Phần I

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> 

CHƯƠNG 5 - CÁCH VỎ TRÁI ĐẤT MƯỜI NGÀN MÉT

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ nhất

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">KÌNH THÉP

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> 

Tư Mã Khôi nhìn bức tường bắt đầu phân rã, bèn bảo Thắng Hương Lân leo sang mặt bên cạnh lẩn trốn. Hai người soi đèn quặng xuống dưới, thấy sàn căn phòng xoáy lún giống như con quay, tất cả vật chất đều bị không động phân giải thần tốc, khoang bảo mật dưới đáy hố không tồn tại nữa, chỉ còn mẩu lõi đá giống như xác ve khô, to như cái cối xay. Nó đang ùng ục chảy ra thứ nước màu vàng. Ven rìa hố sụt lún là cơn lốc bụi đen mịt mùng cuốn như hốc xoáy. Cảnh tượng này rất giống với hố bom hạt nhân được hình thành sau khi phát nổ.

Tư Mã Khôi thầm thất kinh, anh hỏi Thắng Hương Lân: “Tôi chỉ nghe nói trong thế gian có ‘thực’, nhưng không biết rơi vào ‘vùng thực’ sẽ có kết quả gì? Tôi thấy tình hình bây giờ dường như không phù họp với định luật vật chất lắm thì phải.”

Thắng Hương Lân đáp: “Mật độ trong không động chỉ bằng 1/25 môi trường bình thường; nếu vật chất là chân thực, thì không động giống như hư vô phủ xóa chân thực, rơi xuống đó còn có thể có kết quả gì được nữa chứ?”

Thực ra ngay cả giáo sư Nông địa cầu cũng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy không động, cho nên nhận thức của Thắng Hương Lân đối với nó cũng dừng lại ở bề mặt lý luận mà thôi. Chỉ biết địa hài là loại vật chất đặc biệt, giá trị lớn nhất của hoạt động điện thần kinh trong cơ thể nó có thể lên tới mười mấy vôn, trong khi điện áp tế bào não người bình thường là 0,07 vôn, còn viên nhục ngọc giấu trên cơ thể gã Điền Khắc Cường – lại được nhiều đời biệt bảo nuôi dưỡng hàng ngàn năm, thì không thể luận bàn theo lẽ thường được. Nên một khi hút luồng điện của nó, thì cơ thể địa hài sẽ xảy ra hiện tượng điện mức vượt quá phụ tải, dẫn đến việc ăn mòn không gian xung quanh, đồng thời ăn mòn cả chính nó; mãi cho đến khi lõi đá – giống như xác ve ấy, phân giải triệt để, thì toàn bộ quá trình ăn mòn mới dừng lại. Nhưng địa hài vốn là thứ còn sót lại từ khi thiên địa còn chưa phân chia rõ rệt, mật độ của nó lớn đến khiếp người, trong khi tốc độ phân rã trong không động lại diễn ra chậm hơn tốc độ phân giải của vật chất phổ thông ở môi trường bình thường rất nhiều, nên đợi nó hoàn toàn biến mất thì cả trạm thám trắc trung tâm, được làm bằng bê tông cốt thép này cũng bị xóa số triệt để khỏi thực tại.

Tốc độ ăn mòn của không động càng lúc càng nhanh, hai người chưa kịp nói thêm câu gì, chỉ không ngừng di chuyển sang khu vực an toàn hơn, bỗng họ chợt cảm thấy một lực hút rất mạnh, hút chặt hai người xuống dưới, nhưng bên tai vẫn hoàn toàn yên ắng, dường như không một âm thanh nào tồn tại trong không động vậy, hai người dựng đứng chân tóc, tay chân bắt đầu mềm nhũn. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi định liều mình một phen, anh quay sang nói với Thắng Hương Lân: “Cho dù bây giờ chúng ta có tìm thấy cửa ra của nhà kho, thì e rằng cũng không kịp rút khỏi trạm thám trắc trung tâm nữa rồi. Nghe nói, ‘thực’ xuất hiện theo hình xoắn ốc, càng tiếp cận gần khu vực trung tâm thì lại càng an toàn. Tôi thấy phần chính giữa không động không có sương đen…”

Chưa đợi Tư Mã Khôi nói xong, Thắng Hương Lân đã hiểu ý, cô vội can ngăn: “Anh không thể xuống đó được, vì chỉ cần chạm vào nó sẽ lập tức mất sóng não, và trở thành một cái xác vô tri giác.”

Tư Mã Khôi nói: “Cái thứ này cũng không phải không có nhược điểm gì, chẳng qua cũng chỉ biết hút luồng điện sinh vật thôi mà. Lúc đầu, người Liên Xô vẫn có thể đào nó ra khỏi tầng quặng rừng rậm than đá đấy thôi!” – Anh càng nghĩ càng căm hận: “Tiên sư tám đời thằng Điền Khắc Cường, nó dám bắt ông Khôi trở thành thằng trộm vô văn hóa, bố mày tuy chưa đi học ngày nào, nhưng cũng biết thế nào là vật cách điện đấy.”

Năm đó, lúc Tư Mã Khôi còn ở Miến Điện, cũng chính là thời kỳ chiến tranh Việt Nam đang diễn ra ác liệt nhất, ngồi bất cứ chỗ nào có thể nghe được tình hình chiến sự ở Việt Nam, trong đó có một câu chuyện rất ly kỳ. Chuyện đồn rằng: người Mỹ khi đó rất hứng thú với vật thể lạ bay, không chỉ chính phủ và quân đội rất quan tâm đến nó, mà ngay cả thường dân bách tính cũng rất thích bàn luận về chủ đề này. Họ đều cho rằng UFO thường xuất hiện vào ban đêm, chuyên bắt cóc những công dân Mỹ vô tội về hành tinh của chúng để làm thí nghiệm – có lẽ người Mỹ cũng thích buôn chuyện ồn ào, và kết quả là tin đồn thổi bùng lên khắp nơi, rất nhiều người tin đĩa bay có thật bèn nghĩ cách bảo vệ bản thân. Ví dụ như họ đội thiết bị che chắn trên đầu để UFO không do thám được sóng điện não của mình đang hoạt động. Thậm chí quân Mỹ tác chiến ở Việt Nam, còn tin rằng tình huống này thường xuyên xảy ra, bởi vậy bọn họ không quản ngại thời tiết nóng ẩm oi bức, mà thường lót thêm giấy thiếc cách điện bên trong mũ, để đề phòng sự tấn công của một thế lực mà họ cho là còn khó đối phó hơn cả bộ đội Việt Nam, đó là người ngoài hành tinh. Tất cả những câu chuyện xuất quỷ nhập thần, huyễn hoặc tà mị đó, rất khó nói rốt cục chuyện nào là thật, chuyện nào là giả. Có điều, thiết bị che chắn sóng não – mà người Mỹ sử dụng, cũng không phải những chất cách điện phổ thông. Lúc trước Tư Mã Khôi đã giở hồ sơ sự cố trong mật thất, phát hiện số người bị chết não bất ngờ trong rừng rậm than đá cũng chỉ có một nhóm duy nhất mà thôi. Người Liên Xô chắc chắn đã áp dụng biện pháp đặc biệt nào đó, mới có thể khai quật thành công con yêu quái trong tầng quặng; biện pháp ấy rất có khả năng chính là lợi dụng thiết bị phòng chống hóa chất để cách điện một cách hiệu quả.

Tư Mã Khôi mò mẫm lôi thiết bị máy thở chống hóa chất kiểu mang cá mập trong ba lô ra, thầm nghĩ: “Có thằng cha này chụp lên đầu, có lẽ sẽ phát huy được tác dụng cách ly sóng điện.”

Thắng Hương Lân níu Tư Mã Khôi nói: “Anh đừng cố, nếu chưa chắc chắn. Địa hài là vật chất cổ đại xuất hiện từ niên đại trước đây, đã trải qua vô số đại nạn đại kiếp trời tru đất diệt, thủy hỏa đều không thể xâm hại được nó, thì sau khi anh xuống đó hiện sẽ diệt nó bằng cách nào? Huống hồ, tuy năng lượng điểm trung tâm của không động tương đối yếu, nhưng lại có một lực hút vô hình rất khủng khiếp, nhất định dưới đáy của nó sẽ hình thành giếng trọng lực, cơ thể bằng da bằng thịt như chúng ta thì làm sao có thể chịu đựng được?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc này, một cái giá thép rất lớn đang đứng sừng sững trên mặt đất, bỗng đổ rầm xuống bức tường. Tư Mã Khôi nghe hơi gió dữ sau lưng, vội vàng né sang bên cạnh. Cùng với độ nghiêng của giá thép chứa đầy tiêu bản lõi đá khoáng vật, những hòn đá đựng bên trong cũng rào rào rơi xuống, trong đó có một tầng đựng mấy lõi đá tinh thể – do thể tích quá lớn, nên bị mắc kẹt ở mé góc rìa. Dường như Thắng Hương Lân phát hiện ra điều gì đó, nên cô bất chấp cái giá sắt có thể bị hút xuống đáy động bất cứ lúc nào, bèn trèo từ trên tường xuống dưới, nhoài người nhặt lấy một viên kết tinh khoáng vật không màu, trông khá to. Tư Mã Khôi thông thạo thuộc tính vật chất, anh vừa nhìn đã biết ngay đó là hàn the, được khai quật trong địa tầng, nó rất thường gặp ở địa tầng khu vực lòng hồ khô cạn. Anh nghĩ thầm, sắp chết đến nơi rồi mà cô nàng còn xả thân nhặt mấy viên tiêu bản khoáng vật làm gì không biết? Nhưng liền đó nghĩ lại, anh lập tức hiểu ra: hàn the gặp nước sẽ tạo thành a xít đậm đặc, có thể thúc đẩy tốc độ phân rã của địa hài, đồng thời ngăn chặn sự ăn mòn của không động ra bốn phía xung quanh. Anh vội chạy đến giúp cô một tay. Hai người dựa vào vách tường, dùng chân đạp cái giá sắt nặng trịch ra ngoài, mấy viên hàn the thuận thế rơi xuống vùng trung tâm không động đang bị sương đen bao vây. Trong khoảnh khắc, mấy viên hàn the đã hòa tan vào dòng nước vàng dưới đáy động. Địa hài giống như xác ve khô, phân rã cực nhanh dưới tác dụng ăn mòn của axít bôric nồng độ đậm đặc, nên chẳng bao lâu, khối đá chỉ còn lại khúc bé tẹo như ruột côn trùng. Cùng với sự biến mất của không động, cơn lốc bụi đen ở gần đó cũng từ từ tản đi, diện mạo mặt sàn căn phòng hoàn toàn bị hủy hoại, giờ đây đã nối thông với tầng đáy của trạm thám trắc trung tâm, tạo ra một cái hố khổng lồ hình xoắn ốc, bê tông cốt thép bốn phía xung quanh đều méo mó biến dạng.

Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân lau mồ hôi lạnh trên trán, lòng thầm hiểu: lần này đúng là nguy hiểm đến cực điểm, nếu không kịp thời phát hiện ra hàn the, thì cùng lắm cũng chỉ mấy chục giây nữa, tất cả sẽ bị không động hư vô nuốt chửng. Hai người càng nghĩ càng khiếp đảm, vì nếu gã Điền Khắc Cường cứ lẩn vào khoang bảo mật, rồi lặng lẽ ra tay, thì có khi mọi người chết cũng không biết vì sao mình chết; may nhờ tâm lý lệch lạc của gã dị hình đó trước lúc lâm chung, lại cứ muốn mọi người phải lý giải được sự hy sinh của hắn vĩ đại đến nhường nào, nếu không hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi.

Tư Mã Khôi vốn hơi e ngại việc giáo sư Nông địa câu cho Thắng Hương Lân gia nhập đội thám hiểm, vì người xưa thường có câu: “Ba quân mà có đàn bà, quân uy bất vượng họa đà kéo theo”. Tuy đây chỉ là quan niệm cũ, nhưng Tư Mã Khôi cứ thấy Thắng Hương Lân chẳng qua chỉ là cô nhân viên trắc họa, đã không có y thuật cao minh như Tuyệt thì thôi, lại cũng không phải hạng giặc đất trộm mộ giống Ngọc Phi Yến, nên cho cô đi theo bên mình chỉ tổ rước nợ vào thân. Thế nhưng trải qua tình cảnh thập tử nhất sinh vừa rồi, anh mới cảm thấy tầm hiểu biết của mình chưa chắc đã nhiều hơn người ta bao nhiêu, thậm chí có mặt còn thua xa, thế là anh bảo Thắng Hương Lân: “Bận này trở về nhà, tôi phải hiệu triệu hội Hải ngọng tích cực học tập theo tấm gương của cô, tranh thủ đẩy phong trào ‘Học tập, thi đua, đuổi kịp, giúp đỡ, vượt qua’

(1)

 lên một tầm cao mới”.

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(1)     “Học tập, thi đua, đuổi kịp, giúp đỡ, vượt qua<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">”<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">:<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> là khẩu hiệu do nhà nước Trung Quốc đề ra vào đầu những năm 60, được đăng trên tờ Thạch Hóa. Khẩu hiệu này đã dấy lên cao trào mới trong thi đua lao động của nhân dân cả nước.

Thắng Hương Lân lại cho rằng: kiểu người như Tư Mã Khôi, tuy rằng thân thủ đảm khí đều phi phàm nhưng phẩm chất và tư tưởng thì có vấn đề nặng, thích khua môi múa mép làm lệch lạc sự thật, ai mà biết được lúc này anh ta lại nghĩ ra trò quỷ gì nữa, bởi vậy cô không thèm để ý đến lời anh vừa nói. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hai người lo Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng gặp phải nguy hiểm, nên chỉ dừng lại thở dốc một lúc rồi vội tìm khe nứt giữa các dầm hộp xi măng, trèo ra khỏi căn phòng chứa tiêu bản. Khi lên đến gần phòng cung ứng điện ở tầng thượng, Tư Mã Khôi mới phát hiện hai người đó căn bản không hề hay biết sự cố vừa xảy ra ở tầng dưới, họ vẫn đang cắm cúi bên cỗ máy phát điện cấu hình Desire của Liên Xô. Hải ngọng tự nhận mình lành nghề, nhưng không ngờ lợn càng chữa càng què, thấy Tư Mã Khôi quay lại, bèn thoái thác nói: lúc trước tính toán không chu toàn, bây giờ mới thấy chí ít cũng phải mất năm tiếng nữa, mới khôi phục được hệ thống điện. Nhân lúc Tư Mã Khôi ra xem xét máy phát điện, anh quay sang thì thầm to nhỏ hỏi Thắng Hương Lân: “Sao hai người đi đâu mà lâu dữ vậy, thằng ôn Khôi có giở trò đồi bại gì ra với cô không? Nếu cô bị nó bắt nạt, thì cứ nói với anh Hải đây, thằng anh này sẽ đứng ra lo liệu cho cô”.

Thắng Hương Lân đáp: “Cảm tạ sự nhắc nhở của anh vô cùng, nhưng nhân dân quần chúng bọn tôi đã sớm nhìn thấu bộ mặt phản động xấu xa tàn ác của anh Khôi từ lâu rồi”. Sau đó, cô thuật lại cảnh ngộ vừa gặp ở tầng dưới cho Hải ngọng và Lưu Giang Hà nghe một lượt, đồng thời đưa cho Lưu Giang Hà tập bảng kê điện mật đã bị cháy rụi mất một nửa, và hỏi: “Anh Khôi nói: có thể anh hiểu được mật mã liên lạc của lực lượng vũ trang Liên Xô những năm 50, vậy anh thử đọc xem có giải mã được không?”. Đội trưởng Lưu Giang Hà trước đây chưa bao giờ tiếp xúc với lĩnh vực này, nhưng trước khi tiếp nhận nhiệm vụ

thám trắc kính viễn vọng Lopnor, anh chàng cũng đã tham gia khóa huấn luyện tăng cường hai tháng, tuy chỉ thuộc dạng “lâm trận mới mài gươm”, nhưng cũng coi là đã có sự chuẩn bị. Anh lập tức lôi một bản tài liệu và cây bút trong người ra, dưới ánh đèn quặng, chăm chú dịch từng chữ một trong tập bảng kê điện mật còn sót lại.

Hải ngọng nghe kể dây dẫn điện ngầm đã bị không động phá hủy, thì biết máy phát điện có hồi phục lại cũng vô tác dụng, nên mặc kệ không làm nữa mà ngồi xuống bàn luận bước hành động tiếp theo cùng Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân.

Tư Mã Khôi nói: “Tên ‘Căn phòng số 86’ bây giờ đã tiêu tan cả hài cốt, nên cuối cùng chúng ta cũng giải quyết được mối hiểm họa lớn nhất. Nhưng nhân viên mà Nấm mồ xanh cử đến liệu có phải chỉ có một mình gã Điền Khắc Cường hay không, thì chúng ta khó có thể phán đoán được, nói không chừng, kẻ địch tiếp theo sắp xuất hiện rồi cũng nên. Những nguy hiểm còn chưa biết vẫn tồn tại ở mọi chỗ mọi nơi, lần này thoát hiếm thực sự là dựa vào may mắn, nhưng lần sau chưa chắc đã gặp vận đỏ như vậy được đâu.”

Hải ngọng nói: “Thế thì chúng ta càng không được mài sắc nhuệ khí của kẻ địch mà tự triệt uy phong của chính mình. Tớ thấy gã Điền Khắc Cường đó cũng chẳng có gì đáng gọi là quái dị cả. Năm đó, ở lâm trường núi Đông Bắc, từng có một gã thân hình rất khôi ngô tuấn tú đến đó làm công nhân đốn gỗ. Lúc thường anh ta vẫn cùng mọi người lao động, ăn uống, xuống sông tắm táp, chẳng khác gì người thường cả, chỉ duy có điều là ban đêm rất hay nói mê sảng. Trong trại gỗ, mỗi giường phải có bảy tám người ngủ chung, nửa đêm tối lửa tắt đèn, thì mọi người phải nghe một mình anh ta nói lảm nhảm luôn mồm, không ai hiểu anh ta nói gì, giống như bị ma nhập vậy, người nào cũng sợ hết vía, vả lại cho dù có bịt miệng, thì giọng nói cũng vẫn phát ra. Sau này mọi người mới tá hỏa, thì ra sau gáy gã đó còn có một cái đầu nhỏ, nó trốn biệt trong đám tóc. Nó có tóc xanh đen, mày thanh tú, trông cũng khá được mắt; hơn nữa trong mắt có con ngươi, trong miệng có lưỡi đàng hoàng. Ban ngày cái đầu to tỉnh táo thì cái đầu nhỏ đi ngủ, đêm đến cái đầu nhỏ mới mở mắt há miệng lảm nhà lảm nhảm nói chuyện. Trước đó, gã đó hoàn toàn không hề hay biết gì về điều này, cuối cùng anh ta tìm một thầy lang lấy que sắt nung làm nó bỏng chết, từ đó không còn xảy ra chuyện gì quái lạ nữa. Gã đó cũng đâu khác gã Điền Khắc Cường là mấy?”

Tư Mã Khôi nói: “Tiên sư nhà cậu, giống với khác cái gì; thằng cha ‘Căn phòng số 86’ chẳng qua chỉ là một đặc vụ của Nấm mồ xanh được cài vào phân đội vật lý thăm dò thôi, thế mà chúng ta không những không thể vạch trần được thủ đoạn của gã, lại còn bị đánh cho thua to lỗ nặng. Tuy cách hành sự của gã rất quái dị, nhưng gã rốt cục vẫn là người sống, còn kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh thì tinh ranh như yêu quái, hoàn toàn khác với Căn phòng số 86. Chúng ta không thể dựa vào kinh nghiệm trước đây, để phán đoán những nguy hiểm có khả năng sẽ gặp sau này. Bây giờ đã không phục hồi được máy phát điện, cũng không rõ tình hình cụ thể ở nơi sâu nhất dưới kính viễn vọng Lopnor, chỉ biết cực vực là huyệt động ở giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất, có lẽ nó nằm xung quanh đâu đấy, vị trí… cái gì mà điểm gián đoạn Moho, còn mọi tình trạng xảy ra trong lòng nó đến giờ vẫn là một ẩn số lớn. Chuyện hai mươi hai thành viên đội khảo sát liên hợp Liên Trung mất tích một cách thần bí dưới lòng đất vào năm đó, và cả chuyện cứ cách 48 tiếng lại xảy ra một lần chấn động dữ dội, thì chúng ta đều chưa hiểu đầu cua tai nheo ra sao. Nhưng cho dù kính viễn vọng Lopnor có thông xuống địa ngục chăng nữa, thì chúng ta vẫn phải liều mình xuống đó thăm dò cho rõ mới được.” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà nói với Tư Mã Khôi: bảng kê điện mật bị cháy không còn nguyên vẹn, hơn nữa lại là loại ám ngữ mật kép, phải mang về hậu phương đưa cho các chuyên gia thì mới có thể phân tích nội dung toàn vẹn. Hiện giờ, em chỉ giải mã được một câu liên tục xuất hiện nhiều lần trong văn bản, đó là: “Dưới lòng đất không có chùm sáng”.

Hải ngọng nói: “Chú em đừng nói nhảm nữa! Dưới lòng đất đến một tia sáng còn chẳng có, chứ nói gì đến cả chùm sáng”.

Tư Mã Khôi phát hiện sắc mặt Lưu Giang Hà có vẻ khác lạ, bèn chặn Hải ngọng lại, hỏi tiếp: “Có phải chú em biết chuyện gì mà bọn anh chưa biết không?”

Đội trưởng Lưu Giang Hà chần chừ mãi mới ấp úng nói: “Chùm sáng khả năng… khả năng là… của bọn Liên Xô.”

Tư Mã Khôi tiếp tục gạn hỏi, mới phát hiện: anh chàng liên lạc quèn như Lưu Giang Hà không ngờ còn biết cả việc tàu ngầm động cơ diesel 615-Z số hiệu 107 của hải quân Liên Xô đã mang hai trái tên lửa ngầm R-19 ra biển vào cuối năm 1953; đồng thời vì thiết bị bánh lái hỏng hóc, nên sau khi ra khơi nó đã biến mất một cách hết sức kỳ lạ. Quân đội Liên Xô đã cố công tìm kiếm, nhưng vẫn vô hiệu. Con cá kình bằng thép đó là chi đội tàu ngầm thứ 40 của lực lượng vũ trang Liên Xô, khả năng chạy liên tục trên biển là 11 ngàn hải lý, có thể lặn sâu 200 mét, động cơ chính gồm ba bộ động cơ diesel P37-D mỗi bộ 6000 mã lực, lượng thoát nước dưới mặt nước là 2475 tấn trên mặt nước là 1952 tấn, chiều dài 91 mét, chiều rộng 7,5 mét, kể cả thuyền trưởng thì trên tàu có tất cả 72 thành viên, trong trạng thái độc lập hoàn toàn, sức duy trì có thể kéo dài đến 53 ngày. Tên lửa ngầm do cục UKB-17 thiết kế, có mã hiệu Sunshine, nghĩa là chùm sáng, là hệ thống trợ lực bắn đạn đạo. Vào những năm 50, loại tên lửa này vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, thuộc hàng cơ mật quân sự cao độ. Tuy người Liên Xô luôn chiếm vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực này, nhưng cùng với thời gian, loại tên lửa ngầm này đã nhanh chóng bị đào thải ra khỏi cuộc chạy đua vũ khí chiến tranh đầy ác liệt.

Năm 1955, phía Liên Xô căn cứ vào tin tình báo nhận được từ một số nguồn kênh đặc biệt, cho rằng tàu ngầm Z-615 bị mất tích có khả năng nằm dưới huyệt động kính viễn vọng Lopnor, nên hy vọng được hợp tác với phía Trung Quốc đã tiến hành khoan đào khai quật, thứ nhất là mong tìm thấy tên lửa ngầm, thứ hai là muốn thăm dò kết cấu địa chất thần bí trong cực vực. Điều kiện họ đưa ra là cung cấp toàn bộ thiết bị và đội ngũ chuyên gia, đồng thời trao đổi với phía Trung Quốc những kỹ thuật quan trọng, nhưng đoàn chuyên gia Liên Xô chưa tìm thấy mục tiêu đã định thì đã đột ngột rút về nước vào cuối năm 1958, động đạo kính viễn vọng Lopnor đã bị phá hủy.

Kỳ thực, về mặt lý luận, cho dù lòng đất và đáy biển có thông nhau, thì chiếc tàu ngầm chỉ có động lực động cơ diesel Z-615, duy trì mức 11 ngàn hải lý, căn bản không thể xuất hiện trong lòng cực vực được. Phía Liên Xô chỉ căn cứ vào một số tin tình báo mơ hồ để đưa ra phán đoán, hơn nữa sự thật cuối cùng cũng chứng minh: đây là một phán đoán hoàn toàn sai lầm. Nhưng đến tận lúc này, ngoại trừ đội khảo sát liên hợp Liên Trung đã mất tích ra, thì chưa một ai tận mắt nhìn thấy: rốt cục trong cực vực Lopnor tồn tại thứ gì.

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ hai

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">MINH CỔ 

(1)

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(1)<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> Minh cổ: hay còn gọi là liên đại Hỏa Thành hay Thái viễn cổ, tiếng Anh là Hadean, là thời kì cổ xưa nhất trong lịch sử hình thành Trái Đất, khoảng 4570 triệu năm trước.

Tư Mã Khôi nghe xong cảm thấy rất kinh ngạc, những việc này ngay cả giáo sư cũng chưa chắc đã hiểu rõ, vậy mà sao anh chàng đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà lại biết vanh vách như thế được nhỉ?

Hải ngọng cũng rất rầu rĩ: “Anh đây nam chinh bắc phạt bao nhiêu năm, mà ngay cả cái vỏ tàu ngầm còn không biết trông nó ra sao, chứ nói gì đến các tính năng chiến thuật chi tiết của tàu ngầm Liên Xô. Không phải chú em là đặc vụ đấy chứ hả?”

Đội trưởng Lưu Giang Hà thấy rõ sự nghi hoặc của mọi người, anh chàng cuống quýt giải thích: “Kế hoạch khoan thăm dò độ sâu kính viễn vọng Lopnor của Liên Xô chính xác là vì muốn tìm kiếm chiếc tàu ngầm động cơ diesel Z-615 mất tích đầy bí ẩn đó, thực ra 72 thành viên đi trên con tàu hoàn toàn không quan trọng, mà bí mật quan trọng đích thực chính là cỗ tên lửa R-19. Đây là cơ mật quân sự, thời đó rất ít người biết rõ nội tình, đến tận bây giờ cũng vẫn chưa đến kỳ hạn giải mã.”

Trong số những người chấp hành nhiệm vụ thám trắc kính viễn vọng Lopnor lần này, chỉ những thành viên xuất thân quân nhân mới biết trước bí mật quân sự đó, và tiết lộ cho giáo sư Tống Tuyển Nông trong phạm vi thích hợp cho phép. Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà chỉ nói nguyên văn lại những gì mình được thông tin, điều có thể khẳng định chắc chắn bây giờ là: dưới cực vực không tồn tại chiếc tàu ngầm Z-615 của Liên Xô, bởi vậy tin tình báo này không còn ý nghĩa thực tế nữa, mà chỉ có tác dụng tham khảo.

Tư Mã Khôi cố gắng gạn hỏi, cuối cùng cũng xác định tình hình đội trưởng Lưu Giang Hà nắm được vô cùng có hạn, xem ra muốn đạt được tiến triển mang tính thực chất, thì bắt buộc phải xuống tầng sâu nhất của kính viễn vọng Lopnor. Còn chuyện con tàu ma Z-615, chuyện đội khảo sát liên hợp Liên Trung mất tích, hay long ấn triều Hạ lưu giữ trong mật thất tòa thành Nhện Vàng, đối với Tư Mã Khôi mà nói hoàn toàn không có gì khác biệt. Những ẩn số đó cũng giống Nấm mồ xanh, tuy đều thuộc vào phạm trù chưa biết, nhưng dường như đều có đoán định, toàn bộ những sự việc trên đều liên quan đến cực vực lún sâu giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất.

Giờ đây, mọi người đều đặt mình ra ngoài vòng sinh tử, từ bỏ ý định phục hồi hệ thống cung cấp điện dưới lòng đất, cũng không còn bận tâm đến khoang giảm áp có thể cứu mạng cả hội nữa, tất cả chuẩn bị trực tiếp tiến vào động đạo giếng khoan dưới trạm thám trắc trung tâm.

Tư Mã Khôi nhận định cực vực khả năng là vùng nước sâu, anh định vào trong kho kiếm mấy cái bình dưỡng khí và dụng cụ vượt sông, nhưng tìm khắp nơi không thấy, nên đành thôi. Mọi người thu xếp chỉnh trang lại hành lý xong đâu đấy, bèn tức tốc lên đường. Đường xuống động đạo phải đi qua mặt sàn tầng giữa bị không động ăn mòn, bức tường xi măng bị hủy hoại nghiêm trọng, nó rùng rình như muốn sập đến nơi; kết cấu chịu lực nội bộ của trạm thám trắc trung tâm mất trạng thái cân bằng, khả năng sẽ xảy ra hiện tượng sụt lở liên tiếp. Cả đội mạo hiểm tụt xuống gần chỗ đặt cầu trục treo ở tầng hầm, một lần nữa Tư Mã Khôi lại đưa mắt nhìn rìa mép hồ chứa nước cỡ lớn ở mặt cạnh, lúc trước còn thấy cái máng xi măng này quái dị vô cùng, nhưng bây giờ xem lại thì thấy nó gần giống cái kho chứa tàu ngầm. Có lẽ người Liên Xô dự định: sau khi tìm thấy tàu ngầm Z-615, thì sẽ tháo dỡ nó dưới lòng đất, rồi dùng cầu trục treo cẩu từng bộ phận vào nhà kho, đổ xi măng niêm phong triệt để, họ căn bản không định mang nó về nước. Công tác bảo mật của bọn mũi lõ đúng là làm chu toàn tận chân tơ kẽ tóc.

Thắng Hương Lân nói: “Sự việc khả năng không đơn giản như anh nghĩ đâu. Nếu chỉ là tháo dỡ tàn tích chiếc tàu ngầm, thi vì sao họ lại phải xây hẳn hai cái máng xi măng to cỡ này? Mà bất kỳ cái nào cũng đủ chứa một cỗ tàu ngầm dài cả trên trăm mét ấy chứ.”

Tư Mã Khôi nói: “Cô nói cũng phải, vì sao lại phải xây hai cái nhà kho to tổ bố như nhau vậy nhỉ? Lẽ nào người Liên Xô cho rằng dưới kính viễn vọng Lopnor có hẳn hai cái tàu ngầm chắc?”

Hải ngọng nói: “Thế thì bọn mũi lõ cũng tham quá nhỉ, suốt ngày nghĩ cách ăn không của thiên hạ. Tàu ngầm chứ có phải cá kình hay chó chửa đâu, mà mất một lại tìm thấy hai được?”

Tư Mã Khôi lắc đầu: “Chuyện này đúng là khó hiểu; căn cứ vào tin tình báo mà đội trưởng Lưu Giang Hà cung cấp thì dưới lòng đất căn bản không có tàu ngầm Z-615, nhưng phía Liên Xô quả thực lại nắm được vài tin tình báo khác, đồng thời còn sử dụng cả phương pháp viễn thám từ trường trong rừng rậm than đá để thám trắc kính

viễn vọng Lopnor một cách chính xác, tinh vi nhất. Trộm nghĩ, thông tin xuất hiện khi đó nhất định phải đủ sức thuyết phục khiến các chuyên gia Liên Xô tin rằng chiếc tàu ngầm bị mất tích thực sự tồn tại dưới cực vực, nếu không, bọn họ đă không huy động sức người, sức của lớn đến thế. Mà cứ cho là tàu ngầm Z-615 quả thực bị một sức mạnh chưa biết nào đó đưa đến khu vực sâu hàng vạn mét dưới hoang mạc, thì nó cũng không thể đột nhiên phân thân thành hai chiếc được. Đây chính là điều khiến người ta cảm thấy khó tưởng tượng nhất.”

Nếu dưới lòng đất không có con tàu đó, thì người Liên Xô đã phát hiện thấy vật thể gì trong quá trình quan trắc viễn thám? Hiện giờ hội Tư Mã Khôi căn bản vẫn chưa thể dự đoán được gì, chỉ đoán bừa hai máng xi măng to như cỗ tàu ngầm kia, chắc chắn có thể tích tương đương với vật tồn tại dưới cực vực.

Lúc đó một mảnh tường từ trên cao ào ào rơi xuống dưới, đập vào cầu trục treo nát vụn, phát ra tiếng vọng âm ầm, đá bụi văng vào mặt đau rát. Tư Mã Khôi thấy sàn tầng trên sắp sụp đổ, chỉ sợ khối bê tông cốt thép nặng trịch đó đập vào người thì có mà nát bét như tương. Anh hét to giục mọi người nhanh chân hơn nữa, chạy nhanh đến nắp đậy của động đạo giếng khoan. Cái nắp này có kết cấu mẹ con, nắp to xuyên qua cầu trục treo, sáu nắp con ở ven rìa để chừa cho nhân viên chui vào, cái nào cũng đều có van bánh khóa chặt, nhiệt độ dưới lòng đất rất lạnh, nên bề mặt nắp đậy phủ một lớp tuyết trắng.

Mọi người đeo găng tay cùng dồn sức quay van bánh, họ mở được nắp đậy kiên cố dày nặng bên trên ra, rồi bật đèn quặng và đèn các bua soi sáng bên trong, lần lượt từng người một chui xuống giếng khoan. Tư Mã Khôi đi trước dò đường, thấy lòng giếng được khoan đào bằng thiết bị khoan hạng nặng này rất rộng rãi, hướng chạy gần như dốc đứng, rất hiểm trở. Trong lòng động đạo sâu hun hút này còn phất phơ những bông tuyết lạnh, khí âm lạnh xuyên thấu xương tủy, quầng sáng của ánh đèn không vượt quá mười bước chân, bầu không khí ở đây ma quái khó lường, quay đầu lại nhìn thì thấy con đường phía sau đã mờ mịt xa khuất.

Hội Tư Mã Khôi không biết động đạo này còn sâu bao nhiêu. Họ mò mẫm từ cầu thang sắt dựng sát thành giếng xuống dưới thêm một đoạn nữa thì phát hiện mặt bên cạnh có gian mật thất hình hộp, bên trong có máy điện thoại thạch từ nổi đường dây màu trắng, đường dây chạy liên tục xuống nơi sâu dưới động đạo. Ngoài ra, còn có một thiết bị tương tự rada, một máy phát sóng ngắn và một máy phát điện tay quay độc lập. Nơi đây dường như là khoang liên lạc trung chuyển, các đơn vị bên trên có thể cung cấp chi viện cho đội khảo sát liên hợp thâm nhập lòng đất từ điếm gác này.

Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Nếu máy phát điện và các thiết bị trắc họa trong phòng còn hoạt động bình thường, thì có lẽ ta sẽ biết dưới lòng đất tồn tại thứ gì qua các số liệu hệ số phân cực thu thập được.”

Tư Mã Khôi cũng thấy cần phải gắng hết sức có thể, thu thập những bí mật mà người Liên Xô đã thăm dò dưới kính viễn vọng Lopnor, thế là anh bèn bảo mọi người mau vào trong xem rõ tình hình.

Hải ngọng xung phong đảm nhận việc kiểm tra máy phát điện tay quay, còn Tư Mã Khôi đến thẳng chỗ đặt máy điện thoại thạch từ, anh quay mấy cái nhưng không thể kết nối với đầu bên kia, xem ra trong kính viễn vọng Lopnor tổng cộng có hai đường dây màu trắng, một đường nối lên mặt đất, còn đường kia nối xuống lòng đất. Từ năm 1958, hệ thống đường dây này bắt đầu mất tác dụng hoàn toàn. Anh lại thấy kiểu dáng cái máy phát sóng ngắn rất kì lạ, bèn hỏi đội trưởng Lưu Giang Hà: “Bộ đội liên lạc bọn chú chắc biết thông tin sóng ngắn chứ hả, ở độ sâu mười ngàn mét dưới lòng đất, còn dùng được thứ đồ chơi này không vậy?”

Lưu Giang Hà nói: “Loại máy phát sóng ngắn này không chỉ phát được thiên sóng, địa sóng mà còn có thể thu nhận tín hiệu sóng điện. Nhưng đơn vị liên lạc bọn em chưa bao giờ tiến hành diễn tập thông tin trong, địa động sâu đến mức này, cùng lắm chỉ dùng trong hầm phòng không cách mặt đất chừng hai mươi mét. Truyền dẫn địa sóng còn phải xem môi trường dẫn thế nào, nếu mức độ tiêu hao sóng điện của địa tầng quá cao thì cũng không thể sử dụng được loại máy này, nó còn không đáng tin cậy bằng máy bộ đàm không dây quang học của mình.”

Tư Mã Khôi đột nhiên nhớ đến sóng điện u linh trong tòa thành Nhện Vàng, anh cảm thấy người Liên Xô không phải vô duyên vô cớ mà mang máy phát sóng ngắn xuống lòng đất, trong đó tất có nguyên nhân của nó. Tư Mã Khôi bèn bảo Lưu Giang Hà cất vào ba lô, biết đâu có lúc phải dùng đến nó.

Trong lúc hai người họ nói chuyện, Hải ngọng đã vận hành được máy phát điện, hai bóng điện khẩn cấp gắn trên trần nhà lập tức sáng bừng. Trong động đạo sâu không đáy này, điểm sáng yếu ớt đó chẳng khác nào ánh đom đóm trong vực sâu u tối, tuy vậy tinh thần mọi người cũng nhờ đó mà trở nên hưng phấn hơn rất nhiều. Hải ngọng nói: “Các cậu còn dám không tin tưởng tớ nữa ư? Cái máy phát điện cấu hình Desire đời cũ lúc trước chắc chắn bị bọn Liên Xô động tay động chân rồi, chứ nếu không dựa vào tay nghề của tớ, sờ mó một lúc kiểu gì mà chẳng chữa được?”

Tư Mã Khôi chỉ mong mau mau đọc được mấy tờ biểu đồ viễn thám trong lòng cực vực; ngặt nỗi anh lại không biết sử dụng máy trắc họa, nên đành chăm chú đứng một bên ngó Thắng Hương Lân thao tác; chỉ thấy trong thiết bị trắc họa giống như rađa kia, hiển thị chi chít những đường đẳng sâu, ngoại trừ Thắng Hương Lân ra, thì ba người còn lại không ai hiểu nội dung của nó.

Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân chuyên tâm chăm chú nhìn vào thiết bị, hai mày nhíu lại, cũng không biết cô có tìm thấy kết quả gì không, anh không chờ được thêm, bèn hỏi: “Kính viễn vọng Lopnor xuyên vỏ Trái Đất này, rốt cục nhìn thấy cái gì vậy?”.

Thắng Hương Lân đáp: “Dựa vào số liệu nguyên thủy thì chỉ lấy được một số thông tin rất hạn hẹp, nhưng tôi có thể khẳng định: khoang liên lạc lắp đặt máy móc trắc họa này, chắc chắn dùng để thám trắc địa hình, đồng thời họ sử dụng máy điện thoại thạch từ để chỉ đạo phương hướng vị trí cho đội khảo sát trong cực vực.”

Cô lấy tập biểu đồ tìm thấy trong trạm thám trắc trung tâm mang ra đối chiếu, mới dần dần lần được chút manh mối: khả năng các chuyên gia Liên Xô đã suy đoán cực vực nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ, được hình thành do vụ nổ thiên thạch xảy ra từ thời minh cổ. Huyệt động này tách biệt với dòng nhiệt đối lưu trôi lên ở tầng quyển manti. Thông qua phương pháp viễn thám điện trường, họ chỉ thăm dò được một số rất ít tình hình trong lòng cực vực, phạm vi không vượt quá vài cây số, tức là cách rừng rậm than đá khoảng 1000 mét. Vì bên trong cực vực hoàn toàn trống rỗng, cho nên sóng từ do phương pháp viễn thám điện trường sản sinh, khó có thể lan truyền liên tục xuống dưới, nên tín hiệu phản hồi phần lớn là để trắng. Có điều, loại biểu đồ này đều đo chính xác theo đơn vị giờ, nghĩa là cứ cách một giờ lại tiến hành đo đạc một lần, nhưng không biết xuất phát từ nguyên nhân gì, mà căn cứ vào sự thay đổi khác nhau về thời gian, vẫn có một số ít tờ biểu đồ đường đẳng sâu thăm dò được phần đáy huyệt động. Theo số liệu phản hồi, thì dưới đáy động tồn tại hai khu vực có hàm lượng sắt vô cùng bất thường, nó giống như vật thể nào đó làm bằng sắt từ niên đại cổ xưa, có thể tích khổng lồ. Hình khối hai vật thể này tương tự nhau, có lẽ không phải tầng đá mỏ quặng, chúng nằm cách nhau tầm hai trăm mét, mỗi khối có thể tích tương đương với quy mô chiếc tàu ngầm Z-615, nhưng nhìn hình thù, chắc chẳn không phải tàu ngầm của Liên Xô mà nó giống với cái tai người. Biểu đồ số liệu hệ số phân cực rốt cục không phải ảnh chụp, lại thiếu rất nhiều tư liệu và thiết bị trắc họa cỡ lớn, nên Thắng Hương Lân khó lòng đưa ra các bước phân tích tiếp theo.

Tư Mã Khôi lập tức nhớ đến mấy lời kể của lão Lưu Hoại Thủy, trong cuốn sổ mà giáo sư Thắng Thiên Viễn để lại, từng xuất hiện bốn chữ “Yêu nhĩ Lâu Lan”. Phải chăng bốn chữ đó chính là để chỉ hai vật thể cổ đại bằng sắt đang nằm trong cực vực này?. Giáo sư Tống Tuyển Nông và giáo sư Thắng Thiên Viễn đều chưa bao giờ trực tiếp đặt chân đến kính viễn vọng Lopnor, bởi vậy nội dung mà cuốn sổ đề cập tới có khả năng cũng chỉ phác họa ra hình khối một cách mơ hồ, hoặc mô tả trừu tượng giống như biểu đồ trắc họa mà thôi. Vì kính viễn vọng Lopnor nằm trong phần lãnh địa của cổ quốc Thiện Thiện, tức Lâu Lan trong lịch sử, hơn nữa vật thể sắt lại có hình dạng giống với tai người, nên giáo sư mới đặt tên cho khối sắt ấy bằng bốn chữ như vậy, nhưng có lẽ chính giáo sư cũng không hiểu sâu sắc lắm về nó.

Tư Mã Khôi cảm thấy tình hình diễn biến vô cùng phức tạp, tuy đội thám hiểm đã vượt địa máng dưới di chỉ Hắc Môn, tiến vào được kính viễn vọng Lopnor, nhưng suốt dọc đường đi lại không hề phát hiện ra bất kỳ di tích lịch sử nào, vậy mà không hiểu sao mọi phân đội thám trắc đều phải mang theo nhân viên am tường địa lý Tây Vực cổ, chắc quá nửa là do hai khối vật thể – lai lịch không rõ ràng tồn tại dưới lòng đất kia. Có lẽ người thượng cổ đã để nó lại đó, nhưng anh nghĩ nát óc mà vẫn không thể nghĩ ra nó rốt cục là thứ gì. Mãi đến cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc mới kết thúc thời kỳ đồ đồng, niên đại sớm hơn nữa thì vẫn chưa xuất hiện kỹ thuật luyện sắt, còn nó hiển nhiên cũng không phải là tạo vật của thiên nhiên, vậy thì vì sao lại xuất hiện trong lòng cực vực không được nhật nguyệt soi chiếu đã hàng tỉ năm nay? Vì sao lịch sử không để lại bất kỳ ghi chép nào có liên quan đến nó? Vì sao đội khảo sát liên hợp tiếp xúc với nó đều một đi không trở lại? Nó có liên quan tới Nấm mồ xanh hay không? Vật chất hắc ám mà cả đội gặp phải trong động đá vôi, rất có khả năng chính là tro bụi được sản sinh do vụ nổ thiên thạch xảy ra từ thời minh cổ; có điều, chỉ nghe thấy người ta nói đến thời kỳ thái cổ và thời kỳ viễn cổ mà thôi, còn thời kỳ minh cổ rốt cục là bao giờ?

Thắng Hương Lân cũng không hiểu chuyện này nhiều hơn Tư Mã Khôi bao nhiêu, chỉ biết minh cổ là thời kỳ sơ khai của thiên địa, lúc đó ánh sáng văn minh nhân loại có lẽ vẫn còn đang chu du nơi hắc động xa xôi.

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ ba

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">XUYÊN QUA TẦNG KHÔNG

Tư Mã Khôi vốn cho rằng, tìm thấy biểu đồ thám trắc kính viễn vọng Lopnor là có thể biết tình hình cụ thể trong cực vực dưới lòng đất, nào ngờ sự việc càng lúc càng rắm rối phức tạp, hai vật thể bằng sắt khổng lồ rất cổ xưa tại sao lại xuất hiện ở độ sâu cách lớp vỏ cả mười ngàn mét? Điều khiến người ta khó lòng tưởng tượng nhất là: kết cấu của vật thể quái dị đó rất đơn giản, phán đoán theo số liệu phản hồi từ hệ số phân cực thì cùng lắm nó chỉ là hai thỏi gang cỡ lớn, chứ không phải bất kỳ loại máy móc thiết bị có kết cấu phức tạp nào, và cũng chỉ xuất hiện vào những thời điểm đặc biệt, còn kết quả mà các chuyên gia Liên Xô thu được từ bộ cảm sóng điện từ viễn thám thì hầu như trắng trơn không có gì.

Thắng Hương Lân cũng không thể giải thích tình hình lúc này một cách tường tận, cô nhận định: “Nếu không tận mắt trông thấy, tận tay sờ thấy thì căn bản không thể lý giải được gì. Bây giờ có đưa ra bất kỳ suy đoán nào cũng là thiếu căn cứ và vô nghĩa. Giờ đây, thông tin mà chúng ta nắm được, không khác đội khảo sát liên hợp Liên Trung thâm nhập lòng đất mười mấy năm về trước là mấy, chỉ có điều trang thiết bị vật tư chẳng những kém xa họ, mà còn không nhận được sự chi viện, hỗ trợ từ hậu phương, cho nên hi vọng thành công càng nhỏ bé, mờ mịt. Nhưng không tìm ra đáp án các ẩn số cổ xưa vùi chôn dưới kính viễn vọng Lopnor, thì cũng đồng nghĩa không thể vạch trần chân tướng của Nấm mồ xanh. Từ phản ứng của tổ chức này mà phán đoán, thì phương hướng hành động của chúng ta cho đến thời điểm này là hoàn toàn đúng đắn.”

Tư Mã Khôi tiếp lời: “Tuy chúng ta có rất nhiều điểm bất lợi, nhưng ưu thế cũng không ít. Các lực lượng vũ trang suốt dải Bắc Miến như quân phiệt, thổ phỉ, đội du kích, đều vì tiền mà bán mạng cho Nấm mồ xanh. Nước ta cũng liên tục tổ chức các cuộc tiễu trừ, thanh trừng, tóm cổ vô số bọn đặc vụ nằm vùng, nên những con cá lọt lưới như ‘Căn phòng số 86’ thuộc dạng thiểu số, bởi vậy phạm vi phương thức hoạt động của Nấm mồ xanh đã bị bó hẹp rất nhiều. Trong khi đó, chúng ta lại có sự hậu thuẫn vững chắc của hơn sáu trăm triệu đồng bào nông dân và tám triệu quân giải phóng.” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc này, Hải ngọng đã lục soát mấy góc chết trong khoang liên lạc, nhưng không phát hiện thấy gì. Sau khi mọi người chụp xong ảnh, thì thời gian có lẽ đã là nửa đêm. Thế nhưng ngày đêm dưới lòng đất sâu này hoàn toàn vô nghĩa, mọi người bèn quay lại chỗ cầu thang sắt trong động đạo, thấy phía dưới có một chiếc xe goòng chờ quặng vẫn nằm trên đường ray. Chắc nó được dùng để chuyên chở vật tư thiết bị xuống lòng đất, hoạt động theo nguyên lý trượt theo đường ray uốn quanh thang sắt để chạy xuống dưới, trong lòng goòng có phanh xe, lúc đi xuống thì không cần động lực, còn khi đi ngược trở lên lại phải nhờ sức người liên tục ép đòn bẩy xuống. Kết cấu của nó tuy đơn giản, nhưng vô cùng chắc chắn.

Hải ngọng lên trước ngó, thấy phía dưới là động đạo sâu cả ngàn mét, lòng đất lại vô cùng lạnh lẽo, nếu lê từng nấc thang xuống dưới, thì khi nào mới đến được nơi tận cùng? Chi bằng cứ ngồi lên xe quặng trượt theo đường ray cho đỡ tốn công tốn sức, thế là anh tung người nhảy luôn vào trong.

Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân cũng là người ưa mạo hiểm, nên không kiêng kỵ gì, cũng lần lượt nhảy cả lên lòng xe goòng. Duy có anh chàng đội trưởng Lun Giang Hà là không thể khắc phục khỏi tâm lý sợ sệt không gian tối tăm chật hẹp, khi trước đứng trong khoang liên lạc, anh chàng phải gắng gượng lắm mới trụ được, còn lúc này lại phải ngồi vào xe chở quặng lạnh lẽo, nên hai hàm răng cứ va đập côm cốp không thể cưỡng lại, mồ hôi lạnh thì thi nhau túa ra. Anh chàng bấu chặt hai tay vào thành xe, không dám thả lỏng tí nào.

Hải ngọng ngồi phía đầu xe bắt đầu thả phanh, chiếc xe rùng rùng rung lắc từng hồi, dần dần trượt xuống nơi sâu dưới động đạo. Vì thiếu biện pháp an toàn, nên anh cũng không dám lơ là, thỉnh thoảng lại hãm phanh giảm tốc độ, trượt từng quãng một, thấy tình hình vẫn tạm ổn định.

Tư Mã Khôi nhìn Lưu Giang Hà ngồi trước mặt đang run lẩy bẩy, bèn vỗ vai anh chàng một cái: “Đồng chí đội trưởng ơi, anh thấy chú mày lật bà lật bật sắp rụng hết cả hào khí rồi đấy; theo đuổi sự nghiệp vĩ đại và hùng tráng mà thiếu hào khí thì coi sao được?”

Đội trưởng Lưu Giang Hà căng thẳng quá độ, mỗi lần chiếc xe rung lên một chập là anh chàng lại cảm thấy sắp lộn cổ xuống vực sâu đến nơi, tim như trồi lên tận cổ họng, thở còn khó nhọc nói gì đến việc trả lời.

Thắng Hương Lân trách Tư Mã Khôi: “Mọi người đã cố gắng hết sức rồi! Tại anh ấy bị áp lực tâm lý trong bóng tối thôi. Việc gì anh cứ phải chọc ngoáy nỗi khổ của người khác thế hả?”

Tư Mã Khôi bào chữa: “Cô hiểu nhầm rồi, tôi chỉ có ý tốt thôi. Tôi đang định kể cho cậu ấy nghe một ví dụ điển hình có thật để khích lệ tinh thần chiến đấu ấy mà. Hồi đó, khi còn ở Miến Điện, nghe nói một số vùng rừng rậm nguyên thủy có rất nhiều loài chim hoang dã hiếm có, nhưng chúng không bao giờ bay ra khỏi rừng, mà trong rừng lại toàn rắn độc quái xà, nên ngay cả những thợ săn có kinh nghiệm nhất cũng không dám chui vào, bởi vậy người thường rất khó bắt chúng. Tôi để ý thấy một số người dân bản địa thường nhốt gà vào lồng chim, rồi treo lơ lửng trên cao. Hóa ra gà bị nhốt trong lồng chim lâu ngày cũng phát đần, mà cũng phải thay đổi tập tính cũ. Chúng không gáy nữa mà bắt đầu học hót giống chim, giọng hót nghe rất kì quái. Thợ săn bản địa thường xách lồng gà biết bắt chước tiếng chim ra ngoài bìa rừng, lợi dụng tiếng hót giả lừa bầy chim hoang dã ra khỏi rừng già để dễ bề bẫy bắt. Và thực tế là họ đã bắt được rất nhiều loại chim quý hiếm bằng cách này đấy!”     Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thắng Hương Lân thắc mắc: “Ví dụ điển hình gì mà vớ vẩn thế không biết!”

Hải ngọng vội tiếp ngay lời, quay sang giải thích cho Thắng Hương Lân: “Ý thằng Khôi muốn bảo: ngay cả gà còn bắt chước hót được giống chim, thì con người có khó khăn nào mà không thể khắc phục nổi? Đồng chí đội trưởng của chúng ta ạ, chú em cũng nên thử tự đột phá điều kiện bẩm sinh của bản thân xem sao….” – Anh vì chỉ mải nói chuyện, nên quên để ý chiếc xe, đột nhiên thấy xe rung chuyển dữ dội, nó trượt vèo vèo xuống phía dưới không tài nào khống chế nổi. Anh vội vàng dùng hết sức nhấn phanh trong tiếng cọ sát ken két đến inh tai nhức óc của kim loại, thành đường ray bắn lên những hoa lửa màu sáng xanh. Phanh xe để lâu ngày trong động đạo nên đã bị ôxi hóa, đã bắt đầu lỏng lẻo han rỉ, phần phanh xe còn sót lại không đủ giúp chiếc xe giảm tốc.

Tư Mã Khôi chửi rủa: “Đúng là con mẹ nhà nó, đen gì mà đen cả tám đời tổ tông! Các đồng chí phải thắt chặt dây an toàn nhé, chúng ta sắp sửa trải qua một đêm quay cuồng rồi đấy!”.

Lời chưa nói dứt, chiếc xe mất kiểm soát như con ngựa hoang đứt dây cương, lao ầm ầm xuống vực, trong chớp mắt đã lượn vòng mấy chục vòng quanh động đạo. Trong lòng xe nào có dây an toàn, nên mọi người chỉ còn biết gắng sức bám chặt vào thành để không bị hất văng ra khỏi xe mà chết mất xác. Dù vậy, những xung lực khủng khiếp sản sinh do xe lao xuống dốc đâu phải chỉ ngàn cân, cho dù trên đường không bị ngã lộn cổ thì cũng bị va đập bôm bốp vào thành xe, thử hỏi cơ thể bằng xương bằng thịt của con người làm sao có thể chịu đựng nổi?

Mọi người tự biết kiếp nạn lần này chắc khó thoát khỏi, theo xe rơi xuống đáy động thì đúng là chỉ còn bất hạnh, chỉ mong sao dưới vực sâu toàn nước thì mới có thể thoát chết. Nào ngờ tầng đáy động lại căng lưới bảo vệ, nên chiếc xe chở quặng bị chặn lại, trong chốc lát tốc độ giảm đi đáng kể, nó trượt chầm chậm xuống tới đáy thì dừng hẳn, nhưng sức tích tụ từ trận chấn động vì rung chuyển vừa rồi cũng không nhẹ, khiến bốn người đều bị hất tung xuống lưới, mắt hoa tai ù, chân tay mềm nhũn, ba hồn bảy vía mãi nửa ngày trời mới chịu đoàn tụ về vị trí cũ.

Mọi người lấy tay huýt còi gọi nhau, may mà không ai xảy ra điều gì đáng tiếc, tất cả lổm ngổm bò dậy quan sát tình hình xung quanh, chỉ thấy cầu thang sắt và đường ray đều đã chạy đến điểm tận cùng, xe quặng nằm lật nhào sang một bên, còn trước mắt là màn sương ẩm ướt âm lạnh, bên tai văng vẳng tiếng sấm nổ ì ùng, tầm nhìn hạn chế ở mức rất thấp. Có lẽ đây là tầng sâu nhất dưới động đạo, cực vực chắc phải tiếp tục đi sâu hơn nữa, thế là cả đội bám vào lưới thừng treo vắt vẻo trên cao từ từ bò xuống dưới, nhưng không biết thời gian đã trôi qua bao lâu mà vẫn không nhìn thấy đáy, chỉ cảm giác sương mây bên cạnh lan tỏa càng lúc càng đày, có lúc giơ tay ra còn không nhìn thấy năm đầu ngón. Xa xa vọng lại chuỗi âm thanh ầm ù vi vu của dòng khí đối lưu.

Tư Mã Khôi thầm cảm thấy kỳ quái, tuy rằng xung quanh sương mù dày đặc, nhưng lại cho người ta cảm giác hoàn toàn trông rỗng, dường như nó không còn là con đường động đạo kính viễn vọng Lopnor nữa mà, chắc là đã tiến vào khu vực nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất, nhưng sương mù ở đây từ đâu phun ra vậy? Chẳng lẽ bên dưới lại có thêm một cây thần Udumbara thời thượng cổ nữa?

Lúc này, một luồng điện sáng quắc xẹt qua trước mặt, kèm theo tiếng sấm nổ đinh tai nhức óc. Nhờ ánh sáng ngoằn ngoèo vụt lóe lên trong chớp mắt, mọi người mới phát hiện xung quanh là biển mây trải dài vô cùng vô tận, trời đất như thể hòa nhập thành một thể hỗn độn. Chốn này nào giống với huyệt động dưới lòng đất, khiến ai nấy đều kinh hãi: “Chúng ta đang ở trên trời sao?”

Thắng Hương Lân thầm biết đây là sương mù dày đặc dưới lòng đất còn sót lại sau vụ nổ thiên thạch, vì chịu ảnh hưởng của địa áp liền trở thành mây khí tượng. Chẳng trách hàm lượng dưỡng khí ở kính viễn vọng Lopnor và địa máng không hề bị giảm sút, là vì trong vực sâu có dòng khí đối lưu trào lên, nhưng nếu lỡ bị sét đánh trúng người thì cũng hỏng hẳn, cô vội hét gọi hội Tư Mã Khôi: “Mau di chuyển xuống phía dưới, phải tránh xa tầng mây này ra!”

Lúc này luồng sấm sét lập lòe đã bám sát da đầu, mọi người lập tức vứt ba lô và súng trên người xuống, rồi bám lưới thừng cuống cuồng bò xuống dưới. Lưới thừng trong động đạo chạy thẳng đứng, dài đến mấy trăm mét, phần đáy là bóng tối trống trải, tầng mây vần vũ đều ngưng tụ ở giữa tầng không. Tư Mã Khôi đặt chân lên mặt đất, nhưng phía dưới không phải vùng nước sâu như anh dự đoán, soi đèn quặng quan sát, thì thấy khắp nơi toàn là cát vàng óng, đưa chùm sáng ra xa hơn, phàm những nơi mắt có thể chạm tới ngoài cát ra cũng chỉ có cát.

Thắng Hương Lân kéo anh chàng đội trưởng bị ngã dúi dụi trong sa mạc đứng dậy. Mọi người lần lượt nhặt ba lô hành lý của mình lên, đứng yên đưa mắt hoang mang nhìn khắp bốn phía, thấy phần đáy vực sâu u tối này rộng thênh thang như thủa hồng hoang hằng cổ, cự ly đèn quặng có thể chiếu sáng, cùng lắm cũng chỉ khoảng hai mươi mét, ngoại trừ có thể quan sát rõ cảnh vật ngay trước mặt, thì nó không phát huy được tác dụng gì hơn, nói gì đến việc xác định địa mạo địa hình phía xa.

Hải ngọng khi nãy chạy trốn gấp gáp quá, giờ bò rạp trên mặt đất thở hổn hển, nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, anh không kìm được tự lẩm bẩm một mình: “Ối ông bà ông vải ơi! Dưới lòng đất lại là sa mạc nữa à…”          Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi quỳ gối vốc một nắm cát, xoa xoa trong tay, rồi đưa lên mũi ngửi mấy cái: “Đây không phải đất bị sa mạc hóa, mà chính là biển cát thứ thiệt, khả năng từ hàng bao nhiêu năm trước, cực vực là biển sâu dưới lòng đất, nhưng giờ đây nó đã bị khô kiệt.”

Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Quy mô của không động dưới lớp vỏ rộng không thể tưởng tượng được, ngoài thang thừng đằng sau chúng ta ra, thì không còn bất kỳ vật tham chiếu nào khác trong sa mạc. Dựa vào phương vị bản đồ, tôi chỉ có thể suy đoán vật thể bằng sắt cổ, khả năng nằm ở phía đông kính viễn vọng Lopnor, cách đây chừng bốn cây số. Hiện giờ chúng ta không có các thiết bị trắc họa tiên tiến của Liên Xô, nên cũng khó lòng xác định vị trí, phương hướng chính xác được, mà chỉ cần chênh lệch tọa độ một chút thì sẽ lạc đường như chơi, thậm chí không thể trở về theo đường cũ được nữa”.

Tư Mã Khôi cũng không nghĩ ra cách gì hơn, bây giờ chỉ biết phương hướng một cách đại khái, thì làm sao tìm thấy mục tiêu trong biển cát tối đen như mực thế này, vả lại cát lún sẽ vùi lấp hết dấu chân, điều đó cũng đồng nghĩa với việc chỉ cần rời khỏi vị trí xuất phát là đừng nghĩ đến chuyện quay trở lại chỗ cũ.

Tư Mã Khôi đang khổ não nghĩ đối sách, thì vừa lúc đó giữa tầng không xuất hiện một làn chớp lóe sáng, ba người còn lại đều ngẩng đầu lên nhìn. Đột nhiên, Tư Mã Khôi cảm giác dường như sau lưng có vật thể gì đó đang khẽ khàng ngọ ngoạy, anh lập tức quay phắt đầu lại, chỉ thấy trong bóng tối xuất hiện bóng ma cúi đầu xõa tóc đứng sừng sững, khuôn mặt đối phương quen thuộc đến mức không thể quen thuộc hơn, cái gương mặt trắng bệch như quỷ ấy. Tư Mã Khôi hãi hùng tóc tai dựng đứng cả lên, làn khí lạnh buốt phút chốc xâm chiếm khắp cơ thể. Trong thế giới dưới lòng đất tĩnh mịch này, cái rộng lớn và quái dị hòa quyện vào nhau, đã tạo nên không gian đầy chết chóc im lìm của không động, còn vong hồn tựa hồ đến từ đáy vực sâu kia, thì giống như con giòi lặng lẽ bám riết lấy xương cốt người ta, vĩnh viễn không thể gỡ bỏ ra được.

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ tư

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">LẠC TRONG BIỂN CÁT

Tư Mã Khôi quay đầu lại thấy sau lưng có ma, do khoảng cách quá gần, tựa hồ mặt đối mặt, nên anh cũng không thể phân biệt rõ mọi đường nét, chỉ cảm giác dung mạo giống như thần phật kia cực kỳ giống quốc vương Chăm Pa, vả lại hai tay của đối phương đã thò ra đặt lên bờ vai anh. Tư Mã Khôi bất giác rợn người đến dựng hết tóc gáy. Anh lập tức thét lên một tiếng, rồi bổ nhào về phía trước, đồng thời giơ khẩu súng thần công trong tay lên. Lúc này, sấm sét hoàn toàn biến mất trong tầng mây dày nặng, chùm sáng đèn quặng soi đến đâu, chỗ ấy chỉ toàn cát vàng, không hề có dấu chân nào thừa ra, bóng tối im lìm khiến người ta ngộp thở.

Ba người còn lại bị kinh động, giật nảy mình, vội vàng quay người lại xem xét, nhưng không phát hiện ra tình hình gì khác thường. Hải ngọng lầu bầu trách móc: “Tớ bảo, từ giờ không có chuyện gì thì đừng la hét om sòm thế nhé, làm tớ vãi cả linh hồn đây này!”

Tư Mã Khôi rất khó xác định thứ khi nãy mình mới nhìn thấy rốt cục là gì, nhưng có thể khẳng định chắc chắn: đó không phải ảo ảnh do sấm sét tạo ra, bởi vì trước khi quay đầu, anh đã phát hiện thấy có động tĩnh ở sau lưng. Anh kể lại chuyện này cho mọi người, tuy “Căn phòng số 86” đã chết mất xác, nhưng đội thám hiểm vẫn chưa triệt để thoát khỏi sự đeo bám của Nấm mồ xanh, kẻ địch tiếp theo đã xuất hiện, có lẽ nó đang lẩn trốn ngay bên cạnh chúng ta.

Thắng Hương Lân cũng cảm thấy hiện tượng bất thường này rất khó giải thích, ban đầu còn cho rằng có lẽ đó là ảo giác nảy sinh do thần kinh căng thẳng quá mức, đến lúc nghe Tư Mã Khôi thuật lại đầu đuôi, cô mới biết nó không phải ảo giác. Cô hỏi: “Anh đã nhìn thấy kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh sao?”          Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi lắc đầu đáp: “Tôi chỉ nhìn thấy khuôn mặt trắng bợt như tượng sáp cực kỳ quái dị thôi, nó rất giống với hình tượng vẽ trên bích họa trong miếu thần, nhưng chiếc mặt nạ da người của quốc vương Chăm Pa đã bị cháy rụi ở tòa thành Nhện Vàng từ trước rồi mà; theo lý mà nói thì nó không thể xuất hiện trên đời lần nữa. Nói tóm lại, chỗ này chắc chắn không an toàn, mọi người phải để ý quan sát hơn mới được”.

Thắng Hương Lân nói: “Chỉ cần giải được các ẩn số trong cực vực dưới lòng đất, là có thể xoay chuyển cục diện bị động hiện nay, thời gian càng kéo dài chúng ta càng bất lợi, bởi thế phải mau chóng tìm thấy vật thể bằng sắt cách đây hơn ba cây số nữa mới được.”

Tư Mã Khôi nghĩ thầm, trong biển cát mênh mông cách bề mặt Trái Đất đến mười ngàn mét, lại sừng sững tồn tại hai thỏi gang lớn có hình dạng giống hai cái tai người, dường như tất cả mọi người đều cho rằng vật thể đó chính là đáp số cuối cùng trong kính viễn vọng Lopnor, nhưng chúng rốt cục đóng vai trò gì trong cả chuỗi câu đố đó? Anh lại ngẫm nghĩ, chiều dài của nó đến gần trăm mét, cấu tạo lại vô cùng đơn giản, mà cũng không phải tàu ngầm Z-615 bị mất tích của Liên Xô, hay đó là hai quả bom hạt nhân nhỉ? Có điều bom hạt nhân hình như không có thể tích lớn đến dường ấy, xem ra không đến gần nó thì không tưởng tượng ra nổi.

Hải ngọng đề nghị: “Tớ thấy cứ lằng nhằng mãi thế này chỉ tổ lãng phí thời gian, chúng ta đã không thể xác định chính xác phương hướng, chi bằng cứ mỗi người đứng cách nhau một trăm mét, tiến hành tìm kiếm đồng bộ về phía đông, nếu vận may tốt một chút, biết đâu lại tìm thấy mục tiêu.”

Thắng Hương Lân nói: “Thiên thạch là đám mây băng khổng lồ xuất hiện trong lớp vỏ Trái Đất từ khi thiên địa còn chưa hình thành. Sau khi chịu ảnh hưởng của địa áp phát nổ, nó đã hình thành không động, quy mô và kết cấu của nó rất khó dự đoán. Trong bóng tối không có vật tham chiếu như hiện nay, la bàn chỉ có thể cung cấp cho chúng ta phương vị tương đối, cự ly chiếu sáng của đèn quặng còn chưa tới hai mươi mét, thế này thì khác gì bịt hai mắt mò mẫm tìm kiếm trong biển cát, cách của anh không có khả năng thành công đâu.”

Đội trưởng Lưu Giang Hà cũng cho rằng biện pháp của Hải ngọng hoàn toàn không khả thi: “Bộ đội chúng ta khi phải hành quân gấp vào ban đêm, cũng không cho phép các chiến sĩ đi cách nhau 100 mét, vì chắc chắn đoàn quân sẽ bị lạc nhau.”

Hải ngọng nói: “Hai người vẫn chưa bao giờ đánh trận trong rừng nên chưa biết đấy thôi. Khi đó đội du kích bọn tôi chui vào trong rừng rậm nhiệt đới quanh năm không thấy ánh nắng mặt trời, cách mười mấy bước đã không ai nhìn thấy ai nữa, lúc đó tiểu đội trưởng hay trung đội trưởng chỉ cần bôi một loại nước ép cỏ gì đó vào quân phục, mùi của nó theo gió sẽ truyền khắp tám dặm, lính phía sau chỉ cần có mũi thì cho dù bịt chặt hai mắt, cũng vẫn không bị rớt đội như thường”.

Tư Mã Khôi đảo mắt đã nghĩ ra cách, anh nói với ba người còn lại: “Tôi thấy đội hình chúng ta lắm thầy nhiều ma, để các cậu bàn luận vấn đề mãi cũng chẳng ra ngô ra khoai gì được, cuối cùng vẫn là tôi phải đưa ra ý kiến. Lúc trước, ở khoang liên lạc dưới động đạo, tôi nhìn thấy điện thoại thạch từ Aφ53, đường dây dẫn trực tiếp xuống lòng đất. Năm 1958, đội khảo sát liên hợp chắc chắn đã vác giá đỡ xuống đây, dường dây màu trắng kéo dài hai mươi ngàn mét, thừa sức trợ giúp hậu phương duy trì liên lạc liên tục trong vòng bán kính ba cây số. Chúng ta chỉ cần mò theo đường dây mà tìm, chắc chắn sẽ đến được mục tiêu.”           Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi nói xong, bèn bắt tay tìm kiếm. Anh tìm thấy một đường dây thả song song với thang dây thừng. Khi trước mọi người bận trốn tránh mây khí tượng, nên vội vã bò xuống dưới, còn sợi dây màu trắng lại bị biển cát che lấp, nên không ai phát hiện ra nó. Lúc này thấy đường dây điện thoại vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, có thể sử dụng làm đường dây chỉ hướng. Phát hiện mới khiến cả đội phấn chấn hẳn lên. Đoàn chuyên gia Liên Xô lắp đặt toàn những thiết bị trắc họa rất tinh vi, thậm chí còn có cả thiết bị tiên tiến thám trắc nguyên tố sắt, bởi vậy phương hướng mà đội khảo sát tiến hành năm đó chắc không thể xảy ra sai lệch được.

Mọi người phủi cát bám bên trên, lần theo đường dây màu trắng, không nhìn thấy điểm tận cùng, mò mẫm tiến về hướng đông. Biển cát tồn tại dưới tầng đáy vực sâu hàng ngàn tỉ năm nay, đã trải qua bao kiếp luân hồi khô kiệt của nhật nguyệt, tựa hồ đã rời hẳn khỏi quỹ đạo của thời gian và không gian, chỉ có tiếng sấm xa thỉnh thoảng lại ì ùng vọng tới, những lằn chớp mang ánh sáng yếu ớt vừa lóe lên đã nhạt nhòa giữa bầu không tăm tối. Phía dưới tầng cát, khả năng chính là lớp dung nham của tầng quyển manti, dòng nhiệt đối lưu dâng trào sùng sục, khiến không khí trở nên nóng bức khác thường, nhiệt độ hoàn toàn khác xa với cái lạnh căm căm nơi kính viễn vọng Lopnor, nó đưa đội thám hiểm trải nghiệm từ cực khắc nghiệt này sang cực khắc nghiệt khác.

Tư Mã Khôi thấy bốn phía xung quanh tuy tối đen, nhưng không gian u tối đó lại đem đến cho anh cảm giác rất mênh mông, hoang mang, có lẽ vì nó quá sâu và quá xa, chỉ nhớ trong sách địa lý cổ thời tiền Tần, mô tả về cực vực là nơi “có rồng phun lửa, chiếu sáng bốn cực”. Có lẽ những mô tả này ngầm hình dung về dòng dung nham trong quyển Manti luôn phun trào dữ dội lên trên, còn rất khó phán đoán đội khảo sát liên hợp Liên Trung đã gặp phải sự cố gì dưới lòng đất sâu. Đi trên con đường lần tìm ý nghĩa của cùng cực này, tất cả phía trước đều mù mịt chưa biết, vận mệnh cũng theo đó mà biến đổi cũng khó lường.

Địa hình trong biển cát thoai thoải nhấp nhô, hội Tư Mã Khôi đã quen hành quân đường trường, nên đi bộ mấy cây số khoảng cách theo đường chim bay không phải vấn đề lớn lắm. Cả đội bất giác đến một nơi, dưới lớp cát lún lấp ló rất nhiều xương trắng giống như hóa thạch, soi đèn quặng xem thì không thấy đầu bên kia đâu cả, chẳng biết phần chôn vùi dưới đáy cát còn lớn chừng nào.

Đội trưởng Lưu Giang Hà chưa bao giờ nhìn thấy bộ xương cá nào lớn cỡ ấy. Loài cá hồng to nhất ở biển hồ Tân Cương là loài Hucho Taimen, một loại cá hồi nước ngọt, nhưng nó cũng chỉ dài hơn hai mét là cùng. Giờ đây nhìn thấy con thủy quái này, anh chàng kinh ngạc thốt lên: “Hình như nó là xương của rồng thì phải…”

Hải ngọng bảo: “Chú em đừng có chuyện bé xé ra to nữa, vừa nhìn đã biết đó chỉ là con quái thú khổng lồ ở dưới biển hoặc là con cá lớn nào đó, cùng lắm cũng chỉ là loài thằn lằn cá thôi”.

Tư Mã Khôi cũng nhận xét: “Chắc là cá, nhưng chỉ còn lại mỗi bộ xương tàn thế này, thì không thể nhận ra rốt cục nó là loại cá gì. Tôi đoán phần đầu của nó chắc cũng rất đại tướng, không khéo còn to không kém gì cỗ tàu ngầm của Liên Xô ấy chứ. Dưới lòng đất khả năng còn tồn tại rất nhiều hình thái sinh mệnh vừa phức tạp vừa cổ xưa, may mà bây giờ nước đã cạn, chứ nếu không lúc chúng ta phải vượt biển mới sang được bờ bên kia, thì có mà bị nó nuốt chửng vào bụng từ lâu rồi.”

Hải ngọng nói: “Mặc kệ cá lớn cỡ nào, chỉ cần rời khỏi nước là chẳng khác gì ăn mày đốt pháo hoa giữa trời mưa, có mà quẫy đằng trời.”                       Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thẳng Hương Lân bảo: “Các anh đoán sai cả rồi. Đâv là xương cá voi, cá voi cổ đại, nó thuộc loài thú chứ không phải loài cá đâu.”

Tư Mã Khôi hiểu ra tiếp lời: “Hóa ra nó là cá voi cổ đại à? Trước đây tôi thường nghe người ta nói: thứ khó lường nhất trong cõi trời, không gì thắng được biển cả, thứ khó lường nhất trong cõi vật, không có gì thắng được cá voi, nó xuất quỷ nhập thần, đến vô hình, đi vô ảnh. Bây giờ nhìn thấy xương trắng của nó kẹt giữa dòng cát lún, cũng có thể tưởng tượng ra lòng đất này đã từng là nơi bao la hùng vĩ biết bao, nó vừa mênh mông bát ngát vừa thâm trầm trang nghiêm”.

Hải ngọng cũng biết cá voi không thuộc họ cá, tự thấy mình thua kém kiến thức Thắng Hương Lân, anh bắt đầu mồm năm miệng mười tía lia bốc phét, nước bọt bắn tứ tung: “Cá voi cổ đại ấy à, tôi cũng từng nghe kể về nó rồi. Thằng cha này lợi hại lắm. Năm đó, ông già nhà tôi cùng đoàn bộ đội vượt biển đánh Quan Đông, cả đội thuê hẳn một chiếc thuyền cá gắn mô tơ, hơn một trăm người ngồi chen chúc trên thuyền. Vừa mới ra đến biển đã gặp sóng to gió lớn, những con sóng bạc đầu cuốn vút đến tận trời, đánh cho cái thuyền cá rách của hội ông già đổ nghiêng đổ ngả, rồi đột nhiên thấy sắc nước chuyển dần thành màu xanh đen, rồi một ngọn núi sừng sững từ giữa biển trồi lên, cũng không biết dài cả mấy ngàn mét. Ngọn núi cứ nhấp nhô chìm nổi trong làn nước, còn chưa đợi ai kịp nhìn rõ rốt cục là chuyện gì, thì cả chiếc thuyền cá bị hút vào một động tối om, bốn phía u ám đầy bất trắc. Ông bác lái thuyền sợ nhũn cả người, muốn khóc mà khiếp đến nỗi không vắt ra nổi một giọt nước mắt, biết chắc sắp phải chôn thây trong bụng cá đen nơi. Đúng lúc đó, bỗng nghe tiếng sóng biển nổi lên ầm ầm, chiếc thuyền cá lại bị đẩy ra ngoài mặt biển, rơi từ đầu sóng xuống vỡ tan tành, may mà khoảng cách khi đó cũng khá gần bờ, những người biết bơi đều cố gắng giãy giụa bơi vào bờ. Lúc đó họ mới biết: thì ra là cá voi phun nước, nên chiếc thuyền mới theo dòng nhào ra ngoài. Các cậu thử nghĩ xem, nếu lúc ấy mà không thoát được thì đúng là toi đời rồi còn gì?”

Tư Mã Khôi lật tẩy Hải ngọng: “Này trại chủ Hải ngọng, có phải đầu óc cậu bị lú lẫn không thế? Thế hệ ông già nhà cậu thuộc lớp người đi trước, đều là bộ đội tham gia chiến dịch Bình Hình Quan, sau đó ở lại núi Thái Hành, Sơn Tây lánh xa căn cứ địa, đánh Quan Đông sao lại phải vòng vèo chạy đến tận Sơn Đông vượt biển? Cậu không định bái thằng người gỗ Pinocchio làm bố đấy chứ hả?”

Hải ngọng tức đến nỗi mặt đỏ bừng, cổ nổi gân xanh, đang định lên tiếng phản kích lại, thì đột nhiên anh thấy tay bỗng nhẹ bẫng đi, sợi dây điện thoại vùi trong cát chỉ còn sót mỗi đầu mẩu. Anh bới cát mãi, cũng không nhìn thấy đầu dây nối với nó nằm ở đâu.

Mọi người cảm thấy rất bất an, vốn dự đoán lộ trình phải đi dài chừng bốn cây số, bây giờ mới đi được một nửa quãng đường, sợi dây chỉ hướng lại bị mất, thì làm sao có thể tìm thấy đội khảo sát liên hợp Liên Trung mất tích giữa biển cát rộng vô bờ bến này đây?

Tư Mã Khôi nói: “Đừng cuống! Bộ xương con cá voi cổ đã hóa thành đá, chí ít cũng phải chết cả ngàn năm rồi, đội khảo sát chắc chắn không thể bị nó nuốt vào bụng được. Chúng ta chỉ cần tìm kỹ theo hướng đoạn dây bị đứt là được. Đầu bên kia có lẽ bị vùi đâu đấy trong cát thôi”. Nói xong, anh bèn cùng ba người lại bắt đầu tìm kiếm. Tư Mã Khôi liên tiếp đào mấy hố cát, quả nhiên nhìn thấy sợi dây màu trắng bị đứt nằm vùi dưới đó. Quả tim đang treo lơ lửng của anh bấy giờ mới chịu về chỗ cũ, vì nếu tìm không thấy sợi dây chỉ hướng, thì hậu quả thật không dám nghĩ đến. Anh vươn tay định tóm dây điện thoại, nhưng vừa chạm tay vào thì thấy mình tóm hụt, cái dây điện thoại dã chiến bỗng nhiên như sống dậy, nó luồn vào trong cát rồi không biết chui đằng nào mà biến mất tăm mất dạng.

Mọi người vô cùng ngạc nhiên: “Chẳng lẽ dây điện thoại lại mọc chân biết chạy?”, rồi tất cả đổ xô lại giúp Tư Mã Khôi bới cát, bới sâu cả nửa mét vẫn không tìm thấy gì.

Tư Mã Khôi bỗng nhiên cảm thấy có gì chẳng lành, anh nhỏ giọng bảo ba người còn lại: “Đừng tìm dây điện thoại nữa. Trong biển cát này, căn bản chẳng có thứ gì đâu. Mọi người mau chạy về hướng đông, lát nữa bất kể nghe sau lưng phát ra tiếng gì cũng tuyệt đối không được quay đầu lại nhìn.”

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ năm

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">CỔ TỊCH BIỆT BẢO

Hải ngọng còn định tiếp tục bới hố cát tìm sợi dây màu trắng thì nghe Tư Mã Khôi giục mọi người nhanh chóng rời khỏi đây, anh mới ngớ người vì không hiểu gì, bèn hỏi: “Đằng sau có động tĩnh gì à? Sao lại không được quay đầu nhìn hả?”

Tư Mã Khôi vừa nghiêng tai nghe ngóng động tĩnh xung quanh, vừa trả lời Hải ngọng: “Cậu chỉ cần quay đầu nhìn một cái, khả năng sẽ sợ khiếp vía đến nỗi chân mềm nhũn không chạy nổi nữa đâu.”

Hải ngọng không phục đáp: “Từ xưa tớ đã bị phần tử xấu xa nhà cậu xúi giục mà lẻn vào nhà bếp ăn trộm thịt quay, kết quả bị nhân viên nhà bếp thả hai con chó truy đuổi. Hai con ôn vật đấy bám riết tớ như đồ nghiệt chủng, tớ cũng có cuống quýt tí nào đâu.”

Thắng Hương Lân và đội trưởng Lưu Giang Hà nhìn thần thái căng thẳng của Tư Mã Khôi thì biết anh không hề nói đùa. Hai người còn định hỏi cặn kẽ, thì Tư Mã Khôi đột nhiên đứng bật dậy, hét gọi mọi người: “Nguy rồi, chạy mau!”

Thì ra, khi nãy Tư Mã Khôi bới hố cát tìm đầu kia của đường dây điện thoại, nào ngờ lúc giật nó lên lại không thấy đâu nữa cả, anh tiếp tục bới xuống sâu hơn, thì phát hiện có vô số hang cát nhỏ tí tẹo, thầm nghĩ có lẽ trong bóng tối anh đã lầm tưởng những con rắn cát màu trắng là đường dây điện thoại. Những sinh vật nhỏ bé nằm lẩn mình trong biển cát bị kinh động, bèn nhất loạt chạy trốn mất tăm mất dạng, còn biết tìm ở đâu nữa bây giờ? Mà cho dù có bắt được chúng thì cũng không thể biến nó thành sợi dây chỉ hướng. Cùng lúc đó, anh lại cảm nhận luồng gió tanh tưởi từ xa thổi tới, tiếng động lớn dần như nước triều dâng, dường như âm thanh đều đổ về hướng bộ xương cá voi, chỉ có phía đông là tương đối im lìm. Tư Mã Khôi thầm biết kẻ sắp đến không mang thiện ý, chỉ dựa vào khẩu thần công cổ lỗ sĩ, thì cũng khó lòng đối đầu nghênh chiến với chúng được. Thế là anh vội vã đứng dậy, miệng lớn tiếng hét gọi mọi người cùng rút lui về hướng đông.

Lúc này, hội Hải ngọng đã nghe thấy động tĩnh từ nơi sâu trong biển cát văng vẳng truyền đến, ai nấy đều biết đại nạn sắp giáng xuống đầu. Dù hiểu rằng: chỉ cần rời xa đường dây điện thoại do đội khảo sát liên hợp Liên Trung lắp đặt, thì sẽ bị lạc trong cực vực dưới lòng đất bốn bề bóng tối mênh mông, nhưng nếu còn chần chừ không chạy trốn, thì sẽ chết không toàn thây ngay tức khắc, vì vậy không cần cân nhắc, cũng biết nên lựa chọn cái nào. Ban đầu mọi người còn chỉ đi nhanh, nhưng âm thanh bò trườn càng lúc càng dồn dập, chúng đang đuổi theo sát nút, nên mọi người vội co cẳng chạy thục mạng. Trong lúc chạy sắp đứt hơi, ai còn muốn quay đầu nhìn xem thứ đang đuổi mình đằng sau.

Ngoại trừ Thắng Hương Lân ra, hội ba người Tư Mã Khôi, Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà đều có kinh nghiệm chiến đấu việt dã, vượt núi băng rừng băng băng như chạy trên đất bằng. Có điều ở đây chỗ nào cũng toàn cát vàng, kết cấu vừa mềm vừa xốp, giẫm một cái là lún sâu tít, càng dùng sức lại càng chậm chạp, so với vượt sơn địa khê cốc, thì chạy ở đây còn gian nan gấp vạn lần.

Hải ngọng cuống cuồng như kiến bò trong chảo, kết quả dục bất tốc đạt, lại còn bị ngã ra đất, rồi lăn xuống sườn dốc thoai thoải. Tư Mã Khôi đành dừng chân chạy, chìa tay kéo cậu ta lên. Đúng lúc này, anh nghe tiếng Thắng Hương Lân và Lưu Giang Hà đồng thanh thét lớn: “Cẩn thận!”     Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi cũng cảm thấy luồng gió lạ thổi vù vù phía sau, bèn buông tay thả Hải ngọng xuống, rút dao săn quay tay ra sau chém mạnh, chỉ nghe tiếng phập khô khốc như bổ vào vỏ cây khô, soi đèn quặng thì thấy con quái xà dài chừng nửa mét bị dao phang đứt thành hai đoạn. Con rắn to như cổ tay trẻ em, hai bên mạng sườn có đôi cánh thịt, thân mình trong suốt sáng rực, nhìn thấu cả nội tạng, bên trong mọc chi chít vô số gai thịt, lúc này cơ thể phân thành hai đoạn với hàng trăm đốt thịt đang ngọ ngoạy uốn éo.

Tư Mã Khôi thầm cảm thấy việc này rất quái lạ: “Sao bọn chúng lại bám riết lấy chúng ta thế nhỉ?”, vừa mới ngẩn người ngẫm nghĩ, bỗng nhiên anh thấy cát đá dưới chân ầm ầm rung chuyển, triền cát chỗ anh đang đứng sụt lún thành một khuôn động lớn, một con thằn lằn giun từ sâu bên trong thình lình trườn ra, đầu giống như đầu rết, thân hình to như cái chum khổng lồ. Con rắn chết bị phân thành hai khúc khi nãy bị nó hút vào bụng, cùng lượng lớn cát bụi. Mọi người cuống cuồng tháo lui.

Đội trưởng Lưu Giang Hà chạy trốn không kịp, lại còn bị trượt xuống hố cát, chân tay lún sâu trong dòng cát, không thể giãy giụa nổi. Hải ngọng đứng gần anh chàng nhất, đưa tay bám lấy ba lô của Lưu Giang Hà, gắng sức kéo lên. Lúc này nghe văng vẳng bên tai tiếng trẻ con, tựa hồ như tiếng khóc. Hải ngọng vội vàng quay đầu lại nhìn, chỉ thấy cái lưỡi con thằn lằn giun không ngừng phình to thập thò, nó chỉ cách anh chừng nửa thước. Hải ngọng hoảng sợ mất hết cả hồn vía, trong lúc cấp bách anh bèn vận hết sức lực, định nhặt khẩu K54 của Lưu Giang Hà quyết sống mái một phen với con quái vật, nhưng khổ nỗi thân súng quá dài, căn bản không thể xoay chuyển được.

Đúng lúc ấy, Tư Mã Khôi kịp thời giương súng ngắm bắn, con thằn lằn giun vừa chui ra từ động cát, bị đạn bắn, hơi co người lại một chút. Hệ thần kinh dưới tầng đốt thịt của nó phân bố theo hình mạng lưới, nên súng đạn không phát huy được mấy công dụng. May mà nhân khoảnh khắc ngắn ngủi đó, Thắng Hương Lân cũng kịp quăng dây thừng xuống, hai người bám cả chân lẫn tay vào sợi dây cuống cuồng bò lên mép hố.

Bốn người liều mạng chạy nhanh khỏi dòng cát lún, nhưng vừa chạy được mấy bước thì phía trước lại là một động cát lún giống như hố xoáy đen ngòm, bên tai nghe tiếng cát trôi rào rào, không biết xung quanh còn bao nhiêu hố cát nữa. Tư Mã Khôi cũng biết thằn lằn giun, hay giun tử thần, chẳng qua cũng chỉ là loài sâu bọ ngu ngốc, chuyên ăn vụn thịt mục nát, không dễ dụ chúng chui ra khỏi hang, nhưng một khi đụng độ phải nó thì cũng rất khó đối phó, vả lại nghe động tĩnh thì có vẻ lực lượng của chúng cũng khá khiếp người. Bốn phía xung quanh trống toang hoác, nếu không tìm được điểm tựa, chỉ sợ mọi người đành phải bỏ mạng tại đây.

Lúc này mọi người không để ý đến phương hướng gì nữa, tất cả đồng loạt lùi xa khỏi động cát đang lún xuống, chạy thật nhanh về phía đông. Bất chợt, tiếng sấm trên cao dội xuống rền vang, một vật rơi từ tầng mây dày nặng đập vào mũ Pith Helmet của Tư Mã Khôi. Tuy tính năng bảo vệ của mũ cối lõi kép rất tốt, nhưng anh vẫn cảm thấy mặt mũi tối sầm, đưa mắt nhìn xuống đất, thấy vật vừa rơi trúng đầu là một viên đá tròn xoay, to như trái đào.

Dòng khí đối lưu trên tầng mây giữa không trung chịu ảnh hưởng của địa áp, sản sinh sự xung đột mãnh liệt, gây ra cơn mưa đá xối xả. Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Trách gì phía đông yên ắng khác thường, thì ra là sắp mưa đá”.

Dân gian gọi mưa đá là nạn đá, viên đá to nhỏ không đồng nhất; viên nhỏ nhất có khi chỉ bằng hạt gạo, nhưng cũng có những viên đá to đường kính lên tới mười mấy centimet. Trong tình trạng không có gì che chắn, đã xảy ra thảm cảnh người và gia súc bị đá đập trúng đầu mà chết. Mọi người tự biết sự lợi hại của mưa đá, liền vội lấy chăn bông trong ba lô ra, mau chóng phủ lên, dùng súng và ba lô làm giá đỡ, tất cả co người cuộn tròn trốn bên dưới tránh trận mưa đá xuất hiện đột ngột.

Tư Mã Khôi bị đá rơi trúng đầu, giờ mới thấy ngâm ngẩm đau, khi nãy chạy trốn gấp gáp quá, khiến lồng ngực có cảm giác khô rát khó chịu, anh bèn nhặt một viên đá lên cho vào mồm nhai.

Thắng Hương Lân đang thở hổn hển, thấy Tư Mã Khôi làm vậy, thấy lạ nên hỏi: “Bây giờ anh vẫn còn tâm trạng ăn đá nữa sao? Chúng ta đã bị lạc đường trong biển cát rồi!”

Tư Mã Khôi đang có tâm sự trong lòng, anh lơ đễnh trả lời: “Răng tôi đau, nghe các cụ nói ăn món này đỡ nhức răng lắm”.

Hải ngọng cũng nhặt một viên đá đút vào miệng: “Bây giờ còn nghĩ ngợi phương hướng làm gì, ngớt trận mưa đá này, bọn quái vật trong động cát lại mò đến. Mắt cận thì phải lo kiếm kính cận, chúng ta phải tìm cách giải quyết vấn đề trước mắt cái đã, đúng không?’’. Nói đoạn, anh quay sang Lưu Giang Hà bảo: “Khi nãy anh Hải ngọng không mạo hiểm cứu chú một mạng, thì bây giờ chú em đã cách mạng triệt để rồi còn gì!” – Đội trưởng Lưu Giang Hà cảm ơn rối rít, anh chàng vừa cảm kích vừa hổ thẹn.

Tư Mã Khôi bỏ ngoài tai tất cả lời của mọi người, lòng anh bỗng dưng như bị kích động mà thốt lên: “Không đúng, loài thằn lằn giun đều bò ra từ lòng cát sâu, bọn chúng hoạt động thông qua sự biến đổi về nhiệt lượng và sự cảm nhận về chấn động. Ở khoảng cách xa như vậy, lẽ ra chúng không thể cảm nhận được sự tồn tại của chúng ta mới phải. Nếu đây chỉ là sự ngẫu nhiên, thì tôi nguyện móc con ngươi của mình ra, bày trước mặt cho mọi người ăn đấy!”

Thắng Hương Lân nói: “Không cần thề thốt độc địa thế, rốt cục anh định nói gì?”

Tư Mã Khôi nói: “Tôi thấy bên người chúng ta chắc chắn có giấu vật gì đó, mới khiến lũ sinh vật đáng sợ đang ẩn mình trong cát bị dẫn dụ ra ngoài…” Anh nhớ lại lúc quay mạnh về phía sau, khi bắt đầu chạm chân xuống sa mạc, anh đã nhìn thấy một con ác ma xuất hiện ngay sau lưng, hai tay nó đặt lên vai anh, nhưng khi nhìn kỹ lại thì chỉ thấy bóng tối đen ngòm. Anh không thể giải thích hiện tượng đó, thậm chí còn hoài nghi hay mình bị ma nhập.

Bây giờ hồi tưởng lại, mới thấy lúc đó phía sau mình chỉ có mỗi chiếc ba lô này, thế là anh quăng nó xuống, kiểm tra cẩn thận. Anh lôi từng món đồ trong ba lô ra, ngoại trừ pin thì toàn là đồ hộp tìm thấy dưới trạm thám trắc trung tâm, cũng không phát hiện ra vật gì khác thường. Nào ngờ, khi lục đến đáy ba lô, đột nhiên anh sờ phải vật gì đó, cảm giác tay mình dường như bị ai đó nắm chặt.         Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, quái lạ, chiếc ba lô này đựng đồ đầy ắp, phía dưới làm gì đủ chỗ cho người trốn được? Anh thu hết can đảm chộp lấy nó giật mạnh lên. Chẳng ngờ, thứ anh chộp được lại là cánh tay trái của người chết. Cánh tay đó dường như được bôi phết thứ thuốc bí mật nào đó, nên không có mùi máu tanh, cũng không bốc mùi hôi thối, to như cánh tay người thường, sau khi bị vứt ra ngoài, ngón tay vẫn khe khẽ động đậy.

Mọi người đứng bên cạnh nhìn, ai nấy đều kinh ngạc tột độ: “Đây là cánh tay của ai vậy? Sao nó vẫn còn cử động được?”

Tư Mã Khôi nhìn hình dáng thì biết: đây chính là cánh tay còn lại của “Căn phòng số 86”, có khả năng hắn đã giấu vào đáy ba lô của anh bên dưới lớp pin, lúc mọi người hỏa táng thi thể giáo sư Nông địa cầu ở dòng sông ngầm. Lúc mọi người bổ sung vật tư trong nhà kho, cũng không hề phát hiện thấy nó.

Tư Mã Khôi lấy dao rạch cánh tay, móc ra một cục thịt nằm sâu bên trong: “Đây chính là viên ba bảo, khả năng mọi tai bay vạ gió đều do vật này gây ra cả đây.”

Mọi người quây lại gần xem,thì thấy cục thịt có màu đỏ sậm, bề mặt phân bố chàng chịt những tia máu giống như dây thần kinh, nhìn lại cánh tay đang lăn lóc trên mặt đất thì thấy nó đã nằm yên bất động, bấy giờ mới biết hai cánh tay của “Căn phòng số 86” đều có ba bảo. Trước lúc chết, hắn còn để lại độc chiêu cuối cùng hãm hại mọi người.

Cho đến lúc này, dường như mọi sự việc đều nằm trong sự tiên liệu của cuốn cổ thư biệt bảo, chỉ hiềm một nỗi nội dung quá mập mờ khó hiểu, nên không ai nghĩ ra trước khi sự việc xảy đến. Ngoại trừ điều này, thì trong lòng Tư Mã Khôi còn có một vài nghi hoặc khác mà không thể lý giải: “Cánh tay người chết trong ba lô đã xác định là của ‘Căn phòng số 86’, thì vì sao con ác ma mà mình nhìn thấy, lại có khuôn mặt giống hệt với kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh? Chẳng lẽ nó là….”

Lúc này, cơn mưa đá đã ngớt hẳn, biển cát nóng rang, mưa đá rơi xuống không lâu liền hóa thành hơi nước bay mịt mù như biển sương. Hải ngọng châm lửa đốt viên ba bảo, lại nhìn thấy cánh tay người chết nên thấy ngứa mắt bèn đốt luôn thể, trong chốc lát, mùi hôi thối lan tỏa khắp không gian.

Thắng Hương Lân thấy bốn phía xung quanh im phăng phắc, mới dần yên tâm trở lại, cô nói với Tư Mã Khôi: “May mà anh phát hiện kịp thời, mới tránh được nạn lớn vô hình. Nhưng giờ đây chúng ta đã hoàn toàn mất phương hướng, căn bản không thể xác định được vị trí hiện tại. Lúc thường anh nghĩ ra bao quỷ kế, bây giờ đã nghĩ ra cách gì chưa vậy?”

Tư Mã Khôi không còn tâm trạng nào để ý đến điều này, anh chỉ lắc đầu biểu thị bó tay hết cách. Lúc này ba người còn lại đã sắp xếp xong hành lý, chuẩn bị tiếp tục đi sâu vào biển cát tìm kiếm mục tiêu; trong khi đó Tư Mã Khôi vẫn loay hoay thò tay quờ quạng khắp đáy ba lô, nhưng không thấy tăm tích cuốn cổ thư biệt bảo đâu cả, anh lo lắng hỏi Thắng Hương Lân xem có nhớ anh đã bỏ nó ở đâu không?

Thắng Hương Lân thấy lạ bèn hỏi lại: “Cuốn sách cũ đó nội dung thần bí cổ quái, xem cũng vô ích, huống hồ có ai hiểu đâu, sao anh phải sốt ruột tìm nó làm gì?”

Tư Mã Khôi nói: “Chủ nhân đích thực của cuốn cổ tịch biệt bảo đó chính là Nấm mồ xanh, nếu chúng ta không tìm thấy nó thì gay go to đấy!”.

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ sáu

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">VIÊN XÀ TỪ

Tư Mã Khôi nhớ đến nội dung ly kỳ mập mờ trong cuốn cổ tịch biệt bảo, có lẽ đúng như lời đội trưởng Lưu Giang Hà nói khi trước: “Trong cuốn cổ thư đó ẩn chứa những thứ vô cùng tà ác”. Rất có thể nó chính là một kẻ địch khác mà Nấm mồ xanh cử đến, nếu không thì sao tự dưng anh lại nhìn thấy ma quỷ?”

Thắng Hương Lân bán tín bán nghi: “Một cuốn thư tịch cũ kỹ rách nát thì có thể làm nên trò trống gì? Chỉ cần anh không đọc nó là được. Huống hồ thân phận của thi thể nằm trước cửa Hắc Môn, và những bức hình cổ quái vẽ minh họa trong cuốn cổ thư vẫn chưa thể xác định chính xác, thì làm sao dám đoán định nó có liên quan đến Nấm mồ xanh?”

Quả thực, Tư Mã Khôi cũng không thể giải thích rõ ràng, vì rốt cục chỉ một mình anh tận mắt nhìn thấy bóng ma đó mà thôi, nhưng việc này chắc chắn là liên quan đến cuốn cổ tịch biệt bảo có lai lịch bất minh kia, bây giờ nó lại bỗng dưng biến mất một cách kỳ lạ. Có lẽ trong lúc cuống cuồng chạy trốn, nó đã lọt ra cạnh ba lô rồi rơi xuống, thất lạc giữa biển cát mênh mông và bóng tối ngút ngàn tầm mắt, bây giờ có muốn tìm cũng căn bản không thể tìm thấy nó được nữa.

Tư Mã Khôi thấy cơ sự đã đến nước này thì biết việc phải đến, sớm muộn gì cũng sẽ đến, có muốn trốn tránh cũng không thể tránh được, thế là anh tạm thời gác chuyện đó sang một bên, tiếp tục cùng ba thành viên còn lại tiến sâu vào biển cát. Đội thám hiểm vốn định quay về đường cũ, nhưng giờ đã mất phương hướng. Trong môi trường nóng rát khắc nghiệt này, thứ duy nhất có thể thu vào tầm mắt là những triền cát nhấp nhô, trải dài miên man, không thể phân biệt được đông tây nam bắc, khắp địa hình khô rang giống nhau như đúc, không hề có chuyến biến gì. Mọi người có cảm tưởng, dường như họ chỉ đi quanh quẩn rồi vòng về điểm xuất phát.

Kinh nghiệm thăm dò trắc họa của Thắng Hương Lân khá phong phú, vả lại cô còn sở hữu cảm giác phương hướng bẩm sinh bén nhạy hơn người bình thường, nhưng quy mô không động trong cực vực này đã làm đảo lộn mọi khái niệm địa lý. Thiết bị đo lường la bàn đa năng K62 cũng hoàn toàn mất tác dụng trong bóng tối, nêu không xác định được vị trí một cách chính xác, thì chỉ e có đi từ giờ đến già, rồi liên tiếp trải qua ba kiếp, cũng không thể tìm thấy mục tiêu.

Tư Mã Khôi cũng bó tay bất lực, hành quân trong biển cát mông mênh bát ngát dưới lòng đất, không tìm thấy bất kỳ vật tham chiếu nào, tuy có la bàn quân dụng chỉ đường, nhưng cũng không thể liên tục điều chỉnh phương hướng, muốn duy trì hướng đi theo đường thẳng còn khó, nói gì đến việc tìm một mục tiêu đặc biệt ở cách xa cả mấy cây số. Anh vừa đi vừa hoang mang, bỗng nhìn thấy dưới dòng cát lún lấp ló một mẩu xương hàm của cá voi, anh bèn dừng lại quan sát tỉ mỉ.

Hải ngọng giục giã: “Theo tớ thì cậu đúng là người có bản lĩnh gia truyền trứ danh đấy, ngay cả hạt cát cũng có thể phân biệt được hạt đực hạt cái, bây giờ không nắm bắt thời gian mau chóng xác định phương hướng đi, còn ngồi đó ngắm nghía cục xương cá voi đó làm gì?”        Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi bỗng nhiên nhớ đến việc tàu ngầm cá voi đều dùng bộ định vị sóng âm xô-na và từ trường để định vị. Cá voi ngày xưa khác với cá voi bây giờ, thể tích nó to lớn gấp nhiều lần, bởi thế mới gọi là cá voi cổ đại. Anh cũng từng nghe các bô lão kể chuyện ngư dân săn bắt cá voi. Mỗi dịp giao mùa xuân hạ, ngư dân bên bờ biển lại tụ tập ở miếu thần thắp hương cầu khấn, xin âm dương xem Long Vương có cho phép bắt cá voi hay không, một khi tiền cười, thì biết có con cá voi nào đó đã đắc tội với trời đất và trở thành mối họa của biển cả, người dân được phép săn bắt. Thế là mọi người bèn ném rất nhiều từ thạch, tức nam châm tự nhiên, xuống vùng biển gần đổ, rồi tụ tập nhiều tàu thuyền, tuyển chọn những ngư dân khỏe mạnh vạm vỡ, thông thạo sông nước và giỏi ném lao nhất, chuẩn bị những cây lao mũi nhọn hoắt buộc dây thừng dài, lên thuyền gỗ liễu, mau chóng ra khơi chờ đợi. Vì sao lại dùng thuyền làm bằng gỗ liễu? Thì ra mọi vật trên đời đều có thứ khắc chế, thứ cá voi cổ đại húy kỵ nhất chính là gỗ liễu già. Sau đó, họ lại cử những tay thợ săn lão luyện giỏi quan sát sự biến đổi của sắc biển, trèo lên đỉnh núi phóng tầm mắt ra xa, lúc nào thấy mặt biển ngoài khơi cách trên trăm dặm bỗng dưng nổi sóng lớn, sóng bạc đầu nhẹ nổi lên trên, mây đen bập bềnh phía dưới, thế nước ào ào, tiếng triều dâng ầm ì, là biết cá voi đang đến gần. Họ đốt lửa làm tín hiệu, thông báo cho các ngư dân trên thuyền gỗ liễu chuẩn bị hành động. Ngay sau đó, chỉ thấy miệng cá voi không ngừng phun bọt nước bay mịt mù, giương vây xuất hiện, trong phút chốc sóng dâng cao như núi, sầm sập như ngàn quân vạn mã, ầm ầm lao đến, nó phun mưa xối xả từ dưới biên lên không trung giữa ngày trời quang mây tạnh, khiến ngay cả người đứng trên bờ cũng bị ướt sũng quần áo. Lúc này mọi người trên thuyền đồng tâm hiệp lực, cùng ném lao vun vút, âm thanh vang dội khắp một vùng biển. Nhân lúc con cá voi hoảng hốt lặn xuống nước, các ngư dân lại tiếp tục phóng ra những mũi lao sắt sắc nhọn. Loại mâu xiên cá này không thể hạ sát nổi con thủy quái, mà chỉ làm nó bị thương. Con cá voi bị thương sau khi ngập trong nước mặn tất sẽ chết, lặp đi lặp lại nhiều lần, con cá voi chết sẽ nổi lên mặt biển, ngư dân bèn dùng móc câu thép và thuyền lớn kéo nó vào bờ.

Sau khi đưa vào bờ, thấy con cá voi quả thực to lớn chẳng khác nào trái núi, miệng rộng đến mười mấy mét, hàm dưới mọc cái râu dài như đuôi bò, bên ngoài là làn da mỏng, bên trong có xương sụn mềm. Các ngư dân dùng gỗ thông chống cái miệng đen ngòm như hang động của nó lên, lúc này bắt buộc phải lấy tỏi bịt lỗ mũi, nếu không sẽ ngạt thở vì mùi hôi thối bốc ra từ bên trong. Sau đó họ bắc thang, châm đèn nến chui vào bụng con cá từ cổ họng, cắt lấy dầu cao cá. Loại dầu cao này có thể chế tác ra thứ dầu thắp rất quý hiếm cho đèn trường minh

(1)

 , riêng phần đuôi cá voi có thể chiết xuất hàng trăm ngàn cân dầu cao, những phần xương thịt còn lại thì mọi người tùy ý chia nhau. Có một lần, người ta kéo vào bờ một con cá voi còn chưa tắt thở hẳn, khi bị dao xén thịt, nó đau quá không chịu nổi, liền quẫy mạnh đuôi trở mình, phút chốc đã đè bẹp chết mấy chục người một lúc.

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(1) Đèn trường minh: trường minh đăng, là loại đèn được thắp sáng liên tục, chủ yếu dùng cho việc thờ cúng.

Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà vẫn không hiểu vì sao Tư Mã Khôi đột nhiên lại kể câu chuyện không liên quan gì đến tình hình hiện tại. Chỉ có Thắng Hương Lân là hiểu ra chút manh mối: “Các ngư dân ném rất nhiều từ thạch chìm xuống lòng biển, là để dẫn dụ lũ cá voi từ ngoài đại dương bơi vào gần bờ. Các sinh vật cổ phần lớn đều có thể xác định vị trí chính xác nhờ vào từ trường của bản thân, đáng tiếc là con người chúng ta lại không có công cụ định vị tuyệt vời này.”

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> Tư Mã Khôi nói: “Bây giờ chúng ta cũng có thể mượn từ trường sinh vật để định vị mục tiêu. Cực vực dưới lòng đất sâu có từ hàng ngàn vạn năm trước, từng xuất hiện cá voi lai vãng, giờ đây đã biến thành biển cát cô tịch, vạn vật chết khô, dường như không còn bất kỳ dấu tích sinh mệnh nào mà tìm kiếm. Nhưng ở sâu trong lòng cát vẫn có một số loài sinh vật nằm ẩn mình như bọn thằn lằn giun, nhất là rắn trắng, trong ngũ hành thì màu trắng biểu tượng cho kim, trong đầu rắn phần lớn chứa viên từ, còn gọi là xà từ, có thể trợ giúp chúng ta trong việc định vị.”

Thắng Hương Lân nói: “Côn trùng, rắn rết trong sa mạc đều là loài kịch độc, làm cách nào để có thể bắt được chúng đây?”

Hải ngọng tự nhận mình thông thuộc ngón này: “Hồi ở vùng núi Miến Điện, không biết tôi đã lột da bao nhiêu con rắn, tay nghề này mà không sử dụng nữa thì phí quá. Các cậu cứ việc đứng sang một bên rồi chống mắt lên mà nhìn nhé!”

Lần này thì anh chàng không hề khoác lác. Nhớ năm xưa, Tư Mã Khôi và Hải ngọng theo đội du kích trốn vào núi sâu chẳng biết mấy tháng, khi đó trong đoàn có thành viên là dân bản địa Miến Điện, thường dẫn hai người cùng vào rừng bắt rắn.

Vào mỗi đêm trăng sáng, anh chàng Miến Điện đó lại dặn dò hai người: “Hãy nhớ kỹ, tất cả những gì nhìn thấy đều không được hốt hoảng, cũng không được lên tiếng”. Thế là anh ta đốt hương liệu dụ rắn ra khỏi hang, sau đó, dẫn hai người trốn sau gốc cây quan sát. Rắn trong rừng rậm nguyên sinh đúng là thiên biến vạn hóa, đếm không xiết có bao nhiêu điểm quái dị, có con vảy bạc lấp lánh, có con hai mắt sáng quắc như đèn pha, miệng phun phì phì độc khí ngũ sắc, rực rỡ như cầu vồng sau cơn mưa, có con thân mình đỏ au như vầng dương vừa nhú lên khỏi mặt biển, có con đầu lại giống hồ ly, con màu vàng, con màu trắng – hầu như màu nào cũng có, to nhỏ ngắn dài khác nhau, có con lại đeo mào ngật ngưỡng như mào gà, thân mình dẹt lét như cái thắt lưng, hoặc có con da trơn đen sì giống như cá chạch. Chúng muôn hình muôn vẻ kỳ quái, chủng loại nhiều vô số kể. Thế nhưng chỉ cần đến thời khắc nửa đêm, bất kể bắt được bao nhiêu rắn, anh chàng Miến Điện cũng lập tức dập tắt hương liệu, dẫn hội Tư Mã Khôi và Hải ngọng hấp tấp rời khỏi rừng. Nếu thắc mắc vì sao không ở lại lâu hơn chút nữa, để bắt thêm vài con, thì mặt anh ta thoắt nhiên biến sắc, lấy tay ra dấu nói với mọi người: “Nếu còn không mau rời khỏi đây, sẽ dụ xà vương ra ngoài hang đó.”          Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thủ đoạn bắt rắn của Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều học từ người Miến Điện bản địa này, có điều, tập tính của rắn sống trong rừng rậm và sống trong sa mạc không giống nhau, hiện tại cũng không có hương liệu, nên đành phải dùng báng súng liên tục thọc sâu xuống hố cát, tạo ra những cơn chấn động nhẹ, dụ bọn rắn đang ẩn mình trong khe cát sâu ra ngoài. Cách này quả nhiên rất hiệu nghiệm, chỉ thấy một con rắn trắng dài chừng nửa mét bò ngoăn ngoèo lại gần, trong chớp mắt khoảng cách giữa nó và Hải ngọng chỉ còn vài bước, nó đột nhiên phóng vút như tên bay, chuẩn bị đâm thẳng vào mặt đối thủ.

Hải ngọng nhìn rõ đây là loài rắn độc Viper miệng nhọn, răng nanh dựng đứng hoăn hoắt, người nào bị nó cắn phải, đi chưa đầy năm bước thì toàn thân đã tím đen mà chết, trăm người không cứu sống nổi một người. Nhân lúc con rắn vẫn chưa bật hẳn người lên, anh liền giậm mạnh chân một cái. Con rắn hoảng sợ vì chấn động đột ngột, bèn lủi sang bên cạnh. Hải ngọng nhìn thấy điểm sơ hở, bèn ra tay nhanh như điện, tóm lấy cổ nó, đồng thời giẫm chân vào đuôi nó, kéo thẳng đứng, thuận thế miết dọc sống lưng. Con rắn mềm nhũn trong tay anh, không giãy giụa phản kháng gì nữa.

Ba người đứng ngoài reo hò cổ vũ, rồi cùng xúm lại xem, viên xà từ trong đầu con rắn chỉ bé bằng hạt gạo, nhưng hướng đầu nó chỉ khi cuộn tròn, chắc chắn là hướng đất có giấu mạch sắt – đây cũng là bản tính trời sinh khiến nó tự nhiên hành động như vậy, nhờ đó mà cả đội có thể điều chỉnh phương hướng; chỉ cần lần dây mò quả là có thể tìm thấy mục tiêu ở cách đó mấy cây số.

Mọi người mò mẫm trong bóng tối tiến về phía trước. Tư Mã Khôi bỗng nhiên cảm thấy người Liên Xô sử dụng phương pháp viễn thám điện trường, liên tục tiến hành thám trắc đi thám trắc lại, nhưng phần lớn kết quả thu được khi thám trắc cực vực đều bị để trắng. Kỳ thực điều này cũng không có gì kỳ lạ, bởi vì bản thân cực vực chính là không động – nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất. Căn cứ theo lời của Thắng Hương Lân, thì phương pháp viễn thám điện trường lòng đất cần phải có môi trường tương ứng, nếu giữa địa tầng tồn tại đứt gãy, sẽ khiến điện trường bị hao kiệt quá mức, bởi vậy cơ bản không thể đo được bất cứ biểu đồ gì. Nhưng vì sao lại có mấy trang hiển thị kết quả biểu đồ thám trắc? Hai vật thể bằng sắt tồn tại dưới lòng đất phải chăng chỉ xuất hiện vào một thời điểm đặc biệt nào đó? Nếu đúng là vậy, thì phương hướng viên xà từ chỉ cũng chưa hẳn đã chuẩn xác.

Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Thời gian đặc biệt đó có lẽ là lúc 12 giờ 30 phút, khi ấy trong từ trường sẽ xuất hiện sương đen. Theo quan điểm của người Liên Xô, thì đây chính là tầng tro bụi màu đen còn tồn tại dưới lòng đất sau vụ nổ thiên thạch, bên trong khả năng chứa một lượng lớn sóng bức xạ điện từ, nó liên tục lặp lại theo chu kỳ cố định. Lúc sương đen xuất hiện cũng là lúc sóng điện phủ rộng khắp cực vực, bởi thế ở thời điểm đó, điện trường có thể lan truyền xuống đáy động và thu được các số liệu thám trắc, hiển thị trên biểu đồ phản hồi.

Tư Mã Khôi nhìn đồng hồ, còn bốn tiếng nữa mới đến 12 giờ 30 phút, vẫn đủ thời gian để tìm hai vật thể sắt thần bí, nhưng tìm thấy rồi thì sẽ làm gì? Ban đầu, anh nghĩ chỉ cần chạm tới bí mật trong lòng cực vực, là có thể tìm thấy lời giải cho mọi ẩn số bao quanh Nấm mồ xanh. Nhưng càng tiếp cận gần mục tiêu, thì anh càng cảm thấy khoảng cách tới chân tướng sự thật lại bị đẩy ra xa hơn, có trời mới biết vì sao dưới lòng đất lại có hai cục sắt lớn với thể tích ngang ngửa cỗ tàu ngầm của Liên Xô. Có thật nó sẽ cho anh đáp án cuối cùng về mọi bí mật chưa biết không?

Thắng Hương Lân cũng cảm thấy con đường phía trước thật mờ mịt, khó đoán, nhưng cô vẫn tin tưởng vào phán đoán của giáo sư Nông địa cầu, “yêu nhĩ Lâu Lan” chính là lời giải cho mọi ẩn số. Thân phận và lai lịch của Nấm mồ xanh, cùng mục đích thật sự của tổ chức ngầm này, cả long ấn triều Hạ như bản mật mã trong mật thất tòa thành Nhện Vàng, đội khảo sát liên hợp Liên Trung và con tàu ngầm Z-615 bị mất tích nữa, tất cả những ẩn số này đều liên quan đến cực vực trong kính viễn vọng Lopnor.

Mỗi người đều tự dự đoán các kết quả khác nhau, băng qua những triền cát nhấp nhô chằng chịt, cảm thấy địa hình dưới chân cũng dần dần nâng cao. Lúc này, trong biển cát xuất hiện một vật thể bằng sắt khổng lồ đầy thần bí. Nó im lìm lặng lẽ, sừng sững uy nghiêm, trong bóng tối mịt mùng không thể nhìn rõ hình dạng và kích thước thật của nó. Chứng kiến nó chỉ khiến người ta cảm thấy biển lớn thời gian đang dậy sóng triều dâng. Trải qua hàng tỷ năm, những vết tích cổ xưa còn lưu lại đến ngày nay, đã trở nên mờ nhạt. Đứng trước chân tướng sự thật, hội Tư Mã Khôi ngẩn người tròn mắt nhìn, không kiềm được đã khe khẽ thốt lên đầy kinh ngạc: “Thần linh thổ địa ơi! Cái này rốt cục là thứ gì vậy?”

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ bảy

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">NGƯỜI SẮT

Người Liên Xô dùng thiết bị thăm dò vật lý thám trắc, đã thấy hai vật thể bằng sắt nằm dưới lòng cực vực, hình dáng hao hao giống chiếc tai người, tựa hồ đang lặng lẽ lắng nghe những pháp dụ thần minh trong thế giới dưới lòng đất tĩnh lặng này.

Hai vật thể bằng sắt cổ xưa không rõ lai lịch đứng sừng sững trong biển cát sâu 16 ngàn mét như một kỳ tích. Giờ phút này, tuy mọi người đã tận tay chạm vào nó một cách xác thực, nhưng vẫn cảm thấy rất khó lý giải. Bất kỳ vật gì được nhìn dưới góc độ chủ quan đều mang tính trừu tượng, mà trừu tượng có nghĩa là không chân thực, đôi khi con người tận mắt nhìn thấy sự vật, nhưng chưa chắc đã lý giải được ý nghĩa của sự vật đó.

Mọi người đứng sững nhìn khối sắt cao hơn trăm mét một hồi lâu, người nào cũng thất sắc lặng tiếng. Vật thể khổng lồ lạnh lẽo, thô ráp kia, dường như hoàn toàn hòa quyện làm một với bóng tối, khí phách thâm trầm lấn át của nó khiến người ta hồn xiêu phách lạc. Trên bề mặt nó mang rất nhiều vết tích bị nước ăn mòn rõ nét, lớp vỏ ngoài gợn sóng trên bề mặt là tổ hợp của những lằn nứt sâu theo chiều dọc và hõm trũng theo chiều ngang, nhưng vẫn chưa bị han gỉ. Dường như mỗi dấu ấn thời gian mài mòn xâm thực trên nó, đều tồn tại một loại nhân tố thần bí khó lòng giải thích được, bề mặt lồi lõm lỗ chỗ của nó như ngầm ám thị sự trôi chảy của thời gian từ xa xưa của niên đại.

Nếu không tiếp xúc ở cự ly gần và chưa biết dưới lòng đất có đến hai vật thể bằng sắt với thể tích tương đồng, thì chắc hội Tư Mã Khôi đã nghĩ nó là cỗ tàu ngầm Z-615 bị mất tích của hải quân Liên Xô, nhưng khi đã đứng gần quan sát, mới phát hiện nó đúng là quá cổ xưa. Vả lại vật thể bằng sắt khổng lồ này không giống với bất kỳ sản phẩm nào của nền công nghiệp, cũng không phải bom hạt nhân mà Tư Mã Khôi đã dự đoán lúc trước. Nói một cách chính xác, nó đơn thuần chỉ là một khối sắt, có lẽ từ thời khắc nó xuất hiện dưới lòng cực vực đến tận bây giờ, nó vẫn tồn tại ở đó, không hề bị xê dịch, suy suyển.

Hải ngọng nhìn mà cứng lưỡi: “Nếu bảo cái này chính là tàu ngầm Z-615 lắp tên lửa ngầm, thì thể tích cũng hao hao đấy, nhưng sau khi mất tích, làm sao nó lại xuất hiện dưới hoang mạc Lopnor được nhỉ?”

Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Mắt mũi cậu kiểu gì thế hả? Cái này chắc chắn không phải tàu ngầm. Thứ nhất, nước trong cực vực đã cạn khô từ lâu, tàu ngầm không thể tự nhiên mọc ra ở đây được. Mà cậu đã bao giờ nhìn thấy con tàu ngầm nào bị mắc cạn chưa? Vả lại, vật này dường như đã cắm rễ dưới lòng đất rồi, không biết cát lún đã vùi lấp bao nhiêu phần bên dưới nữa, có lẽ từ xưa đến nay, nó chưa hề bị di dời sang chỗ khác.”

Thắng Hương Lân nói: “Chỉ có thiên thạch sắt mới không bị han gỉ, bởi vì nó là tạp chất hỗn hợp của hai nguyên tố sắt và đá, có lẽ đây chính là mảnh vụn còn sót lại sau khi thiên thạch phát nổ và hình thành không động.”

Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe Thắng Hương Lân nhắc đến việc này. Anh biết thiên thạch không phải từ trên trời rơi xuống, mà là mây băng bọc ở phần trong lớp vỏ Trái Đất khi trời đất được hình thành, mật độ cấu tạo chất rất lớn. Nó xuất hiện trong quá trình hình thành không động nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ, có vài phần tương tự với đại kiếp nạn của trời đất được mô tả trong sách địa lý cổ thời tiền Tần. Theo quan điểm cũ, cứ cách mấy vạn mấy vạn năm, trời đất lại luân hồi kiếp số. Đợi khi mệnh cùng số tận, cả thế giới phù phiếm, vạn vật mọi cõi, hai vầng nhật nguyệt, nhất hợp càn khôn đều bị nhào trộn lại thành một thể, còn sương đen xuất hiện trong lòng cực vực chính là thứ còn sót lại sau đại kiếp lần trước. Nhưng dù vắt óc nghĩ mãi, Tư Mã Khôi vẫn khó tưởng tượng được, rốt cục giữa thiên thạch dưới lòng đất và Nấm mồ xanh thì có gì liên quan đến nhau? Nó thậm chí còn không liên quan đến toàn bộ ẩn số mà anh muốn giải đáp.       Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ rồi hỏi mọi người: “Hay là có sức mạnh tiềm tàng nào đó ẩn giấu trong khối thiên thạch, mà loài người chưa thăm dò thấy nhỉ? Vì rốt cục khi đội khảo sát liên hợp Liên Trung tiếp xúc với nó vào năm 1958, toàn đội đã gặp nạn và mất tích. Tất cả hai mươi hai thành viên không ai sống sót trở về. Nhưng bây giờ xem thì thấy: ngoại trừ nó to lớn và cổ xưa, thì không có điểm gì dị thường, bản thân vật thể chỉ là khối thiên thạch sắt, có lẽ nó không biết ăn thịt người, trừ phi tự mình đập đầu vào nó, thì đúng là đập chỗ nào thủng liền chỗ đó. ”

Tư Mã Khôi càng ngẫm càng khó lý giải, anh bảo Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cùng suy nghĩ để đưa ra ý kiến của mình, mọi người tập trung suy nghĩ biết đâu lại tìm ra manh mối. Bắt đầu xuất phát từ nông trường khai hoang số 34 đến nay, cả chặng đường họ đã trải qua biết bao gian nan, nguy hiểm, hơn nữa, họ còn phải trả giá bằng tính mạng quý báu của các thành viên. Tất cả sự hi sinh ấy, không phải chỉ để tìm kiếm mỗi một khối thiên thạch sắt im lìm nằm kia.

Hải ngọng trợn mắt nhìn hồi lâu, cuối cùng cũng bất lực nói: “Từ khi tớ nghe ông bác giáo sư kể về quá trình khai quật xác ướp người phụ nữ ở Mã Vương Đôi, tớ thấy mình bị kích động cuồn cuộn, sâu thẳm tâm hồn bắt đầu nhen nhóm hạt mầm theo đuổi công tác khảo cổ. Nhưng mãi đến tận hôm nay, tớ mới phát hiện mình không có tố chất đấy. Hải ngọng tớ cho dù có mọc thêm ba cái đầu nữa thì cũng ngẫm không ra hai cục sắt to tổ bố kia, rốt cục dùng để làm gì.”

Đội trưởng Lưu Giang Hà càng không đi nhiều hiểu rộng bằng hội Tư Mã Khôi. Khi nhìn thấy hai khối sắt, ngoại trừ cảm giác chấn động mãnh liệt ra, thì anh chàng đã ôm đầy một bụng thắc mắc, nhưng thậm chí còn không biết bắt đầu hỏi từ đâu.

Bốn người bàn luận một hồi, cho rằng nếu chỉ dựa vào đèn quặng với phạm vi chiếu sáng chưa tới hai mươi mét, thì không thể thăm dò được toàn bộ quy mô khối thiên thạch. Mà phần lớn hình hài của nó còn bị chìm lấp trong bóng tối, hoặc giả ở nơi cao, biết đâu còn tồn tại thứ gì đó khác. Những vết nứt dọc ngang do bị nước biển xâm thực trên thiên thạch cực kỳ nhiều, mọi người chia thành nhiều ngả bò lên trên, xem xét tỉ mỉ mọi bí mật có khả năng ẩn chứa bên trong.

Tư Mã Khôi thân thủ nhanh nhẹn, anh bò lên đỉnh trước tiên, lờ mờ cảm nhận: tuy khối thiên thạch sắt được tạo hóa thiên nhiên đúc thành, nhưng nhìn hình dáng dường như có vết tích đục đẽo của con người. Khi lại gần phần đỉnh, cuối cùng anh đã phát hiện, thì ra đó là một người sắt khổng lồ. Hai hốc mắt của nó là hai hố rỗng đen ngòm, đủ rộng cho người chui lọt, bên trong tối om, trống trải, sâu hút không trông thấy đáy, cũng không biết điểm tận cùng của nó thông tới nơi nào.

Người sắt khổng lồ đứng sừng sững giữa biển chết, với hình thái còn cổ xưa hơn cả cổ xưa, và gương mặt vô cảm ngước nhìn những đổi thay dâu bể. Bởi vì nó trống rỗng nên càng hiện rõ đôi mắt sâu hun hút, cả ngàn vạn năm nay vẫn thủy chung dõi về cõi vĩnh hằng. Vạn vật trên đời theo dòng chảy thời gian đều không ngừng chuyển động, nhưng có lẽ chỉ duy một thứ bất biến chính là sự biến hóa của chính bản thân nó mà thôi.       Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Mọi người càng lục soát, cảm giác kinh ngạc càng trỗi dậy trong lòng. Ai có thể ngờ dưới lòng đất lại có thể đúc ra một người sắt khổng lồ dường này?

Tư Mã Khôi suy đoán: “Thiên thạch sắt có lẽ vẫn nằm nguyên vị trí cũ từ thời hằng cổ đến nay; tiền nhân sử dụng sáp chua để tiến hành ăn mòn và chia cắt, xem vết tích chí ít cũng phải trải qua hàng ngàn năm rồi.”

Lúc này, ba người còn lại cũng lục tục leo lên đến nơi, chỗ này tựa như đỉnh tháp cao, xuyên thủng tầng mây, gần chạm tới cõi hư không. Tuy trong bóng tối, mọi người không nhìn rõ dưới chân nông sâu thế nào, nhưng nghe tiếng dòng khí đổi lưu chuyển động ầm ù, cũng đủ khiến người ta phải rùng mình ớn lạnh.

Mọi người xách đèn quặng chiếu sáng không gian trong động, lòng động sâu hút khó lường, dường như phần bụng người sắt hoàn toàn trống rỗng, bên trong có thế cất chứa vật gì đó. Mọi người bất giác sinh nghi: “Hay dưới này nhốt yêu quái nhỉ?”

Hải ngọng xách súng thò nửa người xuống ngó, sau đó rụt cổ lại nói với mọi người: “Càng dưới sâu, không gian càng rộng, chẳng nhìn thấy đáy đâu cả.”

Tư Mã Khôi quyết định đon thương độc mã xuống dưới thăm dò. Anh thả đèn xuống trước, rồi đeo máy thở chống độc hình mang cá vào. Thắng Hương Lân chuyền cho anh khẩu súng lục K54 để phòng thân. Tư Mã Khôi cầm lấy súng, rồi cởi bỏ ba lô tụt xuống, chỉ thấy phần đáy là một động sâu hình cái nồi, không có lối ra, ngoại trừ bức tường thiên thạch lạnh lẽo, thì không còn thứ gì khác tồn tại bên trong. Nhưng vừa giơ đèn soi bốn bức tường, anh liền thất kinh, trong chớp mắt, anh cảm thấy mình dường như đang trở về căn mật thất giam giữ sóng điện u hồn dưới chân tòa thành Nhện Vàng, bởi vì chi chít khắp bốn bức tường, khắc toàn long ấn triều Hạ với những hình thù kỳ quái, không thể giải mã.

Tư Mã Khôi định thần nhìn một thoáng, thấy đèn quặng vẫn sáng trắng. Anh bèn giơ tay tháo mũ chụp phòng độc, vẫy gọi hội Hải ngọng cùng xuống dưới. Ba người còn lại xem những văn tự mật khắc đầy vách tường, ai nấy đều kinh ngạc không thốt nên lời.

Hội Tư Mã Khôi từng nghe giáo sư Nông địa cầu nói: văn tự cổ nhất trong lịch sử không phải chữ giáp cốt mà chính là long ấn triều Hạ. Nó xuất hiện trước thời Ân Thương, thời Tần Hán. Người ta gọi khu vực Miến Điện ngày nay là vương quốc Diệt Hỏa, và mô tả: “Diệt Hỏa thị tộc mắt như ngọn nến, động tác như rắn, xuất quỷ nhập thần, vượt hắc thủy, sống ở địa cùng, không quen hỏa tính”. Tòa cung điện ở địa cùng này còn cổ xưa hơn cả vương triều Chăm Pa, chủ nhân sớm nhất của nó chính là Diệt Hỏa quốc, cung điện nằm dưới địa cùng được các nhà khảo cổ Pháp lưu trú tại Ấn Độ đặt tên là: “Di vật kỷ Devon”. Nó từng bị nhấn chìm dưới lòng đất bởi lũ lớn; hàng ngàn năm sau, quốc vương Chăm Pa đã xây dựng nó thành tòa thành Nhện Vàng. Bởi thế, ngoại trừ những ký tự thần bí lưu lại trong gian mật thất ra thì Diệt Hỏa quốc không hề để lại bất cứ dấu tích gì cho hậu thế đời sau. Căn cứ vào long ấn triều Hạ chỉ có thể suy đoán: Diệt Hỏa quốc từng là một nhánh của nền văn minh Trung Nguyên.

Giờ đây, mọi người lại phát hiện, trên vách tường trong người sắt nằm giữa biển cát mênh mông dưới lòng đất sâu khắc đầy long ấn triều Hạ, chẳng lẽ nó chính là di chỉ của Diệt Hỏa quốc? Tư Mã Khôi phỏng đoán: “Đây chính là Tây Vực cổ rồi. Có lẽ đây là một thần sông thần biển nào đó mà chúng ta không biết cũng nên…”

Thắng Hương Lân nói: “Chắc không đơn giản thế đâu. Những ghi chép về Diệt Hỏa quốc còn sót lại vô cùng ít ỏi, người sắt dưới cực vực lại càng không ai biết đến, chúng ta chỉ căn cứ vào những manh mối hiện có để đưa ra giả thiết mà thôi. Nền văn minh cổ đại long ấn triều Hạ đã biến mất từ lâu, từng là một mạch phân nhánh, trải qua sự dịch chuyển hàng trăm ngàn năm, cuối cùng phân bố ở Tây Vực và Miến Điện, dường như họ phải lẩn trốn thứ gì đó nên mới cư ngụ dưới lòng đất.”

Tư Mã Khôi phán đoán: “Không chừng chẳng phải lẩn trốn thứ gì, mà khả năng là để bảo vệ một bí mật cổ xưa nào đó, vì không muốn tiết lộ với người đời. Nghe nói, trong mật thất dưới thành cổ Chăm Pa có ẩn giấu một bí mật có liên quan đến thông đạo. Có lẽ tổ chức ngầm Nấm mồ xanh muốn tìm con đường này, bởi vì giáo sư Nông địa cầu từng tiết lộ: Nấm mồ xanh là một khu vực ẩn số nằm gần tâm Trái Đất, nó còn sâu hơn cực vực nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ này nhiều, từ trước đến nay chưa có ai đặt chân đến. Điều chúng ta cần biết bây giờ là: con đường đó nằm ở đâu? Nơi tận cùng của nó tồn tại thứ gì? Nắm được những manh mối đó, chúng ta sẽ không khó xác minh bối cảnh và động cơ của tổ chức Nấm mồ xanh. Có điều, long ấn triều Hạ bị thất truyền hàng ngàn năm, dường như là một cơn ác mộng không thể vượt qua. Giờ đây, ngoại trừ kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh, thì trên thế giới không còn người thứ hai giải mã được bí mật ẩn chứa bên trong.”        Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng bảo Tư Mã Khôi: “Cứ theo phân tích của cậu thì đúng là tà mị quá mất! Nếu người sắt tồn tại trong biển cát dưới lòng đất hoàn toàn không có chút ý nghĩa nào đối với đội khảo cổ chúng ta, thì hà cớ gì gã Điền Khắc Cường phải bất chấp mọi giá để ngăn cản hành động thăm dò kính Lopnor, chẳng lẽ gã ăn no rửng mỡ, nhàn cư vi bất thiện chắc?”

Đương nhiên Tư Mã Khôi cũng từng nghĩ đến điểm này, nhưng khối thiên thạch sắt sừng sững đứng giữa biển cát im lìm kia, ngoại trừ để lại những ký tự thần bí giống như câu đố trên vách tường, thì dường như không hề chứa đựng bất kỳ bí mật nào đáng nói cả.

Lúc này, Thắng Hương Lân dường như đột nhiên phát hiện thấy điều gì. Cô nhanh chóng leo lên cửa động, nhìn chằm chằm vào bóng tối mênh mông, thăm thẳm bên ngoài.

Hội Tư Mã Khôi cũng chạy ra theo, nhưng chỉ thấy bốn phía tối thui, thực không biết có gì đáng nhìn, bèn hỏi Thắng Hương Lân: “Cô đang nhìn gì vậy?”

Thắng Hương Lân nói: “Nơi này trước đây từng là vực sâu giống như hắc động, có sóng nước vỗ bờ dữ dội, ngay cả bầy cá voi cũng dễ bị lạc, không tìm thấy đường về; còn khối thiên thạch thò lên mặt biển kia, đứng sừng sững tựa ngọn hải đăng, hàng ngàn vạn năm nay, nó vẫn cứ đứng yên bất động như thế, có lẽ nó chính là cột mốc mà cổ nhân dùng để làm hoa tiêu cho thuyền xác định phương hướng dưới lòng đất”.

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ tám

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">KALABULAN

Tư Mã Khôi ngẩn người trong chốc lát, rồi chợt hiểu ra: “Người sắt tồn tại giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất, đứng sừng sững ở đây không biết mấy vạn tỉ năm. Nếu nói: ‘thời gian trôi nhanh, như bóng câu

(1)

 lướt qua cửa sổ’ thì cũng không đủ hình dung cho sự trôi chảy của thời gian ở đây. Nó là tọa độ cố định của tạo hóa, đúng là vừa có thể dùng để giúp tàu thuyền định vị phương hướng dưới vực sâu u tối này.”

<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[1] Bóng câu: có thể hiểu là bóng của con ngựa. Ví thời gian trôi đi nhanh như ngựa phi.

Hải ngọng bội phần thán phục nói với Thắng Hương Lân: “Hình như đúng là thế thật, có điều ngay cả chuyên gia khảo cổ lỗi lạc như tôi đây mà còn không nhìn ra đầu cua tai nheo gì cả, làm sao cô lại phát hiện được nhỉ?” Thắng Hương Lân nói: “Từ hơn hai ngàn năm trước, liên quân Hy Lạp viễn chinh Ba Tư từng xây một ngọn hải đăng khổng lồ màu trắng bên bờ sông Nin. Tôi thấy tượng người sắt này từ xưa đã đứng sừng sững trong nước to sóng dữ, rất giống với ngọn hải đăng. Ngoại trừ điều đó ra, nó còn có thể có tác dụng gì được nữa chứ? Bởi vậy tôi mới suy đoán đây là hoa tiêu cổ, mà cổ nhân hàng ngàn năm trước đã để lại dưới lòng đất.”

Tư Mã Khôi nói: “Nếu người sắt quả thật là tọa độ định hướng đường biển, thì cực vực dưới lòng đất không biết còn sâu bao nhiêu nữa. Pin và lương thực chúng ta mang theo chỉ có hạn, bắt đầu từ bây giờ phải dùng tiết kiệm hơn mới được, ngoài ra còn phải suy xét cẩn thận kế hoạch hành động cho các bước tiếp theo.”

Mọi người lập tức chụm đầu thảo luận: thiên thạch sắt chìm lún hàng vạn mét dưới lòng đất, rất có khả năng có công dụng làm hoa tiêu; trong lòng nó còn tồn tại những ký hiệu cổ xưa không thể giải mã; những ký tự đó có thể xác định thuộc về long ấn triều Hạ. Nhưng con đường dẫn xuống vực sâu này rốt cục có khoảng cách bao xa? Cột mốc tiếp theo liệu có phải một mảnh vụn nữa của thiên thạch sắt hay không? Tất cả những điều đó đều không có cách nào biết được. Trước mắt, chỉ có thể suy đoán nơi sâu nhất dưới cực vực ẩn giấu cội gốc của Diệt Hỏa quốc, nếu lần theo phương hướng của tọa độ chỉ hướng tiến sâu vào biển cát, sẽ đến được khu vực chưa biết đó. Nơi ấy mới thực sự là chìa khóa then chốt, giải đáp mọi ẩn số vùi chôn bấy lâu.

Hội Tư Mã Khôi đều mắc hội chứng địa áp, lại bị cách ly tuyệt đối với thế giới bên ngoài, hoàn cảnh cô lập không ai chi viện, mà khoang giảm áp trong trạm thám trắc trung tâm lại chưa thể phục hồi. Nên bây giờ có trở lại mặt đất, họ cũng chắc chắn không thoát khỏi lưỡi hái tử thần, huống hồ lúc này vẫn chưa giải quyết triệt để mối họa lớn trong lòng là Nấm mồ xanh, chỉ e sau này mãi mãi không thể sống những ngày yên ổn. Giờ đây, chỉ có một cách duy nhất là quên đi nguy hiểm và tiếp tục hành động mà thôi. Tư Mã Khôi phân tích tình hình xong, bèn nói với ba người còn lại: “Xem ra cục diện chúng ta đang phải đối mặt hiện nay cực kỳ bất lợi, dường như bất kể thế nào cũng không thoát khỏi tiếng gọi của thần chết, trừ khi các cậu coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, khẳng khái tiến lên phía trước.”

Mọi người không có ý kiến gì, tất cả đều quyết tâm cao độ, sẵn sàng đi đến tận cùng, cùng lắm thì cách mạng triệt để chứ mấy, chết ở đâu mà chẳng là chết.   Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thắng Hương Lân nhắc Tư Mã Khôi: “Đội khảo sát liên hợp Liên Trung thâm nhập cực vực năm 1958, chắc cũng ở dưới này, nhưng suốt dọc đường chúng ta không hề phát hiện thấy tung tích của họ; đợi chút nữa phải tiến hành lục soát lòng tượng người sắt còn lại, đồng thời còn phải nghĩ cách xác định xem người xưa rốt cục đã dùng cách gì để định hướng đường. Bởi vì ngọn hải đăng mà người Hy Lạp cổ xây dựng, sử dụng rất nhiều dầu cá voi để thắp sáng bên trong. Dầu cá voi tương đương với cao của con ly, chỉ cần bén lửa là có thể thắp sáng suốt ngày đêm không nghỉ. Sau đó họ lại lắp thêm cái gương đồng để phản chiếu ánh sáng, nên cho dù giữa đêm khuya trăng khuất sao mờ, thì ánh sáng chói lòa của nó vẫn có thể khiến không gian xung quanh sáng bừng như giữa ban ngày. Nó có khả năng giúp tàu thuyền ở cách xa khoảng 65 ngàn mét xác định phương hướng

Trong khi đó, người sắt khổng lồ trong biển cát tuy rằng hai hốc mắt trống rỗng, nhưng bên trong lại không hề có vết tích của dầu hỏa.

Tư Mã Khôi nói: “Theo tôi biết, nếu không dùng ánh lửa chiếu sáng, thì vẫn còn hai cách khác, thứ nhất là sử dụng thạch quặng tự phát sáng, thứ hai là lợi dụng kim từ. Ánh sáng dường như không đáng tin cậy lắm trong vực sâu như hắc động này, bởi vậy tôi cho rằng khả năng thứ hai có vẻ phù hợp hơn. Chúng ta có thể nhờ viên xà từ chỉ hướng, để xác định vị trí và góc độ”.

Thắng Hương Lân nói: “Nhưng không có bản đồ đường biển, căn bản không rõ các tọa độ dẫn đường khác ở chỗ nào…”, cô trầm tư suy ngẫm giây lát, bỗng nhiên hiểu ra: “Phương hướng mà nó vĩnh viễn hướng về, khả năng chính là vị trí còn lại của điểm tọa độ. Hai người sắt trong lòng đất đứng sóng đôi, có lẽ lần lượt chỉ về hai cực khác nhau.”

Tư Mã Khôi gật đầu: “Hướng mà đầu rắn chỉ là nơi có mạch sắt. Sau khi chúng ta xác định được phương hướng đại thể, trước hết phải đi ngược hướng đầu rắn chỉ, đợi sau khi vượt qua điểm giữa hai cực, xà từ tự nhiên sẽ chuyển hướng. Đến lúc đó, ta chỉ cần thuận theo hướng đầu rắn chỉ mà tiếp tục tiến về phía trước, thì sẽ đến điểm tọa độ dẫn đường tiếp theo. Nếu phương pháp suy đoán này không có gì sai sót, thì thật khó tưởng tượng người cổ đại hàng ngàn năm trước, làm sao mò mẫm ra được cách này. Xem ra góc độ không gian và định vị dưới lòng đất, đúng là chuẩn xác đến mức không ngờ”.

Tuy tọa độ dẫn đường trong biển cát mênh mông chia thành hai cực đông tây, nhưng căn cứ vào biểu đồ phản hồi từ phương pháp viễn thám điện trường của Liên Xô, thì cực đông nam của không động nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ mới là bộ phận chủ yếu, nó sâu hút khó lường. Mọi người quyết định mạo hiểm đánh canh bạc số phận, tiếp tục đi về hướng này.

Tư Mã Khôi nhìn đồng hồ, nửa tiếng nữa là đến 12 giờ 30 phút, nếu đúng như dự đoán, thì chỉ chút nữa thôi dưới lòng đất sẽ xuất hiện sương đen, thế mà bây giờ vẫn còn chưa biết điểm tọa độ dẫn đường tiếp theo gần xa thế nào, nếu liều lĩnh xông vào e sẽ gặp phải điều bất trắc. Tương truyền, thiên thạch có chứa loại vật chất đặc biệt, có thể chống sấm sét, chi bằng chúng ta cứ ở đây nghỉ ngơi vài tiếng, đợi qua nạn sương đen sẽ tiếp tục suy xét xem bước tiếp theo nên hành động thế nào.

Suốt dọc đường, mọi người liên tục chạy thục mạng, giờ đây vừa mệt lại vừa đói, nên lấy lương khô ra chia cho nhau ăn. Chẳng bao lâu bên tai họ đã nghe tiếng sấm xa ì ùng vọng tới, thoáng chốc gió dữ bắt đầu vần vũ, cột sương bụi tựa làn khói đen cuồn cuộn cuốn theo luồng gió, cường phong và tro bụi mật độ dày đặc hòa quyện vào nhau, bao trùm bủa vây khắp không gian, giống như màn sương buông, vách ngoài của thiên thạch sắt không ngừng phát ra những âm thanh cọ sát sàn sạt.

Tư Mã Khôi lúc đầu còn lo bên trên động trống toang hoác, sương đen sẽ bay ùa vào trong, nhưng quan sát một hồi anh thấy tình hình rất lạ, và càng tin chắc rằng: khối thiên thạch sắt cổ xưa đứng sừng sững trong biển cát, ngoại trừ có thể dùng để dẫn đường cho tàu thuyền ra thì còn là nơi ẩn trú cho con người trốn tránh vật chất hắc ám. Còn tro bụi tàn lưu sau đại kiếp giữa thiên địa, rốt cục là thứ gì, thì đến giờ vẫn hoàn toàn nằm ngoài phạm vi nhận thức của anh.

Tư Mã Khôi lại phát hiện từ sau khi sương đen xuất hiện, kim đồng hồ không hề dừng lại ở thời điểm 12 giờ 30 phút, anh bất giác thở phào một cái, bởi vì chiếc Ilyushin-12 bay qua bầu trời sa mạc Kumtag vào năm 1963 cũng xảy ra sự cố vào đúng thời gian này. Cuối cùng anh cũng yên tâm bảo ba người còn lại dành thời gian chợp mắt một lát.

Đội trưởng Lưu Giang Hà luôn cảm thấy căng thẳng bất an trong không gian quá khép kín. Đám sương đen xuất hiện dưới lòng đất làm anh chàng lại nhớ đến kalabulan đáng sợ nhất trong sa mạc. Đầu anh chàng túa đầm đìa mồ hôi lạnh, thì làm sao mà chợp mắt nổi, anh chàng tự nguyện thay Tư Mã Khôi gác ca đầu tiên.    Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng thắc mắc hỏi dò: “Kalabulan là cái gì vậy?”, Thắng Hương Lân giải thích: đó chính là thời khắc sau khi cơn bão đi qua. Anh vẫn cảm thấy vẫn rất khó hiểu: “Bão ở đây làm sao ghê gớm bằng bão nhiệt đới ở Miến Điện, nhưng thứ mà đội du kích Cộng sản Miến Điện bọn tôi sợ nhất không phải lốc tố mà là muỗi. Trước đây ở Quảng Đông có một câu ngạn ngữ thế này: “muỗi Quảng Châu, nhặng Huệ Châu”. Nhưng gộp cả hai thứ đó lại, vẫn không nhiều bằng muỗi trong rừng rậm Miến Điến. Vùng núi Bắc Miến có những loại cây, gốc to thù lù như những u thai, nếu không để ý mà giẫm phải, làm nó nát toét ra, thì bên trong toàn bọn bọ gậy, gặp gió một cái là mọc cánh biến thành muỗi, ngửi thấy hơi người là lập tức bám riết lấy đốt cho bằng được. Những kẻ lỡ sa chân vào tình cảnh đó, khó mà giữ nổi mạng sống.”

Thắng Hương Lân nghe Hải ngọng kể lại những cảnh ngộ giật gân như vậy, bèn nhớ lại lúc bắt rắn trắng trong biển cát, Tư Mã Khôi và Hải ngọng tự nhận mình từng được học bản lĩnh bắt rắn lão luyện, cô bèn hỏi Tư Mã Khôi: “Trong rừng rậm Miến Điện thật ra có xà vương không vậy?”

Tư Mã Khôi nói: “Chuyện này tôi vốn cũng định hỏi, nhưng sư phụ truyền thụ kỹ nghệ bắt rắn cho tôi không may tử nạn đột ngột quá, vì thế nên đến bây giờ tôi vẫn không biết đáp án. Lúc đó, quân Cộng sản Miến Điện vừa mới bị tan rã, chúng tôi phải tản đi khắp nơi, chạy đến tận lãnh thổ Campuchia. Khi ấy tôi, Hải ngọng và cả cao thủ bắt rắn trong đội du kích kia nữa, nhìn thấy phía tây có khu rừng rậm bí ẩn, bèn chui vào bắt rắn, định lấy xương rắn chế thành thuốc trị thương. Sau khi vào núi, bọn tôi vẫn như mọi lần nằm rạp trên cây nghe ngóng động tĩnh, chẳng ngờ khi còn chưa kịp đợi bọn rắn đến, thì từ trên trời tự dưng xuất hiện một thằng cha. Tôi chỉ nghe thấy ầm một tiếng thật lớn, cảm giác sắp có chuyện xảy ra, nhưng vẫn chưa kịp phân biệt đó là âm thanh gì thì trên trời hiện ra một chiếc máy bay chiến đấu F4 cánh gấp hình thù quái dị của bọn Mỹ. Nó bay thấp đến mức không thể thấp hơn được nữa, dường như chà cả vào cành lá cây rừng, phát ra làn sóng âm đinh tai nhức óc; ai chưa từng trải qua thì vĩnh viễn không thể hình dung nổi âm thanh đó đáng sợ đến mức nào, ngay cả chim rừng cũng sợ đến mức ngã bổ nhào từ trên cây xuống. Đáng tiếc, ông anh Miến Điện giỏi bắt rẳn cũng chưa kịp chuẩn bị tinh thần để đối mặt với tình hình này, nên khi đang ngồi trốn trên cây giật minh lộn cổ xuống từ độ cao mười mấy mét, đầu bị đập nát bét như tương, chẳng đợi để bọn tôi cứu chữa gì đã rũ áo về với đất mẹ.”

Hải ngọng nhớ lại chuyện cũ, cũng bất giác hít hà cảm thán: “Lúc đó không có bản đồ cũng không có người dẫn đường, ai biết đội du kích lại đào tẩu đến tận đường mòn Hồ Chí Minh, nếu còn tiếp tục chạy về hướng tây có khi vào cả lãnh thổ Việt Nam cũng nên. Suốt dải đó toàn là khu vực trọng điểm ném bom của không quân Mỹ.” Mọi người nói chuyện một hồi, thì lần lượt đi nghỉ, để một mình đội trưởng Lưu Giang Hà gác trực. Không hiểu sao mấy ngày nay, hễ nhắm mắt môt cái là Tư Mã Khôi lại thấy hình ảnh những đồng đội đã chết chập chờn hiện về trước mặt. Anh nằm chưa được bao lâu, đã bị đội trưởng Lưu Giang Hà lay dậy, thấy Thắng Hương Lân cũng ngồi dậy từ bao giờ, chỉ mỗi Hải ngọng là vẫn đang ngủ say tít, anh đang định hỏi hai người: “Tôi lại nói mơ gì à?” – thì thấy Thắng Hương Lân nhỏ giọng nói trước: “Có động!” – Nói xong cô đưa tay chỉ lên cửa động trên cao. Đội trưởng Lưu Giang Hà đứng bên cũng căng thẳng nắm chặt súng, hai mắt nhìn chằm chằm về hướng tiếng động phát ra trong bóng tối.

Tư Mã Khôi nghiêng tai nghe ngóng, xác định đúng là có sinh vật đang chầm chậm trườn bò, còn không ngừng phát ra tiếng thở nặng nhọc. Hiềm nỗi đèn các bua không chiếu sáng tới được cửa động, anh bèn hất mũi chân nhẹ nhàng đánh thức Hải ngọng, lấy tay ra dấu bảo cậu ta không được lên tiếng, đoạn ra hiệu nhắc mọi người sẵn sàng chuẩn bị vũ khí, nhưng không được manh động. Sau đó, anh lập tức bám vào vách tường sắt mò mẫm theo làn hơi thở phát ra. Tư Mã Khôi mau chóng rờ thấy cửa động, tuy không có ánh sáng, nhưng anh vẫn cảm nhận thấy sinh vật đó đang bò vào từ màn sương đen, dường như đó là con người.     Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi cũng là tay cứng vía, anh thầm nghĩ: “Để ông xem rốt cục mày là đứa nào”. Anh nhẹ nhàng bám sát mặt tường, im lặng bất động, đợi khi nửa thân trước kẻ đó thò vào trong, thì thình lình tóm chặt lấy tay trái đối phương và quật mạnh xuống đất, chẳng ngờ đôi bên vừa trông thấy nhau đã đồng thời thất kinh.

Tư Mã Khôi hoảng hồn vì bàn tay trái của kẻ mới đến có những sáu ngón, còn đối phương khiếp sợ vì quá bất ngờ, hắn lạc giọng hỏi: “Các lão gia đây rốt cục là người hay ma thế?”

Tư Mã Khôi lạnh lùng cười đáp: “Bố mày đêm hôm trước đi qua nghĩa địa, dọa bọn ma sợ vãi đái lăn ra chết cả lũ đấy”.

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ chín

<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">CHẾT ĐI SỐNG LẠI

Kẻ mới đến nghe mà vãi linh hồn, vội vàng định tháo lui ra ngoài cửa động, ngặt nỗi lại bị Tư Mã Khôi bóp cứng mạch, muốn giãy giụa thế nào cũng không thoát ra nổi.

Lúc đó sương đen giăng mù mịt, Tư Mã Khôi căn bản không nhìn rõ hình hài tướng mạo của hắn, chỉ phát hiện ra bàn tay trái đối phương có tới sáu ngón, cộng với giọng nói mang khẩu âm Quan Đông, mà ngay cả ngữ điệu cũng vô cùng quen tai; anh bèn lôi mạnh hắn đến trước mặt, rồi tóm cổ áo quẳng xuống sàn động.

Kẻ đó bị ngã đánh rầm trên nền sắt, gân cốt khắp người như muốn đứt lìa, hắn ta đau quá rên hừ hừ: “Ối trời ơi…các vị định lấy cái mạng già này của mỗ đấy à?”

Hải ngọng lên trước giẫm chân lên người hắn, xách đèn quặng soi kỹ dung mạo. Anh cũng không kiềm chế được cảm giác kinh hãi dâng trào, người này trên đầu đội một cái mũ rách tám vạt, thân mình khoác chiếc áo lông liền da cũ kỹ, thắt lưng cài cái tẩu thuốc, trên cổ đeo chuỗi bánh đả cẩu, rõ ràng chính là Triệu Lão Biệt đã chết từ nhiều năm trước.

Tính cả bận này, Tư Mã Khôi và Hải ngọng gặp Triệu Lão Biệt tất thảy ba lần. Lần đầu là cùng lão đi biệt bảo ở vùng ngoại ô huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, vào một đêm mùa hạ trong nghĩa địa La Sư, Triệu Lão Biệt muốn đào viên Lôi Công Mặc dưới hố huyệt nên bị âm hỏa thiêu cháy nửa gương mặt, rồi ngã xuống hố vỡ nội tạng. Trước lúc lâm chung, lão còn chỉ viên Lôi Công Mặc và di chúc lại hai câu: <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">“Núi đá vàng sinh ra bò vàng, đại kiếp đến ta cưỡi mây ngàn”, sau đó thì nhắm mắt xuôi tay rảo bước xuống hoàng tuyền, thi thể được Tư Mã Khôi tận tay chôn cất trong khu nghĩa địa hoang vụ dưới chân cầu.

Lần thứ hai gặp lão trên đường đi tìm kính viễn vọng Lopnor cách đây không lâu, đội khảo cổ phát hiện thấy một thi thể bị phong hóa ngay trước cửa Hắc Môn, nhìn các đặc điểm thì khá giống Triệu Lão Biệt. Tư Mã Khôi còn phát hiện trong lòng thi thể ôm một cuốn cổ tịch biệt bảo kỳ quái, bên trong không ngờ lại xuất hiện hai câu ám ngữ mà anh từng nghe trước lúc lão qua đời. Anh nhận định cái xác khô chính là Triệu Lâo Biệt, còn kẻ mà các anh gặp ở nghĩa địa La Sư năm đó khả năng là ma nhập tràng, thế là anh bèn phỏng hỏa thiêu rụi thi thể lão. Nhưng đến bây giờ, Tư Mã Khôi vẫn chưa nghĩ ra Triệu Lão Biệt rốt cục muốn ám thị điều gì với mình thông qua cuốn cổ tịch biệt bảo? Các bức hình minh họa với nội dung ly kỳ quái dị, dường như ngầm mách bảo những mối nguy hiểm đang rình rập ngay bên mình, có điều nó quá mập mờ, nên trước khi sự việc xảy ra không ai lãnh hội được ý nghĩa của nó. Nếu như cuốn sách đó không dùng để giải mã trước khi sự việc phát sinh, thì nó còn bao hàm ý nghĩa gì khác nữa?

Lần thứ ba thì càng tà mị hơn, Triệu Lão Biệt đột ngột bò vào động từ trong đám sương đen. Vậy “người” trước mắt rốt cục có phải ác ma trốn khỏi thành Hàm Oan không? Hay là một loài quái vật nào khác? Tư Mã Khôi biết trên đời có đạo thuật ngũ hành, nhưng những pháp thuật đó chẳng qua chỉ là loại dời non chuyển bề mà thôi, còn dưới vòm trời này làm gì có cơ thể nào trường sinh bất diệt?

Thắng Hương Lân và đội trưởng Lưu Giang Hà nghe nói người này chính là Triệu Lão Biệt cũng vô cùng kinh ngạc. Trên đường đi, họ đã gặp cỗ thi thể đáng lẽ không thể tồn tại ở đó, cũng đủ làm họ cảm thấy kinh dị lắm rồi, giờ đây người chết – mà ngay cả xương cốt cũng hóa thành tro bụi, thì làm sao lại lần nữa xuất hiện trong màn sương đen dưới lòng đất?

Hội Tư Mã Khôi vây quanh Triệu Lão Biệt, nhìn lão chằm chằm một hồi lâu dưới ánh sáng trắng cửa đèn quặng, trong không gian mù mờ cũng không rõ đối phương rốt cục là người hay ma.

Triệu Lão Biệt bị mọi người nhìn phát sởn gai ốc, lão nhăn nhúm mặt cố vắt ra một nụ cười cầu hòa: “Chư vị hảo hán, chúng ta trước đây không oán, bây giờ không thù, nên mong các vị giơ cao đánh khẽ cho…”

Hải ngọng giận dữ quát: “Đừng giả bộ với ông mày! Đợi chút nữa sẽ cho mi hiện nguyên hình ngay thôi. Anh chắc mẩm Triệu Lão Biệt chính là con chồn vàng trong huyệt mộ biến thành, bèn bàn với Tư Mã Khôi xem có cần dùng hình với nó không. Đội du kích Miến Điện có một phương pháp cổ truyền đề giày vò tù binh, thường gọi là “xoa lòng bàn chân”. Phương pháp đó đầu tiên phải để lưng tù binh dựa vào một cọc gỗ nằm trên mặt đất, hai cẳng chân duỗi thẳng xếp đều, trói chặt khít từ đầu đến chân, sau dó dùng một viên than đá bề mặt thô ráp dùng hết sức chà đi chà lại phần gót chân, da thịt trong phút chốc bị mài sạch trơn, tiếp tục chà sẽ chạm đến tận xương, mài đi mài lại sẽ phát ra âm thanh nghe ken két rất chói tai, khắp mặt đất vương vãi toàn máu thịt rất thê thảm. Loại cực hình này ngay cả đến Kim Cương La Hán cũng không thể chịu đựng nổi, nhưng cũng không đến nỗi khiến người ta đau đớn phải ngất đi, mà chỉ đủ để họ gào thét thảm thiết như lợn bị chọc tiết. Đến tận bây giờ, anh vẫn chưa thấy ai có thể vượt qua được loại cực hình ấy

Chi bằng cứ áp dụng biện pháp đó để xử lý Triệu Lão Biệt, cái này gọi là không thấy quan tài không nhỏ lệ — cứ để lão nếm tí mùi xem thế nào.

Triệu Lão Biệt nghe xong, hồn vía phút chốc lên mây, lão cuống quýt van nài: “Thế này sao gọi là giả bộ giả dạng được chứ? Con người mỗ đây, tốt cũng chỉ vì thành thật, mà rủi cũng chỉ vì hai chữ thành thật mà thôi, cho dù lão gia có muốn mỗ giấu giếm, mỗ cũng không dám giấu.”

Tư Mã Khôi lại cảm thấy: giờ đây chưa thể định rõ lão là phe ta hay phe địch, nên vẫn phải duy trì công tâm, bèn ngăn Hải ngọng lại. Anh hỏi Triệu Lão Biệt: “Tôi thấy lão có chút quen mắt đấy!”

Triệu Lão Biệt thấy tình thế có vẻ hòa hoãn, vội vàng cười cầu hòa: “Thế thì tốt quá, chứng tỏ kiếp trước chúng ta từng có duyên phận với nhau…”

Tư Mã Khôi trừng mắt nhìn lão nói: “Mình lão mặc áo khoác anh hùng như ý, chân lão rào bước tiêu dao hoạt bát.”

Triệu Lão Biệt nghe xong thì mặt đột nhiên biến sắc: “Lão gia có biết núi cao bao nhiêu, biển sâu bao nhiêu, đầu đuôi khi nào mở miệng không?”

Tư Mã Khôi đáp: “Núi cao hơn trời, biển sâu hơn đất, đầu hướng về đông, đuôi ngoảnh về tây, giờ sửu mở miệng, bầy chim đồng thanh hót” – đoạn anh hỏi lại đối phương: “Lão vượt qua bao nhiêu vịnh? Băng qua bao nhiêu bãi?”

Triệu Lão Biệt lập cà lập cập trả lời: “Bát Hạ không thấy vịnh, qua vịnh này lại đến vịnh khác, sông rộng không có bãi, chuyển bãi này lại sang bãi khác”.

Hội Hải ngọng căn bản không hiểu thuật ngữ trong đáy biển giang hồ, nên không thể chen ngang được câu nào, nhưng Triệu Lão Biệt trong lòng tự biết lợi hại, nên không dám giấu giếm Tư Mã Khôi điều gì, bèn khai tuốt tuột: “Mỗ đây đúng là làm nghề biệt bảo, cả đời không tham vàng cũng không tham bạc, các lão gia hà tất phải moi cả gan ruột mỗ ra làm gì?”

Tư Mã Khôi càng thấy người này lai lịch khuất tất, bèn nói với Triệu Lão Biệt: “Tôi chỉ muốn thăm dò lão mấy chuyện, chứ cũng không cần quật cả tám đời tổ tông nhà lão lên làm gì, có điều lão phải nói trung thực rõ ràng, sau đó chúng ta đường ai nấy đi. Đương nhiên, nếu lão nói không rõ thì cũng chẳng sao, chỉ cần lão để cái thủ cấp lại là được”. Triệu Lão Biệt cau mày nhăn nhó nói: “Người trong nghề bọn ta thà mất mạng cũng không thể để lộ ngón nghề. Các lão gia đừng bức mỗ phải hủy hoại gia phong mà tổ tông sư phụ để lại.”

Tư Mã Khôi nói: “Tôi thiết gì mấy chiêu gia truyền biệt bảo nhà lão, tôi chỉ muốn hỏi hai câu: <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">“Núi đá vàng sinh ra bò vàng, đại kiếp đến ta cưỡi mây ngàn” rốt cục giải thích thế nào?”

Triệu Lão Biệt nghe xong thì thần sắc kinh hãi dị thường, đây chính là một trong những bí quyết để tìm Lôi Công Mặc, mà dân gian từ cổ chí kim đã có truyền thuyết “cửu long phân hoàng thành”. Hoàng đế Hiên Viên là một trong tam hoàng ngũ đế, ngài từng chế tạo ra xe kim chỉ nam, đại phá Xỉ Vưu trong sương mù, sau khi chết, thi thể được an táng ở đỉnh Kiều Sơn, sau này ngọn núi bị bửa làm đôi, ngài hóa thành rồng bay lên trời, còn mạch núi mai táng lăng mộ hoàng đế được gọi là hoàng thành. Khi ấy, có chín khối thiên thạch từ trên trời bỗng dưng rơi xuống, cắm sâu bốn hướng, một trong những khối đó đánh trúng đỉnh Ẩn Đài đối diện với núi Kiều Sơn, lăng mộ của hoàng đế cũng vì thế mà bị nứt vỡ.

Ngọn núi đỏ trải toàn đá vàng, hình thù lại giống như con bò đang nằm, nên còn được gọi là Hoàng Ngưu Lĩnh. Hoàng đế là địa hoàng trong tam hoàng, vì đất nứt vỡ nên ngài hóa rồng quy tiên, bởi thế mới nói “chín rồng chia hoàng thành”. Chín khối thiên thạch từ trên trời rơi xuống chín dải long mạch, loại thiên thạch này khác với những loại thiên thạch sắt thông thường khác, bởi tất cả đều đen tuyền sáng bóng, chất liệu rất giống với ngọc đen, đó là báu vật của mọi báu vật trong thiên hạ. Thời cổ có bí quyết lưu truyền lại cho đời sau ngầm ám chỉ phương hướng của chín khối thiên thạch, hai câu thơ đó chính là lời dẫn của toàn cuốn bí quyết biệt bảo, còn về sự ảo diệu bên trong của nó, thì không thể tiết lộ cho người ngoài biết được.

Nghi hoặc trong lòng Tư Mã Khôi càng lúc càng tăng lên, điều này có thể giải thích được vì sao Triệu Lão Biệt trước khi đoạn khí ở nghĩa địa La Sư vẫn còn tơ tưởng đến Lôi Công Mặc, nhưng người đang đứng trước mặt anh đây lại không hề có chút ấn tượng nào về chuyện đã từng xảy ra năm đó, vả lại cũng không liên quan gì đến những bức vẽ minh họa trong cuốn cổ tịch địa lý. Bức tranh trong cuốn cổ tịch địa lý vẽ hình một người tay dắt bò, đang đứng trên bờ vực, dõi mắt nhìn xuống khe núi vách cheo dựng đứng, dường như muốn ám thị khu vực dưới Hắc Môn vô cùng hung hiểm. Trong bức tranh thứ hai vẽ hai căn phòng một to một nhỏ, lồng kép vào nhau, nhìn kiểu gì cũng giống với tên quái thai “Căn phòng số 86”, nếu biết trước chân tướng sự thật, có lẽ đội anh đã không đến nỗi bị rơi vào thế bị động mà chịu sự kìm kẹp của kẻ địch, còn giáo sư Tống Tuyển Nông có khả năng đã không chết. Bức tranh thứ ba vẽ một cánh tay người chết, đó chính là cánh tay gãy mà “Căn phòng số 86” đã giấu dưới ba lô của đội khảo cổ, trong cánh tay chôn viên ba bảo, kết quả đã kéo theo biết bao phiền phức cho cả đội trong biển cát, nếu mọi người không nhanh chân chạy thoát, thì không biết có còn sống đến giờ này hay không? Cả ba bức tranh minh họa đó chẳng phải đều ngầm ám chỉ rằng: dưới Hắc Môn tồn tại vô số hiểm nguy hay sao?

Triệu Lão Biệt nghe xong thấy vừa kỳ quái và vừa mông lung, trên người lão đúng là có cuốn sách đó thật, nhưng phía sau không hề có bức vẽ nào, vả lại lai lịch và công dụng của cuốn cổ tịch biệt bảo đều thuộc phạm trù bí mật, không bao giờ dễ dàng tiết lộ cho bất kỳ ai. Khi nghe Tư Mã Khôi nhắc đến Hắc Môn thì hai con mắt nhỏ ti hí của lão bất chợt lóe lên tia sáng vừa giảo hoạt vừa tham lam, lão thử dò hỏi Tư Mã Khôi: “Chẳng hay các vị đây đã đi qua Hắc Môn chưa? Các vị có ngắm được món kỳ châu dị bảo nào không?” – Rồi lão còn dò la tình hình cụ thể về ba bức họa trong cuốn sách.

Tư Mã Khôi bèn kể lại lần nữa, nhưng nhìn phản ứng trên mặt đối phương, anh bỗng nhiên nhớ đến một học thuyết nào đó có tên là “thuyết cái hộp”, mà giáo sư Nông địa cầu từng nhắc đến trước đây. Tư Mã Khôi đột nhiên rùng mình thất kinh: người đang đứng trước mặt anh chính là xác chết nằm ở cửa Hắc Môn. Có lẽ trước khi Triệu Lão Biệt chết, lão đã từng xâm nhập cực vực dưới lòng đất, thông qua con đường nào đấy mà không ai biết được, đồng thời bị sương đen nuốt chửng. Thời gian trong màn sương đen vĩnh viễn ngưng tụ bất động, hoặc không ngừng luân chuyển theo vòng tuần hoàn, giống như một chiếc hộp hoàn toàn cách biệt với cả thế giới, nó tồn tại độc lập bên ngoài tọa độ thời gian. Đội khảo cổ cũng vô tình lạc vào trong chiếc hộp, bởi vậy mới gặp được Triệu Lão Biệt khi lão ta còn chưa chết. Lão nghe thấy anh nhắc đến vị trí của Hắc Môn và những bức tranh quái dị vẽ trong cổ thư biệt bảo, bèn cho rằng những bức tranh đó chính là phương pháp để phá giải Hắc Môn ngập tràn nguy hiểm. Sau khi trốn thoát khỏi chỗ này, lòng tham trỗi dậy, lão vẽ tranh vào cuốn sách, rồi câu kết với đội thám hiểm Pháp vào sa mạc tìm kiếm bảo vật, kết quả mắc hội chứng địa áp nên phải bỏ mạng ngay trước cửa Hắc Môn. Nếu Triệu Lão Biệt không gặp đội khảo cổ trong chiếc hộp thoát ly tọa độ thời gian, thì lão đã không để lại những bức vẽ kỳ quái trong cuốn cổ thư, cũng không thiệt mạng cùng bọn người Pháp và mọi người cũng vĩnh viễn không bao giờ nhìn thấy cuốn cổ thư biệt bảo khó hiểu này. Nguyên nhân kết quả của cả chuỗi sự kiện không hề phân biệt thứ tự trước sau, nó giống như một vòng tuần hoàn khép kín vĩnh viễn không thể hóa giải nổi.

Tư Mã Khôi chỉ biết căn cứ vào tình hình thực tế để đưa ra phán đoán, nhưng rốt cục sương đen là chiếc hộp hay người sắt khổng lồ dẫn đường trong biển cát mới là chiếc hộp? Vì sao Triệu Lão Biệt lại bị giam cầm trong sương đen? Và lão đã làm cách nào để cuối cùng thoát được ra ngoài? Cuốn cổ tịch biệt bảo ẩn chứa những bí mật gì không thể tiết lộ với thế nhân? Kẻ chết trong nghĩa địa La Sư năm 1968 là ai? Lẽ nào trên thế giới còn có một chiếc hộp khác? Nếu mang tất cả những “kết quả” hiện tại kể cho Triệu Lão Biệt nghe, liệu có làm thay đổi những “sự thực” vốn đã diễn ra không?

Cùng lúc giải được một ẩn số thì lại xuất hiện thêm càng nhiều ẩn số nữa, thậm chí ngay cả bản thân mình tựa hồ cũng hòa nhập làm một với các ẩn số. Tư Mã Khôi không biết những suy đoán của mình có chính xác hay không, lúc này anh cũng không chứng thực được, nhưng anh tin Triệu Lão Biệt đang sờ sờ trước mắt chắc chắn là một người còn sống, thế là anh bèn hỏi một câu quan trọng nhất: “Lão có biết Nấm mồ xanh không?”

Triệu Lão Biệt nghe đến bốn chữ Nấm mồ xanh, dường như đã biến thành người khác, sắc mặt thâm trầm hẳn xuống đầy quái lạ, lão nói: “Biết… hay không biết nhỉ? Cậu thử đoán xem!”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro