi nào gặp lại bà nội, loanh quanh ra vào không biết tính sao.

Chợt thấy có bọn chọi chim thuần, mỗi lần chọi đặt cuộc tới mấy ngàn, mua một con chim thuần có khi hơn trăm quan tiền. Vương chợt động tâm, tính lại tiền túi thì chỉ đủ buôn chim thuần, bèn bàn với chủ trọ. Chủ trọ hết súc vun vào, lại hứa cho ăn ở không phải trả tiền. Vương mừng bèn đi, mua một gánh chim thuần trở lại kinh thành, chủ trọ cũng mừng, chúc cho bán đắt hàng.

Đến đêm mưa to đến sáng sớm, khi trời sáng nước trên đường chảy như sông mà mưa vẫn chưa ngớt, Vương ngồi chờ tạnh mà mưa liên tiếp mấy ngày không ngớt. Dậy nhìn thì thấy chim thuần trong lồng chết dần. Vương sợ lắm mà không biết làm sao. Đến hôm sau thuần chết càng nhiều, chỉ còn vài con bèn dồn chung vào một lồng, qua đêm lại ra xem thì chỉ còn một con sống. Bèn vào nói với chủ trọ, bất giác sa lệ, chủ trọ cũng ái ngại. Vương tự liệu hết tiền không về được chỉ muốn tìm đường chết, chủ trọ khuyên giải an ủi, kế cùng ra xem con thuần, ngắm kỹ rồi nói "Hình như là một con chim hay, những con kia biết đâu không phải do bị nó chọi chết? ông đang rảnh rỗi cứ tập luyện cho nó, nếu quả là chim hay thì mang đi đánh cuộc cũng mưu sinh được", Vương theo lời.

Khi con chim đã thuần, chủ trọ bảo đem ra phố đánh cuộc lấy rượu thịt. Con thuần rất khỏe, chọi lần nào cũng thắng, chủ trọ mừng rỡ đưa tiền cho Vương bảo đánh cuộc với đám con em nhà giàu, ba lần chọi ba lần thắng. Khoảng nửa năm thì tích cóp được hai mươi lượng vàng, trong lòng cũng được an ủi, coi con thuần như tính mạng của mình.

Trước đó có thân vương nọ thích chọi chim thuần, hàng năm cứ đến tiết Thuợng nguyên lại cho những người chơi chim thuần trong dân gian đem tới vương phủ để chọi. Chủ trọ nói với Vương "Nay thì có thể trở thành đại phú ngay, có điều không biết vận số của ông ra sao". Bèn nói rõ sự tình rồi dắt Vương đi, dặn "Nếu thua thì đành im lặng đi ra thôi, còn vạn nhất con thuần này thắng ắt vương sẽ hỏi mua, ông đừng nhận lời, nếu vương ép thì cứ nhìn vào ta, lúc nào ta gật đầu hãy bán", Vương vâng dạ.

Tới vương phủ thì những người chọi chim đã chen vai dưới thềm, giây lát vương ngự ra điện, tả hữu truyền ai có chim thuần muốn chọi thì lên. Lập tức có một người xách lồng lên điện, vương sai thả thuần ra, khách cũng thả. Mớỉ bay nhảy mổ đá qua loa, thuần của khách đã thua chạy, vương cả cười, trong giây lát đã có mấy người thua. Chủ trọ nói "Đến lúc rồi!", rồi cùng nhau lên điện. Vương nhìn con thuần của Thành, nói "Tròng mắt có vằn máu giận dữ, con thuần này khỏe lắm, không thể coi thường", rồi sai đem con Thiết chủy ra chọi. Mới bay nhảy đấu đá vài hiệp thì lông con thuần của vương đã rụng tơi tả, vương sai chọn con hay hơn đem ra, hai lần thay đều thua. Vương vội sai lấy con Ngọc thuần trong cung, giây lát đem ra, thấy lông trắng như cò, thần thái mạnh mẽ khác thường, Vương Thành nao núng quỳ xuống xin thôi, nói "Thuần của đại vương là chim thần, sợ giết mất chim ta thì ta mất nghiệp!".

Vương cười nói "Cứ cho chọi đi, nếu chết ta sẽ đền bù thật hậu!". Thành bèn thả thuần ra, con Ngọc thuần xông thẳng vào. Lúc con Ngọc thuần đang sấn vào thì con thuần của Thành nằm phục xuống như con gà dữ để đợi, con Ngọc thuần mổ mạnh một cái thì nó vùng bay lên như con hạc đánh lại, tiến lui lên xuống cầm cự một lúc thì con Ngọc thuần đuối dần mà con thuần của Vương càng hăng máu đánh ráo riết, không bao lâu bộ lông tuyết của Ngọc thuần rụng tơi tả, cụp cánh chạy trốn.

Cả ngàn người đúng xem ai cũng khen ngợi. Vương bảo bắt con thuần của Thành, đích thân xem xét từ đầu mỏ đến móng chân một lượt rồi hỏi "Con thuần này ngươi có bán không?". Thành đáp "Tỉểu nhân không có tài sản gì, phải nhờ vào nó mà sống nên không dám bán". Vương nói "Ta sẽ trả giá cao cho ngươi có một gia tư bậc trung, có bằng lòng không?" Thành cúi đầu suy nghĩ hồi lâu rồi nói "Thật vốn không muốn bán, nhưng đại vương đã thích, vả lại nếu cho tiểu nhân được có ăn có mặc thì còn muốn gì hơn".

Vương hỏi giá, Thành xin ngàn lượng vàng, vương cười nói "Gã ngốc này, nó có phải châu ngọc gì mà giá ngàn vàng". Thành nói "Đại vương không cho nó là quý báu nhưng đối với thần thì ngọc bích liên thành cũng không hơn được", Vương hỏi vì sao, Thành đáp "Tiểu nhân đem nó ra chợ, mỗi ngày được vài đồng đổi lấy đấu gạo, một nhà mười miệng ăn không phải lo đói rét, còn của báu nào bằng". Vương nói "Ta không để ngươi thiệt, thôi trả ngươi hai trăm" Thành lắc đầu. Vương lại trả thêm một trăm, Thành nhìn chủ trọ không thấy tỏ vẻ gì bèn nói "Thừa mệnh đại vương, xin bớt một trăm. Vương nói "Thế thì thôi vậy, ai mà đem chín trăm luợng vàng mua một con chim thuần?".

Thành cho thuần vào lồng định đi thì vương gọi "Anh chọi chim lại đây, anh chọi chim lại đây" Ta trả sáu trăm, chịu thì bán, không chịu thì thôi vậy". Thành lại nhìn chủ trọ nhưng chủ trọ vẫn điềm nhiên. Thành trong bụng đã thỏa mãn, chỉ sợ bỏ qua cơ hội bèn nói "Với cái giá ấy thì thật không được vừa ý, nhung đã bàn việc mua bán mà không thành e lại mắc tội lớn, bất đắc dĩ xin vâng lệnh đại vương. Vương mừng rỡ sai cân vàng đưa ngay. Thành nhận vàng, lạy tạ đi ra. Chủ trọ bực tức nói "Ta dặn thế nào mà ông hấp tấp như thế? Nếu kèo nài thêm một chút thì có tám trăm rồi!".

Thành về nhà trọ đặt vàng lên bàn mời chủ trọ tự lấy. Chủ trọ không chịu, Thành ép mãi mới đem bàn tính ra tính toán nhận tiền ăn ở. Thành sắp xếp hành lý trở về, tới nhà kể lại những việc đã qua, lấy vàng ra chúc mừng nhau. Bà già bảo mua ba trăm mẫu ruộng tốt, xây nhà cửa sắm đồ đạc, nghiễm nhiên là nhà thế gia.

Bà già dậy sớm đôn đốc Thành coi việc cày bừa, vợ coi việc canh cửi, hơi lơ là thì quát mắng nhưng vợ chồng vẫn lễ phép không dám tỏ lời hờn oán. Qua ba năm nhà càng giàu lên, bà già từ biệt định đi, vợ chồng cùng cố giữ, chảy cả nước mắt bà mới ở lại. Sáng ngày vào hầu thì đã biến mất.

Dị Sử thị nói: Người ta giàu có đều nhờ chăm chỉ, đây lại riêng nhờ lười biếng, cũng là việc rất chướng tai. Nhưng không biết rằng kẻ kia nghèo thấu xương mà lòng chí thành không thay đổi nên trời ban đầu thì bỏ mà về sau lại thương đấy, chứ trong bọn lười biếng há có được kẻ giàu sang sao!

Thanh Phượng

(Thanh Phượng)

Họ Cảnh ở Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây) là nhà đại gia cũ, nhà cửa rộng rãi. Về sau sa sút, lầu viện san sát bỏ hoang đến quá nửa, vì vậy sinh ra nhiều điều quái dị. Cửa vào sảnh đường cứ tự mở tự đóng, người nhà lắm khi nửa đêm lại hoảng sợ kêu la. Cảnh lo lắng dời qua ở nơi khác, chỉ để lại một người đầy tớ già coi giữ, vì thế nhà cửa càng thêm hoang tàn, có người còn nghe thấy cả tiếng nói cười đàn hát ở trong.

Cảnh có người cháu ruột tên Khứ Bệnh, tính ngông nghênh không chịu bị câu thúc, dặn người đầy tớ già hễ nghe thấy chuyện gì thì báo cho mình biết ngay. Một đêm ông ta thấy trên lầu có ánh đèn lúc sáng lúc tắt vội tới báo, sinh nghe thế muốn vào xem chuyện lạ, ai cản cũng không được.

Sinh vốn biết rõ cửa ngõ trong nhà bèn rẽ cỏ lần đường, vòng vèo đi vào. Lên tới trên lầu vẫn chẳng thấy gì lạ, băng qua lầu đi vào tiếp thì nghe có tiếng nói xì xào nói chuyện. Lén nhìn vào thấy hai ngọn đuốc lớn thắp song song sáng trưng như ban ngày, có một ông già mặc áo nhà nho ngồi trên ghế chủ nhân, một bà già ngồi đối diện, đều khoảng hơn bốn mươi tuổi. Ghế dưới là một thiếu niên khoảng hai mươi tuổi, bên phải là một cô gái tuổi mới cập kê, trên bàn đầy rượu thịt, đang vui vẻ chuyện trò.

Sinh đột ngột bước vào, cười kêu lên rằng "Có một người khách không mời mà tới này!". Cả bọn hoảng hốt chạy trốn, riêng ông già bước ra quát hỏi là ai mà dám xông vào khuê phòng nhà người ta?. Sinh đáp "Đây là khuê phòng nhà ta, ông đã chiếm cứ còn đem rượu ngon uống riêng với nhau, không mời qua chủ nhà một câu thì cũng quá keo kiệt đấy".

Ông già ngắm kỹ sinh một lượt rồi nói "Không phải chủ nhân mà". Sinh nói "Ta là học trò ngông tên Cảnh Khứ Bệnh, cháu ruột chủ nhân đây". Ông già vội kính cẩn đáp "Lâu nay vẫn nguỡng mộ danh tiếng Thái Sơn Bắc đẩu!". Bèn chắp tay mời sinh vào, gọi người nhà bày mâm mới, sinh ngản lại, ông già bèn rót rưựu mời khách. Sinh nói "Chúng ta là người quen, đâu cần tránh mặt khách, xin mời cả nhà ra cùng uống với nhau".

Ông già gọi "Hiếu Nhi", giây lát thiếu niên bước vào, ông già nói "Đây là thằng con ta", thiếu niên vái chào rồi ngồi xuống. Hỏi thăm về gia thế, ông già tự xưng họ Hồ tên Nghĩa Quân. Sinh vốn tính hào phóng, chuyện trò rất say sưa, Hiếu Nhi cũng là người không câu nệ, nói chuyện một hồi đã thấy ưa thích nhau. Sinh hai mươi mốt tuổi, hơn Hiếu Nhi hai tuổi, nên gọi y là em.

Ông già nói "Nghe nói ông tổ ông ngày xưa có soạn Ngoại truyện về họ Đồ Sơn, ông có biết không?". Đáp "Có biết". Ông già nói "Bọn ta là dòng dõi họ Đồ Sơn đây. Từ đời Đường trở về sau, gia phả còn nhớ được, nhưng từ đời Ngũ đại về trước thì không được truyền lại. Xin Công tử chỉ giáo cho". Sinh kể qua công trạng của cô gái họ Đồ Sơn giúp vua Vũ thuở xưa, thêm thắt nhiều lời, tường thuật trôi chảy.

Ông già cả mừng nói với con trai "Hôm nay may mắn được nghe nhũng điều chưa từng nghe bao giờ. Công tử đây cũng chẳng phải người lạ, con vào mời mẹ và Thanh Phượng ra cùng nghe, cũng là để biết công đức tổ tiên". Hiếu Nhi vào trong một lúc thì bà già và cô gái bước ra. Sinh nhìn kỹ thấy cô gái vóc dáng mảnh mai yêu kiều, đôi mắt sóng thu lóng lánh, trên đời không ai đẹp bằng. Ông già chỉ bà già nói "Đây là vợ ta", lại chỉ cô gái nói "Đây là Thanh Phượng, cháu gọi ta bằng chú, cũng hơi sáng dạ, nghe qua chuyện gì đều nhớ không quên, nên gọi ra cho nghe cùng".

Sinh nói chuyện xong bèn uống ruợu, nhìn cô gái đăm đăm không rời mắt. Cô gái biết ý cúi đầu, Sinh ngầm đạp lên giày nàng, nàng vội rút chân về nhưng không hề có nét giận dữ. Bấy giờ sinh thần hồn bay bổng, không tự chủ được nữa, vỗ bàn nói "Được người vợ thế này, có đổi cho làm vua cũng không thèm!". Bà già thấy sinh đã hơi say lại thêm ngông, bèn cùng cô gái đứng dậy bước vào trong. Sinh mất hứng bèn chào ông già ra về, nhung vẫn vấn vương không sao quên được Thanh Phượng, đến đêm lại tới thì còn ngửi thấy mùi hương thơm phức mà đợi suốt đêm vẫn yên ắng.

Về bàn với vợ dời nhà qua ở đó, mong có ngày gặp lại nhưng vợ không nghe. Sinh bèn dọn qua một mình, ở dưới lầu đọc sách. Đêm đang ngồi ở bàn thì một con ma xỏa tóc bước vào, mặt đen như sơn trợn mắt nhìn, sinh cười nhúng ngón tay vào nghiên mực tự bôi lên mặt trố mắt nhìn lại, con ma xấu hổ bỏ đi.

Đêm hôm sau, lúc khuya vừa tắt đèn định đi nằm thì nghe sau lầu có tiếng mở then rồi có tiếng kẹt cửa, sinh vội trở dậy xem thì thấy cánh cửa hé mở. Lát sau nghe có tiếng giày bước khe khẽ, có ánh đèn trong phòng chiếu ra, nhìn qua thì là Thanh Phượng. Bất chợt thấy sinh, nàng hoảng hốt quay vào đóng ngay cửa sổ lại. Sinh quỳ mọp xuống năn nỉ "Tiểu sinh không nề nguy hiểm thật chỉ vì nàng. May gặp lúc không có ai, xin được cầm tay cười một tiếng thì có chết cũng không hối hận". Cô gái từ trong nói ra "Thâm tình khăng khít sao thiếp không biết, nhung chú giáo huấn rất nghiêm nên không dám vâng mệnh". Sinh cố van nài, nói "Cũng chẳng dám mong được thân cận, chỉ xin cho thấy nhan sắc một lần cũng đủ". Cô gái như xiêu lòng bèn mở cửa bước ra nắm cánh tay sinh kéo dậy. Sinh mừng quýnh, đưa nhau xuống dưới lầu, ôm ghì lấy đỡ ngồi lên gối. Nàng nói "Cũng may có chút túc duyên nhưng qua đêm nay thì dù có nhớ nhau cũng vô ích".

Sinh hỏi vì sao, nàng đáp "Chú thiếp sợ chàng ngông nên giả làm quỷ dữ để dọa mà chàng không sợ, hôm nay tính dọn đi nơi khác. Cả nhà đã mang đồ dùng tới nơi ở mới, chỉ còn thiếp ở lại coi giữ, sáng mai sẽ đi", dứt lời muốn đi, nói sợ chú về. Sinh cố giữ lại, muốn cùng giao hoan. Đang níu kéo nài nỉ thì ông già sấn vào, Cô gái vừa thẹn vừa sợ không biết làm sao, chỉ cúi đầu đứng tựa thành giường mân mê dải áo không nói gì.

Ông già giận dữ nói "Con tiện tỳ làm nhơ nhuốc danh giá nhà ta! Không đi ngay thì roi quất vào lưng bây giờ!". Cô gái cúi đầu bước mau đi, ông già cũng bỏ ra. Sinh theo sau nghe tiếng chửi mắng không ngớt rồi có tiếng Thanh Phượng khóc rưng rức, lòng đau như cắt liền nói lớn "Tội lỗi là do tiểu sinh, chứ Thanh Phượng dính líu gì vào đó? Cứ tha cho Phượng, bao nhiêu gươm đao rìu búa tiểu sinh xin chịu cả". Một lúc lâu thấy yên ắng, sinh bèn đi ngủ.

Từ đó trong nhà không còn nghe thấy tăm hơi gì nữa. Chú sinh được tin lấy làm lạ, vui lòng bán rẻ khu nhà cho, sinh mừng rỡ đem cả gia quyến dọn sang, rất vừa ý nhà mới nhưng vẫn chưa lúc nào quên được Thanh Phuợng. Gặp tiết Thanh minh sinh đi tảo mộ trở về, thấy hai con chồn con bị chó đuổi riết, một con nhảy vào bụi rậm trốn mất còn một con thì cuống quýt trên đường, nhìn thấy sinh thì sán lại kêu thương, cụp tai cúi đầu như cầu cứu. Sinh thương xót mở vạt áo ra bọc vào đem về, tới nhà đóng cửa đặt lên giường thì ra là Thanh Phượng.

Sinh mừng rỡ thăm hỏi, nàng đáp "Vừa rồi đang cùng đứa tỳ nữ đùa giỡn thì gặp phải nạn lớn, nếu không có chàng chắc đã chôn thây trong bụng chó rồi. Mong chàng không vì khác loài mà ghét bỏ". Sinh nói "Ngày đêm tưởng nhớ canh cánh bên lòng, gặp được nàng như được của báu, sao lại nói là ghét bỏ". Cô gái nói "Đây cũng là số trời. Nếu không gặp chuyện nguy nan thì làm sao được theo nhau? Nhưng cũng may là đứa tỳ nữ ắt cho là thiếp đã chết, có thể cùng kết nghĩa lâu dài được".

Sinh mừng, dọn một phòng riêng cho nàng ở. Được hơn hai năm, một đêm sinh đang đọc sách chợt Hiếu Nhi bước vào Sinh ngừng đọc ngạc nhiên hỏi từ đâu tới. Hiếu Nhi quỳ rạp xuống đất buồn thảm nói "Cha ta gặp nạn bất ngờ, ngoài ông không ai cứu nổi, định tự tới cầu khẩn nhưng sợ ông không chịu nên cho ta đi thay". Sinh hỏi là việc gì, Hiếu Nhi đáp "Công tử có quen Tam lang họ Mạc không?". Sinh nói "Đó là bạn đồng niên với ta". Hiếu Nhi nói "Ngày mai y sẽ đi qua đây, nếu có mang một con chồn săn được thì mong ông giữ lại cho". Sinh đáp "Chuyện nhục nhã dưới lầu trước đây vẫn canh cánh không quên, việc khác thật không dám nghe tới. Nếu muốn ta đem sức hèn ra giúp thì phi Thanh Phượng tới không xong". Hiếu Nhi rơi lệ nói "Em Phượng* chết ngoài đồng ba năm nay rồi". Sinh rũ áo nói "Nếu thế càng hận sâu hơn thôi", rồi cầm sách cao giọng ngâm nga, không nhìn tới nữa.

* Em Phượng: cả hai bản Hương Cảng và Đài Bắc đều khàc là "Phượng muội", tục lệ Trung Hoa, anh em cô cậu, chú bác ai sanh trước làm anh chị.

Hiếu Nhi đứng dậy khóc lạc cả giọng, ôm mặt đi mất. Sinh tới chỗ Thanh Phượng ở kể cho nàng nghe, nàng thất sắc hỏi "Thế có cứu không?", sinh đáp "Cứu thì cứu rồi, nhưng vừa rồi không nhận lời là để trả đũa chuyện ngang nguợc ngày trước đã". Cô gái mới mừng nói "Thiếp mồ côi từ nhỏ, nhờ chú nuôi nấng mới trưởng thành. Ngày ấy tuy ông đắc tội với chàng nhưng cũng là phép nhà phải thế". Sinh nói "Phải rồi, nhưng cũng làm người ta không khỏi ấm úc, nếu nàng chết thật thì nhất định không cứu đâu". Nàng cười nói đáp "Nhẫn tâm thật".

Hôm sau quả nhiên Tam lang họ Mạc tới, yên ngựa khảm vàng, túi cung da cọp, tôi tớ theo hầu rất oai vệ. Sinh ra cửa đón thấy săn được rất nhiều cầm thú, trong có một con chồn đen, máu ướt đẫm cả lông. Sờ xem thấy da thịt còn ấm bèn nói thác là áo cừu bị rách, hỏi xin để vá. Mạc khẳng khái cởi dây tặng cho, sinh lập tức trao cho Thanh Phượng rồi ra uống rượu với khách.

Khách về rồi cô gái ôm con chồn vào lòng, ba ngày thì sống lại, xoay trở rồi biến thành ông già. Ngước mắt nhìn thấy Phượng, ngỡ không còn ở giữa cõi trần, Cô gái kể lại mọi chuyện, ông bèn sụp lạy sinh, thẹn thùng tạ lỗi trước rồi vui vẻ nhìn cô gái nói "Ta vẫn nói là ngươi không chết, nay quả thế thật". Cô gái nói với sinh "Chàng như có lòng nghĩ tới thiếp, thì xinh cho mượn chỗ ngôi lầu để thiếp được báo đáp chút riêng về ơn nuôi nấng". Sinh ưng thuận, ông già bẽn lẽn từ biệt ra đi, đến tối quả đưa cả nhà lại.

Từ đó như cha con một nhà, không còn nghi ngờ oán ghét nhau nữa. Sinh ở chỗ phòng sách, Hiếu Nhi thỉnh thoảng tới chuyện trò. Con trai mà vợ lớn của sinh sinh ra dần lớn lên bèn nhờ Hiếu Nhi dạy dỗ, vì ôn tồn khéo dạy học, có phong độ người thầy.

Bộ Da Vẽ

(Họa Bì)

Vương sinh nguời Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây) sáng sớm ra đường gặp một nữ lang ôm bọc quần áo đi mau một mình, có vẻ rất mệt nhọc, vội vượt lên nhìn thì thấy tuổi khoảng đôi tám, dung mạo tuyệt đẹp. Trong lòng ưa thích bèn hỏi "Sao còn sớm mà đã đi lẻ loi một mình thế?", nàng đáp "Khách qua đường hiểu sao được nỗi lo buổn của kẻ khác, hỏi làm gì cho mệt?". Sinh hỏi "Nàng có điều gì lo buồn vậy? Nếu giúp được thì ta không từ chối mà". Cô gái buồn bã đáp "Cha mẹ tham tiền bán thiếp cho nhà quan, vợ lớn cả ghen sớm hôm đánh đập chửi mắng làm nhục, không chịu nổi nên phải trốn đi". Sinh hỏi định đi đâu, nàng đáp "Người đi trốn thì làm sao có nơi mà định trước được?". Sinh nói "Tệ xá không xa, mời nàng ghé qua", cô gái mừng rỡ đi theo.

Sinh mang hộ bọc quần áo, đưa nàng cùng về. Cô gái thấy nhà không có ai bèn hỏi sao không có người nhà, sinh đáp đây chỉ là phòng sách thôi, nàng nói "Nơi này tốt lắm. Chàng như thương xót mà cứu giúp thiếp thì xin giữ kín đừng nói với ai". Sinh ưng thuận, kế cùng nàng chung chạ, giấu diếm trong phòng kín qua mấy ngày cũng không ai hay. Sinh nói hé với vợ là Trần thị, vợ ngờ là nàng hầu vợ lẽ của nhà đại gia, khuyên để cô ta đi nhưng sinh không nghe. Ngẫu nhiên đi ngang chợ, gặp một đạo sĩ nhìn sinh kinh ngạc hỏi gặp gì lạ rồi, sinh đáp không có gì cả. Đạo sĩ nói "Người ông đầy tà khí, sao lại nói là không?", sinh lại cố chối. Đạo sĩ bèn bỏ đi, nói "Mê muội thay, trên đời vẫn có kẻ sắp chết đến nơi mà chưa tỉnh ngộ!".

Sinh thấy lời nói lạ lùng cũng hơi ngờ cô gái, nhưng lại nghĩ rõ ràng là một mỹ nữ sao đến nỗi là yêu quái được nên cho rằng đạo sĩ mượn tiếng trừ tà để kiếm ăn. Lát sau về tới nhà học, thấy bên trong đóng chặt không vào được lấy làm ngờ vực, bèn trèo qua chỗ tường lở vào thì cửa phòng cũng đóng. Sinh rón rén tới trước cửa sổ nhìn vào, thấy một con quỷ hung ác mặt xanh lè, răng chơm chởm như lưỡi cưa đang trải một tấm da nguời ra giường, lấy bút màu tô lên. Tô xong ném bút nhấc tấm da như tấm áo khoác lên người, liền biến thành cô gái. Sinh thấy thế cả sợ, bò xuống lẻn ra, vội vàng đi tìm đạo sĩ thì không biết đã đi đâu, tìm kiếm khắp nơi mới gặp ngoài đồng, quỳ xuống xin cứu mạng.

Đạo sĩ nói "Xin sẽ đuổi đi giúp ông. Con quỷ ấy cũng khốn khổ mới tìm được người thay, ta cũng không nỡ hại mạng nó". Liền lấy chiếc phất trần đưa sinh, dặn treo ở cửa phòng ngủ rồi từ biệt, hẹn gặp lại ở miếu Thanh Đế. Sinh về không dám tới nhà học bèn vào phòng vợ ngủ, treo phất trần lên cửa. Khoảng canh một nghe ngoài cửa có tiếng lạch cạch, không dám nhìn bèn bảo vợ ra nhìn xem. Chỉ thấy cô gái tới, thấy chiếc phất trần thì không dám bước tới nữa, đúng nghiến răng hồi lâu rồi bỏ đi. Giây lát lại quay lại mắng "Đạo sĩ chỉ dọa ta! Chẳng lẽ miếng ăn đã đến miệng lại nhả ra à?" Rồi chụp chiếc phất trần bẻ nát, phá cửa sấn vào, lên thẳng giường sinh nằm xé bụng móc lấy quả tim bỏ đi.

Vợ sinh la lên, tỳ nữ vào soi đèn thì sinh đã chết, khoang bụng máu me bê bết, Trần thị sợ khóc không thành tiếng. Hôm sau sai em chồng là Nhị Lang chạy tới kể với đạo sĩ, đạo sĩ tức giận nói "Ta đã thương tình mà con quỷ này lại dám làm thế". Lập tức theo em sinh tới thì cô gái đã biến mất, bèn ngẩng đầu nhìn quanh rồi nói "May là nó trốn chưa xa". Lại hỏi dãy nhà phía nam là nhà ai, Nhị Lang đáp "Đó là nhà tiểu sinh". Đạo sĩ nói "Nó đang ở nhà ông", Nhị Lang ngạc nhiên nói là chưa hề có. Đạo sĩ hỏi "Vậy có ai không quen tới chưa?". Nhị Lang đáp "Ta tới miếu Thanh Đế nên không biết, để về hỏi lại".

Rồi đi một lúc thì quay lại nói "Quả là có. Sáng nay có một bà già tới xin làm thuê, vợ ta giữ lại, hiện còn ở đó". Đạo sĩ nói "Chính nó đấy", liền cùng đi qua, cầm kiếm gỗ đứng giữa sân gọi "Yêu nghiệt ra đền phất trần cho ta!". Bà già trong nhà hốt hoảng tái mặt, ra cửa toan chạy. Đạo sĩ đuổi theo chém ngã lăn ra, tấm da người tuột xuống, bà ta hóa thành con quỷ nằm kêu rống như heo. Đạo sĩ lấy kiếm gỗ chặt đầu, thân nó biến thành đám khói dày xoáy tròn trên mặt đất. Đạo sĩ lấy ra một cái hồ lô mở nút đặt vào giữa đám khói, nghe kêu vu vu như huýt sáo, trong chớp mắt đám khói mất hết, đạo sĩ nút hồ lô lại bỏ vào túi. Cùng nhìn lại tấm da người thấy đủ cả mày mắt tay chân, đạo sĩ cuốn lại, tiếng kêu như cuốn trục tranh, cũng bỏ vào túi rồi từ biệt toan đi.

Trần thị đón lại lạy lục trước cổng, khóc lóc xin cứu chồng sống lại, đạo sĩ từ tạ là không làm được. Trần thị càng đau xót, quỳ rạp không đứng dậy, đạo sĩ ngẫm nghĩ rồi nói "Phép thuật của ta kém cỏi, thật không làm người chết sống lại được. Ta chỉ cho một người may ra có thể làm được, tới cầu chắc có kết quả". Hỏi là ai, đạo sĩ đáp "Trong chợ có một người điên hay nằm trên đống phân, thử tới khẩn cầu xem. Nếu y buông tuồng làm nhục phu nhân, xin phu nhân cũng đừng tức giận".

Nhị Lang cũng biết người ấy bèn từ biệt đạo sĩ, cùng chị dâu đi tìm. Thấy người ăn mày đang ngu ngơ ca hát trên đường, nước mũi lòng thòng, vô cùng bẩn thỉu. Trần thị lê gối tới trước mặt, y cười nói "Người đẹp yêu ta à?", Trần thị kể mọi chuyện xong y lại cười lớn nói "Ai cũng là chồng được mà, cứu sống lại làm gì?". Trần thị cố kêu van, y nói "Lạ thật, ai đâu chết mà nhờ ta cứu sống, ta là Diêm Vương à?", rồi tức giận lấy gậy đánh Trần thị.

Trần thị cắn răng chịu đau, người trong chợ dần xúm lại xem đông nghẹt. Người ăn mày khạc một vốc đờm vào tay rồi dí vào miệng Trần thị nói "Ăn đi!". Trần thị đỏ bừng mặt tỏ vẻ ngần ngại, nhưng nhớ lại lời đạo sĩ dặn bèn nhắm mắt nuốt vào, tới cổ họng thấy vướng như nắm bông, nghèn nghẹn trôi xuống rồi dùng lại ở ức. Người ăn mày cười lớn nói "Người đẹp yêu ta thật!" rồi đứng lên đi thẳng không ngoái lại. Trần thị theo sau thấy y vào trong miếu, bước mau theo để khẩn cầu thì không biết đã đi đâu mất, tìm khắp trước sau không thấy tăm hơi đành vừa thẹn vừa giận trở về.

Đã xót chồng không may chết thảm, lại hối mình chịu nhục nuốt đờm, ôm mặt kêu khóc chỉ muốn chết ngay. Kế chùi máu liệm xác chồng, người nhà cứ đứng xa nhìn không ai dám tới gần, Trần thị ôm thây nhặt ruột, vừa xếp vừa khóc. Khóc đến lúc thất thanh chợt cái vật vướng trong ức trào ra, chưa kịp quay đi nó đã rơi vào trong khoang bụng xác chết. Hoảng sợ nhìn lại thì là một quả tim người đang đập thon thót, hơi nóng bốc nghi ngút như khói, lấy làm lạ vội lấy hai tay khép bụng chồng lại, cố sức giữ chặt, hơi nới tay thì hơi nóng từ khe hở bốc ra, bèn xé lụa buộc mau lại. Sờ vào xác chồng thấy dần dần ấm lại bèn lấy chăn đắp lên, nửa đêm mở ra xem thì thấy mũi có hơi thở.

Đến sáng thì sinh sống lại, nói vừa giật mình như nằm mơ tỉnh dậy, chỉ thấy bụng nhoi nhói đau. Nhìn lại chỗ bị xé rách thấy đóng vẩy to như đồng tiền, sau dần lành lại.

Dị Sử thị nói: Người đời ngu thay! Rõ ràng là yêu quái mà cho là người đẹp. Người ngu mê muội thay! Rõ ràng là lời ngay mà cho là nói bậy. Nhưng mê đắm sắc đẹp mà muốn chiếm lấy, thì vợ cũng phải chịu cái nhục nuốt đờm của người khác. Đạo trời tuần hoàn, nhưng người ngu vẫn mê muội không tỉnh ngộ, đáng thương lắm thay.

Đứa Con Người lái Buôn

(Cổ Nhi)

Ông Mỗ người đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc) đi buôn xa nhà, vợ ở nhà một mình, đêm mơ thấy ngủ với người lạ, tỉnh dậy sờ thì là một người đàn ông bé nhỏ. Thấy cung cách khác người thường biết là hồ, lát sau y xuống giường đi ra, cửa chưa mở đã biến mất. Đến tối phải bảo bà già nấu bếp vào ngủ chung, có đứa con trai mười tuổi vẫn ngủ riêng cũng gọi vào. Đến khuya bà già và đứa nhỏ đã ngủ thì hồ lại tới, người đàn bà ú ớ như nói mê, bú già hay được la lên, hồ mới đi. Từ đó người đàn bà cứ ngẩn ngơ, đến tối không dám tắt đèn, dặn con đừng ngủ say.

Đến khuya, đứa nhỏ và bà già dựa vào tường ngủ gật một lúc, tỉnh dậy thì người đàn bà biến mất, ngỡ là đi tiểu nhưng chờ lâu không thấy vào mới sinh nghi. Bà già sợ không dám đi tìm, đứa nhỏ cầm đèn đi soi khắp nơi, tới phòng khác thì thấy mẹ trần truồng nằm trong, tới gần đỡ lên cũng không biết xấu hổ.

Từ đó người đàn bà hóa điên, ban ngày ca khóc chửi mắng đủ kiểu, đêm đến không muốn ở chung với ai mà ngủ riêng một phòng, bảo đứa nhỏ và bà già qua ngủ chỗ khác. Đứa nhỏ mỗi khi nghe thấy tiếng mẹ cười nói thì dậy châm lửa soi, mẹ tức giận mắng cũng mặc kệ, mọi người đều khen là gan dạ. Nhưng nó lại nghịch ngợm quá quắt, hàng ngày cứ bắt chước thợ nề lấy gạch đá xếp lên cửa sổ, cản lại thì nó không nghe, vứt gạch đá đi thì nó lăn ra đất kêu khóc nên không ai dám chọc ghẹo.

Qua mấy hôm, hai cửa sổ đều bị lấp kín không còn chút ánh sáng nào lọt vào được, kế nó lại lấy bùn trét kín khe vách bị hở, suốt ngày quần quật không biết mệt. Trét xong lại vớ dao làm bếp mài xoèn xoẹt, ai cũng ghét là buớng bỉnh, không buồn đếm xỉa. Đến nửa đêm đứa nhỏ giấu dao vào bụng, chụp vỏ quả bầu lên ngọn đèn, đợi mẹ nói mê liền vùng dậy mở ra, đứng chặn ngoài cửa phòng kêu ầm lên. Chờ hồi lâu không thấy gì lạ, nó bèn bước ra xa cửa phòng giả nói to là mót tiểu. Chợt có con vật như con mèo từ khe cửa vọt ra, nó chém vội chỉ đứt được khúc đuôi dài khoảng hai tấc, máu chảy ròng ròng. Lúc nó vừa dậy khêu đèn thì mẹ đã mắng chửi, đứa nhỏ cũng làm như không nghe, chém không trúng hồ bực bội đi ngủ lại, tự nghĩ tuy không chém chết được nhưng may ra thì hồ không tới nữa.

Đến sáng ra nhìn thấy vết máu qua tường mà đi, lần theo thấy vào vườn nhà họ Hà, đến đêm quả không thấy gì nữa. Đứa nhỏ mừng thầm nhưng mẹ lại ngủ mê mệt như chết. Không bao lâu người lái buôn về, tới cạnh giường thăm hỏi nhưng vợ chửi mắng coi như kẻ thù. Đứa nhỏ kể chuyện lại, người cha sợ hãi mời thầy cắt thuốc chữa, vợ hắt thuốc chửi rủa, phải ngầm đổ thuốc vào cháo cho uống, mấy ngày mới hơi đỡ, cha con đều mừng.

Một đêm tỉnh giấc thấy người đàn bà đã biến mất, hai cha con qua phòng khác tìm thì bắt gặp. Từ đó lại điên không muốn ngủ cùng phòng vói chồng, cứ gần tối lại chạy qua phòng khác, kéo lại thì càng chửi mắng thậm tệ. Chồng không còn cách nào phải đóng chặt cửa tất cả các phòng khác, nhưug người đàn bà tới thì cửa cứ tự mở. Chồng lo lắng, cầu cúng đủ cách vẫn không hiệu nghiệm. Đứa nhỏ chiều tới lén tới núp trong bụi cỏ rậm ở vườn nhà họ Hà để dò xét chỗ hồ ở.

Trăng vừa lên chợt nghe tiếng người nói, lén vạch cỏ nhìn ra thấy hai người uống rượu, có một người đầy tớ râu dài bưng bầu rượu, mặc áo màu xanh sẫm, tiếng nói rất nhỏ, không nghe được gì. Lát sau nghe một người nói "Ngày mai cứ đem một vò rượu trắng tới đây", giây lát cùng ra đi, chỉ còn người râu dài ở lại, cởi áo nằm trên tảng đá trong đình, nhìn kỹ thấy tay chân đều như người, chỉ có cái đuôi thò ra phía sau. Đứa nhỏ muốn về nhưng sợ hồ biết bèn núp suốt đêm, trời chưa sáng lại nghe thấy hai người lục tục trở lại, thì thào đi vào bụi tre rậm.

Đứa nhỏ trở về, cha hỏi đi đâu nó đáp là ngủ ở nhà bác. Gặp hôm theo cha vào chợ, thấy hàng mũ có treo cái đuôi chồn liền xin cha mua. Cha không nghe, nó cứ kéo áo vòi vĩnh, cha không nỡ phật ý bèn mua cho. Cha buôn bán trong cửa hàng, đứa con nô đùa bên cạnh, nhân lúc cha quay đi bèn lấy cắp tiền đi mua rượu trắng, gửi lại ở quán. Có người cậu ở trong thành vốn làm nghề săn bắn, đứa nhỏ chạy tới nhà cậu thì cậu đi vắng, mợ hỏi thăm mẹ, nó đáp "Mấy hôm nay khỏe hơn, nhưng vì chuột cắn phá quần áo làm mẹ giận kêu khóc không thôi nên sai cháu xin ít thuốc chuột". Mợ mở hòm lấy ra khoảng một đồng cân gói lại đưa cho, đứa nhỏ cho là ít. Mợ ra nấu mì cho cháu ăn, nó nhân lúc trong phòng không có ai liền mở gói thuốc trộm lấy một vốc giấu vào bọc, kế ra nói với mợ đừng nhóm bếp nữa vì cha đang chờ ở chợ, nó không kịp ăn, rồi đi luôn. Nó lén bỏ thuốc độc vào rượu rồi chơi rong trong chợ, gần tối mới về. Cha hỏi đi đâu, nó nói thác là ở nhà cậu, từ đó hàng ngày đứa nhỏ cứ đi chơi trong chợ.

Một hôm thấy người râu dài cũng chen trong đám đông, đúa nhỏ nhìn kỹ liền theo sát bên, lân la bắt chuyện hỏi thăm quê quán, y đáp ở thôn Bắc rồì cũng hỏi lại, đứa nhỏ bịa đặt đáp là trong hang núi. Người râu dài tỏ vẻ lạ lùng, nó cười nói "Nhà ta đời đời ở hang núi, ông thì không sao?". Người kia càng kinh ngạc hỏi tên họ, đứa nhỏ đáp "Ta là con họ Hồ, hình như đã gặp ông ở đâu rồi, thấy ông đi theo hai chàng trẻ tuổi, ông quên rồi à?"

Người kia nhìn kỹ nó nửa tin nửa ngờ, nó bèn khẽ vạch quần, hơi thò cái đuôi giả ra, nói "Bọn ta trà trộn giữa loài người, chỉ cái này là vẫn còn, thật đáng bực". Người kia hỏi ra chợ làm gì, nó đáp "Cha ta sai đi mua rượu", y cũng nói là đi mua rượu. Đứa nhỏ hỏi mua chưa, y đáp "Bọn ta phần lớn đều nghèo nên hay đánh cắp hơn". Đứa nhỏ nói "Việc ấy cũng khổ, luôn luôn phải lo sợ", người kia nói "Chủ nhân ra lệnh, không thể không làm". Đứa nhỏ hỏi chủ là ai, y đáp "Là hai anh em mà hôm trước ngươi gặp đấy. Một người dan díu với vợ họ Vương ngoài cửa Bắc, một người ngủ ở nhà ông Mỗ ở thôn Đông, gặp thằng con ông ta dữ quá nên bị chém đứt đuôi mười ngày mới lành, nay lại tới đó rồi".

Nói xong định từ biệt, nói "Đừng làm hỏng việc của ta". Đứa nhỏ nói "Đánh cắp khó hơn mua nhiều, ta đã mua trước còn gởi trong quán, xin tặng cho ông. Trong túi ta còn tiền, không lo gì cả". Người kia thẹn vì không có gì báo đáp, đứa nhỏ nói "Chúng ta vốn cùng loài, tiếc gì bấy nhiêu đó, lúc nào rảnh con phải uống với ông một bữa thật say kia". Liền cùng tới quán lấy rượu đưa cho y rồi về.

Đến đêm thấy mẹ quả ngủ yên không chạy đi nữa, nó biết có chuyện lạ bèn nói với cha cùng tới xem thì thấy có hai con chồn chết trong đình, một con chết trong đám cỏ, máu còn ròng ròng trên miệng, bình rượu cũng có đó, cầm lên lắc thử vẫn chưa hết. Cha kinh ngạc hỏi sao không nói trước, nó đáp "Giống này rất khôn lanh, hơi lộ ra là nó biết ngay". Cha mừng nói "Con ta quả là Trần Bình đánh hồ* đấy". Hai cha con bèn mang xác chồn về, thấy một con bị cụt đuôi, vết dao còn rõ. Từ đó mới yên nhưng người đàn bà ngày càng gầy rạc, tỉnh táo dần nhưng ho càng nặng, cứ khạc ra hàng đấu đờm, kế chết. Vợ họ Vương ngoài cửa Bắc trước vẫn bị hồ ám, lúc ấy tới hỏi thì hồ đã dứt mà bệnh cũng khỏi. Cha vì vậy cho rằng đứa nhỏ là đứa trẻ lạ liền cho học cưỡi ngựa bắn cung, sau làm quan tới chức Tổng nhung.

*Trần Bình đánh hồ: Trần Bình là người thời Hán Sở tranh hùng, theo giúp Hán Cao tổ Lưu Bang đánh dẹp, từng sáu lần bày kế lạ giúp Lưu Bang, sau làm tới chức Tả Thừa tướng, được phong là Khúc Nghịch hầu. Đây người cha có ý khen con mưu trí như Trần Bình.

Đổng Sinh (Đổng Sinh)

Đổng sinh tự Hà Tư người phía tây phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông), chiều tối ngày mùa đông trải chăn đốt lò sưởi xong, định che đèn đọc sách thì có người mời đi uống rượu. Bèn đóng cửa đi tới chỗ bạn thấy trong tiệc có một thầy lang giỏi xem mạch Thái tố, bắt mạch cho tất cả khách khứa, cuối cùng nhìn Vương sinh Cửu Tư và Đổng nói "Ta đã xem cho nhiều người mà không thấy ai có mạch lạ như hai ông. Mạch sang mà có điềm hèn, mạch thọ mà có điềm yểu, thật không phải là điều ta biết được, mà riêng ông Đổng lại càng lạ lắm". Mọi người cùng ngạc nhiên hỏi, ông ta đáp "Thuật của ta chỉ tới đây là hết rồi, không dám đoán mò. Chỉ xin hai ông cẩn thận mà thôi".

Hai người vừa nghe thì sợ lắm, kế lại cho là lời nói mơ hồ nên cũng không để ý nữa. Nửa đêm Đổng về, thấy cửa phòng sách khép hờ rất ngờ vực, nhưng đang lúc say lại nghĩ chắc là lúc đi vội vàng nên quên khóa cửa. Vào phòng chưa thắp đèn, thò tay vào trong chăn sờ trước xem ấm không. Vừa thò tay vào thì thấy mềm mềm như có ai nằm, giật mình rút tay lại rồi vội thắp đèn lên, thì ra là một cô gái tuyệt đẹp, mặt tươi răng trắng không khác thần tiên. Mừng quýnh lấy tay đùa mò xuống phần dưới thì vớ phải một nắm lông đuôi, hoảng sợ toan thạy. Cô gái tỉnh giấc, vươn tay níu cánh tay sinh hỏi "Chàng đi đâu?".

Đổng càng khiếp sợ run lẩy bẩy, xin người tiên thương mà tha cho. Cô gái cười nói "Thấy cái gì mà cho ta là tiên?". Đổng đáp "Ta chẳng sợ phần đầu mà sợ phần đuôi".

Cô gái lại cười nói "Đuôi ở đâu ra, chàng lầm rồi". Rồi cầm tay Đổng kéo vào cho sờ lại, thấy da đùi mềm mại như mỡ, xương cụt nhẵn thín. Cô gái cười nói "Thế nào? Rượu say mê mẩn, không rờ thấy cái gì ở đâu mà lại vu cho người ta như thế". Đổng vốn thích nàng đẹp, đến lúc ấy lại càng mê mẩn, lại tự trách mình lầm. Nhưng vẫn nghi ngờ không rõ vì sao nàng tới đây, cô gái nói "Chàng không nhớ cô nhỏ tóc vàng nhà hàng xóm phía đông sao? Co ngón tay tính lại thì từ lúc nhà đi đến nay đã mười năm rồi, lúc ấy thiếp chưa cài trâm mà chàng cũng còn để tóc trái đào kia". Đổng sực nhớ ra, hỏi "Nàng là A Tỏa nhà họ Chu phải không?" nàng đáp phải. Đổng nói "Nàng nói ra ta mới mường tượng nhớ lại, mười năm không gặp đã thành người xinh đẹp thế này rồi. Nhưng sao lại tới ngay đây được thế?" Cô gái đáp "Thiếp lấy phải thằng chồng ngu, được bốn năm năm cha mẹ chồng theo nhau qua đời, lại chẳng may chồng cũng mới mất, chỉ còn một mình không nơi nương tựa. Nhớ lại người quen biết thuở nhỏ chỉ có chàng nên cố tìm tới. Vào tới cổng thì trời tối, gặp lúc có người mời chàng đi uống rượu nên núp đợi chàng về. Đợi lâu lạnh cóng nên muợn cái chăn đắp cho ấm lên thôi, xin đừng ngờ vực".

Đổng mừng rỡ cởi áo lên giường cùng ngủ, lấy làm đắc ý lắm, được hơn tháng dần gầy rộc đi, người nhà lấy làm lạ hỏi thì cứ nói là không biết. Lâu sau mặt mũi càng hốc hác, mới sợ hãi tìm tới thầy lang chẩn mạch giỏi trước đây nhờ bắt mạch. Thầy lang nói "Đây là yêu mạch, cái điềm chết yểu ngày trước nay đã nghiệm rồi, không sao chữa được đâu". Đổng òa khóc không chịu về, thầy lang bất đắc dĩ phải châm cho ở tay, đốt ngải cứu cho ở rốn rồi đưa thuốc cho, dặn "Nếu có gặp ai thì phải cố gắng dứt đi". Đổng cũng tự biết đã nguy, khi về tới nhà cô gái lại cười cợt đòi làm chuyện nọ kia, bèn xẵng giọng nói "Đừng lằng nhằng nữa, ta mà làm việc thì chết luôn đấy", rồi bỏ đi không ngoái lại. Cô gái cả thẹn cũng tức tối nói "Ngươi còn muốn sống à?".

Đêm đến Đổng uống thuốc rồi ngủ riêng, vừa chợp mắt đã mơ thấy cùng nàng ân ái, tỉnh dậy thì đã di tinh rồi. Càng thêm sợ sệt bèn dời vào ngủ nhà trong, bảo vợ con thắp đèn canh gác, nhưng vẫn mơ thấy như cũ, lén nhìn tới cô gái thì đã đi đâu mất. Được vài hôm, Đổng thổ ra hơn một đấu huyết mà chết.

Vương Cửu Tư đang trong phòng sách thì thấy một cô gái tới, thích vì nàng đẹp nên ăn nằm với nhau. Hỏi từ đâu tới, nàng đáp "Thiếp là láng giềng của Hà Tư, trước đây ông ta với thiếp rất thân mật, không ngờ bị hồ mê hoặc mà chết rồi. Yêu khí của bọn ấy rất đáng sợ, những người đọc sách nên cẩn thận đề phòng". Vương càng mến phục, bèn ăn ở với nhau rất vui vẻ.

Được vài hôm thì mắc bệnh hôn mê, chợt nằm mơ thấy Đổng về nói "Kẻ đang ăn ở với ông là hồ đấy, đã giết ta rồi lại còn muốn giết hại cả bạn ta nữa. Ta đã kiện nó ở dưới âm ty để rửa hận, trong bảy đêm tới ông nhớ thắp hương ngoài cửa phòng, đừng có quên". Vương tỉnh dậy lấy làm lạ, nói với cô gái "Ta bệnh nặng quá, sợ sắp chết rồi, có người khuyên nên kiêng chuyện trong phòng". Cô gái nói "Số được thọ thì gần vợ cũng sống, số không thọ thì không gần vợ cũng chết", rồi xán vào cười cợt khêu gợi, Vương không kìm được lại cùng nàng giao hoan, kế lại hối hận nhưng không sao dứt tình được. Đến tối thấp hương cắm trên cửa phòng, cô gái tới nhổ ra vứt đi, đêm Vương lại nằm mơ thấy Đổng về trách sao không nghe lời dặn.

Đêm sau Vương lén dặn người nhà chờ lúc nàng ngủ rồi hãy lén thắp hương, cô gái đang trên giường chợt hoảng sợ nói "Lại thắp hương à? " Vương nói không biết, nàng vội trở dậy rút hương bẻ rồi dụi đi, kế trở vào hỏi "Ai bảo chàng làm như thế?" Vương đáp "Có khi là vợ ta thấy ta đau ốm nên nghe lời thầy bói làm thế để trừ tà thôi", cô gái thẫn thờ không vui. Người nhà lén nhìn thấy hương tắt lại thắp nén khác, cô gái chợt than "Phúc trạch của ông dày thật. Ta đã lỡ hại Hà Tư rồi tới tư thông với ông, thật là có lỗi. Ta sắp phải cùng ông ta đối chất dưới âm ty, nếu không quên tình ân ái xin đừng làm hỏng cái xác của ta". Nói xong thong thả bước xuống giường, ngã lăn ra đất mà chết, thắp đèn soi thì là một con chồn. Vương còn sợ nó sống lại liền gọi người nhà lột da treo lên.

Vương bệnh nặng thêm, thấy hồ tớí nói "Ta đã tới kiện ở pháp tòa, pháp tòa cho rằng ông Đổng thấy sắc động tâm thì chết là đáng tội, nhưng buộc tội ta mê hoặc người nên thu mất viên kim đan rồi cho sống lại, vậy xác của ta đâu?". Vương đáp "Người nhà không biết đã đem lột da mất rồi". Hồ ảm đạm nói "Ta giết người nhiều rồi, nay chết cũng đã muộn, nhưng sao chàng lại nhẫn tâm thế", rồi căm hờn bỏ đi. Vương ốm tưởng nguy, nửa năm mới khỏi.

Phán Quan Họ Lục

(Lục Phán)

Chu Nhĩ Đán người Lăng Dương (tỉnh An Huy) tự Tiểu Minh, tính hào phóng nhưng tối dạ nên tuy chăm học vẫn không thành danh. Một hôm văn xã hội họp uống rượu, có người đùa nói "Ông có tiếng là hào, nếu đang đêm dám tới đền Diêm Vuơng cõng vị Phán quan ở hành lang bên trái về đây thì mọi người xin mời một bữa rượu".

Nguyên ở Lăng Dương có đền thờ Diêm Vương, tượng thần đều chạm bằng gỗ, phục sức như sống, hành lang phía đông có tượng Phán quan đứng, mặt xanh râu đỏ trông rất dữ tợn. Có khi đang đêm nghe hai bên hành lang có tiếng tra khảo, ai vào cũng rợn tóc gáy nên mọi người lấy đó thách Chu. Chu cười đứng dậy đi thẳng, không bao lâu ngoài cửa có tiếng gọi lớn "Ta mời tôn sư rậm râu tới đây rồi!".

Mọi người đứng cả dậy thì thấy Chu cõng tượng Phán quan vào đặt lên bàn, bưng chén mời rượu ba lần. Mọi người nhìn thấy co rúm cả lại trên ghế, lại xin cõng đi. Chu lại rót rượu xuống đất khấn "Đệ tử ngông cuồng thô suất, xin đại tôn sư bỏ qua đừng trách. Nhà tranh không xa đây mấy, lúc nào gặp hứng xin cứ tới lấy rượu uống, mong đừng khách sáo", rồi cõng pho tượng đi. Hôm sau, mọi người quả mời Chu uống rượu, đến tối Chu ngà ngà về nhà chưa hết hứng lại khêu đèn uống một mình.

Chợt có người vén rèm bước vào, nhìn ra thì là Phán quan. Chu đứng dậy nói "Ôi, chắc ta sắp chết rồi, tối hôm qua ta trót xúc phạm nên hôm nay tới để trừng trị phải không?". Phán quan vuốt chòm râu rậm cười khẽ, nói "Không phải thế, hôm qua đội ơn ông hẹn mời, đêm nay may được thong thả xin theo lời hẹn của bậc đạt giả". Chu mừng rỡ kéo áo mời ngồi, tự đi rửa chén khơi lò Phán quan nói "Trời ấm uống rượu lạnh cũng được", Chu theo lời đem vò rượu đặt lên bàn rồi chạy xuống sai người nhà sửa soạn thức ăn. Vợ nghe thế cả sợ bảo đừng ra, Chu không nghe, đứng đợi thức ăn làm xong rồi bưng ra, nâng chén mời xong mới hỏi tên họ.

Phán quan nói "Ta họ Lục, không có tên tự gì cả", bàn tới chuyện văn chuơng điển tích thấy ứng đáp trôi chảy. Chu hỏi có biết văn chương kinh nghĩa không, ông ta đáp "Cũng có thể phân biệt được hay dở. Việc học hành ở âm ty đại khái cũng giống trên trần thế". Lục uống rất hào, mỗi lần nâng chén là uống liên tiếp hàng chục chén, Chu vì đã uống suốt ngày nên bất giác gục xuống bàn ngủ khò, lúc tỉnh dậy thì ngọn đèn còn leo lét mà ông khách ma đã đi.

Từ đó cứ hai ba hôm Lục lại tới chơi, ngày càng thân thiết, có khi nằm gác chân lên nhau mà ngủ. Chu đem văn bài cho Lục xem, Lục lấy son sổ hết, chê là không hay. Một đêm Chu say đi ngủ trước, Lục còn ngồi uống một mình, Chu đang ngủ say chợt thấy tạng phủ hơi đau, mở mắt nhìn thì thấy Lục ngồi trước giường mổ bụng mình lôi ruột gan lên sắp lại, ngạc nhiên hỏi "Vốn không có thù oán, sao lại giết nhau?" Lục cười đáp "Đừng sợ, ta thay cho ông quả tim thông tuệ mà thôi", rồi ung dung nhét ruột Chu vào khoang bụng, kéo hai mép lại, sau cùng lấy vải bó chân buộc ngang lưng Chu, xong rồi Chu nhìn tới giường không thấy dây vết máu nào, chỉ hơi ngứa ở bụng. Thấy có một khối thịt trên bàn, hỏi thì Lục đáp "Đó là quả tim của ông. Xem văn ông thấy không được hay, biết rằng tim ông có một khiếu không thông, vừa rồi ta chọn được một quả tim tốt trong ngàn muôn quả dưới âm ty để thay cho ông, còn quả này để bù vào đó", rồi đứng dậy khép cửa đi.

Trời sáng Chu cởi áo xem thì vết rạch đã liền da, chỉ còn như vết chỉ đỏ, từ đó học hành tấn tới, sách vở đọc qua là nhớ không quên. Vài hôm sau đưa văn cho Lục xem, Lục nói "Được rồi, nhưng ông phúc mỏng không hiển đạt lớn được, chỉ đỗ thi hương thôi". Chu hỏi bao giờ đỗ, Lục đáp "Năm nay ắt đỗ đầu" Không bao lâu Chu thi khảo khóa đứng đầu, kế thi huơng cũng lại đỗ đầu. Các bạn học vốn coi thường Chu, đến lúc đọc bài thi của Chu đều nhìn nhau kinh ngạc, hỏi kỹ mới rõ chuyện lạ, bèn nhờ Chu nói trước để xin làm quen với Lục.

Lục nhận lời, mọi người chuẩn bị tiệc rượu thịnh soạn để đợi, hết canh một thì Lục tới, hàm râu đỏ lay động, mắt sáng quắc như chớp. Mọi người khiếp đảm, răng đánh vào nhau lập cập, dần dần rút lui hết. Chu bèn dẫn Lục về nhà cùng uống rượu, khi đã ngà ngà say Chu nói "Được nhờ ơn lớn rửa ruột thay tim, nay lại có việc muốn làm phiền, không biết được không". Lục xin cho biết, Chu nói "Đổi được tim ruột thì trộm nghĩ mặt mũi cũng thay được. Vợ ta thì phần thân thể không đến nỗi xấu, duy mặt mũi thì không được đẹp lắm, nếu muốn phiền đến lưỡi dao của ông thì thế nào?". Lục cười đáp "Được thôi, nhưng để ta tính".

Qua mấy hôm, nửa đêm Lục tới gọi cửa, Chu vội trở dậy mời vào, thắp đèn lên thấy có bọc một vật trong vạt áo. Hỏi thì Lục đáp "Hôm trước ông dặn kể cũng khó tìm, nhưng vừa may được cái đầu mỹ nhân, xin đem tới để phụng mệnh". Chu mở ra xem, thấy máu trên cổ còn ướt. Lục giục vào ngay đừng để gà chó kinh động. Chu lo ban đêm vợ đóng cửa phòng nhưng Lục vào đẩy một cái thì cánh cửa mở ra ngay. Chu dẫn vào giường, thấy vợ đang nằm nghiêng mà ngủ, Lục đưa cái đầu cho Chu cầm rồi rút trong giày ra một lưỡi dao sáng loáng như thanh chủy thủ đặt lên cổ vợ Chu dùng sức ấn xuống như bổ dưa, cái đầu theo luỡi dao rơi xuống cạnh gối. Lục vội đỡ cái bọc từ tay Chu, lấy cái đầu mỹ nhân ra gắn lên cổ, ướm cho thật ngay rồi xoa miết cho liền vết, kế đặt gối đỡ vào dưới vai vợ Chu, bảo Chu đem đầu vợ chôn ở nơi sạch sẽ rồi đi. Vợ Chu tỉnh dậy thấy cổ hơi ngứa, sờ thấy vết máu khô sợ quá sai đứa tỳ nữ múc nước rửa mặt, đứa tỳ nữ thấy mặt vợ Chu máu me bê bết cũng phát hoảng, rửa xong nước trong chậu đỏ lòm, ngẩng đầu lên thấy mặt mày khác hẳn lại càng khiếp sợ. Vợ Chu soi gương cũng ngơ ngác không hiểu vì sao, Chu vào kể lại mọi chuyện, nhân nhìn kỹ thì thấy lông mày dài tới gần chân tóc, nụ cười tươi tắn như người trong tranh. Nhìn tới cổ thấy còn một ngấn đỏ vòng quanh, hai phần trên dưới màu da khác hẳn nhau.

Nguyên là quan Thị ngự họ Ngô có người con gái rất xinh đẹp, có hai người hỏi xong chưa kịp cưới đều chết nên mười chín tuổi vẫn chưa có chồng. Nhân tiết Thuợng nguyên nàng đi chơi điện Thập Vương, người đi chơi chen chúc, trong có một tên vô lại thấy nàng xinh đẹp bèn ngầm hỏi nhà cửa. Kế nhân đêm tối bắc thang leo vào, đào ngạch vào phòng ngủ, giết một tỳ nữ nằm dưới giường rồi ép cô gái giao hoan. Cô gái cố sức chống cụ la lớn, y tức giận giết luôn. Ngô phu nhân thoáng nghe tiếng, bảo tỳ nữ tới xem, thấy xác chết sợ mất vía. Cả nhà đều trở dậy, đem xác nàng đặt trên sảnh, để cái đầu bên cạnh khóc lóc ầm ĩ suốt đêm. Đến sáng mở chăn ra thì thân vẫn còn mà đầu thì biến mất, bọn tỳ nử bị đánh đòn suốt lượt vì tội canh giữ bất cẩn để chó ăn mất cái đầu.

Thị ngự trình lên quận, quan ra nghiêm hạn tìm bắt hung thủ, qua ba tháng vẫn không tìm ra được. Dần dần có người đem việc đổi đầu kỳ lạ ở nhà họ Chu kể cho ông Ngô nghe, Ngô ngờ vực sai người vú già tới thăm dò, bà ta vào nhà Chu nhìn thấy phu nhân hoảng sợ chạy về báo với. Ông Ngô thấy xác con gái vẫn còn, kinh nghi không hiểu vì sao, nghĩ là Chu dùng tà thuật giết chết con gái bèn tới cật vấn. Chu nói "Vợ ta nằm mơ thấy đổi đầu, thật cũng không hiểu vì sao, nếu nói là ta giết tiểu thư thì oan lắm". Ngô không tin bèn kiện lên quan, quan bắt người nhà Chu tra vấn thì họ đều khai như lời Chu nói, quận thú không sao xét xử được.

Chu trở về hỏi kế Lục, Lục nói "Không khó gì, để bảo con gái y tự nói ra". Ban đêm Ngô mơ thấy con gái về nói "Con bị tên Dương Đại Niên ở Tô Khê giết chứ không can gì tới Hiếu liêm họ Chu, vì ông ta thấy vợ không đẹp nên Phán quan họ Lục lấy đầu con thay vào, thế thì tuy thân con chết mà đầu vẫn sống, xin đừng thù oán họ". Ngô tỉnh dậy kể cho phu nhân, phu nhân cũng mơ thấy như thế bèn lên thưa với quan. Hỏi ra quả có tên Dương Đại Niên bèn bắt lên tra khảo, y liền nhận tội. Ngô bèn tới nhà Chu xin gặp phu nhân, từ đó coi Chu như con rể rồi đem đầu vợ Chu về chôn với xác con gái.

Chu ba lần vào kinh thi hội nhưng đều phạm trường quy bị đánh rớt, từ đó công danh nguội lạnh, suốt ba mươi năm. Một đêm Lục nói "Ông không còn thọ lâu nữa đâu", Chu hỏi đến lúc nào, Lục đáp trong năm ngày nữa. Chu hỏi có thể cứu nhau được không, Lục đáp "Đó là mệnh trời, ai mà thiên vị riêng tư được. Vả lại lấy con mắt đạt nhân mà xem thì sống chết cũng như nhau, cần gì phải sống thì vui mà chết thì buồn".

Chu cho là đúng, liền cho chuẩn bị quần áo quan quách rồi ăn mặc chỉnh tề mà chết. Hôm sau phu nhân đang khóc ở bên quan tài bỗng Chu từ ngoài đi nhanh vào, phu nhân hoảng sợ, Chu nói "Ta đúng là ma nhưng cũng không khác gì lúc sống, nghĩ tới nàng mẹ góa con côi nên quyến luyến thôi". Phu nhân đau lòng chảy nước mắt ròng ròng, Chu cố gắng an ủi. Phu nhân nói "Xưa có việc hoàn hồn sống lại, chàng đã linh thiêng sao không làm thế". Chu nói "Số trời không thể trái được". Phu nhân lại hỏi làm việc gì dưới âm ty, Chu đáp "Phán quan họ Lục tiến cử ta giữ chức đôn đốc việc án, được trao quan tước cũng chẳng có gì khổ". Phu nhân còn muốn hỏi chuyện thì Chu nói "Ông Lục cùng về với ta, nàng dọn cho mâm rượu", rồi rảo bước đi ra. Phu nhân theo lời dọn rượu, chỉ nghe nhà ngoài có tiếng cười nói uống rượu, ăn to nói lớn hệt như lúc sống, nửa đêm ra nhìn thì đã đi mất.

Từ đó cứ vài ba ngày Chu lại về một lần, có khi ở lại gần gũi với vợ, chỉ vẽ cho các việc trong nhà. Con trai là Vĩ lúc ấy mới năm tuổi, Chu về là bế ẵm, năm bảy tám tuổi đêm đêm vẫn được cha dạy học cho. Đứa con cũng thông minh, chín tuổi đã biết làm văn, mười lăm tuổi được vào học trường huyện nhưng vẫn không biết mình mồ côi cha. Nhưng từ đó Chu về cũng thưa dần, có khi cả tháng mới về. Một đêm về nói với phu nhân "Từ nay thì cùng nàng vĩnh biệt". Phu nhân hỏi đi đâu, Chu đáp "Ta được Thuợng đế cho làm Thái Hoa khanh, sắp phải đi xa, việc bận đường xa nên không thể về được nữa". Hai mẹ con ôm Chu khóc lóc, Chu nói "Đừng thế! Con trai đã khôn lớn, gia sản cũng đủ sống, mà có ai sau trăm tuổi không phải loan phượng chia lìa", kế nhìn con nói "Con sống đừng làm hư sự nghiệp của cha, mười năm nữa sẽ có lần gặp nhau", rồi ra cửa đi thẳng, từ đó không về nữa.

Về sau Vĩ hai mươi lăm tuổi thi đỗ Tiến sĩ, làm quan tới chức Hành nhân, phụng mệnh ra tế Tây Nhạc, đường đi ngang qua Hoa âm bỗng có toán xe kiệu cờ lọng rong ruổi xông vào giữa đoàn nghi trượng. Kinh ngạc nhìn kỹ thì người trong xe là cha, bèn xuống ngựa khóc lạy bên đường. Cha dừng xe nói "Con làm quan có tiếng tốt, ta nhắm mắt được rồi!". Vĩ quỳ rạp không đứng lên, Chu giục xe đi như bay không ngoảnh lại, được mấy bước quay nhìn rồi cởi thanh bội đao sai người cầm lại cho con, từ xa nói "Đeo vào thì sẽ được quý hiển". Vĩ muốn chạy theo thì thấy xe kiệu người ngựa lướt đi như gió, trong chớp mắt đã mất hút, đau xót hồi lâu. Rút thanh đao ra xem thấy chế tác rất tinh xảo, khắc một hàng chữ "Hành sự cần quả quyết, suy xét cần thận trọng, kiến thức cần đầy đủ, đức hạnh cần trọn vẹn*".

* Hành sự... tron vẹn: nguyên văn là "Đảm dục đại nhi tâm dục tiểu, trí dục phương nhi hạnh dục viên", vốn là lời của Tôn Tư Mạo thời Đường nói với Lư Chiếu Lân.

Vĩ sau làm quan tới chức Tư mã, sinh năm con trai là Trầm, Tiềm, Vẫn, Hồn, Thâm. Một đêm mơ thấy cha về nói "Thanh bội đao nên cho thằng Hồn". Vĩ theo lời. Hồn sau làm quan tới chức Tổng đốc, có tiếng về chính tích tốt.

Dị Sử thị nói: Cắt ngắn cổ hạc, nối dài chân le là lời gian dối, nhưng Dời đổi hoa lá, nối thêm gốc rễ thì thật kỳ lạ, huống hồ là việc đem rìu búa mổ gan ruột, lấy dao cưa cắt đầu cổ sao? Như ông Lục có thể nói là người diện mạo xấu xí mà lòng dạ đẹp đẽ vậy Từ cuối thời Minh đến nay năm tháng chưa xa, ông Lục ở Lăng Dương còn không? Không biết có còn linh thiêng không? Ta muốn cầm roi theo hầu, vì rất hâm mộ ông ta.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro