Tỏ lòng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

                   Albert Einstein từng nói rằng : " Không thể gìn giữ hòa bình bằng bạo lực. Nó chỉ có thể đạt được bằng sự thông hiểu lẫn nhau". Thế nhưng lịch sử vốn muốn thử thách dải đất nhỏ bé bên bờ biển Đông, những cơn cuồng phong đã khiến mỗi trang sử thấm đẫm bản hùng ca bi tráng của lòng hi sinh, quả cảm và cả lòng tận hiến của nhân dân cho độc lập tự do dân tộc hôm nay. Và Việt Nam, đất nước tuy bé nhỏ đầy những gian lao vất vả nhưng rất đỗi anh hùng đã trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước với những mốc son chói lọi trong lịch sử. Một trong những mốc son ấy chính là ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông xâm lược của nhà Trần. Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được ghi lại trong những áng văn kiệt xuất. Phạm Ngũ Lão chính là người đã tạo nên áng văn kiệt xuất ấy, ông được biết đến là một người văn võ song toàn và cũng là người có công lớn trong hai cuộc kháng chiên chống quân xâm lược, thơ của Phạm Ngũ Lão thường nói về chí làm trai và tinh thần yêu nước, với tráng khí cao ngất trời ấy của đấng nam nhi Phạm Ngũ Lão đã thể hiện thành công tư tưởng của mình qua bài thơ "Thuật Hoài" một bức tự họa về chính tác giả và hào khí Đông A mạnh mẽ của quân đội thời Trần.

"Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu"

                 Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cứu đường luật vào năm 1284, khi vó ngựa xâm lược của quân Nguyên Mông dày xéo đất nước lần 3, nhà thơ Phạm Ngũ Lão đã kết hợp chất sử thi, chất hiện thực và lãng mạn để tạo nên bức tranh kì vĩ, hoành tráng về tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân nhà Trần. Đội quân đã khắc lên mình hai chữ "sát thát" nguyện hi sinh thân mình vì Tổ quốc. Nhan đề chữ Hán của bài thơ "thuật hoài" hay còn được gọi là tỏ lòng, bày tỏ khí phách, lí tưởng, khát vọng cao cả, hoài bão lớn lao của một vị tướng thời Trần chan chứa tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

        Hai câu thơ đầu thể hiện hào khí Đông A hào hùng qua hình tượng trang nam nhi và sức mạnh quân đội nhà Trần.

"Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu."

            Mở đầu bài bằng âm hưởng thơ chữ Hán vừa cổ kính, trang nghiêm tác giả đã cho người đọc thấy rõ hình ảnh người tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo, dáng đứng đầy uy nghiêm, hùng dũng, kiên cường,họ đang đứng trong tư thế sẵn sàng chiến đấu vì tổ quốc, không ngần ngại trước mọi giặc thù mưu đồ xâm lược. Thoắt chốc đã làm hiện lên một khí thế áp đảo, nguồn sức mạnh to lớn tiềm tàng trong hai chữ ngắn gọn "hoành sóc". Song, bản dịch thơ lại dịch "múa giáo", phần dịch tiếc thay đã làm mất đi vẻ oai vệ, chắc chắn của hình ảnh.Tại sao lại nói như vậy? Vì ở đây "múa giáo" mang một trạng thái nhẹ nhàng,uyển chuyển, đó là một hành động xảy ra liên tục nhằm mục đích để biểu diễn trong khi đó hai từ "hoành sóc"được sử dụng chính là muốn thể hiện được tất cả tầm vóc lớn lao của người chiến sĩ đang đứng trong trạng thái đứng yên với một tư thế hiên ngang sẵn sàng trấn giữ đất nước, sẵn sàng hi sinh chính máu thịt của mình để đổi lấy tự do dân tộc, đó mới chính là ý nghĩa thật sư mà Phạm Ngũ Lão muốn nói đến còn việc sử dụng từ "múa giáo" này có lẽ là hơi thiên về phô diễn động tác, chưa lột tả được ý nghĩa cất chứa trong từ "hoành sóc". Chính vì sự oai hùng đó mà Phạm Ngũ Lão đã mang hình ảnh người tráng sĩ oai phong đặt vào không gian rộng lớn, bao la, vào chốn núi non trùng diệp, sông xanh nước biếc như tranh họa đồ.Ông không đặt hình ảnh đó vào nơi chiến trường tan hoang, dữ dội là vì ông biết sự kiên cường, dũng mãnh đó chỉ có thể là sự bao la của thiên nhiên, sự rộng lớn của giang sơn mới có thể sánh nỗi, hình ảnh của vị anh hùng chỉ có thể sánh ngang với tầm vóc kỳ vĩ của vụ trũ bao la . Ông lấy không gian bạt ngàn ấy làm thước đo, ông đo ngọn giáo trên tay người tráng sĩ bằng chiều ngang của non sông, đo tầm vóc người cầm giáo bằng kích thước của đất trời. Có núi sông làm bức nền, hình ảnh ấy lại càng thêm lớn lao, nổi bật. Xuất phát từ tinh thần làm chủ đất nước vô cùng sâu sắc, ý chí bảo vệ đất nước rất mực kiên cường, tầm vóc của người tráng sĩ đã được Phạm Ngũ Lão nâng lên một tầm cao mới, sánh ngang với đất trời. Vẫn không dừng lại ở đó, tư thế hiện ngang, tầm vóc hoành tráng ấy lại được đo bằng thước đo khác, thước đo thời gian: "kháp kỉ thu" - trải qua mấy thu, đã bao lần thu đến rồi đi, trôi theo chiều dài của lịch sử, đặc biệt "kháp kỉ thu" ở đây vừa mang ý nghĩa cá nhân, lại vừa mang ý nghĩa lịch sử.Về ý nghĩa cá nhân ý muốn nói con người họ đã đứng ở đây trấn giữ non sông đất nước một thời gian rất dài và nó vẫn không một chút suy dời,nó vẫn vững vàng như vậy, vẫn oai vệ như thế bởi nó đâu phải được gây dựng trong một phút chốc để dễ dàng tan biến như một thoáng qua. Còn về ý nghĩa lịch sử thì "kháp kỉ thu" muốn nói đến hình ảnh người tráng sĩ thời Trần, hình ảnh của dân tộc ta đã can đảm, dám đứng lên bảo vể đất nước, bảo vệ dân tộc trước tình thế xâm lược của giặc ngoại xâm , "kháp kỉ thu" tồn tại như một minh chứng, chứng minh cho tấm lòng yêu nước sâu sắc , một tấm lòng đã được hun đúc từ bao cuộc chiến, bao thử thách chông gai. Song, dù có cam go đến mấy, bóng người cầm ngang ngọn giáo vẫn vững vàng tư thế ngang tàn, oai phong lẫm liệt, vẫn hiên ngang đứng đó với một chí khí bền bỉ, một hoài bảo tung hoành của đấng nam nhi thời loạn lạc.Hình ảnh người trai thời Trần đó cũng chính là bức chân dung tự họa về mình của nhà thơ.Hình ảnh thơ này đã làm ta nhớ đến người chiến sĩ trong bài "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn "Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo".Câu thơ ý chỉ việc xông pha ra trận, đối mặt với kẻ thù hung bạo chẳng khác gì "vào ngàn hang beo". Vậy mà tư thế của họ vẫn lẫm liệt, uy nghi – một tư thế đẹp như những dũng sĩ trong huyền thoại .Đây chính là vẻ đẹp của lòng yêu nước, của một lý tưởng xả thân đầy tinh thần tự nguyện, đáng ngưỡng mộ vì đất nước. Có ai tưởng tượng được, qua ngòi bút của một vị anh tướng, thể đứng và sức mạnh của người tráng sĩ, hình ảnh con người kì vĩ, không gian kì vĩ, thời gian kì vĩ, tất cả đã được Phạm Ngũ Lão lột tả trọn vẹn chỉ trong bảy chữ của một câu thơ. Nếu duy chỉ một người tráng sĩ đã mang tầm vóc cao rộng đến thế, thì hình ảnh toàn đội quân Sát Thát sẽ chứa đựng một nguồn sức mạnh áp đảo, vô địch đến nhường nào? Như ông đã miêu tả: "Tam quân tì hổ" - hình ảnh so sánh làm bật lên sức mạnh tinh thần của khí ba quân. Như "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu cũng có viết:

"Thuyền bè muôn đội

Tinh kì phấp phới

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói"

          Tinh thần tự cường cùng con tim yêu nước đã cho toàn quân sức mạnh: nhanh như bão, khỏe như hổ, không ngần ngại trước mọi kẻ thù, với lòng trung quân ái quốc, giương cao ngọn cờ dân tộc, quyết chiến quyết thắng vì một đất nước Đại Việt mãi mãi trường tồn. Tam quân ở đây không chỉ là đang nói về ba đội quân mà còn đang khẳng định về một đội quân lớn nhất của một quốc gia dân chủ. Đôị quân ấy hiện lên với một khí thế ấy mạnh mẽ đến nỗi có thể nuốt trôi trâu, rực rỡ đến nỗi lần át cả sao Ngưu trên trời: "khí thôn ngưu". Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, tác giả không chỉ sử dụng nghệ thuật phóng đại để diễn tả sức mạnh nuốt trôi trâu bình thường mà ở đây Phạm Ngũ Lão còn dùng cả điển cố để nhấn mạnh về sức mạnh cảu quân đội nhà Trần . Như trong "Thập giới cô hồn quốc ngữ văn" của Lê Thánh Tông cũng có câu đề cập đến điển nuốt trâu, hay trong thơ của Đỗ Phủ cũng vậy điều này đã được ông sử dụng để nói về sức mạnh phi thường của con người, dù chỉ là một đứa trẻ năm tuổi có thể nuốt trôi được trâu. Liệu rằng mấy ai làm được như Phạm Ngũ Lão, chỉ với hai câu thơ ngắn ngủi, ông đã khắc họa vô cùng thành công tư thế của nhân vật trữ tình - kẻ làm trai thời Trần và tư thế đứng sức mạnh của một dân tộc trong một trang sử đầy vẻ vang với tầm vóc lớn, một quyết tâm lớn. Câu thơ bộc lộ niềm tự hào về con người,về quân đội và thời đại. Tác giả nói về chính mình, vừa nói cho cả thế hệ. Mang âm hưởng hào hùng ngân vang, thể hiện hào khí mạnh mẽ - hào khí Đông A, hào khí thời Trần.

         Nếu ở hai câu đầu, Phạm Ngũ Lão bày tỏ lòng tự hào về chân dung của người tráng sĩ thời Trần thì ở hai câu thơ cuối chính là tâm sự của nhà thơ về những lí tưởng làm trai trong thời đại phong kiến:

"Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu"

            Tráng sĩ "Bình Nguyên" ra trận mang theo một ước mơ cháy bỏng khát khao lập được chiến công để đền đáp ơn vua báo nợ nước. Bản dịch thơ có viết: "Công danh nam tử còn vương nợ" - vẻ đẹp của người làm trai thời Trần không chỉ thể hiện ở cái tư thế, khí phách, tầm vóc, sức mạnh mà còn thể hiện ở cái chí, cái tâm của người tráng sĩ. Cái chí, cái tâm ấy gắn liền với quan niệm chí làm trai. Đây không chỉ là lý tưởng riêng mỗi mình Phạm Ngũ Lão, chí làm trai đã trở thành một tư tưởng vô cùng tích cực của xã hội phong kiến đương thời, đó là lí tưởng của mọi trang nam tử.Nguyễn Công Trứ với "Chí làm trai" có viết:

"Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với nước non"

Theo quan niệm của Phạm ngũ lão đã làm trai thì phải để lại tiếng thơm cho đời. Song đã muốn được ghi danh thì phải lập công, dưới triều đại Đông A con đường lập công rõ ràng nhất chính là làm nên nghiệp lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trước sự xâm lăng của giặc Nguyên mông. Trong thời đại anh hùng mới sinh ra khát vọng anh hùng là vậy. Họ đang gánh vác trên vai sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của chính mình. Đây quả là một quan niệm nhân sinh cao đẹp của những con người chân chính, đặc biệt là của kẻ làm trai trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc. Song Phạm Ngũ Lão viết "vị liễu" tức chưa trả xong. Theo quan điểm của chí làm trai mà nói, thứ chưa trả xong, thứ còn vương nợ không khác gì ngoài công danh. Công danh mà nhà thơ nói đến trong bài phải là thứ công danh làm nên bằng máu xương, bằng tinh thần quả cam và chiến công. Đó không phải thứ công danh bình thường mà mang đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Trả xong nợ công danh có nghĩa là hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước. Quan niệm lập công danh đã trở thành lý tưởng của trang nam nhi thời phong kiến. Nó cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỷ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp lớn lao của cả dân tộc. Đặc biệt, cũng từ cái chí, cái nợ đó, ông đã nảy sinh trong tâm một nỗi thẹn: "luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu".Câu thơ đã sử dụng điển tích về Vũ Hầu tức Gia Cát Lượng, vị quân sư mưu lược như thần của Lưu Bị thời Tam Quốc. vừa có tài, vừa có tâm. Các nhà thơ trung đại mang tâm lí sùng cổ. Nỗi tự thẹn của Phạm Ngũ Lão là hiển nhiên. Phạm Ngũ Lão thẹn chưa có được tài mưu lược lớn như Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Đồng thời thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ hầu của ông. Tựa Nguyễn Khuyến cũng từng bày tỏ cái thẹn của Đào Tiềm qua "Thu Vịnh":

"Nhân hứng cũng vừa toan chấp bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào"

Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Nó không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng. Như vậy, Phạm Ngũ Lão vừa đề cao cái chí, vừa đề cao cái tâm của con người Việt Nam đời Trần. Đó chính là con người hữu tâm trong thơ ca trung đại Việt Nam.

Bài thơ đã khắc họa thành công hào khí thời nhà Trần - Hào khí Đông A. Đó là tâm hồn khí phách, bất kì ai cũng có tư tưởng tự hào dân tộc, ý chí quyết thắng chống kẻ thù xâm lược.Ý chí đó luôn là những tâm tư sâu kín của con người, là tâm sự đáng trân trọng của kẻ làm trai, là tâm trạng của cả một thế hệ trai tráng lúc bấy giờ. Rõ ràng nhất là không có đại từ xưng hô nào trong toàn bài thơ. Những con người suốt ngày canh cánh trong lòng thù nhà sợ nước, đặt trách nhiệm hách vác an nguy đất nước lên đôi vai mình. Hào khí ấy đã làm nên những chiến thắng lẫy lừng lưu danh sử sách. Ngoài ra , Nguyễn Trãi cũng đã thể hiện rõ tài năng của mình qua việc sử dụng bút pháp gợi về những ấn tượng bao quát, đạt đến độ súc tích cao thể hiện được sự hoành tráng của toàn thể quân đội nhà Trần.

Cuộc sống là nơi cung cấp chất liệu cho thơ. Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống, cho nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hình cuộc sống, bóng hình con người. Thơ ca là nơi con người gửi gắm tâm tình, ước mơ, những băn khoăn, rạo rực, ưu tư. Và "Thuật Hoài" của Phạm Ngũ Lão cũng chính là bức chân dung thể hiện được cái chí, cái tâm của tác giả. Bài thơ mang trong mình cái khí thế hào hùng của cả một thời đại, đó là khát vọng, hoài bão lớn lao đang ngày đêm nung nấu trong lòng vị tướng trẻ. Phạm Ngũ Lão đã tái hiện lại một cách hoàn mĩ nhất hình ảnh trang nam nhi, sức mạnh và khí thế của quân đội nhà Trần, ngân lên một nốt thăng của hào khí Đông A mà cho đến ngày nay vẫn còn vang vọng. Ngày xưa, tôi yêu những vần thơ trung đại vì sự sâu sắc trong từng câu thơ, mỗi câu, mỗi chứ đều ẩn chứa những "hương vị" cuộc đời. Nay tôi lại càng thấy say đấm hơn trước những dòng thơ chứa đựng tinh thần bất khuất, kiên cường, và ý chí mạnh mẽ của con người "chất chứa" trong đó. 

( Bài viết được thực hiện bởi Lê Thị Nhã My - HS Lớp Chuyê Vật Lý khóa 32 )

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#văn10