Xuân Dược

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Xưa kia, tại vùng Kinh Bắc, có một gia đình họ Huỳnh sinh sống. Gia tộc này tài sản nứt đố đổ vách, hoạ chừng đủ mua cả đất Kinh Bắc. Người hầu kẻ hạ nườm nượp, khiến vua chúa cũng phải hổ thẹn không dám so bì. Tuy nhiên, nhìn lại dòng dõi của gia đình này khiến ai cũng cười khinh khỉnh, thậm chí còn xem mình cao vọng hơn một bậc.

Nguyên là nhà này bắt đầu từ Thượng đến, nghe đâu trưởng tộc là người Mường, xinh như đoá hoa dại, vì trót dại trong đêm tắt đèn gặp anh người Kinh, vướng tình không dứt ra được. Thế là lừa dối cha mẹ, bảo anh là người Mường xa xứ nay trở về. Các cụ yên lòng, cũng cho theo tục ngủ thăm để dạm ngõ. Sau đó cả hai lợi dụng lúc ngủ thăm mà cho ong đi hút mật, ân ân ái ái tình tự bao ngày. Đến lúc đậu thai, anh người Kinh lấy cớ thi khoa bảng mà trốn mất, còn cô mang tiến chửa hoang, bị đuổi khỏi bản. Có người nói anh người Kinh trốn không được bao lâu thì bị bỏ ngải, trong đêm tồng ngồng đi bộ từ dưới xuôi lên đến tận bản của người tình cũ. Đến khi tới nơi, anh này đã bị gai rừng cào khắp người, thịt lộ ra đỏ ỏm, đám sâu bọ cứ thế rúc vào mà không thể gỡ ra, khắp người lỗ chỗ là tổ của mấy con côn trùng ấy.

Cô gái Mường mang cái thai oan nghiệt kia đi khỏi bản, đã mấy lần căm phẫn mà đập bụng vào đá, lấy cuống lá ngón ăn vào để nôn cái thai ra. Chẳng hiểu sao mấy lần không được, cai thai mỗi lúc càng lớn, đành để vậy, đẻ ra rồi đem đi dìm sông. Lúc mang đứa bé còn nguyên dây cuống rốn ra đến bờ sông định thả xuống thì có anh lái đò gần đó, thấy cô xinh đẹp, lại nhìn mình chưa có vợ liền đưa tay làm phước, cả hai rổ rá rạp lại nên nghĩa vợ chồng, đưa trẻ may thay được anh thương nên còn sống.

Cả hai sống với nhau, rốt cuộc được vài năm lại sinh ra cãi vã vì cái nghèo đeo bám. Cô vợ nhớ lúc ở bản, mấy già làng thường ngồi cạnh nhau hút quả Mê Mắc, tức quả anh túc theo cách gọi bây giờ, thở khà ra một tiếng thoả mãn. Cô nghĩ loại quả ấy có thể bán được ở đây, liền đi lên Thượng, hái cả rổ to mang về phơi khô rồi mang ra chợ bán.

Thế nhưng người Kinh thích ăn trầu tôi vôi, nhuộm răng đen bóng chứ mấy ai thích hút cái thứ dị hợm không rõ hình thù kia. Đã thế nó còn hôi hám, lợm mùi phân chuột, vương trong họng là vị đắng nhằn nhẵn. Vì thế cả ngày chẳng có ai ghé thăm, nghèo lại hoàn nghèo. Lúc ấy lại có đám rước tượng Phật đi ngang, hương trằm bay phảng phức, ai nấy cũng hít hà, tranh nhau mua trầm về thỉnh. Cô vợ lại nghĩ ra cách mua số trầm ấy về, đem quả anh túc khô tán ra trộn vào. Lúc mua thì hai hào một nén, lúc bán chỉ hai hào một nén, thế là hết sạch. Đến sáng, cả trăm người đổ xô đến mua trầm của cô, lúc này ba hào một nén, bốn hào năm xu một nén cũng không đủ bán.

Cái hiệu trầm Huỳnh Trinh ấy là của gia tộc này đấy, buôn bán cái thứ quái gở trêu người thần phật kia, qua mấy đời tích luỹ gia tài vô kể. Nhưng lúc ấy không ai chê cái thứ trầm kia, mà là chê cô gái bỏ cả quê, bán cả họ mà đổi tên sang người Kinh, không bao giờ nhận gốc gác của mình.

Cái gia tộc này lúc đầu chỉ buôn bán trầm, đến đời thứ hai thì bất thần làm nên nghề thuốc, mà chỉ bán độc một loại đó là xuân dược. Thứ thuốc này công hiệu vô cùng, tán ra cho vào đồ ăn thức uống, nữ nhân ăn phải lập tức trong lòng như lửa đốt, tâm niệm phật nhưng cơ thể muốn giao hoan, lao vào nam nhân như con thú hoang, đến lúc tỉnh lại thì thân thể đã bị vấy bẩn, đành theo kẻ đó làm vợ. Tiếng xấu đồn xa, nhưng thế lực Huỳnh gia quá lớn, lại sẵn sàng vung ít tiền để bố thí thì xem như đền bù. Cái nghèo đeo bám, bậc phụ mẫu cũng sáng mắt vì kim tiền mà bỏ đời tử nữ. Tính ra nghiệp của cái gia tộc này quá lớn, đến mức quả báo cũng không đếm xuể. Nhưng thói đời, kẻ ác thì sống lâu, kẻ keo kiệt lại mang phú quý, thế nên Huỳnh gia mỗi lúc một giàu, cứ ăn trên ngồi  trốc, đè cổ thiên hạ ra mà hưởng thụ.

Gia tộc này vốn đã chẳng tốt lành, nên con cháu cũng trở thành người thị phi, kẻ nham hiểm. Tuy trời cao không có mắt, nhưng cao nhân đã từng nói "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời", thế nên đời thứ ba thì bắt đầu có chuyện kinh dị.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro