Die kluge Else - Else thông minh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Es war ein Mann, der hatte eine Tochter, die hieß die kluge Else. Als sie nun erwachsen war, sprach der Vater: "Wir wollen sie heiraten lassen."
Ngày xưa, có một người đàn ông, người có một đứa con gái thông minh, tên là Else. Khi cô ấy lớn lên, cha của cô nói "Chúng ta nên để con bé kết hôn"

"Ja", sagte die Mutter, "wenn nur einer käme, der sie haben wollte."
"Đúng vậy", người mẹ đồng ý, "Giá như có ai đó đến và muốn lấy con bé"

Endlich kam von weiter einer, der hieß Hans, und hielt um sie an, unter der Bedingung, dass die kluge Else auch recht gescheit wäre.
Cuối cùng cũng đó một người đàn ông đến hỏi cưới cô, tên là Hans, và đưa ra điều kiện đi kèm rằng Else phải là người thông minh.

"Oh", sprach der Vater, "die hat Zwirn im Kopf" und die Mutter sagte: "Ach, die sieht den Wind auf der Gasse laufen, und hört die Fliegen husten."
"Ồ", người cha thốt lên, " con bé có sạn trong đầu đấy" và người mẹ tiếp lời: "Ôi, con bé còn có thể thấy được làn gió thổi qua ngõ và nghe được cả tiếng ruồi ho"

"Ja", sprach der Hans, "wenn sie nicht recht gescheit ist, so nehme ich sie nicht."
"Vâng", Hans nói, "nếu cô ấy không thật sự khéo léo tài giỏi thì tôi sẽ không lấy cô ấy"

Als sie nun zu Tisch saßen und gegessen hatten, sprach die Mutter: "Else geh in den Keller und hol Bier"
Khi họ cùng nhau ngồi vào bàn, người mẹ bảo: "Else vào hầm và lấy bia ra đây con"

Da nahm die Else den Krug von der Wand, ging in den Keller, und klappte unterwegs brav mit dem Deckel, damit ihr die Zeit ja nicht lang würde.
Sau đó Else cầm lấy chiếc bình treo trên tường, đi vào hầm và vỗ vỗ tay trên nắp bình trên đường đi để không cảm thấy chán
(damit ihr die Zeit ja nicht lang würde: để cảm thấy thời gian không quá dài → không thấy chán vì đi lâu)

Als sie unten war, holte sie ein Stühlchen und stellte es vors Fass, damit sie sich nicht zu bücken brauchte, und ihrem Rücken etwa nicht weh täte und unverhofften Schaden nähme.
Khi cô đã xuống tới nơi, cô lấy một chiếc ghế nhỏ và đặt nó trước cái thùng để cô ấy không cần phải cúi xuống, và như vậy thì lưng của cô không bị đau hay bị thương ngoài ý muốn.

Dann tat sie die Kanne vor sich, und drehte den Hahn auf, und während der Zeit, dass das Bier hinein lief, wollte sie doch ihre Augen nicht müßig lassen, und sah oben an die Wand hinauf, und erblickte nach vielem Hin- und Herschauen eine Kreuzhacke gerade über sich, welche die Maurer da aus Versehen hatten stecken lassen.
Sau đó cô ấy đặt cái bình trước mặt và và vặn vòi, trong khi bia đang rót vào bình, cô không muốn để mắt nhàn rỗi nhìn lên những bức tường xung quanh, sau nhiều lần nhìn đi nhìn lại thì thấy một cái cuốc ngay phía trên đầu mà những người thợ nề đã vô tình để quên nó mắc kẹt ở trên tường.

Da fing die kluge Else an zu weinen, und sprach: "Wenn ich den Hans kriege und wir kriegen ein Kind, und das ist groß, und wir schicken das Kind in den Keller, dass es hier soll Bier zapfen, so fällt ihm die Kreuzhacke auf den Kopf und schlägt's tot!"
Và sau đó Else thông minh vừa khóc vừa nói: "Nếu tôi lấy Hans và chúng tôi có một đứa con, và khi nó lớn chúng tôi sẽ đưa nó vào kho để nó ở đây lấy bia, thế là cái cuốc sẽ rơi xuống đầu đứa nhỏ và nó sẽ chết!"

Da blieb sie sitzen, und weinte aus Jammer über das bevorstehende Unglück.
Nghĩ đến đó cô ấy ngồi thụp xuống và khóc nấc lên khi nghĩ về tương lai bất hạnh ấy.

Die oben saßen, warteten auf den Trunk, aber die kluge Else kam immer nicht.
Những người còn lại vẫn còn đang chờ đồ uống, nhưng Else vẫn chưa quay trở lại.

Da sprach die Frau zur Magd: "Geh doch hinunter in den Keller, und sieh, wo die Else bleibt."
Thế là người phụ nữ nói với cô hầu: "Đi xuống dưới hầm xem thử Else đang ở đâu"

Die Magd ging und fand sie vor dem Fass sitzend, und laut schreiend: "Else was weinst du?" fragte die Magd.
Cô hầu đi xuống và tìm thấy cô gái ngồi trước cái thùng, và cô hầu hét lên: "Else ơi em đang làm gì ở đây vậy?"

"Ach", antwortete sie, "soll ich nicht weinen! wenn ich den Hans kriege und wir kriegen ein Kind, und das ist groß und soll hier Trinken zapfen, so fällt ihm vielleicht die Kreuzhacke auf den Kopf und schlägt's tot."
"Ôi trời", cô gái trả lời, "em không biết nên làm thê snaof chị ạ! Nếu em lấy Hans sau đó chúng em có một đứa con, và khi nó lớn và nên đi lấy đồ uống, có thể cái cuốc đó sẽ rơi xuống đầu đứa bé đáng thương và nó sẽ chết."

Da sprach die Magd: "Was haben wir für eine kluge Else!", setzte sich zu ihr und fing auch an, über das Unglück zu weinen.
Và rồi cô hầu thốt lên: "Else của chúng ta thật sự thông minh!", rồi cô cũng ngồi thụp xuống khóc òa lên, vì một tương lai quá bất hạnh.

Über eine Weile, als die Magd nicht wiederkam, und die droben durstig nach dem Trank waren, sprach der Mann zum Knecht: "Geh doch hinunter in den Keller, und sieh, wo die Else und die Magd bleibt."
Sau một khoảng thời gian ngắn, khi cô hầu cũng không quay trở lại, và mọi người đều rất khát sau khoảng thời gian dài chờ đồ uống, người đàn ông nói với anh giúp việc: "Mau xuống dưới hầm xem thử Else và cô hầu đang ở đâu"

Der Knecht ging hinab, da saß die kluge Else und die Magd, und weinten beide zusammen, da fragte er: "Was weint ihr denn?"
Khi anh giúp việc đi xuống dưới đó nhìn thấy Else thông minh và cô hầu khóc cùng nhau, và anh ta hỏi: "Tại sao hai người lại khóc thế này?"

"Ach", sprach die Else: "soll ich nicht weinen! wenn ich den Hans kriege und wir kriegen ein Kind, und das ist groß und soll hier Trinken zapfen, so fällt ihm die Kreuzhacke auf den Kopf und schlägt's tot."
"Ôi", Else nói, "Em không nên khóc. Nhưng nếu em lấy Hans và chúng em có một đứa con, khi nó lớn lên và cần phải đi lấy đồ uống, cái cuốc đó sẽ rơi vào đầu đứa bé tội nghiệp và nó sẽ chết."

Da sprach der Knecht: "Was haben wir für eine kluge Else!", setzte sich zu ihr und fing auch an, laut zu heulen.
Anh giúp việc thốt lên: "Else của chúng ta mới thông minh làm sao!", rồi ngồi xuống cùng họ khóc gào thật lớn.

Oben warteten sie auf den Knecht, als er aber immer nicht kam, sprach der Mann zur Frau: "Geh doch hinunter in den Keller, und sieh, wo die Else bleibt."
Về phần những người còn lại vẫn chờ anh giúp việc, nhưng anh ta cũng không quay lại, người đàn ông nói với vợ: "Em xuống kho xem Else nó đang ở đâu rồi"

Die Frau ging hinab, und fand alle drei in Wehklagen, und fragte nach der Ursache, da erzählte ihr die Else auch, dass ihr zukünftiges Kind wohl würde von der Kreuzhacke totgeschlagen werden, wenn es erst groß wäre und Bier zapfen sollte, und die Kreuzhacke fiele herab.
Người phụ nữ đi xuống và tìm thấy cả ba người đang than thở, và sau khi được hỏi về nguyên nhân, Else kể cho bà về đứa trẻ của cô ấy sẽ bị cái cuốc rơi xuống giết chết, một khi nó lớn lên và phải đi lấy bia

Da sprach die Mutter gleichfalls: "Ach, was haben wir für eine kluge Else!", setzte sich hin, und weinte mit.
Và bà cũng nói y chang như những người còn lại: "Ôi trời, Else nhà ta mới thông minh làm sao!", và bà ấy ngồi xuống than thở cùng với bọn họ.

Der Mann oben wartete auch ein Weilchen, als aber seine Frau nicht wieder kam, und sein Durst immer starker ward, sprach er: "Ich muss nur selber in den Keller gehen und sehen, wo die Else bleibt"
Người đàn ông vẫn chờ ở trên lầu, nhưng mãi mà vợ ông vẫn chưa quay trở lại, và cơn khát của ông thì càng mạnh mẽ hơn, ông nói: "Ta cần tự mình đi xuống dưới hầm và tìm xem Else đang ở đâu"

Als er aber in den Keller kam, und alle da bei einander saßen und weinten, und er die Ursache hörte, dass das Kind der Else schuld wäre, das sie vielleicht einmal zur Welt brächte, und von der Kreuzhacke konnte totgeschlagen werden, wenn es gerade zur Zeit, wo sie herab fiele, darunter säße, Bier zu zapfen, da rief er: "Was für eine kluge Else!", setzte sich, und weinte auch mit.
Khi ông xuống hầm, và tất cả mọi người cũng đã ở đấy khóc lóc, và ông khi được nghe về lý do mà họ khóc, rằng khi đứa trẻ đáng thương của Else, trong một lần bị cái cuốc kia rơi xuống giết chết, khi mà nó lớn lên và cần đi xuống hầm lấy bia, ông đã phải thốt lên: "Else của chúng ta mới thông minh làm sao!", rồi cũng ngồi xuống bắt đầu khóc cùng những người khác.

Der Bräutigam blieb lange oben allein, da niemand wiederkommen wollte, dachte er, sie werden unten auf dich warten, du musst auch hingehen, und sehen was sie vorhaben.
Chỉ còn chàng rể ở trên lầu một mình mà chẳng có ai quay lại, anh ta đoán rằng mọi người đang chờ anh ở dưới, và anh cũng cần phải đi xuống đó để xem họ định làm gì

Als er hinab kam, saßen da fünfe und schrien und jammerten ganz erbärmlich, einer immer besser als der andere. "Ei, was für ein Unglück ist denn geschehen?", fragte er.
Khi đi xuống, anh ta nhìn thấy có 5 người trong số họ đang khóc lóc thảm thiết, chỉ có một người trông vẫn còn ổn hơn so với những người còn lại. "Èm, có chuyện không may gì đã xảy ra ở đây sao?"

"Ach, lieber Hans", sprach die Else, "wann wir einander heiraten, und haben ein Kind, und es ist groß, und wir schicken es vielleicht hierher Trinken zu zapfen, da kann ihm ja die Kreuzhacke, die da oben ist stecken geblieben, wenn sie herabfallen sollte, den Kopf zerschlagen, daß es liegen bleibt: sollen wir da nicht weinen?"
"Ôi, Hans thân yêu", Else nói, "một khi chúng ta kết hôn, và có cho mình một đứa trẻ, và khi nó lớn, chúng ta có lẽ sẽ gửi nó đi lấy đồ uống, thế là cái cuốc đang mắc kẹt ở đây sẽ rơi xuống và làm nó vỡ đầu. Làm sao mà chúng ta có thể không khóc bây giờ?"

"Nun", sprach Hans, "mehr Verstand ist nicht nötig, weil du so eine kluge Else bist, so will ich dich haben", packte sie bei der Hand, und nahm sie mit hinauf, und hielt Hochzeit mit ihr.
"Chà", Hans nói, "Không cần thiết phải tìm hiểu thêm nữa, bởi vì em thật sự rất thông minh Else ạ, nên anh thật sự muốn lấy em", vừa nắm lấy tay cô gái dắt cô lên lầu, và bọn họ cùng nhau tổ chức đám cưới

Als sie der Hans eine Weile hatte, sprach er: "Frau, ich will ausgehen arbeiten, und uns Geld verdienen, geh du ins Feld, und schneid das Korn, dass wir Brot haben."
Trong một lần, Hans nói: "Vợ ơi, anh muốn đi ra ngoài làm việc, và kiếm tiền cho chúng ta. Em hãy đi ra đồng và gặt ngũ cốc để làm bánh mì đi"

"Ja, mein lieber Hans, das will ich tun."
"Vâng, Hans yêu quý của em, em sẽ làm như vậy."

Nachdem der Hans fort war, kochte sie sich einen guten Brei, und nahm ihn mit ins Feld.
Sau khi Hans đã đi vắng, cô tự nấu cho mình một nồi cháo ngon lành, và đem ra đồng cùng mình.

Als sie vor den Acker kam, sprach sie zu sich selbst: "Was tu ich? Schneid ich eher oder esse ich eher? Hei! Ich will erst essen!"
Ra đến nơi, cô tự hỏi: "Ồ mình đang làm gì thế này? Mình nên ăn cắt ngũ cốc trước hay là ăn trước? Hmmm, mình muốn ăn trước!"

Nun aß sie ihren Topf mit Brei aus, und als sie dick satt war, sprach sie wieder: "Was tu ich? Schneid ich eher, oder schlaf ich eher? Hei! Ich will erst schlafen!"
Sau khi ăn hết cả nồi cháo, và bụng thì no căng, cô lại tự hỏi: "Mình nên làm gì bây giờ, cắt ngũ cốc trước hay là đi ngủ trước? Hmmmm, mình muốn ngủ trước đã!"

Da legte sie sich ins Korn und schlief ein. Der Hans war längst zu Haus, aber die Else wollte nicht kommen, da sprach er: "Was hab ich für eine kluge Else, die ist so fleißig, dass sie nicht einmal nach Haus kommt und isst."
Thế rồi cô nằm ngay trên ruộng và chìm vào giấc ngủ. Hans quay trở về nhà sau một ngày dài, thế nhưng lúc này Else vẫn chưa về, anh tự nhủ: "Else thông minh của mình thật chăm chỉ quá, đến giờ vẫn chưa về nhà và ăn"

Als sie aber noch immer ausblieb und es Abend ward, ging der Hans hinaus und wollte sehen, was sie geschnitten hätte, aber es war nichts geschnitten, sondern sie lag im Korn und schlief.
Khi trời đã sập tối mà cô thì vẫn chưa về, Hans đi ra đó và muốn nhìn xem cô đã cắt được những gì, nhưng tất nhiên chẳng có gì đã được cắt cả, còn cô thì nằm trên ruộng mà ngủ

Da eilte Hans geschwind heim, und holte ein Vogelgarn mit kleinen Schellen, und hängte es um sie herum, und sie schlief noch immer fort.
Thế là Hans vội vã về nhà, lấy một sợi lông chim với những chiếc chuông nhỏ và treo nó xung quanh cô ấy, mà Else thì vẫn tiếp tục ngủ

Dann lief er heim, setzte sich auf einen Stuhl, und Schloss die Haustüre zu. Endlich erwachte die kluge Else, wie es schon ganz dunkel war, und als sie aufstand, rappelte es um sie herum, bei jedem Schritt, den sie tat.
Sau đó anh chạy về nhà, ngồi xuống một cái ghế và khóa cửa trước. Cuối cùng thì Else thông minh cũng thức dậy khi trời đã khá tối, và xung quanh thì cứ liên tục có những tiếng ồn ào leng keng mỗi khi cô bước đi.

Da erschrak sie, und ward irre, ob sie auch wirklich die kluge Else wäre, und sprach: "Bin ich's, oder bin ich's nicht?"
Vì vậy cô hoảng hốt và bắt đầu tự nghi ngờ mình có thật sự là Else thông minh hay không, lẩm bẩm: "Tôi có phải là tôi không hay là không phải?"

Sie wusste aber nicht, was sie darauf antworten sollte, und stand eine Zeitlang zweifelhaft; endlich dachte sie: "Ich will nach Haus gehen und fragen, ob ich's bin, oder nicht, die werden es ja wissen."
Cô thật sự không biết nên trả lời như thế nào, cứ đứng nghi ngờ mãi. Cuối cùng cô quyết định: "Mình sẽ đi về nhà và hỏi xem mình có phải là mình không, hay là không phải, hẳn là mọi người sẽ biết điều đó"

Da lief sie vor ihre Haustüre, die war verschlossen, also klopfte sie an das Fenster und rief: "Hans, ist die Else drinnen."
Nghĩ vậy, cô chạy vội về căn nhà đã bị khóa của mình, vì vậy cô đã gõ lên cánh cửa sổ và kêu lên: "Hans ơi Else có ở nhà không?"

"Ja", antwortete der Hans, "sie ist drinnen."
"Đúng vậy", Hans trả lời, "Cổ đang ở đây"

Da war sie erschrocken und sprach: „Ach Gott! dann bin ich's nicht!" und ging vor eine andere Tür, als aber die Leute das Klingeln der Schellen horten, wollten sie nicht aufmachen, und so ging's ihr überall; da lief sie fort zum Dorf hinaus.
Rồi cô ấy giật mình thốt lên: "Ôi chúa ơi! Vậy thì tôi không phải là tôi!" và đi gõ cửa một ngôi nhà khác, nhưng khi nghe thấy tiếng chuông của người đứng ngoài, mọi người đều không muốn mở cửa dù cho cô đã chạy đi hỏi khắp nơi. Thế rồi Else chạy đi khỏi ngôi làng ấy.

Thật lòng mà nói thì tui cũng không hiểu truyện này muốn nói về điều gì nữa, chắc tại tui đã dịch sai chỗ nào đó 乁(ㆁωㆁ)ㄏ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro