liêu trai chí dị quyển 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Quyển II -- 18 -- Anh Ninh (Anh Ninh)

Vương Tử Phục người đất La Điếm huyện Lữ (tỉnh Sơn Đông) mồ côi cha sớm, rất thông minh, mười bốn tuổi được vào học trường huyện. Mẹ rất thương yêu, bình thường không cho đi chơi ra ngoài đồng ruộng. Đã dạm hỏi Tiêu thị nhưng chưa cưới thì nàng chết sớm nên chưa thành gia thất. Gặp tiết Thượng nguyên có con trai ông cậu là Ngô sinh tới rủ đi chơi, vừa ra tới đầu làng thì đầy tớ nhà cậu tới gọi Ngô về, sinh thấy con gái đi chơi rất đông cũng cao hứng đi chơi một mình. Có một cô gái dắt tỳ nữ theo, cầm một cành hoa mai, dung mạo tuyệt thế, tươi cười rạng rỡ, sinh nhìn chằm chằm quên cả việc giữ ý. Cô gái đi vượt lên mấy bước, ngoảnh lại nói với tỳ nữ "Anh chàng này mắt nhìn chòng chọc cứ như giặc" rồi vứt cành hoa xuống đất, cười nói đi mất.

Sinh nhặt cành hoa buồn bã, thần hồn ngơ ngẩn thẫn thờ quay về. Tới nhà cất cành hoa dưới gối, gối lên mà ngủ, không nói năng cũng không ăn uống. Mẹ lo lắng khấn vái cầu cúng nhưng bệnh sinh càng nặng, chỉ còn da bọc xương. Thầy thuốc thăm bệnh, cắt cho thang phát tán nhưng sinh cứ thất thần như người mê. Mẹ dỗ dành hỏi vì sao thì lặng im không đáp, gặp lúc Ngô sinh tới bà bèn nhờ kín đáo hỏi giùm. Ngô tới trước giường, sinh nhìn thấy thì rơi nước mắt, Ngô ngồi lên giường an ủi, lân la hỏi han. Sinh bèn kể thật rồi nhờ lo giùm, Ngô cười nói "Ông thật ngây quá, chuyện đó thì có gì là khó toại nguyện chứ, để ta hỏi giúp cho. Đi bộ trên đồng ắt không phải là con nhà thế gia, nếu chưa hứa gả cho ai thì thế nào cũng xong, còn nếu không cứ bỏ nhiều tiền ra thì muốn sao cũng được. Chỉ cốt là ông khỏi bệnh, ta sẽ lo cả cho". Sinh nghe thế bất giác tươi cười, Ngô ra nói với mẹ sinh tìm hỏi làng xóm của cô gái, nhưng hỏi han khẳp nơi vẫn không thấy tung tích. Mẹ lo lắm không biết tính sao, nhưng sau khi Ngô về thì sinh có vẻ tươi tỉnh, ăn uống khá hơn. Vài hôm sau Ngô lại tới, sinh hỏi đã lo giúp tới đâu, Ngô đáp bừa "Đã tìm ra rồi, tưởng ai hóa ra là con cô ta, tức là hàng em con dì của anh, hiện vẫn còn chờ người mai mối. Tuy là có họ hàng kết thông gia không tiện, nhưng cứ nói thật ra thì thế nào cũng xong". Sinh mừng rỡ tươi rói cả mặt mày, hỏi Ngô nàng ở đâu, Ngô bịa rằng "ở trong núi phía tây nam, cách đây hơn ba mươi dặm". Sinh lại dặn dò năm lần bảy lượt, Ngô sốt sắng nhận lời rồi về.

Sinh từ đó ăn uống nhiều hơn, ngày càng khỏe lại, mò lấy cành hoa dưới gối ra xem thì hoa khô nhưng vẫn chưa rụng, cứ mân mê ngắm nghía như nhìn người đẹp. Lấy làm lạ vì Ngô không tới, viết thư mời thì Ngô tìm cớ lần lữa không qua. Sinh bực dọc không vui, mẹ lo con lại ngã bệnh vội bàn chuyện cưới vợ cho, nhưng cứ nói động tới là sinh lại lắc đầu không chịu, chỉ ngày ngày đợi Ngô. Lâu ngày Ngô vẫn bặt tăm, sinh càng bực tức, chợt nghĩ ba mươi dặm đường không phải là xa, cần gì nhờ vả người khác? Bèn giấu cành mai vào tay áo, giận dữ ra đi, người nhà không ai hay biết. Lủi thủi đi một mình không biết đâu mà hỏi đường, chỉ nhắm hướng núi Nam đi tới.

Khoảng hơn ba mươi dặm thì thấy núi mọc ngổn ngang xanh biếc mát lạnh, vắng vẻ không một bóng người, chỉ có đường núi cheo leo. Nhìn xuống khe núi xa xa, trong chỗ cây hoa um tùm thấp thoáng như có một thôn nhỏ. Xuống núi vào thôn thấy nhà cửa thưa thớt, toàn là nhà tranh nhưng dáng cách rất thanh nhã. Có một gian nhà quay về hướng bắc, trước cổng tơ liễu buông mành, trong tường đào hạnh tươi tốt chen lẫn với tre trúc, chim rừng kêu ríu rít.

Sinh cho là nơi vườn cảnh nên không dám đường đột bước vào, quay nhìn thấy trước cổng có tảng đá lớn trơn bóng sạch sẽ bèn ngồi xuống nghỉ. Giây lát nghe trong tường có tiếng con gái gọi "Tiểu Vinh" thanh âm nhẹ nhàng êm ái, đang lắng nghe thì có một nữ lang từ phía đông đi tới, tay cầm đóa hoa hạnh, cúi đầu cài lên tóc, vừa ngẩng đầu thấy sinh liền không cài nữa, mỉm cười cầm đóa hoa đi vào. Nhìn kỹ lại thì đúng là người đã gặp dọc đường hôm tiết Thượng nguyên, mừng rơn chỉ nghĩ không biết lấy cớ gì bước tới, muốn gọi cô em con dì nhưng trước nay chưa từng qua lại nên sợ lầm.

Trong cửa lại không có ai để hỏi, đành quanh quẩn đứng ngồi đến tận trưa, đăm đăm trông ngóng quên cả đói khát. Lâu lâu lại thấy cô gái hé nửa mặt ra nhìn như lấy làm lạ sao không đi. Bỗng có một bà già chống gậy đi ra nhìn sinh hỏi "Chàng trai ở đâu, nghe như tới từ giờ Thìn đến giờ chưa đi là cần gì vậy, không đói bụng sao?". Sinh vội đứng dậy vái chào, đáp "Định tìm thăm người họ hàng". Bà già nghễnh ngãng nghe không rõ, sinh nói to lần nữa, bà bèn hỏi "Vậy quý thân thích họ gì?", sinh không đáp được. Bà già cười nói "Lạ thật, tên họ cũng không biết thì biết họ hàng nào mà hỏi? Ta thấy chàng cũng chỉ là con mọt sách thôi. Thôi vào trong này ăn ít cơm hẩm, nhà có chiếc giường con cũng ngả lưng đuợc, đợi sáng maì về hỏi lại tên họ rồi trở lại tìm cũng chưa muộn".

Sinh đang lúc bụng đói muốn ăn, lại thấy sẽ được làm quen với người đẹp thì mừng quá bèn theo bà già vào. Thấy trong cổng lối đi lát đá trắng, hai bên lối đi hoa hồng từng cánh từng cánh rụng trên thềm, quanh co đi về phía tây lại mở một cánh cửa nữa, luống đậu giàn hoa đầy trong sân. Bà già kính cẩn dẫn khách vào nhà, tường quét vôi sáng như gương, hoa hải đường ngoài song thò cả vào phòng, đệm chiếu bàn ghế đều bóng loáng sạch sẽ. Vừa ngồi xuống đã thấy ngoài cửa sổ thấp thoáng có người nhìn trộm, bà già gọi "Tiểu Vinh làm cơm mau", bên ngoài có tiếng tỳ nữ dạ lớn.

Ngồi yên xong bèn nói rõ tên họ dòng dõi, bà già hỏi "Ông ngoại chàng họ Ngô phải không?", sinh đáp phải. Bà già ngạc nhiên nói "Thế thì chàng là cháu ta, mẹ chàng là em gái ta. Mấy năm nay ta vì nhà nghèo lại không có con trai nên bỏ bẵng việc thăm hỏi, cháu đã khôn lớn thế này mà vẫn không biết". Sinh đáp "Lần này cháu tới đây là để thăm dì, mà lúc vội vàng quên mất cả họ". Bà già nói "Lão thân người nhà họ Tần, không sinh nở lần nào, chỉ có một con gái cũng là vợ lẽ sinh ra. Mẹ nó đi bước nữa, để nó lại cho ta nuôi nấng, cũng không phải dần độn nhưng ít được dạy dỗ nên cứ cười đùa chẳng biết buồn lo gì, lát nữa sẽ gọi ra chào".

Giây lát tỳ nữ dọn cơm lên, thức ăn đầy đĩa. Bà già ngồi tiếp sinh, ăn xong tỳ nữ lại ra dọn, bà già nói "Gọi cô Ninh ra đây!" Tỳ nữ dạ đi vào hồi lâu nghe ngoài cửa như có tiếng cười, bà già gọi "Anh Ninh, anh con dì ngươi đây này!". Ngoài cửa tiếng cười khúc khích vẫn không ngừng, tỳ nữ đẩy cô gái vào, nàng còn che miệng cười không nín được. Bà già trừng mắt nói "Đang có khách mà cứ khúc kha khúc khích là lối gì thế?", nàng nín cười đứng yên.

Sinh vái chào, bà già nói "Đây là Vương lang con dì của ngươi. Người nhà mà không biết nhau, có buồn cười không". Sinh hỏi "Em đây bao nhiêu tuổi?". Bà già chưa hiểu, sinh bèn nhắc lại cô gái lại rũ ra cười không ngẩng lên được nữa. Bà già nói với sinh "Ta vừa nói nó ít được dạy dỗ, giờ thì thấy rồi đấy. Tuổi đã mười sáu mà cứ ngu dại như trẻ con". Sinh nói "Kém cháu một tuổi". Bà già hỏi "Cháu mười bảy tuổi, là sinh năm Canh ngọ tuổi ngựa à?". Sinh gật đầu, bà lại hỏi vợ là ai, sinh đáp chưa có. Bà già nói "Tài mạo như cháu, sao mười bảy tuổi rồi còn chưa cưới vợ? Anh Ninh cũng chưa thành gia thất, kể sánh với nhau thật xứng đôi, tiếc là có chút họ hàng với nhau".

Sinh không đáp, mắt nhìn dán vào Anh Ninh không chớp, đứa tỳ nữ quay qua cô gái nói nhỏ "Con mắt nhìn chòng chọc như giặc vẫn chưa đổi". Cô gái lại cười lớn, quay qua nói với nó "Ra xem bích đào nở chưa đi!", rồi vụt đứng ngay dậy, lấy tay áo che miệng rón rén bước nhanh ra, khỏi cửa thì cười phá lên. Bà già cũng đứng dậy, gọi tỳ nữ mang chăn đệm xếp đặt chỗ nghỉ cho sinh, nói "Cháu tới đây không phải dễ, cứ ở chơi năm ba hôm, thong thả ta sẽ tiễn về. Nếu thấy vắng vẻ buồn chán thì sau nhà có mảnh vườn con cũng đủ tiêu khiển, cũng có sách để đọc".

Hôm sau sinh ra sau nhà quả có mảnh vườn rộng nửa mẫu, cỏ mịn như trải thảm, hoa dương đầy lối đi, có ba gian nhà tranh cây hoa phủ kín bốn bề. Sinh đang lách trong đám cây hoa chợt nghe trên cây có tiếng khúc khích, ngẩng lên nhìn thì ra Anh Ninh đang ở trên cây, thấy sinh tới cười rộ muốn ngã. Sinh kêu "Đừng thế, ngã đấy", cô gái vừa tụt xuống vừa cười không nhịn được, gần tới đất thì tuột tay ngã xuống mới thôi cười. Sinh đỡ dậy, lén nắm vào cổ tay, nàng lại bật tiếng cười, dựa vào thân cây không bước đi được, hồi lâu mới thôi.

Sinh chờ nàng dứt tiếng cười bèn rút cành hoa trong tay áo ra cho xem. Cô gái cầm lấy nói "Khô rồi còn giữ làm gì?" Sinh nói "Đây là cành hoa em bỏ lại hôm tiết Thuợng nguyên, nên mới giữ," Nàng hỏi giữ làm gì, sinh đáp "Để tỏ rằng yêu nhau không quên được. Kể từ hôm tiết Thuợng nguyên được gặp gỡ, cứ tơ tưởng đến thành bệnh, cứ nghĩ là đã chết rồi, nào ngờ lại còn được thấy mặt, xin hãy rủ lòng thương xót". Cô gái đáp "Việc đó rất nhỏ, chỗ họ hàng thì có tiếc gì. Đợi hôm nào anh đi, các thứ hoa trong vườn sẽ gọi lão bộc bẻ một ôm lớn mang theo tiễn anh". Sinh nói "Em ngây đấy à?", nàng hỏi "Thế nào là ngây?", sinh đáp "Ta chẳng phải yêu hoa mà là yêu người cầm hoa thôi" Nàng nói "Họ hàng thân thiết thì thương yêu nhau cần gì phải nói". Sinh nói "Ta nói yêu chẳng phải là tình họ hàng mà là tình vợ chồng kia!". Cô gái nói "Có gì khác nhau nào?", sinh đáp "Đêm thì cùng chung chăn chung gối". Cô gái cúi đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói "Em không quen ngủ với người lạ".

Đang còn trò chuyện thì đứa tỳ nữ đã khẽ khàng đi tới, sinh hoảng sợ lẩn đi. Lát sau cùng hội họp chỗ bà già, bà hỏi đi đâu, cô gái đáp nói chuyện với nhau trong vườn. Bà già nói "Cơm chín lâu rồi, có chuyện gì hay mà nói lâu thế ", nàng đáp "Anh muốn ngủ chung với con". Sinh nghe chưa hết câu đã phát hoảng vội trợn mắt nhìn, nàng mỉm cười im bặt, may mà bà già không nghe rõ, còn khẽ khàng hỏi lại thì sinh vội nói lảng qua chuyện khác, nhân đó khẽ trách nàng. Cô gái hỏi "Thế chuyện ấy không nên nói ra à?", sinh đáp "Đó là chuyện phải giấu người khác". Nàng nói "Giấu người khác chứ sao lại giấu mẹ già, vả lại ngủ chung là chuyện thường có gì phải sợ". Sinh bực vì ngu ngơ nhưng không biết làm sao cho nàng hiểu được.

Ăn vừa xong thì người nhà dắt hai con lừa tới tìm sinh. Trước là mẹ sinh đợi lâu không thấy con về sinh nghi, tìm kiếm khắp làng không thấy dấu vết bèn tìm tới Ngô. Ngô nhớ lại lời mình nói trước đây liền bảo tới núi phía tây nam tìm, qua mấy thôn mới tới. Sinh ra cửa thì vừa gặp bèn trở vào nói với bà già, lại xin đưa cô gái cùng về. Bà già mừng rỡ nói "Ta vẫn có ý ấy từ lâu, nhưng vì già yếu không đi xa nổi, được cháu dẫn em nó về nhận dì thì hay lắm". Bèn gọi Anh Ninh, Ninh cười ra gặp, bà già nóỉ "Có gì vui mà cười mãi thế? Nếu không cười thì cũng ra dáng con người rồi đấy", nhân trừng mắt nhìn rồi nói "Anh cả muốn ngươi đi cùng, vào sắp sửa hành trang đi!".

Lại dọn cơm rượu thết đãi người gia nhân rồi đưa ra cổng, nói "Nhà dì có nhiều ruộng vườn, đủ sức nuôi người ăn không, tới đó thì đừng về, học lấy chút lễ nghĩa cho biết cách thờ phụng cha mẹ chồng, rồi sẽ nhờ dì tìm cho một tấm chồng tốt". Hai người bèn lên đường, tới dưới núi quay nhìn còn thấy rõ bóng dáng bà già dựa cửa nhìn theo. Tới nhà, mẹ sinh thấy có cô gái xinh đẹp ngạc nhiên hỏi là ai, sinh đáp là con bà dì. Mẹ nói "Lời Ngô lang nói với con trước đây là dối đấy. Mẹ chưa từng có chị, làm sao có cháu gọi bằng dì được?".

Hỏi cô gái, nàng đáp "Cháu không phải là do mẹ đẻ ra. Cha vốn họ Tần, mất lúc cháu còn trong tã nên cháu không nhớ gì". Mẹ nói "Ta có một người chị lấy chồng họ Tần thật, nhưng mất đã lâu, làm sao còn sống được?". Nhân hỏi kỹ mặt mũi nốt ruồi, nhất nhất đều đúng, lại ngờ vực nói "Đúng rồi, nhưng chị ấy đã chết từ lâu, làm sao còn sống kia chứ?" Đang lúc suy nghĩ ngờ vực thì Ngô sinh tới, cô gái lánh vào nhà trong. Ngô hỏi biết chuyện ngẩn ra hồi lâu rồi chợt hỏi "Cô gái này tên Anh Ninh phải không?" sinh đáp phải. Ngô than thở là chuyện kỳ lạ, hỏi vì sao biết, Ngô đáp "Sau khi cô Tần mất thì dượng ở góa, bị hồ ám mang bệnh mà chết. Hồ sinh một gái tên là Anh Ninh, vẫn quấn tã đặt trên giường, người nhà đều nhìn thấy. Dượng mất rồi, thỉnh thoảng hồ vẫn tới, sau xin bùa của Thiên sư dán trên vách mới ôm con gái bỏ đi có lẽ là đây chăng?".

Người này người nọ bàn tán xôn xao, chỉ nghe trong phòng có tiếng khúc khích, đều là tiếng Anh Ninh cười. Mẹ sinh nói "Con bé này cũng ngớ ngẩn quá". Ngô xin cho gặp mặt, mẹ vào phòng thì nàng còn rũ ra cười không ngoảnh lại, mẹ giục bảo ra nàng mới cố nín cười, lại quay mặt vào vách một lúc mới ra được. Vừa vái chào xong đã xoay mình trở vào rồi cười phá lên, đàn bà con gái trong phòng đều vui thích.

Ngô xin đi dò xét sự lạ, nếu tiện thì làm mối luôn, nhưng tìm tới đó thì không thấy xóm làng nhà cửa gì cả, chỉ có hoa rừng rơi tả tơi mà thôi. Ngô ngờ ngợ nhớ lại nơi chôn bà cô cũng gần đó nhưng mộ cũ đã mất dấu không nhận ra được đành than thở quay về. Mẹ sinh ngờ bà là ma, vào kể lại lời Ngô cho nghe nhưng cô gái không hề tỏ vẻ sợ sệt lại thương cho nàng không có nhà cửa cũng không hề tỏ vẻ đau xót, cứ ngơ ngẩn cười khúc khích mà thôi, mọi người đều không hiểu ý tứ ra sao. Mẹ bảo cùng ngủ với con gái út, sáng sớm nàng đã tới vấn an. Việc nữ công thì nàng vô cùng khéo léo nhưng hay cười, có cấm cũng không nhịn được, có điều cười rất tươi, dù cười như phát điên cũng không mất vẻ xinh đẹp, ai thấy cũng vui thích, đàn bà con gái láng giềng cứ giành nhau mời đón.

Mẹ chọn ngày tốt cho làm lễ hợp cẩn nhưng vẫn sợ là ma, rình lúc nàng đứng dưới bóng mặt trời nhìn thì thấy cũng có bóng không khác gì người thường. Đến ngày cưới bảo nàng trang sức đẹp đẽ làm lễ, nàng cười quá không thể vái lạy đành thôi. Sinh thấy nàng ngu ngơ sợ lại nói lộ chuyện kín trong phòng ra nhưng cô gái hết sức kín đáo, một câu cũng không nói.

Mỗi khi mẹ có điều lo lắng tức giận, nàng tới cười một tiếng là lập tức nguôi hết, tôi tớ có lỗi sợ bị đòn cứ xin nàng tới nói chuyện với mẹ rồi vào ra mắt là được tha. Nhưng nàng có tật mê hoa, tìm kiếm trong khắp thân thích láng giềng, lén bán cả đồ trang sức để mua giống hoa đẹp, vài tháng thì bờ tường bậc thềm chuồng lợn nhà xí chỗ nào cũng đầy những hoa.

Sân sau có một giàn mộc hương sát nhà láng giềng phía tây, cô gái vẫn vin cây trèo lên hái hoa cài đầu, mẹ bắt gặp là mắng nhưng nàng vẫn không chừa. Một hôm con trai nhà ấy trông thấy nàng, say mê nhìn sững. Cô gái không tránh mặt lại cười, y cho rằng nàng đã ưng thuận, lòng càng khao khát. Nàng chỉ vào chân tường cười rồi leo xuống. Y nghĩ rằng nàng chỉ nơi hò hẹn mừng lắm, đến tối mò ra, quả nhiên nàng đã ở đó, liền sấn tới hành dâm thì chỗ kín như bị dùi đâm, đau buốt tận tim gào lớn ngã lăn ra. Nhìn kỹ lại thì không phải cô gái mà là một cây khô nằm dưới tường, chỗ mình chọc vào là một cái hốc cây đọng nước.

Cha y nghe tiếng vội chạy ra hỏi, y thì rên rĩ không nói, khi vợ tới mới thú thật. Đốt đuốc soi vào hốc cây thấy có một con bò cạp to bằng con cua con. Cha y chẻ cây ra bắt con bò cạp giết đi rồi vực con trai về, nửa đêm thì chết. Nhà ấy kiện sinh, tố cáo Anh Ninh là yêu quái. Quan huyện vốn nguỡng mộ tài học của sinh, lại biết sinh là kẻ sĩ đức hạnh nên cho rằng nhà láng giềng kiện bậy toan phạt đánh đòn, sinh xin cho mới được tha về.

Mẹ sinh nói với cô gái "Cứ ngây dại thế mãi, ta lã biết trước là vui quá hóa lo mà. May là quan huyện thần minh nên mới không liên lụy, chứ gặp phải hạng quan hồ đồ ắt đã đòi đàn bà con gái lên công đường đối chất, thì con trai ta còn mặt mũi nào nhìn thấy họ hàng làng xóm nữa?". Cô gái nghiêm trang thề không cười nữa, mẹ nói "Người ta ai mà không cười nhưng phải có lúc", nhưng từ đó nàng quả không cười nữa, dù cố chọc ghẹo cũng không cười, có điều không lúc nào có vẻ mặt nhăn nhó.

Một đêm nàng nhìn sinh ứa nước mắt, sinh lấy làm lạ thì nàng nghẹn ngào nói "Trước đây theo chàng chưa lâu, nói ra e sẽ hoảng sợ. Nay thấy mẹ và chàng đều yêu thương không có ý khác nên xin thưa thật, may ra không sao chăng? thiếp vốn do hồ sinh ra, lúc mẹ thiếp ra đi đem gởi cho bà mẹ ma, nương tựa nhau hơn mười năm mới có ngày nay. Thiếp lại không có anh em, chỉ trông cậy vào chàng. Mẹ già cô quạnh nơi góc núi, không ai thương xót hợp táng cho, dưới chín suối vẫn còn sầu tủi. Nếu chàng không tiếc công tiếc của giúp cho người nằm dưới đất tiêu tan được mối oán hận ấy thì ngõ hầu những kẻ sinh con gái sẽ không nỡ dìm nước vứt bỏ nữa".

Sinh ưng thuận nhưng lo phần mộ bị lẫn trong cỏ rậm, cô gái chỉ nói đừng lo. Bèn định ngày rồi vợ chồng chở quan tài tới, cô gái chỉ mộ phần giữa đám gai góc khói mây, quả đào được thi thể bà già, da thịt vẫn còn. Nàng vỗ về khóc lóc thảm thiết, đưa về tìm mộ ông Tần hợp táng. Đêm ấy sinh mơ thấy bà già về tạ ơn, tỉnh dậy thuật lại. Cô gái nói "Đêm qua thiếp có gặp, nhưng mẹ dặn đừng làm chàng kinh động thôi". Sinh ân hận không giữ bà lại, nàng nói "Bà là ma, nơi đây người sống nhiều, khí dương thịnh, làm sao ở được". Sinh hỏi Tiểu Vinh, nàng đáp "Nó là hồ, rất lanh lợi, mẹ hồ lưu lại để trông nom thiếp, vẫn đút bánh trái cho thiếp ăn nên nhớ ơn nó không lúc nào quên. Đêm qua hỏi mẹ, thì nói đã gả chồng cho nó rồi". Từ đó cứ gặp tiết Hàn thực hàng năm vợ chồng lại đi thăm mộ ông bà Tần, khấn vái quét dọn không hề sơ sót. Được hơn năm cô gái sinh được một trai, lúc còn bế ẵm đã không sợ người lạ, thấy người là cười cũng rất giống phong thái của mẹ.

Dị Sử thị nói: Xem dáng cười ngặt nghẽo giống như vô tâm, nhưng chơi ác dưới tường thì rõ ra là rất biết việc đời vậy. Đến như thuơng xót bà mẹ ma thì không cười mà khóc, nàng Anh Ninh của ta là người tự che giấu bằng tiếng cười đấy. Nghe nói trong núi có một thứ cỏ gọi là cỏ cười, ngửi thì cười không dừng lại được, trong nhà mà trồng thứ cỏ ấy thì các loại cỏ Hợp hoan, Vong ưu đều không ra gì. Còn như hoa biết nói* thì chỉ là có dáng vẻ bề ngoài thôi.

* Hoa biết nói: Thiên Bao thông sự chép hồ Thái Dịch trong cung có hàng ngàn khóm hoa sen trắng nở, Đường Minh hoàng cùng Dương Quý phi ra ngắm, nói với tả hữu rằng "Hoa sen trong hồ như ganh đua với đóa hoa biết nói này". Đây ý nói loại người đẹp như Dương Quý phi chỉ có sắc đẹp chứ không có tâm tình như Anh Ninh.

Nhiếp Tiểu Thiến (Nhiếp Tiểu Thiến)

Ninh Thái Thần người đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), tính hào sảng, ngay thẳng tự trọng, thường nói với người ta rằng bình sinh không biết tới người đàn bà thứ hai. Gặp lúc có việc tới huyện Kim Hoa (tỉnh Chiết Giang), tới cổng bắc huyện thành vào nghỉ trong một ngôi chùa. Thấy trong chùa điện tháp nguy nga tráng lệ nhưng cỏ tranh cao lút đầu như không có người qua lại, thiền phòng hai bên đông tây cửa chỉ khép hờ, duy gian nhà nhỏ phía nam thì then khóa như còn mới. Nhìn qua góc đông điện có rặng tre to hàng chét tay, bên dưới có cái ao lớn, sen dại đã nở hoa, có ý thích cảnh u nhã.

Gặp lúc quan Học sứ về khảo khóa, giá thuê nhà trong thành đắt đỏ nên Ninh quyết ở lại, nhân tản bộ đợi sư về. Trời sẩm tối có người sĩ nhân tới mở cửa gian nhà phía nam. Ninh bước tới chào hỏi rồi ngỏ ý. Sĩ nhân nói "Nhà này không có chủ, ta cũng chỉ ở ngụ, nếu không chê là hoang vắng, sớm tối chỉ giáo cho thì may lắm!" Ninh mừng rỡ bèn rải cỏ làm giường, ghép ván làm ghế, tính kế ở lâu. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc, trời trong như nước, hai người nằm gác vế dưới hiên chuyện trò, hỏi han tên họ. Sĩ nhân tự nói họ Yến tên Xích Hà, Ninh tưởng là Chư sinh* chờ khảo khóa nhưng nghe giọng nói không phải là người đất Chiết, hỏi thì đáp là người đất Tần (tỉnh Thiểm Tây), ăn nói rất chất phác thật thà. Kế chuyện vãn đã cạn, hai người chia tay đi nghỉ.

*Chư sinh : sinh viên nhà Thái học.

Ninh lạ nhà nằm mãi không ngủ được, chợt nghe gian phía bắc có tiếng rì rầm như người nói chuyện bèn trở dậy tới núp dưới song cửa sổ bằng đá dưới vách tường phía bắc nhìn qua. Thấy sau tường có một khu nhà nhỏ, có người đàn bà khoảng hơn bốn mươi tuổi và một bà vú già mặc chiếc áo hồng bạc màu, trên tóc cài cái lược to, lưng gù già sọm đang trò chuyện dưới trăng. Người đàn bà nói "Tiểu Thiến sao mãi không tới?", bà vú già nói "Thế nào nó cũng tới mà". Người đàn bà hỏi "Nó có oán thán gì với bà không?", bà vú già đáp "Ta không nghe thấy, nhưng nó có vẻ buồn rầu". Người đàn bà nói "Con nhãi ấy thì không cần phải tử tế đâu". Chưa dứt lời thì một cô gái khoảng mười bảy mười tám tuổi tới, nhìn phảng phất có vẻ xinh đẹp.

Bà vú cười nói "Đừng nói chuyện người vắng mặt, hai người bọn ta chỉ trò chuyện thôi, mà con tiểu yêu lẻn tới không một tiếng động. May là bọn ta không nói gì xấu" Lại nói "Tiểu nương tử thật là xinh đẹp như trong tranh, giả như già này là đàn ông cũng bị bắt mất hồn rồi". Cô gái nói "Bà mà không khen ta thì còn ai khen chứ". Kế không rõ họ nói với nhau những gì, Ninh cho rằng đó là gia đình nhà láng gìềng nên bỏ vào ngủ không buồn nghe nữa, hồi lâu tiếng trò chuyện mới tắt. Ninh vừa thiu thiu sắp ngủ chợt thấy như có người tới chỗ mình nằm, vội trở dậy nhìn thì ra là cô gái bên gian nhà phía bắc. Ninh ngạc nhiên hỏi, cô gái cười đáp "Đêm trăng không ngủ được, xin tới vui vầy" Ninh nghiêm sắc mặt nói "Nàng phải đề phòng điều dị nghị còn ta thì sợ tiếng chê cười, lỡ chân một bước thì hết cả liêm sỉ". Cô gái nói "Đêm hôm đâu có ai bỉết", Ninh xì khinh bỉ nhưng cô gái cứ lần lữa như còn muốn nói gì nữa, Ninh quát "Đi mau đi, nếu không ta kêu to cho người bên kia biết đấy" Cô gái sợ lui ra ngoài cửa nhưng lại trở vào đặt một nén vàng lên nệm, Ninh cầm lấy ném ra thềm nói "Của phi nghĩa chỉ làm bẩn túi ta" Cô gái thẹn thùng quay ra nhặt vàng nói một mình "Người này sắt đá thật".

Sáng hôm sau có người học trò ở huyện Lan Khê dẫn theo một người đầy tớ tới ở trọ chờ khảo khóa, đến đêm đột nhiên chết, lòng bàn chân có một lỗ nhỏ như dùi đâm rỉ máu ra, không ai biết vì sao. Qua đêm sau thì người đầy tớ chết, cũng có dấu vết như vậy.

Chiều tối Yến sinh về, Ninh hỏi về chuyện ấy, Yến cho là yêu tinh nhưng Ninh vốn chính trực cũng không sợ sệt. Nửa đêm cô gái lại tới, nói với Ninh rằng "Thiếp từng gặp qua nhiều người mà chưa thấy ai cứng rắn như chàng. Chàng quả là bậc thánh hiền, thiếp không dám lừa dối. Thiếp họ Nhiếp tên Tiểu Thiến, chết yểu năm mười tám tuổỉ, chôn ở cạnh chùa, bị yêu tinh bắt làm những việc hèn hạ, mặt dày ôi gặp người, thật lòng rất không thích. Nay trong chùa không còn ai có thể giết được, sợ sẽ sai quỷ Dạ Xoa tới hại chàng". Ninh hoảng sợ xin chỉ cách thoát thân, cô gái nói "Chàng cứ ở chung một phòng với Yến sinh thì thoát". Ninh hỏi sao không dụ dỗ Yến sinh, nàng đáp "ông ta là bậc kỳ nhân nên không dám tới gần".

Lại hỏi làm cách nào để dụ dỗ người ta, nàng đáp "Ai ôm ấp ta, ta sẽ lén đâm dùi vào chân cho lập tức mê man rồi hút lấy máu dâng yêu tinh uống. Có khi đưa vàng cho họ, thật ra không phải là vàng mà là xương quỷ La Sát, lưu lại để moi lấy tim gan. Hai cách ấy cùng làm được cả thì tốt nhất". Ninh cảm tạ, hỏi phải phòng bị vào lúc nào, nàng đáp là đêm mai. Khi từ biệt, nàng khóc nói "Thiếp rơi xuống bể khổ, muốn tìm bờ lên mà không được. Chàng nghĩa khí xông mây, ắt có thể cứu thiếp, nếu có thể đem nắm xương tàn của thiếp về chôn cho mồ yên mả đẹp thì còn hơn cả ơn tái tạo". Ninh quả quyết nhận lời, nhân hỏi mộ ở đâu, nàng đáp "Cứ ra chỗ cây bạch dương, trên ngọn có tổ quạ là đúng" dứt lời bước ra cửa biến mất.

Hôm sau Ninh sợ Yến đi vắng, sáng sớm đã mời qua chơi, gần trưa thì sữa soạn cơm rượu mời mọc, để ý quan sát Yến, kế hẹn tối ngủ chung phòng. Yến lấy cớ thích yên tĩnh để từ chối, Ninh không nghe, ép phải mang giường chiếu qua. Yến bất đắc dĩ theo lời, dặn rằng "Ta biết túc hạ là bậc trượng phu nên rất kính mộ phong độ. Nhưng có chút niềm riêng khó thưa ngay được, vậy xin đừng nhìn vào cái tráp của ta, nếu không cả hai chúng ta đều bất lợi". Ninh kính cẩn vâng lời, kế đều đi nghỉ.

Yến để cái tráp trên cửa sổ, vừa ngả lưng một lát đã ngáy vang như sấm, Ninh thì không ngủ được. Khoảng gần hết canh một thì có bóng người thấp thoáng ngoài cửa sổ, giây lát tới gần cửa sổ nhìn vào, mắt sáng rừng rực. Ninh khiếp sợ đang định gọi Yến, chợt có một vật sáng loáng như giải lụa xé cái tráp bắn ra tiện đứt chấn song cửa sổ bằng đá, lóe sáng một cái rồi quay ngay vào tráp như ánh chớp tắt ngấm. Yến biết trở dậy, Ninh giả ngủ nhìn ra thấy Yến bưng cái tráp lấy vật ấy ra vừa săm soi dưới ánh trăng vừa hít ngửi, ánh sáng lóng lánh, dài khoảng hai tấc, mỏng như lá hành, kế bọc lại mấy lớp cho vào cái tráp thủng, lẩm bẩm "Không biết con quỷ già nào mà lớn mật làm hỏng cái tráp của ta" rồi lại đi nằm.

Ninh lấy làm lạ trở dậy hỏi, kể những điều mình thấy. Yến đáp "Đã là bạn tri giao, sao còn dám giấu diếm, ta là kiếm khách đây. Nếu không vướng cái chấn song đá thì yêu tinh phải chết ngay lập tức, nhưng như thế cũng bị thương rồi". Ninh hỏi vật cất đi là cái gì Yến đáp "Đó là thanh kiếm, vừa ngửi thấy có yêu khí". Ninh muốn xem thử, Yến rút ra một thanh đoản kiếm lấp lánh, Ninh vì vậy càng thêm kính phục.

Hôm sau Ninh xem ngoài cửa sổ thấy có vết máu, ra phía bắc chùa thấy một nấm mộ hoang, bên cạnh quả có cây bạch dương trên ngọn có tổ quạ. Khi việc đã xong Ninh thu xếp hành trang trở về, Yến sinh bày tiệc tiễn rất ân cần, tặng Ninh một cái bao da rách, dặn "Đây là cái bao kiếm, giữ kỹ thì lũ yêu tinh phải tránh xa" Ninh muốn theo học đạo, Yến nói "Người tín nghĩa cương trực như ông có thể học được, nhưng ông là người trong trường phú quý chứ không phải là người trong mạch đạo". Ninh nói thác là có em gái chôn ở đó đào mộ cô gái lấy hài cốt gói lại thuê thuyền đem về quê.

Phòng sách của Ninh nhìn ra cánh đồng, nhân chôn cất nàng ngay phía ngoài, cúng tế khấn rằng "Thương nàng hồn ma lẻ loi nên chôn cạnh nhà, khi ca khi khóc đều nghe cho khỏi bị lũ quỷ mạnh làm nhục. Có bát nước mưa mời uống, chưa được ngọt trong cũng mong đừng trách". Khấn xong quay về nghe phía sau có người gọi "Xin đợi cùng về", ngoái nhìn thì là Tiểu Thiến. Nàng vui vẻ cảm tạ, nói "Chàng là bậc tín nghĩa, thiếp có chết mười lần cũng không đủ đền đáp. Xin theo về ra mắt cha mẹ chồng, dù làm đứa ở con đòi cũng cam lòng".

Ninh nhìn kỹ thấy nàng da ửng màu ráng hồng, chân thon như búp măng, nhìn ban ngày càng xinh đẹp bèn dẫn về phòng sách, dặn ngồi đợi rồi vào trước thưa với mẹ. Mẹ ngạc nhiên, lúc ấy vợ Ninh ốm đã lâu bèn bảo đừng nói ra vì sợ nàng kinh hãi. Vừa nói xong thì cô gái nhẹ nhàng bước vào sụp lạy, Ninh nói "Đây là Tiểu Thiến". Bà mẹ hoảng sợ nhìn nàng lo ngại, Tiểu Thiến nói "Con lênh đênh một mình, xa cha mẹ anh em, nay đội ơn công tử che chở tái tạo, nguyện sửa túi nâng khăn để báo cao nghĩa". Bà mẹ thấy nàng xinh xắn đáng yêu mới dám trò chuyện, nói "Nương tử ra ơn chiếu cố cho con ta, già này rất mừng. Nhưng bình sinh chỉ có đứa con trai này để nối dõi tông đường, không dám cho nó lấy vợ ma". Cô gái nói "Con thật không dám hai lòng. Người đã chết không đủ để mẹ tin cậy thì xin thờ chàng làm anh, nương tựa nơi mẹ để sớm hôm hầu hạ có được không?".

Mẹ thương nàng thành tâm bèn bằng lòng, nàng muốn vào lạy chào chị dâu nhung mẹ lấy cớ con dâu đang ốm từ chối. Nàng liền xuống bếp thay mẹ lo cơm nước, lên xuống ra vào như người trong nhà. Tối đến bà mẹ e sợ, từ chối về phòng ngủ, không đặt giường cho nàng. Cô gái biết ý bà liền trở ra, ngang qua phòng sách định vào nhưng cứ ngập ngừng ngoài cửa như có điều sợ sệt. Ninh gọi vào, nàng nói "Trong phòng có kiếm khí ghê người, nãy giờ qua lại không dám vào gặp chàng là vì thế". Ninh biết là vì cái bao da, liền đem qua phòng khác treo, cô gái mới vào, tới ngồi cạnh đèn một lúc không nói gì. Hồi lâu mới hỏi "Tối đến chàng có đọc sách không? Lúc nhỏ thiếp có học kinh Lăng nghiêm, nay đã quên quá nửa. Xin cho mượn một quyển, tối rảnh nhờ chỉ cho", Ninh nhận lời.

Nàng lại ngồi im lặng, gần hết canh hai vẫn không đi, Ninh giục thì buồn rầu nói "Hồn côi ở xứ lạ sợ nấm mồ hoang lắm". Ninh nói "Trong phòng sách không có giường nằm, vả lại anh trai em gái cũng nên tránh hiềm nghi". Cô gái đứng dậy, mặt ủ mày chau như muốn khóc, ngần ngừ bước ra cửa, xuống tới thềm thì biến mất. Ninh thầm thương xót, muốn lưu nàng lại ngủ giường khác nhưng lại sợ mẹ mắng. Từ đó cô gái sớm chiều tới hầu mẹ, bưng chậu múc nước rồi ra làm việc nhà, không việc nào không theo ý mẹ, chập tối cáo lui qua phòng sách thắp đèn tụng kinh, đến khi Ninh sắp đi ngủ mới buồn rầu trở ra.

Trước là vợ Ninh ốm nặng bỏ hết việc nhà, bà mẹ vất vả không sao chịu nổi, từ khi cô gái tới mới được thong thả nên trong lòng biết ơn nàng. Lâu dần thì yêu quý như con ruột, quên luôn việc nàng là ma, chiều tối không nỡ bắt nàng phải ra khỏi nhà nên giữ lại ngủ cùng. Cô gái lúc mới tới không ăn uống gì, nửa năm mới dần dần hớp qua canh cháo, mẹ con Ninh đều rất thương yêu, kiêng nói tới chuyện ma quỷ nên mọi người cũng không ai biết. Không bao lâu vợ Ninh chết, bà mẹ ngầm có ý cưới Tiểu Thiến cho con trai nhưng lại sợ mang hại. Nàng biết ý, nhân lúc rảnh rỗi nói với bà "Con ở đây đã hơn một năm, chắc mẹ đã hiểu lòng con không muốn hại người nên một lòng theo công tử không có ý khác. Chỉ vì thấy công tử quang minh lỗi lạc, trời người đều phục nên thật lòng muốn nương tựa giúp đỡ để vài ba năm nữa nhờ cậy được chút sắc phong cho vẻ vang dưới suối vàng". Bà mẹ cũng biết nàng không độc ác nhưng còn lo không có cháu nối dõi, cô gái nói "Con cái là do trời cho, tên chàng đã được ghi trong sổ phúc, có ba con trai, không vì lấy vợ ma mà bị cắt giảm".

Mẹ tin lời bàn với con trai, Ninh mừng lắm bày tiệc báo cho thân thích bè bạn. Có người xin nhìn mặt cô dâu mới, cô gái thản nhiên trang điểm lộng lẫy bước ra, cả tiệc đều tròn mắt nhìn, không nghĩ là ma mà ngờ là tiên. Vì vậy họ hàng nội ngoại đều mang lễ vật tới đến mừng, tranh nhau làm quen. Cô gái giỏi vẽ hoa lan hoa mai, cứ vẽ ra đưa tặng để đáp lễ, người được tặng đều trân trọng cất kỹ, lấy làm vinh dự.

Một hôm cô gái cúi đầu đứng bên song cửa sổ có vẻ lo lắng buồn bã, kế chợt hỏi cái bao da để đâu Ninh đáp "nàng sợ hãi nên ta gói cất ở chỗ khác". Nàng nói "Thiếp nhận được sinh khí người sống đã lâu nên không còn sợ nữa, chàng nên đem ra treo ở đầu giường". Ninh hỏi làm thế là có ý gì nàng đáp "Ba hôm nay trong lòng thiếp cứ hồi hộp không yên, có lẽ bọn yêu tinh ở Kim Hoa hận thiếp bỏ trốn đi xa, e sớm chiều sẽ tìm tới đây". Ninh đem cái bao da ra, cô gái lật đi lật lại nhìn kỹ rồi nói "Cái này là bậc kiếm tiên dùng để bắt ma quỷ, rách nát đến thế này không biết đã giết bao nhiêu rồi. Hôm nay thiếp nhìn thấy còn rợn cả người", rồi đem treo lên.

Hôm sau nàng lại bảo Ninh đem treo trên cửa, đến tối ra ngồi bên đèn, dặn Ninh đừng ngủ. Chợt có một vật như con chim bay rơi xuống, nàng hoảng sợ nép vào sau tấm rèm, Ninh nhìn ra thấy hình dáng nó như quỷ Dạ Xoa, mắt lóe như chớp, miệng đỏ như máu, tay quờ quạng như sắp chộp bắt ai tiến thẳng tới trước cửa, dừng lại hồi lâu rồi tới gần cái bao da, quờ móng giật lấy như muốn xé rách. Cái bao chợt kêu soạt một tiếng, thấp thoáng như có nửa mình quỷ bên trong nhô ra nắm Dạ Xoa kéo vào, tiếng động tắt ngay mà cái bao cũng co lại như cũ. Ninh hoảng sợ, cô gái cũng bước ra mừng rỡ nói "Hết lo rồi!". Cùng nhìn vào bao, chỉ thấy có vài đấu nước trong mà thôi.

Vài năm sau quả nhiên Ninh thi đỗ Tiến sĩ, sinh được một con trai. Sau khi Ninh lấy vợ lẽ, mỗi vợ lại sinh một trai nữa, ba con sau đều làm quan, rất có danh tiếng. Cỏ Thủy Mãng (Thủy Mãng Thảo)

Thủy mãng là loài cỏ độc, mọc như dây leo, hoa tím như đậu ván, ai lầm ăn vào là chết ngay, hóa thành ma thủy mãng. Tục truyền ma ấy không được luân hồi, phải có người khác trúng độc chết thay vào mới được thác sinh, vì vậy suốt một dải sông Đào Hoa ở đất Sở Trung (vùng Hồ Nam) có rất nhiểu ma ấy.

Người Sở nếu sinh cùng năm thì gọi là đồng niên, đưa thiếp ra mắt gọi nhau là canh huynh canh đệ, hàng con cháu thì gọi bề trên là canh bá, quen lệ thành như thế. Có Chúc sinh đi thăm bạn đồng niên, trên đường khát nước, chợt thấy bên đường có bà già bày quán thí nước liền rảo bước tới. Bà già đón vào rót nước mời mọc ân cần, sinh thấy có mùi lạ không giống mùi trà bèn đặt xuống không uống mà đứng dậy đi ra. Bà già vội giữ khách lại rồi gọi "Tam Nương, pha một chén trà ngon đem ra đây". Giây lát có một thiếu nữ bưng trà từ sau quán bước ra, tuổi khoảng mười bốn mười lăm, nhan sắc tuyệt đẹp, ngón tay đeo nhẫn, cổ tay đeo xuyến sáng loáng. Sinh đỡ lấy chén trà, tâm thần ngây ngất, ngửi thấy thơm phức liền uống cạn, lại xin chén nữa. Thừa lúc bà già đi ra bèn đùa nắm tay cô gái, tháo một chiếc nhẫn. Nàng đỏ mặt mỉm cười, sinh càng mê mệt bèn hỏi qua nhà cửa. Cô gái nói "Tối chàng tới thì thiếp còn ở đây".

Sinh xin một nắm trà, lại cất luôn chiếc nhẫn ra đi. Tới nhà bạn đồng niên thì thấy bụng đau quặn, ngờ là vì nước trà bèn kể cho bạn nghe. Bạn hoảng sợ nói "Chết rồi, đó là ma thủy mãng. Cha ta ngày xưa cũng chết vì nó, không thể cứu được, làm sao bây giờ". Sinh cả sợ dưa gói trà cho bạn xem thì đúng là cỏ thủy mãng. Lại đưa chiếc nhẫn ra, tả lại hình dáng cô gái, người bạn ngẫm nghĩ rồi nói "Đó ắt là Khấu Tam Nương". Sinh thấy đúng tên liền hỏi vì sao biết, bạn đáp "Cô ta là con gái họ Khấu ở thôn Nam, nổi tiếng xinh đẹp, mấy năm trước ăn lầm cỏ thủy mãng mà chết, ắt đã làm ma. Có người nói ai bị ma ấy hại, nếu biết được tên họ mà tới nhà xin được cái quần cũ nó mặc đem về nấu nước uống thì có thể khỏi". Bạn vội tới nhà họ

Khấu kể rõ tình thật, lạy lục năn nỉ. Khấu nghĩ Chúc sinh chết thì con gái mình sẽ được đầu thai nên không cho, người bạn tức giận về kể lại. Sinh cũng nghiến răng căm hờn nói "Ta chết rồi quyết không cho con gái y đi đầu thai". Người bạn cáng sinh về, gần tới cổng nhà thì chết, mẹ sinh khóc lóc chôn cất con trai. Sinh để lại một con trai vừa đầy năm, vợ không thủ tiết được, nửa năm sau bỏ đi lấy chồng khác. Mẹ sinh giữ cháu nội lại nuôi nấng, vất vả không sao chịu nổi, sớm tối đau xót khóc lóc.

Một hôm bà đang bế cháu khóc lóc trong phòng chợt sinh sừng sững bước vào. Mẹ cả sợ gạt nước mắt hỏi, sinh nói "Con ở dưới đất nghe mẹ khóc rất đau xót nên trở về để sớm hôm hầu hạ mẹ thôi. Con tuy chết nhưng đã lấy vợ, nay cũng về cùng để giúp đỡ mẹ, mẹ đừng buồn nữa". Mẹ hỏi vợ là ai, sinh nói "Họ Khấu để mặc cho con chết, con rất căm hận, sau khi chết muốn tìm Tam Nương nhưng không biết nàng ở đâu. Mới rồi gặp canh bá Mỗ chỉ cho, con tới thì Tam Nương đã đầu thai vào nhà quan Thị lang họ Nhiệm. Con đuổỉ theo bắt nàng trở lại, nay đã làm vợ con, cũng tâm đầu ý hợp không có gì khổ". Giây lát có một cô gái ăn mặc lộng lẫy bước vào quỳ xương lạy mẹ, sinh nói "Đây là Khấu Tam Nương". Tuy hai vợ chồng không phải là người sống nhưng mẹ nhìn thấy cũng được an ủi, sinh bèn sai Tam Nương làm việc nhà. Tam Nương không quen làm lụng nhưng rất ngoan ngoãn với mẹ chồng, từ đó vào ở luôn phòng sinh cũ không đi. Cô gái xin mẹ báo tin cho nhà mình biết, sinh không muốn nhưng mẹ chiều ý con dâu nên báo cho họ Khấu.

Ông bà Khấu nghe tin cả sợ, thắng xe kiệu tới ngay, vào thấy đúng là Tam Nương, nhìn nhau khóc lạc cả giọng, cô gái khuyên mãi mới nín. Bà Khấu thấy nhà sinh nghèo quá có ý thương xót con gái, nàng nói "Con đã là ma thì sợ gì nghèo. Huống hồ mẹ con Chúc lang đối xử với con rất có tình nghĩa, con đã yên phận rồi". Bà Khấu nhân hỏi bà già bán trà là ai, nàng đáp "Bà ta họ Nghê, tự thẹn già nua không dụ dỗ được khách đi đường nên nhờ con giúp cho thôi, nay đã thác sinh vào một nhà bán rượu trong thành". Kế quay lại nhìn sinh nói "Chàng đã làm rể mà không lạy cha mẹ vợ thì thiếp còn lòng dạ nào?", Sinh liền lạy chào. Cô gái bèn vào bếp giúp mẹ chồng nấu cơm đãi thông gia. Họ Khấu thấy thế thương xót, khi trở về liền sai hai tỳ nữ tới hầu hạ, gởi thêm trăm cân vàng, vài mươi tấm lụa, thỉnh thoảng lại tặng biếu rượu thịt, mẹ Chúc sinh trở nên dư dật. Họ Khấu cũng thỉnh thoảng gọi nàng về thăm nhà, nhưng cứ ở vài ngày thì nàng nói "ở nhà không có ai, nên để con về sớm", nếu cố giữ lại thì nàng lãng đãng tự về. Ông Khấu xây cất nhà cửu cho Chúc sinh rất tươm tất, nhưng rốt lại sinh vẫn không hề tới nhà cha mẹ vợ.

Một hôm trong làng có người trúng độc cỏ thủy mãng chết nhưng lại sống lại, người ta đồn là chuyện lạ. Sinh nói "Đó là ta cứu sống đấy, y bị con ma Lý Cửu làm hại, ta đã đuổi nó đi giúp". Mẹ hỏi "Sao con không tìm người khác thay thế cho mình?", sinh đáp "Con rất căm thù bọn ấy đang định diệt trừ cho bằng hết, đâu lại làm như chúng. Vả lại con được thờ mẹ là vui lắm rồi, không muốn đầu thai nữa".

Từ đó về sau, những người trúng độc thường bày cỗ bàn giữa sân khấn vái sinh, đều thấy hiệu nghiệm. Trải hơn mười năm, bà mẹ qua đời, vợ chồng cũng để tang nhưng không ra tiếp khách, chỉ sai con mặc sô chống gậy làm lễ chôn cất mà thôi. Chôn cất mẹ xong, lại ở hơn hai năm rồi cưới vợ cho con, nàng dâu là cháu nội Thị lang họ Nhiệm. Trước là người thiếp của ông Nhiệm sinh được đứa con gái vài tháng thì chết, sau nghe chuyện lạ của vợ Chúc bèn sai thắng kiệu tới nhà nhận sinh làm con rể. Đến lúc ấy lại gả cháu nội cho con sinh, hai nhà qua lại nhau không dứt.

Một hôm sinh nói với con "Thượng đế xét ta có công với người đời nên phong làm Tứ độc Mục Long quân, nay ta đi đây" Giây lát thấy giữa sân có bốn con ngựa tháng xe mui vàng, chân ngựa đều mọc vảy, hai vợ chồng ăn mặc đẹp đẽ bước ra cùng lên xe. Vợ chồng con trai khóc lạy đưa tiễn, trong chớp mắt đều biến mất. Hôm ấy nhà họ Khấu thấy con gái về từ giã cha mẹ, cũng nói như lời sinh. Bà Khấu khóc giữ lại nàng nói "Chúc lang đi trước rồi", rồi bước ra cửa biến mất. Con trai sinh tên Ngạc, tự Ly Trần, tới xin ông Khấu cho lấy hài cốt Tam Nương về hợp táng với sinh.

Người Học Trò Phượng Dương (Phượng Dương Sĩ Nhân)

Có một người học trò ở huyện Phượng Dương (tỉnh An Huy) đi du học xa, hẹn vợ nửa năm sẽ về nhưng hơn mười tháng vẫn tuyệt vô âm tín, vợ ở nhà mỏi mòn trông đợi. Một đêm vừa mới đi nằm, thấy bóng trăng lay động trên tấm rèm che cửa sổ, càng thêm nhớ nhung. Còn đang trằn trọc thì có một cô gái đẹp cài trâm ngọc quàng khăn hồng vén rèm bước vào cười hỏi "Bà chị muốn gặp lang quân không?" người vợ vội trở dậy vâng dạ.

Người đẹp rủ cùng đi, nàng ngại đường xa hiểm trở, người đẹp khuyên đừng lo rồi nắm tay đạp lên ánh trăng ra đi. Được khoảng một tầm tên, nàng thấy người đẹp đi rất mau mà mình đi chậm liền gọi bảo đợi một lát để về mang giày. Người đẹp kéo nàng ngồi xuống bên đường, cởi giày của mình đưa cho, nàng mừng rỡ mang vào, may là vừa khít, liền đứng dậy đi theo, thấy bước đi mau như bay. Giây lát thấy người học trò cưỡi ngựa trắng đi tới, nhìn thấy vợ ngạc nhiên vội xuống ngựa hỏi đi đâu, nàng đáp "Định đi thăm chàng". Người học trò quay nhìn người đẹp rồi hỏi là ai, nàng chưa kịp trả lời thì người đẹp che miệng cười nói "Thôi đừng hỏi nữa, nương tử bôn ba tới đây không phải dễ, chàng thì rong ruổi đến nửa đêm, chắc người ngựa cũng đều mệt rồi. Nhà thiếp cách đây không xa, xin mời vào tạm nghỉ ngơi, sáng mai đi cũng không muộn". Hai người nhìn ra thấy gần đó quả có làng xóm bèn cùng đi.

Vào một ngôi nhà, người đẹp gọi tỳ nữ dậy lo cơm nước mời khách, nói "Đêm nay trăng sáng không cần thắp đèn, ngồi lên sập đá trong tiểu đình cũng được". Người học trò buộc ngựa vào cây ngô đồng rồi ngồi xuống, người đẹp nói "Giày to không vừa chân, trên đường chắc chị mệt lắm. Nhưng lúc về đã có con ngựa đỡ chân, cho em xin lại". Người vợ cảm ơn, cởi giày trả lại.

Lát sau, rượu bánh bày ra, người đẹp nâng chén nói "Loan phượng xa nhau lâu ngày, đêm nay được sum họp, có chén rượu đục xin kính mừng!" người học trò cũng nâng chén đáp lễ, chủ khách cười nói vui vẻ, giày dép lẫn lộn dưới sập. Người học trò cứ đăm đăm nhìn người đẹp, mấy lần buông lời đùa cợt, vợ chồng bao ngày mới gặp nhau mà không trò chuyện một lời. Người đẹp cũng liếc mắt đưa tình, thả lời nũng nịu, người vợ cứ ngồi im giả như ngu đần. Hồi lâu rượu càng ngấm, hai người trò chuyện lại càng buông thả. Người đẹp lấy chén lớn mời khách, người học trò từ chối là đã say nhưng nàng cứ ra sức nài ép. Người học trò cười nói "Nàng hát cho nghe một khúc, ta sẽ uống ngay". Người đẹp không từ chối, lấy phím ngà gảy đàn cầm hát rằng:

Hoàng hôn ngả bóng màu son nhạt Gió lạnh ngoài song buốt thấu rèm Lắng tiếng mưa rơi trên lá chuối, biết nơi nào run rẩy cùng ai Đợi chờ mỏi mắt, chẳng thấy người về, nước mắt chảy dài Nghĩ lại nhớ chàng, nghĩ lại hận chàng Cầm chiếc giày thêu thử gieo quẻ bói

Hát xong cười nói "Đây là khúc hát ở đầu đường xó chợ, không đáng làm bẩn tai chàng, nhưng vì thiên hạ đang ưa chuộng nên thiếp cũng học đòi bắt chước thôi". Giọng nói uốn éo, bộ dạng lả lơi khiến người học trò điên đảo tâm thần, như không kìm lòng được nữa. Lát sau người đẹp giả về ngủ đi ra, người học trò cũng đứng dậy đi theo, hồi lâu không trở vào, đứa tỳ nữ mỏi mệt nằm gục xuống ngủ ở hành lang. Người vợ ngồi trơ trọi một mình, trong lòng vừa buồn vừa giận không sao chịu nổi, nghĩ muốn bỏ ra về nhưng đêm tối mù mịt, lại không nhớ đường đi, băn khoăn không sao kìm lòng được bèn đứng lên ra xem. Vừa tới cạnh cửa sổ đã nghe loáng thoáng tiếng mây mưa bên trong, lại lắng nghe thì ra những gì chồng vẫn thường làm khi âu yếm với mình trong phòng đều giở ra hết. Người vợ lúc ấy tim đập mạnh, tay run bắn, chết điếng cả người, nghĩ không bằng cứ ra cửa nhảy xuống ngòi rãnh mà chết đi.

Vừa căm hờn đi ra thì thấy em trai là Tam Lang cưỡi ngựa tới, xuống ngựa hỏi han. Nàng kể lại mọi việc, Tam Lang cả giận lập tức cùng chị quay lại, vào thẳng trong nhà thì cửa phòng đã cài then nhưng vẫn nghe thấy tiếng thì thào trên giường. Tam Lang nhấc một hòn đá to bằng cái đấu ném mạnh vào cửa sổ làm gãy luôn mấy cái chấn song, nghe bên trong có tiếng kêu lớn "Lang quân vỡ sọ rồi, làm sao?" Nàng nghe thấy kinh hoàng khóc lớn, nói với em "Ta đâu có bảo ngươi giết y, làm thế nào bây giờ". Tam Lang trợn mắt nói "Chị vừa khóc lóc kéo ta vào, bây giờ hả giận rồi thì lại vì chồng mà oán anh em. Ta không quen chịu sai phái như bọn tôi tớ đâu, rồi quay người bỏ ra. Nàng níu áo nói "Ngươi chẳng đưa ta về lại còn đi đâu?", Tam Lang xô chị ngã lăn xuống đất rồi bỏ đi, nàng giật mình tỉnh dậy mới biết là vừa nằm mơ.

Hôm sau quả nhiên người học trò về, cũng cưỡi con ngựa trắng, vợ kinh ngạc nhưng chưa nói gì. Người học trò kể lại giấc mơ đêm qua, những điều gặp gỡ nhất nhất đều như vợ đã nghe đã thấy, hai người đều lấy làm quái lạ. Kế Tam Lang nghe tin anh rể đi xa về cũng tới thăm hỏi, xong nói với người học trò "Đêm qua nằm mơ thấy anh về, nay quả đúng, thật lạ quá" Người học trò cười nói "May mà ta không bị đá ném chết" Tam Lang ngạc nhiên hỏi sao nói thế, người học trò kể lại giấc mơ, Tam Lang vô cùng kinh ngạc. Thì ra đêm qua Tam Lang cũng nằm mơ thấy gặp chị khóc lóc kể lể nên nổi giận ném đá. Ba giấc mộng khớp nhau, chỉ không biết người đẹp là ai mà thôi. Châu Nhi (Châu Nhi)

Người dân ở Thường Châu (huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô) là Lý Hóa, nhà giàu có, nhiều ruộng đất. Hơn năm mươi tuổi mà không có con trai, chỉ có một con gái tên Tiểu Huệ, mặt mũi xinh đẹp, vợ chồng rất yêu dấu. Năm cô gái mười bốn tuổi thì mắc bạo bệnh chết yểu, nhà cửa vắng vẻ, Lý không còn sinh thú mới cưới tỳ thiếp. Hơn một năm người thiếp sinh được một con trai, Lý yêu quý như châu ngọc, đặt tên là Châu nhi. Đứa nhỏ dần dần lớn lên, khôi ngô khả ái nhưng tính rất ngây ngốc, năm sáu tuổi vẫn chưa phân biệt được ngô với đậu, ăn nói thì ngơ ngẩn, Lý cũng ưa nên không ghét bỏ.

Gặp lúc có nhà sư lòa tới khuyến hóa ở chợ, biết rõ cả việc trong khuê phòng nhà người ta, mọi người đều tôn kính như thần. Sư lại nói có thể cứu sống hại chết, ban phúc giáng họa, muốn vài trăm ngàn đồng tiền cứ tìm tên mà đòi, không ai dám chậm trễ. Tới Lý khuyến hóa xin một trăm quan tiền, Lý lấy làm khó, đưa ra mười quan nhưng sư không nhận. Dần dần đưa lên thêm tới ba mươi quan, sư tức giận nói "phải đủ một trăm quan, thiếu một đồng cũng không được". Lý cũng tức giận, thu tiền lại đuổi ra, sư tức tối đứng lên nói "Đừng có hối hận, đừng có hối hận".

Không bao lâu Châu nhi chợt phát bệnh đau tim, lăn lộn cào cấu trên giường, mặt xám như tro. Lý sợ liền đem tám mươi quan tới chỗ nhà sư xin cứu cho, sư cười nói "Có được bấy nhiêu tiền quả không dễ, nhưng nhà sư trong núi thì làm được gì?". Lý về thì Châu nhi đã chết, vô cùng đau đớn bèn đưa đơn kiện lên huyện. Quan huyện cho bắt nhà sư hỏi cung, sư cũng nói đó là việc ngẫu nhiên để phân trần, quan sai đánh đòn thấy bồm bộp như đánh vào cái túi da, liền sai lục soát trong người sư, tìm được hai hình người bằng gỗ, một chiếc quan tài nhỏ, năm lá phướn con. Quan tức giận, lấy tay làm ra vẻ bắt quyết cho nhìn, sư sợ hãi bèn xin cung khai. Quan không thèm nghe, sai đánh chết luôn, Lý bèn lạy tạ ra về. Lúc ấy trời đã sập tối,

Lý và vợ đang ngồi trên giường, chợt có đứa nhỏ chập chờn bước vào phòng, nói "Sao cha đi mau thế, con cố đuổi mà không kịp", nhìn tới vóc dáng dung mạo thì khoảng bảy tám tuổi. Lý kinh ngạc đang định gạn hỏi thì thấy nó như ẩn như hiện, chập chờn tựa làn mây mù. Lúc chập chờn nó đã lên tới giường, Lý xô xuống, nó rơi xuống đất không có tiếng động, nói "Sao cha lại làm thế?", trong chớp mắt lại đã lên giường trở lại. Lý hoảng sợ dắt vợ bỏ chạy, đứa nhỏ kêu cha gọi mẹ không ngớt. Lý chạy vào phòng vợ, đóng mau cửa lại, quay lại thì đứa nhỏ đã đứng ngay dưới chân, Lý sợ quá hỏi nó định làm gì, đứa nhỏ đáp "Con là người Tô Châu (tỉnh Giang Tô), họ Thiềm, năm lên sáu tuổi đã mồ côi cha mẹ, anh trai chị dâu không chịu nuôi nấng nên tới ở nhà ngoại. Ngẫu nhiên chơi đùa ngoài cổng bị gã yêu tăng kia dụ dỗ giết chết dưới gốc dâu, sai khiến như ma trành, ngậm oan dưới suối vàng không được chuyển sinh. May nhờ cha trả thù cho, xin theo làm con". Lý nói "Người với ma khác loài, làm sao nương tựa nhau được?". Đứa nhỏ nói "Chỉ xin xếp cho một gian phòng nhỏ, trong bày giường chiếu cho con nằm, mỗi ngày cho một chén cháo loãng, ngoài ra không cần gì khác". Lý theo lời đứa nhỏ mừng rỡ, từ đó một mình ở trong phòng riêng, ra vào ăn nói không khác gì người sống. Nghe người thiếp của Lý khóc lóc, nó hỏi Châu nhi chết đã mấy ngày rồi, người thiếp đáp bảy ngày. Đứa nhỏ nói "Trời đang rất lạnh, chắc xác chưa rã, xin đào mồ lên xem thử, nếu như vẫn còn nguyên vẹn thì con có thể sống lại". Lý mừng rỡ dắt nó cùng đi, đào mồ Châu nhi lên xem thấy xác vẫn như cũ, đang còn đau xót, ngoảng lại nhìn thì đứa nhỏ đã biến mất, lấy làm lạ bèn cáng cái xác về. Vừa đặt lên giường thì mí mắt đã động đậy, giây lát đòi uống nước, uống xong ra mồ hôi đầm đìa, kế đứng lên. Mọi người mừng Châu nhi đã sống lại, lại còn thêm khôn ngoan thông minh khác hẳn ngày trước. Đến đêm lại lên giường nằm cứng đờ không có chút hơi thở nào, mọi người cùng vào xoay trở vẫn nhắm mắt nằm yên như chết, mọi người đều cả sợ cho rằng lại chết rồi. Trời vừa sáng nó mới như tỉnh mộng, mọi người xúm lại hỏi han, đứa nhỏ đáp "Trước đây lúc còn theo gã yêu tăng, còn có hai đứa nhỏ khác, một đứa tên Ca Tử, vừa rồi đuổi theo cha không kịp vì nán lại phía sau chia tay Ca Tử đó thôi. Nay Ca Tử ở dưới âm ty làm con nuôi của Khương Viên ngoại, cũng được thong thả. Đêm qua nó tới chơi đùa với con, kế lấy ngựa đưa con về" Vợ Lý nhân hỏi có thấy Châu nhi dưới âm ty không, đứa nhỏ đáp "Châu nhi đã đi đầu thai rồi, nó với cha không có duyên phận cha con, chẳng qua chỉ là Nghiêm Tử Phương ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới đòi món nợ mấy trăm ngàn đồng tiền trước đây mà thôi". Trước là Lý buôn bán ở Kim Lăng, còn thiếu tiền hàng của Nghiêm chưa trả, kế Nghiêm chết, chuyện ấy không ai hay biết. Lý nghe thấy cả sợ.

Vợ Lý bèn hỏi đứa nhỏ rằng con gặp chị Huệ không, nó đáp "Không biết, lần sau con xuống đó sẽ hỏi thăm". Ba bốn hôm sau, nó nói với mẹ rằng "Chị Huệ dưới âm ty sung sướng lắm, làm vợ của con trai út Sở Giang vương, vàng ngọc đeo đầy người, ra cửa thì có hàng ngàn người tiền hô hậu ủng". Vợ Lý hỏi "Sao nó không về thăm nhà một chuyến?" đứa nhỏ nói "Kẻ đã chết thì không dính líu gì với người thân nữa, nếu có ai kể rõ chuyện kiếp trước mới nhớ lại thôi. Hôm rồi con theo Khương Viên ngoại nên được gặp chị, chị gọi con lên ngồi trên giường san hô, con nói cha mẹ đều rất nhớ nhung mà chị cứ như đang ngủ mơ. Con nói lúc chị còn sống thích thêu quả cầu kết hoa bằng lụa, lúc cắt vải bị đứt tay làm dính máu vào đó, nay mẹ còn treo ở đầu giường, thương nhớ không nguôi, chị quên rồi sao? Chị mới buồn rầu, nói sẽ thưa với lang quân xin về thăm mẹ. Vợ Lý hỏi lúc nào, nó đáp là không biết.

Một hôm nói với mẹ rằng "Chị sắp về tới, có rất nhiều tùy tùng đi theo, phải chuẩn bị nhiều rượu thịt". Giây lát nó chạy vào phòng mẹ nói "Chị tới rồi!" rồi đẩy ghế ra sảnh đường nói "Chị hãy ngồi xuống nghỉ mệt, đừng khóc lóc", mọi người không ai nhìn thấy gì cả. Đứa nhỏ bảo mọi người ra đốt giấy tiền vàng bạc ngoài cổng rồi trở vào nói "Con đã cho những người tùy tùng tạm lui về rồi. Chị nói rằng trước đây cái chăn gấm xanh chị vẫn đắp bị lửa đèn bắn vào làm thủng một lỗ to bằng hạt đậu, nay có còn không?" mẹ đáp "Vẫn còn". Rồi lập tức mở rương lấy ra, đứa nhỏ nói "Chị bảo con đem trải trong phòng cũ, chị hơi mệt phải nghỉ một lúc, ngày mai sẽ lại nói chuyện với mẹ".

Có cô gái họ Triệu bên láng giềng vốn chơi thân với Huệ, đêm ấy chợt mơ thấy Huệ đội khăn mặc áo màu tía tới thăm, chuyện trò cười nói thân thiết như lúc còn sống, kế nói "Ta nay khác loài, giáp mặt cha mẹ mà chẳng khác nào xa cách nhau muôn núi ngàn sông, định mượn xác muội tử về trò chuyện với người nhà, xin đừng hoảng sợ". Đến sáng nàng đang trò chuyện với mẹ chợt ngã lăn ra đất mê man, lát sau mới tỉnh, nói "Tiểu Huệ xa cách thím mấy năm rồi, không ngờ tóc thím đã bắt đầu bạc". Bà Triệu hoảng sợ nói "Con điên rồi à?", nàng lạy chào rồi đi ra. Bà Triệu biết là có chuyện lạ bèn đi theo, thấy nàng tới thẳng nhà Lý, vào ôm vợ Lý khóc sướt mướt, vợ Lý hoảng sợ không biết chuyện gì. Nàng nói "Hôm qua con về mệt quá chưa nói được câu nào. Con bất hiếu nửa đường chết đi bỏ cha mẹ lại, lại làm cha mẹ phải nhớ nhung, biết lấy gì để chuộc tội?". Mẹ sực hiểu ra bèn khóc hỏi "Nghe nói nay con rất quý hiển, mẹ rất được an ủi, nhưng con gởi thân ở nhà bậc vương hầu, làm sao tới được đây?". Cô gái nói "Chồng con rất thương yêu con, cha mẹ chồng cũng rất thương mến, nên không bị ghét bỏ gì".

Lúc Huệ còn sống hay lấy tay chống cằm, cô gái nói xong cũng làm giống hệt. Giây lát Châu nhi chạy vào nói "Người đón chị tới rồi", cô gái bèn đứng lên khóc lóc từ biệt, nói "Con đi đây". Nói xong ngã lăn ra đất hồi lâu mới tỉnh.

Sau đó vài tháng, Lý mắc bệnh nặng, thuốc men gì cũng vô hiệu. Đứa nhỏ nói "Sợ trong sớm tối sẽ khó cứu, có hai con quỷ ngồi ở đầu giường cha, một đứa cầm gậy, một đứa cầm dây dài bốn năm thước, con đã đêm ngày năn nỉ mà chúng không đi". Mẹ khóc chuẩn bị đồ liệm, đến tối thì đứa nhỏ bước vào nói "Đàn bà con gái tránh ra hết, anh rể tới thăm cha đấy". Giây lát lại vỗ tay cười lớn mẹ hỏi vì sao, nó đáp "Con cười hai con quỷ nghe nói anh rể tới đều rúc vào gầm giường như con rùa rụt đầu". Lát sau lại thấy nó nhìn lên trời nói chuyện, hỏi thăm anh rể khỏe không, kế vỗ tay nói "Hai thằng quỷ kia, ta năn nỉ không chịu đi bây giờ thật hả dạ". Rồi đi ra cổng, kế quay vào nói "Anh rể đi rồi, hai con quỷ bị bắt buộc sau yên ngựa, chắc cha không sao đâu. Anh rể nói trở về sẽ thưa với Đại vương xin cho cha mẹ sống lâu trăm tuổi", cả nhà đều mừng rỡ.

Đến đêm thì Lý đỡ bệnh, qua vài ngày thì khỏi hẳn. Bèn rước thầy về dạy học cho, đứa nhỏ rất thông minh, mười tám tuổi được vào học trường huyện, vẫn thường nói chuyện dưới âm ty. Thấy trong làng có ai bị bệnh thì chỉ rõ nơi ma quỷ trốn núp, lấy lửa thiêu đất, ai cũng khỏi bệnh. Về sau nó bị bệnh nặng, người sưng phù lên, da chỗ xanh chỗ tím, tự nói là quỷ thần phạt ta về tội tiết lộ chuyện âm ty, từ đó trở đi không nói gì nữa. Cô Tư Họ Hồ (Hồ Tứ Thư)

Thượng sinh người Thái Sơn (tỉnh Son Đông), ở một mình nơi nhà học. Gặp đêm mùa thu, sông Ngân vằng vặc, trăng sáng giữa trời, sinh bồi hồi dưới bóng hoa, nghĩ ngợi vẩn vơ. Chợt có cô gái trèo tường vào, cười nói "Tú tài nghĩ gì lung thế?". Sinh tới gần nhìn thấy nàng xinh đẹp như tiên, mừng quýnh ôm lấy dìu vào, thả sức ân ái. Nàng tự xưng họ Hồ tên Tam Thư, hỏi nhà ở đâu chỉ cười không nói. Sinh cũng không căn vặn, chỉ hẹn gắn bó với nhau dài lâu mà thôi, từ đó đêm nào nàng cũng tới.

Một đêm nàng cùng sinh ngồi kề gối dưới đèn trước màn, sinh âu yếm nhìn không chớp. Cô gái cười hỏi "Sao cứ nhìn thiếp chằm chằm thế", sinh nói "Nàng như hồng dược bích đào, dù nhìn suốt đêm cũng không chán". Cô gái nói "Thiếp xấu xí mà chàng còn để vào mắt xanh, nếu gặp em Tư nhà thiếp thì không biết chàng điên đảo tới đâu". Sinh càng động lòng, hận là chưa được một lần thấy mặt, bèn quỳ xuống nài nỉ. Đêm sau quả nhiên nàng dắt Tứ Thư cùng tới, thấy tuổi mới cập kê, như cánh sen đượm sương, đóa hạnh khói tỏa, nụ cười chúm chím vô cùng quyến rũ. Sinh mừng quýnh mời ngồi, khi Tam Thư cùng sinh cười nói chuyện trò thì Tứ Thư chỉ cúi đầu mân mê giải thắt lưng thêu mà thôi. Giây lát Tam Thư đứng lên cáo biệt, cô em định theo về thì sinh kéo lại không chịu buông, nhìn qua Tam Thư nói "Ái khanh, phiền nàng nói giùm một tiếng". Tam Thư cười nói "Chàng cuồng yêu quýnh lên rồi, em hãy ở lại một lúc".

Tứ Thư không nói gì, người chị bèn ra về. Hai người cùng nhau ân ái rất vui sướng, kế gối đầu lên tay nhau kể hết mọi chuyện về mình không hề giấu diếm. Tứ Thư tự nói là hồ nhưng sinh say mê sắc đẹp nên cũng không lấy làm lạ. Tứ Thư nhân nói "Chị thiếp tàn độc, nghiệp căn là phải giết ba người, ai bị thị ấy dụ dỗ đều phải chết. Thiếp may được chàng đoái thương nên không nỡ nhìn chàng bị hại, hãy sớm dứt tình với chị ấy đi" Sinh sợ hãi xin chỉ cách, Tứ Thư nói "Thiếp tuy là hồ nhưng học được chính pháp của tiên, vẽ một lá bùa dán lên cửa phòng thì có thể cự tuyệt chị ấy", rồi vẽ ra luôn. Sáng sớm Tam Thư tới nhìn thấy lá bùa liền lui lại nói "Con nhãi phụ ơn, hết lòng với tân lang mà không nhớ tới bà mối. Hai người các ngươi có duyên phận với nhau, ta cũng không thù oán gì, nhưng cần gì phải làm như thế!", rồi bỏ đi.

Vài hôm sau Tứ Thư có việc, hẹn đi vắng một đêm. Hôm ấy sinh ngẫu nhiên ra ngoài đi dạo, dưới chân núi vốn có đám cây kiều mộc, chợt thấy một thiếu phụ từ trong đám cây xanh tốt bước ra, cũng khá xinh đẹp, tới cạnh sinh nói "Tú tài cần gì phải quyến luyến chị em họ Hồ, họ thì không có một đồng để tặng", rồi lập tức đưa cho sinh một quan, nói "Chàng cứ đem về trước mua rượu ngon, thiếp sẽ đem một ít thức ăn tới cùng chàng vui chơi".

Sinh đem tiền về, làm như lời dặn, giây lát quả nhiên thiếu phụ tới, đặt lên bàn một con gà quay, một vai lợn muối, rút dao thái nhỏ ra rồi cùng ăn uống đùa giỡn rất vui vẻ. Kế tắt đèn lên giường ôm ấp mơn trớn vô cùng buông thả. Sáng ra vừa dậy, đang ngồi ở đầu giường mang giày chợt nghe có tiếng chân, đang còn lắng nghe thì đã vào tới bên màn, té ra là chị em họ Hồ. Thiếu phụ nhìn thấy hai người hoảng sợ chạy trốn, bỏ lại đôi giày cạnh giường. Hai nàng đuổi theo mắng "Con chồn dâm đãng dám ngủ với người ta à?", đuổi theo hồi lâu mới quay lại. Tứ Thư giận sinh, nói "Chàng không khá được! Đã chung chạ với con chồn dâm đãng thì không thể gần gũi nữa!" rồi tức tối bỏ đi. Sinh hoảng sợ xin lỗi, năn nỉ khẩn khoản rất thảm thiết, Tam Thư đứng bên cũng lựa lời khuyên giải Tứ Thư mới nguôi giận, từ đó lại thương yêu nhau như trước.

Một hôm có người ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây) cưỡi lừa tới cổng, nói "Ta tìm yêu quái không phải một sớm một chiều, hôm nay mới gặp" Cha sinh thấy lời nói lạ lùng liền hỏi duyên do, người ấy đáp "Tiểu nhân ngày ngày lênh đênh nơi khói sóng, rong chơi khắp bốn phương, một năm hơn mười tháng thì vắng nhà đến tám chín nên em trai bị bọn yêu quái giết hại. Khi trở về rất đau xót căm hờn, đã thề phải tìm diệt chúng bằng hết, nhưng lặn lội mấy ngàn dặm mà chưa thấy dấu vết. Hiện chúng đang ở nhà ông, nếu không diệt đi thì sẽ bị hại như em ta" Lúc ấy cha mẹ đã hơi biết chuyện sinh lén lút dan díu với cô gái nên nghe khách nói thế rất sợ, bèn mời vào nhà xin làm phép diệt trừ yêu quái. Khách lấy ra hai cái bình đặt xuống đất, niệm chú hồi lâu thì có bốn làn khói đen bay tới chia nhau chui vào bình. Khách mừng nói "Cả nhà nó đều vào đây cả rồi" rồi lấy bong bóng lợn bịt miệng bình, buộc lại thật chặt. Cha sinh cũng mừng, cố mời khách ở lại ăn cơm. Sinh trong lòng thương xót, lại gần bình nghe trộm thì nghe Tứ Thư trong bình nói "Nỡ ngồi nhìn không cứu, sao chàng bạc tình thế". Sinh càng mủi lòng vội mở miệng bình nhưng dây buộc chặt không sao cởi được. Tứ Thư lại nói "Đừng làm thế, chỉ cần hất đổ lá cờ trên đàn cúng, lấy kim châm thủng một lỗ trên lớp bong bóng là thiếp ra được". Sinh làm theo lời, quả nhiên thấy một sợi khói trắng chui qua lỗ kim bay lên trời đi luôn. Khách ra thấy lá cờ đổ xuống đất, cả sợ nói "Nó trốn mất rồi, đây ắt là do công tử làm thôi" Kế lắc bình, ghé tai nghe rồi nói "May là chỉ có một con trốn thoát, con ấy không đáng tội chết, có thể tha được", rồi mang bình đi.

Về sau sinh đang coi gặt lúa ngoài đồng, nhìn ra xa thấy Tứ Thư ngồi dưới gốc cây bèn tới gần cầm tay ân cần thăm hỏi. Nàng đáp "Xa nhau chốc đã mười năm. Nay tu luyện đã thành, chỉ vì chưa quên lòng chàng nên lại tới thăm một lần" Sinh muốn nàng cùng về, nàng nói "Thiếp nay không phải như xưa, không thể vương vào tình ái cõi trần được nữa, sau này sẽ còn gặp nhau" nói xong biến mất.

Lại hơn hai mươi năm, sinh đang ở nhà một mình thì Tứ Thư từ ngoài bước vào, sinh mừng rỡ cùng trò chuyện. Nàng nói "Thiếp nay đã được ghi tên vào sổ tiên, lẽ ra không nên trở lại cõi trần, nhưng cảm lòng chàng nên tới kính báo cho chàng biết thọ kỳ đã hết, hãy sớm thu xếp việc nhà. Cũng đừng lo buồn, thiếp sẽ độ trì cho làm quỷ tiên, cũng không khổ đâu" rồi từ biệt mà đi. Đến ngày, sinh quả nhiên qua đời. Thượng sinh là người thân thích của bạn ta là Lý Văn Ngọc, ta cũng từng gặp. Ông Già Họ Chúc (Chúc Ông)

Thôn Chúc ở huyện Tế Dương (tỉnh Sơn Đông) có ông họ Chúc hơn năm mươi tuổi bệnh chết. Người nhà về phòng lo may tang phục, bỗng nghe tiếng ông kêu rất gấp, vội chạy tới trước linh sàng thì thấy ông đã sống lại. Mọi người mừng rỡ xúm lại hỏi han, ông chỉ nói với vợ "Ta vừa đi, đã định không trở lại, nhưng đi được mấy dặm nghĩ bỏ một mình thân già bà lại cho lũ con, ấm lạnh đều phải cậy vào người khác cũng không còn sinh thú, chẳng bằng cùng đi với ta nên quay lại đưa bà đi". Có người cho là ông mới sống lại nói mê sảng nên không tin, ông lại nhắc lại. Bà vợ nói "Như thế cũng hay, nhưng đang sống làm sao chết ngay được?". Ông vẫy lại nói "Chuyện đó không khó, bà cứ thu xếp những việc lặt vặt trong nhà mau đi". Bà vợ cười không chịu đi, ông lại giục, bà bèn ra ngoài cửa một lúc rồi quay vào nói "Đã thu xếp xong cả rồi" ông bảo đi thay quần áo tử tế bà không đi, ông càng hối thúc, bà không nỡ trái ý bèn vào thay quần áo trở ra, con gái con dâu đều bịt miệng cười. Ông dời đầu qua một bên gối, vỗ tay lên bảo nằm xuống bên cạnh. Bà vợ nói "Con cái đứng cả đây mà nằm sóng đôi nhau thì ra cái gì!" Ông đập tay xuống giường nói "Vợ chồng cùng chết với nhau thì có gì đáng cười?".

Đám con cái thấy cha nổi giận cũng khuyên mẹ tạm chiều. Bà theo lời, cũng ghé đầu xuống gối nằm cứng đờ, người nhà đều phì cười. Lát sau thấy bà tắt dần nụ cười, hai mắt nhắm lại, hồi lâu im lặng như đã ngủ hẳn, mọi người mới tới gần xem thì da thịt đã lạnh mà tắt hơi rồi, xem tới ông cũng thế. Năm Khang Hy thứ 21 (1683) người em dâu ông họ Chúc tới làm thuê ở nhà quan Thứ sử họ Tất* kể lại rất rõ ràng.

* Thứ sử họ Tất: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Tế Hữu, tự Tải Tích, người Truy Xuyên Sơn Đông, làm quan tới chức Thượng thư bộ Hộ nhà Minh.

Dị Sử thị nói: Ông già này là kẻ có nết lạ chăng? Suối vàng xa xăm mà đi lại đều do mình, lạ thật! Vả lại muốn người vợ già cùng đi thì về gọi, sao mà ung dung thế! Người lúc sắp chết vốn không nỡ chia tay mà ông thì nói thầm với vợ trên giường, nếu nhiều người làm được như vậy thì không phải lo lắng nhiều về hậu sự vậy! Hiệp Nữ (Hiệp Nữ)

Cố sinh người Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), tài giỏi mà nghèo khó, lại có mẹ già nên không nỡ đi xa, ngày ngày viết liễn vẽ tranh nuôi thân, hai mươi lăm tuổi vẫn lẻ loi chưa có vợ. Trước cửa vẫn có một tòa nhà bỏ không, chợt một bà già và một nữ lang tới thuê ở, sinh thấy nhà không có đàn ông nên không hỏi là ai. Một hôm sinh về nhà, thấy cô gái từ phòng mẹ bước ra, khoảng mười tám mười chín tuổi, dáng dấp xinh đẹp, thế gian ít có. Nàng thấy sinh cũng không tránh né gì lắm, nhưng ý tứ có vẻ lạnh lùng. Sinh vào hỏi, mẹ nói "Ấy là cô gái ở trước mặt nhà ta qua mượn kéo và thước may, vừa rồi nói chuyện nhà nàng cũng có một bà mẹ già. Ta xem mẹ con họ không phải hạng nhà nghèo, hỏi sao không lấy chồng thì nàng nói vì còn có mẹ già. Ngày mai ta qua làm quen với mẹ nàng, nhân dò ý thử, nếu họ không đòi hỏi nhiều thì con nuôi giùm mẹ nàng luôn".

Hôm sau bà qua thăm, thì mẹ cô gái là một bà già nghễnh ngãng, nhìn trong nhà thấy không có gạo để qua đêm, hỏi làm nghề gì thì ra chỉ sống nhờ mười ngón tay của con gái. Dần dà đem ý ở chung để hỏi thì bà già có vẻ bằng lòng, nhưng bàn với cô gái thì nàng im lặng như không muốn. Mẹ sinh bèn về kể rõ rồi ngờ vực nói "Hay nàng chê nhà mẹ con ta nghèo chăng? Người đâu không nói cũng không cười, xinh đẹp như đào ly mà lạnh lùng như sương tuyết, thật kỳ lạ". Mẹ con bàn tán than thở với nhau rồi bỏ qua.

Một hôm sinh ngồi trong phòng sách thì có thiếu niên tới nhờ vẽ tranh, dáng mạo rất đẹp trai, ý tứ có vẻ không đúng đắn, sinh hỏi từ đâu tới thì đáp là ở làng bên cạnh. Từ đó cứ hai ba ngày lại tới chơi một lần, dần dần quen thuộc đùa giỡn, sinh ôm ấp mơn trớn cũng không chống cự gì lắm, bèn tư thông với nhau, nhân đó lui tới ngày càng thân mật. Gặp lúc cô gái qua, thiếu niên đưa mắt nhìn theo hỏi là ai, sinh đáp là con gái nhà láng giềng. Thiếu niên nói "Xinh đẹp như thế mà thần thái sao dễ sợ quá". Lát sau sinh vào nhà trong, mẹ nói "Mới rồi nàng qua vay gạo, nói bếp không nổi lửa trọn ngày rồi. Nàng chí hiếu mà nghèo khổ đáng thương, ta nên giúp đỡ chút ít". Sinh vâng lời mang một đấu gạo qua nói rõ ý mẹ, cô gái nhận nhưng cũng không cảm ơn.

Hàng ngày nàng qua nhà sinh, thấy mẹ sinh may áo khâu giày là may vá hộ, ra vào làm giúp việc nhà như là vợ. Sinh càng biết ơn, có thức ăn ngon là chia phần đưa qua biếu mẹ nàng, nàng cũng không hề cảm tạ. Gặp lúc mẹ sinh bị mụn nhọt ở chỗ kín, sớm tối rên la, cô gái cứ tới cạnh giường thăm hỏi, rửa ráy thoa thuốc cho, mỗi ngày ba bốn lần, mẹ sinh áy náy không yên lòng nhưng nàng không nề bẩn thỉu hôi hám. Mẹ sinh nói "Ôi, làm sao ta có được đứa con dâu như cháu để nuôi dưỡng thân già này đến chết", nói xong khóc tấm tức. Cô gái an ủi nói "Lang quân đại hiếu, còn sung sướng hơn cảnh con côi mẹ góa nhà cháu gấp ngàn lần!". Mẹ sinh nói "Những việc lặt vặt bên giường thế này thì có phải đứa con trai hiếu thảo làm nổi đâu. Vả lại ta đã già, sớm tối sương nắng chưa biết thế nào nên rất lo vì chưa có cháu nối dõi". Đang nói thì sinh bước vào, mẹ khóc nói "Mẹ làm phiền nương tử đây nhiều lắm, con đừng quên đền ơn". Sinh vái lạy tạ ơn, cô gái nói "Chàng kính mến mẹ ta mà ta không cảm tạ, sao chàng lại tạ ơn ta?" Từ đó sinh càng kính yêu nhưng thái độ của nàng vẫn cứng cỏi, không có chỗ nào có thể suồng sã được.

Một hôm nàng ra tới cửa, sinh nhìn theo đăm đăm, nàng bỗng quay lại nhìn sinh mỉm cười. Sinh mừng quá lòng mong mỏi, liền đuổi theo vào tới nhà nàng, chọc ghẹo nàng cũng không chống cự, lại vui vẻ cùng sinh giao hoan. Kế dặn sinh rằng "Chuyện này chỉ một lần thôi, không có tới hai đâu". Sinh im lặng ra về, hôm sau lại hẹn hò, cô gái nghiêm sắc mặt không đếm xỉa tới mà bỏ đi thẳng. Hàng ngày nàng qua lại sinh cũng thường gặp, nhưng nàng vẫn giữ vẻ nghiêm nghị từ sắc mặt tới lời nói, hơi tỏ ý đùa cợt thì nàng lập tức trở nên lạnh lùng. Chợt gặp nhau ở chỗ vắng, nàng hỏi thiếu niên thường ngày tới chơi là ai, sinh kể rõ, nàng nói "Y mấy lần tỏ vẻ vô lễ với thiếp rồi, nhưng vì chàng thân mật với y nên thiếp bỏ qua, xin nhắn với y rằng nếu còn như vậy là không muốn sống nữa đấy!".

Thiếu niên tới, sinh kể lại rồi nói "Anh nên cẩn thận, nàng ta thì không thể phạm vào đâu. Thiếu niên nói "Đã không thể phạm thì sao anh lại phạm?". Sinh ra sức biện bạch là không có, thiếu niên nói "Nếu không có thì sao những lời đùa cợt của ta lại tới tai anh được?". Sinh không đáp được thiếu niên nói "Ta cũng phiền anh nhắn với cô ta là đừng làm ra vẻ, nếu không ta sẽ rêu rao khắp nơi đấy". Sinh giận dữ ra mặt, thiếu niên mới đi. Một đêm sinh đang ngồi một mình chợt cô gái tới cười nói "Ta với chàng tình duyên chưa dứt, há không phải số trời sao?". Sinh mừng quýnh ôm lấy nàng, chợt nghe có tiếng giày lẹp kẹp, hai người hoảng sợ vùng dậy thì thiếu niên đã đẩy cửa bước vào. Sinh sửng sốt hỏi "Anh định làm gì?", thiếu niên cười nói "Ta tới xem con người trinh tiết thôi!", rồi quay qua cô gái nói "Hôm nay không mắng người à?" Cô gái đỏ mặt dựng ngược lông mày im lặng không nói gì, chỉ phanh áo ngoài để lộ ra một cái túi da, theo tay tuốt ra thì là một thanh chủy thủ sáng loáng dài ngót một thước. Thiếu niên trông thấy sợ hãi bỏ chạy, đuổi theo ra cửa nhìn quanh thì đã biến mất. Cô gái phóng ngọn chủy thủ lên không nghe vút một tiếng, lóe sáng như chiếc cầu vồng bay đi, chớp mắt có vật rơi huỵch xuống đất, sinh vội cầm đèn ra soi thì là một con chồn trắng, đầu một nơi mình một nẻo. Cô gái nói "Đó là thằng nhãi đẹp trai của chàng đấy. Ta vẫn muốn tha, nhưng tự nó không muốn sống nữa thì làm sao được", rồi thu đao cất lại vào túi. Sinh kéo trở vào, nàng nói "Mới rồi bị con vật này làm mất hứng, xin hẹn đêm mai", rồi ra cửa đi thẳng.

Đêm sau nàng quả tự tới cùng sinh ân ái, hỏi về thuật lạ thì nàng nói "Đó không phải là điều chàng biết được, nên giữ cho kín, tiết lộ ra e không phải là chuyện hay cho chàng đâu. Sinh bàn chuyện cưới hỏi, nàng nói "Đầu gối tay ấp rồi, nấu cơm gánh nước rồi, không phải vợ chồng thì là gì? Đã là vợ chồng mà còn nói chuyện cưới hỏi sao?". Sinh nói "Hay là nàng chê ta nghèo?", nàng đáp "Chàng nghèo thì thiếp giàu sao? Cuộc gặp gỡ đêm nay chính vì thương chàng nghèo đó thôi". Lúc chia tay lại dặn "Việc chung lén này không nên làm mãi. Thấy nên thì thiếp tự tới, không thì đừng ép nhau vô ích". Sau đó gặp nhau sinh cứ lần khân muốn nói chuyện riêng nhưng cô gái đều tránh đi, có điều việc cơm nước vá may nàng đều lo toan như là vợ sinh thật vậy.

Mấy tháng sau mẹ nàng mất, sinh hết sức lo việc mai táng. Cô gái từ đó còn có một mình, sinh nghĩ vắng vẻ có thể gạ gẫm bèn trèo tường vào đứng ngoài cửa sổ gọi mấy lần không thấy đáp, nhìn tới cửa thì nhà vắng người mà then vẫn cài. Sinh ngờ nàng hẹn hò với ai khác nên tối lại tới nhưng nàng cũng đi vắng, bèn tháo miếng bội ngọc đặt ở cửa sổ rồi đi. Qua hôm sau gặp nhau ở phòng mẹ, kế sinh đi ra, nàng theo sau nói "Chàng ngờ thiếp ư? Người ta ai cũng có tâm sự riêng không thể nói ra, nay muốn chàng hết ngờ thì làm sao cho được. Nhưng hiện có chuyện gấp nhờ chàng lo giùm". Sinh hỏi chuyện gì, nàng đáp "Thiếp có thai tám tháng rồi, e sớm tối là sinh nở. Thân phận thiếp chưa rõ ràng nên chỉ có thể sinh con chứ không thể nuôi con cho chàng. Vậy chàng nói kín với mẹ để tìm vú nuôi, cứ nói là con nuôi chứ đừng nói là con của thiếp".

Sinh theo lời kể với mẹ, mẹ cười nói "Lạ thật, cô gái này hỏi cưới thì không chịu mà lại tình nguyện hiến thân cho con ta!", rồi vui mừng sửa soạn để chờ. Lại hơn tháng sau, cô gái mấy hôm lỉền không ra ngoài, mẹ sinh ngờ vực tới nhà dò xét, thấy vắng vẻ yên ắng, gõ cửa hồi lâu mới thấy nàng đầu tóc rối bù mặt mũi lem luốc từ trong đi ra mở cửa cho bà vào rồi đóng lại ngay. Vào trong phòng thì đứa nhỏ mới sinh đã nằm trên giường. Bà giật mình hỏi sinh nở bao lâu rồi, nàng đáp đã ba hôm, mở tã ra xem thì ra là con trai, mặt vuông trán rộng. Bà mừng nói "Con đã sinh cho già cháu nội rồi, nhưng lênh đênh một mình định nương dựa vào đâu". Nàng nói "Nỗi riêng trong lòng không dám tỏ bày với mẹ, hãy đợi đến tối mà bế cháu về". Bà về kể chuyện cho sinh nghe, mẹ con cùng lấy làm lạ, đến đêm qua bế đứa nhỏ về.

Mấy hôm sau, lúc gần nửa đêm, cô gái chợt gõ cửa bước vào, tay xách cái túi da cười nói "Việc lớn xong rồi, từ nay xin vĩnh biệt". Sinh vội hỏi duyên cớ, nàng đáp "Cái ơn chàng nuôi mẹ không lúc nào quên. Trước đây nói một lần chứ không có hai vì nghĩ chuyện báo đền không phải ở chỗ cùng chăn gối. Thấy chàng nghèo không cưới vợ được nên muốn giúp chàng kéo dài dòng dõi, vốn nghĩ chỉ một lần là có kết quả, không ngờ lại thấy tháng nên phải phá giới mà ăn nằm lần thứ hai. Nay ơn chàng đã trả, chí thiếp đã toại, không ân hận gì nữa". Hỏi vật gì trong túi nàng nói "Cái đầu của kẻ thù". Sinh mở xem thấy râu tóc bờm xờm, máu me bê bết sợ quá lại hỏi đầu đuôi, cô gái nói "Trước kia không nói với chàng vì việc lớn mà không kín đáo e bị tiết lộ. Nay việc đã xong, nói ra cũng không sao. Thiếp là người đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), cha làm quan Tư mã bị kẻ thù hãm hại, tịch thu hết sản nghiệp. Thiếp dẫn mẹ già đi trốn, mai danh ẩn tích đã ba năm rồi. Sở dĩ không trả thù ngay chỉ vì mẹ còn sống, khi mẹ qua đời lại vướng hòn máu của chàng trong bụng nên đến nay mới ra tay được. Đêm trước thiếp đi vắng không có chuyện gì khác, chỉ vì đường lối cửa ngõ chưa thuộc nên e bị lầm lẫn" Nói xong đi ra cửa, lại dặn "Nên chăm sóc con cho khéo, chàng phúc mỏng không thọ nhưng đứa nhỏ này có thể làm rạng rỡ cửa nhà. Đêm khuya không thể quấy rầy mẹ, thôi ta đi đây".

Sinh đang buồn rầu định hỏi đi đâu thì cô gái như ánh chớp lướt đi, trong nháy mắt không thấy đâu nữa. Sinh thở than thương tiếc đứng ngẩn ra như mất hồn. Hôm sau kể chuyện cho mẹ nghe, chỉ còn cùng nhau thở than khen lạ mà thôi. Ba năm sau quả nhiên sinh chết, đứa con năm mười tám tuổi thi đỗ Tiến sĩ, phụng dưỡng bà nội đến già.

Dị Sử thị nói: Người ta ắt trong phòng có kẻ nữ hiệp thì về sau mới có thể nuôi được con hay, nếu không thì chỉ là người này thích heo nọc già còn người kia thích heo đực con của người này mà thôi*.

*Người này thích... mà thôi: nguyên văn 1à "Nhĩ ái kỳ ngải gia, bỉ ái nhĩ lũ trư hĩ", ý nói một người muốn có chồng còn một người muốn có con trai nối dõi. Bạn Rượu (Tửu Hữu)

Xa sinh nhà không khá giả mấy nhưng thích uống rượu, đêm đến mà không uống thật say thì không ngủ được, nên vò rượu ở đầu giường ít khi rỗng không. Một đêm chợt tỉnh, trở mình thấy như có người cùng nằm ngủ chung, nghĩ là cái màn rơi xuống. Đưa tay sờ, thấy rõ ràng có con vật giống con mèo mà lớn hơn, thắp đèn nhìn thì là con chồn uống rượu say nằm phục xuống đó, nhìn tới vò rượu thì đã cạn sạch. Sinh cười nói "Đây là bạn rượu của ta, không nỡ làm nó sợ!". Bèn đắp thêm chăn cho nó, lại nằm xuống bên cạnh nhưng vẫn để đèn chờ xem động tĩnh. Đến nửa đêm con chồn duỗi ra như tỉnh dậy, sinh cười nói "Ngủ ngon chứ hả?" Giở chăn ra nhìn, thì một nho sĩ tuấn tú đứng lên vái lạy trước giường, tạ ơn không giết.

Sinh nói "Ta có tật thích rượu, người ta cho là ngu si, ông là người tri kỷ của ta, nếu không ngờ vực hãy làm bạn rượu với nhau. Kế lại lên giường cùng ngủ, sinh nói "Ông cứ tới đây thường, đừng nghi ngại gì", hồ hứa sẽ tới. Khi sinh tỉnh dậy thì hồ đã đi, bèn mua một vò rượu lớn để đợi. Đến tối quả nhiên hồ tới, cùng ngồi xếp bằng uống rượu với nhau rất vui vẻ. Hồ tửu lượng rất cao, lại khéo đùa giỡn, nên hai người đều hận là gặp nhau quá muộn. Hồ nói "Mấy lần uống rượn nhờ, không biết lấy gì báo đáp?". Sinh đáp "Vui vẻ với nhau là chính, một đấu rượu có đáng cái gì". Hồ nói "Nhưng ông là học trò nghèo, kiếm tiền mua rượu rất không dễ, phải tính cách giúp ông mới được"

Đêm hôm sau tới nói "Từ đây đi về phía đông nam bảy dặm, cạnh đường có tiền rơi nên tới sớm mà nhặt". Mờ sáng sinh ra đi, quả nhặt được hai đồng tiền vàng, bèn mua thức ăn ngon thêm vào bữa rượu đêm. Hồ lại nói "Phía sau nhà có tiền thôn nên đào lên". Sinh theo lời, quả đào được hơn trăm quan tiền, mừng nói "Trong túi đã có tiền, không phải buồn nỗi thiếu rượu nữa rồi". Hồ nói "Không phải vậy, nước trong vũng làm sao có thể vốc uống mãi được? Phải cùng nhau tính cách thôi".

Ngày khác, hồ nói với sinh "Hạt hướng dương ngoài chợ rất rẻ, đó là món hàng quý có thể tích trữ". Sinh nghe theo, gom mua tới hơn bốn mươi thạch, ai thấy cũng cười. Nhưng ít lâu sau trời đại hạn, lúa đậu đều khô cháy, chỉ có hướng dương là trồng được, sinh đem bán hướng dương cho người ta làm hạt giống, lãi gấp chục lần vốn mua. Từ đó giàu lên, mua hai trăm mẫu ruộng tốt, chỉ hỏi hồ mà trồng trọt, trồng lúa nếp thì trúng lúa nếp, trồng lúa tẻ thì trúng lúa tẻ, mọi việc gieo cấy sớm hay muộn đều theo lời hồ. Hồ ngày càng thân với sinh, gọi vợ sinh là chị, coi con sinh như con. Sau sinh chết, hồ thôi không tới nữa. Liên Hương (Liên Hương)

Tang sinh tên Hiểu tự Tử Minh là người huyện Nghi Châu (tỉnh Sơn Đông), mồ côi từ nhỏ, dạy học ở phố Hồng Hoa. Sinh là người lặng lẽ yên phận, mỗi ngày hai lần qua nhà láng giềng ăn cơm, ngoài ra chỉ ngồi lì ở nhà mà thôi. Người bạn nhà láng giềng tình cờ ghé chơi, đùa nói "Ông ở một mình mà không sợ hồ quỷ à?". Tang cười đáp "Trượng phu sợ gì hồ quỷ. Con đực tới thì ta có gươm sắc, con cái tới thì sẽ mở cửa mời vào".

Bạn về bàn với người quen, cho một kỹ nữ bắc thang trèo qua tường gõ cửa. Sinh nhìn ra hỏi là ai, người kỹ nữ tự xưng là ma. Sinh sợ quá run cầm cập, người kỹ nữ quanh quẩn một lúc rồi bỏ đi. Sáng sớm người bạn nhà láng giềng tới, sinh kể lại rồi nói muốn về quê, bạn vỗ tay cười hỏi "Sao không mở cửa mời vào?". Sinh sực hiểu là giả nên lại ở yên như cũ.

Được nửa năm có cô gái đang đêm tới gõ cửa, sinh cho là bạn lại trêu ghẹo liền mở cửa mời vào, thì là một mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành, kinh ngạc hỏi từ đâu tới. Cô gái đáp "Thiếp là Liên Hương, kỹ nữ bên xóm tây". Nguyên trên phố vốn có nhiều thanh lâu nên sinh tin là thật, bèn tắt đèn lên giường, yêu đương cực kỳ âu yếm. Từ đó cứ năm ba ngày nàng lại tới một lần.

Một đêm sinh đang ngồi một mình nghĩ ngợi thì có một thiếu nữ lãng đãng bước vào Sinh cho là Liên Hương nên bước ra chào hỏi, nhưng nhìn mặt thì không phải, thấy khoảng mười lăm mười sáu tuổi, tay áo tha thướt, mái tóc buông rủ, dáng vẻ phong nhã xinh đẹp, bước chân nửa như muốn tới nửa như muốn lui, sinh hết sức kinh ngạc, ngờ là hồ. Nàng nói "Thiếp là con nhà lương dân, họ Lý, hâm mộ chàng cao nhã, mong được đoái tuởng". Sinh mừng rỡ cầm tay nàng, thấy lạnh như băng liền hỏi sao lạnh thế, nàng đáp "Tấm thân yếu đuối đơn hàn lại dầm sương đêm làm sao không lạnh". Kế cởi bỏ quần áo thì rõ ràng còn là xử nữ. Nàng nói "Thiếp vì tình duyên mà tấm thân nhỏ nhoi này một sớm không giữ được nữa, nếu chàng không chê là xấu xí hèn hạ thì xin được thường hầu hạ chăn gối. Trong nhà chàng không có ai khác chứ?". Sinh đáp "Không có ai khác, chỉ có một kỹ nữ ở cạnh đây nhưng cũng không tới thường" Cô gái nói "Thế thì phải tránh mặt, thiếp không thể ví như hạng kỹ nữ. Xin chàng giữ kín đừng tiết lộ, cứ cô ta tới thì thiếp đi, cô ta đi thì thiếp tới là được".

Khi gà gáy nàng muốn ra đi, tặng sinh một chiếc giày thêu, nói "Đây là vật thiếp mang dưới chân, mân mê cũng đủ bớt nhớ nhung, nhưng có người khác thì cẩn thận đừng lấy ra". Sinh cầm xem thấy cong cong nhỏ tí, trong lòng rất thích. Qua đêm sau nhân lúc vắng người lấy ra ngắm nghía vuốt ve, chợt cô gái lãng đãng bước vào, lại cùng nhau ân ái. Từ đó cứ lúc nào sinh đem chiếc giày ra là cô gái theo lòng mong mỏi tới lập tức. Sinh lấy làm lạ gạn hỏi thì nàng cười đáp "Ngẫu nhiên đúng lúc thôi".

Một đêm Liên Hương tới, sửng sốt nói "Thần sắc chàng sao tiều tụy thế?", sinh đáp là không biết. Liên Hương bèn từ biệt, hẹn mười ngày nữa sẽ tới. Sau khi Liên đi đêm nào Lý cũng tới, thường hỏi "Tình nương của chàng sao lâu quá không thấy tới?" sinh bèn nói lại lời hẹn. Lý cười hỏi "Chàng thấy thiếp với Liên Hương ai đẹp hơn?". Sinh đáp "Có thể nói cả hai đều rất đẹp, nhưng nàng Liên Hương thì da thịt ấm áp hơn". Lý biến sắc nói "Chàng nói hai người cùng đẹp chỉ là chiều lòng thiếp thôi. Chắc cô ta là người tiên trên Nguyệt điện, thiếp không bằng được". Vì thế không vui, nhân tính lại đã hết kỳ hạn mười ngày bèn dặn sinh giữ kín để nàng nhìn lén xem sao.

Đêm sau quả Liên Hương tới, nói cười rất vui vẻ, đến lúc đi ngủ hoảng sợ nói "Chết rồi, mười ngày không gặp nhau sao chàng thêm suy yếu thế này, có gặp gỡ ai phải không?" Sinh hỏi sao biết, nàng đáp "Thiếp theo thần khí của chàng mà nghiệm thôi. Mạch yếu ớt như tơ rối, đúng là bệnh ma làm". Đêm sau Lý tới, sinh hỏi thấy Liên Hương ra sao, nàng đáp "Đẹp lắm. Thiếp vốn ngờ trên đời không có ai đẹp tới mức ấy, đúng là hồ. Khi cô ta đi ra, thiếp theo sau tới tận hang ở Nam Sơn". Sinh nghi là Lý ghen nên chỉ ậm ừ, cách một đêm nữa đùa nói với Liên Hương "Ta vốn không tin đâu, nhưng có kẻ nói nàng là hồ đấy". Liên Hương hỏi ai nói thế, sinh cười đáp "Ta nói đùa thôi". Liên Hương nói "Hồ thì khác người chỗ nào?" sinh nói "Người mà bị hồ mê hoặc bệnh nặng quá thì chết, nên rất đáng sợ". Liên nói "Không phải thế, như tuổi chàng thì ba ngày sau khi ăn nằm với đàn bà tinh khí sẽ phục hồi, cho dù với hồ cũng có gì hại. Còn nếu đêm nào cũng truy hoan thì người còn hại hơn hồ nhiều. Chẳng lẽ những con ma ho lao, cái xác mòn mỏi trong thiên hạ đều ngu xuẩn chết vì hồ cả à? Tuy nhiên ắt có kẻ bình phẩm về ta rồi đây". Sinh cố phân trần là không có ai cả nhưng Liên càng ra sức gạn hỏi, sinh bất đắc dĩ phải nói thật. Liên nói "Thiếp vẫn lấy làm lạ là sao chàng suy yếu, mà sao lại mau lẹ đến thế? Hay cô ta không phải là người chăng?". Chàng cũng đừng nói gì, tối mai thiếp sẽ làm đúng như cô ta lén nhìn thiếp hôm trước vậy"

Đêm ấy Lý tới, vừa nói vài câu chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng ho hắng, vội vàng bỏ đi. Liên vào nói "Thôi chàng nguy rồi. Cô ta đúng là ma, nếu chàng còn mê sắc đẹp không dứt tình ngay đi thì đường xuống âm ty gần lắm". Sinh nghĩ nàng ghen nên im lặng không đáp. Liên lại nói "Thiếp biết ngay rằng chàng không thể dứt tình, nhưng không nỡ ngồi nhìn chàng chết, ngày mai sẽ đem thuốc tới đây để trừ âm độc cho chàng. Cũng may là gốc bệnh còn cạn, trong mười ngày sẽ khỏi, xin nằm chung giường để săn sóc đến tới khi khỏi hẳn".

Đêm sau quả nàng đem thuốc tới sắc cho sinh uống, phút chốc đi ngoài hai ba lần, thấy ruột gan mát mẻ, tinh thần sảng khoái, trong lòng rất biết ơn nàng nhưng rốt lại vẫn không tin mình bị ma làm. Liên cứ đêm đêm ngủ chung để chăm sóc, sinh muốn giao hoan thì nàng không chịu. Mấy hôm sau sinh khỏe lại rồi, nàng từ giã dặn đi dặn lại là phải dứt tình với Lý, sinh giả vâng dạ. Kế đóng cửa khêu đèn, lại đem chiếc giày ra vuốt ve mơ tưởng. Lý chợt tới, vì xa cách mấy ngày nên có nét hờn giận. Sinh nói "Cô ta suốt mấy đêm liền lo thuốc men cho ta, xin đừng giận dỗi, thương yêu là ở ta thôi", Lý mới hơi nguôi. Khi cùng nằm chung, sinh nói nhỏ "Ta rất yêu nàng, nhưng có kẻ nói nàng là ma đấy". Lý đớ lưỡi hồi lâu rồi mắng "Chắc là con chồn dâm dục nói bậy với chàng rồi. Nếu chàng không dứt tình với nó thì thiếp không tới nữa đâu, rồi khóc hu hu, sinh khuyên giải đủ cách mới nín.

Đêm sau Liên Hương tới, biết Lý lại ghé liền nổi giận nói "Chàng nhất định chết phải không?". Sinh cười đáp "Sao nàng ghen với cô ta quá thế?" Liên càng tức giận, nói "Chàng gieo mầm chết, thiếp đã trừ cho, không ghen mà được à?". Sinh đặt chuyện để đùa, nói "Cô ta nói hôm trước ta bị bệnh là do hồ gây ra đấy". Liên bèn than "Nếu như lời chàng nói thì chàng say đắm không tỉnh, vạn nhất có bề gì thì dẫu thiếp có trăm miệng cũng làm sao phân trần cho được? Vậy xin giã biệt từ đây sau trăm ngày sẽ xem chàng nằm liệt giường". Sinh cố giữ lại không được, nàng phẩy tay đi thẳng.

Từ đó đến đêm là Lý tới khoảng hơn hai tháng thì sinh thấy mỏi mệt quá, lúc đầu còn tự an ủi nhưng ngày càng kiệt sức, chỉ uống được một chén nước cháo. Muốn về quê dưỡng bệnh mà còn bịn rịn với Lý không nỡ đi ngay, cứ thế thêm vài ngày thì bệnh nặng không sao dậy nổi. Người bạn láng giềng thấy sinh yếu quá, ngày ngày sai học trò trong trường lo lắng cơm nước cho. Sinh lúc ấy mới nghi ngờ Lý, nhân nói với Lý rằng "Ta hối hận không nghe lời Liên Hương nên mới tới nông nỗi này". Nói xong thì ngất đi, giây lát mới tỉnh, giương mắt nhìn quanh thì Lý đã bỏ đi rồi, từ đó bặt tăm luôn. Sinh nằm một mình trong căn nhà vắng, mong đợi Liên Hương như nhà nông chờ ngày lúa chín vậy.

Một hôm đang tơ tưởng chợt có người vén rèm bước vào, thì ra là Liên Hương. Nàng tới cạnh giường, nhếch mép cười nói "Anh nhà quê, ta nói có sai đâu?". Sinh nghẹn ngào hồi lâu, tự nói đã biết tội, chỉ xin cứu cho. Liên nói "Bệnh chàng đã vào sâu trong tim phổi, thật không có cách gì cứu được, ta ghé qua để cùng chàng vĩnh biệt cho rõ là không phải ghen tuông thôi". Sinh vô cùng đau xót, nói "Dưới gối có một vật, phiền nàng xé nát giùm". Liên tìm được chiếc giày, đem ra trước đèn xoay trở ngắm nghía. Lý chợt bước vào, vừa thấy Liên Hương vội quay ra định chạy. Liên đứng chặn ngang cửa, Lý cùng đường không biết chạy đâu. Sinh trách mắng kể tội, Lý không sao đáp được. Liên cười nói "Thiếp nay mới được giáp mặt chị để đối chất. Hôm trước chị nói lang quân mắc bệnh chưa chắc không phải là thiếp gây ra, bây giờ thì sao?". Lý cúi đầu tạ tội, Liên nói "Trông xinh đẹp như thế mà đem tình yêu kết oán cừu sao?". Lý nằm phục xuống đất khóc nức nở, xin thương tình cứu giúp.

Liên đỡ dậy hỏi lai lịch, nàng nói "Thiếp là con Lý Thông phán, tuổi nhỏ chết non, chôn ngoài tường này. Tằm xuân đã chết mà mối tơ chưa dứt, gắn bó với chàng là điều thiếp mong mỏi, chứ thật lòng đâu muốn làm cho chàng chết". Liên hỏi "Nghe nói ma hay làm cho người chết để có thể gặp nhau thường phải không?" Lý đáp "Không phải thế. Hai con ma gặp nhau thì không có gì chút sung sướng, nếu sung sướng thì há dưới suối vàng lại thiếu kẻ trai tráng sao!". Liên nói "Ngốc thật, cứ đêm đêm hành dâm thì với người cũng không chịu nổi, huống chi là với ma". Lý hỏi hồ cũng hiếu dâm làm chết người chứ đâu riêng gì ma, Liên đáp "Đó là bọn hút tinh khí tu luyện nhưng thiếp không phải loại ấy. Cho nên ở đời có loại hồ không hại người, nhưng quyết không có loại ma nào không hại người, vì âm khí nặng nề vậy".

Sinh nghe nói chuyện mới biết hai người đúng là hồ và ma, nhưng vì gần gũi đã quen nên cũng không sợ hãi, song nghĩ mình hơi thở chỉ còn như sợi tơ bất giác đau lòng khóc lớn. Liên nhìn lại hỏi định xử sự với lang quân thế nào, Lý ấp úng từ tạ. Liên cười nói "Chỉ e lang quân khỏe rồi nương tử lại ghen với ta?". Lý khép nép nói "Nếu chị có tài thần y giúp thiếp khỏi mang tội với lang quân thì thiếp phải úp mặt xuống đất chứ đâu còn dám nhìn thiên hạ nữa!". Liên mở túi lấy thuốc ra nói "Thiếp đã biết trước là sẽ có hôm nay nên sau khi từ giã liền đi hái thuốc khắp các núi, suốt ba tháng mới đủ dược vị, dù bệnh nặng gần chết uống vào cũng khỏi. Nhưng vì đâu mà mắc bệnh thì phải lấy đó dẫn thuốc, nên không thể không nhờ nàng ra sức".

Lý hỏi cần giúp gì, Liên đáp "Chỉ cần một ít nước bọt từ môi son thôi. Ta sẽ đặt hoàn thuốc lên miệng chàng, phiền nàng kề môi nhổ nước bọt đưa thuốc xuống". Lý đỏ bừng cả mặt, cúi đầu quay qua ngó chiếc giày Liên hỏi "Em chỉ có chiếc giày là đắc ý thôi sao?". Lý càng thẹn, nhìn quanh như không còn mặt mũi nào, Liên nói "Đó là ngón thường ngày đã quen nay sao lại tiếc?", kế lấy thuốc đặt lên môi sinh rồi quay qua giục Lý. Lý bất đắc dĩ phải làm, Liên bảo nhổ thêm lần nữa, Lý lại làm theo, ba bốn lần thì hoàn thuốc trôi xuống cổ họng sinh. Giây lát trong bụng sinh có tiếng ùng ục như sấm, Liên cho uống một hoàn nữa, tự mình kề môi tiếp hơi cho sinh nuốt. Sinh thấy đan điền nóng ran, tinh thần phấn chấn, Liên nói "Khỏi rồi".

Lý nghe gà gáy vội vàng từ giã. Liên vì sinh vừa khỏi bệnh còn cần chăm sóc, qua láng giềng ăn cơm thì không tiện bèn đóng cổng lại khóa ngoài, giả làm ra vẻ như sinh về quê để tuyệt hết bạn bè, ngày đêm ở cạnh chăm sóc cho sinh. Lý thì đến đêm là tới, lo cơm nước rất ân cần, thờ Liên như chị, Liên cũng rất thương yêu. Được ba tháng thì sinh khỏe mạnh như cũ, Lý bèn vài đêm mới tới. Ngẫu nhiên ghé qua thì chỉ nhìn qua sinh rồi đi ngay, lúc ngồi với nhau cũng thường rầu rầu không vui. Liên thường giữ lại ngủ chung nhưng nhất định không chịu, sinh đuổi theo bế về, thấy thân thể nhẹ bổng như hình nộm. Lý không trốn được bèn để nguyên áo nằm yên, co ro còn không đầy hai thước, Liên càng thêm thương xót, lén bảo sinh ôm ấp vuốt ve nhưng lay gọi mấy cũng không tỉnh. Sinh thiếp đi, khi tỉnh dậy sờ xem thì nàng đã biến mất.

Hơn mười ngày sau Lý không tới nữa, sinh nhớ nhung tha thiết cứ đem chiếc giày ra mân mê. Liên than "Người yểu điệu như thế thiếp nhìn thấy cũng thương, huống gì là đàn ông". Sinh nói "Trước đây cứ mân mê chiếc giày là lập tức nàng tới, ta vẫn ngờ vực nhưng không ngờ nàng là ma. Nay thấy vật nhớ người, thật rất thương xót" rồi sa nước mắt.

Nguyên là nhà giàu họ Chương có con gái tên Yến Nhi, mười lăm tuổi thì bị bệnh tắc mồ hôi chết, qua đêm lại sống lại, trở dậy nhìn ngó rồi định chạy, Chương đóng chặt cửu không cho chạy ra. Cô gái nói "Ta là hồn con gái Lý Thông phán, cảm tình Tang quân thương yêu, giày ta còn để ở nhà chàng. Thật ra ta là ma thôi, ngăn cấm ta làm gì" Chương nghe lời nói có duyên do liền hỏi vì sao tới đây cô gái cúi xuống ngẩng lên cũng mịt mờ không tự hiểu. Có người nói Tang sinh bị ốm đã về quê rồi, nàng cố cãi là bịa đặt, người nhà nghe thế rất nghi ngờ. Người bạn láng giềng của sinh nghe chuyện bèn trèo tường vào nhìn, thấy sinh đang ngồi trò chuyện với một mỹ nhân liền xô cửa xông vào, đang lúc ầm ĩ thì mỹ nhân đã biến mất. Bạn hoảng sợ gạn hỏi, sinh cười nói "Lúc trước ta đã nói với ông rồi, con cái tới thì sẽ mời vào mà".

Bạn kể lại lời Yến Nhi, sinh muốn ra ngoài tới nhà họ Chương dò la nhưng khổ nỗi không có cớ. Bà Chương nghe tin quả sinh chưa về quê càng lấy làm lạ bèn sai mụ ở tới đòi chiếc giày, sinh liền đưa ra. Yến Nhi được giày rất mừng nhưng mang thử thì nhỏ hơn chân một tấc, cả sợ cầm gương soi bỗng sực hiểu ra là mình mượn xác để sống lại, nhân kể rõ lại mọi việc, bà Chương lúc ấy mới tin. Cô gái soi gương khóc lớn, nói "Mặt mũi ngày trước thấy rất tự tin mà mỗi khi gặp chị Liên còn xấu hổ, giờ đây thành ra thế này thì cứ làm ma còn hơn?". Rồi cầm chiếc giày kêu khóc không ai khuyên dỗ được, kế trùm chăn nằm yên, mang cơm tới cũng không ăn, toàn thân sưng phù. Bảy ngày liền không ăn uống mà không chết, dần dần hết phù, thấy đói quá không chịu nổi bèn ăn uống trở lại. Vài hôm sau toàn thân ngứa ngáy, da cũ lột hết, sáng ra mang giày thấy rơi ra mới so lại thì giày lớn quá, lại thử chiếc giày cũ thấy vừa khít. Mừng quá soi gương thì mặt mũi mày mắt giống hệt lúc trước, càng mừng rỡ liền rửa mặt chải đầu tới gặp mẹ, ai thấy cũng ngạc nhiên.

Liên Hương nghe chuyện lạ bèn khuyên sinh nhờ người mai mối dạm hỏi, nhưng sinh vì giàu nghèo xa cách nên chưa dám làm ngay. Vừa gặp dịp sinh nhật bà mẹ Yến Nhi, sinh theo bọn con cháu dâu rể tới chúc thọ. Bà thấy có tên sinh bèn bảo Yến Nhi đứng sau rèm nhận mặt. Sinh vào sau cùng, nàng sấn ra kéo áo đòi theo về nhà, mẹ quát mắng mới xấu hổ trở vào. Sinh nhìn kỹ rõ ràng là Lý, bất giác động lòng rơi lệ lạy phục xuống đất không đứng dậy, bà không cho là khinh mạn, bước ra đỡ lên. Sinh về năn nỉ ông cậu làm mối, bà Chương bàn cho sinh ở rể. Sinh về kể lại cho Liên Hương và bàn chuyện sính lễ. Liên buồn bã hồi lâu rồi từ biệt đi. Sinh hoảng sợ khóc lóc, Liên nói "Chàng làm đám cưới ở nhà người ta, thiếp đi theo thì còn mặt mũi nào nữa?". Sinh bàn trước hết đưa Liên về quê rồi sau sẽ cưới Yến Nhi, Liên nghe theo. Sinh đem tình thật thưa với Chương, Chương nghe nói sinh đã có vợ nổi giận chửi mắng, Yến Nhi hết sức phân trần Chương mới nghe theo.

Đến ngày sinh đi đón dâu, khi đi trong nhà chỉ xếp đặt qua loa nhưng lúc về thì từ cổng tới thềm đều trải nệm, trăm ngàn ngọn đèn lồng sáng rực bày ra như gấm. Liên Hương đỡ cô dâu vào phòng tân hôn, bỏ khăn che mặt ra, hai người thấy nhau vui mừng chuyện trò như ngày trước. Liên Hương mời rượu hợp cẩn rồi gạn hỏi chuyện lạ hoàn hồn. Yến Nhi nói "Hôm ấy uất ức buồn bã, nghĩ mình là ma rất thẹn thùng nên sau khi từ biệt phẫn uất không trở về mồ, theo gió phiêu bạt, thấy người sống nào cũng thèm, ban ngày thì nương tựa cỏ cây, ban đêm thì theo chân vất vưởng. Ngẫu nhiên tới nhà họ Chương, thấy có xác thiếu nữ nằm trên giường liền nhập luôn vào, cũng không biết là được sống lại ngay".

Liên nghe thế im lặng như có điều suy nghĩ. Hai tháng sau Liên sinh một con trai, sinh xong phát bệnh nặng, ngày càng trầm trọng, cầm tay Yến nói "Dám xin lấy đứa nhỏ làm phiền, con ta cũng như con nàng vậy". Yến sa nước mắt ân cần an ủi, bàn rước thầy thuốc nhưng Liên cứ chối từ. Bệnh Liên càng nặng, hơi thở thoi thóp, sinh và Yến Nhi đều khóc. Chợt Liên giương mắt nói "Đừng như thế, chàng vui được sống, riêng thiếp vui được chết, nếu có duyên thì mười năm sau lại gặp thôi", dứt lời thì tắt hơi. Mở chăn ra liệm thấy xác dã biến thành chồn, sinh không nỡ coi là khác loài, chôn cất rất hậu.

Đứa con tên Hồ Nhi, Yến săn sóc như con mình sinh ra, mỗi năm đến tiết Thanh minh đều bế ra mộ Liên khóc lóc. Mấy năm sau sinh đỗ thi hương, nhà cũng dần khá giả, chỉ ngặt nỗi Yến không sinh nở, mà Hồ Nhi thông minh nhưng yếu ớt nhiều bệnh nên Yến thường nghĩ tới việc mua hầu thiếp cho sinh. Một hôm chợt tỳ nữ thưa ngoài cổng có một bà già dắt con gái muốn bán. Yến gọi vào, vừa nhìn đã cả kinh nói "Chị Liên lại ra đời sao?". Sinh nhìn thấy thấy quả rất giống cũng kinh ngạc, hỏi nàng ta bao nhiêu tuổi, bà già đáp là mười bốn. Hỏi muốn bán giá bao nhiêu, bà nói "Già chỉ có mình nó là con, nếu nó được chỗ yên thân, ta cũng có cơm ăn, sau này nắm xương già không bị ném ra ngoài ngòi rạch là đủ". Sinh trả nhiều tiền, giữ bà ở lại. Yến cầm tay cô gái dắt vào phòng kín cười hỏi "Ngươi biết ta không?", nàng đáp không biết. Hỏi tên họ, nàng nói "Thiếp họ Vi, cha làm nghề bán tương ở thành Từ Châu, qua đời đã ba năm". Yến bấm đốt tay nghĩ lại thì Liên đã chết đúng mười bốn năm, lại nhìn kỹ mặt mũi dáng điệu nàng thấy đều giống hệt Liên bèn đập vào trán nàng gọi "Chị Liên, chị Liên, đã hẹn mười năm gặp lại, xin đừng dối ta!".

Cô gái chợt như tỉnh mộng, bật kêu lên "ôi!" rồi nhìn Yến Nhi chằm chằm. Sinh cười nói "Đây cũng giống chim én quen nhà về chốn cũ vậy". Cô gái sa nước mắt nói "Phải rồi. Nghe mẹ nói lại là lúc thiếp vừa sinh ra đã biết nói, nhà cho là điềm bất tường bèn lấy máu chó cho uống nên quên mất tiền duyên, nay thật đúng như vừa tỉnh mộng. Nương tử là dì Lý tủi phận làm ma đó chăng?", rồi cùng nói chuyện tiền sinh, nửa mừng nửa tủi. Một hôm vào ngày Hàn thục, Yến nói "Hàng năm đến hôm nay là ngày thiếp với lang quân khóc chị". Rồi cùng nhau tới mộ Liên, thấy cỏ hoang rậm rạp, cây cối đã vừa ôm, cô gái cũng than thở, nói với sinh rằng "Thiếp cùng chị Liên hai đời tình nghĩa, không nỡ xa nhau, nên chôn chung một huyệt".

Sinh theo lời, bốc mộ Lý lấy cốt đem về hợp táng với di cốt Liên. Bạn bè nghe chuyện lạ mặc quần áo đẹp tới dự lễ hợp táng, không hẹn mà có tới vài trăm người.

Năm Canh tuất ta đi chơi miền nam tới Nghi Châu gặp mưa dầm nghỉ lại nhà trọ, có Lưu Tử Kính là anh em cô cậu đưa cho xem tập Tang sinh truyện do bạn đồng xã là Vương Tử Chương soạn khoảng hơn vạn chữ, ta được đọc hết, đây chỉ tóm tắt ghi lại thôi.

Dị Sử thị nói: Than ôi, người chết thì cầu đưọc sống, kẻ sống lại cầu được chết, cái khó có được trên đời há không phải là thân xác con người sao? Sao có được tấm thân trọn vẹn lại bỏ mặc, đến nỗi thản nhiên mà sống chẳng bằng hồ, lặng lẽ mà chết chẳng bằng ma! A Bảo (A Bảo)

Tôn Tử Sở người Việt Tây là danh sĩ, sinh ra có ngón tay thừa, tính viễn vông thật thà, ai lừa cũng tin là thật, ai mời dự tiệc mà có ca kỹ thì nhìn thấy từ xa đã bỏ chạy. Có người biết thế dụ tới, cho kỹ nữ ôm ấp thì mặt đỏ tới cổ, mồ hôi ròng ròng. Họ vì vậy buồn cười, nhại lại dáng vẻ ngây ngốc của sinh đặt lời chế nhạo, gọi là "Tôn ngây".

Nhà buôn lớn trong huyện là ông Mỗ, giàu ngang bậc vương hầu, thông gia họ hàng đều là nhà quý hiển, có con gái tên A Bảo rất xinh đẹp đến tuổi gả chồng. Các nhà đại gia tranh nhau đưa sính lễ tới dạm hỏi nhưng ông đều không vừa ý. Tôn bấy giờ góa vợ, có người đùa khuyên nên cậy mối đến hỏi. Sinh hoàn toàn không xét mình, quả nhiên theo lời. Ông vốn nghe tiếng sinh nhưng chê nghèo, bà mối ra thì gặp A Bảo hỏi, bà ta kể lại. Cô gái đùa nói "Y chặt bỏ ngón tay thừa đi thì ta sẽ về theo". Bà mối kể lại, sinh nói "Không khó". Bà ta về rồi, sinh lấy búa chặt ngón tay thừa, đau thấu cả ruột, máu chảy lênh láng suýt chết, qua mấy ngày mới dậy được, qua nhà bà mối cho xem. Bà ta hoảng sợ chạy qua nói với cô gái. Nàng cũng lấy làm lạ, nhưng đùa nói ráng xin bỏ cái ngây đi. Sinh nghe thế cãi ầm lên, nói mình không ngây, nhưng không sao làm rõ cho được. Bèn đổi sang nghĩ rằng A Bảo chưa chắc đã đẹp như tiên, sao tự đánh giá mình quá cao như thế, từ đó lòng mong ước cũng nguội lạnh.

Gặp tiết Thanh minh, theo tục lệ thì hôm ấy phụ nữ ra ngoài đi chơi, đám thiếu niên khinh bạc cũng họp bọn đi theo mặc tình bình phẩm. Có đám bạn học lôi kéo sinh đi, có kẻ đùa nói "Lại không muốn xem mặt người mình thích sao?" Sinh cũng biết là nói đùa, nhưng vì đã bị cô gái coi thường nên cũng muốn biết mặt một lần, bèn vui vẻ theo họ đi tìm. Thấy xa xa có một cô gái nghỉ dưới gốc cây, đám trai trẻ suồng sã vây quanh như bức tường, mọi người nói "Đó ắt là A Bảo" Rảo bước tới xem thì quả là Bảo, nhìn kỹ thấy xinh đẹp có một không hai. Một lát người xem càng đông, cô gái đứng dậy vội vàng bỏ đi. Mọi người đều say mê khen tóc khen chân, nhao nhao như điên, chỉ riêng sinh im lặng. Đến lúc cả bọn đã tan đi, ngoái nhìn thấy sinh vẫn đúng ngây ra ở chỗ cũ, gọi thì không đáp. Mọi người kéo đi nói "Hồn theo A Bảo rồi à?", cũng không đáp. Họ biết tính sinh vốn lẩn thẩn nên cũng không lấy làm lạ, người xô kẻ kéo dẫn về.

Đến nhà sinh lên ngay giường nằm, cả ngày không dậy, thiêm thiếp như say rượu, gọi cũng không tỉnh. Người nhà ngờ là hồn đi lạc, ra gọi hồn ngoài đồng trống song vô hiệu, đập mạnh hỏi thì ú ớ nói "Ta ở nhà cô Bảo", hỏi kỹ thì lại im lặng không đáp, người nhà phát hoảng không hiểu thế nào. Vốn khi sinh thấy cô gái bỏ đi thì lòng không nỡ dứt, thấy mình đi theo, dần dần sát tới vạt áo dây lưng cũng không ai la mắng, bèn theo nàng về nhà, ngồi nằm đều dựa kề một bên, đêm về lại ôm ấp vuốt ve, rất lấy làm thích, nhưng thấy trong bụng đói quá, muốn trở về nhà mà quên mất cả đường. Cô gái cứ nằm mơ thấy giao hoan với một người, hỏi tên thì đáp "Ta là Tôn Tử Sở", lấy làm lạ nhưng không thể nói ra với ai. Sinh nằm ba ngày, hơi thở chỉ còn thoi thóp, người nhà hoảng sợ nhờ người tới lấy lời mềm mỏng nói với cha cô gái xin tới nhà để gọi hồn sinh. Ông Mỗ cười nói "Trước nay không từng qua lại, làm sao mất hồn ở nhà ta được?", năn nỉ mãi ông mới chịu.

Thầy đồng cầm áo mặc và chiếu nằm của sinh qua, cô gái gặp hỏi biết chuyện, hoảng sợ không cho đi tìm chỗ khác mà dẫn thẳng vào phòng mình, cho mặc ý kêu gọi rồi ra. Thầy đồng vừa về tới cổng thì ở sinh trên giường đă rên lên. Khi tỉnh dậy thì đồ vật hộp phấn trong phòng cô gái màu gì tên gì đều kể ra vanh vách. Cô gái nghe chuyện lại càng hoảng sợ, thầm cảm thâm tình của sinh. Sinh khi đi lại được rồi thì đứng ngồi đều trầm tư như đãng trí, cứ dò tin tức A Bảo, chỉ mong gặp lại.

Đến ngày Phật đản nghe tin nàng sẽ dâng hương ở chùa Thủy Nguyệt, sinh dậy thật sớm ra đợi bên đường, mỏi mòn trông ngóng, đến giữa trưa cô gái mới tới. Nàng ngồi trong nhìn ra thấy sinh, lấy bàn tay búp măng vén rèm nhìn đăm đăm, sinh càng xao xuyến bèn đi theo. Nàng bỗng sai tỳ nữ tới hỏi tên họ, sinh nói rõ cả, lòng càng say mê. Xe đi rồi mới quay về, tới nhà lại mắc bệnh trở lại, nằm thiêm thiếp không ăn không uống, trong giấc mơ cứ gọi tên A Bảo, thường giận vì hồn mình không thiêng nữa.

Trong nhà vốn có nuôi một con vẹt, bỗng lăn ra chết, đứa nhỏ cầm chơi trên giường. Sinh nghĩ nếu mình được làm con vẹt thì có thể vỗ cánh bay đến phòng cô gái ngay. Lòng đang mơ tưởng thì thấy mình đã là con vẹt, liền bay thẳng tới phòng A Bảo. Cô gái mừng rỡ bắt lấy, buộc cánh lại lấy hạt vừng cho ăn. Vẹt kêu to "Đừng buộc, ta là Tôn Tử Sở đây!". Cô gái kinh hãi, mở dây cũng không bay, bèn khấn "Tình sâu đã khắc trong lòng, nhưng nay người và chim khác loài, làm sao tròn được nhân duyên?" Chim nói "Được gần vóc thơm là đủ mãn nguyện rồi". Người khác cho mồi thì không ăn, cô gái cho mới ăn, nàng ngồi thì đậu trên gối, nàng nằm thì đậu cạnh giường. Như thế ba ngày, cô gái rất thương, lén sai người qua thăm dò thì sinh đã nằm cứng đờ tắt thở đã ba ngày, chỉ trên ngực còn hơi ấm thôi. Nàng lại khấn rằng "Nếu chàng trở lại làm người thì xin theo đến chết". Chim nói "Lừa ta đấy!", cô gái bèn thề thốt, chim nghiêng đầu nhìn như suy nghĩ. Lát sau nàng bó chân, cởi giày để dưới giường. Vẹt sà xuống ngậm giày bay đi, nàng vội gọi lại thì đã bay xa rồi. Nàng sai bà đầy tớ qua thăm dò thì sinh đã tỉnh. Người nhà thấy con vẹt ngậm chiếc giày thêu bay về rơi xuống đất chết, đều đang lạ lùng. Sinh vừa tỉnh là hỏi ngay tới chiếc giày, mọi người đều không biết vì sao. Vừa lúc bà đầy tớ tới, vào thăm sinh, hỏi chiếc giày đâu, sinh nói "Đó là vật làm tin của A Bảo, nhờ về nhắn hộ rằng tiểu sinh không dám quên lời vàng đá".

Bà già về thưa lại, cô gái càng lấy làm lạ bèn bảo tỳ nữ kể lại sự tình cho mẹ. Mẹ hỏi lại thấy đúng bèn nói "Y tài danh cũng không tệ, có điều nghèo quá. Kén chọn mấy năm lại được rể như thế, e các nhà quý hiển cười cho" Cô gái lấy cớ chiếc giày thề không lấy người khác. Ông bà chiều lòng, cho người báo với sinh, sinh mừng khỏi bệnh ngay. Ông bàn cho sinh ở rể, nàng nói "Con rể không thể ở lâu tại nhà cha vợ, huống chàng lại nghèo, càng ở lâu càng bị coi thường. Con đã theo chàng thì ở nhà tranh nhà lá cũng cam lòng, ăn rau lê rau hoắc cũng không oán trách". Sinh bèn làm lễ cưới, vui mừng như qua kiếp khác được gặp lại nhau.

Từ đó nhà sinh nhờ có của hồi môn của nàng cũng hơi dư dật, mua thêm ruộng đất. Nhưng sinh mê sách, không biết sai bảo người nhà làm lụng, được cô gái khéo buôn bán nên cũng không phiền sinh phải lo tới việc nhà. Được ba năm nhà giàu thêm, bỗng sinh mắc bệnh tiêu khát mà chết. Cô gái khóc lóc rất đau thương, bỏ ăn bỏ ngủ, không sao khuyên giải được. Nhân lúc đêm khuya nàng thắt cổ tự tử, đứa tỳ nử biết được vội cứu nên tỉnh lại, nhưng vẫn không chịu ăn uống. Ba hôm sau mời họ hàng tới để liệm sinh, nghe trong quan tài có tiếng rên, mở ra thì sinh đã sống lại. Sinh kể khi ra mắt Diêm Vương, vì bình sinh thành thật chất phác nên được cho làm Bộ tào. Chợt có người bẩm vợ Bộ tào họ Tôn sắp tới, Diêm Vương tra sổ rồi nói người ấy chưa đáng chết, người kia lại bẩm đã bỏ ăn ba ngày rồi, Diêm Vương ngoảnh lại nói cảm vì vợ ngươi tiết nghĩa nên cho sống lại rồi sai lính thắng ngựa đưa về. Từ đó bình phục dần.

Gặp năm có kỳ thi hương, trước khi vào trường bọn thiếu niên đùa cợt, cùng nghĩ ra bảy đề bài hiểm hóc, kéo sinh ra chỗ vắng nói riêng là nhờ quen biết với nhà đại gia nọ, xin đưa kín cho nhau. Sinh tuởng thật, đêm ngày mài miệt làm thành bảy bài, mọi người cười thầm. Năm ấy quan Chủ khảo nghĩ rằng ra đề quen thuộc thì thường có cái tệ sao chép văn cũ, bèn cố sức thay đổi cho khác hẳn. Giấy đầu bài phát ra đều đúng bảy đề nọ, nhờ vậy sinh đỗ Thủ khoa. Năm sau đỗ Tiến sĩ, được bổ chức Hàn lâm. Vua nghe chuyện lạ triệu vào hỏi, sinh khải tấu, vua rất khen ngợi, lập tức triệu A Bảo vào bệ kiến, tặng thưởng rất nhiều.

Dị Sử thị nói: Tính ngây thì chí ngưng, nên kẻ mê sách thì văn ắt hay, kẻ mê nghề thì tài ắt khéo. Những người lận đận không thành công trên đời đều tự cho rằng mình không ngây, nhưng những kẻ ham sắc đẹp mất nghiệp, mê cờ bạc khuynh gia thì là ngây việc người chăng? Từ đó đủ biết kẻ trí tuệ khôn lanh mà phạm lỗi mới đúng là ngây thật, chứ Tôn Tử Sở kia thì có gì ngây đâu!

Nhiệm Tú (Nhiệm Tú)

Nhiệm Kiến Chi ngươi đất Ngư Đài (tỉnh Sơn Đông), làm nghề buôn áo lông chiên, mang hết tiền bạc tới Thiểm Tây. Trên đường gặp một người tự xưng là Thân Trúc Đình quê ở Túc Thiên (tỉnh Giang Tô), trò chuyện rất hợp ý bèn kết làm anh em, cùng đi với nhau. Tới đất Thiểm Nhiệm mắc bệnh không dậy nổi, Thân chăm sóc rất chu đáo, nhưng hơn mười hôm thì bệnh càng nặng, bèn nói với Thân "Nhà ta vốn không giàu có, tám miệng ăn đều trông vào một người dãi nắng dầm sương. Nay ta bất hạnh chết ở quê người, chỉ có ông là anh em, chứ ngoài hai ngàn dặm có ai đâu. Trong túi ta còn hơn hai trăm lượng vàng, ông lấy một nửa mua quan tài khâm liệm cho ta và làm tiền đi đường, còn một nửa để lại cho vợ con ta, chở giúp quan tài về quê cho. Nếu nắm xương tàn về được tới quê nhà, thì tất cả nhũng hành lý khác không nói tới nữa". Rồi gượng ngồi dậy viết thư đưa Thân, đến đêm thì chết.

Thân lấy năm sáu lượng bạc mua chiếc quan tài xấu, tẫn liệm xong chủ trọ cứ hối thúc đưa đi. Thân nói thác là để tìm nơi chùa quán xin quàn tạm rồi trốn luôn không quay lại. Hơn năm sau gia đình Nhiệm mới được tin đích xác. Con trai Nhiệm tên Tú, năm ấy mười bảy tuổi, đang còn đi học nhưng vì cha mất phải thôi, muốn đi tìm quan tài cha. Mẹ thương con còn nhỏ, Tú khóc lóc muốn chết đi, mẹ bèn cầm bán đồ dùng lấy tiền, sai lão bộc đi cùng Tú, nửa năm mới về tới. Sau khi chôn cất xong, nhà nghèo không còn chút gì, may là Tú thông minh, hết tang xong được vào học trường huyện Ngư Đài.

Nhưng Tú tính lêu lổng thích cờ bạc, mẹ răn dạy rất nghiêm mà chứng nào tật ấy. Một hôm quan Học sứ về khảo hạch, Tú bị xếp hạng chót, mẹ uất ức khóc lóc bỏ ăn. Tú sợ hãi thẹn thùng, vào thề trước mặt mẹ, từ đó đóng cửa học tập hơn một năm, liền được xếp hạng ưu, cấp cho tiền gạo. Mẹ bảo Tú mở trường dạy học, nhưng rốt lại người ta vẫn dè bỉu vì việc Tú lêu lổng trước kia. Có người chú họ là Trương Mỗ buôn bán ở kinh tới rủ cùng đi, xin đưa Tú theo làm bạn, bao nhiêu phí tổn xin chịu hết, Tú mừng rỡ đi theo.

Tới Lâm Thanh (thuộc tỉnh Sơn Đông) ghé thuyền ngoài cửa quan. Lúc ấy thuyền buôn muối khắp nơi về tụ họp ở đó, cột buồm san sát như rừng. Tú đi nằm mà nghe tiếng nước vỗ, tiếng người nói cứ ì oạp râm ran, không sao ngủ được. Đến khuya chợt nghe thuyền bên cạnh có tiếng gieo xúc xắc rào rào, đâm ra ngứa nghề. Lắng nghe khách khứa trong thuyền đều đã ngủ say, lục túi lấy ra một ngàn đồng tiền định qua thuyền kia chơi một phen. Nhưng rón rén đứng lên mở túi cầm tới tiền rồi lại ngần ngừ, nhớ lời mẹ răn dạy lại thắt túi lại.

Vào giường nằm ngủ mà trong dạ bồn chồn không sao ngủ được, lại ngồi dậy cởi túi ra, cứ thế mấy lần, chợt thấy hăng lên không sao nhịn được nữa bèn cầm tiền qua thẳng thuyền kia. Vào tới khoang thì thấy hai người đang đánh bạc với nhau, tiền bạc đầy cả chiếu, bèn đặt tiền lên ghế ngồi vào cùng chơi. Hai người kia vui mừng, liền cùng gieo xúc xắc. Tú thắng lớn, một người khách hết sạch cả tiền bèn lấy đỉnh vàng lớn cầm cho chủ thuyền lấy hơn mười quan chơi tiếp. Đang lúc say máu sát phạt lại có một người bước vào thuyền, đứng nhìn hồi lâu rồi dốc túi ra trăm lượng vàng cầm cho chủ thuyền lấy tiền, ngồi vào cùng chơi.

Nửa đêm Trương tỉnh dậy, không thấy Tú trên thuyền, nghe tiếng gieo xúc xắc thì biết ngay, bèn qua thuyền bên cạnh, định gây sự để cản cháu. Tới nơi thì thấy dưới chân cháu tiền bạc chất đống như núi bèn không nói gì nữa, chỉ mang vài ngàn đồng quay về, gọi mọi người thức dậy qua vác tiền, chỉ để lại hơn mười ngàn trên chiếu bạc. Không bao lâu cả ba người khách đều thua, tiền bạc trong cả thuyền đều hết sạch. Khách muốn chơi bằng vàng, nhưng Tú thấy đã thắng nhiều rồi, bèn lấy cớ phải chơi bằng tiền để từ chối. Trương đứng bên cạnh lại cứ giục về.

Ba người khách cay cú, chủ thuyền tham món tiền xâu bèn qua thuyền khác vay giùm hơn một trăm ngàn đồng tiền. Khách có tiền đánh càng lớn, không bao lâu lại mất sạch về tay Tú. Trời đã sáng, chèo qua cửa quan rồi bèn cùng nhau vác tiền về thuyền, ba người khách cũng ra đi. Chủ thuyền nhìn lại số vàng hơn hai trăm lượng họ cầm thì đều là tro tàn, cả kinh tìm qua thuyền Tú kể lại, ý muốn Tú bồi thường, đến khi hỏi họ tên quê quán, biết là con trai Nhiệm Kiến Chi thì rụt cổ toát mồ hôi trở về.

Tú hỏi người chung quanh mới biết chủ thuyền chính là Thân Trúc Đình. Lúc Tú tới Thiểm Tây đã biết rõ tên họ y, đến đây vì ma quỷ đã rửa hờn nên cũng không hỏi tới oán cũ nữa. Bèn lấy số tiền ấy chung vốn cùng Trương lên kinh buôn bán, tròn năm thì thu lãi gấp mười. Bèn theo lệ nộp tiền mua chức Giám sinh, lại càng buôn may bán đắt, trong vòng mười năm trở nên giàu có đứng đầu một vùng. Trương Thành (Trương Thành)

Họ Trương ở đất Dự (tỉnh Hà Nam), tổ tiên là người đất Tề (tỉnh Sơn Đông). Lúc quân Tĩnh Nạn* nổi lên, đất Tề đại loạn, vợ bị bắt đi. Trương vì vẫn lui tới đất Dự bèn ở luôn lại đó lấy vợ người đất Dự, sinh con trai là Nột. Không bao lâu vợ chết, lại lấy vợ kế, sinh con trai là Thành. Vợ kế họ Ngưu tính hung dữ, rất ghét Nột, nuôi như đầy tớ, cho ăn toàn rau, bắt đi đốn củi, mỗi ngày đòi phải đủ một gánh, không đủ thì đánh đập mắng nhiếc không sao chịu nổi. Chỉ cất giấu những thức ngon cho Thành ăn, sai tới trường học chữ.

*Quân Tĩnh Nạn: năm Kiến Văn thứ 2 (1400), Minh Huệ đế thấy các phiên vương phạm pháp định diệt trừ, Yên vương Chu Đệ là con thứ tư của Minh Thái tổ nhân đó nổi dậy kéo về vây kinh đô, tự xưng là quân dẹp nạn (Tĩnh Nạn binh), đánh đuổi Huệ đế tự lập làm vua, tức Minh Thành tổ.

Thành dần lớn lên, tính hiếu hữu, không nỡ thấy anh vất vả, lén khuyên can mẹ nhưng mẹ không nghe. Một hôm Nột vào núi đốn củi, chưa xong thì gặp mưa to gió lớn phải núp vào dưới vách núi. Mưa tạnh thì trời đã tối, đói quá bèn gánh củi về. Mẹ xem củi thấy ít, tức giận không cho ăn, bụng đói như thiêu vào phòng nằm vật ra. Thành đi học về thấy anh thẫn thờ hỏi ốm à, Nột đáp "Đói thôi". Thành hỏi nguyên do, Nột nói rõ sự tình. Thành buồn rầu bước ra, lát sau mang bánh vào cho anh. Anh hỏi bánh ở đâu ra, Thành nói "Em lấy trộm bột nhờ chị hàng xóm làm bánh giùm, cứ ăn đi đừng nói gì nữa". Nột ăn xong dặn em rằng "Từ sau đừng làm thế nữa, lộ ra thì liên lụy đến em. Vả lại ngày nhịn ăn một bữa thì có đói cũng không chết mà". Thành nói "Anh vốn yếu sức thì làm sao đốn củi nhiều được?".

Hôm sau ăn xong lén vào núi tới chỗ anh đốn củi. Anh nhìn thấy giật mình hỏi định làm gì, Thành đáp định hái củi giúp anh. Anh hỏi ai bảo làm thế, Thành đáp "Em tự tới thôi". Anh nói "Không kể là em không biết đốn củi, dẫu biết đi nữa thì cũng không nên!", rồi giục về ngay. Thành không nghe, cứ tay bẻ chân đạp hái củi giúp anh, lại nói ngày mai phải đem búa theo. Anh lại gần ngăn cản thì thấy ngón tay bị toạc, giày bị rách, buồn rầu nói "Em không về cho mau thì anh lấy búa tự chặt cổ mà chết đấy". Thành bèn về, anh đưa tới nửa đường mới quay lại đốn củi tiếp. Khi về ghé vào trường dặn thầy học rằng "Em ta còn nhỏ, thầy nên răn cấm chứ cọp beo trong núi dữ lắm". Thầy nói trước giờ Ngọ không biết Thành đi đâu, đã phạt đòn rồi. Nột về nói với Thành "Không nghe lời anh nên bị phạt đòn đấy". Thành cười nói không sao.

Hôm sau lại xách búa vào núi, anh hoảng sợ nói "Anh đã bảo em đừng tới, sao lại còn làm thế". Thành không đáp, cứ hăm hở chặt củi, mồ hôi chảy ròng ròng xuống mặt vẫn không nghỉ, khoảng đủ một ôm thì im lặng ra về. Thầy lại trách phạt, Thành bèn nói thật. Thầy khen là hiền, cũng không ngăn cấm nữa. Anh nhiều lần bảo thôi nhưng rốt lại Thành vẫn không nghe. Một hôm hai anh em cùng vài người đốn củi trong núi thì chợt có con cọp tới, mọỉ người sợ hãi nằm mọp xuống, cọp vồ Thành mang đi. Cọp mang người nên đi chậm, bị Nột đuổi kịp, hết sức chém một búa trúng đùi. Cọp đau quá vùng chạy không đuổi tìm được nữa, Nột đau xót kêu khóc quay về. Mọi người an ủi, Nột càng khóc lóc thảm thiết, nói "Em ta chẳng phải như em người khác, huống chi nó vì ta mà chết, ta làm sao sống được?". Bèn lấy búa tự chặt vào cổ, mọi người vội can thì đã đứt sâu vào thịt một tấc, máu phụt ra lênh láng, hoa mắt ngất đi. Mọi người sợ hãi xé áo buộc vết thương cho rồi xúm lại dìu về. Mẹ khóc chửi "Ngươi giết con ta, lại muốn chặt cổ để thoát tội à?" Nột rên rỉ nói "Xin mẹ đừng lo phiền, em chết thì ta quyết không sống đâu".

Đặt lên giường, vết thương đau đớn không ngủ được, ngày đêm cứ ngồi dựa vào tường mà khóc. Cha sợ Nột cũng chết, lúc lúc tới cạnh giường đút cho ăn uống qua loa, Ngưu thị lại chửi rủa. Nột bèn không chịu ăn nữa, ba ngày thì chết. Trong làng có thầy đồng xuống âm ty về, Nột gặp giữa đường bèn kể lể nỗi khổ trước đây, nhân hỏi chỗ em ở. Thầy đồng nói không biết, rồi quay lại dẫn Nột đi. Tới một nơi đô hội, thấy một người mặc áo đen trong thành ra, thầy đồng giữ lại hỏi thăm giùm, người áo đen xem kỹ lại tập trát trong túi thấy có hơn một trăm đàn ông đàn bà nhưng không có ai họ Trương. Thầy đồng ngờ rằng ở tập trát khác, người áo đen nói "Con đường này thuộc về ta, làm sao có chuyện bắt lầm?" Nột không tin, ép thầy đồng đưa vào thành. Trong thành ma cũ ma mới đi lại đông đúc, cũng có người quen cũ nhưng tới hỏi đều không ai biết.

Chợt mọi người cùng nhao nhao nói Bồ Tát tới, ngẩng nhìn thấy trong mây có một người to lớn, ánh hào quang rực rỡ khắp trên dưới, chợt cảm thấy trời đất quang đãng. Thầy đồng chúc mừng nói "Đại Lang có phúc thật! Bồ Tát mấy ngàn năm mới xuống âm ty một lần để rửa sạch khổ não, đúng hôm nay lại được gặp", rồi kéo Nột quỳ xuống. Bọn quỷ cũng nhao nhao quỳ xuống chắp tay cùng tụng niệm, tiếng "Từ bi cứu khổ" vang rền. Bồ Tát lấy cành dương nhúng nước cam lộ rẩy khắp nơi, li ti như bụi sương. Giây lát hơi mù tan đi, hào quang thu lại thì không thấy Bồ Tát ở đó nữa. Nột thấy trên cổ thấm ướt cam lộ, chỗ búa chặt không còn đau nữa. Thầy đồng lại theo đường cũ đưa Nột về, khi nhìn thấy cổng làng mới từ biệt mà đi.

Nột chết đã hai ngày chợt sống lại, kể lại nhũng việc đã gặp, nói Thành chưa chết, mẹ cho là bịa đặt lại mắng chửi. Nột oan ức không biết làm sao giãi bày, sờ tới vết thương thì đã lành, cố gượng đứng dậy chào cha, nói "Con sẽ băng mây vượt biển tìm em, nếu không thấy thì đừng mong con quay về, xin cha cứ coi như con đã chết". Cha đưa ra chỗ vắng cùng nhau khóc lóc, không dám giữ lại. Nột bèn ra đi, cứ theo đường lớn hỏi thăm tin tức em. Giữa đường tiền ăn hết sạch, phải ăn mày mà đi. Hơn một năm tới Kim Lăng, áo quần rách rưới lần mò trên đường, chợt thấy hơn mười kỵ mã đi qua liền tránh sang vệ đường. Trong bọn có một người như quan lớn, tuổi khoảng bốn mươi, lính mạnh ngựa khỏe xúm xít trước sau. Có một thiếu niên cưỡi con ngựa nhỏ, mấy lần nhìn Nột. Nột thấy là công tử con quan chưa dám ngẩng nhìn, thiếu niên dừng roi ghìm ngựa, chợt xuống ngựa gọi to "Có phải anh ta không?". Nột ngước nhìn kỹ thì ra là Thành, nắm tay đau xót khóc lạc cả tiếng. Thành cũng khóc nói "Sao anh phải lưu lạc đến thế này?". Nột kể sự tình, Thành càng đau xót. Bọn kỵ mã đều xuống hỏi duyên do rồi bẩm lại với quan lớn. Quan sai bớt ra một con ngựa chở Nột, cùng nhau về nhà mới hỏi chuyện tường tận.

Trước là cọp tha Thành đi đặt ở vệ đường lúc nào không biết, nằm giữa đường suốt một đêm. Gặp lúc Trương Thiên hộ từ kinh đô tới đi ngang qua, thấy Thành mặt mày nho nhã, thương xót vực lên vỗ về. Thành dần sống lại, nói nhà cửa quê quán thì đã quá xa, nên chở Thành cùng về bó thuốc cho, vài ngày thì khỏi. Thiên hộ không có con trai nên nhận Thành làm con, đại khái hôm đó là gặp lúc Thành theo ông dạo chơi. Thành kể lại với anh xong thì Thiên hộ vào, Nột lạy tạ không thôi. Thành vào trong lấy áo lụa ra biếu anh rồi bày rượu trò chuyện.

Thiên hộ hỏi quý gia ở đất Dự có đông người không, Nột nói "Không có mấy người. Cha ta lúc nhỏ là người đất Tề, tới ngụ ở đất Dự" Thiên hộ "Ta cũng người Tề, quý quán thuộc hạt nào?". Nột đáp "Từng nghe cha ta nói thuộc huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông)" Thiên hộ giật mình hỏi "Cùng quê với ta rồi, thế tại sao lại tới ở đất Dự?". Nột nói "Mẹ già bị quân bắt đi, cha ta gặp binh lửa mất sạch cả gia sản, vì trước từng buôn bán ở miền Tây, qua lại đã quen nên ở luôn lại đó. Thiên hộ lại giật mình hỏi lệnh tôn tên gì, Nột đáp rõ. Thiên hộ tròn mắt nhìn rồi cúi đầu như ngờ vực, bước mau vào nhà trong.

Không bao lâu Thái phu nhân ra, mọi người lạy chào xong, bà hỏi Nột "Ngươi là cháu nội Trương Bính Chi phải không?". Nột thưa "Phải". Thái phu nhân khóc lớn nói với Thiên hộ "Đây là em ngươi đấy!", anh em Nột không hiểu ra sao. Thái phu nhân nói "Ta lấy cha các ngươi ba năm, lưu lạc sang Bắc, thuộc về quan Chỉ huy Mỗ, được nửa năm sinh anh ngươi. Lại nửa năm thì Chỉ huy chết, anh ngươi nhờ phụ ấm thăng lên chức quan này, nay giải chức rồi vẫn canh cánh nhớ quê hương, đã lấy lại họ cũ, nhiều lần cho người tới đất Tề hỏi thăm mà không có tin tức gì, có biết đâu là cha ngươi đã dời sang miền Tây!". Rồi nói với Thiên hộ "Ngươi nuôi em làm con thì giảm phúc mà chết thôi". Thiên hộ nói "Trước có hỏi Thành, Thành thưa từng nói là người Tề, chắc là còn nhỏ dại nên không biết". Bèn theo tuổi xếp đặt lại, Thiên hộ bốn mươi mốt tuổi làm anh lớn, Thành mười sáu tuổi là út, Nột hai mươi thì là anh lớn mà thành anh hai. Thiên hộ được hai em mừng lắm, ăn ngủ đều có nhau, biết hết nguyên do chia lìa lưu lạc, tính chuyện trở về. Thái phu nhân sợ bà vợ kế không dung, Thiên hộ nói "Dung được thì ở chung, nếu không thì ở riêng, chứ trong thiên hạ có nước nào mà lại không có tình cha con".

Rồi đó bán nhà đất sắm hành lý lập tức lên đường. Tới đầu làng Nột và Thành chạy về trước báo tin cho cha. Cha từ lúc Nột bỏ đi, vợ cũng chết, chỉ còn một ông già góa vợ một mình một bóng. Chợt thấy Nột vào, mừng đến thảng thốt, đang còn giật mình lại nhìn thấy Thành, mừng quá không nói nên lời, nước mắt giàn giụa. Hai người nói mẹ con Thiên hộ tới, ông nín khóc ngạc nhiên không biết là vui hay buồn, đứng ngẩn người ra.

Không bao lâu Thiên hộ vào, lạy chào xong Thái phu nhân nắm lấy tay ông nhìn nhau cùng khóc. Kế thấy tôi tớ trai gái đứng đầy trong ngoài, người ngồi kẻ đứng, không còn biết làm gì nữa. Thành không thấy mẹ liền hỏi mới biết mẹ đã chết, gào khóc muốn đứt hơi, một lúc mới tỉnh lại. Thiên hộ lấy tiền ra xây dựng lầu gác, đón thầy về dạy hai em học, ngựa hí ran trong tàu, người ồn ào trong nhà, nghiễm nhiên là một đại gia.

Dị Sử thị nói: Ta nghe hết chuyện này, mấy lần sa lệ. Thấy đứa trẻ hơn mười tuổi đốn củi giúp anh, cảm khái nói "Lại thấy lại Vương Giám* chăng?", đó là một lần. Tới đoạn cọp tha Thành đi không kìm được bật kêu ầm lên "Đạo trời mịt mờ như thế sao!", đó là một lần. Tới đoạn anh em bất ngờ gặp nhau thì mừng mà cũng sa lệ. Tới đoạn thêm được một người anh, lại thêm một nỗi đau lòng, thì sa lệ vì Thiên hộ. Tới đoạn một nhà sum họp, kinh ngạc bất ngờ, mừng rỡ bất ngờ, bỗng dưng sa lệ vì người cha. Không biết đời sau có ai mau nước mắt như ta hay không!

*Vương Giám: Hậu Hán thư, Vương Tường truyện chép Vương Tường chí hiếu nhưng mẹ kế rất độc ác luôn hành hạ. Em cùng cha khác mẹ của Tường là Giám rất thương anh, lúc nhỏ thấy anh bị đánh đập thì ôm mẹ kêu khóc, khi lớn có lần biết mẹ toan cho anh uống rượu độc thì giành lấy chén rượu toan uống. Mẹ mấy lần toan đầu độc Tường, Giám biết cứ ăn uống chung với anh, mẹ sợ con chết đành thôi Xảo Nương (Xảo Nương)

Quảng Đông có nhà thế gia họ Phó hơn sáu mươi tuổi sinh được một trai tên Liêm, rất thông minh nhưng bị trời hoạn, mười bảy tuổi mà dương vật chỉ mới bằng con tằm. Xa gần biết chuyện, không nhà nào chịu gả con gái cho, tự nghĩ dòng dõi đã tuyệt, ngày đêm lo lắng nhưng không biết làm sao. Liêm theo thầy đọc sách, thầy ngẫu nhiên đi vắng, gặp lúc ngoài cửa có gánh xiếc khỉ, Liêm ra xem bỏ cả học. Đến chừng đoán thầy sắp về, sợ hãi bèn bỏ trốn.

Rời nhà được mấy dặm thấy một nữ lang áo trắng dắt đứa tỳ nữ nhỏ đi phía trước, một lần nàng quay lại, thấy xinh đẹp không ai sánh được. Nàng đi chậm lại, Liêm đi vượt lên thì nàng quay qua nói với đứa tỳ nữ "Thử hỏi xem lang quân có tới Quỳnh Châu (huyện thuộc Quang Đông) không". Đứa tỳ nữ gọi lại hỏi, Liêm hỏi có việc gì. Cô gái đáp "Nếu đi Quỳnh Châu thì có lá thư phiền chàng tiện đường đưa giúp về nhà. Mẹ già ta ở nhà cũng là người hiếu khách". Liêm lúc ra đi vốn cũng chưa định đi đâu, nghĩ ra biển cũng hay, bèn nhận lời. Cô gái rút thư đưa tỳ nữ trao cho sinh. Hỏi họ tên quê quán thì nàng đáp là họ Hoa, ở làng gái Tần cách phía bắc thành ba bốn dặm.

Sinh đáp thuyền đi, tới phía bắc huyện thành Quỳnh Châu thì trời đã tối, hỏi thăm thôn gái Tần lại không ai biết. Đi về hướng bắc bốn năm dặm thì trăng sao hiện sáng, cỏ dại mút mắt, đồng không chẳng có quán trọ, rất là mệt mỏi. Nhìn thấy một ngôi mộ bên đường, muốn nghỉ lại nhưng sợ thú dữ bèn leo lên cây ngồi. Nghe tiếng thông reo xào xạc, côn trùng tỉ tê, trong lòng thảng thốt, hối hận vô cùng. Chợt nghe có tiếng người phía dưới, cúi nhìn thì rõ ràng là một nơi đình viện, có một cô gái xinh đẹp ngồi trên phiến đá, hai tỳ nữ xõa tóc cầm đèn lồng đứng hai bên. Người đẹp quay qua bên trái nói "Đêm nay trăng sáng sao thưa, gói trà cô Hoa vừa tặng có thể đem pha một ấm uống ngắm cảnh đêm thanh". Sinh nghĩ là ma quỷ, rùng mình sởn ốc khống dám thở mạnh. Chợt đứa tỳ nữ ngẩng nhìn nói "Trên cây có người" Cô gái giật mình đứng vụt dậy nói "Đứa lớn mật nào dám tới đây nhìn trộm thế!". Sinh cả sợ, không còn chỗ trốn đành tụt xuống, phục xuống đất xin tha. Cô gái tới gần nhìn qua chợt đổi giận làm vui, kéo dậy cùng ngồi. Sinh liếc nhìn, thấy nàng khoảng mười bảy mười tám, vẻ người xinh đẹp có một, nghe giọng nói cũng không phải người ở đây. Nàng hỏi chàng đi đâu, sinh đáp có người nhờ đưa giúp lá thư. Nàng nói "Đồng hoang nhiều người xấu, nằm sương rất đáng lo, nếu không hiềm nhà tranh, mời vào nghỉ tạm", rồi đưa sinh vào nhà.

Chỉ có một chiếc giường, nàng sai con hầu sắp hai tấm chăn lên. Sinh thẹn mình xấu xa xin nằm dưới đất, nàng cười đáp "Khách quý đến nhà, con gái đâu dám nằm cao". Sinh bất đắc dĩ phải nằm chung giường, nhưng trong lòng sợ sệt không dám trở mình. Giây lát cô gái luồn tay qua chăn xoa nhẹ vào đùi sinh, sinh giả như ngủ say không biết. Lát sau nàng lại mở chăn ra chui qua lay, sinh vẫn nằm yên không động. Nàng bèn sờ xuống chỗ kín rồi dừng tay buồn bã, lạng lẽ giở chăn trở dậy, kế nghe tiếng khóc thút thít. Sinh xấu hổ không sao chịu nổi, chỉ giận trời bắt mình phải khuyết tật mà thôi. Cô gái gọi tỳ nữ thắp đèn, tỳ nữ thấy ngấn lệ kinh ngạc hỏi buồn khổ chuyện gì, nàng lắc đầu đáp "Ta tự xót phận mình thôi!"

Đứa tỳ nữ đứng trước giường nhìn chằm chằm, nàng nói "Gọi y dậy bảo đi đi!". Sinh nghe thế càng thêm xấu hổ, lại lo đêm hôm tối tăm không biết đi đâu. Đang nghĩ ngợi thì một người đàn bà đẩy cửa bước vào, đứa tỳ nữ nói "Cô Hoa đã về". Sinh hé mắt nhìn trộm thấy bà ta tuổi khoảng năm mươi nhưng còn phong vận. Bà thấy cô gái chưa ngủ liền hỏi duyên cớ, nàng chưa đáp, lại thấy trên giường có người nằm, bèn hỏi ai nằm cùng giường. Đứa tỳ nữ đáp thay là lúc tối có một chàng trai tới xin ngủ nhờ, bà ta cười nói "Không biết là Xảo Nương vui đuốc hoa" Chợt thấy cô gái nước mắt chưa khô, bà giật mình nói "Đêm hợp cẩn mà buồn khóc thì không hợp, không lẽ lang quân thô bạo sao?". Cô gái không đáp, càng thêm buồn bã.

Người đàn bà định kéo áo ra nhìn sinh, vừa kéo thì lá thư rơi ra giường, bà ta cầm lấy nhìn rồi hoảng sợ nói "Có lẽ là chữ con gái ta" kế mở đọc rồi thở dài. Cô gái hỏi, bà ta đáp "Đây là thư của con Ba báo tin chàng Ngô chồng nó đã chết, nay nó trơ trọi không nơi nương tựa, biết làm thế nào". Cô gái nói "Y có nói là đưa thư giúp ai đó, may mà ta chưa đuổi đi". Bà già gọi sinh dậy, hỏi rõ nguyên ủy lá thư, sinh kể rõ, bà nói "Làm phiền lặn lội xa xôi, biết lấy gì báo đáp". Lại ngắm kỹ sinh rồi cười hỏi sao lại làm trái ý Xảo Nương, sinh đáp không biết mình có tội gì. Bà lại hỏi cô gái, nàng than "Chỉ thương cho mình lúc sống lấy phải thằng chồng liệt dương, khi chết lại ngủ với đứa bị thiến, vì thế mà buồn thôi".

Bà già nhìn sinh nói "Chú nhỏ thông minh lanh lợi này là trống mà hóa ra lại là mái sao? Đây là khách của ta, không nên làm lụy người ta lâu". Liền dẫn sinh qua phòng phía đông, sờ xuống đũng quần khám rồi cười nói "Chẳng trách Xảo Nương lại khóc lóc. Nhưng may vẫn có cuống rễ, còn chữa được". Bèn khêu đèn tìm khắp rương hòm lấy ra một viên thuốc màu đen trao cho sinh bảo nuốt ngay, lại dặn nhỏ rằng đừng cử động, rồi đi ra. Sinh nằm một mình nghĩ ngợi không biết thuốc chữa bệnh gì. Khoảng canh năm tỉnh dậy, thấy dưới rốn có một luồng hơi nóng xông thẳng vào chỗ kín, lại lủng lẳng như có vật gì treo giữa hai đùi, tự sờ xem thì mình đã là đàn ông hẳn hoi, trong lòng mừng quýnh như vị quan chợt được ban cửu tích*.

*Cửu tích: chín loại vật dụng và nghi thức như xe ngựa, y phục, nhạc khí, cửu được sơn son, ra đường có quân hổ bôn hộ vệ... theo nghi lễ vương giả , ý nói được phong tước vương.

Khi ngoài song cửa sổ đã sáng thì người đàn bà bước vào đem bánh hấp cho sinh, dặn cố ngồi yên rồi khóa cửa ra ngoài nói với Xảo Nương "Y vất vả mang thư tới, hãy giữ lại gọi Tam Nương về cho nó kết nghĩa chị em, nên phải đóng cửa cho người ta khỏi buồn chán" kế ra cửa đi. Sinh quanh quẩn trong phòng buồn quá, cứ tới khe cửa nhìn ra như con chim ngóng ra ngoài lồng, nhìn thấy Xảo Nương cũng muốn gọi để nói rõ sự tình, nhưng thẹn vì khó nói lại thôi. Chờ đến khuya người đàn bà mới dẫn con gái về, mở cửa nói "Để lang quân buồn chết mất rồi. Tam Nương vào cám ơn đi". Cô gái gặp trên đường trước kia rụt rè bước vào khép nép nhìn sinh, người đàn bà bảo gọi nhau bằng anh em. Xảo Nương cười nói "Gọi là chị em gái cũng được". Rồi cùng ra phòng khách ngồi quây quần uống rượu.

Uống được một lúc, Xảo Nương hỏi đùa người hoạn thấy sắc có động lòng không, sinh đáp "Người què không quên giày, người lòa không quên ngó" mọi người cười rộ. Xảo Nương vì Tam Nương đi đường mệt nhọc ép phải đi nghỉ. Người đàn bà quay nhìn Tam Nương bảo nằm chung với sinh. Tam Nương đỏ bừng mặt không chịu. Người đàn bà nói "Đây là trượng phu đội khăn mặc yếm thôi, sợ gì chứ?". Rồi giục hai người đi ngủ, ngầm dặn sinh rằng "Trong thì làm rể nhưng ngoài làm con ta là được". Sinh mừng rỡ, nắm tay nàng dắt lên giường, dao sắc mới mài đem thử lần đầu, khoái trá thế nào có thể biết rõ. Kế hỏi Xảo Nương là ai, cô gái đáp "Là ma đấy. Tài sắc vô song nhưng số mệnh lận đận, lấy tiểu lang nhà họ Mao bị liệt dương, mười tám tuổi đầu vẫn chẳng ra con người nên ấm ức không vui, ôm hận mà chết". Sinh thất kinh, ngờ Tam Nương cũng là ma. Nàng nói "Nói thật với chàng, thiếp không phải là ma mà là hồ. Xảo Nương sống lẻ loi một mình mà mẹ con thiếp không có nhà nên tới ở nhờ". Sinh rất kinh ngạc, nàng nói "Đừng sợ, tuy là ma là hồ, nhưng không gây họa cho nhau đâu".

Từ đó hàng ngày thường cùng nhau chuyện trò yến ẩm, sinh tuy biết Xảo Nương không phải là người nhưng lòng vẫn yêu mến nhan sắc, chỉ hận không có dịp tự hiến thân. Sinh học hành uẩn súc, giỏi đùa cợt pha trò, nên Xảo Nương rất thương mến. Một hôm mẹ con họ Hoa đi vắng, lại đóng cửa nhốt sinh trong phòng. Sinh buồn bực đi loanh quanh rồi đứng cách vách gọi Xảo Nương. Xảo Nương sai tỳ nữ lấy chìa khóa thử mấy lần thì cửa mở, sinh ghé tai xin gặp riêng. Xảo Nương bảo tỳ nữ đi ra, sinh liền kéo nàng lên giường nằm sát vào. Nàng đùa đưa tay sờ xuống phía dưới rốn nói "Tiếc thay, chỗ này lại thiếu mất rồi" Chưa dứt lời thì tay vớ phải một nắm, giật mình nói "Sao trước vắng vẻ mà chợt đã bấy nhiêu thế?" Sinh cười đáp "Trước thấy người xấu hổ nên rụt lại, nay bị phỉ báng không chịu nổi nên làm con ếch tức giận phình ra đấy thôi" rồi cùng nhau giao hoan.

Xong xuôi nàng căm tức nói "Nay mới biết vì sao đóng cửa. Trước đây mẹ con họ lênh đênh không nhà, đã nhường nhà cho ở, Tam Nương theo học thêu thùa thiếp cũng không từng giấu diếm gì, mà lại ganh ghét như thế" Sinh kể thật mọi chuyện để khuyên giải nhưng Xảo Nương vẫn hậm hực. Sinh nói "Phải giữ kín đấy, Hoa Cô dặn ta kỹ lắm". Chưa dứt lời thì Hoa Cô đã đẩy cửa bước vào, hai người vội vàng nhỏm dậy. Hoa Cô trừng mắt hỏi ai mở cửa, Xảo Nương cười nhận là mình. Hoa Cô càng tức giận, quát mắng không thôi. Xảo Nương nhếch mép cười nói "Bà già này thật là buồn cười, là trượng phu đội khăn mặc yếm mà thế à?" Tam Nương thấy mẹ và Xảo Nương cứ khích bác nhau, lấy làm áy náy bèn đứng ra can ngăn, đôi bên mới đổi giận làm lành. Xảo Nương lời lẽ dẫu gay gắt nhưng từ đó đã nhún mình chiều chuộng Tam Nương, chỉ vì Hoa Cô ngày đêm ráo riết canh giữ nên đôi lòng không sao bày tỏ, chỉ biết liếc mắt gởi tình mà thôi.

Một hôm Hoa Cô nói với sinh "Cả hai chị em nó đều đã hầu hạ chàng, nhưng sống ở đây không phải là hay, chàng nên về trình với cha mẹ để sớm tính chuyện trăm năm", rồi sắm sửa hành trang giục sinh lên đường. Hai cô gái nhìn nhau buồn rầu, mà Xảo Nương càng như không chịu nổi, nước mắt chảy ròng ròng không dứt. Hoa Cô ngăn họ lại rồi đưa sinh ra, tới ngoài cổng thì nhà cửa đã biến mất cả, chỉ thấy một ngôi mộ hoang. Hoa Cô đưa sinh lên thuyền, nói "Chàng đi rồi lão thân cũng sẽ dắt hai con gái tới ngụ ở quý huyện, nếu không quên duyên cũ thì xin ở trong khu vườn hoang nhà họ Lý đợi làm lễ nghênh hôn" sinh bèn trở về.

Lúc ấy ông Phó tìm kiếm con trai không được đang nóng ruột lo lắng, thấy con về vô cùng mừng rỡ. Sinh kể lại vắn tắt đầu đuôi, nói cả việc họ Hoa hẹn ước. Cha nói "Lời yêu quái làm sao tin được. Ngươi sở dĩ sống sót về được là nhờ bị tật nguyền, không thì chết rồi". Sinh đáp "Họ tuy khác loài nhưng tình nghĩa cũng như người, lại thông minh xinh đẹp, có cưới cũng không sợ họ hàng làng xóm chê cười". Cha không đáp chỉ cười nhạt, sinh bèn lui ra. Nhưng ngứa nghề không chịu ở yên, bèn tư thông với đứa tỳ nữ, dần dần giữa ban ngày cũng công nhiên hành dâm, cố ý cho cha mẹ biết. Một hôm bị đứa tỳ nữ nhỏ nhìn trộm thấy chạy vào báo với mẹ, mẹ không tin tới xem mới giật mình, gọi đứa tỳ nữ hỏi kỹ mới biết rõ. Bà mừng quá gặp ai cũng rêu rao để tỏ ra là con mình không có tật, định hỏi cưới con nhà thế gia. Sinh thưa riêng với mẹ là không phải nhà họ Hoa thì không cưới, mẹ nói "Trên đời thiếu gì gái đẹp, cần gì phải cưới yêu ma". Sinh nói "Con mà không gặp Hoa Cô thì đâu biết được mùi đời, phụ bạc họ không hay đâu".

Ông Phó nghe lời, cho một người tớ trai và một vú già tới dò xem. Họ ra khỏi cửa Đông bốn năm dặm tìm được khu vườn hoang của nhà họ Lý, thấy trong đám tre trúc bên chỗ tường thấp đổ nát có làn khói bốc lên. Bà vú trèo qua tường đi thẳng tới cửa thì thấy mẹ con đang quét tước dọn dẹp như có ý chờ ai. Bà vú vái chào thưa lời chủ dặn, nhìn thấy Tam Nương thì giật mình nói "Đây là bà chủ nhỏ của nhà ta sao? Ta nhìn thấy còn thương, không trách công tử cứ đêm ngày nhớ nhung" Hỏi tới cô chị, Hoa Cô thở dài than "Đó là con gái nuôi của ta, ba hôm trước đây bị bạo bệnh chết rồi" Nhân đem rượu thịt ra thết đãi. Bà vú và người tớ trai về kể rõ dung mạo cử chỉ của Tam Nương, ông bà Phó đều vui mừng. Sau cùng mới báo tin Xảo Nương mất, sinh đau xót rơm rớm nước mắt. Đêm rước dâu sinh gặp Hoa Cô đích thân hỏi lại, Hoa Cô cười đáp "Đã đầu thai ở đất Bắc rồi", sinh than thở hồi lâu. Cưới Tam Nương rồi mà vẫn không sao quên được Xảo Nương, cứ nghe có ai ở Quỳnh Châu tới đều cho gọi tới hỏi chuyện.

Có người nói dưới mộ nàng họ Tần đêm đêm có tiếng ma khóc, sinh lấy làm lạ vào nói với Tam Nương. Tam Nương trầm ngâm hồi lâu rồi sa nước mắt nói "Em phụ chị rồi!". Sinh gạn hỏi, nàng cười đáp "Lúc mẹ con thiếp đi thật không có nói cho chị ấy biết, tiếng kêu khóc đó chắc là của chị ấy thôi. Trước đã định nói thật với chàng, nhưng lại sợ phơi bày lỗi của mẹ" Sinh nghe thế buồn xong lại vui, lập tức sai sắp sửa xe kiệu ngày đêm đi gấp tới mộ nàng, gõ vào bia mộ gọi to "Xảo Nương! Xảo Nương! Ta ở đây!". Giây lát thấy cô gái bế một đứa nhỏ từ mộ bước ra, mắt nhìn ai oán không thôi, sinh cũng rơi lệ. Sờ vào bọc hỏi con ai, Xảo Nương đáp "Đây là cái mầm oan nghiệt của chàng để lại đấy, được ba ngày rồi". Sinh nói "Lầm nghe lời Hoa Cô khiến mẹ con phải ôm mối lo dưới đất, tội thật không tha được".

Rồi cùng lên xe vượt biển về, bế con vào thưa với mẹ. Mẹ nhìn đứa nhỏ thấy khôi ngô khỏe mạnh không giống ma quỷ càng vui mừng. Hai nàng sống hòa thuận, thờ cha mẹ chồng rất có hiếu. Về sau ông Phó bị bệnh, mời thầy thuốc tới, Xảo Nương nói "Bệnh không làm gì được nữa, vì hồn đã lìa khỏi xác", rồi đôn đốc lo đồ táng liệm, vừa xong thì ông mất. Đứa nhỏ lớn lên rất giống cha mà còn thông minh hơn, mười bốn tuổi đã vào học trường huyện. Ông Cao Bưu hiệu Tử Hà tới đất Quảng nghe chuyện này, nhưng tên làng xóm thì quên mất và không rõ chung cục ra sao. Trị Hồ (Phục Hồ)

Thái sử Mỗ bị hồ quấy phá bệnh nặng, cầu đảo hết cách vẫn không khỏi phải xin nghỉ quan về làng, nghĩ rằng có thể trốn được. Song trên đường về vẫn bị hồ theo, sợ hãi lắm mà không biết làm sao. Một hôm tới ngoài huyện Trác Môn (tỉnh Hà Bắc), nghe nói có người thầy thuốc tự xưng có thể trị được hồ. Thái sử bèn tìm tới xin thuốc, thì ra là loại thuốc dùng vào việc trong phòng. Bèn lập tức uống vào, tối đến ngủ với hồ, mạnh mẽ lợi hại vô cùng. Hồ run sợ nài nỉ xin thôi, nhưng ông không nghe, càng làm bạo hơn, hồ vùng vẫy lăn lộn mãi vẫn không giật ra được. Lát sau im bặt, nhìn lại thì đã hiện nguyên hình là hồ mà chết rồi.

Mỗ ở hương ta vốn có sở trường của Lao ái*, thường nói bình sinh chưa được lần nào thật thỏa mãn. Một đêm ngủ lại ở một quán trọ lẻ loi, chung quanh không có hàng xóm, chợt có người con gái tìm tới, cửa chưa mở đã lọt vào trong phòng. Y biết là hồ, nhưng cũng vui vẻ cùng giao hoan, vừa cởi quần áo ra đã chọc thẳng vào. Hồ đau quá kêu thét lên, giật ra như chim ưng thoát xiềng nhảy ra cửa sổ bỏ chạy. Y còn đuổi tới cửa sổ nhìn theo, lấy giọng đùa cợt gọi rất ai oán, nghĩ rằng hồ sẽ quay lại, nhưng đã chạy biệt tăm. Đó thật là bậc tướng mạnh trị hồ, nếu treo bảng nhận trị hồ thì có thể sống bằng nghề ấy vậy.

*Lao ái: người nước Tần cuối thời Chiến quốc, nổi tiếng vô hạnh, chuyên quyến rũ đàn bà con gái, sau được Tướng quốc Lữ Bất Vi tiến cử làm nhân tình cho mẹ Tần vương Chính (tức Tần Thủy Hoàng). Tương truyền ái có vật kín rất dị thường, từng có lần đùa giỡn lấy làm trục bánh xe, quay tít bánh xe mà không hề đau đớn! Ba Vị Tiên (Tam Tiên)

Có người học trò lên Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) thi, đi ngang huyện Túc Thiên (tỉnh Giang Tô) gặp ba vị Tú tài. Cùng nhau trò chuyện, thấy đều khoáng đạt hơn đời, rất thích bèn mua rượu mời họ cùng uống. Trong lúc thù tạc, ba người đều xưng tên họ, một là Giới Thu Hành, một là Thường Phong Lâm, một là Ma Tây Trì. Mê mải chuyện trò với nhau, trời tối lúc nào không hay, Giới nói "Chưa làm phận sự chủ nhà lại được cho uống rượu, theo lẽ rất là không phải. Nhà cỏ cách đây không xa, xin mời tới đó nghỉ lại". Thường và Ma cũng đứng dậy kéo áo mời mọc, người học trò bèn gọi đầy tớ cùng đi theo. Tới chỗ núi phía bắc làng, chợt thấy đình viện, ngoài cổng có dòng nước chảy quanh. Vào bên trong thì thấy nhà cửa rất sạch sẽ, chủ nhân gọi trẻ thắp đèn, lại sai đưa người đầy tớ đi nghỉ. Ma nói "Trước vẫn lấy văn chương họp bạn, nay đã gần đến ngày thi, không nên bỏ phí đêm đẹp. Xin nghĩ ra bốn đề bài, mỗi người rút thăm lấy một, làm văn xong hãy uống rượu. Mọi người theo lời, mỗi người nghĩ ra một đề bài, viết đặt lên bàn, ai rút được đề nào thì tới bàn riêng suy nghĩ mà làm. Chưa hết canh hai tất cả đều làm xong, đưa cho nhau lần lượt xem. Người học trò đọc văn của ba người rất khâm phục, bèn chép lại cất đi. Chủ nhân đưa rượu ngon ra mời khách, rót chén lớn uống liên tiếp, không biết say là gì. Khách từ tạ không uống nữa, chủ nhân cũng chiều lòng, đưa vào một phòng riêng. Người học trò say quá, cứ mặc áo mang giày nằm xuống ngủ thẳng. Đến khi tỉnh dậy thì mặt trời đã mọc cao, nhìn bốn bên chẳng thấy có nhà cửa phòng ốc gì, chỉ có hai chủ tớ nằm trong hốc núi. Người học trò hoảng sợ vội gọi đầy tớ dậy. Nhìn ra thấy bên cạnh có một cái động, trong có dòng nước cuồn cuộn chảy ra, ngờ rằng mình nằm mơ, nhưng tìm lại trong bọc thì ba bài văn chép lại vẫn còn. Xuống tới dưới núi hỏi dân ở đó, mới biết đó là động Tam tiên, trong động có ba con vật là cua, rắn và ễnh ương rất linh thiêng, hay ra ngoài chơi, thỉnh thoảng họ vẫn trông thấy. Khi người học trò vào thi, đề bài ra đều trùng với ba bài mà tiên đã làm, nhờ vậy được đỗ đầu.

035. Khúc Hát ếch (Oa Khúc) Vương Tử Tốn nói lúc ở kinh đô, từng thấy một người diễn trò ở chợ, mang một cái hộp đóng theo cách thức riêng, có mười hai cái lỗ, dưới mỗi lỗ có một con ếch nằm, lấy cái thước nhỏ gõ lên đầu thì kêu lên ồm ộp. Có ai cho tiền thì gõ loạn lên đầu bầy ếch như đánh thanh la, khúc điệu cung bậc nghe rất rõ ràng.

036. Màn Kịch Chuột (Thử Hý) Lại nói có một người ở chợ huyện Trường An (tỉnh Thiểm Tây) diễn trò bằng chuột, trên lưng đeo một cái túi trong chứa hơn chục con. Mỗi khi tới nơi đông người thì lấy ra một cái giá nhỏ bằng gỗ đặt lên vai, giống như sàn diễn kịch. Rồi vỗ cái trống gỗ, hát vở tạp kịch xưa, khi tiếng hát trỗi lên thì chuột ở trong cái túi bò ra, mang mặt nạ, mặc quần áo, từ lưng y leo lên sàn diễn, đứng hai chân múa may, con làm đào con làm kép, khi vui vẻ lúc buồn rầu đều ăn khớp với thứ tự lớp lang trong vở kịch.

037. Con Cọp ở Triệu Thành (Triệu Thành Hổ) Có bà già ở huyện Triệu Thành (tỉnh Sơn Tây) hơn bảy mươi tuổi chỉ có một người con trai. Một hôm y vào núi bị cọp vồ chết, bà già đau đớn chết đi sống lại, kêu khóc tới kiện với quan huyện. Quan huyện cười nói "Cọp thì làm sao lấy phép quan mà trị tội đưục?" Bà glà càng kêu khóc thảm thiết, không làm sao cho bà ta im đi được. Quan huyện tức giận quát tháo cũng không sợ hãi, lại thương xót bà ta già cả, bèn hứa sẽ bắt cọp trị tội. Nhưng bà già vẫn không ra về, đòi phải nhìn thấy trát quan ra lệnh bắt cọp mới chịu đi. Quan không biết làm sao, bèn hỏi các nha dịch ai đi được. Có một người lính lệ tên Lý Năng đang say ngồi ở đó, tự nói mình đi được, quan bèn viết trát giao cho y, bà già mới chịu ra về. Người lính lệ tỉnh rượu hối hận, lại cho rằng quan huyện chỉ giả làm ra như thế để bà già không kêu khóc quấy rầy nữa, nên cũng không hề để ý, đem tờ trát tới xin hủy bỏ. Quan giận nói "Ngươi nói là đi được, tại sao lại hối?". Người lính lệ bí quá, xin hạ trát bắt các thợ săn trong huyện cùng đi, quan ưng thuận. Người lính lệ tập họp các thợ săn ngày đêm rình trong núi, mong bắt được một con cọp để không bị trách phạt. Nhưng hon một tháng chẳng được gì, bị phạt đánh mấy trăm trượng, khổ quá không biết kêu nài với ai, bèn tới Nhạc miếu ngoài phía đông huyện thành quỳ xuống cầu khẩn, khóc tắt cả tiếng. Không bao lâu, chợt có một con cọp từ ngoài đi tới, người lính lệ cả kinh, sợ bị nó vồ. Nhưng cọp vào tới nơi không ngó ngàng gì tới ai, chỉ ngồi xuống ngay giữa cổng miếu. Người lính lệ khấn rằng "Nếu người giết con trai bà già kia thì cúi đầu cho ta trói", rồi rút dây ra buộc vào cổ nó. Cọp cụp tai chịu trói, người lính lệ bèn dắt nó về huyện đường. Quan huyện hỏi nó rằng "Có phải là ngươi giết con bà già không?" cọp gật đầu. Quan huyện nói "Giết người thì phải đền mạng, đó là pháp luật đã định từ xưa. Vả lại bà già chỉ có một đứa con trai, mà ngươi giết đi, bà ta già rồi, làm thế nào sinh sống? Nếu ngươi có thể làm con bà ta, thì ta tha cho", cọp lại gật đầu. Quan bèn sai cởi dây cho nó đi, bà già vẫn còn oán giận quan huyện không giết cọp để đền mạng cho con trai mình. Sáng ngày mở cửa chợt thấy có một con hươu chết nằm ở sân, bà già đem bán thịt lấy tiền sống qua ngày. Từ đó thường thường như thế, có lần cọp còn mang vàng lụa tới vứt trong sân. Bà già nhờ vậy cũng được dư dả, thấy được chăm sóc còn hơn cả lúc con trai còn sống cũng thương cọp. Có lúc nó tới nằm dưới thềm cả ngày không đi, nhưng người nhà và súc vật đều yên ổn, không bị sợ hãi náo động. Vài năm sau bà chết, con cọp tới kêu gào trong phòng khách. Những tiền bạc bà già gìn giữ tích góp được có thừa để làm đám ma, họ hàng lấy đó chôn cất cho bà. Mộ vừa đắp xong thì cọp ào ào phóng tới, khách khứa chạy sạch. Cọp đứng gào rít trước phần mộ, tiếng vang như sấm, hồi lâu mới đi. Dân ở đó lập đền thờ Nghĩa hổ ở phía đông huyện thành, đến nay vẫn còn.

038. Người Lùn (Tiểu Nhân) Trong niên hiệu Khang Hy (1662-1722), có người làm trò mang một cái hộp gỗ nhỏ, bên trong chứa người lùn chỉ cao khoảng một thước. Có ai cho tiền thì mở nắp hộp gọi người lùn ra ca hát. Khi tới huyện Dịch (tỉnh Sơn Đông), quan huyện gọi vào công thự xét hỏi lai lịch người lùn. Ban đầu người lùn không dám nói, quan hỏi mãi mới nói ra làng xóm họ hàng. Thì ra là một đứa trẻ đi học, từ trường về bị người làm trò dụ dỗ làm cho mê man, lại đổ thuốc cho uống, tay chân chợt co rút lại, bị y bắt mang đi làm trò. Quan huyện nổi giận giết người làm trò, giữ đứa trẻ lại trong huyện, muốn chữa bệnh cho nhưng vẫn chưa tìm được cách nào.

039. Lương Ngạn (Lương Ngạn) Lương Ngạn người Từ Châu, bị bệnh nghẹt mũi cứ khụt khịt đã lâu không khỏi. Một hôm đi ngủ, vừa nằm xuống thì chợt thấy lỗ mũi bên trái ngứa ngáy vô cùng, bèn ngồi dậy khịt mạnh. Có một con vật văng ra rơi xuống đất, hình dạng như con chó, to bằng đầu ngón tay. Lại khịt thì văng ra một con nữa, khịt tất cả bốn lần văng ra bốn con, ngọ nguậy như sâu, bò lại ngủi hít lẫn nhau. Chợt bốn con quay ra cắn xé nhau, con mạnh ăn con yếu, cứ ăn xong lại dài ra thêm một chút. Trong nháy mắt chỉ còn có một con to bằng con chuột, thè lưỡi bò quanh, có vẻ còn thèm ăn nữa. Lương rất kinh ngạc, giơ chân giẫm, con vật theo ống quần bò lên, dần dần tới đùi. Lương phất tay áo phủi xuống nhưng nó bám rất chặt không chịu rơi, giây lát chui vào trong áo, bò lên hông. Lương hoảng sợ vội cởi áo ném xuống đất, đưa tay mò bắt thì con vật đã dính chặt vào lưng, lay không động, giật thì đau, kết thành một cục thịt lồi lên, nhắm mắt ngậm miệng, như một con chuột đang nằm vậy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro