TĐXKK

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đề: Phân tích tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của tác giả Phạm Tiến Duật

Bài làm

I. MỞ BÀI

"Trường Sơn đông nắng tây mưa

Ai chưa đến đó như chưa biết mình"

-Tố Hữu-

Trong những tháng năm sục sôi khí thế "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ", trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật. Từng là người chiến sĩ lái xe, lăn lộn trên con đường Trường Sơn đầy khói lửa, từng cùng đồng đội vào sinh ra tử, cùng họ cống hiến thanh xuân cho Tổ Quốc. Phạm Tiến Duật đã dùng chính những trải nghiệm của mình để từ đó viết nên "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"- một khúc hát hào hùng, ca ngợi những phẩm chất cao điệp của người lính thời đó.

II. THÂN BÀI

1. Tổng:

Được ra đời vào năm 1969, in trong tập thơ "Vầng trăng quầng lửa". Khi ấy cuộc kháng chiến chống Mỹ của nước ta đã đến hồi ác liệt. Bài thơ đã tái hiện lại cuộc sống và hoàn cảnh chiến đấu gian khổ đồng thời ca ngợi những phẩm chất cao đẹp cũng những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Con đường Trường Sơn bấy giờ đã trở thành con đường huyết mạch quan trọng để miền Bắc chi viện cho miền Nam. Là cầu nối quan trọng của hai miền Nam Bắc, bởi thế mà nó còn là trọng điểm đánh phá quan trọng của giắc Mỹ ,hằng ngày hứng chịu bom đạn ác liệt

2. Phân tích khổ thơ đầu

Mở đầu bài thơ khung cảnh chân thật trên tuyến đường Trường Sơn thông qua một hình

ảnh hết sức tự nhiên:

"Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi"

Ở câu thơ đầu tiên là hàng loạt phép điệp ngữ phủ định "không" kết hợp với những câu thơ đậm chất văn xuôi làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh những chiếc xe Trường Sơn trong thời kì đánh Mỹ. Cấu trúc thơ độc đáo, ba chữ "không" đi liền nhau kết hợp với hai nốt nhấn "bom giật", "bom rung" cho ta thấy giọng điệu phóng túng, hồn nhiên đậm chất khẩu ngữ của người lính thời ấy. Ngay từ những câu đầu bài thơ, tác giác đã lí giải nguyên nhân vì sao những chiếc xe ấy không có kính qua điệp từ "bom" và các động từ mạnh "giật", "rung". Từ đó tô đậm lên khốc liệt và dữ dội của chiến tranh, bom đạn khiến những chiếc xe bị tàn phá nặng nề, mình đầy thương tích đồng thời là sự hiểm nguy khi đối mặt với quân thù, với cái chết kề cận. Tuy nhiên, cụm từ "kính vỡ đi rồi" cho ta thấy được sự thoải mái, thái độ bình thản đến bất ngờ của ngờ lính bởi với các anh bom đạn là một chuyện bình thường, không đáng bận tâm. Trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ ấy, hình ảnh người lính hiện lên lại thật ung dung, bất khuất:

"Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng"

Phép đảo ngữ "ung dung buồng lái ta ngồi" kết hợp với điệp từ "nhìn" được láy lại ba lần đã tạo nên một giọng thơ mạnh mẽ, nhịp thơ đều đặn thể hiện tâm thế hiên ngang, bình thản trước khó khăn, làm chủ hoàn cảnh của những người lính lái xe. "Nhìn đất" là đang quan sát đường đi, "nhìn trời" là để canh chừng máy bay địch và "nhìn thẳng" chính là để tiến về phía trước. Tất cả những gì người lính nhìn thấy và cảm nhận được đã cho ta thấy thái độ bình tĩnh, hiên ngang khi đối mặt với chông gai thử thách đồng thời lại hết sức tập trung vào nhiệm vụ. Đặc biệt nhịp thơ 2/2/2 khiến cho người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe khi đang trên đường ra trận bất chấp bom giật bom rung mà tiến về phía trước. Từ đó gợi lên hình ảnh những người lính lái xe với một tư thế ung dung tuyệt đẹp, một tư thế bình tĩnh, tự nhiên và cái nhìn xa xôi đầy dũng mãnh và hiên ngang của họ. Người ta vẫn thường nói "Đôi mát là cửa sổ tâm hồn". Thật vậy, những câu thơ kế tiếp tựa như một thước phim quay chậm về những cảm nhận của người lính lái xe trước khung cảnh nơi đây thông qua khung kính vỡ:

"Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sao như ùa vào buồng lái"

Bằng các biện pháp điệp ngữ, liệt kê và những hình ảnh ẩn dụ vừa thực vừa đầy chất thơ, nhà thơ đã gợi lên trong lòng người đọc vô vàn cảm xúc. Trên chiếc xe không kính đầy bất tiện, người lính đã cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, của con đường bằng thị giác, xúc giác và cả sự trải nghiệm của chính mình. Phép liệt kê cho ta thấy được hình ảnh con đường gió thổi, có cánh chim ban chiều và cả những ánh sao đêm. Lối nói nhân hóa chuyển đổi cảm giác "gió vào xoa mắt đắng" đã được sử dụng một cách rất ấn tượng. Từ "đắng" ở đây được dùng thật đắt, đó là cách nói giảm nói tránh để làm giảm đi cảm giác cay xè khi gió Trường Sơn lồng lộng thổi vào mắt. Từ đó làm cho những nỗi khó khăn, trắc trở của các anh bỗng vơi đi rất nhiều. Xe không kính cũng có cái hay của nó, giúp cho người chiến sĩ có tầm nhìn rộng hơn để rồi từ đó thấy được một hình ảnh ẩn dụ hết sức tinh tế "con đường chạy thẳng vào tim. Hình ảnh "con đường chạy thăng vào tim" là hình ảnh con đường huyết mạch, con đường Trường Sơn. Đồng thời con đường ấy cũng chính là con đường chiến đấu lý tưởng, là con đường cách mạng để giải phóng, là con đường tiến về miền Nam để giải phóng, đưa dân tộc ta đến với chiến thắng của độc lập, tự do. Con đường ấy giờ đây chạy thăng vào trong tim của người chiến sĩ như một lí tưởng sống và chiến đấu cao đẹp. Và không chỉ có gió, con đường mà ngay cả bầu trời sao, cả những cánh chim rừng giờ đây đang ùa vào "buồng lái". Khổ thơ đậm chất nhạc điệu với những điệp ngữ. Bên cạnh đó còn có những động từ, từ láy và tính từ rất sinh động, gợi cảm như "đột ngột", "sa", "ùa" tạo cảm giác như đoàn xe không kính đang lướt nhanh, băng qua bom đạn một cách dũng mãnh, hào hùng. Đường ra trận gian nguy, trắc trở đến thế, ấy vậy mà chỉ trong một khoảnh khắc hòa mình vào thiên nhiên, được nhìn thấy một ánh sao trời, mộ cách chim bay cũng đủ làm cho tâm hồn họ xao xuyến. "Sao trời" và "cánh chim" ở đây chính là những hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho ước mơ và hòa bình đồng thời là ánh sáng soi đường chỉ lối cho các anh khi đêm về, là người bạn đồng hành cùng các anh ra trận. Cái nhìn ở đây không ocfn là cái nhìn thông thường nữa mà ở đây nó đã được nâng lên thành cái nhìn được soi sáng bởi quyết tâm, lí tưởng cao đẹp, là cái nhìn cho ta thấy được sự lạc quan yêu đời, hi vọng vào tương lai phía trước. Câu thơ với cảm xúc dạt dào không khỏi khiến người đọc phải liên tưởng đến những dòng thơ khác của ông:

"Đường ra trận mùa này đẹp lắm

Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây."

( Trường Sơn đông Trường Sơn tây)

Phải chăng đó cũng chính là nét đẹp hào hùng nhưng lãng mạn của những người lính trẻ trên tuyến đường Trường Sơn, một nét đẹp đậm chất hiện thực hòa quyện cùng cảm hứng lãng mjn bay bổng của nền thi ca thời cách mạng. Nếu như ở hai khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã khắc họa vẻ dũng cảm, hiên ngang của họ thì những khổ thơ tiếp theo lại là nét đẹp của họ khi đứng trước khó khăn:

"Không có kính, ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi."

Bằng giọng thơ ngang tàn, thản nhiên mà lại dí dỏm, kết hợp với lời thơ mộc mạc, giản dị giống như những lời nói hàng ngày. Đặc biệt những trong hai khổ thơ vẫn là phép điệp cấu trúc: "không có... ừ thì... chưa cần" góp phần tạo nên sự thành công của khổ thơ. Từ đó, làm nổi bật lên niềm vui, tiếng cười được cất lên trong gian khổ cho ta thấy được vẻ đẹp lạc quan của họ. Cách nói "ừ thì" đậm chất khẩu ngữ cho ta thấy được nét tự tin lại có chút bướng bỉnh của người lính. Nếu như hai câu thơ đầu tái hiện những khó khăn, trắc trở mà người lính phải đối mặt thì hai câu sau lại là hình ảnh đối lập, hình ảnh người lính vẫn nở nụ cười mà vượt lên trên gian khó.

Lái chiếc xe không kính, những người lính phải đối mặt với biết bao chông gai thử thách không chỉ là cái gió lồng lộng làm rát mặt mà còn là "bụi". Số bom mà địch dội xuống nơi đây có thể tính bằng tấn, bởi thế mà con đường Trường Sơn bị bom đạn ngày đêm cày xới trở nên tan nát, khói bụi dày đặc. Những ngày nắng nóng, "bụi" theo gió cuốn mà "phun" vào buồng lái, "phun" vào mặt, vào mắt, vào tóc của các anh. "Bụi" khiến cho những mái đầu phơi phới thanh xuân nay trở nên bạc trắng hệt "người già". Gian khổ là thế, ấy vậy mà người lính lại chẳng hề bận tâm, ngược lại còn "phì phèo châm điếu thuốc". Và khi chuyền tay nhau "điếu thuốc", nhìn thấy khuôn mặt lấm lem của nhau thì lại bật lên tiếng cười "ha ha". Cái cử chỉ "phì phèo châm điếu thuốc" ngang tàn, cái giọng cười "ha ha" đầy sảng khoái, vô tư đã cho ta thấy thái độ bất chấp gian khổ, sự sôi nổi lạc quan mà thậm chí coi khó khăn là bạn, là niềm vui của các anh. Những khó khăn mà các anh phải đối mặt đâu chỉ là khói bụi mà còn là những cơn mưa bất chợt. Những cơn rừng dữ dội theo cửa kính đã vỡ thi nhau "tuôn", "xối" vào buồng lái làm các anh lạnh cóng, quần áo thì ước sũng. Tại sao dù đã lấm lem, ướt súng vì "bụi", vì "mưa" mà các anh vẫn bất chấp tận dụng lúc trời mưa để chiếc xe đi nhau hơn "trăm cây số" nữa? Các anh còn tự nhủ rằng "mưa ngừng gió lùa khô mau thôi" để động viên nhau đi tiếp. Đăng sau đó còn là vô vàn những khó khăn gian khổ như mảnh bom, lửa đạn hay thân cây rừng bị phạt ngang... có thể cướp đi sinh mạng người lính bất cứ lúc nào. Ấy vậy mà các anh vẫn bình thản như không, thậm chí các anh còn coi những chông gai đó là thử thách để tôi rèn bản thân. Phải chăng sự kiên cường, bất khuất ấy xuất phát từ trái tim nồng nàn, yêu thương tha thiết đối với Tổ quốc. Hơn ai hết các anh hiểu rằng chiến trường đang mong đợi từng phút từng giây, tiền phương đang ngóng trông vẫy gọi

Họ không dám chậm trễ không phải chỉ bởi mệnh lệnh của cấp trên mà còn là mệnh lệnh của trái tim. Các anh sợ rằng sẽ ảnh hưởng tới tiến độ, ảnh hưởng đến tiến độ, đến tuyến xe chi viện cho miền Nam. Đó không còn là sự kiên cường, lạc quan mà còn là tinh thần trách nhiệm của người lính đối với miền Nam, đối với Tổ quốc và dân tộc:

"Xe ta thêm một vòng quay

Miền Nam bớt được một ngày đau thương"

Kế đến, nhà thơ một lần nữa cho ta thấy được vẻ đẹp của người lính không chỉ là sự lạc quan, dũng cảm, kiên cường mà còn là vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội:

"Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội"

Mở đầu khổ thơ là một hình ảnh đậm chất hiện thực nhưng lại rất độc đáo, đó là hình ảnh cả tiểu đội trong những chiếc xe không kính. Cụm từ "trong bom rơi" không chỉ phản ánh lại hiện thực tàn khốc của chiến tranh mà còn gián tiếp khẳng định những trang lịch sử hào hùng của dân tộc ta, của những chiếc xe không kính, của những người lính lái xe. Hình ảnh đó còn cho ta thấy được nét đẹp dạn dày sương gió, trải qua bom đạn của người lính, họ đã cùng nhau vào sinh ra tử, cùng chiến đấu với xe tăng bom đạn của kẻ thù. Từ khắp mọi nơi trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa, vượt qua bao hiểm nguy, bom đạn, những người lính đã về đây, quây quần thành tiểu đội rồi lại nối đuôi nhau đi tiếp. Càng trải qua bao gian nan trắc trở thì tình đồng chí của họ lại càng thêm ngời sáng:

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi."

Những câu thơ với âm điệu vui tươi đã diễn tả rõ niềm hân hoan của người lính khi được gặp đồng đội "suốt dọc đường đi tới". Dẫu cho đây là lần đầu gặp gỡ, các anh vẫn coi nhau như là bạn bè thân thiết. Khung cửa kính vỡ đồng nghĩa với bao hiểm nguy, gian khổ. Ấy vậy mà người lính lại coi nó là cơ hội, là điều kiện thuận lợi để giao lưu, gặp gỡ. Cái "bắt tay" vội vã "qua cửa kính vỡ" ấy không chỉ là lời chào đồng chí mà nó còn là lời khích lệ, động viên nhau vượt qua khó khăn, thiếu thốn để bước tiếp. Hình ảnh ấm áp này để gợi cho tay những cái nắm tay thân thương của người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu kháng Pháp của Chính Hữu:

"Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Đó không phải là cái bắt tay ngang tàn, hào sảng mà là cái bắt tay thân thương, đồng cảm của những người lính trẻ. Cái bắt tay như tiếp thêm sức mạnh, tiếp sức cho những người lính vượt qua Trường Sơn khói lửa. Đồng thời, cái bắt tay ấy còn là lời cầu chúc bình yên, là lời hứa hẹn nhau về Sài Gòn trong ngày vui chiến thắng. Từ hình ảnh giản dị đó, người đọc hiểu thêm phần nào tình đồng chí thiêng liêng, gắn bó của những người chiến sĩ năm ấy. Dù cho chặng đường hành quân có gian nan, khốc liệt bao nhiêu thì những người lính vẫn có những giây phút ngắn ngủi yên bình để sum họp. Giữa chiến trường hiểm nguy ấy, họ vẫn cùng nhau tận hưởng niềm vui của gia đình, của đồng đội:

"Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy"

Hình ảnh người chiến sĩ cùng nhau dựng "bếp Hoàng Cầm", cùng sum vầy với nhau để thưởng thức bữa cơm dã chiến giữa cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn càng thấm đượm tình đồng chí. "Chung bát đũa" là hình ảnh chân thật, vô cùng giản dị ấy thế mà lại gây bao xúc động trong lòng người đọc. Qua hình ảnh ấy, ta lại càng thấm thía được tình đồng đội sẻ chia, gắn bó của người lính. Từ nơi chiến trường ác liệt, mỗi người mỗi quê hương khác nhau ấy vậy mà lại về đây cùng nhau thưởng thức bữa cơm ngắn ngủi chẳng đủ thời gian để biết tên nhau hay thậm chí là nhớ từng khuôn mặt. Đó không chỉ là tình đồng chí của những con người cùng chung lí tưởng mà nay đã trở thành tình cảm "gia đình", tình anh em chí cốt chân thành mà vô cùng ấm áp. Giữa chiến trường khói lửa, những người lính có cùng chí hướng đã về đây, hội tụ thành một đại gia đình. Nói về tình đồng chí, ta có thể thấy được tình cảm thiêng liêng đó qua tác phẩm "Đồng chí" của nhà thơ Chính Hữu hay của Lê Minh Khuê với "Những ngôi sao xa xôi"... nhưng ví tình đòng chí gần gữi, ấm áp như tình anh em ruột thịt thì chỉ có ở thơ của Phạm Tiến Duật. Đây chính là nét độc đáo đặc biệt trong thơ ông. Sau những giây phút nghỉ ngơi ngắn ngủi thì người lính lại không ngừng tiến về phía trước, tiến về miền Nam

"Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm"

Từ láy "chông chênh" gợi lên sự bấp bênh, vội vàng của những chiếc xe trên con đường gập ghềnh. Vì thế mà giấc ngủ của những người lính trên xe ấy cũng trở nên vội vã đến nhường nào. Có được sức mạnh và niềm tin từ tình đồng đội, tình yêu Tổ quốc, vì thế nen dù võng mắc có "chông chênh", đường xe chạy có ghập ghềnh khiến cho giấc ngủ của các anh có vội vã đến thì chiếc xe của họ vẫn không ngừng tiến về phía trước. Điệp ngữ "lại đi" kết hợp với nhịp thơ 2/2/3 tạo nên nhịp thơ sôi nổi của đoàn xe đang hối hả về phía trước. "Trời xanh" ở đây là hình ảnh ẩn dụ cho ngày đất nước được hòa bình, Nam Bắc thống nhất. Đó chính là màu xanh hòa bình, hi vọng, là sự lạc quan và niềm tin của người chiến sĩ. Chính vì niềm tin ấy mà các anh đã không tiếc thanh xuân của mình để đến với chiến trường, tìm lại độc lập cho Tổ quốc.

Khổ thơ cuối là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ, hình ảnh của người chiến sĩ với một vẻ đẹp của lòng yêu nước trước những khó khăn gian khổ mà trước hết thể hiện qua hai câu thơ:

"Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước"

Hai cầu đầu đã gợi lên những khó khăn, trắc trở của người lính trên chiến trường, những mất mác do bom đạn, kẻ thù gây ra. Điệp ngữ "không có" được lặp lại ba lần kết hợp với phép liệt kê: "kính", "đèn", "mui xe" và "thùng xe" cho ta thấy những gian khổ của người lính dường như được nhân lên thành nhiều lần. Càng tiến vào chiến trường, họ lại càng phải chiến đấu nhiều hiểm nguy ác liệt mà thậm chí là cái chết. Đối mặt với những chông gai ấy, người lính vẫn bình thản như không, thậm chí là còn thách thức. Bởi đối với họ, khó khăn ấy chính là thử thách nhỏ nhoi để họ vượt qua, để tiến về phía trước đi tìm độc lập. Khó khăn là thế nhưng chiếc xe của họ vẫn chạy bon bon, không hề lùi bước:

"Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim"

"Xe vẫn chạy" là một lời khẳng định đầy mạnh mẽ của người lính: dẫu cho có phải chiến đấu với bao hiểm nguy rình rập của quân thù thì người lính vẫn sẽ không bao giờ lùi bước bởi một miền Nam còn đang trong tình thế nước sôi lửa bỏng, bởi đất nước còn chưa thống nhất, dành lại độc lập, tự do. Để làm được điều đó, họ chỉ cần "có một trái tim" bởi chiếc xe của họ không chỉ chạy bằng nhiên liệu mà còn chạy bằng trái tim. Câu thơ là hình ảnh ẩn dụ đối lập vô cùng độc đáo, nếu như câu thơ trên đã nói lên những thiếu thốn của người chiến sĩ thì ở đây nhà thơ đã khẳng định rằng chỉ cần một cái "có" cũng đủ để cân bằng tất cả những cái "không có" ở trên. "Trái tim" ở đây vừa là hình ảnh hoán dụ vừa là hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho một trái tim chưa chan tình yêu Tổ quốc, trái tim ngày đêm luôn nhắc về hai tiếng "miền Nam" thiêng liêng. Vì "miền Nam" người lính có thể vượt qua mọi gian khổ, chỉ cần "có một trái tim", người chiến sĩ và chiếc xe của họ có thể vượt qua bom đạn kẻ thù mà tiến về "phía trước" đi tìm độc lập. Chính tình yêu và lí tưởng ấy đã luôn cầm lái, là cội nguồn sức mạnh, là động lực thúc đẩy người lính vượt qua gian nan trắc trở và thậm chí là hi sinh thân mình vì Tổ quốc. Lí tưởng sống cao đẹp của họ cũng đã từng được nhà thơ Thanh Thảo khẳng định qua những câu thơ:

"Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

Tuổi hai mươi làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc"

Lời thơ nhẹ nhàng như một lời khẳng định chắc nịch mà lại vô cùng ngắn gọn. Có thể nói câu thơ cuối là "con mắt của thơ", làm sáng ngời lên vẻ đẹp của người lính. Thiếu thốn là vô kể nhưng kết lại sức mạnh của họ chính là tình yêu, tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào hóa thành ý chí. Chính khát vọng giải phóng miền, đi tìm độc lập cho Tổ quốc đã thắp lên trong tâm hồn của người chiến sĩ một ý chí, một sức mạnh phi thường

"Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí

Sống chẳng cúi đầu chết vẫn ung dung

Gi ặc muốn ta nô lê, ta lại hóa anh hùng

Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo

-Tố Hữu-

Bằng giọng thơ tinh nghịch, dí dỏm mà sôi nổi, ngang tàn kết hợp với những hình ảnh ẩn dụ độc đáo mà đậm chất hiện thực từ chính những trải nghiệm của bản thân, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã thành công xây dựng hình tượng của thế hệ trẻ Việt Nam ngày ấy qua người lính lái xe Trường Sơn với những phẩm chất cao đẹp và những chiến công bất diệt của họ.

Tóm lại, bài thơ dưới ngòi bút của tác giả với một giọng thơ trẻ trungngang tàng; giàu tính nhạc điệu...Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công những chiếc xe không kính và làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ. Những cô gái thanh niên xung phong, những chiến sĩ mà đặc biệt là người lính lái xe trong thơ của Phạm Tiến Duật cũng chính là hình ảnh của thế trẻ Việt Nam ngày trước. Dù chiến tranh đã đi xa, lịch sử dân tộc đã bước sang trang mới nhưng hình ảnh của những người lính, những cô gái "xẻng tay mà viết nên trang sử hồng" năm ấy vẫn sẽ sống mãi trong lòng dân tộc. Càng hiểu và thấm thía công lao của họ, thế hệ trẻ chúng ta ngày nay càng phải sống sao cho xứng đáng với những gì mà cha ông ta đã gày dựng

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro