CHƯƠNG 6 - CHIẾC HỘP THỜI GIAN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ nhất

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">BÍ MẬT TRONG CHIẾC HỘP

Câu này làm Hải ngọng đứng bên cạnh rồ cả người: “Chán sống rồi à? Tôi thấy lão đúng là hạng cơm sống – sống mãi nên chắc thèm chín rồi đây!” – Nói xong anh giơ tay xắn áo định xông lên trước động thủ.

Triệu Lão Biệt là người có tầm nhìn nông cạn, tâm địa hẹp hòi, lão thấy hội Tư Mã Khôi có ý dò la một số tin tình báo mật, không nhịn được định cố tình khoe khoang chút hiểu biết của mình, mãi đến lúc làm đối phương điên tiết định dùng tay chân nói chuyện thì mới nhớ ra lúc này mình vẫn bị người ta khống chế, bèn cuống quýt van xin: “Ối! Xin các vị lão gia chớ động thủ, chúng ta đều là nhân vật có vai vế trong xã hội, chuyện gì mà không giải quyết được chứ?”

Tư Mã Khôi biết Triệu Lão Biệt từ trước đến nay đều thích khoe khoang khoác lác, căn bệnh này cũng không phải chỉ phát tác trong ngày một ngày hai, thế là anh giơ tay bảo Hải ngọng đừng vội dùng bạo lực, rồi quay sang trừng mắt nhìn Triệu Lão Biệt hỏi: “Lão có biết Nấm mồ xanh hay không? Đây là lần thứ hai tôi hỏi lão, lão đừng để tôi phải hỏi đến lần thứ ba!”

Hải ngọng nói chêm vào: “Lần thứ ba chắc chắn không còn dùng miệng mà hỏi nữa đâu đấy!”

Triệu Lão Biệt giở bộ mặt đầy vẻ tội nghiệp nói: “Biết… nhưng cũng không biết, rốt cục cậu muốn mỗ nói thế nào?”

Tư Mã Khôi bắt đầu mất kiên nhẫn: “Cái gì mà biết với không biết, lão thấy nên nói thế nào thì cứ nói thế ấy!”

Hải ngọng đứng bên lại bắt đầu hăm dọa: “Nếu lão có bản lĩnh thì cứ việc không nói, tôi cũng muốn thử xem có phải lão từng ăn gan hùm uống mật gấu hay không, toàn thân trên dưới rốt cục có mấy lá gan?”

Trán Triệu Lão Biệt lấm tấm mồ hôi lạnh, lão thẳng thắn trình bày: “Các vị lão gia! Lời này cũng phải xuất phát từ hai phía, mỗ thực sự không biết Nấm mồ xanh mà các vị hỏi rốt cục là Nấm mồ xanh nào? Trước giờ chỉ thấy có cái bánh mốc mọc dài lông trắng, biến thành màu xanh, chứ chưa từng thấy ngôi mộ nào màu xanh cả. Có điều mỗ cũng đoán được tám phần thứ mà các vị muốn thăm dò là gì…”

Mọi người nghe lão nói đều ngẩn người, bây giờ tất cả chỉ biết Nấm mồ xanh là tên của một tổ chức ngầm, tổ chức này đặt tên cho một khu vực chưa biết nào đó gần tâm Trái Đất là Nấm mồ xanh, nghe nói đó là nơi mà ngay cả ánh sáng cũng không thể lọt ra ngoài được, và dường như từ trước đến nay chưa có ai dám bước chân vào bên trong. Tòa mật thất di vật kỷ Devon khắc đầy long ấn triều Hạ, ghi chép lại những bí mật có liên quan đến thông đạo và cả cổ quốc Diệt Hỏa nằm ẩn nấp hàng ngàn năm dưới lòng đất, có lẽ tất cả đều liên quan đến hắc động thông sâu đến tận tâm Trái Đất. Nhưng cho đến tận bây giờ đội khảo cổ vẫn chưa biết hàm ý đích thực của mấy chữ Nấm mồ xanh, thế là ai nấy đều chăm chú lắng nghe, hy vọng có thể hiểu được chân tướng của cả chuỗi sự kiện từ miệng Triệu Lão Biệt.

Vẻ mặt Triệu Lão Biệt thể hiện chút cổ quái: “Mỗ đoán chư vị chắc chắn muốn dò hỏi ngôi miếu thần không đáy dưới lòng đất, vì vách tường ngoài của nó có màu xanh thẫm, người không rõ nội tình mới gọi nó là Nấm mồ xanh. Không phải mỗ muốn giấu giếm gì cả, chỉ là tất cả những gì mỗ biết, chỉ gói gọn trong từng ấy thôi. Từ cổ chí kim chưa ai tìm thấy nó, cũng không ai biết nó rốt cục nằm ở đâu, huống hồ thứ tồn tại bên trong thì đúng là khiến thiên địa đất trời cũng phải mất mật, quỷ thần kinh hãi, bởi vậy mỗ khuyên các vị hãy từ bỏ quyết tâm đó đi!”

Tư Mã Khôi càng nghe càng cảm thấy kỳ quái: “Trong hắc động gần tâm Trái Đất có một ngôi miếu thần không đáy sao? Liệu có phải nó tồn tại nơi tận cùng của biển cát dưới vực sâu không? Ngôi miếu thần đó rốt cục đang giam giữ thứ khủng bố gì?”

Tiếp tục gạn hỏi thì Triệu Lão Biệt cứ ấp a ấp úng không trả lời được, chỉ thanh minh những chuyện còn lại lão ta không biết, ngay cả việc miếu thần không đáy có tồn tại thật sự dưới lòng đất hay không, thì lão cũng không dám khẳng định, đây chỉ là thuyết pháp mà dân biệt bảo lưu truyền từ xưa cho nhau mà thôi.

Tư Mã Khôi cảm thấy tình hình hết sức rối rắm, bèn rút điếu thuốc đưa cho Triệu Lão Biệt hút, rồi bảo Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà trông chừng lão cẩn thận, sau đó ra hiệu bằng mắt cho Thắng Hương Lân, hai người lui vào góc khác thì thầm bàn luận đối sách.

Thắng Hương Lân hỏi Tư Mã Khôi: “Triệu Lão Biệt kia có phải kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh không?”

Tư Mã Khôi trả lời chắc chắn: “Một trăm phần trăm là không, tên cầm đầu mà tôi từng gặp trong tòa thành Nhện Vàng tuy đeo mặt nạ da người, nhưng không hề có chút sinh khí nào, hắn chỉ là một cỗ thi thể lạnh băng, hoặc nói hắn là u hồn cũng được. Nếu hắn xuất hiện lần nữa, chắc chắn tôi sẽ phát hiện ra ngay, còn Triệu Lão Biệt có hơi thở, nhịp tim đàng hoàng, không khác gì người bỉnh thường. Tôi đoán khả năng lão là người bị rơi vào chiếc hộp thời gian, bởi thế chúng ta mới có thể gặp lão bên dưới lòng đất. Tôi nhớ giáo sư Nông địa cầu từng nói qua về một loại nguyên lý liên quan đến chiếc hộp thời gian, nhưng với tôi thì lời vào tai trái lời ra tai phải, chỉ nhớ khoảng ba phần thôi. Cô có biết tường tận về nguyên lý chiếc hộp đó không?

Thắng Hương Lân tuy thất kinh nhưng cô biết, chỉ có “chiếc hộp” mới có thể giải thích được tất cả mọi chuyện. Cô nói với Tư Mã Khôi: Làm gì có nguyên lý chiếc hộp mà chỉ có suy đoán chiếc hộp thôi. Giáo sư có một cuốn sách bằng tiếng Nga do Liên Xô xuất bản, nội dung của nó nói về phương diện mà anh vừa nêu. Cuốn sách đó sau này bị chính phủ Liên Xô nghiêm cấm, tác giả là Nikola Tesla

(1)

 . Sau Cách mạng Văn hóa, giáo sư bị đẩy xuống nông thôn tham gia lao động cải tạo, mọi đồ đạc trong nhà đều bị vứt hết, duy chỉ có mấy cuốn sách là được bác ấy lén giấu đi, cuốn “Suy đoán chiếc hộp” là một trong số đó. Tôi cũng từng xem qua, nhưng nội dung của nó thực sự quá ảo diệu, nhiều điểm rất khó lý giải, nên tôi cũng chỉ hiểu đại khái mà thôi. Trong sách, Tesla đưa ra một vài suy luận, nếu tồn tại một áp lực và chất lượng đủ lớn, thì sẽ nảy sinh hiệu ứng chiếc hộp dưới tác dụng của trọng lực; nếu nói tọa độ thời gian là một đường thẳng thì chiếc hộp lại hoàn toàn thoát ly khỏi đường thẳng ấy, nó giống như một chiếc bình trôi nổi bị cơn sóng thời gian xô đẩy vào bờ vậy.

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(1) Nikola Tesla (1856-1943): nhà phát minh, nhà vật lý, kỹ sư cơ khí và kỹ sư điện tử thiên tài người Mỹ gốc Croatia. Tesla được biết đến với nhiều đóng góp mang tính cách mạng trong các lĩnh vực điện và từ trường trong cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX. Vì tính cách lập dị và những tuyên bố kỳ lạ đến khó tin về sự phát triển của khoa học kỹ thuật, Tesla bị cô lập và bị coi là một nhà bác học điên lúc cuối đời.

Ví dụ sự việc xảy ra trong chiếc hộp đổi thành thời gian thông thường là 30 phút, bất kể bao nhiêu vật chất hoặc sinh mệnh từ bất kỳ điểm nào trên tọa độ thời gian lần lượt chui vào chiếc hộp thì đều cùng trải qua một quá trình trong khoảng thời gian 30 phút đó. Vả lại thời gian trong chiếc hộp không giống đồng hồ cát, chỉ trôi chảy không trở lại. Sau khi các sự kiện xảy ra trong vòng 30 phút, chiếc hộp sẽ tự động phân giải hoàn toàn trong hắc động. Những sinh mệnh và vật chất chui vào chiếc hộp bằng những con đường khác nhau, nếu trong vòng 30 phút mà chưa tìm được cách thoát thân thì sẽ cùng chiếc hộp biến mất vĩnh viễn, nếu lỡ bị chết hoặc bị thương trong chiếc hộp thì cũng không thể quay về hiện thực. Trong thuyết này, Tesla còn suy đoán phản biện rằng: một người vĩnh viễn không bao giờ gặp chính mình trong chiếc hộp.

Thắng Hương Lân nói: “Chỉ có vật chất hắc ám tàn dư sau vụ nổ thiên thạch dưới lòng đất, mới có khả năng hình thành chiếc hộp thời gian, có lẽ phạm vi của nó đã bao phủ khắp Lopnor, vật thể chui vào chiếc hộp đồng nghĩa với việc mất tích thần bí, còn rời khỏi chiếc hộp là xuất hiện thần bí, bây giờ kim đồng hồ của chúng ta vẫn chưa ngừng lại, đã hơn hai tiếng trồi qua – kể từ thời điểm 12 giờ 30 phút, nhưng thời gian này chưa hẳn đã phù hợp với tọa độ thời gian ngoài đời thực, có thể thời gian thực chỉ là mấy phút mà thôi, trước mắt chúng ta vẫn chưa thể xác định được độ dài của thời gian trong sương đen, nhưng một điều có thể khẳng định chắc chắn là nó đang không ngừng rút ngắn dần.”

Tư Mã Khôi thầm thấy kinh ngạc, chiếc hộp này còn nguy hiểm hơn nhiều so với những gì anh tưởng tượng, bởi vì Triệu Lão Biệt cũng chưa trải qua sự kiện bị chết trước Hắc Môn, nên lão chắc chắn có thể thoát thân khỏi chiếc hộp, trong khi tương lai và kết quả của đội khảo cổ thì vẫn chưa biết.

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ trong chốc lát, rồi quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Những sự kiện xảy ra trong chiếc hộp có thể nào thay đổi sự thực đã sớm diễn ra từ trước không?”

Thắng Hương Lân lắc đầu đáp: “Không thể nào, bởi vì bản thân chiếc hộp cũng là một phần của sự thực.”

Tư Mã Khôi thấy hối hận sâu sắc, khi nãy đáng ra không nên kể cho Triệu Lão Biệt nghe về nội dung những bức họa trong cuốn cổ tịch. Có điều nếu không nói với lão thì đội khảo cổ đã không nhìn thấy cuốn cổ tịch đó, càng không thể biết giờ đây mọi người đã bị lạc vào chiếc hộp thời gian, đồng thời cũng không lấy được tin tình báo về thần miếu vô đáy dưới cực vực.

Tư Mã Khôi bất giác nhớ đến thuyết số mệnh của quốc vương Chăm Pa – không phải xuất hiện nguyên nhân mới nảy sinh kết quả, mà kết quả tạo ra những nguyên nhân phức tạp. Một nguyên nhân không có kết quả sẽ không thể gọi là nguyên nhân, cũng chính vì sự tồn tại của kết quả nên mới khiến những sự kiện phát sinh từ trước trở thành nguyên nhân. Mối quan hệ giữa nhân và quả, giống như một cây cổ thụ tán lá rợp trời, trong đó kết quả được định đoạt trở thành sự thực, chính là gốc, còn nguyên nhân là tán lá sum suê rậm rạp đan cài chằng chịt với nhau. Người nắm bắt trước được kết quả sẽ mò mẫm ra quy luật của số mệnh. Quốc vương Chăm Pa đã chìm đắm vào con đường này, kết quả cứ thế đùa giỡn và đùa giỡn với cả số mệnh của chính mình.

Hai người càng nghĩ càng cảm thấy thế thái thật khó lường, không biết khi nào đám sương đen mới tiêu tan, càng không biết phải làm gì mới thoát khỏi chiếc hộp. Tư Mã Khôi bất lực đành phải hỏi Triệu Lão Biệt, lần này anh chủ yếu hỏi lão về lai lịch cuốn cổ tịch biệt bảo.

Triệu Lão Biệt không thể thoái thác, bèn nói: “Thực chẳng dám giấu, cuốn cổ thư đó thật ra không phải do tổ tông mỗ truyền lại. Từ thời nhà Tống, nó đã bị lưu lạc đến nước Chăm Pa. Trước đây không lâu, có một hội thổ tặc khai quật lăng tẩm quốc vương Chăm Pa, vô tình kiếm được cuốn sách này, kỳ thực trong lăng vua Chăm Pa ngoài chiếc quan tài ma ám ra thì chẳng có thứ hàng gì đáng tiền cả. Toàn bộ báu vật đích thực của vương triều Chăm Pa đều chôn giấu trong tòa thành Nhện Vàng. Năm đó vua Chăm Pa, khi xây thành từng ra lệnh rằng: tòa thành đó phải ‘lấy đấu đong vàng, vàng nhiều như cát’. Hì hì… đúng là huy hoàng hiển hách, cái thế vô địch mà, không biết ai có phúc phận tận mắt trông thấy tòa thành đó không?”

Hải ngọng nói: “Thế đã là gì, ông Hải ngọng còn đi một vòng trong tòa thành Nhện Vàng, rồi gặp cả âm hồn không tiêu tan của lão quốc vương Chăm Pa ấy chứ…”

Tư Mã Khôi nhớ lại sóng điện u linh trong mật thất của tòa thành cổ, rồi thấy Triệu Lão Biệt có vẻ khá am tường về lai lịch tòa thành Nhện Vàng, anh bèn hỏi lão: “Thông đạo được ghi chép bằng mật mã long ấn triều Hạ có phải là con đường dẫn tới miếu thân vô đáy không?”

Triệu Lão Biệt ngơ ngác không hiểu gì, lắc đầu thể hiện rằng mình không biết việc này, tòa thành Nhện Vàng đúng là có thật, nhưng sóng điện u linh là cái gì? Còn long ấn triều Hạ là báu vật quý hiếm nào đó ư?

Mọi người lo chiếc hộp mau chóng biến mất, lại muốn biết được thêm càng nhiều tin tình báo của Triệu Lão Biệt càng tốt, nên cố gắng giản lược tình tiết, giải thích gốc gác ngọn nguồn của cả chuỗi sự kiện cho lão nghe.

Mới nói được nửa chừng, Tư Mã Khôi bỗng cảm thấy tình hình không ổn, bèn vội vàng ngăn mọi người lại. Anh từ trước đến giờ vẫn không thể nghĩ ra vì sao Nấm mồ xanh lại tường tận tất cả mọi chuyện, từ bí mật ẩn giấu trong khuôn mặt giống như thần phật của quốc vương Chăm Pa, sóng điện u linh bị giam giữ hàng ngàn năm trong mật thất, thực vật khổng lồ dưới lòng đất, rắn bay ẩn mình trong sương mù… Tất cả những điều này gần như là bí mật mà quỷ không biết thần không hay, ngay cả vua Chăm Pa cũng không thể biết hết toàn bộ. Những việc khác thì không nói, nhưng vua Chăm Pa chắc chắn không ngờ vị thánh tăng bị ông ta chôn sống trong mật thất, lại bị từ trường dưới lòng đất hút hết trí nhớ sóng não, để trở thành sóng điện u linh vô cùng quan trọng. Sự việc cách hiện tại cả ngàn năm, sau đó còn ai biết được bí mật kinh thiên động địa này như lòng bàn tay nữa? Cho dù Nấm mồ xanh có đánh cắp cỗ quan tài vàng trong cung điện ở thành cổ Huế, thì hắn cũng không thể biết những bí mật này, trừ những người tự mình trải qua cả chuỗi sự kiện và tiết lộ bí mật ra ngoài tại chiếc hộp thời gian.

Tư Mã Khôi biết rõ Triệu Lão Biệt tuyệt đối không phải kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh, nhưng rất có khả năng Nấm mồ xanh đã lấy được thông tin từ miệng lão một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, từ đó nắm được những manh mối quan trọng để tìm kiếm miếu thần không đáy. Vì đội khảo cổ mới tiết lộ một nửa bí mật, đặc biệt vẫn chưa nói hết chuyện “chỉ có rắn bay mới có thể đi vào sương mù”, nên khi ở trong khe núi Dã Nhân, Tư Mã Khôi mới cảm thấy Nấm mồ xanh chỉ chạm tới ẩn số mà không biết rõ ẩn số đó ám chỉ ý nghĩa gì.

Nhưng bây giờ, cho dù có nói rõ với Triệu Lão Biệt: “Từ giờ, lão đừng làm cái nghề thổ tặc này nữa, kẻo có ngày phải bỏ mạng dưới Hắc Môn”, thì lão thổ tặc tham lam ngu muội kia chắc gì đã nghe lời, mà có khi lại còn cho rằng mọi người định triệt đường phát tài của lão chưa biết chừng, bất kể giải thích thế nào, lão cũng không tin, mà còn truy hỏi căn nguyên gốc rễ. Nói tóm lại, kẻ gây ra kết quả như hiện tại chính là đội khảo cổ. Bây giờ ngẫm kỹ lại thấy những chuyện này đều là sự thực đã xảy ra, sự tuyệt vọng sâu sắc khiến người ta cảm thấy run rẩy như bị nằm trên băng.

Triệu Lão Biệt thấy mọi người đột nhiên trầm lặng hẳn xuống, bầu không khí vô cùng căng thẳng, thì biết nếu tiếp tục lưu lại chắc chắn sẽ xảy ra chuyện, thế là lão cười hì hì, bảo: “Các vị, mỗ làm phiền các vị quá! Chúng ta hẹn ngày tái ngộ.”

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ hai

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">HẢI ÂU NGỦ YÊN

Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt “bôi dầu nhớt dưới chân” chuẩn bị chuồn, thì nghĩ thầm: “Lão này đúng là đen tận mạng, giờ muốn treo cổ lão cũng chẳng tìm thấy dây thừng. Nếu đúng là mấy kẻ may mắn sống sót trong đội khảo cổ bọn ta vô tình tiết lộ bí mật trong chiếc hộp thời gian, khiến Nấm mồ xanh nắm bắt được manh mối then chốt tìm kiếm miếu thần dưới lòng đất, thì mình đúng là đáng chết trăm ngàn lần”.

Mạch suy nghĩ trong đầu anh rối loạn bất định. Anh biết rõ tất cả những việc này đã trở thành sự thực sờ sờ truớc mắt như ván đã đóng thuyền. Đối diện với vòng tuần hoàn khép kín do chiếc hộp thời gian tạo ra, mặc cho anh có nghĩ ra bao chủ ý, bao kể sách, thì vẫn không đủ sức xoay chuyển càn khôn. Nếu sớm biết có ngày hôm nay thì ngay từ khi đội du kích Cộng sản Miến Điện tan rã, đáng lẽ anh nên tự kết liễu đời mình trong núi sâu cho xong, chỉ cần nhắm mắt xuôi tay thì mọi chuyện lớn nhỏ trên thế gian đều chẳng cần quan tâm đến nữa.

Nhưng cõi đời này từ xưa đến nay làm gì có thứ thuốc nào gọi là hối hận, những sự thực đã xảy ra thì đều đã xảy ra rồi, tất cả chung quy chỉ tại định số, chẳng ai có thể đưa ra bất kỳ thay đổi gì. Cho dù bây giờ có muốn giết Triệu Lão Biệt e rằng cũng không được, bởi vì người này được định đoạt phải gục ngã cùng đội thám hiểm Pháp ở ngoài Hắc Môn. Điều này là sự thực sớm đã phát sinh trong vòng tuần hoàn khép kín.

Tư Mã Khôi nghĩ đến dây, đột nhiên cảm thấy không đúng, nếu Triệu Lão Biệt xuất hiện trong chiếc hộp thời gian chết ở Hắc Môn vì hội chứng địa áp, thì kẻ chết trong thành đom đóm nơi nghĩa địa La Sư là ai? Theo lý mà nói, một người tuyệt đối không thể để lại hai xác chết, xem ra trên mình Triệu Lão Biệt vẫn còn giấu giếm rất nhiều ẩn số khó giải…

Triệu Lão Biệt nhìn sắc mặt Tử Mã Khôi trầm ngâm bất định, chỉ cúi đầu không biết đang nghĩ ngợi gì, lão bất giác thấy trống ngực gõ mạnh. Không muốn lưu lại chốn này thêm một khắc nào, lão bèn cáo từ thêm lần nữa: “Trông các vị như thể thần sai phật khiến, người nào cũng phi phàm, nói đến nơi, làm đến chốn. Cho phép mỗ nói câu này, dựa vào ánh sáng ngọn nến lù mù như mỗ, mà có ngày gặp được ánh trăng rạng rỡ trên bầu trời bao la đúng là phúc phận ba đời nhà mỗ, chắc chắn là mỗ có duyên phận từ kiếp trước với các lão gia. Ở đời, núi không chuyển thì nước chuyển, nước không chuyển thì người chuyển, sau này không chừng chúng ta lại có ngày trùng phùng, bây giờ thì mỗ phải cáo từ các vị ở đây!” – Nói xong, lão quay người định đi.

Tư Mã Khôi thấy vậy nhíu mày thầm nghĩ: “Hay là mình cứ nói cho Triệu Lão Biệt biết việc kiếp số trông thấy trong sa mạc, để vẹn toàn nghĩa khí hai bên từng quen biết nhau năm đó; sau này, bất kể mỗi người gặp phải kết quả thế nào, thì mình cũng không có gì hổ thẹn với lương tâm.” – Nghĩ đoạn, anh bèn trèo lên cao. Triệu Lão Biệt chưa kịp chạy thoát khỏi cửa động đã bị giật ngược trở lại.

Triệu Lão Biệt cứ ngỡ vì mình biết quá nhiều, nên mới bị hội người này giết người diệt khẩu. Lão cuống quýt nói với Tư Mã Khôi: “Ối vị thủ lĩnh ơi, cậu có muốn đoạt cái mạng già của mỗ cũng không hề gì, nhưng phải để cho mỗ nói rõ ràng mấy câu trước khi xuống suối vàng mới được. Chúng ta bèo nước tương phùng, trước giờ không thù không oán; theo lý mà nói, thì cũng không có mắc mớ gì không thể tháo gỡ được. Mỗ chưa từng làm hại các vị, đây ứng với chữ “nhân”, lại có lòng tốt khuyên các vị đừng đi tìm miếu thần, là đắc với chữ “nghĩa”, cũng theo quy tắc vòng qua đáy biển giang hồ, vậy là trọn chữ “lễ”. Các vị hỏi gì mỗ trả lời nấy, không có điều gì biết mà không nói, hoặc nói không hết lẽ, mỗ đem tất cả những gì mình biết nói tuốt tuột cho các vị, vì thế cũng chiếm được chữ “trí”; mỗ đem hết ruột gan phơi bày trước mặt các vị, miệng không bịa đặt hay nói khống câu nào, ấy là chữ “tín”. Mỗ đây lai lịch đường hoàng đĩnh đạc, chiếm trọn cả năm chữ “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, người bất lương không kết giao, vật bất nghĩa không thèm lấy, điều cấm kỵ không bao giờ làm, đồ trộm cắp không bao giờ ăn, nội tứ bể có người nào mà không tán dương? Thế mà các vị lão gia đây lại thất tín bội nghĩa, nỡ tâm hạ độc thủ, nên mỗ buộc phải nói với các vị mấy câu thế này: các vị thứ nhất hoại quốc pháp, thứ nhì hoại gia quy, thứ ba hoại nhân phẩm, thứ tư hoại tâm thuật, thứ năm hoại hành chỉ, thứ sáu hoại tín nghĩa, thứ bảy hoại thanh danh, thứ tám hoại…”

Tư Mã Khôi thấy đối phương thao thao bất tuyệt, trong lòng thấy không đúng lắm, bèn chặn lời Triệu Lão Biệt: “Đừng mang mấy bài cải lương cổ lỗ sĩ ra đối phó với tôi nữa. Theo như lão nói thì cổ nhân thánh hiền đều chẳng sánh kịp lão, nếu tôi thực sự muốn hạ thủ lấy cái mạng già của lão thì làm gì có chuyện lão còn sống đến tận bây giờ? Tôi đuổi theo là để nói cho lão một việc vô cùng quan trọng…”

Trong măt Triệu Lão Biệt ánh lên một tia gian manh, hỏi: “Ơ! Thế… nhầm à?” – Lão ta lòng dạ hẹp hòi, quen nghi kỵ, căn bản không chịu tin người, phát hiện lần này không bị đối phương nắm chặt mạch, bèn nhân lúc nói chuyện đột ngột chùn vai xuống, sử dụng chiêu “co xương” giãy tay một cái đã rũ được sự kìm kẹp của Tư Mã Khôi, rồi thuận thế bò ra ngoài cửa động.

Tư Mã Khôi thấy tay trống không thì biết Triệu Lão Biệt đã chuồn, anh bừng bừng lửa giận, óc vụt lóe lên ý niệm giết người, không quan tâm đến tiền nhân hậu quả gì nữa, anh thầm nghĩ: “Lúc này trừ khử Triệu Lão Biệt, chẳng phải đầu xuôi đuôi lọt hay sao, mọi sự sẽ chấm dứt ở đây.”

Triệu Lão Biệt tuy trốn nhanh, nhưng rốt cục làm sao sánh bằng tốc độ nhanh như gió cuốn của Tư Mã Khôi. Lão tự biết mình không mò được lối ra tất sẽ bị người ta tóm cổ, thế là thuận thế sử dụng tiếp chiêu “thỏ cưỡi lưng đại bàng”, hai chân đạp ngược tung liên hoàn cước rút lui ra sau.

Tư Mã Khôi không ngờ đối phương lại biết chiêu này, đành né sang một bên tránh, thấy Triệu Lão Biệt đã bò vào màn sương đen, rồi trong chớp mắt đã mất tăm mất dạng, anh chửi lớn: “Tiên sư lão tặc! Lủi cũng nhanh ghê!”

Lúc này, ba người còn lại cũng đuổi kịp tới nơi. Tư Mã Khôi biết Triệu Lão Biệt được định đoạt sẽ đào thoát khỏi chiếc hộp thời gian, sự thực đã xảy ra này rốt cục không thể nào thay đổi được, nhưng số phận đội khảo cổ lại lành dữ khó lường, cho dù không thể trừ khử Triệu Lão Biệt, cũng phải từ người này mà tìm thấy cách đào thoát khỏi chiếc hộp thời gian.”

Tư Mã Khôi lòng đã quyết, anh bảo đội trưởng Lưu Giang Hà ở lại trông chừng ba lô hành lý, rồi ba người đội máy thở phòng độc hình mang cá, lần lượt chui từ hai hốc mắt của người sắt bò ra vách ngoài, nhưng chỉ thấy bốn bề sương đen vây bủa, chỗ nào cũng đều là tầng bụi dày nặng giống như tro cốt, thời gian và không gian dường như không còn tồn tại. Chùm sáng đèn quặng lắp trước mũ bấc của họ chỉ soi được khoảng cách ba đến năm bước trước mặt, còn tầm nhìn ở những khe sương khí giống như cột khói đen thì vươn xa hơn một chút, nhưng vẫn không thấy bóng dáng Triệu Lão Biệt đâu.

Có điều hội Tư Mã Khôi phán đoán: trong tình hình như hiện nay, có lẽ đối phương cũng không thể trốn đi quá xa. Cả hội bèn bò ra xung quanh vách tường tìm kiếm, lục soát suốt hồi lâu thì phát hiện thấy Triệu Lão Biệt quả nhiên đang nằm rạp trốn ở cách đó không xa, ba người bèn lấy tay ra hiệu mau chóng tiếp cận.

Triệu Lão Biệt cũng phát hiện có người đến gần, lúc này lão như con chim sợ cành cong, thấy đối phương muốn động thủ thật, lòng cũng hoảng cả lên, thế là lão từ vách sắt trở người lăn lông lốc xuống dưới.

Tư Mã Khôi trừng mắt nhìn Triệu Lão Biệt rơi vào sương đen, cũng không biết trong đám sương mông lung đó có thứ gì, chỉ nghe âm thanh phát ra “rầm” một tiếng, rõ ràng lão không bị rơi tuột xuống đáy, mà bị một vật thể nào đó chặn lại. Triệu Lão Biệt đau đớn khẽ rên hừ hừ.

Tư Mã Khôi thầm thấy kinh ngạc: “Xung quanh phía ngoài khối thiên thạch sắt hoàn toàn trống không, làm gì có vật gì khác tồn tại nữa nhỉ?”. Anh vội vàng lao đến nhìn cho rõ. Tư Mã Khôi lần theo hướng âm thanh truyền tới bò vào trong sương mù, phát hiện chỗ mình đặt chân là một mảnh vỏ sắt lạnh lẽo, dường như là loại máy móc gì đó, nổi bập bềnh giữa không trung. Nhưng máy móc gì có thể bay lững lờ giữa trời như vậy được nhỉ? Nghĩ đi nghĩ lại e rằng chỉ có máy bay, nhưng sao nó lại dừng lại trong đám sương đen và hoàn toàn im lìm bất động thế nhỉ?

Lúc này, Hải ngọng và Thắng Hương Lân cũng lần theo ánh đèn đuổi kịp phía sau, ba người kinh ngạc không nói nên lời, cảm thấy phía dưới chân dường như là một chiếc máy bay, nhưng vì bị sương đen che khuất tầm nhìn, nên không xác định chính xác được.

Đúng lúc đang chần chừ chưa dám tiến lên xem rõ thực hư, thì thấy Triệu Lão Biệt nấp mình trong sương mù ngay trước mặt đang chậm chạp di chuyển, Hải ngọng lập tức giương súng và lên quy lát, tuy chưa hiểu tình hình cụ thể thế nào, nhưng anh biết ý Tư Mã Khôi định bắt sống lão, bởi thế vẫn giơ cao đánh khẽ, họng súng hơi chếch lên trên nửa phân, tiếng đạn bay nghe “chíu” một tiếng, sượt qua da đầu Triệu Lão Biệt, xuyên thủng cái mũ tám vạt của lão.

Triệu Lão Biệt thất kinh biến sắc, vừa bò vừa lăn xuống nhặt cái mũ rách và quay người chạy trốn. Lão thấy cái khoang trước mặt có một khe nứt, chẳng nghĩ ngợi gì bèn chui tọt vào trong.

Nhờ chùm sáng của đèn quặng, hội Tư Mã Khôi trông thấy bóng dáng Triệu Lão Biệt thấp thoáng vụt qua rồi mất tích trong sương mù, ba người lập tức tiến thêm vài bước và cùng trông thấy khe nứt trên khoang máy bay, hai sườn đều có cửa sổ, bên trong tối thui, không có chút ánh sáng nào, nhìn kiểu gì cũng thấy nó rõ ràng là một chiếc phi cơ.

Những gì tận mắt chứng kiến lúc này quả thực đúng là một cảnh tượng khiến người ta ngộp thở, trống ngực ba người cùng đập thình thịch, bên trong mặt nạ phòng độc hơi thở của họ trở nên nặng nề, ngắt quãng, sương mù xung quanh càng lúc càng dày đặc. Ba người liên tục đưa tay gạt lớp sương dày như tro bụi lởn vởn trước mặt, mới có thể trông thấy chùm sáng của đèn quặng, hoàn toàn không thể xác định được mình đang đứng ở đâu, nhưng cảm giác chỗ dưới chân đang giẫm lên có lẽ là phần cánh máy bay, tiếp tục xuống phía dưới chỉ còn hư vô im lìm và u tối.

Trong đầu Tư Mã Khôi bập bềnh hiện lên một ý niệm: xuất hiện trong chiếc hộp thời gian không chỉ có đội khảo cổ và Triệu Lão Biệt, mà còn có chiếc Ilyushin-12 gặp sự cố hàng không ly kỳ vào năm 1963, có điều cảm giác thấy hình thù chiếc máy bay này không giống lắm, hơn nữa nó lại hoàn toàn rơi vào trạng thái im lìm bất động, vỏ ngoài bị nứt vỡ, dường như vào khoảnh khắc trước khi rơi, thì đột ngột bị đông cứng giữa tầng không vậy, rốt cục thì chuyện gì đã xảy ra với nó? Nếu nói thời gian chỉ là tham số khi sự kiện chuyển động, thì sao nó lại đứng yên bất động?

Ba người thầm kinh hãi, chui vào trong khoang tìm kiếm tung tích Triệu Lão Biệt, soi đèn quặng ra bốn phía xung quanh; những gì nhìn thấy trước mắt càng làm họ cảm thấy hồn xiêu phách lạc, hai hàng ghế dọc theo thân máy bay lấp đầy hành khách đen kìn kịt, khoảng hai ba mươi người gì đó, nhưng những người này ngồi lặng phắc như tờ, ai nấy đều lộ vẻ mặt méo mó cứng ngắc, hơi thở và nhịp tim đã ngừng từ bao giờ, tất cả chỉ là những thi thể. Trong bóng tối mịt mùng, ba người không thể nhận ra Triệu Lão Biệt trốn chỗ nào.

Hải ngọng thấy trong khoang máy bay không có sương đen, bèn gỡ thiết bị phòng độc xuống, thở hổn hển, anh kinh ngạc thốt lên: “Chỗ này rốt cục là nơi quỷ quái nào vậy? Tớ thấy cái lão Triệu Lão Biệt chắc chắn là con chồn già chui từ huyệt mộ ra, chúng ta đều bị trúng yêu thuật che mắt của nó rồi!”

Tư Mã Khôi cũng gỡ mặt nạ phòng độc trên mặt xuống, thấy cảnh tượng bốn phía xung quanh đúng là khiến người ta tim đập chân run. Anh cũng hoài nghi hay là cả bọn quả thực đã trúng phải thuật “chướng nhãn pháp”

(1) 

của lão, có điều chiếc máy bay này chắc chắn không phải chiếc Ilyushin-12, có lẽ nó là máy bay vận tải quân dụng Douglas-C47 do Mỹ chế tạo, còn có tên gọi khác là tàu hỏa trên không, hay Hải Âu. Trước đây, Tư Mã Khôi và Hải ngọng từng nhìn thấy nó lần đầu ở Miến Điện.

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(1)  Chướng nhãn pháp: là thuật che mắt đối phương hoặc thay đ<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ổ<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">i hướng nhìn của đối phương.

Chiếc tàu hỏa trên không này rốt cục từ đâu mọc ra đây? Những người ngồi bên trong đã chết như thế nào? Vì sao nó lại rơi vào trạng thái hoàn toàn tĩnh tại? Thời gian trong này có bị đông cứng hay không? Nếu thứ đông cứng không phải thời gian thì chắc hẳn một điểm nào đấy phải có vấn đề, tóm lại tình hình ở đây thực sự quá mức khác thường.

Thắng Hương Lân nhìn cảnh tượng dị thường bày ra trước mắt cũng thấy vô cùng khiếp đảm, cô cố gắng khắc chế tâm lý hoảng sợ, nhắc Tư Mã Khôi: “Nhìn ký hiệu thì có lẽ nó là chiếc máy bay Hải Âu C47 bay từ Trùng Khánh đến Urumqi vào năm 1949, đường bay từ nam hướng sang tây bắc, nhưng giữa đường lại đột ngột mất tích. Mãi mười năm sau, mới có người phát hiện tàn tích của nó rơi ở rìa sa mạc Lopnor, tất cả hành khách bên trong đều đã chết, không một người nào may mắn sống sót, cũng chẳng ai hay biết vì sao nó lại đột ngột thay đổi đường bay sang hướng chính nam.”

Tư Mã Khôi lờ mờ nhớ ra sự việc này, hình như đúng là thế thật, trong đầu anh hiện lên một nghi vấn vô cùng kinh dị: “Phải chăng Triệu Lão Biệt là một trong những hành khách đã đáp chuyến bay tử thần C47 hôm đó?”. Anh nhỏ giọng hỏi Thắng Hương Lân: “Vậy thì vì sao Tesla không giải thích hiện tượng này trong nguyên lý chiếc hộp thời gian nhỉ? Thời gian, cái thứ đó đừng nói đựng trong chiếc hộp, cho dù có nhốt nó vào quan tài, thì nó cũng… không thể ngừng lại được mới đúng chứ?”

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ ba

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">HÀNH TRÌNH ĐẾN <strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ĐỊA NGỤC SAU MỘT GIÂY

Lúc này, Hải ngọng đột nhiên cảm thấy tình hình không ổn, anh nhỏ giọng bảo Tư Mã Khôi: “Ai nói thời gian ngừng trôi, sao tớ có cảm giác những người chết trong khoang máy bay… cứ nhìn bọn mình chằm chằm thế nhỉ?”

Nghe Hải ngọng nói, Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân bỗng dưng cảm thấy sau gáy lạnh buốt, giống như có trận gió âm vừa quét qua vậy, cũng không rõ cảm giác đó là sợ hãi hay quái dị, hoặc có khi là cả hai cũng nên, nhưng rốt cục chưa ai trong số họ từng nghe đến việc tử thi còn có thể nhìn người sống chằm chằm.

Tư Mã Khôi lấy can đảm soi đèn sang hai bên trái phải, phát hiện trong khoang đúng là có vài người chết mở mắt trừng trừng, nhưng hai con mắt đều đã bất động, đồng tử không hề có chút phản ứng nào với ánh sáng, đó chỉ là những tử thi không còn sự sống mà thôi. Anh nhỏ giọng bảo Hải ngọng: “Khả năng chỉ là ảo giác nảy sinh do cậu quá đa nghi thôi; cậu cứ nhìn chằm chằm vào mấy thi thể đó, thì tự nhiên sẽ cảm thấy chúng cũng đang nhìn cậu.”

Hải ngọng không cho rằng đó là ảo giác: “Nếu cậu không nhìn những người chết đó, làm sao biết bây giờ họ có đang nhìn cậu hay không? Hai người cứ thử nhìn kỹ lại mà xem, tuyệt đối không được chớp mắt!”

Tư Mã Khôi trầm giọng nói nhỏ: “Cậu tưởng mình là lão rùa trợn mắt nhìn hạt đậu hay sao mà lại còn tuyệt đối không được chớp mắt? Đừng để ý đến mấy xác chết đó nữa, tìm Triệu Lão Biệt quan trọng hơn, có thể lão chỉ trốn ở đâu đó quanh đây thôi.”

Nhưng cả ba người đều phát hiện thấy khoang máy bay C47 ngập tràn không khí cổ quái, kỳ bí. Trước khi thăm dò rõ tình hình, ai dám mạo hiểm chui sâu vào trong khoang lục soát. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc này, Thắng Hương Lân bạo gan thử sờ động tĩnh mạch của hai xác chết ngồi hai bên, cô hoàn toàn không phát hiện thấy bất kì phản ứng nào của sự sống, nhưng hai thi thể đó không hề cứng đờ, mà dường như chỉ mới chết chưa lâu. Cô định thần suy nghĩ, trong lòng chợt cảm thấy vô cùng hãi hùng: “Những người này tuy rằng không còn hơỉ thở và nhịp tim, nhưng dường như vẫn còn sống…”.

Hải ngọng cảm thấy lạ lùng khó hiểu: “Không còn hơi thở và nhịp tim mà lại có thể sống sao? Chẳng lẽ là thi thể sống?”

Tư Mã Khôi dường như lại hiểu ra điều gì đó, chiếc máy bay vận tải Hải Âu Douglas-C47 mất tích ở ven hoang mạc Lopnor vào năm 1949, có lẽ cũng gặp sự cố trên không nào đó giữa đường, khiến cho khoang máy bay bị nứt toác. Nó là chuyến bay tử thần sắp đáp xuống vực sâu dưới địa ngục, nhưng trong khoảnh khắc trước khi rơi xuống, nó bỗng dưng xuất hiện trong chiếc hộp với trạng thái hoàn toàn tĩnh tại.

Thời gian trong này ngưng tụ bất động, giống như đoạn băng của một bộ phim đang phát sóng thì bị kẹt vậy, thậm chí ngay cả hơi thở và nhịp tim của toàn bộ hành khách trong khoang cũng đơ luôn tại trận, bởi vậy mới khiến người ta có cảm giác tất cả hành khách đều là những tử thi hoàn toàn không có hơi thở và nhịp tim, tuy rằng giờ khắc này đã tiệm cận cái chết.

Tư Mã Khôi tự thấy mọi sự kỳ lạ trên cõi đời mà mình từng trải qua, thì đây là cảnh tượng kỳ lạ nhất. Trước đây, khái niệm về thời gian của anh vẫn còn khá mơ hồ, mãi cho đến hai ngày trước, anh mới biết nếu không có sự kiện phát sinh, thì căn bản không có sự tồn tại của thời gian. Bởi vậy thời gian không phải một loại vật chất cụ thể nào đó, cũng tuyệt đối không thể xuất hiện tình trạng thời gian tĩnh tại, trừ phi thiên địa trời đất lại quay trở về thời kỳ hỗn độn thuở ban đầu.

Vậy mà, chiếc Hải Âu C47 đột ngột xuất hiện trong chiếc hộp thời gian, lại hoàn toàn rơi vào trạng thái tĩnh tại, ngoại trừ dùng cụm từ “thời gian đông kết” để hình dung ra, thì liệu còn có nguyên lý nào đủ sức giải thích cho hiện tượng này? Nhưng nếu nói thời gian ngưng trệ, không trôi chảy nữa, thì vì sao mấy thành viên trong đội khảo cổ đây, và cả Triệu Lão Biệt đang trốn trong khoang máy bay, lại vẫn có thể hoạt động bình thường?

Nếu nói ẩn số lớn nhất của bản thân loài người là số mệnh, thì ẩn số lớn nhất trong cõi đời chính là thời gian. Từ xưa, tiền nhân đã lý giải rất sâu sắc về thời gian “Thời gian thấm thoắt thoi đưa, nó đi đi mãi, có chờ đợi ai…”. Vốn dĩ Tư Mã Khôi cũng có đôi chút nhận thức về bản chất của thời gian, nhưng giờ khắc này lòng anh tràn đầy nghi hoặc, anh phát hiện mình căn bản không thể lý giải ý nghĩa đích thực của thời gian.

Hải ngọng càng lơ mơ mờ tịt hơn, anh hoàn toàn không hiểu Thắng Hương Lân nói gì, nhưng cũng vẫn hỏi một câu: “Thời gian, cái thứ ấy nhìn không thấy, sờ không được, chẳng lẽ nó có thể đứng im không trôi được sao?’’

Thắng Hương Lân vẫn kiên định với quan điểm ban đầu của mình thời gian không thể nào đứng lại, nếu thời gian không trôi nữa, thì có lẽ đó là sự ngừng hoạt động theo phương diện phân tử, thậm chí ngay cả ánh sáng cũng sẽ biến mất, cơ thể con người không thể có bất kỳ cảm xúc tri giác và tư duy nào nữa, bởi vậy chỉ cần không gian vẫn tiếp tục duy trì, thì thời gian không thể nào đông cứng.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều cảm thấy kì lạ chính ở điểm này. Theo lý thuyết, nếu thời gian không thể đứng lại, thì cảnh tượng trước mắt rốt cục phải giải thích thế nào? Dường như thời gian là thứ mà phải có vật tham chiếu mới cảm nhận được; vật tham chiếu của ba người chúng ta chính là “tôi, anh và cô ấy”, còn nếu vật tham chiếu là những người đã chết, đang ngồi bất động trong khoang máy bay, thì lúc ấy thời gian coi như bị đông cứng, hơn thế nữa nó còn tĩnh lặng thâm trầm hơn cả cái chết. Phải chăng điều này có thể lý giải là: thời gian của đội khảo cổ và Triệu Lão Biệt vẫn bình thường, chỉ có thời gian của Hải Âu C47 mới đột nhiên đứng lại mà thôi? Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thắng Hương Lân nói: “Sự giải thích hợp lý duy nhất chính là tốc độ. Bởi vì thời gian không tồn tại tiêu chuẩn duy nhất. Tương tự như vậy, cùng bị lạc trong chiếc hộp thời gian, nhưng tốc độ của đội khảo cổ và C47 hoàn toàn không giống nhau.”

Thắng Hương Lân biết rõ thuyết chiếc hộp thời gian của Tesla chỉ là một suy đoán, tất cả nguyên lý liên quan đến nó đều là giả định, mà Tesla đặt ra sau khi căn cứ vào tất cả những suy luận, định luật vật lý đã biết. Tesla suy đoán chiếc hộp hoàn toàn thoát ly khỏi tọa độ thời gian, và thời gian trong chiếc hộp đó tự mình hình thành nên một hệ độc lập. Nếu hình dung một cách chính xác hơn, thì chiếc hộp có lẽ là những sự kiện trong các điểm tọa độ thời gian đã bị một nhân tố không xác định nào đó bóp méo vào nhau. Bản thân chiếc hộp giống như chiếc đồng hồ cát không có đáy, những hạt cát bên trong trôi xuống hoàn toàn mất tính phương hướng và khả năng đảo hướng, nó tan biến như mây khói trong hắc động, vĩnh viễn không thể phục hồi tồn tại. Bởi vậy, không phải đội khảo cổ gặp được Triệu Lão Biệt đã chết, cũng không phải Triệu Lão Biệt gặp được đội khảo cổ đến từ năm 1974, mà mọi người, cũng như chiếc Hải Ẩu C47 bị rơi, đều đang trải nghiệm “hiện tại” phát sinh trong chiếc hộp. Có điều, từng đối tượng bước vào chiếc hộp bằng các con đường khác nhau, nên trải qua tốc độ vật lý của sự kiện cũng không giống nhau. Đối với đội khảo cổ, thời gian trôi trong vài giờ, nhưng đối với Hải Ẩu C47, khoảng thời gian đó có lẽ chỉ là khoảnh khắc mấy giây trước khi họ bị rớt xuống đáy vực.

Giờ đây, chiếc hộp mà mọi người đang đúng ở bên trong, khả năng là sóng động được hình thành do lực từ cực manh dồn ép xuống không gian với vận tốc vô cùng lớn lúc xảy ra vụ nổ thiên thạch dưới lòng đất. Chúng ta chưa thể xác định những hiện tượng mất tích thần bí, thường xuyên xảy ra ở hoang mạc Lopnor liệu có phải tất cả đều liên quan đến điều này không. Nhưng căn cứ vào cả chuỗi tình huống mà chúng ta đã gặp, có thể suy đoán: việc đội khảo cổ lẩn trốn sương đen trong biển cát, việc Triệu Lão Biệt đơn thương độc mã hành động, và việc chiếc máy bay Hải Âu C47 lệch đường bay, bản thân mỗi đối tượng này đều là những sự kiện tồn tại độc lập; chúng lần lượt tương ứng với ba sự kiện “sự kiện biệt bảo”, “sự kiện khảo cổ” và “sự kiện tai nạn hàng không”. Ba sự kiện vốn dĩ tồn tại độc lập này, bị một lực thống nhất nào đó bện thành một sự kiện có hình xoắn ốc trong chiếc hộp thời gian, bởi vậy bất kể đối tượng nào từ thiên thạch sắt nhảy xuống đều sẽ rơi vào trong chiếc máy bay Hải Âu C47 đang trong quá trình rơi này, khái niệm thông thường về không gian không còn thích hợp trong chiếc hộp nữa.

Thắng Hương Lân biết rõ, ngay trong một chốc một lát thì khó có thể giải thích cho Tư Mã Khôi và Hải ngọng hiểu rõ được khái niệm phức tạp này, vậy nên cô đành chỉ nói khái quát rằng nguyên nhân cơ bản là do tốc độ không đồng nhất tạo nên: “Tốc độ của Triệu Lão Biệt và đội khảo cổ đồng nhất hoặc gần bằng nhau, bởi vậy lão không thể là hành khách từng đáp chuyến Hải Âu C47 tử thần năm ấy. Nhưng bây giờ, chúng ta sẽ không kịp tìm thấy Triệu Lão Biệt nữa đâu, bởi vì thời gian trong chiếc hộp sẽ chảy cạn bất cứ lúc nào, mọi sự kiện bị xoắn vào với nhau đến lúc đó sẽ phân tách ra, chiếc Hải Âu C47 chắc chắn sẽ rớt xuống ven rìa hoang mạc, toàn bộ hành khách đều chết hết, sự kiện này đã xảy ra ngay từ năm 1949, đó là một sự thực không thể nào thay đổi. Nếu chúng ta không mau chóng rời khỏi đây, thì đội khảo cổ phải đối mặt với hai kết quả, thứ nhất là chúng ta sẽ bị hắc động tiêu diệt sau khi chiếc hộp biến mất, thứ hai là trở thành những kẻ tử nạn trong sự cố rơi máy bay Hải Âu C47.”

Hải ngọng nghe mà tim ớn lạnh: “Thì ra bản phất của thời gian chính là tốc độ vật lý gì đó, không những thế tốc độ này còn không giống nhau. Chẳng trách mình vẫn nghe các cụ ở quê thường bảo ‘một ngày trên trời bằng một năm ở hạ giới’, quan điểm này đâu phải hoàn toàn là mê tín và vô căn cứ”.

Anh quay sang nói với Tư Mã Khôi: “Cả hai cách chết đều thảm quá, chọn cách nào cũng đau hết cả đầu, theo Hải ngọng tớ thấy, rừng còn thì sợ gì thiếu củi đốt, chứng ta cứ mặc kệ Triệu Lão Biệt đó đi, mau rút khỏi đây thôi!”

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, trong chiếc hộp tồn tại ít nhất hai lối ra, bởi vì Triệu Lão Biệt và chiếc máy bay Hải Âu C47 cuối cùng đều không bị hắc động nuốt chửng, nhưng hai lối thoát đó, một lối sinh, còn một lối tử, trong khi tương lai của bọn họ thì lại không thể đoán trước được. Thân máy bay Hải Âu C47 đã nứt vỡ, sau khi rời khỏi chiếc hộp, nó sẽ rơi xuống tan tành. Nếu tiếp tục ở lại trong khoang, có lẽ chỉ một giây sau, cả đội sẽ bị nó mang xuống hiện trường vụ tai nạn máy bay.

Trước mắt, kẻ duy nhất có thể sống sót rời khỏi chiếc hộp thời gian là Triệu Lão Biệt, thì lại đang trốn trong khoang máy bay, nếu đội khảo cổ không thể tìm thấy lão, có nghĩa sẽ phải đối mặt với kết cục khủng khiếp không thể tưởng tượng được. Tình thế hiện, tại vô cùng căng thẳng, sinh mệnh của mỗi người đều treo trên sợi chỉ mành, rốt cục nên tiếp tục tìm Triệu Lão Biệt hay nghĩ cách tìm lối ra khác, bây giờ phải lập tức đưa ra sự lựa chọn. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi ý thức được rằng bản thân đang ở trong vòng tuần hoàn khép kín do chiếc hộp tạo ra, không ai có thể thay đổi được sự thực đã bị tiết lộ, bởi vì quá khứ không thể thay đổi, nhưng đội khảo cổ có thể lợi dụng sự thực này. Bất kể bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, nhưng tóm lại là Triệu Lão Biệt đã tiết lộ bí mật về tòa thành Nhện Vàng cho Nấm mồ xanh, vậy thì đội khảo cổ có thể cố ý để lại một ám hiệu trong những bí mật tiết lộ cho lão, sau này, ám hiệu đó sẽ trở thành một quả bom tin tình báo, rồi từ đó vạch trần bộ mặt thật sự của kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh.

Có điều, tình huống tự dưng lại diễn biến hết sức phức tạp, Tư Mã Khôi cũng vừa mới nảy ra ý tưởng này, bởi vậy anh buộc phải tìm thấy Triệu Lão Biệt, giả vờ tiết lộ thêm một số bí mật, tạo quả bom tin tình báo, chiêu này gọi là: “đào giếng trước khi khát, sửa nhà nhân trời nắng”. Chính vì vậy, anh quyết định mạo hiểm vào sâu trong khoang máy bay Hải Âu C47 tiếp tục lục soát, đồng thời bảo Hải ngọng và Thắng Hương Lân rút lui trước, sau này sẽ gặp nhau ở chỗ đội trưởng Lưu Giang Hà, nghĩ cách tìm lối thoát ra khỏi chiếc hộp.

Hải ngọng không yên tâm bỏ Tư Mã Khôi ở lại một mình, anh chỉ sợ bạn sẽ không bao giờ trở về nữa, thế là bèn tìm lý do: “Cái lão già đó đúng là còn ma mị hơn cả bọn chồn tinh, một mình cậu chỉ e không dễ bắt sống nó đâu.”

Thắng Hương Lân cũng nói: “Chúng ta tiến cùng tiến, lui cùng lui, trước tiên cứ tìm thấy Triệu Lão Biệt rồi tính sau”.

Tư Mã Khôi phát hiện thấy trong khoang xuất hiện sự thay đổi rất nhỏ, dường như tốc độ dần dần gia tăng, có lẽ thời gian trong chiếc hộp sắp đi đển điểm tận cùng, có điều chỉ cần Triệu Lão Biệt vẫn còn ở đây, thì chiếc hộp chắc chắn sẽ không biến mất. Lúc này, anh không muốn nói thêm gì, chỉ gật đầu đồng ý, ba người đang định chia nhau lục soát trước sau khoang máy bay, thì đột nhiên nghe thấy một tiếng động nhỏ vọng lại từ bóng tối phía trước, dường như là tiếng đóng mở ván gỗ. Âm thanh đột ngột xuất hiện trong khoang máy bay im lìm như cõi chết, thật sự khiến người ta sởn gai ốc, ba người nghe rất rõ ràng, tim chùng xuống một nhịp.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng lập tức giương súng lên, Thắng Hương Lân cũng lên quy lát khẩu K54, ba chùm sáng của đèn quặng và ba họng súng đồng thời dõi cả về hướng đó. Nhưng khoang máy bay đen kìn kịt toàn ngưòi, tầm nhìn bị che khuất, nên không thể phát hiện được nơi phát ra âm thanh ở chỗ nào, chỉ phỏng đoán: có lẽ Triệu Lão Biệt đang trốn trong khoang sâu rồi bất cẩn chạm phải thứ gì đó, mới gây ra tiếng động. Cả ba lập tức xông lên lục soát.

Tư Mã Khôi đi trước, anh phát hiện chỗ gần khoang lái có đặt một cái hòm sơn đen bằng gỗ trầm, vẻ bề ngoài của nó rất cổ xưa, có vẻ niên đại đã cách đây khá lâu, hai mặt cạnh gắn những hình trang trí cổ bằng đồng, dán bùa giấy màu vàng nhạt và dải niêm phong, lớp sơn cũ nát và bong tróc quá nửa, bề mặt còn dính vết đất, dường như mới được khai quật cách đây không lâu, hình thù khá giống với tủ kệ đặt trên giường đất ở nông thôn, nắp hòm bị cậy một khe hở rất lớn, mép niêm phong đã bị xé rách.”

Chiếc tàu hỏa trên không Douglas C47 do Mỹ chể tạo, cung cấp cho chính phủ Quốc dân Đảng theo hiệp ước cho mượn thời chiến, phía trên còn in hai chữ US và biểu tượng huy hiệu nền xanh sao trắng, nó bay từ Trùng Khánh đến Urumqi vào năm 1949, sau đó đột ngột thay đổi đường bay, rơi xuống hoang mạc Lopnor. Vào thời điểm đó, khu vực Tây Nam, Tây Bắc vẫn chưa giải phóng, chiếc Hải Âu C47 chủ yếu đảm nhận nhiệm vụ vận chuyển quân sự, chứ không phải máy bay chở khách thông thường, nên không hiểu vì nguyên cớ gì mà trong khoang lại chứa chiếc tủ kệ bằng gỗ trầm có nguồn gốc dân gian này. Hội Tư Mã Khôi chỉ suy đoán, bên trong có lẽ là đồ cổ của một vị chỉ huy cấp cao nào đó lén chở về, chắc Triệu Lão Biệt hoảng quá nên trốn bừa vào trong hòm rồi, nhưng khi xúm lại soi đèn xem, thì thấy trong hòm trống hoác.

Tư Mã Khôi thấy trong hòm gỗ trầm không có thứ gì, cũng không để ý tới nó thêm nữa, mà tiếp tục tiến thẳng vào khoang lái, lục soát đến đây vẫn không thấy tăm hơi Triệu Lão Biệt đâu cả, trừ khi lão ta có khả năng tự dưng biến mất giống như kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh mất tích trong mật thất, néu không chắc chắn lão ta đang ở khoang lái.

Ba người đi thêm mấy bước, thấy mũi máy bay bị hư hỏng nghiêm trọng, nhìn vết tích thì rõ ràng là nó đã đụng độ với nhiễu động khí, cửa sổ bênh cạnh vỡ toang, hai viên phi công máu me đầm đìa khắp mặt, phọt cả óc ra ngoài. Triệu Lão Biệt vốn trốn trong hòm gỗ trầm, phát hiện thấy mọi người bắt đầu lục soát tới đây, thì đành chạy vào khoang lái. Lão len lén đẩy một chiếc túi da lớn qua cửa sổ và định chui vào đó để ra ngoài. Vừa quay đầu lại đã thấy Tư Mã Khôi đứng lù lù sau lưng, lão sợ quá hồn vía bay hết lên mây, đạp vào xác chết của viên phi công trèo vội ra ngoài cửa sổ bên canh.

Hải ngọng hét to một tiếng, chạy lên định tóm lão, nhưng đúng lúc này khoang máy bay chợt rùng lắc dữ dội, dường như bị rơi vào trạng thái mất áp lực trên cao, mọi người chưa kịp chuẩn bị, bất giác mất thăng bằng, ngã bổ nhào ra đất, trong phút chốc không thể giằng co bật dậy ngay được.

Triệu Lão Biệt bị một lụồng khí chuyên động cực mạnh bao trùm khắp người, cuốn văng vào cửa sổ bị vỡ bên mạn, lão cảm thấy cuồng phong đang đẩy mình xuống hắc động,, bất giác mặt vàng như nghệ, vội vàng chìa bàn tay sáu ngón về hướng Tư Mã Khôi, khản giọng ra sức cầu cứu: “Các vị lão giạ, ngàn vạn lần không thể khoanh tay ngồi yên, thấy chết mà không cứu, mỗ đây còn có chuyện trọng đại chưa kịp nói, nếu bây giờ mỗ phải về chầu tổ tiên thì các vị vĩnh viễn không biết được kẻ đó đâu…”

Tư Mã Khôi gắng sức giữ thăng bằng, định thò tay ra bắt lấy tay Triệu Lão Biệt, nhưng anh vừa mới giơ tay, thì cả thân mình lão đã bị hất văng ra ngoài cửa sổ, giống như chiếc lá bị gió cuốn xuống cửu tuyền, thoáng chốc đã mất dạng trong bóng tối, giữa bầu hư không sâu thăm thẳm chỉ còn vọng lại tiếng gào thét thất thanh, sau đó không biết tung tích lão ra sao nữa.

Cùng lúc đó, khoang máy bay bắt đầu rung lắc nghiêng ngả với biên độ lớn, trong quầng mây đen và sấm sét ì ùng, chỉ nghe thấy dòng khí đối lưu kêu ù ù, thân máy bay phát ra tiếng nứt toác nặng nề của kim loại.

Ba người biết đại cục đã đến, dù có cầu khấn gì cũng không xoay chuyển được, thời gian trong chiếc hộp đã hết, họ đang bị chuyến bay tử thần an bài một đi không trở về, mang xuống hiện trường của vụ rơi máy bay mười mấy năm về trước.

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ tư

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">VÒNG TUẦN HOÀN CHẾT

Lúc này, khi chiếc Hải Âu C47 bắt đầu xuất hiện tình trạng nghiêng ngả rung lắc dữ dội, Tư Mã Khôi biết tình hình không ổn, thời gian giống như một dòng sông trôi êm đềm nhưng chỉ cần ào ra khỏi bờ, dòng nước sẽ lập tức trở thành những con sóng dữ điên cuồng gào thét ùa về biển khơi, chẳng ai dự đoán được bên trong dòng nước ngầm hung dữ kia sẽ tồn tại thứ gì, thời gian trong chiếc hộp cũng đã trôi chảy đến điểm tận cùng, mọi người sẽ theo chiếc Hải Âu bị mất tích năm 1949 từ hắc động rơi thẳng xuống sa mạc Lopnor và trở thành một phần của sự kiện tai nạn hàng không năm đó.

Hải ngọng chửi rủa: “Mẹ kiếp! Cả đời tổng cộng ngồi có hai lần máy bay thì cả hai đều bị rơi.”

Tư Mã Khôi cảm thấy thân máy bay nghiêng mạnh, nhưng quay đầu nhìn các hành khách đang ngồi sau khoang, thấy các tử thi vẫn không hề có phản ứng gì, xem ra không phải chiếc hộp biến mất mà là chiếc hộp đang trôi dần vào hắc động.

Lúc này nắp thùng gỗ trong khoang bị tuột xuống, bay thẳng vào Tư Mã Khôi, anh giơ tay đỡ, vô tình nhìn thấy mặt dưới cái nắp có khắc chìm hình vẽ các vì sao, nên nghĩ: “Có lẽ vật này không phải đồ cổ mà là một loại thiên thạch dùng để thờ cúng rồi.”

Thắng Hương Lân đứng ngay cạnh cũng nhìn rõ mồn một, cô từng căn cứ vào thuyết suy đoán chiếc hộp thời gian của Tesla, để suy đoán bốn kết quả mà đội khảo cổ có thể phải đối mặt tiếp theo. Thứ nhất là tìm được cách thoát thân từ chỗ Triệu Lão Biệt, thứ hai là trở thành kẻ tử nạn trong chiếc Hải Âu C47, thứ ba là bị động tối nuốt chửng hoàn toàn sau khi chiếc hộp tan biến, thứ tư là dựa vào năng lực chính mình, tìm thấy lối thoát trong chiếc hộp.

Nhưng giờ đây nghĩ lại, thấy trong đó còn đề cập đến nguyên tắc phản biện. Theo thuyết suy đoán của Tesla, thì một người tuyệt đối không thể gặp một phiên bản khác của chính mình. Bởi vậy hai kết quả đầu khả năng không thể trở thành hiện thực. Là những sự kiện tương đối độc lập, bị vặn vào nhau trong chiếc hộp, nhưng mỗi sự kiện đều có chất lượng và trọng lực riêng của nó, ví dụ Triệu Lão Biệt còn sống, vĩnh viễn không thể xuất hiện trong mọi tọa độ thời gian của đội khảo cổ, lão căn bản không hề nắm trước được cách thoát ra khỏi chiếc hộp, nhưng bản thân lão lại là một lối ra, cũng chính vì việc lão sống sót thoát ra ngoài là kết quả sớm đã tồn tại từ trước, cho nên tất cả logic và nguyên nhân phức tạp đều được hình thành trên nền kết quả này.

Thắng Hương Lân nghĩ đến đây, lập tức nói với Tư Mã Khôi và Hải ngọng, phải mau chóng rời khỏi khoang máy bay, sau đó nghĩ cách tìm kiếm lối ra, nhưng cho dù có tìm thấy lối ra trong chiếc hộp, thì sau đó bị nó dẫn đến nơi nào, chúng ta căn bản cũng không thể xác đinh trước được. Có điều, Triệu Lão Biệt khả năng đã nhờ khối thiên thạch mà lão tiện tay cuỗm được trước đó, nên mới may mắn thoát chết rời khỏi đây. Đội khảo cổ ngay từ đầu đã sơ suất bỏ qua tác dụng của thiên thạch sắt, người sắt đứng sừng sững trong biển cát cả vạn tỉ năm, ngoại trừ tác dụng dẫn đường trong vực sâu tăm tối, thì nó còn là tọa độ cố định, bất biến vĩnh hằng duy nhất trong sóng triều thời gian, nếu trở về khối thiên thạch sắt sẽ không bị hắc động nuốt chửng.

Tư Mã Khôi ngẫm thấy không sai, lúc này tình thế vô cùng cấp bách, anh không nghĩ ngợi gì nữa, bèn kéo Hải ngọng đang ngã sóng soài trên sàn máy bay đứng dậy, đeo mặt nạ phòng độc, theo đường cũ rút lui về khe nứt trên thân máy bay, rồi bò ra ngoài cánh. Lúc này sương đen dày đặc đã bắt đầu tản mát, nhưng soi đèn quặng ra tứ phía xung quanh, mọi người đều cảm thấy ớn lạnh tận đáy lòng. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tốc độ vật lý của chiếc Hải Âu C47 đang tò từ tiệm cận trạng thái đứng yên trong chiếc hộp, nhưng điều đó chỉ là tương đối khi xét trên hệ quy chiếu với tốc độ của hội Tư Mã Khôi mà thôi, còn trên thực tế nó vẫn đang tiếp tục vận hành, giờ lại chịu sự ảnh hưởng của dòng nhiễu động khí, cánh máy bay dần dần rời khỏi vị trí cũ. Trong không gian u tối mịt mùng, cả hội không nhìn thấy khối thiên thạch sắt nằm ở đâu nữa, bốn phía chỉ là vực sâu không đáy, bây giờ ai dám xả thân nhảy xuống dưới?

Ba người đang bó tay bất lực, đột nhiên chợt thấy trong bóng tối, nơi phần đuôi máy bay, thấp thoáng một chùm sáng yếu ớt, nhờ nhờ trắng. Tư Mã Khôi thầm nghĩ chắc đó là ánh đèn quặng của đội trưởng Lưu Giang Hà, lúc này không thể hô hoán hét gọi, anh đành dùng đèn quặng phát tín hiệu liên lạc.

Đội trưởng Lưu Giang Hà ngồi đợi mãi trong huyệt động không thấy mọi người về, trong lòng không khỏi phát hoảng. Lúc này đang thò người xuống quan sát, thấy phía dưới có ánh đèn quặng nhấp nháy, anh chàng bèn khua đèn mấy vòng tròn, biết đó là tín hiệu cấp cứu, anh chàng lập tức tìm dây thừng có móc câu tiếp ứng.

Ba người bắt được sợi dây thừng gắn móc câu, bò về huyệt động trên nóc thiên thạch sắt. Cả hội còn chưa kịp đứng vững, thì nghe phía xa có tiếng sấm đánh ùng ùng, liền sau đó sét rọi sáng lòa cả vực sâu, chiếc Hải Âu C47 đã hoàn toàn biến mất. Bóng tối mênh mông bỗng nứt toác vài đường khe, từ đó xuất hiện một dải đỏ thẫm thâm u, bên trong có hàng trăm con mắt chi chít lạnh băng và quái dị. Phía sau vòng tuần hoàn chết, dường như có tồn tại một sức mạnh kinh dị nào đó thật khó tưởng tượng, nó lẩn trong hắc động, bóp méo thời gian, khiến người ta hồn xiêu phách lạc, không dám nhìn vào.

Mọi người dựng ngược lông tóc, ba hồn bảy vía lơ lửng chín tầng mây. Không ai xác định được thứ mình vừa nhìn rốt cục là gì, chỉ có điều trong khoảnh khắc đó, dường như bị ai đó dùng búa sắt đập một nhát chí mạng vào giữa ngực, cảm giác tựa hồ ngộp thở vì tuyệt vọng, lại tựa hồ như sự khiếp sợ sâu sắc đối với bóng tối và những điều chưa biết trong tiềm thức con người.

Trải qua thời khắc đó, màn bụi giống như lốc tố dần dần tan biến theo mây khói, bốn phía lại trở về trạng thái tĩnh lặng, nhưng kim la bàn vẫn không quay về thời điểm 12 giờ 30 phút, nó vẫn tiếp diễn thời gian trong chiếc hộp và không ngừng trôi chảy. Không thể xác định tọa độ thời gian có phục hồi như cũ hay không, càng không biết vận mệnh của đội khảo cổ ngày sau có lún vào một vòng tuần hoàn chết khác lớn hơn hay không.

Bây giờ, suy tưởng lại những sự việc trước đây, mọi người đều cảm thấy uumê mê, như vừa trải qua một cơn mơ, không thể tin mình mới trải qua một đoạn thời gian căn bản không hề tồn tại, rồi gặp gỡ Triệu Lão Biệt – kẻ đáng ra đã chết cách đây nhiều năm, nhưng tất cả rõ ràng không phải ảo giác do hội chứng địa áp gây ra.

Bốn người thầm hoang mang trong lòng, đợi khi định thần hơn một chút, họ mới bò từ trên đỉnh đầu người sắt xuống biển cát, thấy tứ phía vẫn đen mù mịt không hề thay đổi. Tư Mã Khôi lại leo lên người sắt còn lại để tiến hành thăm dò, nhưng cũng không có phát hiện nào khác. Lúc quay trở lại, thấy ba người đang kiểm tra lại tư trang, dự tính nếu dựa vào lượng lương thực và nguồn pin hiện tại thi chỉ đủ duy trì thêm vài ngày nữa.

Tư Mã Khôi nói với đội trưởng Lưu Giang Hà: “Ban nãy may mà nhờ chú em tiếp ứng kịp thời, nếu không cả lũ bọn anh đã đi đời rồi còn gì. Anh ghi cho chú một công đấy!”

Hải ngọng nói: “Xem ra đồng chí đội trưởng của chúng ta cũng khá đáng tin đấy nhỉ! Đúng là đồng chí đã vượt qua thử thách. Anh dự đoán sau này trở về, chí ít chú mày cũng phải giật được cái huân chương hạng nhất, thông báo biểu dương trước toàn quân chỉ là chuyện vặt vãnh, còn huân chương anh hùng chiến đấu vẻ vang thì chú mày đừng kỳ vọng làm gì, bởi vì thứ đó không phải vinh dự dành cho người sống đâu.”

Đội trưởng Lưu Giang Hà cực kỳ xem trọng chuyện lập công trong quân ngũ, các anh em trong nông trường du mục đều đã lập công, điều đó có nghĩa là họ có cơ hội được đề bạt, từ tiểu đội trưởng trở lên thì mới coi là cán bộ, nếu được đề bạt thì có thể sẽ ở lại mãi mãi trong quân đội, chuyện tìm vợ nhờ thế cũng dễ dàng hơn nhiều. Đây chính là điều mà bao người ngày ước đêm mong, nhưng bây giờ nghe hội Tư Mã Khôi nói vậy, tuy rằng đúng là có tương lai thật, nhưng anh không dám tham vọng mình sống sót chui khỏi lòng đất mà trở về với quê hương bản quán. Không chỉ vậy, anh còn cảm nhận sâu sắc nỗi sợ hãi và sự nghi hoặc; khi nãy chỉ còn lại một mình trong động tối, anh sợ đến nỗi hai bắp chân cứ run lên bần bật, nói theo cách của đại đội trưởng Mục thì đúng là chết tiệt, xem ra ý chí cách mạng của mình vẫn chưa đủ kiên định.

Hải ngọng nói: “Đừng quên sức mạnh vô cùng vô tận của tấm gương, chỉ cần sau này chú mày chịu khó học hỏi anh nhiều hơn một tí là được. Anh Hải ngọng từ xưa đến nay rất chú trọng nuôi dưỡng phẩm chất anh hùng cá nhân, thế nào gọi là anh hùng hảo hán hả? Anh hùng hảo hán là phải một bữa ăn tám cái màn thầu, rồi mang về nhà ăn thêm hai cân thịt bò nữa…”

Tư Mã Khôi nói: “Vớ vẩn! Để tôi nói cho các cậu nghe anh hùng là cái gì, anh hùng chính là thà chịu thịt nát xương tan, cũng không được thỏa hiệp với cái thế giới thối như đống cứt chó này.” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Đội trưởng Lưu Giang Hà nghe hai vị đàn anh đàm luận cao kiến, chỉ biết đờ ra như con chim gỗ, ngẩn tò te không chêm vào đựợc câu nào.

Thắng Hương Lân nói với ba người: “Ba người tụi anh châu đầu lại mà không bàn luận được chuyện gì có ý nghĩa hơn sao?”

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, từ khi đội khảo cổ bắt đầu bước chân vào Đại Sa Bản, mỗi ngày đều trải qua như thể ngày tận thế, bây giờ đã đi đến nước này, thì cũng đành gắng cố sức xoay vần đến cùng mà thôi, bởi vì vòng tuần hoàn chết trong chiếc hộp đã trở thành quá khứ, nó giống như nút thắt không thể tháo gỡ trong số mệnh, giờ đây thứ còn lưu lại ở hiện thực chỉ còn kết quả, bất kể anh có cam tâm tình nguyện hay không, thì vẫn phải chấp nhận kết quả xuất hiện trong vòng tuần hoàn chết.

Kết quả này chính là: đội khảo cổ đã vô tinh tiết lộ một phần bí mật có liên quan đến sóng điện u linh, chiếc tàu hỏa trên không Douglas rơi xuống sa mạc Lopnor vào năm 1949, Triệu Lão Biệt bất ngờ đánh cắp được tin tinh báo và thứ gì đó trong khoang máy bay, rồi câu kết với đội thám hiểm Pháp thâm nhập cực vực Lopnor, sau cùng bỏ mạng dưới Hắc Môn do chịu ảnh hưởng của hội chứng địa áp. Mãi tới những năm gần đây, người ta mới dần dần nhận thức được căn bệnh này, còn trước những năm 50, thế giới hoàn toàn chưa có khái niệm gì về nó. Bởi vì các huyệt động dưới lòng đất trước đây cùng lắm chỉ sâu mấy trăm mét, còn lâu mới đạt đến độ sâu vuợt quá phụ tải của địa áp, lúc đó phạm vi thăm dò dưới lòng đất của con người còn vô cùng có hạn. Khi Triệu Lão Biệt câu kết với người Pháp tìm kiếm báu vật trong sa mạc Lopnor, lão căn bản không hề hay biết trên thế giới lại tồn tại một hiện tượng chí mạng đến thế, bởi vậy mới không đề phòng gì.

Nhưng từ kết quả này lại nảy sinh ra hàng loạt ẩn số mới, cơ bản đều quy về ba manh mối chủ yếu: thứ nhất là, Triệu Lão Biệt đã chết ở sa mạc Tân Cương vào giữa những năm Dân quốc, vậy thì vì sao lão ta lại hiện thân lần nữa ở Trường Sa, Hồ Nam vào thời gian sau giải phóng? Cùng một người sao lại chết những hai lần? Vả lại, lúc Triệu Lão Biệt chạy thoát khỏi chiếc hộp thời gian, rõ ràng lão đã tiện tay cuỗm đi cổ vật gì đó trong khoang máy bay C47, rồi cuối cùng lão vẫn chưa nói cho đội khảo cổ một chuyện tôi quan trọng: tất cả những điều này có liên quan đến Nấm mồ xanh hay không? Và Triệu Lão Biệt đã tiết lộ tin tình báo sóng điện u linh cho Nấm mồ xanh như thế nào?

Thứ hai là, kẻ cầm đầu tổ chức ngầm mấy tháng trước đã lấy được sóng điện u linh trong mật thất ở thành Nhện Vàng, nắm được bí mật về thông đạo, thông đạo này cũng xác định là có thật trên đời. Vậy thì Nấm mồ xanh chắc chắn sẽ đi tìm miếu thần, không biết giờ này hắn đã thực hiện đến đâu rồi; ngoài ra, thân phận thực sự của kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh và cả kết cấu, quy mô của tổ chức này đều được giấu kín như bưng.

Những nghi vấn đó cho đến lúc này vẫn chưa thể giải đáp, giờ đây đội khảo cổ vào sâu trong lòng đất, cũng chỉ biết dựa vào tấm biển chỉ đường cổ xưa, tiếp tục tiến vào nơi tận cùng của biển cát, tìm ra những sự thật mà họ chưa biết. Tung tích đội khảo sát liên hợp Liên Trung biến mất năm 1958, cội gốc của long ấn triều Hạ và cổ quốc Diệt Hỏa, cỗ tàu ngầm Z-615 bị mất tích của Liên Xô, tất cả dường như đều liên quan đến nó. Có thể nói, những ẩn số không thể giải thích như những tán lá đan cài chằng chịt vào nhau, còn ngôi miếu thần ở gần tâm Trái Đất mới là gốc cây đúng nghĩa, chỉ cần đội khảo cổ nhổ được gốc cây ấy, thì toàn bộ ẩn số sẽ tự khắc được giải đáp, bởi vậy chúng ta phải loại bỏ mọi suy nghĩ không liên quan, đặt trọng tâm hành động và điểm nhìn vào tuyến đường thứ ba này.

Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi phân tích, thấy tư duy của anh rất sáng suốt, mạch lạc, sách lược cũng tương đối hợp lý, nhưng nếu đi vào hành động cụ thể thì vô cùng gian nan, có quá nhiều nhân tố không thể xác định. Vì đội khảo cổ chỉ biết ngôi miếu thần nằm ở khu vực chưa biết gần tâm Trái Đất, còn cực vực chỉ là không động nằm ở giữa lớp vỏ và lớp phủ, mà cả đội vẫn chưa thể xác định điểm tận cùng của biển cát thực sự có ngôi miếu thần hay không. Nghe Triệu Lão Biệt nói thì trong miếu thần có lẽ còn tồn tại thứ gì đó vô cùng đáng sợ, nhưng rốt cục nó là thứ gì, thì e rằng chỉ một mình kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh mới biết chân tướng. Ngoài ra, mọi vết tích trong cực vực dưới lòng Trái Đất đều thể hiện rõ là lòng đất che giấu cội gốc của cổ quốc Diệt Hỏa, đó là nền văn minh cổ đại sinh tồn ở nơi sâu trong hang đất, bắt đầu xuất hiện vào thời kỳ ba triều đại Hạ Thương Chu, sau đó di chuyển dần xuống dưới, từ lưu vực sông Hoàng Hà. Những ghi chép lịch sử về nó hoàn toàn để trắng. Dấu tích long ấn triều Hạ kỳ lạ, cổ xưa từ hơn ngàn năm trước đã không còn ai biết đến, nghe nói ở An Huy có một tấm bia mà Văn vương dùng để trấn thần sông, mặt bia vẫn còn sót lại long ấn triều Hạ. Đồng chí Quách Mạt Nhược

(1)

 phải mất khoảng thời gian ba năm mới đọc được ba từ trong đó, mà còn không biết đồng chí ấy có đọc chính xác hay không. Sự tồn tại của miếu thần chắc chắn liên quan đến cổ quốc nằm dưới lòng đất này.

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(1) Quách Mạt Nhược: (1892 – 1978) là nhà văn, nhà biên kịch, nhà thơ, nhà sử học, nhà nghiên cứu ngôn ngữ cổ, chuyên gia thư pháp, học giả, nhà hoạt động xã hội lỗi lạc, người mở đầu cho phong trào thơ mới của Trung Quốc.

Thắng Hương Lân thậm chí còn có dự cảm không lành, trong khoảnh khắc chiếc hộp biến mất, đội khảo cổ dường như nhìn thấy một sinh vật đáng sợ mọc hàng trăm ngàn con mắt dưới vực sâu. Nó ẩn mình trong hắc động giữa các khe nứt thời gian, chẳng rõ nó có liên quan đến miếu thần không? Trong khi đó, bốn thành viên may mắn sống sót lúc này thì có hai thành viên khảo cổ với lai lịch không rõ ràng, lại không có thẻ công tác, một anh đội trưởng liên lạc thông tin không dây và một cô kỹ sư trắc họa địa chất, mà thiếu hẳn chuyên gia khảo cổ đích thực; nên nếu dựa vào năng lực và trang thiết bị hiện giờ thì cho dù có sống sót được đến lúc tìm thấy miếu thần trong lòng đất, chắc cũng không thể giải được những điều kì bí ẩn chứa bên trong.

Tư Mã Khôi thấy lời Thắng Hương Lân nói có lý, những sự việc không thể biết và cũng khó lòng đoán định đó đúng là khiến đội khảo cổ cảm thấy đuối sức. Nhưng trước khi Tư Mã Khôi theo giáo sư Nông địa cầu tham gia đội khảo cổ, anh từng là thành viên cốt cán của sư đoàn đặc vụ quân đội Cộng sản Miến Điện, nếu nói là đam mê với lịch sử hay nhiệt huyết với công tác khảo cổ, thì tất cả đều chỉ là tự gạt mình dối người, nhưng nếu luận về kinh nghiệm quân sự như giết người, phá nổ, thì anh lại vô cùng thông thuộc. Bởi vậy, anh không hề bận tâm đến việc có thể giải mã được ẩn số ngôi miếu thần dưới lòng đất hay không, cùng lắm là liều mạng hủy luôn bí mật trong ngôi miếu thần cho rồi.

Hải ngọng liên miệng khen diệu kế, cứ để con chồn tinh Nấm mồ xanh mừng hụt một phen, chỉ nghĩ đến đây cũng đã cảm thấy hả lòng hả dạ. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thắng Hương Lân đoán: tổ tông hoặc sư phụ truyền nghề cho Tư Mã Khôi chắc cũng không phải hạng lương thiện, nếu không thì làm sao anh ta lại biết ngón tuyệt kỹ lục lâm như bọ cạp leo tường. Đó là những thủ đoạn mà chỉ bọn sơn tặc trên núi, thủy tặc ngoài hải đảo, hay bọn phóng hỏa giết người, cướp thành vây trại mới giỏi mà thôi; hơn nữa, anh lại có thói quen sử dụng phương thức cực đoan để giải quyết vấn đề. Nhưng bây giờ đúng là cũng chẳng còn đối sách gì khác, đành nghe theo lời Tư Mã Khôi mà hành sự vậy, nên nếu không thể giải mã được bí mật trong miếu thần, thì sẽ hủy hoại nó một cách triệt để tóm lại là cố gắng đi trước Nấm mồ xanh một bước, hy vọng mọi chuyện đến lúc này vẫn chưa quá muộn.

Có điều Thẳng Hương Lân vẫn dặn dò Tư Mã Khôi: “Nếu giáo sư dưới suối vàng mà biết, chắc chắn bác ấy sẽ không đồng ý đâu, bởi vậy chỉ trường hợp vạn bất đắc dĩ chúng ta mới hành động theo kế hoạch này thôi đấy!”

Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý, vì nếu nói anh hoàn toàn không muốn biết bí mật của miếu thần thì cũng là dối lòng. Gần đây Tư Mã Khôi cứ ngẫm đi nghĩ lại mãi một vấn đề, rốt cục phải bí mật kinh người đến dường nào mới đáng để tổ chức ngầm – được sự hỗ trợ của thế lực chiến tranh lạnh phương Tây, không tiếc mọi giá thăm dò chân tướng ẩn giấu bên trong? Anh trầm ngâm suy tưởng mãi mà vẫn không tìm ra lời giải, nên bất giác tự hỏi lòng: “Vì sao vách ngoài của ngôi miếu lại có màu xanh sẫm, phải chăng… nó là bưu điện?”

Hải ngọng nghe Tư Mã Khôi nói vậy, chợt bừng hiểu ra: “Ơ, có lý đấy, sao tớ không nghĩ ra nhỉ?”

Thắng Hương Lân nói: “Thế mà các anh cũng nghĩ ra được, đừng có ngồi đó đoán bừa! Khí áp dưới lòng đất càng xuống sâu càng thấp, tôi thấy mây khí tượng sắp gây ra lốc tố đến nơi rồi đấy!”

Vết thương cũ trên vai Tư Mã Khôi lại bắt đầu ngâm ngẩm đau, biết khả năng lòng đất lại tụ tập mây khí tượng, anh giục mọi người mau khởi hành.

Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà phát hiện ra máy phát sóng ngắn dường như có phản ứng, chắc là trong lúc sắp xếp lại tư trang, anh chàng vô tình chạm phải nút khởi động, có điều việc máy bắt được tín hiệu dưới lòng đất thì hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của mọi người.

Tư Mã Khôi thấy vậy hỏi: “Khi Che Guevara (2) tham gia Cách mạng thế giới ở châu Phi, cũng là lúc đồng chí ấy dùng máy phát sóng ngắn do Liên Xô chế tạo để liên lạc với bác Fidel ở mãi Cuba xa xôi. Nghe nói chỉ trong một giây, nó có thể tải mật mã Morse (3) lượn bảy vòng rưỡi quanh Trái Đất, nhưng nó cũng rất dễ bị nhiễu sóng bởi các nhân tố địa lý và khí tượng. Chẳng lẽ độ sâu dường này dưới lòng đất, mà vẫn có thể bắt được tín hiệu điện sóng từ thế giới bên ngoài sao?”

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(2) <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Che <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Guevara<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">:<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> tên đầy đủ là Emesto <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Guevara <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">de la Sema <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(1928 – <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">1967) sinh ra ở Argentina. Ông là nhà cách mạng theo Chủ nghĩa Mác-Lê nin vĩ đại, đồng thời ông còn là bác sĩ quân y, nhà văn, nhà lý luận, chỉ huy quân sự nổi tiếng. Ông là nhân vật hạt nhân của Cách mạng Cu ba và là nhà chinh trị quốc tế, là biểu tượng của sự đấu tranh, của tình nhân ái chống lại áp bức và nghèo đói trên toàn thế giới.

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(3) <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Mã <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Morse <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(Moóc-xơ): là một loại mã hóa ký tự dùng để truyền các thông tin điện báo. Mã <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Morse<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">dùng một chuỗi đã được chuẩn hóa, gồm các phần tử dài và ngắn để biểu diễn các chữ cái, chữ số, dấu chấm, và các kí tự đặc biệt của một thông điệp.

Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà báo cáo: “Thủ trưởng, tôi thấy nó không phải thông tin điện báo có nội dung, mà chỉ là một tín hiệu định vị nào đó, đang ở cách đội khảo cổ chúng ta không xa lắm.” – Anh chàng vốn vụng về khoản diễn đạt, nên đành dẫn đường cho mọi người đi về phía trước.

Hội Tư Mã Khôi đều muốn biết rốt cục có chuyện gì xảy ra, bèn theo chân anh chàng đội trưởng đi về hướng Tây Nam, bốn bề chỉ thấy mênh mông cát vàng, cảnh vật vắng vẻ cô tịch khác thường. Tín hiệu định vị thần bí với lai lịch bất minh kia, có lẽ bị vùi lấp dưới tầng cát, cứ cách mấy phút nó lại xuất hiện một lần, điểm khởi nguồn chắc chỉ nằm đâu đó dưới chân mà thôi.

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ năm

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">MÁY PHÁT SÓNG NGẮN

Tư Mã Khôi nghĩ, nếu tín hiệu định vị xuất hiện ở dưới chân, thì điểm khởi nguồn của nó chắc chỉ tồn tai hai khả năng, thứ nhất là từ đội khảo sát liên hợp Liên Trung bị mất tích, thứ hai là từ tàu ngầm Z615 một đi không trở lại giữa biển khơi.

Bởi công dụng của máy phát sóng ngắn rất rộng lớn, thêm vào đó công suất lại cực nhỏ, chỉ cần đặt trước tần số cố định, nó có khả năng phát sóng ngắn hẹn giờ liên tục suốt nhiều năm, nên trong các hoạt động như hàng không hay hàng hải, người ta đều lắp đặt thiết bị này để tiện cho phân đội tìm kiếm cứu hộ xác định chính xác phương hướng bằng tín hiệu định vị, mỗi khi máy bay hoặc tàu thuyền gặp nạn.

Anh ngẫm nghĩ: tín hiệu định vị bên dưới tầng cát tám chín phần là của đội khảo sát liên hợp Liên Trung mất tích năm 1958; khả năng này tương đối lớn, vì rốt cục đội khảo sát phải hoạt động trong vực sâu tối om dưới lòng đất, mang theo thiết bị phát sóng ngắn cũng là điều dễ hiểu. Nhưng sau khi đội khảo sát gặp nạn, họ đã bị vùi thân trong biển cát suốt mười mấy năm, nếu bây giờ có đào lên thì chắc cũng chỉ còn những bộ xương khô mà thôi. Có điều, bây giờ đã phát hiện thấy họ, thì không thể nhắm mắt làm ngơ được, thế là cả đội khoanh vùng phạm vi rồi tiến hành đào bới hố cát để tìm kiếm di hài. Quả nhiên, đào chưa sâu đã trông thấy bên dưới tồn tại một vật thể, có điều nó không phải là hài cốt của người chết.

Khi bới hết lớp cát phủ ngoài lên, đưa đèn quặng soi vào bóng tối thì thấy bề mặt lớp vỏ của vật thể lạnh ngăn ngắt, mọi người càng cảm thấy bất ngờ hơn, dường như đó là cỗ tàu ngầm chiến đấu cấp Z, số hiệu 615, nhưng nhìn kỹ lại thì thấy có vẻ không giống lắm, bởi vì vật thể tuy không nhỏ nhưng chắc chắn không thể bì được thể tích to lớn của con tàu ngầm, mà lượng thoát nước lên đến 2475 tấn. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Bây giờ chỉ có thể xác định bộ phận lộ ra bên dưới tầng cát là vỏ kim loại, hai đầu mất hút, chưa trông thấy đâu cả, bên trong có một thiết bị định vị đang không ngừng phát tín hiệu. Tuy chưa phân biệt được nó rốt cục là vật thể gì, nhưng nhìn hàng chữ Nga in ở vỏ ngoài thì biết nó chắc chắn không phải vật thể cổ xưa giống như thiên thạch.

Tim Tư Mã Khôi chợt đập mạnh, anh nhớ đến quả bom địa chấn của Anh bị kích nổ trong núi Dã Nhân, nỗi sợ hãi trong anh đến giờ vẫn chưa tan. Lúc này nhìn thấy vật thể ló ra khỏi tầng cát, chỉ e lại là một quả bom địa chấn nữa, thậm chí có thể là thứ còn khủng khiếp hơn, như bom hạt nhân chẳng hạn. Tư Mã Khôi vội dặn mọi người phải đào bới cẩn thận, ngộ nhỡ chạm phải kíp nổ của nó, thì cả đội chỉ có nước bay thẳng xuống thành Hàm Oan mà khảo sát.

Ba người còn lại nghe Tư Mã Khôi nhấn mạnh một cách đặc biệt nghiêm trọng như thế, đều không dám lơ là, người nào người nấy đều cẩn thận, khẽ khàng cào đất từng chút từng chút một, như các nhà khảo cổ khai quật văn vật vẫn làm.

Mọi người nín hơi, không dám thở mạnh, mất hơn nửa giờ sau mới từ từ làm sạch được lớp cát bám trên thân vật thể. Toàn bộ vật thể đã lộ ra ngoài, hình dáng của nó đúng là có vẻ giống một trái bom cỡ lớn, thể tích cũng không thua kém bom địa chấn trong máy bay chiến đấu của quân Anh là bao, có điều vỏ ngoài lại phủ lớp nhôm, bề ngoài trông có vẻ giống với khoang thuyền hình trụ hơn là trái bom, vả lại bên ngoài còn được buộc chặt bằng dây.

Tư Mã Khôi bây giờ mới biết mình khi nãy sợ bóng sợ gió, cái hộp nhôm cỡ lớn này chắc là khoang bổ sung, được buộc dù hạ cánh, thả từ động đạo kính viễn vọng Lopnor xuống dưới, bị dòng khí đối lưu trong động sâu hoạt động liên tục đã đẩy nó ra xa mục tiêu cần đến, trong khoang có lắp đặt thiết bị sóng ngắn định vị để đội khảo sát liên hợp dễ bề tìm kiếm.

Thắng Hương Lân ngạc nhiên hỏi: “Khoang thuyền này được niêm phong nguyên vẹn, rõ ràng là sau khi từ trên không bay xuống đây, chưa hề bị ai động đến, túi hiệu bên trong cũng chưa xuất hiện hỏng hóc, vậy thì vì sao đội khảo sát không đến tìm nó?”

Tư Mã Khôi phỏng đoán: “Chắc là khi ở trên thả khoang vật tư bổ sung này từ động đạo xuống, thì đội khảo sát đã mất tích được nhiều giờ rồi. Sau khi trạm thám trắc dưới lòng đất mất liên lạc với đội khảo sát không lâu thì kế hoạch kính viễn vọng Lopnor lại bị gác lại, đồng thời do chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác, nên buộc phải từ bỏ công tác tìm kiếm, họ đành thả khoang vật tư này xuống dưới, nếu đội khảo sát có ai may mắn sống sót, thì sẽ có cơ hội tự cứu sống mình sau khi tìm thấy nó…”

Hải ngọng không quan tâm đến vấn đề chính sự, anh chỉ nóng lòng muốn biết trong khoang đựng thứ gì, bèn nhanh tay vừa dùng dao săn rạch mép niêm phong, vừa quay sang hỏi đội trưởng: “Chú mày có biết đội khảo cổ chúng ta có đặc điểm gì không?”

Đội trưởng Lưu Giang Hà không đoán được ý Hải ngọng muốn hỏi gì, đành gãi đầu đáp: “Chúng ta khả năng là… là thiếu kinh nghiệm công tác.”

Hải ngọng nói: “Chú mày là con gà mờ thiếu kinh nghiệm thì có. Đặc điểm lớn nhất của đội khảo cổ chúng ta chỉ gói gọn trong một chữ thôi: nghèo!”. Hải ngọng miệng nói tía lia, tay cũng không ngừng bận rộn, khoang thuyền bổ sung ném từ trên cao xuống chỉ bọc mỗi cái vỏ nhôm, thì làm sao ngăn được tài tháo dỡ thoăn thoắt của Hải ngọng, nên chỉ trong chốc lát anh đã bật tung được cái nắp khoang hình trụ. Đội trưởng Lưu Giang Hà lên trước trợ giúp Hải ngọng chuyển hàng trong khoang và kiểm đếm các loại vật tư. Tư Mã Khôi thấy bên trong đúng là toàn đồ hộp, lương khô, dược phẩm, không khác những thứ mà họ phát hiện thấy trong kho chứa đồ ở trạm thám trắc dưới lòng đất là mấy, chỉ thêm mấy cuộn pháo sáng nối dài, pháo tín hiệu, kíp nổ nhanh do Liên Xô sản xuất, thậm chí còn có cả mấy khẩu súng xung phong đĩa quay PPS đã được bôi dầu, hòm đạn được nhét đầy đầu đạn vàng chóe. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hội Tư Mã Khôi thấy trong khoang bổ sung có vũ khí thì dũng khí phút chốc tăng lên không ít. Không động dưới lòng đất được hình thành do vụ nổ thiên thạch, mật độ dưỡng khí còn cao hơn cả bề mặt Trái Đất; trong hàng vạn tỉ năm tiến hóa, chắc có biết bao nhiêu hình thái sinh mạng kỳ dị, phức tạp, đa phần đều không phải là vật trên cõi đời, mà đội khảo cổ chỉ có mỗi khẩu súng trường cổ lỗ sĩ, đạn cũng chẳng còn mấy viên. Bây giờ, đang sầu não vì không biết phải làm sao để đối phó với chuyến thám hiểm dưới lòng đất thập tử nhất sinh này, thì lại tìm thấy trang thiết bị vũ khí niêm phong nguyên vẹn, thật chẳng khác nào đang đau đầu được uống liều thuốc an thần đặc hiệu.

Hải ngọng lập tức quẳng luôn khẩu thần công đời cũ đi một cách không thương tiếc, như người ta quẳng một đôi giày đã rách nát, tiện tay giương khẩu PPS, kiểm tra toàn bộ linh kiện bên trong, thấy mọi thứ vẫn hoạt động tốt như thường, bèn khen: “Thằng cha tiểu liên PPS-43 này, không biết mình bao năm chưa gặp nó rồi!”

Tư Mã Khôi biết khẩu súng xung phong PPS-43 của quân đội Liên Xô cơ bản đã bị đào thải từ cuối những năm 50, khi đó khẩu tự động AK-47 đã xuất hiện hàng loạt trong quân đội Liên Xô, nhưng thời kỳ đầu chiến tranh giữa quân Mỹ với miền Bắc Việt Nam, loại vũ khí này vẫn được sử dụng hết sức rộng rãi. Đoàn chuyên gia Liên Xô không thể cung cấp vũ khí trực tiếp cho đội khảo sát, có lẽ loạt súng này trang bị cho bộ đội trong nước. Khẩu PPS-43 tuy rằng đời hơi cũ một chút, nhưng được cái là lượng đạn trong ổ đạn nhiều, tốc độ bắn về mặt lý thuyết khá cao, cấu tạo đơn giản nhưng lại rất bền, không lo thời tiết nóng lạnh. Nó từng trải nghiệm qua sự khảo nghiệm tàn khốc của chiến trường phía Tây trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt trong môi trường khắc nghiệt dưới lòng đất hay trong địa đạo, tính năng chiến thuật và hiệu suất công vụ của nó có thể vượt xa súng trường bán tự động, bởi vậy anh bảo đội trưởng Lưu Giang Hà cũng vứt luôn khẩu súng đang cầm đi và đổi sang khẩu PPS-43.

Nhưng khẩu súng trường bán tự động K54 của đội trưởng Lưu Giang Hà là vũ khí tiêu chuẩn được đơn vị cấp phát, nên anh chàng không chịu tùy tiện vứt bỏ, Tư Mã Khôi cũng chẳng thể ép được, đành mặc kệ anh chàng.

Sau đó, mọi người lại lục thấy một bộ ván trượt cát, có thể đặt cả ba lô lên đó, kéo lê trên cát, như vậy sẽ nhẹ hơn vác trên người mà hành quân rất nhiều, ngoài ra còn mang theo một số lương khô để tích trữ.

Mọi người cố gắng găm pháo tín hiệu, pin đèn, lương thực ép càng nhiều càng tốt, ngoài ra còn mang theo mấy băng đạn và hai cuộn thuốc nổ phòng khi cần kíp, bởi chẳng ai biết nhiệm vụ thám hiểm dưới lòng đất lần này còn phải kéo dài bao lâu, nên cứ phải “tích lương lúc no, cầm ô lúc nắng” vậy. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng lật tung đáy khoang, lại tìm thấy một số trang phục. Trang bị sống còn nhất khi đi dã ngoại đầu tiên phải kể đến chính là quần áo. Thời kỳ những năm 50, mối quan hệ hai nước Trung Quốc – Liên Xô còn hữu hảo, Liên Xô từng tặng phía Trung Quốc loại quần áo chiến đấu trên sa mạc kiểu mới, có điều số lượng vô cùng có hạn, chưa bao giờ phân phát rộng rãi trong quân đội cả.

Kỳ thực, loại quần áo đặc chế để chiến đấu trong sa mạc này được Liên Xô cải tiến theo chất liệu và kiểu dáng của quân phục Đức thời thế chiến thứ hai: quần áo đồng màu vàng nhạt, kẻ xiên, chất vải thô, lót lớp vải chống thấm, thoát khí, tính năng hút nhiệt, chống quang phổ năng lượng mặt trời cực mạnh, tính năng chống bám bẩn và mài mòn cũng rất tốt. Thành phẩm sau khi mài rửa gia công, chất liệu thô cứng sẽ trở nên mềm mại, tăng thêm sự thoải mái cho người mặc. Kiểu dáng khá tiện lợi, cạnh sườn đơm hàng cúc, cổ rộng, cổ áo gấp to, phía sau gắn mũ, phát huy hiệu quả chống gió và chống thấm nhất định, hai bên lại may túi chiến thuật kiểu bốn túi đối xứng, mỗi đặc điểm đều thể hiện tính năng ưu việt và ý tưởng thiết kế xuất sắc.

Có điều, lần này thứ quan trọng nhất mà cả đội thu hoạch được chính là đồng hồ đo đạc trọng lực và từ trường, mà Thắng Hương Lân tìm thấy trong khoang. Loại thiết bị này vô cùng chính xác, nó không to hơn chiếc la bàn quân dụng là bao, nhưng có thể trực tiếp thăm dò tình hình hàm lượng sắt, đá, hoặc từ trường trong không động dưới lòng đất, ngay cả khí áp và độ sâu cũng đều đo được. Có nó trong tay thì không cần dựa vào viên xà từ để định vị phương hướng nữa.

Mọi người tìm thấy vật tư quan trọng trong khoang thuyền bổ sung thì đều cảm thấy vững dạ hơn rất nhiều, từ trước đến giờ tâm lý tuyệt vọng dường như bủa vây tuyệt đối tinh thần mỗi người, giờ đây cảm giác ấy cuối cùng cũng được giải tỏa ít nhiều. Cả đội như được tiếp thêm niềm tin và dũng khí để tiếp tục chuyến hành trình xuống lòng đất sâu.

Tư Mã Khôi nhận thấy, khí áp trong lòng đất càng lúc càng xuống thấp, nhìn đồng hồ thì thấy cả hội loăng quăng một lúc mà đã mất đến hai giờ đồng hồ. Sau khi chỉnh trang thu dọn hành lý, cả đội lại tiếp tục lên đường.

Không ngờ, đúng lúc này lại xuất hiện biến cố. Thì ra đội trưởng Lưu Giang Hà đã tìm thấy thiết bị phát sóng ngắn trong khoang thuyền bổ xung, nhưng sau khi tắt nút công tắc, anh lại phát hiện dưới lòng đất vẫn tiếp tục tồn tại tín hiệu sóng ngắn, hơn nữa đoạn tín hiệu này vô cùng kì lạ, bởi vì sóng ngắn định vị thông thường, theo thông lệ chỉ sử dụng tín hiệu đơn tiết, không có nội dung cụ thể, nhưng sóng ngắn truyền đến từ nơi sâu trong biển cát lại khá kì quặc.

Tư Mã Khôi vốn là người dám mạo hiểm, bây giờ lại có vũ khí, nên anh càng bừng bừng khí thế, bởi vậy anh không mấy bận tâm đến phát hiện mới của đội trưởng Lưu Giang Hà: “Khoang thuyền bổ sung mà còn lắp thiết bị tín hiệu định vị, thì đội khảo sát liên hợp đương nhiên phải mang thiết bị thông tin phát sóng ngắn chứ. Tôi đoán nguồn tín hiệu đầu bên kia có lẽ chính là vị trí cuối cùng mà đội khảo sát đi đến, cho dù bây giờ tất cả các thành viên đều lâm nạn tử vong, nhưng tín hiệu liên lạc thì vẫn có thể tiếp tục phát sóng. Có điều, khu vực nằm giữa trạm thám trắc và cực vực tồn tại lớp mây mù dày đặc, nên lúc trong động đạo chúng ta mới không bắt được túi hiệu, bây giờ chúng ta có thể căn cứ vào tín hiệu đó để tiến hành định vị, tìm kiếm địa điểm đội khảo sát tử nạn.”

Thắng Hương Lân cảm thấy nghi hoặc, cô hỏi Lưu Giang Hà: “Khi nãy anh nói đoạn mật mã Morse có chút kỳ quặc, rốt cục là ý gì?”

Đội trưởng Lưu Giang Hà giải thích, tín hiệu định vị phổ thông thường không có nội dung cụ thể, mà chỉ là một đơn âm tiết bất kỳ “tạch” hoặc “tè”, nhưng tín hiệu nhận được từ sâu trong lòng đất lại là một tổ hợp các mật mã Morse tạo thành, nội dung của nó hết sức đơn giản va rõ ràng: ‘Tôi là 615, không được đến gần tôi”.

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ sáu

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">KẺ ĐỨNG ĐẦU TIÊN BÊN TRÁI HÀNG THỨ HAI

Tư Mã Khôi nghe đội trưởng liên lạc báo cáo nội dung mật mã Morse, thì cuối cùng cũng rõ vì sao anh chàng lại nói đoạn tín hiệu đó vô cùng kỳ quặc.

Căn cứ vào tình hình đội thám hiểm nắm bắt hiện giờ, thì ngay từ năm 1953, đội tàu ngầm thứ 40 của lực lượng vũ trang Liên Xô, có một chiếc tàu ngầm cấp Z chạy bằng động cơ diesel, mang theo hai quả tên lửa ra khơi, do thiết bị lái tàu mất kiểm soát nên con tàu đã mất tích giữa đại dương. Con tàu ngầm chiến thuật đó mang số hiệu 615.

Không biết khi đó người Liên Xô đã nhận được tin tình báo gì, mà lại phán đoán con tàu Z-615 xuất hiện dưới lòng đất sa mạc Lopnor. Để bảo vệ bí mật về tên lửa ngầm, họ đã thỏa thuận với phía Trung Quốc, cùng tiến hành kế hoạch kính viễn vọng Lopnor, khoan đào khu vực đó thành động đạo sâu mười ngàn mét.

Nhưng qua phương pháp viễn thám từ trường, thì trong không gian, nằm giữa điểm gián đoạn Moho, không hề tồn tại dấu tích con tàu ngầm của hải quân Liên Xô, mà thay vào đó lại bất ngờ phát hiện thấy hai vật thể bằng sắt thần bí.

Thế là, năm 1958 hai nước cử đoàn khảo sát liên hợp gồm 22 thành viên, xuống lòng đất chấp hành nhiệm vụ thám trắc thực địa, đồng thời kiêm nhiệm luôn việc tìm kiếm tàu ngầm Z-615. Sau đó đội khảo sát liên hợp cũng mất tích dưới lòng đất, và hoàn toàn mất liên lạc với trạm thám trắc trong động đạo, rồi quan hệ hai nước Trung Quốc — Liên Xô bắt đầu xuất hiện sự rạn nứt, toàn bộ kế hoạch buộc phải đóng băng. Cho đến tận bây giờ, vẫn chưa có bất kỳ ai biết rõ toàn bộ chân tướng của sự việc này.

Tín hiệu mật mã Morse mà đội khảo cổ thu được trong lòng đất, nếu đúng là phát ra đoạn mã có nội dung, lại không dùng ám ngữ bảo mật, thì chắc là đến từ con tàu ngầm Z-615 bị mất tích, nhưng nó dường như là một lời cảnh báo rất đặc biệt, chứ không phải tín hiệu cấp cứu, cũng có thể con tàu ngầm đã mất tích ở tít nơi sâu trong biển cát.

Có điều, hội Tư Mã Khôi không thể phán đoán tín hiệu định vị đó, liệu có phải là cạm bẫy hay không, bởi vì đặc vụ của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh giờ đây vẫn có thể đang ẩn trốn bên trong kính viễn vọng Lopnor. Nếu đúng là chiếc tàu ngầm Z-615 phát tín hiệu cảnh bảo, thì có nghĩa là cả đội đang sắp phải đối đầu với nguy hiểm bất ngờ không thể lường được. Biết rõ không còn con đường sống, nên trước khi tử thần đang rộng vòng tay thâu tóm tất cả sinh mạng, họ mới phát sóng ngắn để thông báo cho các phân đội cứu hộ từ bỏ công tác tìm kiếm, không nên tiếp cận họ. Nhưng khi đã nhận được tín hiệu thần bí này dưới lòng đất, thì khó mà khiến người ta bỏ qua sự tồn tại của nó, huống hồ việc tìm kiếm cỗ tàu ngầm Z-615 mất tích, tìm kiếm đội khảo sát liên hợp lâm nạn, làm rõ cội gốc cổ quốc Diệt Hỏa, tìm lời giải cho ẩn số miếu thần dưới lòng đất, vốn dĩ đều nằm trong kế hoạch đã định của đội khảo cổ. Bởi vậy, sau khi biết tình hình này, Tư Mã Khôi lập tức hỏi cặn kẽ đội trưởng Lưu Giang Hà về phương pháp tìm kiếm tín hiệu sóng ngắn. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc này đội trưởng chỉ biết vị trí đại khái của tín hiệu, khoảng cách lại không rõ ràng, nhưng điểm phát đi tín hiệu lại đồng nhất với phương hướng mà người sắt hoa tiêu mãi mãi hướng về.

Giờ đây, đội khảo cổ không thể dự đoán, thứ gì tồn tại trong bóng tối nơi tận cùng biển cát dưới lòng đất. Nhưng cho dù lúc này thực sự đã nhận được túi hiệu sóng ngắn của tàu ngầm Liên Xô, thì mọi người vẫn khó mà tin nổi nó thật sự xuất hiện ở nơi này. Bởi rốt cục kẽ hở thời gian, được tạo ra do ảnh hưởng của vụ nổ thiên thạch nằm sâu trong lục địa, dường như vẫn chưa động chạm tới khu vực bên ngoài Lopnor, nên cả đội căn bản không thể tưởng tượng nổi: tại sao con tàu Z-615 bị mất tích tận ngoài khơi Thái Bình Dương xa xôi, làm cách nào lại phiêu dạt được đến tận đây.

Tư Mã Khôi nói với mọi người: “Ngay cả tổng thống Mỹ Nixon còn đến thăm Trung Quốc nữa là, thời này còn chuyện gì không thể xảy ra được cơ chứ? Còn về vị trí phát ra tín hiệu sóng ngắn, có phải đến từ con tàu ngầm mất tích hay không, thì buộc phải trinh thám trực tiếp mới rõ được. Nhưng tôi có dự cảm rất không lành, nên đến lúc đó chúng ta hành sự cần hết sức thận trọng, tuyệt đối không được lơ là đâu đấy!”

Ba người còn lại đều cho là phải, rốt cục nhiệm vụ chủ yếu của chuyến hành động này là tìm kiếm cội gốc cổ quốc Diệt Hỏa dưới lòng đất, nếu thực sự không tìm thấy con tàu Z-615, thì cũng không cần phải miễn cưỡng quá.

Mọi người lập tức tiến hành xác định phương hướng bằng thiết bị trắc họa và la bàn. Cả đội khoác khẩu tiểu liên PPS trên lưng, kéo ván trượt cát, tiếp tục xuất phát vào biển cát.

Đội khảo cổ tiến sâu vào bóng tối, xung quanh vẫn chỉ một màu đen tuyệt đối, nên cảm thấy biển cát nhấp nhô, trải dài vô tận. Bầu không gian tĩnh mịch và địa hình đơn điệu dễ khiến người ta cảm thấy tinh thần mệt mỏi mơ màng muốn ngủ.

Đội trưởng Lưu Giang Hà liên tiếp mấy ngày nay đều rơi vào trạng thái căng thẳng thần kinh và lo lắng quá độ, nên suốt thời gian nghỉ ngơi dường như không chợp mắt được chút nào. Lúc này anh chàng vừa đi vừa ngủ gật, lăn cả xuống sườn cát mà không hề hay biết, may mà hội Tư Mã Khôi kịp thời phát hiện, mới không bị lạc mất. Ở nơi này mà chỉ cần rớt đội thì cũng đồng nghĩa với mất mạng.

Lúc trước, cả đội đã mất khá nhiều thòi gian ở khoang thuyền bổ sung, hơn nữa dưới lòng đất nguy hiểm mai phục tứ bề, hạ trại giữa biển cát rất nguy hiểm, bởi vậy Tư Mã Khôi không dám bảo mọi người dừng bước, thậm chí phải vừa đi vừa ăn, đến khi nào chạm trán với lốc tố mới được dừng lại. Giờ đây, anh vừa phải đề phòng động tĩnh xung quanh, vừa bảo mọi người nói chuyện với đội trưởng, không lỡ anh chàng lại tụt lại sau như lần trước.

Sau khi đội khảo cổ tìm thấy trang thiết bị vật tư, tâm trạng bi quan tuyệt vọng trước đây đã có chút chuyển biến tốt, như thể nhìn thấy tia nắng mặt trời giữa màn sương đen, thậm chí còn cảm giác có cơ hội thành công để hoàn thành nhiệm vụ, sau đó sống sót trở về. Những ngày này trải qua biết bao biến cố, mỗi người đều ngầm thẩm định lại nhân sinh quan của bản thân tự trong tiềm thức, bởi vậy cả nhóm vô hình chung đã bàn luận đến vấn đề: nếu có thể sống sót trở về, thì ngày sau sẽ làm gì? Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng cũng không có tâm nguyện gì lớn lắm, anh chỉ muốn nếu tìm thấy cỗ tàu ngầm Z-615 và ngôi miếu thần dưới lòng đất, cũng giống như những người tìm thấy xác ướp người phụ nữ ở Mã Vương Đôi, chắc chắn sẽ được thò mặt lên trang nhất của Quang Minh nhật báo, và nếu có thể bon chen vào tầng lớp viên chức, kiếm được đồng lương cấp bậc mười bảy, thì coi như anh cũng xứng đáng với ông bố La Vạn Sơn.

Cha mẹ Thắng Hương Lân đều sớm qua đời, vừa biết ở Anh có người chị họ, chưa kịp gặp mặt thì chị ấy đã không còn, cô không có gì phải vướng bận nữa cả, nếu được sống sót trở về, cô sẽ quay lại đội trắc họa làm việc như cũ, nếu không thì còn biết đi đâu bây giờ? Cô hỏi Tư Mã Khôi ngày sau định tính thế nào, hay vẫn cùng Hải ngọng tiếp tục ở lại đội khảo cổ?

Tư Mã Khôi biết rõ khả năng đội khảo cổ có thề sống sót quay về là vô cùng mờ mịt, chắc chỉ một phần vạn mà thôi, vì không có khoang giảm áp của Liên Xô, thì chỉ riêng hội chứng địa áp cũng đủ cướp đi sinh mạng của cả đội. Giờ đây ngay cả đường lui cũng hoàn toàn bị cắt đứt, huống hồ anh và Hải ngọng còn bị dính chất độc màu da cam ở khu rừng rậm Bắc Miến, e rằng có trở về cũng chẳng thể sống thêm bao lâu nữa. Bây giờ anh sống ngày nào biết ngày đó, chỉ muốn nhanh chóng tìm ra tên cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh, hoàn toàn xóa sổ món nợ này, bởi vậy anh chưa khi nào ngẫm nghĩ tới chuyện tương lai.

Có điều “hy vọng” vẫn đúng là thứ mà người ta cần nhất trong cơn tuyệt cảnh, cho dù đó có thể chỉ là thứ hy vọng căn bản không thể thực hiện được. Tư Mã Khôi cảm thấy mình sống suốt ngần ấy năm, mà vẫn chưa làm được chuyện gì có ý nghĩa, nên anh cũng không biết mình rốt cục có thể làm gì trong cái xã hội này. Sau khi từ Miến Điện trở về, may mà được giáo sư Nông thu nhận, cứ ngỡ từ nay về sau sẽ có công việc đàng hoàng, nào ngờ chưa được bao lâu giáo sư đã gặp họa mà vội từ biệt cõi đời, thân phận của anh rốt cục chỉ là công nhân thời vụ, đãi ngộ chẳng khác nào nhân viên tạp vụ chuyên lo trà nước điếu đóm, ngay cả hồ sơ còn không được lưu trong sở lao động, thì sau khi trở về, đơn vị có tiếp tục thu nhận nữa hay không – cũng khó nói trước. Bởi vậy, anh cũng không ôm tham vọng gì về chuyện này.

Tư Mã Khôi càng nghĩ càng miên man, trở về rồi chẳng lẽ lại chạy sang Miến Điện tham gia đội du kích? Anh cũng không muốn nhảy lên nông trường Hắc Long Giang đẽo đất, cùng lắm chỉ có thể trở về khu Hắc ốc tiếp tục bám đường sắt mà sống qua ngày, vì ngoài điều đó ra thì còn có lựa chọn nào khác? Nếu nói điều xa xỉ nhất anh mong ước lúc này, có lẽ là tìm được một nơi yên tĩnh để sống trong vài năm.

Hải ngọng phỉ báng: “Cậu tìm một nơi yên tĩnh làm gì, định ngồi luyện đan chắc? Tớ nhớ năm đó cậu còn bày mưu định rủ Hạ Cần lên núi làm trại chủ phu nhân còn gì?”

Tư Mã Khôi nói: “Đó là chuyện từ đời thuở nào rồi, hơn nữa phó tổng tư lệnh Hạ vừa nhìn thấy tớ đã đòi móc súng, tớ còn chẳng dám đi qua cổng nhà họ nữa là. Danh tiếng của cậu ở quân khu tốt hơn tớ, nếu cậu chủ động đi cầu hôn, có khi hỉ sự này lại thành ấy chứ!”

Hải ngọng cứ tưởng thật, vội hỏi Tư Mã Khôi: “Cậu thấy Tiểu Hạ người ta có ý với tớ thật à? Sao tớ không nhận ra nhỉ? Cái ông… cái ông phó tổng tư lệnh Hạ đó cũng tạm coi thanh liêm chính trực đấy nhỉ?”

Tư Mã Khôi nói: “Tớ thấy còn phải xem là chuyện gì cái đã. Cậu mà dám tay không đi bắt giặc, thì có mà đâm đầu vào bể lửa giận của ngài phó tổng tư lệnh ngay. Ông ấy lại chẳng trực tiếp bảo người xốc nách cậu đem đi bắn bể sọ ấy chứ?”

Hải ngọng cảm thấy rất khó xử: “Vấn đề là hiện nay chúng ta đang nghèo kiết xác, tớ đào đâu ra tiền mà đi hối lộ bác già ấy? Khoản đãi ngộ tiền lương mà giáo sư Nông hứa trả cho chúng ta, thì vẫn chưa đổi thành tiền mặt. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi nói: “Thế thì khi trở về cậu phải chịu khó làm việc, kiếm được tiền rồi hẵng nói. Dù sao chuyện lấy vợ sinh con cũng đâu thể cập rập được. Tục ngữ nói rất chuẩn: Gái hay không sợ xấu già, cho dù 49 vẫn đà sinh con.”

Hải ngọng và Tư Mã Khôi tán phét vài câu, rồi nhân câu chuyện quay sang hỏi luôn đội trưởng Lưu Giang Hà: “Gà mờ nhà chú, hồi ở quê nhà, đã có đối tượng nào tương đối chưa?”

Đội trưởng Lưu Giang Hà không phải người bạo miệng như Hải ngọng, anh chỉ hy vọng có thể thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ khó khăn mà cấp trên giao phó, rồi lập công, được đề bạt, tiếp tục ở lại quân ngũ. Vì nếu không, chỉ phục vụ thêm nửa năm nữa, hết hạn đi lính là phải phục viên; còn kỹ thuật thông tin mà anh chàng học ở đơn vị liên lạc không dây, hoàn toàn không sử dụng được ở quê nhà. Nhưng Lưu Giang Hà cảm thấy nhiệm vụ anh phải chấp hành lần này hoàn toàn vượt ra ngoài phạm vi của mình. Anh nghĩ mình thường làm vướng chân vướng cẳng đội khảo cổ, không những chẳng giúp được gì, mà lại còn làm hỏng chiếc máy điện đàm quang học không dây, khiến đội khảo cổ hoàn toàn mất liên lạc với hậu phương, có thể trở về để đơn vị xử phạt là tốt lắm rồi, còn mong gì lập công, khen thưởng nữa.

Ngoài ra, anh chàng còn vô cùng khâm phục bản lĩnh của Tư Mã Khôi và Hải ngọng, và nếu phải rời khỏi quân ngũ, anh chàng muốn theo chân Tư Mã Khôi để học chút kỹ thuật, cho dù chỉ làm công nhân thời vụ như chân cuốc xẻng cho đội khảo cổ cũng được, ăn cơm nhà nước bao giờ chẳng tốt hơn phải trở về khu du mục xén lông cừu.

Tư Mã Khôi thầm ca thán: “Ngay cả bản thân anh còn chưa biết nên đi đâu kiếm cơm, thì làm sao cho chú bám càng được?” – Nhưng anh không muốn làm Lưu Giang Hà cảm thấy thất vọng, bởi vậy cũng chẳng nỡ chối từ.

Tư Mã Khôi nhận thấy khí áp càng lúc càng xuống thấp, trong không khí tĩnh lặng dường như tiềm ẩn những tiếng động ồn ã đầy bất an, còn địa hình mà đội khảo cổ đang băng qua, tứ bề dựng đứng, giống như miệng núi lửa trên mặt trăng, đường kính dài đến mười mấy mét. Có lẽ nó được hình thành bởi dòng nhiệt nóng chảy hoặc dòng dung nham trồi lên từ quyển Manti từ hàng ngàn vạn năm trước; chỗ này lớp cát tương đối mỏng, có thể làm điểm tựa trốn tránh cơn giông tố ập đến bất cứ lúc nào, thế là anh bảo mọi người dừng chân, nằm bên viền hố thay nhau ngủ một lát.

Không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, gió từ lòng đất thổi lên ầm ầm, cát đá bay loạn xạ, Tư Mã Khôi giật mình tỉnh giấc, anh phát hiện mây khí tượng xuất hiện dưới lòng đất còn khủng khiép hơn dự đoán rất nhiều. Anh đeo kính chắn gió, rồi bảo đội trưởng thu gọn ván trượt bên mình, sau đó nằm phục trên mặt đất đợi lốc tố đến.

Lúc này, Thắng Hương Lân rút một tấm ảnh đưa cho Tư Mã Khôi, đó là tấm ảnh tập thể của đội khảo sát liên hợp Liên Trung năm 1958, được tìm thấy trong tập tư liệu và hồ sơ dưới trạm thám trắc trung tâm.

Tư Mã Khôi cầm bức ảnh xem dưới ánh đèn quặng, bức ảnh đó đúng là hình chụp 22 thành viên của tập thể đội khảo sát, họ đứng thành ba hàng, hàng đầu tiên ngồi xổm, hàng giữa hơi cúi người, hàng cuối đứng thẳng, bối cảnh là trong sa mạc, có lẽ là lòng động đạo kính viễn vọng Lopnor.

Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Anh thử nhìn lại bức ảnh xem, kẻ đứng đầu tiên bên trái hàng thứ hai ấy!”

Tư Mã Khôi cầm bức ảnh xem kỹ, quả nhiên có điểm khác thường, cảm giác như nhìn thấy ma lúc nửa đêm vậy, anh bất giác hỏi: “Người này á?”

Đúng lúc bụng đầy nghi hoặc, thì Hải ngọng nằm rạp bên cạnh đột nhiên vỗ vai Tư Mã Khôi, anh chỉ ngón tay ra phía xa, nhắc nhở tình hình có biến.

Tư Mã Khôi phóng tầm mắt ra xa, trông thấy trong bóng tối xuất hiện một đường trắng mờ mờ, dường như là vật thể phát sáng, cự ly càng lúc càng gần lại, ánh sáng dài mảnh mờ ảo nhanh chóng trở thành một dải sáng uốn éo bất định, một u hồn màu trắng giống như con sứa khổng lồ đang bồng bềnh trôi trong đại dương bóng tối mênh mông, kéo dài đến mấy chục mét.

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ bảy

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">BÓNG MA TRONG TẤM ẢNH

Tư Mã Khôi cực kì kinh hãi, anh hỏi: “Kia rốt cục là cái gì thế?”. Anh ra sức lau kính chắn gió, muốn trông cho rõ hơn.

Ba người còn lại cũng lặng người không biết nói gì, cố hết sức tránh lớp bão cát quất tới tấp vào mặt để bò ra ven hố tròn, tim gan ớn lạnh nhìn chằm chằm vào kỳ quan hiếm có vừa diễm lệ vừa ma quái đến cực điểm.

Vật thể phát sáng trong tầng mây di chuyển rất nhanh, nó đi đến đâu là một lượng lớn bụi băng cuốn theo gió lại lả tả rơi xuống, âm thanh như sấm dội, chuyển động như dời núi, dường như đó là mây mưa ứ đọng làm lạnh ngưng tụ dưới lòng đất, bị dòng khí đối lưu kéo theo, hình thành dải bụi băng trải dài hàng chục cây số, rồi chịu sự ma sát của địa áp, các hạt sương ánh sáng biến đổi khôn lường quấn vòng xung quanh dòng khí đối lưu, nhờ thế đã tạo ra hiện tượng cực kỳ quái dị.

 Mọi người chỉ cảm thấy má như bị dao cứa, chẳng ai dám tiếp tục nhìn nữa, tất cả đều buộc mình vào tấm ván trượt cát nặng trịch, ôm đầu co gọn người trong hố tròn đé tránh bụi băng. Khá lâu sau đó, dải mây khí tượng làm lanh dưới lòng đất cuối cùng cũng tiêu tan, nhiệt độ trong biển cát tăng trở lại như cũ, khiến các hạt bụi băng còn sót lại chuyển hóa thành sương mai, trắng mờ mịt giăng mắc khắp không gian.

Hội Tư Mã Khôi bị bão cát vùi lấp quá nửa thân người, chân tay lạnh buốt đến tê dại, mãi một lúc sau mới cử động được. Mọi người lục tục trèo ra cởi dây thừng, phủi sạch cát bụi trên người, thấy không ai bị thương hoặc mất tích mới thở phào nhẹ nhõm. Sau đó cả đội nằm lăn ra lòng hố nghỉ ngơi hồi lâu, đến lúc cảm giác bức bối đến ngột thở trong lồng ngực giảm nhẹ, họ mới kéo ván trượt cát ra, chuẩn bị tiếp tục lên đường. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Trước khi khởi hành, Tư Mã Khôi lại rút bức ảnh trong túi áo ra xem. Khi nãy lốc tố ập đến đột ngột, anh vẫn chưa kịp quan sát kỹ, bây giờ mới có thời gian ngắm nghía lại, thấy bức ảnh được chụp rất rõ nét, những chỗ khác đều không phát hiện có điểm gì khác thường, chỉ mỗi thành viên đứng đầu tiên ở hàng thứ hai bên trái, là xuất hiện đốm sáng mờ nhạt trên khuôn mặt, khiến ngũ quan bỗng dưng bị kéo dài, không thể phân biệt các đường nét, trông vô cùng quái dị.

Lúc này, Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng xúm lại xem. Trước đây mọi người từng nghe nói có một sổ bức ảnh chụp được cả bóng ma, bởi vì máy ảnh là thiết bị cảm quang, có thể chộp được một số thứ mà mắt thường không thể trông thấy, nhưng cả hội chưa bao giờ tận mắt trông thấy bức ảnh ma kiểu ấy, cũng không biết quan điểm đó là thật hay giả.

Nhưng nếu quả thật có loại máy ảnh nào đó chụp được u hồn, thì có lẽ nó cũng chỉ đến thế này mà thôi, đây chính là cảm giác trực quan mà tấm ảnh tập thể của đội khảo sát liên hợp năm 1958 đem lại cho hội Tư Mã Khôi.

Bởi vì, xem ra mọi thứ trong bức ảnh đều bình thường, chỉ duy gương mặt của thành viên đứng đầu tiên mé trái hàng thứ hai là nhòe nhoẹt. Nếu bảo do lỗi kỹ thuật hoặc máy móc hỏng hóc, thì sao không mờ mịt chỗ khác mà lại đúng ngay chỗ trên khuôn mặt?

Trước đây, Tư Mã Khôi từng xem rất nhiều bức ảnh chụp hình xác chết, anh biết, ảnh chụp xác chết không hề bị biến dạng, huống hồ lúc chụp ảnh toàn bộ thành viên đội khảo sát hãy còn sống, vậy sao gương mặt đó lại xuất hiện bóng ma?

Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Tôi cũng không biết bức ảnh có xuất hiện thứ gì đó mà mắt người không nhìn thấy được hay không, nhưng trong nhiếp ảnh đúng là có xuất hiện hai từ “ảnh ma”, gọi chung là “ảnh chụp bóng ma”. Thực ra, không phải các nhiếp ảnh gia thực sự chụp được hình u hồn, mà chỉ là một loại kỹ xảo khúc xạ vệt sáng. Trước đây, chúng ta chưa có nhiều tư liệu cụ thể về đội khảo sát liên hợp, bây giờ tuy phát hiện bức ảnh này, nhưng lại không thể xác định thân phận của một thành viên trong đội.”

Hải ngọng ra vẻ am hiểu nói: “Ảnh chụp bóng ma tức là ảnh ma chứ còn gì, bất kể thứ phản xạ đến máy ảnh là gì, thì nó cũng phải có nguồn gốc hẳn hoi chứ hả?”

Tư Mã Khôi gật đầu nói: “Tuy tôi không hiểu thế nào gọi là ảnh chụp bóng ma, nhưng cứ cảm giác bức ảnh này có vấn đề, nếu vấn đề không nằm ở ảnh, thì vấn đề phải nằm ở… bản thân thành viên bị máy ảnh xóa mờ gương mặt kia…”

Mỗi người góp một câu, thảo luận khá rôm rả, nhưng cuối cùng vẫn không ra đầu ra đũa gì cả, trước mắt tuy rằng có tấm hình, nhưng tung tích đội khảo sát vẫn là một ẩn số. Cả đội đành đánh dấu lại đầu mối này, tiếp tục chỉnh đốn hành trang chuẩn bị xuất phát về phía trước theo tín hiệu sóng điện yếu ớt phát ra từ nơi sâu trong biển cát.

Phần lớn thời gian, nhiệt độ trong dòng cát lún dưới lòng đất lên đến bốn mươi, năm mươi độ C. Dưới tác dụng của địa áp, sương mù lơ lửng giữa tầng không cứ ngưng tụ mãi không tan, thỉnh thoảng lại xuất hiện cơn mưa đá hoặc giông tố mang tính cục bộ. Để tiết kiệm pin và lương thực, đội khảo cổ chuyển sang đốt xương cá voi và mỡ rắn để lấy ánh sáng soi la bàn rồi từ từ tiến vào sâu hơn.

Lòng đất tối đen như hũ nút, thỉnh thoảng lại xuất hiện lằn sáng, báo hiệu con bão quy mô lớn hơn sắp xuất hiện. Trong hoàn cảnh này, thiết bị đo lường hoàn toàn mất tác dụng, mọi người không rõ mình đã đi bao xa trong biển cát, và cũng không rõ sau này còn phải tiếp tục đi bao xa nữa, chỉ biết lần theo các tín hiệu lúc có lúc mất, để không ngừng di chuyển về phía trước.

Đội khảo cổ chưa thể xác định không gian trong không động dưới lòng đất liệu có tồn tại điểm tận cùng hay không, mà chỉ cảm thấy mình đã thoát ra khỏi khu vực sương đen lai vãng, còn tín hiệu sóng ngắn của con tàu Z-615 thì vẫn chìm ở nơi sâu hơn trong bóng đêm.

Mọi người càng đi càng cảm thấy hoang mang. Trong không gian tăm tối, chỉ dựa vào vật tham chiếu hết sức có hạn, cả đội hoàn toàn không biết mình đang ở đâu, hơn nữa hoàn cảnh hiện tại lại cách biệt với thế giới bên ngoài, mỗi người đều phải chịu đựng sức ép tâm lý đang đè nặng trong lòng. Đội khảo cổ đi mãi hồi lâu, thì thấy phía trước xuất hiện một khe sâu rất rộng rãi khoáng đạt. Thắng Hương Lân lấy đồng hồ thám trắc trọng lực và từ lực ra xem một hồi, cô nhận định: trong thâm cốc chắc không tồn tại bất kỳ vật chất kim loại nào, bèn hỏi Tư Mã Khôi có nên đi vòng qua khe sâu hay không. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi thấy địa thế yếu hiểm, bên dưới lại sâu khôn lường, anh phỏng đoán nơi này trước đây từng là khe biển trong cực vực, dòng nước ngầm và hố xoáy đều ùn lên từ chỗ này. Tuy bây giờ đại dương dưới lòng đất đã khô cạn, nhưng tình hình dưới sâu vẫn không biết thế nào, đương nhiên là “thà đi xa ba bước lành còn hơn sà một bước hiểm”, anh thấy đi đường vòng vẫn ổn thỏa hơn.

Nhưng đội trưởng Lưu Giang Hà lúc này lại báo cáo: đoạn mật mã Morse yếu ớt như hồn ma kia, có lẽ được bắt nguồn từ trong khe sâu này.

Tư Mã Khôi kinh ngạc bội phần, đồng hồ thám trắc rõ ràng hiển thị không tồn tại vật thể kim loại ở đáy cốc, nhưng đội trưởng lại nhận định, tín hiệu sóng điện của tàu ngầm Z615 đến từ đáy khe, còn nếu không, thì phải là máy thám trắc hỏng, hoặc là thiết bị phát sóng ngắn có vấn đề. Anh hỏi Lưu Giang Hà xem khẳng định chắc chắn không?

Đội trưởng Lưu Giang Hà bảo là dám lấy đầu ra đảm bảo không có gì sai sót, công việc khảo cổ thám hiểm hang động thì đúng là anh chịu chết, nhưng về phương diện thông tin, thì anh tự tin mình là mũi nhọn kỹ thuật.

Tư Mã Khôi tạm tin đội trưởng Lưu Giang Hà, nhưng thể tích chiếc tàu ngầm Z-615 của hải quân Liên Xô to lớn dường ấy, đúng là chẳng khác gì con cá kình bằng thép dài cả trăm mét, thì sự tồn tại của nó chẳng khiến các chỉ số thám trắc của đồng hồ đo lường phải nhảy điên cuồng như phát rồ ấy chứ, nhưng sao nó lại im lìm không chút phản ứng như vậy nhỉ?

Mọi người nhìn nhau, ai cũng biết dưới đó chắc chắn có vấn đề, nhưng vấn đề nằm ở đâu? Theo lý mà nói, thì chiếc tàu ngầm không thể xuất hiện dưới đáy kính viễn vọng Lopnor mới là điều bình thường, nhưng nguồn gốc tín hiệu đoạn mật mã Morse là gì vậy?

Đội khảo cổ cân nhắc thiệt hơn, rồi đều cho rằng: dù có là con thiêu thân lao vào lửa thì họ cũng phải xuống dưới đó thăm dò cho rõ nhẽ. Thế là, mọi người bỏ ván trượt cát xuống, rồi từng người tự đeo ba lô hành lý và súng ống của mình, mò mẫm đi xuống khu vực chật hẹp, thoai thoải phía dưới, những chỗ cheo leo hiểm trở thì họ dùng dây thừng có móc câu, móc vào kẽ đá mà tụt xuống. Cả hội xuyên qua từng tầng sương mỏng như tấm màn che, cuối cùng cũng xuống được dưới lòng cốc sâu khoảng trăm mét.

Tư Mã Khôi soi đèn quặng, thấy tứ bề tầng tầng lớp lớp san hô hóa đá kề nhau san sát, cao đến mấy mét, ngả màu trắng xám, hình thù giống tùng bách cổ xưa, bề mặt lỗ chỗ những hố thông nhau, khiến địa hình cao thấp xen kẽ ban đầu càng trở nên phức tạp và nguy hiểm hơn. Những vũng nước đọng trong lõi hóa thạch, bốc mùi hôi thối đến khó chịu.

Để đề phòng sự cố ngoài ý muốn, Tư Mã Khôi bảo mọi người phải đeo mặt nạ chống độc, sau đó mở chốt an toàn khẩu súng xung phong, rồi lấy tay ra hiệu, lệnh cho đội trưởng liên lạc xác định lại tín hiệu. Cuối cùng anh chỉ về hướng phát ra tín hiệu, bảo Hải ngọng: “Ngụy quân các ngươi đi trước, dẫn đường cho hoàng quân bọn ta nào!”

Hải ngọng rất bất bình, miệng lầu bầu trách móc câu gì đó nghe không rõ, nhung vì đang đeo mặt nạ phòng độc, nên âm thanh rất trầm và nhỏ, bởi vậy chẳng ai rõ cậu ta định nói gì. Người nọ bám sát người kia, lục soát theo chiều dọc thâm cốc.

Đoạn tín hiệu thần bí liên tục phát đi đã gần hai mươi năm, lúc này không ai nắm được vị trí khởi phát của nó ở đâu, nên càng đến gần thì trong lòng ai nấy càng thắc thỏm bất an.

Mọi người vừa nơm nớp lo sợ, vừa tiến thêm đoạn nữa, thì thấy trong khe nứt do dung nham núi lửa dưới đất tạo thành, có một bộ xương sinh vật cỡ lớn, mà nhìn xương hàm của nó thì có vẻ không giống cá voi lắm. Mọi người đi đến gần, phát hiện mình còn chưa cao đên nửa xương hàm dưới của sinh vật cổ, thì ai nấy đều bất giác rùng mình ớn lạnh, rồi phỏng đoán bên trong khe nứt chắc từng là sào huyệt của loài sinh vật đại dương cổ đại nào đó, còn lòng đại dương chết chóc trong cực vực đã sớm khô kiệt từ mấy ngàn năm trước. Nhưng liệu có phải sóng điện đến từ tàu ngầm Z-615 của hải quân Liên Xô thực sự phát ra từ nơi này hay không? Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Nghe nói, thiết bị thám trắc ngoài không gian thời kỳ đầu của Liên Xô và Mỹ, từng thu được nhiều tín hiệu sóng điện thần bí, không thể giải thích được. Khi đó, có một số người đã cho rằng, vong hồn người chết đều tụ tập ở đó, thậm chí còn xuất hiện tin đồn là trong sóng điện có lời cảnh báo, bảo thế nhân tuyệt đối không được đến gần. Phải mãi mấy năm sau thì sự thật mới ba năm rõ mười, thì ra tín hiệu mà máy thám trắc thu được, chỉ là hiện tượng khúc xạ vi sóng vũ trụ sản sinh do điện từ; loại sóng điện này tồn tại ở đó ngay từ thuở hằng cổ hồng hoang. Hiện tượng nhiễu sóng trên ti vi hay tạp âm lạo xạo trong đài, cũng có nguồn gốc tương tự, đó chỉ là hiện tượng nhiễu loạn sóng điện từ không có chút ý nghĩa nào.

Tuy tín hiệu đội khảo cổ nhận được rất yếu ớt, nhưng lại không phải hiện tượng khúc xạ vi sóng thiếu nội dung thực tế. Hội Tư Mã Khôi vừa phỏng đoán nguồn gốc của tín hiệu, vừa tiếp tục mò mẫm về hướng huyệt động hóa thạch, nhưng lúc này đội trưởng Lưu Giang Hà lại báo cáo: tình hình không ổn, tín hiệu sóng ngắn đột nhiên trở nên càng lúc càng yếu, rồi cuối cùng hoàn toàn im lìm biến mất, không thể thu nhận được nữa.

Tư Mã Khôi cảm thấy sự việc này vô cùng bất thường: “Tín hiệu sóng ngắn liên tục được phát ra suốt nhiều năm, sao đột nhiên lại biến mất đúng vào thời khắc then chốt thế này được nhỉ?”

Đội trưởng liên lạc đã dám dùng quân lệnh để đảm bảo không thể xảy ra sai sót, anh suy đoán tín hiệu sóng ngắn 615 không phải bị ngừng lại, mà là biến mất; nguồn tín hiệu bị biến mất, còn nguyên do xuất hiện tình huống này, e rằng chỉ có một sự giải thích hợp lý duy nhất.

Tư Mã Khôi quay đầu nhìn đội trưởng liên lạc, lúc này, qua máy thở phòng độc, anh không quan sát được sắc mặt đối phương thế nào, nhưng thấy mắt đối phương chợt lóe lên tia sáng khác lạ màu xanh âm u, trong thâm cốc tăm tối, cho dù cách mặt nạ nhưng anh vẫn phát hiện thấy. Tư Mã Khôi sinh nghi, bước lại gần hỏi: “Hai điều này có gì khác nhau? Vì sao tín hiệu lại đột nhiên biến mất?”

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ tám

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">BỒN ĐỊA TURPAN 

(1)

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[

1] 

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Turpan:<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> cũng được gọi là <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Turfan <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">hay <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Tulufan <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">thuộc khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc; trong tiếng Ngô Duy Nhĩ có nghĩa là “vùng đất thấp nhất”.

Đội trưởng Lưu Giang Hà nói với ba người còn lại: nếu tín hiệu định vị sóng ngắn mà lúc trước đội khảo cổ thu nhận được, đúng là đến từ tàu ngầm Z-615 bị mất tích, rồi dần dần suy yếu, mãi đến cuối cùng lại hoàn toàn biến mất, thì chắc chỉ tồn tại một khả năng, đó chính là con tàu ngầm vẫn tiếp tục di chuyển dưới lòng đất và đi vào vũng mù nhiễu loạn nào đó, cho nên tín hiệu sóng ngắn mới bị cách tuyệt hoàn toàn như vậy.

Hải ngọng vẫn chưa tin lắm: “Nơi này ngoài cát ra thì chỉ có mỗi hóa thạch, tàu ngầm đâu phải sinh vật sống, nếu nó có rơi xuống đây thì cũng bị vùi lấp đến nửa thân, làm gì có chuyện tiếp tục di chuyển được?”

Đội trưởng liên lạc cũng thấy chuyện này đúng là rất khó tin, ngay cả bản thân anh cũng không thể tin được, rốt cục năng lực duy trì liên tục ngoài khơi của tàu ngầm cấp Z chỉ là 11 ngàn hải lý, nó đã mất tích từ năm 1953 đến nay, sao vẫn có thể tiếp tục hoạt động ở khu vực không có nước được? Nhưng theo phân tích về mặt kỹ thuật, thì chỉ có khả năng đó mới giải thích thông suốt tình hình hiện tại.

Thắng Hương Lân cảm thấy chỉ dựa vào đoạn mật mã Morse, cũng không thể khẳng định đó chính là tàu ngầm Liên Xô bị mất tích. Không động dưới lòng đất có biết bao hiện tượng dị thường quái lạ, bao nhiêu tình huống đã xảy ra vượt qua khả năng lý giải của đội thám hiểm. Vả lại, bản thân tín hiệu sóng ngắn dự đoán đến từ tàu ngầm Z-615, lai lịch cũng rất không rõ ràng; đã không thể định vị, thì cũng rất khó truy tìm nguồn gốc, khe sâu này không ổn để ở lại lâu, phải rời khỏi đây càng nhanh càng tốt.

Tư Mã Khôi đứng bên không nói năng gì, anh kín đáo quan sát đội trưởng liên lạc qua mặt nạ phòng độc, lúc này không thấy ánh mắt màu xanh âm u đâu nữa, dường như nó chỉ thoáng xuất hiện trong chốc lát rồi biến mất. Nhưng thị lực của Tư Mã Khôi là 2,0

(

2

)

 , nên anh tự cho mình không thể nhìn lầm, lòng nghĩ thầm: Lưu Giang Hà là quân nhân trong đội khảo cổ, lai lịch địa vị rất rõ ràng, không có điểm gì đáng phải nghi ngờ, lẽ nào anh ta lại là phần tử mai phục của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh?

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[2] <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Thị lực 2,0:<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> Theo tiêu chuẩn đo thị lực của Trung Quốc, chỉ số trên thể hiện thị lực rất tốt, có thể nhìn thấy chữ e hàng cu<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ố<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">i cùng trên bảng đo thị lực ở khoảng cách 2 mét, chỉ <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">số thị lực<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> của người bình thường là 1,0 đ<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ế<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">n 1,5.

Lúc này, Tư Mã Khôi đột nhiên thấy chấn động từ nơi xa truyền đến, dường như nó dội từ dưới lên, đến càng lúc càng mau; anh cúi đầu nhìn thì thấy một cuộn sương khói đậm đặc từ kẽ nứt hình mai rùa dưới chân đang trào lên, nó lấp lánh ánh sáng mờ mờ như ánh lửa ma trơi.

Thắng Hương Lân vội vàng kéo mạnh Tư Mã Khôi lại phía sau, chỉ thấy cột khói màu xanh càng lúc càng nhiều, lòng đất giống như một ống khói đang nhả cuồn cuộn, cột khói không ngừng dâng cao. Mọi người cảm thấy da thịt bỏng rát không chịu nổi, như thể chỉ cần ở lâu thêm chút nữa sẽ bị nó nướng chín. Người nào người nấy ra sức lùi ra phía sau, nhưng khắp lòng thâm cốc có đến hàng trăm điểm nhả khói, cột khói chỗ to chỗ nhỏ, có chỗ cao đến mấy chục mét, tất cả đều có màu xanh lục, vô cùng chói mắt.

Bây giờ Tư Mã Khôi mới biết: ánh sáng màu xanh nhìn thấy trên mặt nạ của đội trưởng Lưu Giang Hà, thì ra là được phản chiếu từ luồng hàn quang thể khí sản sinh dưới lòng đất. Anh lui lại mấy bước rồi hỏi Thắng Hương Lân: “Sao loại khói bụi này giống với mạch nước phun thế nhỉ, nói trào là trào ra ngay được!”

Thắng Hương Lân biết rõ sự lợi hại của nó, cô nói với Tư Mã Khôi: “Vật chất thể khí dưới lòng đất có màu xanh, thể hiện nồng độ axít bên trong cực mạnh, chỉ cần tiếp xúc với cơ thể con người, da thịt sẽ bị nó ăn mòn và đốt cháy tức thì. Mọi người mau ra khỏi đây, tuyệt đối không được để nó bắn vào!”

Tư Mã Khôi quay đầu lại nhìn, phát hiện cả hội đã bị vật chất thể khí nóng rát trào ra như mạch nước phun bủa vây, anh đành gọi mọi người đi vòng để tránh từng cột khói đặc, trốn chạy thục mạng vào nơi sâu hơn.

Mọi người chạy đến điểm tận cùng của khe sâu thì mệt muốn đứt hơi, lồng ngực như bị bốc cháy, trên đường vẫn không thấy bóng dáng chiếc tàu ngầm cấp Z đâu cả, thậm chí còn không xuất hiện bất kỳ dấu tích nào.

Tư Mã Khôi nhìn những cột khói bụi dày đặc mang tính axít cực mạnh, đã dần khuất xa phía sau, mới bảo mọi người chạy chậm lại, đi xuyên qua khe sâu lại đến biển cát nhấp nhô trải dài vô cùng vô tận. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ: vật tư không ngừng tiêu hao theo độ dài của lộ trình, nước và lương thực còn lại cũng vô cùng có hạn, không cần thiết phải mất thời gian quay về nhặt ván trượt cát, thế là theo sự chỉ dẫn của đồng hồ thám trắc, cả đội tiếp tục bước từng bước dài tiến về phía trước.

Sau khi đội khảo cổ băng qua nhiều triền cát dài, phía dưới dải cát bắt đầu xuất hiện kết cấu địa tầng phong thực lún xuống, dòng nhiệt đối lưu vận động dữ dội trong quyển Manti khiến tầng dung nham bị khô nứt, sự biến thiên của tự nhiên tạo nên địa mạo hiếm có, vừa hùng vĩ vừa thần bí, rốn sa mạc dưới lòng đất hình thành một nơi gọi là bồn địa Turpan.

Bồn địa Turpan rộng lớn này cũng giống với sa mạc Gobi, nó không ngừng bị cát lún nuốt chửng. Mọi người đi sâu vào biển cát mênh mông và hoang vu, không một dấu chân người, bỗng trước mặt xuất hiện một tòa thành cổ đại rất kỳ dị, quy mô to lớn, nhưng nó sớm trở thành chốn hoang phế không có người ở, xung quanh chỉ còn những bức tường đổ nát ngắt quãng còn sót lại, trong vách tường là vô số huyệt động, đá tầng tầng lớp lớp dày đặc, khe rãnh ngoằn ngoèo sâu hút, những bức tượng người bằng đá cao to lừng lững đứng cô quạnh giữa biển cát, nó bị gió và cát chia cắt thành các đường rãnh thuôn dài đầu to đuôi nhỏ dần, giống như hình cây nấm, trông vừa uy nghiêm vừa thâm trầm.

Đội khảo cổ xuyên qua biển cát mênh mông trong cực vực, đến nơi này, người nào cũng mệt mỏi nhếch nhác, bỗng nhiên lại tìm thấy một tòa thành cổ bị chôn giấu dưới lòng đất, ai nấy đều tim đập loạn xạ, tư duy rối bời, cảm tưởng mình như đang lạc vào nơi tận cùng của thế giới, chạm tới hơi thở u minh, sâu thẳm của thời viễn cổ xa xôi.

Tư Mã Khôi không dám lơ là, anh dẫn ba người leo lên tường thành vào bên trong ngó nghiêng một hồi. Ngoại trừ gió cuốn cát bụi, thì trong thành cổ chỉ là miền tĩnh lặng và bóng tối vô biên, đó là tòa thành chết, hoàn toàn không có dấu tích của sự sống.

Thắng Hương Lân bới đất cát, thấy bề mặt các phiến đá xây tường xuất hiện rất nhiều lỗ rỗng, thì biết đây chính là đá dung nham, khi núi lửa thời cổ đại phun trào rồi đông kết mà thành.

Lúc này, ở nơi xa trong tầng mây bỗng lóe lên lằn sét đánh; nhờ luồng ánh sáng yếu ớt, mọi người thấy sâu trong thành cổ có một đỉnh núi cao, đen sì sì, cả thành trì vây quanh ngọn núi đó, ngọn núi không có chóp nhọn, và dường như nó là ngọn núi lửa đang ngủ yên dưới lòng đất.

Tư Mã Khôi suy đoán: đây là ngọn núi lửa hình thành do dung nham ở tầng quyển Manti phun trào, còn tòa thành cổ trải qua hàng ngàn năm mà vẫn hoàn toàn nguyên vẹn. Có thể ngọn núi này chỉ là núi lửa chết, đã ngừng hoạt động từ lâu, nên cũng không cần lo lắng lắm về nó; có điều anh thực sự không thể ngờ, dải quần thể đá dung nham núi lửa dưới vực sâu lại chôn giấu một di chỉ kiến trúc hùng vĩ và quy mô dường này, lịch sử cũng không hề lưu lại bất kỳ ghi chép gì về nó, tất cả đều hoàn toàn mới mẻ.

Tóm lại, đây là cổ quốc hoang phế còn thần bí cổ xưa hơn cả thời đại vương triều Lâu Lan, kiến trúc của nó cũng kỳ dị và hùng vĩ hơn nhiều. Không biết trong lòng nó còn che giấu những bí mật kinh thiên động địa gì nữa, nhưng điều đáng để suy ngẫm kỹ nhất hiện nay chính là: vì sao người ta lại cho xây dựng tòa thành nguy nga thế này dưới lòng đất? Phải chăng nó có liên quan đến miếu thần?

Có điều, chỉ dựa vào bốn thành viên của đội khảo cổ, đối diện với di chỉ hoang phế kỳ vĩ dường vậy, thì cho dù muốn nhanh chóng tìm thấy manh mối có giá trị cũng đâu phải chuyện dễ dàng. Vì vậy mọi người đành định vị mục tiêu là ngọn núi lửa sừng sững nằm ở nơi sâu nhất trong thành cổ, mà có lẽ khu vực chính của thành nằm trong lòng núi, bởi rốt cục nó vẫn là khu vực trung tâm của cả quần thể kiến trúc.

Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà nhắc nhở hội Tư Mã Khôi, tuyệt đối không được chạm vào bất cứ thứ gì trong thành cổ, bởi vì đội lạc đà xuyên sa mạc hàng ngàn năm nay vẫn truyền tai nhau về truyền thuyết liên quan đến tòa thành ma. Nghe đồn, từ xưa đã không ai biết tòa thành ma được xây dựng ở đâu và vào thời gian nào, chỉ biết con đường đến đó vô cùng hung hiểm, nên rất khó đi tới đích, còn những người tận mắt trông thấy nó cực kỳ ít ỏi. Cho dù phải trải qua không biết bao nhiêu gian nan nguy hiểm mới đến được thành cổ, thì cuối cùng cũng bị ác ma tước đoạt mất sinh mệnh. Mỗi khi trong thành có bão cát vần vũ một cách kỳ lạ, thì đó chính là điềm báo ác ma sắp xuất hiện.

Thắng Hương Lân cũng nghe kể về chuyện này, cô nói với đội trưởng thông tin: “Kỳ thực tòa thành ma không phải là di tích lịch sử, mà chỉ là dải địa mạo Nhã Đan bị xâm thực, bào mòn nằm ở phía đông bắc sa mạc Lopnor. Ở đó bão cát hoành hành dữ dội, hoang vu không có bóng dáng con người, đường đi lại rất gian nan, người xưa thường nhìn ra xa mỗi khi đi qua đó, cứ ngỡ đó là một tòa thành cổ trong sa mạc, rồi ghi vào sử sách. Người đời sau thấy nó kỳ dị, nên cũng không tìm hiểu căn nguyên cội nguồn, cứ thế truyền miệng cho nhau, càng lan truyền lại càng ly kỳ.”

Đội trưởng Lưu Giang Hà không hiểu thế nào gọi là địa mạo Nhã Đan xâm thực bào mòn, nhưng từ nhỏ anh chàng đã lớn lên cùng đội lạc đà, thường nghe người già kể những truyền thuyết cổ quái trong sa mạc Gobi, trong lòng khó tránh cảm giác rùng rợn.

Tư Mã Khôi thấy kết cấu trong thành cổ rất phức tạp, nơi sâu dựờng như phả ra hơi thở đáng sợ của cái chết và sự tuyệt vọng, bề mặt xem chừng tĩnh lặng, nhưng bên dưới lại tiềm ẩn những mối nguy hiểm to lớn, không biết nó sẽ bất ngờ xảy ra vào lúc nào. Anh cũng lo lỡ đâu đội trưởng thông tin xảy ra bất trắc gì, bèn dặn dò anh chàng phải xách đèn quặng bám sát sau lưng mình.

Đội khảo cổ băng qua bức tường đổ, tìm đường di chuyển vào nơi sâu trong thành cổ, thấy trước mắt toàn những ngọn núi đá và vách đá đứt gãy đứng sừng sững. Chúng hình thành vô số trụ đá hình măng và lùm đá hình ống khói, các động nham thạch hữu cơ nối liền nhau, tạo thành những căn phòng lớn thông với nhau, phía dưới còn có đường thông gió,chia thành nhiều tầng, sâu đến mấy chục mét, phân bố dày đặc như mạng nhện.

Kết cấu địa chất hùng vĩ khiến người ta cảm thán này, được hình thành sau khi núi lửa trong lòng đất phun trào vào thời viễn cổ, rồi trải qua quá trình phong hóa và nước bào mòn trường kỳ, phần còn sót lại trở thành những tháp đất hình chóp và các loại huyệt động khác nhau, đồng thời cũng khiến đường đi trong thành cổ trở nên ngoằn ngoèo khúc khuỷu. Nếu không có bản đồ trong tay mà đi vào đây thì đúng là hoa hết cả mắt, có khi còn bị cát lún nuốt chửng lúc nào chẳng hay, bởi vậy mọi người cũng không dám mạo hiểm thâm nhập vào sâu hơn để thăm dò, mà chỉ đứng ven thành rọi đèn quan sát, nhưng thành quách bị hư hỏng biến dạng hết cả, chưa phát hiện được gì từ bên ngoài.

Khăp nơi trong thành cổ này thấy vô số tảng đá nằm lổn nhổn dưới đất với các hình thù khác nhau, nhưng khi tiến lại gần, phủi lớp cát phủ bên trên thì thấy đó là hàng ngàn tượng người bằng đá được điêu khắc thô sơ, dung mạo trầm ngâm tĩnh tại, họ nhìn chằm chằm về phía trước từ nhiều góc độ khác nhau, dường như bất kỳ thứ gì đều không thể lọt khỏi tầm mắt của họ.

Đội khảo cổ mò mẫm đến chân núi, lại có một bức tường kiên cố, một cánh cửa khổng lồ cao gần mười mét nằm trong lòng núi, hai mặt khảm tượng người bằng đồng nặng ngàn cân, một người bắt rắn, một người cưỡi rùa, khuôn mặt trông rất kỳ dị, khắp mình khắc đầy chữ triện cổ triều Hạ, nhưng đã bị gỉ sét ăn mòn, khó lòng phân biệt được chữ nào vào chữ nào.

Hải ngọng nóng lòng muốn biết thành cổ cất giấu thứ gì, bèn lên trước đẩy mạnh cửa, nhưng cho dù vận hết công lực, cánh cửa vẫn chẳng hề xê xích một ly, nó vững chãi như cột đình. Hải ngọng mệt đến nỗi mặt đỏ tía tai, gân xanh hằn trên cổ, anh nói với ba người còn lại: “Các cậu đừng có trố mắt lên mà ngó thế, mau lại đây giúp tôi một tay, nếu không thể đẩy được cánh cửa thành lũy phong kiến phản động kiên cố này, thì chúng ta đến đây chỉ uổng công thôi.”

Đội trưởng Lưu Giang Hà khoác súng ra sau lưng định thò tay giúp Hải ngọng, nhưng Tư Mã Khôi ngăn lại: “Đừng mất công vô ích! Cánh cửa đá này dày nặng lắm, tám phần là dùng rãnh trượt từ trong kéo lên, đừng nói bốn người chúng ta không đẩy được nó, mà ngay cả dùng hết toàn bộ mấy bó thuốc nổ ở đây, cũng không làm nó động đậy được đâu”.

Lúc này, Thắng Hương Lân mới nói với Tư Mã Khôi: “Cho dù có đủ thuốc nổ, cũng không thể sử dụng phương pháp này được, đội khảo cổ tác nghiệp phải biết giới hạn, nếu không thì khác gì bọn giặc đất? Ngoài ra, căn cứ vào số liệu hiện thị trên đồng hồ thám trắc trọng lực và từ lực, thì trong tòa thành cổ tồn tại một vật thể hình tròn bằng kim loại khổng lồ…”

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ chín

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">PHÁT HIỆN ĐỘNG TRỜI

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> 

Tư Mã Khôi có chút bất ngờ: “Trong thành cổ dưới lòng đất còn có vật thể kim loại hình tròn cơ à? Có phải nó là mạch quặng tồn tại trong lòng núi không? Bây giờ cô đã xác định được nó cụ thể là vật gì chưa?”

Thắng Hương Lân lắc đầu: “Tôi cũng không dám chắc, chỉ suy đoán nó khả năng bằng đồng, và được cất giấu trong lòng núi”.

Hải ngọng cũng kêu lạ: “Chuyện này đúng là hi hữu! Không biết thể tích của nó lớn chừng nào? Sao lại là… hình tròn được nhỉ?”

Đồng hồ thám trắc trọng lực và từ lực của Thắng Hương Lân chỉ hiển thị một vài số liệu đại khái, phỏng đoán vật thể có đường kính dài khoảng trên dưới ba mươi mét, còn tình hình cụ thể ra sao, thì không suy đoán được.

Tuy đội khảo cổ không biết người xây dựng tòa thành cổ là ai, nhưng rất có khả năng nó được xây đựng vào thời tam đại Hạ – Thương – Chu, từ lưu vực sông Hoàng Hà di chuyển dần xuống lòng đất, ngoài điều đó ra, mọi người không biết gì hơn, các sách địa lý cổ cũng hầu như không ghi chép gì về sự kiện này. Nhất thời, mọi người không biết phải bắt tay từ đâu, đành tiếp tục thăm dò lòng huyệt động ở nơi sâu nhất trong thành cổ xem tình hình thế nào trước đã.

Tòa thành cổ này xuất hiện ở điểm tận cùng của tọa độ dẫn đường, có lẽ nó chính là chìa khóa quan trọng để mở ra các ổ khóa ẩn số, bây giờ chỉ cách đáp số một bước chân. Có điều mọi người không thể lý giải được: người xưa đã làm cách nào để chế ra vật thể bằng đồng xanh hình tròn khổng lồ cỡ này được?

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: nơi sâu trong thành cổ đã có cánh cửa đá to nặng như thế, thì lòng núi chắc chắn phải bị đục rỗng, có lẽ giống như cái giếng khoan, thông suốt từ miệng cho đến tận đáy. Bởi vậy cả đội có thể thâm nhập vào trong bằng cách mạo hiểm tụt từ miệng núi xuống dưới. Có điều trước khi làm vậy, vẫn phải tìm xem có lối đi nào trong huyệt động hoặc có mật đạo nào nằm trong thành không đã. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thế là anh bảo mọi người nắm bắt thời gian chuẩn bị, đầu tiên ăn uống lót dạ qua loa, sau đó thu dọn nai nịt hành lý thật gọn gàng, rồi bới một miệng động bị cát vàng vùi lấp ở gần đấy. Tư Mã Khôi xách súng xung phong và đèn cacbua cùng Hải ngọng vào trong trinh sát, huyệt động xuất hiện quá nhiều cát lún, chất lượng không khí không tốt lắm, khiến ánh đèn cứ mờ ảo chập chờn.

Thành cổ chia tầng tầng lớp lớp, điểm tiếp nối của một số khu vực vừa hẹp lại vừa thấp, địa thế dễ thủ khó công, muốn vào bên trong buộc phải cúi người chui qua, giống như chui vào tổ kiến chằng chịt ngang dọc, vết tích đục đẽo thủ công của con người ở hai bên vách rất rõ nét. Giếng thông gió xuyên suốt, sâu cả trăm mét, mỗi lối vào từng tầng động đạo đều có cửa hình tròn, vô cùng kiên cố, giống như để đề phòng kẻ địch tấn công từ bên ngoài.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng buộc dây thừng dài vào thắt lưng, xách đèn quặng dò đường, vừa đi vừa quan sát tứ phía xung quanh, thấy thành cổ dưới lòng đất có quy mô vô cùng hùng vĩ, kết cấu quái dị, trong lòng bất giác cũng tự thấy thất kinh, càng quan sát lại càng thấy không thể lý giải nổi đây rốt cục là chốn nào. Cuối cùng, hai người mò mẫm đi vòng đến phần đáy cánh cửa đồ sộ ở trong thành, trên vách đá dọc hai bên đường hầm, khắc đầy những bức vẽ chim bay cá lượn. Hai người soi đèn xem thì thấy phần lớn nội dung các bức bích họa đều mô tà về truyền thuyết vạn vật biến mất, nhưng vì nội dung quá trừu tượng, cổ xưa, nên nhất thời khó mà lĩnh hội được hàm ý của nó. Vả lại nơi tận cùng đường hầm lại là ngõ cụt, không thể tiến vào lòng núi, nên cho dù có mật đạo cũng khó mà tìm thấy, hai người bèn quay trở về theo đường cũ.

Đội khảo cổ đành mạo hiểm trèo lên cao, lúc này tầng mây dưới lòng đất đang phun trào, luồng cát điên cuồng vần vũ, đỉnh núi đỉnh bằng đứng sừng sững sâu trong thành cổ, giống như ngọn tháp khổng lồ cô độc và im lìm, hòa quyện với bóng tối thăm thẳm, nó thấp thoáng ẩn hiện giữa màn sương đen già nua và hiểm trở, cảm giác nặng nề tồn tại khiến người ta rùng mình ớn lạnh. Có lẽ thế nhân vĩnh viễn không bao giờ hiểu được nơi này rốt cục che giấu bao nhiêu bí mật cổ xưa và quái dị.

Độ dốc của ngọn núi đỉnh bằng rất hiểm trở, tầng dung nham trơ trụi không một ngọn cỏ, ngay cả bầu không khí cũng ám mùi của sự hoang lương đáng sợ; trên đỉnh là miệng núi lửa khổng lồ hình cái chậu, bốn vách phủ lớp bụi dày, ở giữa là huyệt động tròn vành vạnh, đường kính khoảng trên 50 mét. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hội Tư Mã Khôi trèo tới đỉnh, đứng bên miệng núi lửa ngó xuống, nhận thấy gió dữ trong động rít lên từng hồi, dường như có một lực hút rất ghê gớm tồn tại trong bóng tối âm u, nó tựa hồ muốn kéo tuột người ta xuống tận đáy vực. Những người hơi non gan một chút, đừng nói dám ghé xuống nhìn, mà chỉ cần đứng cạnh miệng hố cũng đủ thấy mềm nhũn cả chân.

Hải ngọng nhìn xong phát hoảng, anh nói với Tư Mã Khôi: “Trên đời tục truyền có bốn thứ đại hắc, đó là Bao Thanh Thiên, Hô Diên Khánh

(1)

 , đêm ba mươi và động không đáy. Tớ thấy cái bụng núi này khéo còn đen hơn cả động không đáy ấy chứ, chúng ta phải nghĩ cách xác định liệu nó sâu bao nhiêu trước đã.”

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[1] <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hô Diên Khánh<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> (một số sách khác gọi là Hô Khánh): là một t<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ư<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ớng lĩnh quân sự kiêm nhà ngoại giao tài ba th<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ờ<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">i Bắc Tống.

Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý, anh bảo Thắng Hương Lân thắp pháo tín hiệu, ném từ miệng núi xuống lòng động, nhưng ánh lửa màu đỏ sẫm, sáng đến nhức mắt, vừa quăng xuống đã mất dạng.

Mọi người đều kinh hãi, pháo tín hiệu cháy được cả dưới nước, thế mà mới rơi vào trong động, trong phút chốc đã bị dập tắt, chứng tỏ là khả năng lòng núi có hắc khôi hoặc khói bụi dày đặc chắn ngang.

Mọi người biết rõ lòng huyệt động nguy hiểm khôn lường, nhưng nhìn tứ phía đều không thấy lối nào khác dẫn vào trong. Vả lại đo độ cao lòng núi, thì thấy nếu nối tất cả dây thừng mà đội khảo cổ mang theo, có khi sẽ tới được đáy động, mà giờ cũng đâu còn cách nào khác, đành liều chết xuống đó thăm dò một chuyến xem sao. Thế là cả đội đeo máy thở hình mang cá vào, rồi nối toàn bộ dây thừng lại với nhau, một đầu móc vào khe đá, còn đầu kia thả xuống lòng động.

Vì có thân thủ nhanh nhẹn nên Tư Mã Khôi xung phong xuống trước. Anh treo đèn quặng trước ngực, mở đèn cacbua gắn trên mũ Pith Helmet, một chùm sáng như đóng băng lập tức phóng về phía trước. Trên miệng núi tập trung một lượng lớn khói bụi dày đặc bị khí đối lưu đẩy lên, bởi vậy pháo tín hiệu vứt xuống đó mới không thấy tăm hơi đâu cả, nhưng chỉ cần xuyên qua màn sương đen, sẽ thấy cuộn pháo tín hiệu nằm cách đó chừng trăm mét, ánh sáng vẫn còn le lói chưa lịm hẳn, nhưng xung quanh mịt mù, tứ bề mênh mang, không nhìn rõ bên trong có thứ gì.

Tư Mã Khôi thấy lòng núi không phải là động không đáy mới dần yên tâm trở lại. Anh bám dây thừng tụt dần xuống dưới, phát hiện dưới chân rải toàn đá sỏi bằng phẳng, trải rộng mấy mét vuông, trong các kẽ nứt mọc đầy rêu xanh hình thành từ các hợp chất, dường như lòng núi là nơi đặt cung điện thì phải. Lúc này, anh không có thời giờ quan sát kỹ, nhìn pháo tín hiệu và đèn cacbua vẫn cháy sáng bình thường, anh bèn tháo máy thở phòng độc ra, rồi đón ba người còn lại tiếp đất.

Mọi người cảm thấy độ cao nơi này lửng lơ giữa không trung, rõ ràng là rất cổ quái, nên ai cũng muốn phải tìm hiểu rõ xem rốt cục mình đang ở chỗ nào. Họ đốt thêm cuộn pháo tín hiệu nối dài, toàn bộ khu vực trong phạm vi trăm mét xung quanh đột nhiên bừng sáng. Lúc này họ mới nhìn rõ trong lòng núi có một cái bục cao được ghép bằng các phiến đá lớn, mạch ghép vừa khít không lọt một khe hở nhỏ, tất cả có bảy tầng, bốn mặt đều có bậc hình thang rộng rãi, được bao quanh bởi các pho tượng đá điêu khắc xếp tầng tầng lớp lớp rất phức tạp. Sau khi núi lửa trong động phun trào, khoáng vật bị phong hóa, hình thành lớp đất hữu cơ, tạo điều kiện thuận lợi cho một số thực vật dạng nấm dưới lòng đất, có hình thù kỳ quái, nảy nở um tùm trong các hốc lớn. Cung điện dưới lòng đất trải qua tuế nguyệt đằng đẵng hàng ngàn năm, cũng dần bị nó xâm thực, che phủ. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Mọi người càng nhìn càng thất kinh, đến khi ánh sáng pháo tín hiệu bắt đầu mờ dần, cả đội lại tiếp tục bò xuống tầng đáy của cung điện theo sự chỉ dẫn của đồng hồ thám trắc. Tư Mã Khôi phát hiện có vật thể đen sì, lặng lẽ sừng sững đứng chắn trước mặt. Anh lấy báng súng gõ gõ, thấy âm thanh phát ra nghe lạnh lẽo, thì biết vật thể hình vòng bằng kim loại – mà máy thám trắc đo được quá bán, chính là vật này, bèn vội gọi mọi người mau lại xem.

Tư Mã Khôi lau lớp bụi trên mặt đồng, thấy thể tích nó vô cùng to lớn, bụng thuôn dài, cao cỡ một người, hai bên có tai hình mình rắn, bốn trụ có chân hình chữ V úp ngược, mặt đồng bị ăn mòn loang lổ nhưng không nát, vách dày tầm 6cm, bề mặt đúc chạm toàn bọn ma vương quỷ sứ, xung quanh trang trí bằng các họa tiết rồng hổ.

Thắng Hương Lân kinh ngạc thốt lên: “Hình như là một cái đỉnh cổ…”

Tư Mã Khôi thấy hơi khó hiểu, khi trước kết quả thăm dò cho thấy, dưới lòng đất có vật thể hình tròn bằng kim loại khổng lồ, sao bây giờ lại là cái đỉnh cổ? Lẽ nào đồng hồ thám trắc bị hỏng?

Lúc này, Hải ngọng đứng bên cũng phát hiện ra vài thứ khác, Tư Mã Khôi qua xem, thì thấy lại có một cái đỉnh khổng lồ nữa, mò mẫm tìm tiếp, thì phát hiện tất cả chín cái đỉnh đồng, thể tích tương tự nhau, nhưng hình thù mỗi cái một khác, xếp theo hình vòng tròn. Xem ra vật chất bằng kim loại thám trắc được lúc trước, chính là chín cái đỉnh bằng đồng xanh to lớn dị thường này.

Hải ngọng rầu hết cả người, đội khảo cổ hi sinh bao nhiêu mạng người, mới tìm thấy tòa thành cổ bị thất lạc dưới lòng đất, nào ngờ cuối cùng trong thành lại chỉ có đám đồng sắt phế liệu. Đây đúng là số mệnh chứ còn gì. Con người không bao giờ chiến thắng được số mệnh cả, cứ xem Tây Du Ký thì sẽ rõ thế nào gọi là mệnh. Thực ra khi Đường Tam Tạng chưa rời khỏi Trường An, thì số mệnh đã sớm an bài cho nhà sư phải trải đủ chín chín tám mươi mốt kiếp nạn, dù thiếu một nạn cũng không thể đến được Tây Thiên.

Tư Mã Khôi nhìn những hoa văn vô cùng kỳ quái chạm khắc trên thân đỉnh đồng cổ, thì biết nó không thể nào là đám sắt vụn, vì những chiếc đỉnh lớn luôn được coi là quốc bảo của một nước. Đỉnh đồng mà đội khảo cổ phát hiện dưới lòng đất, lại có chút khác biệt với các công cụ làm bằng đồng xanh thời Thương – Chu Chiến Quốc, có lẽ là đồ từ thời thượng cổ, hơn nữa các loại hoa văn đúc trong ngoài thân đỉnh đều rất giống với các truyền thuyết thời xưa.

Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, thì nói với hội Hải ngọng: “Tôi cũng biết đôi chút về lai lịch của bộ đỉnh đồng cổ này”.

Thắng Hương Lân bán tín bán nghi, cô cảm thấy tuy Tư Mã Khôi đúng là có vài tài lẻ, nhưng chen chân được vào đội khảo cổ cũng chẳng phải nhờ thực tài thực học thông kim bác cổ gì. Gã này không phát biểu đỉnh đồng là cái niêu lớn là cũng đã khá lắm rồi, sao có thể biết cả lai lịch của nó được chứ?

Kỳ thực Tư Mã Khôi chỉ là tay gà mờ về lĩnh vực khảo cổ hay lịch sử, nhưng anh rốt cục vẫn là chân truyền Kim Điển, thông hiểu cổ lý tướng vật. Anh biết, vào thời vãng cổ, một ngày trên trời đột nhiên vang lên mấy tiếng âm ầm chấn động màng nhĩ, rồi tiếp theo là một lằn sét rạch trời, phương nam phụt lên một cột lửa cao vút tận trời, luồng lửa mạnh chói lòa hơn cả vầng dương, chia bầu trời ra thành hai nửa, không trung bốc cháy ngùn ngụt.

Lúc đó, mặt trời phát nổ, thiên thạch rơi xuống, lưỡi lửa chi chít tựa mưa sa điên cuồng táp xuống, bốn cực hoang phế, chín châu chia lìa, thế gian chìm vào bóng tối vĩnh hằng. Rồi trận mưa lớn cuối cùng cũng dứt, nước lớn dâng cao, sông ngòi tràn bờ, biển lớn dội ngược, thiên địa vạn vật phút chốc đều trở thành thần dân của hà bá, ác ma quỷ dữ đều nhân cơ hội lộng hành, chúng thò ra bắt người ăn thịt.

Thời kỳ xảy ra trận đại hồng thủy khủng khiếp đó chính là thời nhà Hạ. Theo truyền thuyết thì sau khi Hạ Vũ chia thiên hạ thành chín châu, chia đất trời thành bốn cực, khai sông trị thủy, cuối cùng xuyên thông Long Môn, thoát nước lũ ra biển lớn. Có thể nói, quá trình đó là lần khảo sát địa lý quy mô đầu tiên và cổ xưa nhất trong lịch sử nhân loại.

Vũ vương lấy đồng của các châu đúc thành chín đỉnh, khắc tinh hoa phong cảnh của chín châu vào Cửu Đỉnh, mỗi đỉnh tượng trưng cho một châu, rồi cất giữ toàn bộ tại kinh đô nhà Hạ. Vì thế, Cửu Đỉnh trở thành biểu trưng cho quyền uy của chính quyền phong kiến và sự thống nhất quốc gia. Từ đó có câu nói “Có được Cửu Đỉnh là có được thiên hạ”.

Ngoài ra, thân đỉnh còn chạm khắc thế núi mạch sông địa hình sản vật, cây cỏ chim muông và cả những sự kiện ly kỳ lúc bấy giờ. Hậu thế gọi nó là “sơn hải đồ” – tức là bản đồ sông núi, còn tông tích của chín “đỉnh thần Vũ vương” ở đâu, thì từ lâu không còn ai biết nữa, chỉ để lại rất nhiều truyền thuyết cổ xưa như những câu đố không lời giải.

Về sau, mọi truyền thuyết xuất hiện trong các sách địa lý cổ, đều lấy nội dung này làm gốc; ngay cả rất nhiều cuốn cổ thuật như tướng vật hay biệt bảo, có nội dung đề cập đến nó, về cơ bản cũng đều dựa trên nguồn gốc này.

Tư Mã Khôi suy đoán: đỉnh đồng trong thành cổ dưới lòng đất, quá nửa chính là “đỉnh thần Vũ vương” có vẽ sơn hải đồ, nhưng không biết vì sao nó lại lưu lạc xuống tận nơi này? Có lẽ lời giải mà đội khảo cổ muốn tìm, đang được ẩn giấu bên trong. Anh quan sát tỉ mỉ, quả nhiên phát hiện họa tiết chạm ở vách ngoài của một trong chín đỉnh đồng, là ghi chép về vực sâu khổng lồ tồn tại ở điểm khởi đầu của thời gian. Tất cả nguy hiểm, kỳ tích, bí mật và cả cái thăm thẳm không thể vượt qua, đều nằm trong hắc động gần tâm Trái Đất, nơi mà con người không thể nào đặt chân đến được.

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Phụ lục

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Lịch thời gian trong “Mê tông chi quốc”

Niên đại trước đây: Nấm mồ xanh

Niên đại vũ trụ không giây: Hình thành nên thiên thạch

Niên đại sau không giây: Xuất hiện sinh vật thể lai lịch bất minh, sinh ra lúc đất trời còn trong trạng thái hỗn độn, tên là rắn bay “ly chùy”.

Thời đại kỷ Devon: Xuất hiện di vật thần bí thời kỷ Devon

Thời kỳ thái cổ: Xảy ra vụ nổ thiên thạch, tạo thành không động khổng lồ nằm giữa lớp vỏ Trái Đất và quyển Manti. Trong các sách địa lý cổ, không động này được gọi là “cực vực”, là một trong bốn cực của đất trời, tất cả những gì tồn tại trong lòng nó đều là một ẩn số bí hiểm.

Niên đại bất minh: Người sắt khổng lồ tồn tại dưới cực vực trong lòng đất như một kỳ tích.

Thời Hạ: Xuất hiện long ấn triều đại nhà Hạ với những văn tự, ký hiệu còn cổ đại hơn cả chữ giáp cốt.

Thời Tần: Vương quốc Diệt Hỏa cư ngụ trong “cung điện ở địa cùng” (tức di vật thần bí kỷ Devon). Cuối cùng, do lũ lụt dưới lòng đất, vương quốc này lâm họa diệt vong, chỉ còn sót lại những dấu tích long ấn triều Hạ giống như bức mật mã, ghi chép một bí mật cổ xưa liên quan đến thần miếu nằm sâu dưới lòng đất.

Thời Hán: Quốc vương An Quy Ma Nã của vương quốc Lâu Lan cổ, được an táng ở Hắc Môn.

Thời Tống: Quốc vương Chăm Pa Anagaya phát hiện ra di vật kỷ Devon trong khe cốc khổng lồ, và ra lệnh xây dựng nó thành tòa thành Nhện Vàng.

Thời Tống: Vị thánh tăng duy nhất có thể giải mã long ấn triều Hạ, bị quốc vương Chăm Pa nhốt vào mật thất dưới chân tòa thành Nhện Vàng; ý thức lưu lại trong não của vị thánh tăng nọ đã bị từ trường của di vật thời kỷ Devon hút trọn và lưu lại dưới dạng sóng điện u hồn.

Thời Tống: Sương mù dày đặc của Udumbara tỏa ra phủ kín toàn bộ khe cốc khổng lồ trong lòng núi Dã Nhân.

Thời kỳ thực dân Anh cai trị Miến Điện: Quân Anh mưu đồ khai quật tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa, nên đã cho xây dựng con đường thông sâu vào núi. Nhưng sau đó, do sương mù dưới lòng đất trào lên tấn công, nên họ buộc phải từ bỏ công trình đang thi công dở dang.

Những năm đầu thời kỳ Dân quốc: Triệu Lão Biệt cùng đội thám hiểm người Pháp xâm nhập Hắc Môn – dưới lòng hoang mạc để đào trộm báu vật, nhưng do mắc phải hội chứng tăng áp lực nội sọ do địa áp, nên khi trở ra cả đoàn phải bỏ mạng ngay trước cửa Hắc Môn.

Tổ chức tình báo mạng lưới ngầm đầy thần bí Nấm mồ xanh, dần dần bị kẻ cầm đầu thần bí khống chế, đồng thời tổ chức này nắm được tin tình báo về tòa thành Nhện Vàng từ tay người Anh.

Thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ hai: Quân Đồng minh phản công Miến Điện, lợi dụng đường hầm cũ của quân Anh để lại, họ xây dựng tiếp con đường Stilwell, vô tình đào thông lối vào Tượng Môn nằm dưới khe cốc núi Dã Nhân.

Đơn vị vận chuyển bổ sung hỗn hợp thuộc quân đoàn công trình tác chiến độc lập thứ sáu cùa quân Mỹ, vô tình đi nhầm vào con đường U Linh và rơi vào khe cốc núi Dã Nhân.

Trước khi Miến Điện giành độc lập: Một chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân hoàng gia Anh, bị Nấm mồ xanh lợi dụng, đã chở bom địa chấn bay vào khe cốc núi Dã Nhân và bị rơi xuống dưới khe cốc.

Năm 1953: Đoàn khảo cổ, trong đó có chuyên gia khảo cổ Thắng Thiên Viễn, được Nấm mồ xanh thuê để điều tra về thành cổ Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa.

Đầu năm 1953: Toàn bộ đoàn khảo cổ người Pháp, cư trú tại Ấn Độ, đã gặp nạn trong thủy động núi Dã Nhân.

Đầu năm 1953: Giáo sư Thắng Thiên Viễn thoát khỏi sự khống chế của Nấm mồ xanh và trở về Trung Quốc.

Năm 1953: Tư Mã Khôi ra đời.

Mùa thu năm 1953: Giáo sư Thắng Thiên Viễn phát hiện ra cực vực trong sa mạc Gobi ở Tân Cương.

Mùa đông năm 1953: Liên Xô bắt tay thực hiện kế hoạch kính viễn vọng địa cầu. Tàu ngầm động cơ dầu Diesel hạng trung, hiệu “Sunshine” thuộc chi đội tàu ngầm độc lập số 40, mang theo hai quả tên lửa ra khơi. Không may, bộ phận chỉ huy của con tàu gặp sự cố, khiến cả đoàn bị mất phương hướng, đi vào một vùng biển lạ dưới lòng đất nên không thể trở về, chỉ có thể sử dụng máy phát sóng ngắn liên lạc với thế giới bên ngoài.

Mùa xuân năm 1955: Đoàn chuyên gia Liên xô đề ra kế hoạch kính viễn vọng Lopnor, đồng thời cung cấp các trang thiết bị khoan thăm dò hạng nặng và chuyên gia kỹ thuật chuyên nghiệp.

Cuối năm 1958: Đường hầm Lopnor được khai phá thành công. Đội khảo sát liên hợp Trung – Liên bị mất tích trong lòng cực vực; các chuyên gia Liên Xô rút về nước đồng thời dùng bom phá sập đường hầm.

Năm 1963: Chiếc máy bay quân sự Ilyushin-12 chở đội khảo cổ – do giáo sư Thắng Thiên Viễn dẫn đầu, bay đến Tân Cương để tìm kiếm một lối vào khác của kính viễn vọng Lopnor. Không may chiếc Ilyushin-12 đã gặp phải sự cố bất ngờ trên bầu trời sa mạc.

Năm 1963: Giáo sư Thắng Thiên Viễn bị ám sát, cuốn sổ công tác ghi chép các tư liệu liên quan đến cực vực được chuyển giao cho người bạn của ông là giáo sư Tống Tuyển Nông

Năm 1966: Tư Mã Khôi theo chân Hạ Thiết Đông tham gia phong trào Hồng vệ binh, do học sinh, sinh viên tổ chức.

Mùa xuân năm 1968: Tư Mã Khôi đến mưu sinh ở khu Hắc Ốc hoang phế, nằm ven vùng ngoại ô huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam.

Mùa hè năm 1968: Tư Mã Khôi và Hải ngọng quen biết “một Triệu Lão Biệt khác”.

Mùa hè năm 1968: “Triệu Lão Biệt khác” bỏ mạng dưới chân cầu La Sư khu Hắc Ốc.

Mùa hè năm 1968: Tư Mã Khôi và Hải ngọng chạy đến Miến Điện, tham gia đội du kích Cộng sản Miến Điện.

Năm 1968: Nấm mồ xanh lấy trộm thi hài quốc vương Chăm Pa trong chiếc quan tài vàng ở cố đô Huế, Việt Nam.

Mùa hè năm 1974: Quân Cộng sản Miến Điện thất thế; cơn bão nhiệt đới Buddha tràn đến Miến Điện; hội Tư Mã Khôi chạy trốn vào núi Dã Nhân, gia nhập đội thám hiểm nước ngoài, cùng tìm kiếm tung tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải mất tích mấy chục năm về trước.

Mùa hè năm 1974: Hội Tư Mã Khôi chạm trán Nấm mồ xanh trong tòa thành Nhện Vàng ở Miến Điện.

Mùa hè năm 1974: Nấm mồ xanh lấy được sóng điện u hồn của thánh tăng, sau đó biến mất một cách thần bí trong mật thất..

Mùa hè năm 1974: Hội Tư Mã Khôi thoát khỏi núi Dã Nhân, và trở về Trung Quốc dưới sự giúp đỡ của đội quân bang Wa

Mùa thu năm 1974: Tư  Mã Khôi và Hải ngọng theo đội thám hiểm do giáo sư Tổng Tuyển Nông dẫn đầu, tiến vào đường hầm kính viễn vọng Lopnor, cuối cùng được chạm tay đến chân tướng sự thật đã bị vùi chôn hàng ngàn năm dưới lòng cực vực.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro