Brüderchen und Schwesterchen - Anh trai và em gái

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Brüderchen nahm sein Schwesterchen an der Hand und sprach: “Seit die Mutter tot ist, haben wir keine gute Stunde mehr; die Stiefmutter schlägt uns alle Tage und wenn wir zu ihr kommen, stoßt sie uns mit den Füßen fort. Die harten Brotkrusten, die übrig bleiben, sind unsere Speise und dem Hündlein unter dem Tisch geht's besser; dem wirft sie doch manchmal was Gutes zu. Dass Gott erbarm, wenn das unsere Mutter wüsste! Komm, wir wollen miteinander in die weite Welt gehen.”
Người anh trai nắm lấy tay em gái mình và nói: “Kể từ khi mẹ qua đời, chúng ta chẳng có được thêm một phút giây nào yên ổn. Bà mẹ kế thì đánh đập chúng ta cả ngày và mỗi khi ta lại gần thì bà ta lại xua đuổi ta đi. Phần ăn của chúng ta đều là những cái vỏ bánh mì khô cứng, thậm chí đến thứ bánh mà bà ta vứt xuống cho con chó nhỏ nằm dưới gầm bàn cũng ngon lành nhiều. Xin Chúa thương xót chúng con, xin mẹ ở trên trời thấu được khổ cực của chúng con! Đi thôi em, chúng ta cùng nhau đi ra thế giới rộng lớn ngoài kia.”

Sie gingen den ganzen Tag über Wiesen, Felder und Steine, und wenn es regnete, sprach das Schwesterchen: “Gott und unsere Herzen, die weinen zusammen!”
Họ cứ đi mãi xuống cả ngày dài, băng qua những đồng cỏ, cánh đồng và đồi núi, đi mãi đến khi trời đổi cơn mưa, anh trai nói với em gái “Đó là Chúa đang khóc cùng với trái tim của chúng ta đấy”

Abends kamen sie in einen großen Wald, und waren so müde von Jammer, Hunger und dem langen Weg, dass sie sich in einen hohlen Baum setzten und einschliefen.
Lúc trời đã sập tối, hai anh em đã đến một cánh rừng rộng lớn, và vì đã thật sự mệt mỏi bởi đói, khát và quãng đường dài vừa qua, họ ngồi xuống cạnh một cái cây rỗng thiếp đi.

Am andern Morgen, als sie aufwachten, stand die Sonne schon hoch über den Bäumen und schien heiß in den Baum hinein.
Buổi sáng hôm sau, khi hai anh em thức dậy, mặt trời đã cao quá ngọn cây, hơi nóng xuyên qua tán lá chiếu xuống.

Da sprach das Brüderchen: “Schwesterchen, mich dürstet, wenn ich ein Brünnlein wusste, ging' ich und tränk' einmal; ich mein', ich hört eins rauschen.”
Rồi người em nói: “Em gái, anh khát quá, nếu anh biết ở đâu có một cái vòi nước nhỏ, anh sẽ đi uống cho đã khát. Ý anh là, anh đã nghe thấy một tiếng sột soạt”

Brüderchen stand auf, nahm Schwesterchen an der Hand und sie wollten das Brünnlein suchen.
Người anh trai đứng dậy, nắm lấy tay em gái và họ đi tìm cái vòi nước nhỏ đó.

Die böse Stiefmutter aber war eine Hexe und hatte wohl gesehen, wie die beiden fort gegangen waren, war ihnen nachgeschlichen, heimlich, wie die Hexen schleichen, und hatte alle Brunnen im Walde verwünscht.
Nhưng thực ra người mẹ kế độc ác kia là một phù thủy và bà ta đã nhìn thấy hai anh em đã đi xa như thế nào, đã bí mật rình rập theo dõi họ và đã nguyền rủa tất cả các giếng trong rừng.

Als sie nun ein Brünnlein fanden, das so glitzerig über die Steine sprang, wollte das Brüderchen daraus trinken; aber das Schwesterchen horte, wie es im Rauschen sprach: “Wer aus mir trinkt, wird ein Tiger! wer aus mir trinkt, wird ein Tiger!” Da rief das Schwesterchen: “Ach, ich bitte dich, Brüderchen, trink' nicht, sonst wirst du ein wildes Tier und zerreißest mich.”
Khi hai anh em tìm thấy một đài phun nước nhỏ lấp lánh lấp lánh trên những phiến đá, người anh trai muốn uống từ đó; nhưng cô em gái đã nghe thấy những tiếng rì rầm: “Kẻ Kẻ nào uống nước của ta sẽ trở thành một con hổ! Kẻ nào uống nước của ta sẽ trở thành một con hổ!” Rồi đứa em gái khóc: “Ôi, em van xin anh đừng uống, nếu không anh sẽ trở thành một con thú dữ và xé xác em ra từng mảnh”.

Das Brüderchen trank nicht, ob es gleich so großen Durst hatte und sprach: “Ich will warten bis zur nächsten Quelle.”
Người anh trai nghe lời em gái mình dù cho đang khát khô cả họng, và nói: “Anh sẽ chờ đến khi gặp con suối tiếp theo.”

Als sie zum zweiten Brünnlein kamen, hörte das Schwesterchen, wie auch dieses sprach: “Wer aus mir trinkt, wird ein Wolf! wer aus mir trinkt, wird ein Wolf!”
Khi họ bắt gặp đài phun nước nhỏ thứ hai, người em gái nghe thấy tiếng rì rầm ban nãy: “Kẻ nào uống nước của ta sẽ trở thành một con sói! Kẻ nào uống nước của ta sẽ trở thành một con sói!”

Da rief das Schwesterchen: “Ach, Brüderchen, ich bitte dich, trink' nicht, sonst wirst du ein Wolf und frissest mich.”
Em gái hoảng hốt kêu lên: “Ôi, anh trai của em, em van xin anh đừng uống, nếu không anh sẽ trở thành một con sói và ăn thịt em mất.”

Das Brüderchen trank nicht und sprach: “Ich will warten, bis wir zur nächsten Quelle kommen, aber dann muss ich trinken, du magst sagen was du willst; mein Durst ist gar zu groß.”
Người anh trai quyết định không uống và nghiêm túc nói với em: “Anh sẽ chờ, cho đến khi chúng ta đến được dòng suối tiếp theo, em muốn nói gì thì nói nhưng anh sẽ phải uống nước, anh thật sự đã khát đến không chịu nổi”

Und als sie zum dritten Brünnlein kamen, hörte das Schwesterlein, wie es im Rauschen sprach: “Wer aus mir trinkt, wird ein Reh! wer aus mir trinkt, wird ein Reh!”
Và họ đã đến được đài phun nước nhỏ thứ ba, người em gái lại nghe tiếng rì rầm ban nãy: “Kẻ nào uống nước của ta sẽ trở thành một con hoẵng! Kẻ nào uống nước của ta sẽ trở thành một con hoẵng!”

Das Schwesterchen sprach: “Ach, Brüderchen, ich bitte dich, trink' nicht, sonst wirst du ein Reh und läufst mir fort.”
Người em gái lại lên tiếng ngăn cản anh mình: “Ôi anh ơi, em van xin anh đừng uống, nếu không anh sẽ trở thành một con hoẵng và rời xa em.”

Aber das Brüderchen hatte sich gleich bei dem Brünnlein nieder gekniet, hinab gebeugt und von dem Wasser getrunken und wie die ersten Tropfen auf seine Lippen gekommen waren, lag es da als ein Rehkälbchen.
Nhưng anh trai lúc đó đã quỳ xuống cạnh đài phun nước, cúi người xuống bắt đầu uống, và ngay khi những giọt nước đầu tiên rơi đi qua đôi môi anh, anh đã hóa thành một con hoẵng nhỏ

Nun weinte das Schwesterchen über das arme, verwünschte Brüderchen, und das Rehchen weinte auch und saß so traurig neben ihm.
Người em gái khóc nấc lên khi thấy anh trai đáng thương đã bị nguyền rủa, và con hoẵng nhỏ là người anh trai biến thành cũng buồn bã ngồi xuống cạnh cô mà khóc.

Da sprach das Mädchen endlich: “Sei still, liebes Rehchen, ich will dich ja nimmermehr verlassen.”
Cuối cùng, cô gái nhỏ thì thầm: “Hãy nín đi hoẵng nhỏ thân yêu, em không bao giờ muốn rời xa anh.”

Dann band es sein goldenes Strumpfband ab und tat es dem Rehchen um den Hals, und rupfte Binsen und flocht ein weiches Seil daraus.
Sau đó cô tháo chiếc nịt tất bằng vàng của mình đeo lên quanh cổ của hoẵng nhỏ, và nhổ thân cây lau sậy bện thành một sợi dây mềm.

Daran band es das Tierchen und führte es weiter, und ging immer tiefer in den Wald hinein.
Cô buộc sợi dây vào con vật nhỏ và cả hai lên đường, đi càng lúc càng vào sâu trong rừng

Und als sie lang, lang gegangen waren, kamen sie endlich in ein kleines Haus und das Mädchen schaute hinein, und weil es leer war, dachte es, hier können wir bleiben und wohnen.
Họ đi thật lâu, thật lâu đến khi bắt gặp một căn nhà nhỏ và cô gái nhìn vào bên trong, trống rỗng, cô thầm nghĩ ắt hẳn là họ có thể tạm thời ở lại đây.

Da suchte es dem Rehchen Laub und Moos zu einem weichen Lager, und jeden Morgen ging es aus und sammelte sich Wurzeln, Beeren und Nüsse, und für das Rehchen brachte es zartes Gras mit, das fraß es ihm aus der Hand, und war vergnügt und spielte vor ihm herum.
Sau đó cô đi tìm lá phong khô và rêu làm thành một chiếc giường êm ái cho con hoẵng nhỏ, và mỗi buổi sáng, cô đi ra khỏi nhà thu nhặt rễ cây, quả dại và hạt. Cô mang cả cỏ non về cho con hoẵng, để nó ăn trên bàn tay mình, và nó rất vui vẻ nhảy nhót xung quanh cô.

Abends wenn Schwesterchen müde war und sein Gebet gesagt hatte, legte es seinen Kopf auf den Rücken des Rehkälbchens, das war sein Kissen, darauf es sanft schlief.
Buổi tối khi cô em gái nhỏ đã mệt mỏi và sau khi cầu nguyện, cô ấy gục đầu lên lưng của con hoẵng, xem đó như là gối nằm và tiếp đó ngủ thật ngon

Und hatte das Brüderchen nur seine menschliche Gestalt gehabt, es wäre ein herrliches Leben gewesen.
Và nếu như người anh trai có thể quay về hình dáng con người, đó sẽ là một cuộc sống mới tuyệt vời.

Das dauerte nun eine Zeitlang, dass sie so allein in der Wildnis waren, da trug es sich zu, dass der König des Landes eine große Jagd in dem Wald hielt.
Ngày tháng trôi qua, hai anh em vẫn ở một mình trong rừng sâu, cho đến một hôm nhà vua tổ chức một cuộc đi săn lớn và đóng quân lại gần đó.

Da schallte darin das Hörnerblasen, Hundegebell und das lustige Geschrei der Jäger, und das Rehlein hörte es, und wäre gar zu gern dabei gewesen.
Có tiếng thổi kèn, tiếng chó sủa và tiếng hò hét vui vẻ của những người thợ săn, con hoẵng nhỏ nghe thấy và rất thích được đến đó.

“Ach”, sprach es zum Schwesterlein, “lass mich hinaus in die Jagd, ich kann's nicht länger mehr aushalten” und bat so lange, bis es einwilligte.
“Ôi”, con hoẵng nói với em gái, “đưa anh đến chỗ những người thợ săn đi, anh không thể chờ được nữa” và nài nỉ thật lâu đến khi cô đồng ý

“Aber”, sprach es zu ihm, “komm mir ja Abends wieder, vor den wilden Jägern schließ ich mein Türlein; und damit ich dich kenne, so klopf und sprich: Mein Schwesterlein, lass mich herein! und wenn du nicht so sprichst, so schließ ich mein Türlein nicht auf.”
“Nhưng mà”, cô gái nhân nhượng nói, “đến tối anh nhất định phải về, em sẽ đóng cửa để ngăn những người thợ săn vào, vì vậy để em biết là anh, hãy gõ cửa và gọi: Em gái ơi, cho anh vào nhà! và nếu anh không nói, thì em nhất định không mở cửa.”

Nun sprang das Rehchen hinaus und war ihm so wohl, und war so lustig in freier Luft.
Thế là con hoẵng chạy đi, vui vẻ tận hưởng bầu không khí thoáng đãng.

Der König und seine Jäger sahen das schone Tier und setzten ihm nach, aber sie konnten es nicht einholen, und wenn sie meinten, sie hätten es gewiss, da sprang es über das Gebüsch weg, und war verschwunden.
Nhà vua và những người thợ săn của anh ta đã nhìn thấy một con thú tuyệt đẹp và đuổi theo nó, nhưng họ không thể bắt được nó, khi họ chắc chắn đã nắm được nó thì con thú đã nhảy qua bụi cây và mất tích.

Wie's dunkel ward, lief es zu dem Häuschen, klopfte und sprach: “Mein Schwesterlein, lass mich herein!”
Khi trời sập tối, con hoẵng chạy về ngôi nhà nhỏ, gõ cửa và kêu lên: “Em gái ơi, cho anh vào nhà!”

Da ward ihm die kleine Türe aufgetan, es sprang hinein, und ruhte sich die ganze Nacht auf seinem weichen Lager aus.
Ngay lập tức cánh cửa nhỏ mở ra, con hoẵng nhảy vào nhà và nằm xuống ngủ trên cái giường nhỏ mềm mại của nó ở đêm.

Am andern Morgen ging die Jagd von neuem an, und als das Rehlein wieder das Jagdhorn horte und das ho! ho! der Jäger, da hatte es keine Ruh und sprach: “Schwesterchen, mach mir auf, ich muss hinaus.”
Buổi sáng hôm sau những người thợ săn di chuyển đến địa điểm mới, và khi đó con hoẵng lại nghe thấy tiếng còi săn và tiếng kêu ‘ho! ho! ho!’ của họ, nó lại không thể bình tĩnh mà nài nỉ: “Em gái ơi, mở cửa đi, anh phải ra ngoài”

Das Schwesterchen öffnete ihm die Türe und sprach: “Aber zu Abend musst du wieder da sein und dein Sprüchlein sagen.”
Người em gái mở cửa cho con hoẵng và dặn dò: “Nhưng đến tối anh phải quay về đây và nói câu mà chúng ta đã quy ước”

Als der König und seine Jäger das Rehlein mit dem goldenen Halsband wieder sahen, jagten sie ihm Alle nach, aber es war ihnen zu schnell und behänd.
Khi nhà vua và những người thợ săn của anh ta thấy con hoẵng nhỏ với chiếc nịt vớ bằng vàng trên cổ xuất hiện, họ lại đuổi theo nó, nhưng nó vẫn quá nhanh so với họ.

Das währte den ganzen Tag; endlich aber hatten es die Jäger Abends umzingelt, und einer verwundete es ein wenig am Fuß, so dass es hinken musste, und langsam fortlief.
Họ đuổi bắt nhau cả một ngày, nhưng cuối cùng vào buổi tối những người thợ săn đã bao vây được nó và một trong số họ đã làm nó bị thương ở chân, do đó nó phải lẩn trốn và chậm chạp bỏ chạy

Da schlich er ihm nach bis zu dem Häuschen, und hörte, wie es rief: “Mein Schwesterlein, lass mich herein!” und sah, dass ihm die Türe aufgetan und alsbald wieder zugeschlossen wurde.
Ông ta rón rén rình con hoẵng đứng trước ngôi nhà nhỏ và khi nó kêu lên “Em gái ơi cho anh vào!” thì ông thấy cánh cửa nhỏ kia nhẹ nhàng mở ra cho nó vào rồi ngay lập tức đóng lại

Der Jäger behielt das Alles wohl im Sinn, ging zum König und erzählte ihm, was er gesehen und gehört hatte. Da sprach der König: “Morgen soll noch einmal gejagt werden.”
Người thợ săn ghi nhớ tất cả những điều này, đến gặp nhà vua và kể cho anh ta nghe về những gì mà anh ta đã nghe và đã thấy được. Nghe vậy, nhà vua nói: “Ngày mai các ngươi cứ tiếp tục đi săn”

Das Schwesterchen aber war recht erschrocken, als das Rehkälbchen verwundet herein kam; es wusch ihm das Blut ab, legte Kräuter auf und sprach: “Geh auf dein Lager, lieb Rehchen, dass du wieder heil wirst.”
Người em gái đã khá sợ hãi khi nhìn thấy vết thương trên chân của con hoẵng khi nó đi vào, cô rửa sạch vết máu và đắp lên đó các loại thảo mộc rồi thủ thỉ: “Đi lên giường của anh đi, hoẵng thân yêu, rồi anh sẽ khỏe lại thôi”

Die Wunde war aber so gering, dass das Rehchen am Morgen nichts mehr davon spürte, und als es die Jagdlust wieder draußen hörte, sprach es: “Ich kann's nicht aushalten, ich muss dabei sein; so bald soll mich auch Keiner kriegen.”
Vết thương trên chân khá nhỏ, nên con hoẵng đã không còn cảm thấy gì vào sáng hôm sau và khi nghe tiếng còi săn vang lên, nó lại nói: “Anh không thể ngồi yên được, anh phải đi đến đó, không ai có thể bắt được anh hết”

Das Schwesterchen weinte und sprach: “Nun werden sie dich töten, ich lass dich nicht hinaus.”
Người em gái vừa khóc vừa nói: “Nếu bọn họ giết anh, cả đời này em cũng không ra ngoài nữa”

“So sterbe ich dir hier vor Betrübnis, wenn du mich abhältst”, antwortete es, “wenn ich das Jagdhorn höre, so mein' ich, ich müsst' aus den Schuhen springen!”
“Ở trong này anh cũng sẽ chán đến chết, nếu em cứ nhất quyết ngăn cản anh” con hoẵng trả lời, “Khi anh nghe thấy tiếng còi săn, anh vui vẻ đến nhảy nhót!"

Da konnte das Schwesterchen nicht anders und Schloss ihm mit schwerem Herzen die Türe auf, und das Rehchen sprang ganz gesund und fröhlich in den Wald.
Em gái nhỏ không thể làm gì anh trai mình và đành phải mở cửa với một trái tim nặng trĩu, còn con hoẵng nhỏ thì vui vẻ chạy vào rừng đầy khỏe mạnh và hạnh phúc.

Als es der König erblickte, sprach er zu seinen Jägern: “Nun jagt ihm nach den ganzen Tag bis in die Nacht, aber dass ihm Keiner etwas zu Leide tut.”
Khi nhà vua nhìn thấy nó xuất hiện, anh ra lệnh cho những người thợ săn cửa mình: “Bây giờ hãy đuổi theo nó cả ngày đến tận đêm, nhưng nhớ không được làm hại nó”

Wie die Sonne untergegangen war, da sprach der König zum Jäger: “Nun komm und zeig mir das Waldhäuschen.”
Khi mặt trời bắt đầu lặn xuống, nhà vua bảo với người thợ săn nọ: “Giờ thì hãy đến đây và chỉ cho ta căn nhà nhỏ trong rừng mà ngươi đã thấy nằm ở đâu.

Und als er vor dem Türlein war, klopfte er an und rief: “Lieb Schwesterlein, lass mich herein!”
Và khi đứng trước cánh cửa nhỏ đóng kín kia, anh cũng gõ cửa và gọi lớn: “Em gái yêu quý, cho anh vào nhà!”

Da ging die Türe auf und der König trat herein, und da stand ein Mädchen, das war so schön, wie er noch keins gesehen hatte.
Ngay lập tức cánh cửa hé mở và nhà vua bước vào trong, một cô gái xinh đẹp chưa từng thấy đang đứng ở đó

Das Mädchen aber war erschrocken, dass nicht sein Rehlein, sondern ein König mit goldener Krone hereingekommen war.
Cô gái cực kì hoảng sợ khi nhìn thấy người đi vào không phải là con hoẵng nhỏ mà thay vào đó là một vị vua với vương miện bằng vàng trên đầu

Aber der König sah es freundlich an, reichte ihm die Hand und sprach: “Willst du mit mir gehen auf mein Schloss und meine liebe Frau werden?”
Nhưng nhà vua tỏ ra cực kỳ thân thiện, nắm lấy tay cô hỏi: “Em có muốn cùng ta về lâu đài và trở thành hoàng hậu của ta không?”

“Ach ja”, antwortete das Mädchen, “aber das Rehchen muss auch mit, das verlass ich nicht.”
“Ồ vâng”, cô gái trả lời, “nhưng con hoẵng nhỏ phải đi cùng em, em không thể bỏ nó lại một mình được”

Sprach der König: “Es soll bei dir bleiben, so lange du lebst und soll ihm an nichts fehlen.”
Nhà vui đáp ứng: “Nó sẽ được ở bên cạnh em, miễn là em còn sống thì không ai có thể làm gì nó.”

Indem kam es herein gesprungen, da band es das Schwesterchen wieder an das Binsen Seil, nahm es selbst in die Hand, und ging mit ihm zum Waldhäuschen hinaus.
Cùng lúc đó, con hoẵng nhỏ nhảy vào, và cô em gái lại buộc dây thừng vào cổ nó, sau đó nắm sợi dây trong lòng bàn tay, và cùng nó đi ra khỏi ngôi nhà nhỏ trong rừng

Der König führte das schöne Mädchen in sein Schloss, wo die Hochzeit mit großer Pracht gefeiert wurde, und war es nun die Frau Königin und lebten sie lange Zeit vergnügt zusammen; das Rehlein ward gehegt und gepflegt und sprang in dem Schlossgarten herum.
Nhà vua đưa cô gái xinh đẹp về lâu đài của mình, nơi hôn lễ được cử hành vô cùng long trọng, bây giờ cô trở thành hoàng hậu, và họ cùng sống hạnh phúc bên nhau lâu dài; con nai được trông nom, chăm sóc và tung tăng nhảy nhót trong khu vườn của lâu đài.

Die böse Stiefmutter aber, um derentwillen die Kinder in die Welt hineingegangen waren, die meinte nicht anders, als Schwesterchen wäre von den wilden Tieren im Walde zerrissen worden und Brüderchen als ein Rehkalb von den Jägern tot geschossen.
Còn về phía bà dì ghẻ độc ác, người mà trong đầu chỉ luôn nghĩ đến lợi ích của con mình, thì vẫn đinh ninh rằng cô em gái đã bị thú dữ trong rừng xé xác, còn người anh trai sau khi biến thành con hoẵng thì đã bị giết chết bởi những người thợ săn.

Als sie nun hörte, dass sie so glücklich waren, und es ihnen so wohl ging, da wurden Neid und Missgunst in ihrem Herzen rege und zwickten und nagten es, und sie hatte keinen andern Gedanken, als wie sie die Beiden doch noch ins Unglück bringen könnte.
Thế nên khi nghe hai anh em đang sống rất hạnh phúc và làm rất tốt việc của mình, nỗi ghen tị và oán hận khiến bà ta cồn cào không yêu, và bà ta chẳng thể nào nghĩ được chuyện gì khác ngoài việc làm sao để mang đau khổ đến hai anh em họ

Ihre rechte Tochter, die hässlich war wie die Nacht und nur ein Auge hatte, die machte ihr Vorwürfe und sprach: “Eine Königin zu werden, das Glück hätte mir gebührt!”
Đứa con gái ruột của bà ta, một người xấu xí như màn đêm và chỉ có một mắt, trách móc và nài nỉ mẹ cô ta: “Con phải trở thành hoàng hậu cơ, may mắn đó phải là của con!”

“Sei nur still”, sagte die Alte und sprach sie zufrieden, “wenn's Zeit ist, will ich schon bei der Hand sein.”
“Cứ chờ đó đi”, bà già hài lòng nói, “khi thời cơ đến, mọi chuyện sẽ đều nằm trong lòng bàn tay của ta”

Als nun die Zeit herangerückt war und die Königin ein schönes Knäbchen zur Welt gebracht hatte, und der König gerade auf der Jagd war, da nahm die alte Hexe die Gestalt der Kammerfrau an, trat in die Stube, wo die Königin lag, und sprach zu der Kranken: “Kommt, das Bad ist fertig, das soll euch wohltun und stärken, geschwind, eh' es kalt wird.”
Rồi thời cơ của bà ta cũng đến, hoàng hậu thành công hạ sinh một bé trai kháu khỉnh, trong lúc đó nhà vua đang đi săn, bà phù thủy già nhân cơ hội cải trang thành người hầu gái vào phòng hoàng hậu đang nằm và nói với người bệnh: “Đến đây, bồn tắm đã chuẩn bị sẵn sàng, nó sẽ giúp phu nhân cảm thấy ổn hơn và nhanh khỏi, trước khi trời trở lạnh”

Ihre Tochter war auch bei der Hand und sie trugen die schwache Königin in die Badstube, legten sie hinein, gingen schnell fort und schlossen die Türe ab. In der Badstube aber hatten sie ein rechtes Höllenfeuer angemacht, dass die schöne junge Königin bald ersticken musste.
Đứa con gái của bà ta cũng có mặt, họ bế hoàng hậu yếu ớt vào phòng tắm, đặt cô vào rồi nhanh chóng rời đi, khóa cửa lại. Tuy nhiên, ở trong phòng tắm, trước đó họ đã đốt lên một ngọn lửa địa ngục khiến vị hoàng hậu nhanh chóng bị chết ngạt.

Als das geschehen war, nahm die Alte ihre Tochter und setzte ihr eine Haube auf, und legte sie ins Bett an der Königin Stelle.
Khi việc được hoàn thành, bà già dắt con gái mình và đội một chiếc mũ len lên người, đặt ả nằm trên giường hoàng hậu

Sie gab ihr auch die Gestalt und das Ansehen der Königin, nur das verlorene Auge konnte sie ihr nicht wieder geben; damit aber der König nichts merken sollte, musste sie sich auf die Seite legen, wo sie kein Aug' hatte.
Bà ta trang điểm cho ả giống y hệt như vị hoàng hậu quá cố, chỉ duy nhất con mắt chột của ả thì không thể che giấu được, để nhà vua không nhận ra điểm khác thường đó, ả phải nằm nghiêng để che giấu phía bên không có mắt đi.

Am Abend, als der König heim kam und hörte, dass ihm ein Söhnlein geboren war, freute er sich herzlich und wollte ans Bett zu seiner lieben Frau gehen und wollte sehen, was sie machte.
Buổi tối, khi nhà vua quay trở về và nghe tin đứa con trai nhỏ bé của ngài đã ra đời, nhà vua vô cùng hạnh phúc và muốn đến thăm vị hoàng hậu thân yêu của mình, xem nàng đang như thế nào rồi.

Da rief die Alte geschwind: “Beileibe, lasst die Vorhänge zu, die Königin darf noch nicht ins Licht sehen und muss Ruhe haben.”
Bà già vội vàng kêu lên: “Thưa bệ hạ, hãy kéo rèm cửa lại vì hoàng hậu vẫn chưa được phép tiếp xúc với ánh sáng và cần được nghỉ ngơi”

Der König ging zurück, und wusste nicht, dass eine falsche Königin im Bette lag.
Nhà vua quay ra và không hề hay biết người nằm trên giường là vị hoàng hậu giả mạo.

Als es aber Mitternacht war und alles schlief, da sah die Kinderfrau, die in der Kinderstube neben der Wiege saß und allein noch wachte, wie die Türe aufging und die rechte Königin herein trat; sie nahm das Kind aus der Wiege, legte es in ihren Arm und gab ihm zu trinken.
Nửa đêm khi mọi người đều đã ngủ, cô trông trẻ đang ngồi cạnh nôi trong phòng ngủ trông đứa trẻ một mình, đột nhiên cửa mở và hoàng hậu thật sự bước vào, bế đứa trẻ từ trong nôi, đặt nó vào lòng và cho nó bú sữa.

Dann schüttelte sie ihm sein Kisschen und legte es wieder hinein und deckte es mit dem Deck Bettchen zu.
Sau đó cô giũ chiếc gối của đứa trẻ trước khi đặt nó vào trong nôi trở lại, sau đó đắp chăn lên người nó

Sie vergaß aber auch das Rehchen nicht, ging in die Ecke, wo es lag, und streichelte ihm über den Rücken.
Cô cũng không quên con hoẵng của mình, đi đến góc phòng nơi nó đang nằm và vuốt ve tấm lưng của nó.

Darauf ging sie ganz stillschweigend wieder zur Türe hinaus, und die Kinderfrau fragte am andern Morgen die Wächter, ob sie Jemand in der Nacht ins Schloss gehen gesehen; aber sie antworteten: “Nein, wir haben niemand gesehen!”
Sau đó cô lặng lẽ bước ra khỏi cửa, và cô trông trẻ vào sáng hôm sau đã chạy đi hỏi những người lính canh rằng liệu họ có thấy ai đi vào lâu đài vào đêm qua không, nhưng họ đều trả lời: “Không, chúng tôi không hề thấy ai xuất hiện”

So kam sie viele Nächte, und sprach niemals ein Wort dabei; die Kinderfrau sah sie immer, aber sie getraute nicht, Jemand etwas davon zu sagen.
Sau đó vị hoàng hậu kia vẫn cứ lặng lẽ đến rồi đi không nói lời nào, còn cô trông trẻ mặc dù luôn nhìn thấy cô ấy nhưng không dám kể điều đó với bất kỳ ai.

Als nun so eine Zeit verflossen war, da hub die Königin in der Nacht an zu reden und sprach: “Was macht mein Kind? Was macht mein Reh? Nun komm ich noch zweimal und dann nimmermehr!”
Một thời gian sau đó, khi vị hoàng hậu đến vào nửa đêm và cô ấy bắt đầu tự lẩm bẩm nói một mình: “Con của ta thế nào rồi? Con hoẵng của ta thế nào rồi? Bây giờ ta chỉ còn có thể đến đây hai lần nữa và không có sau đó nữa”

Die Kinderfrau antwortete ihr nicht, aber als sie wieder verschwunden war, ging sie zum König und erzählte ihm Alles.
Cô trông trẻ không trả lời tiếng nào, nhưng khi hoàng hậu biến mất lần nữa, cô vội chạy đến kể lại với nhà vua về mọi việc đã diễn ra.

Sprach der König: “Ach Gott! Was ist das! Ich will in der nächsten Nacht bei dem Kind wachen.”
Nhà vua nói: “Ôi Chúa ơi! Chuyện đó là như thế nào cơ chứ! Ta phải đích thân ngồi trông con ta vào đêm tiếp theo”

Abends ging er auch in die Kinderstube, aber um Mitternacht erschien die Königin wieder und sprach: “Was macht mein Kind? Was macht mein Reh? Nun komm ich noch einmal und dann nimmermehr!” und pflegte dann des Kindes wie gewöhnlich, eh sie wieder verschwand.
Buổi tối anh đi đến phòng của con, đến nửa đêm vị hoàng hậu vẫn xuất hiện và tự lẩm bẩm một mình: “Con của ta thế nào rồi? Con hoẵng của ta thế nào rồi? Bây giờ ta chỉ còn có thể đến đây một lần nữa và không có sau đó nữa”

Der König getraute sich nicht, sie anzureden; aber die folgende Nacht wachte er wieder, da sprach sie abermals: “Was macht mein Kind? Was macht mein Reh? Nun komm ich noch diesmal und dann nimmermehr!”
Nhà vua không dám mở miệng nói chuyện với hoàng hậu, nhưng đêm tiếp theo, ngài vẫn tiếp tục ngồi trông con và nghe hoàng hậu nói: “Con của ta thế nào rồi? Con hoẵng của ta thế nào rồi? Bây giờ ta chỉ còn có thể đến đây lần này nữa thôi và không có sau đó nữa”

Da konnte sich der König nicht zurückhalten, sprang zu ihr und sprach: “Du kannst niemand anders sein, als meine liebe Frau!”
Lúc này nhà vua đã không còn giữ được bình tĩnh, vội chạy lại và thốt lên: “Em không thể là bất kỳ ai khác mà chính là người vợ yêu quý của ta!”

Da antwortete sie: “Ja, ich bin deine liebe Frau!” und hatte in dem Augenblick durch Gottes Gnade das Leben wieder erhalten, war frisch, rot und gesund.
Hoàng hậu trả lời: “Vâng, em chính là người vợ yêu quý của anh” và ngay lập tức sống lại, nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, tươi trẻ, hồng hào và khỏe mạnh.

Darauf erzählte sie dem König den Frevel, den die böse Hexe und ihre Tochter an ihr begangen hatten.
Sau đó nàng kể lại tất cả những tội ác của bà phù thủy xấu xa và đứa con gái của bà đã gây nên.

Der König ließ Beide vor Gericht führen und sie wurden verurteilt; die Tochter ward in den Wald geführt, wo sie die wilden Tiere zerrissen, wie sie sie erblickten; die Hexe aber ward ins Feuer gelegt und musste jammervoll verbrennen.
Nhà vua biết chuyện phái người lôi cả hai ra trước triều đình xét xử, đứa con gái bị đem vào trong rừng và bỏ mặc cho thú dữ xé xác ngay khi nhìn thấy ả, còn bà phù thủy thì bị bỏ vào ngọn lửa và chết cháy một cách thê thảm

Und wie sie davon verzehrt war, verwandelte sich auch das Rehkälbchen und erhielt seine menschliche Gestalt wieder, und Schwesterchen und Brüderchen lebten glücklich zusammen, bis an ihr Ende.
Và sau khi bà ta bị xử tử xong, cơ thể của con hoẵng nhỏ liền có biến đổi, và không lâu sau thì đã lấy lại được hình dạng con người, và anh em họ sống cùng nhau hạnh phúc mãi mãi đến cuối cuộc đời.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro