Lân Tiêu | Một

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vào một ngày mùa xuân hai năm sau khi Trịnh Uyên tới Ngụy quốc, cậu đang lên lớp cùng lão sư như thường lệ trong điện Tá Minh. Điện Tá Minh là một trong các thiên điện[1] ở đàng tây của Ngụy cung, tên lấy từ ý "Phụ tá minh chủ", là nơi chốn học hành của các công tử con nhà quý tộc, quan lớn trước khi chính thức nhập sĩ[2]. Có người nói rằng ngay cả tâm phúc của thái tử nước Ngụy, Bình Loạn hầu thế tử Viên Duẫn Đàn luôn được Ngụy vương yêu chiều, cũng đã từng sống và học hành bên trong điện Tá Minh này.

Con tin do nước bại trận đưa tới cầu hòa như Trịnh Uyên lẽ ra vạn lần cũng không có tư cách bước vào điện Tá Minh. Lẽ ra cậu nên cùng ba bốn người tùy tùng thân cận bị giam lỏng trong lãnh cung heo hút dựa lưng vào vách núi, ngắm nhìn tơ liễu phất phơ ngoài song cửa để đếm những ngày sống sót còn lại, khẩn cầu đến lúc đó Ngụy vương sẽ mở lòng từ bi cho cậu được giữ nguyên thi cốt mà trở về quê hương. Nhưng lúc vào cung, cậu bé Trịnh Uyên mười một tuổi vô cùng thông minh, khiến người yêu mến. Cậu không có nửa lời oán hận, cũng không dính dáng gì đến các sự thị phi đầy rẫy. Nhìn thấy ai cậu cũng nhẹ nhàng cúi đầu, mỉm cười theo kiểu phận có kém nhưng thân không hèn, do đó mà chiếm được sự chiếu cố phá lệ của cung quan chưởng sự. Nửa năm sau khi cậu vào Ngụy Cung, được cung quan mớm lời đề đạt, Ngụy Thiên Kỳ đế đồng ý cử hành một lần tiếp kiến tượng trưng đối với con tin của nước Trịnh. Hôm ấy Trịnh Uyên long trọng vận Trịnh phục màu tía sẫm cao quý, vạt rộng tay dài, tay áo viền hoa văn thanh long thương hổ, nhìn rất đỗi lạc lõng bên trong đại điện. Cậu đứng nắm tay im lặng cho Ngụy vương dùng ánh mắt ngời sáng xét soi, làn mi khẽ rung động ấy lại khiến thiếu niên thanh tú đứng giữa khung cảnh nghiêm trang này trông như một đóa sen trắng đang lặng lẽ nở trong hồ nước. Ngụy vương nhìn cậu mỉm cười mà nói, khá lắm bé con sáng dạ, cứ để cho mai này đi học ở điện Tá Minh đi. Trong khoảnh khắc khi Trịnh Uyên nghe được lời tuyên phán số phận của mình, cậu cảm kích quỳ sụp xuống lần nữa, đầu càng cúi gằm thêm, chứng tỏ lòng sợ hãi vô cùng.

Thật lâu về sau, cử chỉ ấy trở thành đề tài đồn thổi giữa các cung nhân, rằng một lần cúi đầu năm ấy của công tử Trịnh quốc còn quý hơn ngàn vạn lời tạ ơn, rất đẹp lòng bệ hạ.

Lúc ấy đương năm Ngụy Thiên Kỳ thứ mười hai. Như bao con cháu thế gia khác của Ngụy quốc, Trịnh Uyên mặc trang phục nước Ngụy, tay áo hẹp vai ôm sát, bước im lặng vào trong điện Tá Minh mà lẽ ra đối với cậu rất xa vời.

Được thầy theo mình dạy cầm tay chỉ viết, Trịnh Uyên trình lên cho Thiên Kỳ đế một tấm thiệp tạ ơn. Thiệp viết bản thân cậu vốn là thần tử đại nghịch, ngu dốt có thừa, bệ hạ cho phép cậu được vào học tập trong Tá Minh điện là lòng nhân hậu của bậc thánh quân của thời xa xưa. Nay nguyện được cùng tiên sinh tụng kinh niệm Phật hằng ngày, trên khấn cho đại nguyện của thiên tử được đạt thành, dưới khấn cho phụ mẫu dược an khang, Trịnh Uyên lấy cuộc đời đầy tội nghiệt này để phụng dưỡng nước Ngụy.

Thiên Kỳ đế nhìn thấy trong tấm thiếp tạ ơn của Trịnh Uyên một thứ nịnh hót vô hình, cũng thấy rằng Trịnh Uyên nhân cơ hội này tỏ rõ mình cam chịu ở lại nước Ngụy dài lâu. Ông nhớ lại ngày hôm ấy khuôn mặt nhỏ bé của Trịnh Uyên sợ hãi cúi, bèn nghĩ rằng bức thư này do kẻ khác đơm mưu đặt kế. Ông thuận tay đẩy nét mực còn non nớt qua một bên, vỗ tay mà cười: "Đứa trẻ này..."

Phàm những việc tầm phào như vậy, Thiên Kỳ đế kể ra như chuyện đùa vui cho chốn hậu cung, các sử quan không thể ghi chép xác thực. Bẵng đến rất nhiều năm sau khi nước Ngụy diệt vong, đám văn nhân mới moi được câu chuyện này ra từ đống bí sử vớ vẩn thực hư không rõ của Ngụy cung. Biết được câu chuyện đồn đại ấy, họ đem ra phân tích mổ xẻ để chứng minh rằng lúc vừa mới bước chân đến Ngụy Cung, Tĩnh Hoài đế Trịnh Uyên đã che giấu một tâm cơ rất khác thường. Còn Thiên Kỳ đế thông minh cơ trí của Ngụy quốc từ lúc đó đã có điềm báo rằng y chính là kiếp nạn đang tới gần nước Ngụy.

Sau khi vào điện Tá Minh, Trịnh Uyên vẫn gìn giữ vẻ hiền lành ngoan ngoãn trước sau không đổi. Giống hệt như trong thiếp tạ ân mà cậu viết, cậu cùng với lão sư đi cùng mình từ nước Trịnh đọc kinh Phật mỗi ngày. Bình thường hễ chạm trán đám công tử Ngụy quốc khoác áo lông trắng muốt, cậu luôn rũ làn mi xuống hành lễ rất sâu, cũng không mở miệng trò chuyện câu nào. Dần dà, tất cả mọi người đều chú ý thấy rằng đứa trẻ đến từ nước Trịnh ấy đẹp đến mức lòng họ nao núng, nhưng cậu ta khép kín cô cùng, không để lộ cho ai. Thảng hoặc, cũng có đôi ba người đối đáp với cậu được mấy câu, nhưng chỉ loáng thoáng rồi mau chóng rời đi mất, sau đó bị chúng đồng bạn hè nhau trêu ghẹo. Cứ như vậy, Trịnh Uyên tồn tại, đơn chiếc và lặng lẽ, trong một ngóc ngách nào đó ở điện Tá Minh, như một bông hoa mùa rét nở dưới chân tường, lặng nở rồi lặng tàn.

Thật ra, Trịnh Uyên không hề thích nếp sống nặng nề như vậy. Cậu thường xuyên nhớ nhung lúc còn ở nước Trịnh, có hôm thay đến bốn con ngựa một mạch phi không ngừng nghỉ lên ngọn Mân Thương xa xôi ngoài trăm dặm, chỉ để bắt kịp lúc một nhánh hoa quỳnh mọc heo hút bên rìa đá nở dưới ánh trăng. Cuộc sống tẻ nhạt này làm cậu uể oải chán chường, khiến cậu dần dần có một thói quen phải dùng đến trí tưởng tượng viển vông để giết thời gian. Cậu đã từng ao ước, rằng một ngày xuân gió ấm rạt rào kia sẽ có Viên Duẫn Đàn cao quý mà cậu không thể nào với tới bay vút qua bên cửa sổ phòng cậu. Sẽ nghe thấy tiếng bước chân lóc cóc của hắn chầm chậm đến gần mình. Cậu không biết gặp gỡ như vậy rồi sẽ được điều gì, chỉ là mong mỏi kỳ tích sẽ xảy ra một lần để thay đổi tình cảnh đời này của cậu, giống như khoảnh khoắc cậu ở trong đại điện của Ngụy đế.

Trịnh Uyên có biết một lúc dân ca đang vang lừng khắp nơi trong thành Lân Tiêu ngày đó:

"Đàn khẩu chu

Thúy mi thiển

Tiêm thủ nhược lưu tố

Thu thủy như lũng yên.

Thú hương thổ

Ngọc tranh nhàn

Duyến quân nhất hồi cố

Vi quân ngộ Phật huyền."

(Môi son thơm thơm, nhạt mi biêng biếc

Tay mềm suối lụa, mắt lúng liếng sương

Lò thú thơm hương, đàn ngọc rỗi thì,

Cớ sao người ngoảnh lại chi

Hạt tràng tôi sai nhịp vì người thôi[3])

Khúc ca này chắc chắn phải được sinh ra từ thành Lân Tiêu, tòa thành được xưng tụng là kinh đô đệ nhất Lục quốc. Bài ca cũng như thành, là mộng cũ phù du xa hoa như vẽ, đồng thời cũng biểu hiện rất rõ rệt địa vị và quyền thế vô tiền khoáng hậu của gia tộc họ Viên tại Ngụy đô. "Viên" quân ngoảnh đầu nhìn, "Ngụy" quân sai nhịp chuỗi hạt Phật. Đây chính là cách nói chân chất mà trào phúng của đám văn nhân nhà quê khi đề cập đến sức ảnh hưởng không thể nào bỏ qua của dòng họ Viên đối với quân vương nước Ngụy. Khúc ca đó truyền khắp hang cùng ngõ hẻm của thành Lân Tiêu, cho đến sau này khi Viên Duẫn Đàn ra đi vẫn còn râm ran mãi.

Nhưng Trịnh Uyên cũng có nghe nói rằng Viên Duẫn Đàn chỉ ở lại Đông cung để đi học cùng Thái tử. Số lần y xuất hiện trong điện Tá Minh chỉ đếm được trên đầu ngón tay, biểu đạt cách biệt quân thần. Cho rằng người có thể là quý nhân duy nhất trong đời mình ở xa như trời mây tít tắp, thêm một lần nữa Trịnh Uyên hiểu rằng cảnh ngộ của mình là không thể thay đổi. Cậu quay ra ngoài cửa sổ ngắm rừng đào đang lún phún trổ hoa như phấn, tiếp tục đọc những dòng Kinh Diệu pháp liên hoa[4] đã thuộc nằm lòng: "Có bốn vị Ca lâu la vương, Đại uy đức Ca lâu la vương, Đại thân Ca lâu la vương, Đại mãn Ca lâu la vương, Như ý Ca lâu la vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc..."

Gió xuân hây hẩy cành đào, cơ hồ thổi đến tiếng huyên náo râm ran bên ngoài. Lão tiên sinh trong phòng cau mày, buông sách đi tới mở cửa sổ ra, sau đó nhoài người ra khản giọng kêu: "Công tử nhà tôi ở trong này chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp, là người phương nào tới đây quậy phá?"

Dù đang trách móng, giọng nói ông ta vẫn có đôi ba phần nhường nhịn. Ông lão từng chịu trọng ân của vua Trịnh nên tình nguyện đi theo nhị công tử đến nước Ngụy chuyến này. Từ lâu, ông đã chắc mẩm rằng mình sẽ chết, chỉ mong sao có thể lo lắng cho công tử được chu toàn. Không ngờ công tử lọt vào mắt xanh của vua Ngụy, được đặc cấp cho đi học ở điện Tá Minh. Dù chính ông là người đã dạy cho Trịnh Uyên viết tấm thiếp tạ ơn, từ tận đáy lòng ông vẫn uất nghẹn rằng thật sự công tử không nề nuôi ý định phải trở về Trịnh quốc, ngược lại chỉ thanh thản đọc kinh mỗi ngày. Chuyện này đã trở thành trò đùa giữa bọn vương công nước Ngụy, tất cả đều giễu rằng con tin nước Trịnh trời sinh đã nhu nhược kém hèn, chỉ biết mỗi chuyện đọc kinh lánh đời. Chuyện có đám người vô công rỗi nghề, ăn chơi trác táng núp ngoài phòng để nghe lén cũng không phải là lần đầu tiên. Tuy nói rằng nước Trịnh yếu ớt thế cô, nhưng dù thế nào cũng không thể để mặc cho người rẻ rúng. Hôm nay lão tiên sinh phải cất lời như vậy thì thật sự đã không còn nén nhịn được nữa rồi.

Trịnh Uyên ngay ngắn ngồi im, mắt cũng không ngước, tiếp tục chăm chú đọc kinh Phật của cậu. Nghe thấy tiếng ngọn cây bên ngoài soàn soạt rung lên, khác hẳn âm thanh của gió lùa. Lại nghe thấy tiếng lão tiên sinh kinh ngạc hô lên, lùi lại khỏi cửa số mấy bước. Trịnh Uyên sợ sệt trong lòng, rốt cuộc vẫn ngước lên nhìn ra bên ngoài, trong miệng vân còn thì thầm kinh Liên hoa.

"Khi đó trời mưa hoa Mạn đà la, hoa Ma ha Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Ma ha Mạn thù sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng, khắp cõi Phật sáu điệu vang động."

Lúc đó cậu đã không trông thấy rõ ràng bất cứ điều gì. Cậu chỉ cảm nhận rằng cả đất trời bỗng nhiên đã bị trùm phủ bên dưới một bóng rèm hồng rất nhạt. Trong tầm mắt thì nhìn rất rõ, nhưng trong lòng thì hoàn toàn mờ mịt. Nhìn kỹ lại, thì ra là cánh hoa đào túa xuống như mưa hồng. Chúng thong thả bập bềnh trôi đi không chịu rơi xuống mặt đất, thời khắc đó thời gian chừng như như kéo dài ra vô tận. Mãi nhiều năm, sau bóng rèm hồng phấn nhẹ hẫng đến vô cùng ấy hãy còn xuất hiện trong những giấc mơ khi tỉnh khi say của Trịnh Uyên, rồi từng chút một, bợt bạt thành tàn tro.

Sau đó, Trịnh Uyên thấy một chiếc bóng trắng nhảy lên cao rồi đáp xuống, đúng ngay tại vị trí mà tiên sinh lúc nãy đã đứng. Rõ như ban ngày, đó là một thiếu niên, nom tuổi tác cũng không hơn kém Trịnh Uyên là mấy. Không rõ vì sao, Trịnh Uyên lại không thể nào nhìn rõ được khuôn mặt của cậu ta, chỉ thấy búi tóc đen mun vấn lại sau đầu của cậu, và hoàn toàn khác biệt với búi tóc gọn gàng là khóe mắt chân mày nhếch lên nghịch ngợm.

Thiếu niên ấy rướn cao mày, đôi mắt không che giấu được vẻ hào hứng: "Khi đó trời mưa hoa Mạn đà la, hoa Ma ha Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Ma ha Mạn thù sa. Có giống không hở?"

"Giống."

"Thế ta có giống đức Phật không?"

Trịnh Uyên thảng thốt, chằm chặp nhìn người thiếu niên kia nói không thành lời. Lão tiên sinh ở cạnh bên cũng thở dồn dập, cũng không hay biết thiếu niên này có thật sự là không biết gì nên mới dám lớn can nói bừa hay không. Những cánh đào ngay lúc ấy vừa chớm tan đi, và sau đó, khuôn mặt của thiếu niên ấy đã ghim sâu vào lòng Trịnh Uyên. Một khuôn mặt tuấn mỹ không gì sánh được, vóc người hẵng chưa trưởng thành, tướng mạo còn đó đôi phần khả ái. Nhưng trên nét môi lại cất giấu vài phần kiêu hãnh, nửa phần lạnh bạc.

Thiếu niên nói xong thì cười thỏa mãn. Lúc cậu ta cười lên càng thấy nét con trẻ còn chưa tan đi. Cậu ta lùi lại phía sau hai bước nhìn Trịnh Uyên. "Cậu là công tử nước Trịnh à? Mặc trang phục người Ngụy trông vừa vặn lắm đấy."

Trịnh Uyên đỏ mặt, theo nếp quen cúi mắt xuống. Từ lúc còn thơ dại đến nay, mỗi khi cậu không biết phải làm sao, đều giấu diếm bằng cách thức rất giấu đầu mà hở đuôi này. Thiếu niên áo trắng lại nói: "Đúng lúc ta ngang qua đây, trốn ở trên cây cao nghe cậu đọc sách. Giọng cậu đọc nghe hay quá."

Trịnh Uyên hơi nóng nảy. Cậu không thích bị người ta buông những lời khen như thể cậu là con chim họa mi trong Ngụy cung, nhưng cậu cũng chẳng buồn chú ý. Chỉ hướng mắt lên một chút, thận trọng hành lễ như trước giờ: "Tội thần Trịnh Uyên, không biết...."

"Uyên trong Ngư dược vu uyên?"

"Uyên trong Thiên uyên chi biệt."[5]

Thiếu niên lại nhìn cậu mà cười rộ lên, trong nụ cười lần này đã có thêm đôi phần hiểu rằng phải thận trọng: "Sao cậu lại phải xưng là tội thần!" Cậu ta dừng bước, nói thêm. "Vậy thì cậu cứ gọi ta là Tiểu Viên đi."

Lòng Trịnh Uyên run rẩy, nhưng mặt mũi vẫn không dám có biểu lộ gì. Lúc cậu còn đang nghĩ cậu ta chỉ là tìm một âm nào đó đọc gần giống âm Uyên, vị tất đã thật sự họ Viên thì Tiểu Viên lại nói: "Cậu đừng nói cho ai khác rằng đã gặp ta nhé, sau này ta rảnh rỗi sẽ thường ghé qua nghe cậu đọc sách."

Trịnh Uyên gật đầu, lòng đã hiểu được thiếu niên này tất nhiên có địa vị rất tôn quý, bằng không thần thái sẽ chẳng thể nào tự nhiên được vậy mà đùa cợt trong điện Tá Minh. Cậu nghĩ ngợi một hồi rồi hỏi cậu ta: "Vậy sau này huynh đến có nói cho ta biết không?"

Tiểu Viên bĩu môi: "Nếu nói sớm cho cậu, vậy thì không phải là Thiên nữ rải hoa nữa rồi, tới lúc đó cậu đừng hối hận."

Trịnh Uyên nghe cậu ta nói mà nóng nảy: "Ta cũng không phải là chỉ đcọ mỗi kinh Liên hoa." Nói rồi thì nghe chừng mấy lời này như hờn dỗi, bèn thêm một câu: "Hoa đào nở đẹp như vậy, không phải mùa nào cũng có nhỉ."

Tiểu Viên không cho là phải, cậu ta cười: "Thế này có gì đâu. Tới lúc đó ta sẽ hái cánh đào để dành lại. Chỉ cần ta thích, mỗi ngày đều có thể cho cậu xem Thiên nữ rải hoa!"[6]

Nói xong lời này, cậu ta nghiêng mắt nhìn bóng nắng ngoài thềm điện, nhíu mày: "Nhưng phải đi rồi." Cậu ta ngoảnh lại trừng to mắt nhìn Trịnh Uyên: "Ai cũng nói Trịnh công tử hiểu đạo lý đối nhân xử thế nhất. Sao cậu nãy giờ không mời ta vào ngồi hử?" Trịnh Uyên vừa nghe đã giật mình như tỉnh khỏi một giấc mơ, cậu biết mình không thể đắc tội thiếu niên này, mồ hôi lạnh ứa ra trên trán. Đang định mở miệng mời, Tiểu Viên lại nhìn cậu: "Nhưng mà ta không có giận cậu."

Cậu ta nhướn đôi chân mày rất đẹp của mình lên, phất phất tay áo, xoay người lúc la lúc lắc chạy đi mất.

Đợi cậu ta đi rõ xa rồi, lão tiên sinh mới thở dài: "Công tử, ngài xem đấy chính là Bình Loạn Hầu..."

Trịnh Uyên không đáp. Cậu tò mò nghĩ, những cánh đào này có thể để dành được mà không héo sao?

--

Chú thích

[1]Thiên điện: Là cung điện ở bên cạnh, hoặc xoay quanh cung điện ở giữa, tức chính điện.

[2]Nhập sĩ: Làm quan, bước vào quan trường.

[3] Mọi thơ từ trong Ly Uyên, nếu là do chính Ciel Mu viết hoặc không có bản dịch sẵn thì đều được lược dịch, chủ yếu lấy nghĩa, còn vần thì được đến đâu hay đến đó. Nếu đã có bản dịch thì xin mượn tạm và ghi nguồn đầy đủ.

[4]Diệu pháp liên hoa kinh: Tiếng Việt hay gọi là kinh Pháp Hoa, đây là bộ kinh Đại Thừa có tầm quan trọng bậc nhất trong giáo lý Phật pháp. Được Phật giảng lúc cuối đời

Các câu được trích trong Ly Uyên mình đều lấy từ bản dịch phổ biến của bộ kinh này.

[5]Ngư dược vu uyên: Một câu trong bài Hạn Lộc trong Kinh Thi

Diên phi lệ thiên,

Ngư dược vu uyên,

Khải đễ quân tử,

Hà bất tác nhân

Bài thơ nói về đạo trời đất bao la thâm sâu vi diệu, đạo quân tử cũng chính trực mênh mông để đức cho dân.

Thiên uyên chi biệt: cách xa một trời một vực.

[6]Thiên nữ tán hoa: thật ra thì có thể dịch là Tiên nữ rải hoa, nhưng mình nghĩ từ gốc có sắc thái riêng và mình muốn giữ lại sắc thái và âm điệu đó.

Còn về điển cố liên quan thì đều là các câu chuyện về Đức Phật. Chủ yếu nói rằng thiên nữ rải hoa xuống người đệ tử nghe pháp, hoa còn vương áo tức pháp chưa tu tập thành. Một chuyện kể rằng Thiên nữ rải hoa xuống người Quán thế âm, hoa cứ thế rơi đi. Một chuyện khác lại bảo hoa được rải là hoa mạn đà la, tức hoa cà độc dược, là loài hoa rất độc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro