CHƯƠNG I

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG I

Hàn Sinh vừa mơ màng thì chợt thấy cô gái có mái tóc dài phủ bờ vai, mặc áo dài lụa màu tím hoa cà, quần lãnh trắng, giày nhung có gắn cườm, đội khăn choàng màu tím than để lộ khuôn mặt trái soan, vành môi trái tim, sống mũi dọc dừa, cặp mắt long lanh mơ màng như sương khói. Hàn Sinh hơi mất bình tĩnh trước một nhan sắc mà chàng chưa từng thấy bao giờ, và nhìn đắm đuối như bị thôi miên, bùa ếm. Thiếu nữ mỉm cười, liếc mắt như để dò xét rồi nói một giọng êm ái :

– Chàng làm gì mà nhìn thiếp dữ vậy ? Bộ thiếp lạ lắm sao ? Thiếp vẫn thường ở đây từ lúc chàng đến nhưng không tiện đến hàn huyên tâm sự cùng chàng vì âm dương cách trở. 

Hàn Sinh nghe “vì âm dương cách trở” là tự biết không phải người thế gian nên ngập ngừng gượng gạo nói giọng hơi run :

– Thưa tiểu thơ, kẻ hèn này thất lễ xin tiểu thơ miễn chấp. Xin mời tiểu thơ ngồi.

Người con gái nghiêm nét mặt chăm chú nhìn Hàn Sinh hồi lâu rồi nói nhẹ nhàng :

– Đây là nhà của thiếp. Thiếp mời chàng ngồi mới đúng phép.

Hai người ngồi cạnh cửa sổ nhìn ra vườn, cành lá sum sê đầy hoa trái với nhiều màu sắc sặc sỡ. Nhìn ra xa dòng suối uốn cong như một bức tranh cổ tích. Không khí yên lặng bao trùm, Hàn Sinh như người nửa tỉnh, nửa mê và tự nhủ “ Chẳng lẽ mình đang nói chuyện với ma”?

Như đoán được ý nghĩ, người con gái lạnh lùng lên tiếng : 

– Chàng cho rằng đang nói chuyện với ma.

Hàn Sinh rất ngạc nhiên nên vội hỏi:

– Ai dạy tiểu thơ biết được ý nghĩ của người khác?

Người con gái nhìn Hàn Sinh hồi lâu rồi mỉm cười nói một cách thân tình :

– Đây là cõi tư tưởng nên người đối diện nghĩ cái gì là hiểu ngay tức khắc. Thiếp đâu cần phải học mới biết, đó là việc tự nhiên. Chàng nên biết sự vận hành của tư tưởng giống như phát sinh một tia chớp, nó thu hút những năng lượng trong thiên nhiên; năng lượng này lúc đầu mong manh như sợi tơ, và dần dần kết hợp thành những mãnh lực. Hiện tại chàng đang sống trong cõi tư tưởng còn gọi là cõi trung giới hay cõi âm cảnh. Tại cõi này được cấu tạo bằng chất thanh khí có nguyên tử nhỏ hơn nguyên tử cõi hồng trần và nguyên tử của nó có sự rung động nhanh hơn nguyên tử hồng trần; vì lẽ đó nên nó đi xuyên qua được vật chất cõi hồng trần. Thôi thiếp nói cho dễ hiểu đây là cõi có bốn chiều đo; vì chàng còn mang tâm thức Hồng Trần nên chàng chỉ biết có ba chiều đo, dù thiếp có nói gì đi nữa chàng cũng không biết gì hết. Như chàng thấy nhà này đóng cửa kín mít mà thiếp vẫn đi vô một cách dễ dàng, thiếp gặp chàng trong cõi giới có bốn chiều đo. Nói theo cách khác, thiếp gặp chàng bằng thể vía của chàng chứ không phải thể xác.

Nàng vỗ nhẹ lên vai Hàn Sinh, mỉm cười:

– Chàng nhìn kia ! Cái thể xác của chàng đang nằm chèo queo trên bộ ván.

Hàn Sinh xoay qua thì thấy đúng là thể xác của mình. Lần đầu tiên trong đời Hàn Sinh nhìn thấy toàn thể cái thể xác của mình, một sinh vật đang nằm bất động. Người con gái để cho Hàn Sinh suy nghĩ hồi lâu rồi lên tiếng :

– Như chàng vừa thấy cái thể xác của chàng thì sự chết của chàng cũng giống như vậy mà thôi. Nghĩa là linh hồn xuất ra khỏi thể xác và nhìn lại nó thì nó chỉ là một vật vô tri bất động nhưng sự hiểu biết của linh hồn thì vẫn y nguyên như vậy. Chàng nên biết tất cả mọi sự đều được cấu tạo bằng những chất liệu Thiêng Liêng trước khi được cấu tạo bằng những năng lực vật chất; nghĩa là vật chất trong cõi hữu hình cũng từ trong cõi vô hình mà ra. Bởi vì, tất cả vật chất trong các cõi chỉ là những nguyên tử nhưng chúng có sự rung động khác nhau; chính vì có sự rung động khác nhau nên mỗi người có quan niệm khác nhau trong sự sống. Hiện tại thì chàng đang sống bằng thể vía mà người thế gian gọi là chiêm bao và tiếp xúc với thiếp cũng bằng thể vía. Đó là định luật “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” thì thể vía chỉ có thể tiếp xúc với thể vía mà thôi. Thôi bỏ qua đi, bây giờ cho thiếp hỏi : Chàng đến đây với mục đích gì ?

Hàn Sinh chau mày như cân nhắc một vấn đề quan trọng trước một người không phải bình thường, hồi lâu rồi lên tiếng :

– Thực tình thì tôi cũng chưa biết mục đích chuyến đi của mình, chẳng qua là do tuổi trẻ với lòng ham muốn, muốn biết những gì mà tôi không trả lời được bằng cái trí suy luận cụ thể của mình. Tôi sống ở vùng đồng bằng, một hôm theo người bạn lên miền cao nguyên rừng núi. Núi thì trùng điệp, rừng thì bạt ngàn, vì vô ý khi di chuyển, không bẻ cây làm dấu nên lạc mất lối đi. Tôi lần mò đến lưng chừng thung lũng thì gặp một ngôi nhà, không biết xây dựng vào thế kỷ nào mà thành vách như rêu phong phủ kín. Tôi vất vả lắm mới chen qua nhiều bụi rậm rạp, đạp trên những đám cỏ khô xôm xốp và rẽ qua nhiều lối quanh của khuôn viên, cuối cùng thì tôi tìm được một cánh cửa để mở  và tôi đi vào ngôi nhà này. Đó là sơ lược về tôi, xin thưa tiểu thơ, nếu không có gì thất lễ, kẻ hèn nầy có thể xin tiểu thơ cho biết sơ qua về mình để kẻ hèn nầy dễ tâm sự.

Người con gái nhìn ra cửa sổ, đôi mắt mơ màng như cố nhớ một cái gì chìm trong quá khứ. Hàn Sinh liếc nhìn người con gái nét mặt đăm chiêu, nỗi buồn hiện lên gương mặt rồi bỗng nhiên sắc mặt trở lại bình thường. Hồi lâu người con gái buồn bã lên tiếng :

– Thuở còn sinh tiền, thiếp cũng như những người con gái khác, cũng đều mong ước, cũng đều ước ao cho mình có một mái ấm gia đình, có một người bạn chân thành trong tình yêu, có  một đàn con ngoan ngoãn. Cái niềm mơ ước của thiếp được làm vợ, làm mẹ, đó là niềm hạnh phúc nhất của người con gái. Nhưng vượt lên trên những ao ước bình thường đó còn có những nhỏ nhoi thấp thỏi của cuộc đời, những ganh tỵ hơn thua của một người chen nhau vì chỗ đứng chỗ ngồi. Thiếp không muốn ai hơn mình, với cái nhan sắc sẵn có thiếp tự hào mình muốn là được. Với cái nhan sắc đó, với cái dòng dõi quí tộc đó, cái hạnh phúc mà thiếp mơ ước chỉ nằm trong tầm tay mà thôi. Có rất nhiều công tử đến cầu hôn với thiếp, nhưng có điều là thiếp xin phép với phụ mẫu của thiếp là cho phép thiếp được tiếp xúc với người đó trước khi nhận lễ cầu hôn. Qua những lần tiếp xúc với nhiều công tử, thiếp thấy hình như họ đến với thiếp chỉ vì ham muốn cái nhan sắc, ham muốn cái danh xưng, cái tước hiệu, cái giai cấp của gia đình thiếp. Sau nhiều lần tiếp xúc và tìm hiểu thiếp thấy rằng họ chỉ đóng kịch, họ chỉ sống bằng hình thức chứ không có tình yêu chân thật. Vì lẽ đó thiếp từ chối tất cả những công tử đến với thiếp. Gia đình thiếp rất buồn vì thiếp cứ lần lựa hoài mà không chấp nhận, gia đình sợ rằng tuổi xuân của người con gái sẽ tàn phai nhanh như một đóa hoa, sự biến đổi theo thời gian, một sự vật vô thường kia mà. Không biết tại sao thiếp chỉ thích sự chân thật, bất cứ sự giả dối nào cũng làm cho thiếp khó chịu. Thiếp vẫn kiên tâm chờ đợi một người có tấm lòng chân thật. Chẳng may thiếp bị bạo bệnh và chết trong lúc tuổi còn thanh xuân.

Hàn Sinh nhìn thiếu nữ vóc liễu đào tơ ngồi co ro như thấm lạnh hơi sương của miền núi, ở một vùng hoang vu như thế này chỉ có chim chóc và thú rừng. Động lòng trắc ẩn, Hàn Sinh nói bằng giọng thương hại :

– Thưa tiểu thơ, ở đây tiểu thơ  lấy gì để sống ?

Thiếu nữ bật cười, âu yếm nhìn Hàn Sinh :

– Cám ơn chàng đã quan tâm đến sự sống của thiếp. Chàng nên biết vũ trụ có nhiều cõi giới khác nhau và mỗi cõi giới đều có sự sống thích hợp cho mỗi thể của con người. Mỗi cõi giới, Đấng Tạo Hóa đều có tạo ra sự sống cho sinh linh sống trong cõi đó. Vì linh hồn bất tử cho nên khi linh hồn đến cư ngụ ở cõi nào thì vẫn sống thoải mái mà thôi. Sự đau khổ của con người là do y không chấp nhận cái cõi giới mà “Ông Trời” đã tạo ra cho y. Giống như cõi trần, con người không chấp nhận hoàn cảnh đang sống mà cứ ao ước ngoài khả năng của mình nên sinh ra đau khổ. Nói cho gọn là sự đau khổ là do con người không biết chấp nhận, không bằng lòng với hiện tại của y; vì hạnh phúc hay đau khổ đều do “tâm tạo”. Những vong linh, hồn ma vất vưởng, ma đói, là do y không chấp nhận cái cảnh mà luật thiên nhiên cho phép y đến; như vậy y đã vi phạm luật thiên nhiên nên sinh ra đau khổ. Hiện tại thì chàng còn mang tâm thức cõi hồng trần cho nên mọi sự lý luận chỉ có biết vật chất  hồng trần mà thôi. Dù chàng là người có học thức nhưng cái kiến thức qua sách vở để kiếm văn bằng tại các đại học là cái kiến thức để phục vụ xã hội, người bình dân gọi là kiến thức cơm cháo, kiếm cái danh trong biển vật chất. Dù chàng có trở lại thế gian hàng trăm kiếp, qua sự lý luận của thể xác bằng ngũ quan để tiếp xúc với vật chất hồng trần thì một kiếp người cũng giống như chiếc lá trôi theo dòng nước; vì không có phần tâm linh dìu dắt chỉ hướng đi, nên sống như lục bình trôi. Chàng nên biết mỗi tâm linh đều có chủ quyền đối với phần tử vật chất của nó; sự sa đọa, sống hời hợt, chiều theo dục vọng thấp hèn bỉ ổi, táng tận lương tâm, chẳng qua là việc làm thiếu ý thức, quên mất nguồn gốc Thiêng Liêng. Vì tất cả mọi người đều là các thực thể tâm linh trước thuở khai thiên lập địa và chính họ đã góp phần vào công việc tạo lập này.

Hàn Sinh chăm chú lắng nghe mà sao có nhiều tư tưởng chàng không hiểu gì hết. Chàng trầm ngâm một hồi rồi lên tiếng :

– Thưa tiểu thơ, tiểu thơ vừa nói mỗi cõi giới chỉ thích hợp cho mỗi thể của con người, xin tiểu thơ giải nghĩa cho tường tận.

Người con gái nở nụ cười hồn nhiên vui vẻ :

– Con người chân thật của thiếp là linh hồn vốn trường sinh bất tử. Chấm dứt một kiếp người chỉ là sự cởi bỏ những gì mà linh hồn đã mượn tạm ở 3 cõi: hồng trần (thể xác), trung giới (thể vía), hạ thiên (hạ trí). Như cõi hồng trần, thể xác được cấu tạo bằng vật chất hồng trần, nên cần phải ăn, uống để nuôi thể xác. Hiện tại thiếp đã bỏ cái thể xác đó rồi, nó đang nằm chết khô, chèo queo trong cái quan tài dưới lòng đất lạnh. Đối với thiếp thì cái xác chết ấy không còn cần thiết nữa, dù người thế gian có đem thiêu hoặc cắt ra hàng trăm khúc cũng không ảnh hưởng gì đến thiếp; hoặc làm nhà mồ như các ngôi mộ cổ Ai Cập cũng không có giá trị gì đối với linh hồn của thiếp. Cái xác chết ấy cũng giống như cái áo cũ mục nát thiếp đem bỏ vào đống rác mà thôi. Vì tâm thức của chàng vẫn còn là tâm thức hồng trần nên chàng nghĩ rằng cần phải ăn uống thì mới sống được. Qua đến cõi nầy, thiếp sống bằng tâm thức thể vía nên không cần vật chất hồng trần; chỉ có những vong linh còn quá nhiều dục vọng, còn tham luyến cõi trần, vì không thỏa mãn được nên trở thành hồn ma vất vưởng. Vật chất hồng trần có ba chiều đo, còn vong linh có bốn chiều đo thì làm sao mà có cùng một thứ rung động. Điện là một thứ vật chất có bốn chiều đo cho nên khi điện chạm vào thể xác có ba chiều đo thì không có một thể xác nào chịu nổi sự rung động của nó; vì nguyên tử điện (bốn chiều đo) có sự rung động nhanh hơn nguyên tử thể xác (ba chiều đo) cho nên làm mất sự quân bình và làm rối loạn trong thể xác nên sự chết xảy ra.  Thể vía được cấu tạo bằng chất thanh khí có sự rung động nhanh và nhẹ hơn chất hồng trần nên nó đi xuyên qua được chất hồng trần. Thể vía là thể tình cảm, dục vọng. Sự sống ở cõi âm chính là tình thương, vong linh nào chất chứa nhiều tình thương thì có nhiều hạnh phúc; còn ngược lại vong linh có quá nhiều dục vọng thuở sinh tiền, vì không thỏa mãn ham muốn như khi còn mang thể xác nên sinh ra đau khổ. Qua đến cõi này thiếp sống bằng tâm thức thể vía nên không cần vật chất hồng trần nữa nên không có vấn đề ăn, uống.

Hàn Sinh chợt nhớ đến ngày giỗ ông bà, tổ chức linh đình, mâm cao cỗ đầy nhang khói ngút trời, con cháu cúng lạy trước bàn thờ tổ tiên. Hàn Sinh liếc nhìn người con gái đang mơ màng đắm chìm suy tư, không khí yên lặng. Một hồi lâu Hàn Sinh chợt hỏi :

– Thưa tiểu thơ, ngày giỗ tổ tiên, vậy ông bà có về dùng đồ cúng tế không ?

Người con gái ngậm ngùi hồi tưởng lại những gì trong kiếp vừa qua, nét mặt u sầu buồn bã, nàng ngập ngừng hồi lâu rồi lên tiếng :

 – Những lễ nghi tôn giáo và những sự cúng kiến được đặt ra để dẫn dắt con người lần lần đến đời sống cao siêu. Có một số quốc gia theo phong tục thờ cúng ông bà, tổ tiên. Cái hình thức này là bày tỏ tấm lòng thương nhớ đến người quá cố; như con cái dành dụm một số tiền mua sắm lễ vật dâng cúng ngày thân mẫu mình qua đời. Đó là cái dịp để anh chị em đoàn tụ nhắc nhở những kỷ niệm xưa trong đó có giáo huấn của cha mẹ thuở sinh tiền, hoặc có xích mích trong gia tộc, nhân ngày giỗ được đem ra hòa giải để hàn gắn lại những việc đáng tiếc đã xảy ra. Cho nên phong tục thờ cúng ông bà cũng rất cần thiết trong sự quan hệ tình thân thiết trong gia tộc. Nếu lấy con mắt trần tục để quan sát những vật thực dùng để cúng như thức ăn, thức uống thì đâu có mất một thứ nào. Những người có tâm hồn chất phác thường nói ông bà có về, nhưng chỉ có hưởng hơi mà thôi.

 Lễ giỗ ông bà chỉ là thể hiện tình thương của người sống đối với người quá cố. Người quá cố rất cần tình thương của người trần gian gởi đến cho họ, vì cõi âm là cõi tình thương. Tình thương không phải là một động từ mà là một danh từ cho nên nó thật sự có ý nghĩa khi sử dụng phải là “ tôi là tình thương” thì mới đích thực là tình thương chơn chánh. Tình thương chân thành trong mối quan hệ cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cháu, bạn bè, nó gắn bó với nhau qua nhiều kiếp sống. Con người sống là để thương yêu, vì thương yêu chính là phần tinh hoa của tâm linh hằng có trong mỗi người. Chàng nên biết giá trị của con người được Đấng Tạo Hóa nhìn qua việc họ đã gieo rắc tình thương của Ngài đối với thế gian như thế nào. Vì Đấng Tạo Hóa là tình thương. Sự thành lập vũ trụ chỉ là sự rung động của các nguyên tử, trong đó sự rung động của nguyên tử tình thương là mạnh nhất; mãnh lực tình thương khống chế và triệt tiêu tất cả mãnh lực xấu xa hắc ám. Đức Phật nói: “Lấy ân đáp oán thì oán tiêu tan”. Đức Jesus nói: “Con hãy thương yêu kẽ thù”. Tình thương luôn luôn điều động phần tâm linh và phần tâm linh điều khiển các cơ quan vật chất. Cho nên khi trái tim của ta khép kín đối với tình thương của Đấng Tạo Hóa thì bất cứ điều gì chúng ta làm “cho người khác” cũng chỉ là có tính cách vị lợi, ích kỷ; chỉ khi nào trái tim ta tràn đầy tình thương thì ta mới có thể ban phát tình thương cho kẻ khác. Ở cõi âm vong linh sống bằng tình thương, bằng sự chân thành của người sống gởi đến cho họ. Nhà văn Cao Thị Lan nói về tình thương chân thành như sau :

Nếu bạn thương tôi, và tôi thương bạn, thì sự thương yêu ấy dễ dàng quá, ai mà chẳng làm được. Bạn nói với tôi một câu ân tình, tôi đáp lại bằng một lời ca tụng, rồi cả hai chúng ta đều thỏa mãn. Như vậy có lẽ tôi đã yêu cái bản ngã của chính tôi, chớ không phải là tôi yêu bạn.

Nhưng nếu bạn lãnh đạm với tôi, mà lòng tôi tự nhiên cứ hướng về phía bạn, vui mừng khi bạn gặp sự may mắn, buồn rầu khi bạn mắc rủi ro, thì khi ấy, chính là tôi mến yêu bạn đấy.

Và nếu bạn bất công, độc ác với tôi, nếu bạn dày dò hành hạ tôi khiến tôi đau khổ, mà tôi không hề oán giận bạn, tôi chỉ lo lắng tội nghiệp dùm bạn rằng: Có lẽ bạn đã buồn rầu về một điều gì nên mới đối đãi với tôi như thế, thì tức là tôi đã mến yêu bạn đến mức quên cả chính bản thân tôi.

Bạn mặt mày tốt đẹp, dáng vóc phương phi, tài cao đức cả, lẽ cố nhiên là tôi mến yêu bạn. Nhưng nếu bạn hình thù xấu xa, dáng dấp ti tiện, tài hèn đức mỏng, thì bạn ơi, tôi mến yêu bạn gấp bội, vì ở trường hợp này bạn cần đến tình tôi hơn ở những trường hợp khác. Qua cái hình thức thô kệch của bạn, tôi nhìn thấy linh hồn bạn đồng thể chất với linh hồn tôi. Bạn hèn kém thì cũng như tôi hèn kém vậy.

Thương yêu bạn, tôi chẳng hề so tài, đọ sức với bạn, tôi chẳng hề tự hỏi xem bạn hơn tôi hay tôi hơn bạn. Tôi vui lòng tự hạ để nâng bạn lên cao; tôi sẵn sàng làm một vật hèn mọn để bạn an vui ở chốn cao sang. Thì bạn ơi! Trong lòng tôi, bạn và tôi đã hợp nhất từ lâu, tôi còn phân biệt làm sao được đâu là bạn đâu là tôi nữa.

Hàn Sinh hơi bối rối, không hiểu tại sao đã gọi là ma, là vong linh ở cõi âm mà còn nhớ lại những bài văn hồi thuở sinh tiền nên ngập ngừng hồi lâu rồi hỏi :

– Thưa tiểu thơ, nhờ đâu mà tiểu thơ còn nhớ lại bài văn đó ?

Người con gái nhìn Hàn Sinh bằng ánh mắt thương hại :

– Thật tội nghiệp cho chàng, cứ ngỡ chết là hết. Đối với chàng thì không có một thế giới nào ngoài cái thế giới mà con mắt trần tục thấy được. Thật ra tin hay không là việc riêng của mỗi người. Từ người u mê dốt nát cho đến người học hết các kiến thức hữu hình đều phát biểu giống nhau : Cái gì thấy tôi mới tin. Nếu tin một cái gì mà không có kiểm chứng bằng trực giác tâm linh và phân biệt cái nào trường tồn, cái nào không trường tồn mà vẫn tin một cách mù quáng thì sẽ rơi vào mê tín và tin dị đoan còn gọi là vô minh. Nhờ sự vô minh của con người mà sự mê tín và tin dị đoan mới sống trong bóng tối và phát triển được. Trong phần thuyết giảng nhân kỷ niệm năm thứ 20 ngày thành lập hội Thông Thiên Học ở Adyar năm 1895, đức bà Annie Besent nói: “ Qúi huynh không tưởng tượng được những nỗi đau đớn khổ sở và những kinh nghiệm mà rất nhiều linh hồn phải chịu đau khổ khi họ lìa bỏ xác thân để bước sang một thế giới xa lạ đối với họ; ở đấy họ thấy không biết bao nhiêu hình nộm tưởng tượng(hình tư tưởng) dọa nạt họ, cái đó chính là sự hiểu biết giả mạo hướng dẫn sự mê tín dị đoan mới tạo ra chúng nó. Nhất là ở trường hợp phương tây nơi đó có người ta nói một địa ngục đời đời và nói rằng sau khi chết đi không có sự mở mang mà cũng không có sự tiến bộ, họ cho rằng kẻ có tội bị quăng vào một hồ lửa đỏ, y phải ở đó trong vô số thế kỷ của thời gian vô tận, không hy vọng được cứu rỗi hay giải thoát. Quí huynh không thể tưởng tượng được những hiệu quả mà những tín ngưỡng đó đã tạo ra cho linh hồn bước qua cửa tử để đi sang thế giới bên kia. Những linh hồn đáng thương ấy tưởng rằng những chuyện đó có thật và họ có thể là nạn nhân của những mối khủng khiếp do những vị lãnh đạo dốt nát của họ đã mô tả và tuyên bố. Những ai giúp đỡ họ bên kia cửa tử phải khó nhọc lắm mới có thể làm cho họ yên lòng dần dần không còn sợ hãi nữa, và làm cho họ hiểu rằng ở đâu cũng có định luật, và trong những quyền lực chỉ huy vũ trụ, không hề có sự sâu độc và tàn ác. Như tôi vừa nói với quí huynh, sự hoài nghi và sự mê tín sẽ không thể còn được nữa; chúng ta sẽ gặp phải những nỗi khó khăn khác, những vấn đề tối trọng như hai kẻ thù sinh đôi của con người. Sự hoài nghi và sự mê tín tin dị đoan sẽ bị diệt trừ, chúng không sao có thể tái sinh được nữa khi ngày đó sẽ đến nhân loại” ( dịch giả: Cao thị Lan).

Vì người mê tín và tin dị đoan là người còn vô minh, nó trở ngại rất lớn trong sự tiến hóa của linh hồn. 

Ngẫm nghĩ một hồi lâu, người con gái đưa tay khều nhẹ Hàn Sinh rồi chỉ thể xác chàng đang nằm chèo queo trên ván :

– Chàng xem, cái thể xác của chàng đang nằm chèo queo bất động và cũng chính chàng đang ngồi nói chuyện với thiếp. Như vậy thì bộ óc của thể xác chàng còn nằm đó, nó có dính dấp gì đến sự suy luận của chàng đâu? Chàng hãy suy nghiệm và cố nhớ lại những bức thư tình hay những bài thơ mà chàng đã thuộc lòng. Chàng thử đọc lại, nó vẫn y nguyên như vậy không thiếu một chữ nào. Có lẽ trước đây chàng nghĩ : Nếu không có bộ óc thì chàng không biết gì cả. Bộ óc cũng cần cho cái biết, cái suy luận là khi nào chàng đang sống trong cái xác phàm. Còn bây giờ chàng đang sống trong thể vía thì cũng giống như thiếp hiện tại đang sống trong thể vía mà người thế gian gọi thiếp là ma.

Hàn Sinh hơi ớn lạnh vì cái tiếng ma. Từ trước đến nay hình ảnh ma tóc dài, ma vú dài, mặt có nanh có gút, móng tay như bàn cào sắt và sẵn sàng cào xé bóp chết bất cứ người nào không tuân lệnh của chúng. Còn bây giờ người con gái có một nhan sắc mà nếu đi dự thi hoa hậu thế giới thì mới đúng tầm cỡ lại tự xưng là ma, người cõi âm, vong linh, âm hồn, cô hồn.

Người con gái bước đến đứng dựa bên cửa sổ, xoay qua hướng về Hàn Sinh, như đoán được ý nghĩ, nàng lên tiếng :

– Đa số người thế gian đều bị ám ảnh về ma của các văn sĩ, họ hư cấu nhân vật là ma cho mê ly rùng rợn mà người chưa hiểu biết về cõi âm tưởng là có thật. (Như truyện Liêu Trai). Chính vì lẽ đó mà sinh ra mê tín và tin dị đoan 

Ngẫm nghĩ một hồi nàng nói tiếp :

– Chàng nên biết, vũ trụ có rất nhiều cõi giới mà mỗi cõi giới đều có nguyên tử rung động khác nhau nên mỗi sinh vật sống trong cõi ấy phải được cấu tạo bằng những nguyên tử có sự rung động tương ứng gọi là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Đấng Tạo Hóa là bác ái, là tình thương cho nên trong vũ trụ của Ngài có nhiều cõi giới, không có cõi nào để đày đọa con người hoặc làm cho họ phải vô cùng đau đớn và khổ sở. Thật ra đau khổ hoặc hạnh phúc là do con người tạo ra. Cái đó chính là cái phản động lực trong các hành động, tình cảm và tư tưởng của y, nó là một định luật khoa học : “động lực và phản động lực bằng nhau”. Dưới con mắt trần tục quan sát vũ trụ bao la đều nghĩ rằng đó là một khoảng trống không. Vì con mắt được cấu tạo bằng nguyên tử hồng trần cho nên nó chỉ thấy những gì được cấu tạo bằng vật chất hồng trần. Còn  thể vía cõi trung giới, thể hạ trí cõi hạ thiên được cấu tạo bằng những nguyên tử khác chiều đo với nguyên tử hồng trần thì làm sao con mắt được cấu tạo bằng thịt, máu và chất nhờn mà thấy được các cõi ấy.

Vũ trụ có rất nhiều cõi giới thì con người cũng phải có nhiều thể khác nhau để tương ứng với mỗi cõi giới. Đó  là thể xác tương ứng với cõi hồng trần, thể vía tương ứng với cõi trung giới, thể hạ trí tương ứng với cõi hạ thiên. Ba thể : xác, vía và hạ trí cấu tạo nên con người giả tạm ( phàm nhân) thay đổi trong mỗi kiếp luân hồi. Như vậy thì thiếp chỉ bỏ lại thế gian cái thể xác, còn hiện tại thì thiếp đang sống trong thể vía, người thế gian gọi thiếp là âm hồn, cô hồn, vong linh, chuyện thần thoại để hù dọa con nít gọi thiếp là ma.

Trong chiêm bao con người sống bằng thể vía, cũng như hiện tại chàng đang sống bằng thể vía. Chàng nhìn xem thể xác của chàng đang nằm chèo queo trên bộ ván nhưng ý thức, sự hiểu biết của chàng có thay đổi gì đâu. Sự khôn ngoan, thông minh của chàng đâu phải nằm trong bộ óc trần tục được cấu tạo bằng chất béo, dây thần kinh và một mớ thịt bầy nhầy. Nếu chỉ cần đặt câu hỏi về thiên tài, khi còn thiếu niên mà kiến thức bao trùm nhiều lãnh vực thì khoa học thực nghiệm trả lời như thế nào? Vì khoa học thực nghiệm xây dựng trên cơ sở của dụng cụ khoa học và ngũ quan, nghĩa là cái gì phải ngửi, sờ, nếm có cảm nhận được thì mới tin. Vì tất cả dụng cụ trong phòng thí nghiệm và con mắt phàm tục được cấu tạo bằng nguyên tử hồng trần, như vậy theo luật của vũ trụ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu thì nó chỉ phát hiện, khám phá những gì của vật chất hồng trần mà thôi. Còn vấn đề khoa học đem bộ óc ra để nghiên cứu rồi phát biểu: Cái này là bộ óc của nhà bác học còn bộ óc kia là của người ngu. Cái kiểu phát biểu này giống như anh mù rờ voi.

Hàn Sinh ngạc nhiên vì từ trước đến giờ chàng nghĩ rằng người ngu hay khôn là do bộ óc của người đó. Hàn Sinh ngước nhìn người con gái đang mơ màng, ánh trăng thượng tuần chiếu lấp lánh trên bờ vai mái tóc. Một cơn gió thoảng thoáng qua làm vài sợi tóc lướt trên má, trên môi. Nàng bước nhẹ nhàng đến bên cạnh Hàn Sinh, Hàn Sinh xoay qua nhìn nàng hồi lâu rồi hỏi :

– Thưa tiểu thơ, nếu sự khôn ngoan không xuất phát từ bộ óc thì nó xuất phát từ đâu ?

Người con gái âu yếm nhìn Hàn Sinh bằng ánh mắt trìu mến :

– Chàng nên biết linh hồn đến thế gian rồi từ bỏ thế gian hàng ngàn lần. Nếu nói rằng con người không có linh hồn thì không còn gì để nói vì chết là hết. Còn như tin rằng con người có một linh hồn trường sinh bất tử và mỗi lần giáng phàm thì phải mượn vật chất của các cõi để tạo ra ba thể: xác, vía và hạ trí. Ba thể này chỉ là giả tạm trong một kiếp người. Chính ba thể : xác, vía và hạ trí là dụng cụ của linh hồn, một cái vòi phóng ra để tiếp xúc với cõi hồng trần, trung giới và hạ thiên để học hỏi cho có được kiến thức và kinh nghiệm. Tất cả kiến thức được đem ra xét đoán để đưa đến kết luận rồi từ cái kết luận đó mới có được sự hiểu biết.Chính những kinh nghiệm, sự hiểu biết của mỗi kiếp được chất chứa trong linh hồn, và nó không hề mất đi đâu cả. Mỗi lần linh hồn giáng phàm thì đem sự hiểu biết của những kiếp vừa qua ra sử dụng.

Hàn Sinh tự hỏi : Ngoài cái thể xác, thể vía và thể hạ trí đều là giả tạm, không trường tồn chỉ có linh hồn là trường sinh bất tử. Hàn Sinh suy nghĩ một hồi lâu rồi hỏi :

– Thưa tiểu thơ, trước đây tôi có đọc qua sách vở của môn phái Vương Sung và Cát Hồng, người ta gọi đó là Đạo Lão có bày ra cách tu luyện trường sinh bất tử.

Người con gái đưa tay kéo nhẹ mái tóc rồi đứng dậy bước nhẹ nhàng qua cái ghế đối diện với Hàn Sinh, nàng vịn vào thân ghế, vài cơn gió làm tóc và tà áo của nàng thướt tha. Như suy nghĩ một vấn đề quan trọng nàng chau mày một hồi rồi khẽ khàng :

– Chàng nên biết, Đấng Giáo Chủ là người phát biểu chân lý, trình bày tư tưởng của mình làm kim chỉ nam cho con người xem đó mà đi để được giải thoát vòng sinh tử luân hồi. Còn tôn giáo là một tổ chức được thành lập để phổ biến tư tưởng của vị giáo chủ. Vì lẽ đó nên có vấn đề tam sao thất bổn, nghĩa là tư tưởng của vị giáo chủ đã bị biến dạng trong vấn đề trình bày vì quyền lợi của tổ chức ấy mà thôi. Từ khởi thủy, Đức Lão Tử đã lấy tư tưởng siêu hình học của An Độ. Còn vũ trụ quan của Trung Quốc là âm dương trong Kinh Dịch và ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tương sanh và tương khắc. Đó là một lối lý luận dùng vật chất hữu hình để suy luận. Đức Lão Tử xuyên qua cái nhìn siêu hình học mà thế gian gọi là thuyết vô vi, là cái tuyệt đối, đa số người đời đều không hiểu tư tưởng cao siêu của đức Lão Tử, và Trang Tử đã diễn đạt tư tưởng của Ngài. Nếu ánh sáng giúp cho con mắt sự thấy, sự rung động của không khí giúp cho lỗ tai sự nghe, còn cái gì giúp cho con người sự hiểu biết khi đọc sách? Chữ viết là một vật vô tri, vậy mà khi có người đọc đến chúng thì có người hiểu còn người thì không. Vậy phải có một thứ vật chất gì để làm cho người ta có được sự hiểu biết. Chính cái chất khí tư tưởng của mỗi người tạo ra sự hiểu biết của người đó. Sự hiểu biết của mỗi người khác nhau vì chất khí tư tưởng của mỗi người có sự rung động khác nhau. Theo sự trao đổi tư tưởng thì phải cùng một khí chất, một thứ rung động thì mới hòa nhập vào tư tưởng đó được. Chính cái bọn phàm phu tục tử có cái tư tưởng hèn hạ đầy dục vọng bỉ ổi thì làm sao có cùng một thứ rung động để hòa nhập vào tư tưởng của đức Lão Tử. Chính cái bọn xôi thịt nầy biến đạo Lão thành bọn phù thủy sử dụng thư bùa, đồng bóng để trị bệnh mà chúng gọi là tà ma để mưu câu lơi lộc cho cá nhân. Đưc Jesus nói: “Ma quỉ (demon) chỉ có nơi nào mà người đời gán cho chúng”. (Nghĩa là do hình tư tưởng của con người tạo ra). Ngoài ra còn có những người trí thức cái vỏ bên ngoài nhưng bên trong cũng đầy dục vọng hưởng thụ, cũng muốn sống lâu như Vương Sung và Cát Hồng đã  “chế ra” cái phép luyện linh đơn, hành khí, hoàn tinh và cách thức “tu tiên”. Họ quên rằng tư tưởng cốt lõi của Đức Lão Tử là “ Vô kỷ, vô danh, vô công”. Một người bình thường khó mà thực hiện cho được vô kỷ, vô công, vô danh; chỉ có linh hồn tiến hóa mới đi qua ba cái cửa đó. Muốn qua ba cái cửa đó thì con người phải từ bỏ cái Bản Ngã của mình, chỉ có Chân Ngã mới vượt qua ba cái cửa đó mà thôi. Ba cái cửa này giống như cái cửa hẹp của Đức Jesus, ai qua được cái cửa hẹp thì có sự sống đời đời, như vậy chỉ có Chân Ngã mới qua được cái cửa hẹp. Một nhà nghiên cứu đạo Lão nói : "Chính Cát Hồng và Vương Sung đã làm cho đạo Lão mất đi cái tinh hoa của nó mà phải phiêu diêu như bát tiên trên lưng hạc, ngao du từ núi này qua núi nọ, vân du suốt ba mươi sáu tầng trời, dưới thì mười tầng địa phủ, ngoài ra còn phó hội bàn đào, uống rượu quỳnh tương, đánh những bàn cờ cho đến non mòn biển cạn. Đó là truyện Phong kiếm, Tây du, Nam du, Đông du bát tiên lúc nào cũng ca tụng hành vi của các tiên gia, ru ngủ mê người. Thần thông thì sẵn trong tay linh phù, bửu kiếm, còn đối với kẻ phàm phu tục tử thì bản tính kiêu ngạo, phách lối: “Thuở trời đất khi ta có mặt, chưa có người nào đáng mặt tiên”. Và lịch sử đã chứng minh : Chỉ có linh hồn tiến hóa thì mới vượt lên vật chất nghĩa là chỉ biết nhiệm vụ phải chu toàn (khác với kẻ chỉ biết có quyền lợi, chỉ biết thụ hưởng) thì mới mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, còn những người lôm côm, ngạo mạn, phách lối, luôn xưng hùng xưng bá thì chỉ làm khổ cho nhân loại mà thôi. Tưởng ông lên ông làm cái gì, ông chỉ lo cho ông. Đó là họ bày ra cái chiêu lừa đảo:

Cứu nhân độ thế nhiều bề

Thiên cơ báo ứng nào hề chút sai

Còn ở trên cảnh bồng lai :

Khi lênh đênh khắp kiền khôn

Hư không đổi áng đào nguyên mới mầu

Khi phỉ chí thì :

Bồng lai thong thả tháng ngày

Chẳng lưng bầu rượu cũng đầy túi thơ"

Thiếp xin lập lại vấn đề luyện linh đơn, hành khí, hoàn tinh cho thể xác trường sinh bất tử thì không bao giờ có; vì nó trái với định luật vũ trụ. Những vật chất hữu hình: hễ có sanh thì có diệt, thuộc về nhị nguyên, nghĩa là phải có tử thì mới có sanh. Do đó, không bao giờ triệt tiêu cái tử cho thể xác được; đó là một điều chắc chắn. Vì không bao giờ có cái nhân được hạn định mà sinh ra cái quả vô hạn định.

Hàn Sinh nhìn say mê cái dáng đẹp lạ lùng của người con gái như trong truyện thần thoại diễn tả các tiên nữ. Cái đẹp ngàn đời ấy sánh như bông hoa và sự dịu dàng ấy như hương thơm làm ngây ngất tâm hồn. Hàn Sinh tự hỏi : Không biết thuở sinh tiền nàng có đẹp như vậy không ? Như đoán được ý nghĩ, người con gái mỉm cười liếc mắt đưa tình khẽ khàng :

– Chàng nên biết cõi này là cõi tư tưởng, mình nghĩ cái gì là có cái đó. Thuở sinh tiền thiếp cũng như nhiều người con gái khác, nghĩa là cũng thích làm đẹp, làm duyên. Hình như trời đất sinh ra bản tính người con gái là như vậy; cái tư tưởng thích làm đẹp nó vẫn mãi mãi trong thiếp. Cho nên chàng thấy thiếp đẹp và có duyên là do tư tưởng của thiếp tạo ra mà thôi. Thiếp mất rất nhiều thì giờ để giải thích cho những vong linh hiểu biết về sức mạnh và quyền năng của tư tưởng: “vong linh suy tưởng cái gì là có cái đó”.Đó là những vong linh đã bị cụt chân, cụt tay, cơ thể bị bầm dập như một đống thịt bầy nhầy; và với cái cơ thể như thế thì họ vô cùng khổ sở. Có nhiều vong linh lúc sinh tiền họ bị mù, qua cõi nầy họ cũng nghĩ là họ vẫn còn mù nên họ quờ quạng lần mò tìm cách đi đứng như thuở sinh tiền.

Hàn Sinh động lòng trắc ẩn khi nghĩ đến cảnh khổ sở của những vong linh bị rơi vào tình trạng thê thảm ấy rồi sẽ ra sao? Hàn Sinh lên tiếng :

– Thưa tiểu thơ, có cách nào giúp đỡ những vong linh ấy không ?

Người con gái thở dài như bất lực trước một định mệnh, giọng của nàng buồn bã bi ai :

– Đa số người thế gian khi vừa bỏ thể xác qua thế giới “bên kia cửa tử”, họ không hiểu biết gì về thế giới bên nầy vì họ chưa từng nghe nói đến bao giờ. Con người tránh né nói về sự chết như tránh cái thây ma. Nếu có nghe nói đến hoặc qua những chuyện thần thoại, hình ảnh quỉ sứ, chảo nấu dầu giam hãm linh hồn đời đời kiếp kiếp thì nó tai hại vô cùng. Vì họ không hiểu biết gì về sức mạnh và quyền năng của tư tưởng thuộc về thể hạ trí. Con người giả tạm có ba thể : xác, vía và trí mà họ chỉ mới vừa bỏ lại thế gian cái thể xác. Thể hạ trí có nguyên tử rung động nhanh hơn thể vía nên nó làm thay đổi được thể vía. Thể vía qua cõi này gọi là vong linh. Biết được nguyên tắc này thiếp đến tiếp xúc với vong linh và giải nghĩa cho họ hiểu về sức mạnh và quyền năng của tư tưởng. Nhưng khổ một điều là có một số vong linh họ hiểu còn một số không tin những gì thiếp nói. Họ vẫn trơ như đá vững như đồng, nên họ bị kéo dài tình trạng đau khổ ấy. Chẳng hạn như người mù: qua đến cõi nầy mà họ vẫn tưởng là họ còn mù nên cứ quờ quạng với cây gậy tìm đường. Thiếp ôn tồn nói với họ rằng: “con người có nhiều thể khác nhau, mỗi thể tương ứng với mỗi cõi của thể đó mà thôi. Thể xác có những giác quan của thể xác, còn thể vía cũng có những giác quan của thể vía”. Người bình thường qua cõi nầy thì cái thấy của họ không có gì trở ngại. Nhưng người mù vì tư tưởng không thấy gì hết, chính cái tư tưởng không thấy gì hết đã làm cho người mù qua cõi nầy vẫn còn mù. Vì chính cái tư tưởng không thấy đã làm cho người ấy không thấy, như vậy phải tập trung tư tưởng và nghĩ rằng họ thấy tất cả thì sẽ được thấy tất cả. Chỉ có vậy rất là đơn giản, chỉ trong nháy mắt. Vì đa số mọi người đều không biết mỗi thể đều có những giác quan riêng của nó. Cái thấy của thể xác thì bằng mắt còn cái thấy của thể vía thì bằng giác quan của thể vía có bốn chiều đo, cho nên cái thấy của thể vía là thấy hết những gì bao quanh thể vía.Vậy mà cũng có một số vong linh không tin những gì thiếp nói, thiếp cũng không biết tại sao. Điều này cũng khó giải nghĩa vì có những định luật vũ trụ vô cùng phức tạp, người như thiếp không hiểu biết gì thêm được nữa. Nhưng cũng có một số vong linh nghe lời của thiếp mà thoát khỏi tình trạng mù.

Hàn Sinh vội vàng hỏi :

– Hồi nảy tiểu thơ nói có gặp những vong linh đã bị cụt đầu, cụt tay, cụt chân, thân xác bầy nhầy thì họ sống như thế nào ?

Người con gái nở nụ cười hồn nhiên nói tiếp :

– Thiếp rất vui mừng khi giải nghĩa cho họ nghe và có một số vong linh nghe lời chỉ dẫn của thiếp mà thoát khỏi tinh trạng ấy.

Hàn Sinh chau mày suy nghĩ : “chẳng lẽ có phép thần thông biến hóa hay phương pháp trị bệnh thần kỳ”. Như đoán được ý nghĩ, người con gái long lanh ánh mắt nhìn Hàn Sinh một cách trìu mến :

– Hiện tại thì chàng còn mang tâm thức hồng trần nên cái gì cũng lý luận như cõi hồng trần. Qua đến cõi này là cõi tư tưởng, cái sống đích thực của cõi này là tình thương là tư tưởng chứ không phải là phải có thực phẩm thì mới sống được. Vì là cõi tư tưởng nên mọi vấn đề giải quyết phải thông qua tư tưởng. Cũng như cõi hồng trần là cõi hoạt động nên giải quyết mọi vấn đề phải thông qua hành động. Đức bác ái, từ bi phải phải thể hiện bằng hành động; vì kẻ lưu manh, gian xảo hay người đạo đức đều mở miệng nói bác ái giống nhau. Vì là cõi tư tưởng nên vong linh nghĩ đến cái gì là có cái đó ngay tức khắc; từ bản chất của cái cõi là như vậy chớ không hề có vấn đề luyện phép thần thông như người cõi trần đã nghĩ. Khi con người qua đến cõi này mà còn bám vào cái thói quen khi còn sống cõi hồng trần là một vấn đề lầm lẫn vô cùng. Thiếp đã nói nhiều lần như thế khi tiếp xúc với vong linh mà họ không tin. Đó là một vấn đề huyền bí mà thiếp cũng không hiểu tại sao ? Có thể thiếp lấy hiện tượng thiên nhiên :  Bất cứ sự vật nào thì cũng phải phát triển và tàn lụi từ từ; cũng như người ngu thì không thể nghe nói một vài điều rồi họ trở thành người khôn ngoan, người dốt không thể học một vài kiến thức rồi họ trở thành nhà bác học, người gian ác không thể nói vài điều đạo đức rồi họ trở thành người đức hạnh. Đối với vong linh thể xác không còn nguyên vẹn là do họ cứ nghĩ rằng thể xác họ đã hư nát, cụt đầu, cụt tay, cụt chân. Thiếp cố gắng nói với họ rằng đây là cõi tư tưởng nên cứ suy nghĩ cái gì thì sẽ có cái đó. Thí dụ như người mất đầu, họ cứ tập trung tư tưởng nghĩ rằng thân xác họ còn nguyên vẹn thì họ sẽ được phục hồi cơ thể họ như xưa, nghĩa là họ có cái đầu. Có một số vong linh tin theo lời của thiếp mà làm theo nên thân xác của họ trở lại bình thường. Trường hợp những vong linh bị cụt tay, cụt chân, thân xác bầy nhầy, thiếp khuyên bảo và họ cũng làm y như vậy.

Như thiếp đã nói, sự sống cõi này là tình thương và sự chân thật, cho nên bất cứ việc làm nào đầy tình thương đều có tác dụng tốt cho đối tượng.

 Hàn Sinh đăm chiêu suy nghĩ : Tại sao chỉ cần tập trung tư tưởng là có thể sửa chữa cơ thể trở nên hoàn hảo.

Như đoán được ý nghĩ, người con gái xoay qua đưa tay xoa nhẹ lên trán của Hàn Sinh rồi mỉm cười thong thả :

– Chàng ơi ! Thiếp đã nói nhiều lần về sức mạnh của tư tưởng mà chàng cứ quên hoài. Trong ba thể của con người giả tạm thì thể hạ trí có nguyên tử rung động nhanh hơn thể vía nên nó có thể kiểm soát và điều khiển được thể vía. Mà vong linh là gì? Vong linh chính là thể vía, vì lẽ đó nên chỉ cần sử dụng thể hạ trí là tư tưởng thì sửa đổi được thể vía. Điều này không có gì huyền bí, giống như người mạnh thì hạ thủ được người yếu, vật nặng đè lên vật nhẹ của chất hồng trần. Cái nầy nó cũng nằm trong định luật khoa học chẳng hạn như nguyên tử của một chất có tỉ trọng nặng thì rung động nhanh hơn nguyên tử một chất có tỉ trọng nhẹ. Chính vì rung động nhanh nên nó quyện chặt vào nhau. Cái mà có tỉ trọng nặng vì nguyên tử rung động nhanh cho nên  khó mà tách ra như gỗ lim, cái mà có tỉ trọng nhẹ vì nguyên tử rung động chậm cho nên tách ra một cách dễ dàng như cây gòn. Nguyên tử kim cương có sự rung động nhanh hơn nguyên tử thủy tinh, nên kim cương “cắt” được thủy tinh.

Hàn Sinh vô cùng ngạc nhiên vì cũng có những vong linh giúp đỡ lẫn nhau, khuyên răn an ủi như người ở cõi trần, và chàng chợt nghĩ chết cũng có bạn ngồi hàn huyên tạm sự như ở thế gian thì có gì trở ngại và đáng sợ. Chàng nhìn nàng trong ánh mắt đầy tình thương và thân mật  hỏi :

– Thưa tiểu thơ, như vậy thì cõi âm cũng có sự quan hệ  giống cõi trần.

Người con gái vui vẻ :

– Chàng ơi ! Ông bà xưa thường nói : Dương gian âm phủ đồng nhất lý, quả đúng như vậy. Đấng Tạo Hóa là bác ái, là tình thương, kẻ nào hành động vì bác ái vì tình thương là theo ý của Đấng Tạo Hóa, vì đức bác ái phải thể hiện qua hành động. Tại cõi trần khi đức bác ái được thể hiện bằng hành động thì đó là tình thương. Vì lẽ đó các cõi trong vũ trụ của Ngài đều có những đặc tính đó.

 Khi con người qua cõi này thì những tri thức, tính tình, đức hạnh, nết na, sự khôn ngoan, sự ngu muội cũng không thay đổi gì hết. Giống như con người cởi bỏ cái áo khoác ngoài thì cũng vẫn còn người đó mà thôi. Có những người hiền lành vui vẻ ưa nói chuyện tiếu lâm, bỡn cợt cũng y như vậy. Có những người bủn xỉn, tham lam, hung ác thì cũng y như vậy, cũng vẫn còn chứng nào tật ấy. Theo luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, hễ cùng một tần số, một khí chất thì mới hoà hợp được để trao đổi tư tưởng và thân thiện hiểu biết lẫn nhau, giống như người cõi trần tìm bạn cùng sở thích để quan hệ.

Hàn Sinh phân vân không biết người cõi âm quan hệ như thế nào, nếu có thì lấy cái gì làm chứng cho lời nói. Hàn Sinh bèn hỏi :

– Thưa tiểu thơ, nếu có cái cõi mà tiểu thơ vừa nói đó liệu người thế gian có thể quan sát được không ?

Người con gái bật cười, xoa nhẹ lên vai Hàn Sinh rồi chậm rãi lên tiếng :

– Thật tội nghiệp cho chàng, cũng  vì chàng còn mang tâm thức cõi hồng trần nên cái gì phải thấy mới tin. Đó là một việc làm tự nhiên không có ai phiền trách điều đó. Đa số người ở thế gian cũng giống như chàng, cái gì thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ mó, phải cảm nhận đúng như vậy rồi mới tin. Đó là tâm thức của con người trong chu kỳ tiến hóa hiện nay, đó là cái tiến hóa rất mạnh và nhanh của thể hạ trí dùng để lý luận cụ thể sự việc trần gian và những phát minh của khoa học thực nghiệm. Cái chu kỳ tiến hóa này đưa nhân loại lên đến tột đỉnh của khoa học thực nghiệm làm cho con người cắm đầu cắm cổ chạy theo vật chất và chỉ biết có vật chất là trên hết, mọi giá trị tinh thần để qua một bên.

Nói đến vật chất là nói đến hình thức, cho nên đa số  người đời đều ưa chuộng hình thức bên ngoài, họ nhìn nhau qua nhãn hiệu chứ không cần biết thực chất của người đó ra sao, chỉ cần nhìn trái bóng bẩy là nói trái đó ngon ngọt không cần biết trong ruột có dòi, sâu bọ. Kể cả những người tu hành mà còn làm lễ tấn phong chức này, chức nọ. Đôi khi họ còn tự phong mình đạt quả vị này hay quả vị nọ. Chàng nên biết, chỉ có những bậc chân tu, những người đã rời bỏ cái bản ngã thấp hèn thì họ mới không cần những tước vị đó mà thôi. 

Thiếp trở lại vấn đề chàng hỏi người thế gian có đến quan sát được cái cõi của người chết hay không ? Thiếp đã nói nhiều lần nhưng chàng cứ quên hoài, chắc chàng tưởng cái cõi của người chết là ở một hành tinh nào xa lạ hoặc trên hàng ngàn lớp mây trời hay xuống sâu vào lòng đất; hoàn toàn không đúng như vậy mà nó ở ngay trên mặt địa cầu này. Người thế gian và người cõi âm ở cùng một vị trí nhưng vì có sự rung động của nguyên tử khác nhau (khác chiều đo) nên người thế gian không thấy được người cõi âm. Chính vì con mắt trần tục không nhìn thấy nên dù có nói cái gì đi nữa thì họ cũng không tin. 

Hàn Sinh chợt hỏi :

– Thưa tiểu thư, liệu có cách nào làm cho họ tin có một thế giới người chết gọi là thế giới bên kia cửa tử.

Người con gái trầm ngâm, thong thả:

– Tin hay không là tùy theo sự tiến hóa của linh hồn, là việc riêng của mỗi người. Linh hồn là một thực thể tâm linh, đến với thế gian hàng ngàn kiếp, mỗi một kiếp thì linh hồn bỏ lại thế gian một xác chết. Trong cuộc hành hương dài ngút ngàn đó, mỗi linh hồn có sự học hỏi khác nhau nên có sự tiến hóa khác nhau. Cái điều quan trọng là theo định luật vũ trụ thì phải chính linh hồn đó thực hành thì mới có được sự hiểu biết, còn chỉ nghe người khác nói hoặc quan sát thì giống như người đi đường thấy mũi tên chỉ đường nhưng cái quan trọng là có chịu đi hay không mà thôi. Đa số con người  không chịu đi mà cứ đứng lại một chỗ để chiều theo những thú vui tầm thường, những dục vọng xấu xa bỉ ổi, có những người đã lãng phí một kiếp mà họ không hề hay biết. Thể xác cấu tạo bằng nguyên tử hồng trần, người nào mang tâm thức hồng trần thì chỉ biết vật chất hồng trần mà thôi. Nếu một người muốn vượt lên tâm thức hồng trần để lên cõi khác thì phải hướng về phần tâm linh hay nói một cách khác là đánh thức tâm linh bằng những tư tưởng cao thượng, những hành động vị tha bác ái để tâm thức có sự rung động thanh nhẹ thì mới hòa nhập được tần số rung động thanh cao. Nếu đặt vấn đề làm cách nào để cho người ta tin có thế giới bên kia cửa tử thì không có cách nào tốt hơn câu nói : Người hãy tự biết mình rồi người sẽ biết được vũ trụ. Cái tự biết mình là cái tốt nhất để thúc đẩy sự tiến hóa của linh hồn, cái tự biết mình không có nghĩa là đã biết bao nhiêu kiến thức của các đại học, hoặc biết bao nhiêu tài sản của mình hiện có ; những cái biết đó là cái biết của hạ trí để lý luận sự vật cụ thể ở cõi hồng trần. Cái tự biết mình là tiếng nói của trực giác, tiếng kêu gọi của linh hồn trong muôn ngàn kiếp vừa qua bằng sự hiểu biết của linh hồn, và cái nhận thức của con người qua các định luật vũ trụ. Đó là người có đời sống tinh thần, nghĩa là có sự hiểu biết về cơ tiến hóa, biết cái gì trường tồn, cái gì không trường tồn, và trong cuộc sống hàng ngày y thực hành sự hiểu biết ấy. 

Quan trọng nhất là biết linh hồn trường sinh bất tử và con người có toàn quyền quyết định số phận của mình. Con người có một ý chí hoàn toàn tự do, không có thiên thần hay ác quỷ nào can thiệp vào tự do ý chí của con người. Dù con người ở cõi giới nào cũng không có quyền vi phạm định luật vũ trụ. Khi con người vi phạm định luật vũ trụ thì sẽ có một phản động lực tiếp theo để lập lại sự quân bình. Bão tố là hình thức lập lại sự quân bình vũ trụ. Đấng Tạo hóa ban cho con người có ý chí hoàn toàn tự do nhưng cũng kèm theo trong tự do ý chí con người không được vi phạm định luật vũ trụ. Sở dĩ con người bị đau khổ từ cõi hồng trần qua cõi trung giới là vì y đã vi phạm định luật vũ trụ. 

Vì còn vô minh, vì thiếu hiểu biết nên con người thường vi phạm định luật vũ trụ. Tất cả kiến thức được đem ra xét đoán để đến kết luận từ cái xét đoán rồi mới có được sự hiểu biết. Tất cả những tinh hoa của ý niệm đem ra gạn lọc, những gì gạn lọc có được là trí khôn. Trí khôn là một dụng cụ của linh hồn, với mục đích duy nhất là phụng sự linh hồn, một cơ quan dùng để thu thập mọi kinh nghiệm ở ngoại giới; rồi mang những kinh nghiệm đó lên cho linh hồn, nó là tinh hoa thiệt thọ của linh hồn. Còn minh triết là tinh hoa gạn lọc từ toàn thể, là sự khôn ngoan rõ rệt mà linh hồn đã gặt hái được do tất cả những kinh nghiệm đó. Khi lên cõi Thượng Thiên (quê hương của linh hồn) thì mới biến đổi từ kinh nghiệm thành minh triết.

  Sự hiểu biết nếu không được đem ra thực hành thì cũng giống như bàn tay nắm cát. Mỗi lần linh hồn giáng phàm là có mang đầy đủ nghiệp quả trong những kiếp vừa qua, cái đó người phàm gọi là số mạng, nhưng thật ra con người có toàn quyền hoán cải số mạng của mình bằng những hành động, tư tưởng và lời nói. Lời nói đã phản chiếu cái tinh hoa sâu kín nhất của vũ trụ thì không thể vô cớ làm mếch lòng một sinh vật nào hay sinh ra một chút ngờ vực nào cả. Chính vì lẽ đó mà con người phải tự mình cứu mình, không có một tha lực nào hết, cái cầu mong ơn trên trợ lực cũng giống như người được chỉ đường, quan trọng là phải tự mình cất bước.

Hàn Sinh chau mày suy nghĩ : “Nếu linh hồn chưa tiến hóa thì nói cái gì họ cũng không tin vì cái biết của họ chỉ giới hạn tới đó mà thôi, muốn biết thêm phải trải qua nhiều kiếp nữa”. 

– Thưa tiểu thơ, tại sao người dương gian lại không thấy người âm cảnh.

Người con gái bước đến đứng cạnh bên cử sổ, đôi mắt mơ màng, nàng dịu dàng :

– Đa số người thế gian sống như lục bình trôi, nghĩa là không định hướng cuộc đời theo đời sống tâm linh mà sống nuông chiều theo thể xác, nói nôm na là vui đâu chúc đó, nắng mé nào che mé đó. Mặc dù con người trước sau gì cũng chết, nhưng không bao giờ họ tự hỏi cái nơi mình sẽ đến nó như thế nào mà đa số người đời đều tránh né nói về cái chết. Vì kiếp sống vội vã quay cuồng trong sự kiếm sống, vừa rảnh việc làm vội kiếm chỗ ngủ, khi thức dậy lại đi làm tiếp. Họ làm quần quật, buông cái này bắt cái kia, có của rồi muốn kiếm thêm nữa; thành ra mang tiếng là họ sống nhưng thật ra họ giống như cái xác chết biết di chuyển, người ta gọi đó là cái xác sống. Cái văn minh nhân loại càng phát triển thì con người phải lao động quyết liệt để cho kịp với nền văn minh.

Chàng hỏi tại sao người thế gian không thấy người của cõi âm. Bây giờ chàng suy gẫm về cái biết của chàng xem sao, là một người đã tốt nghiệp đại học khoa vật lý, dĩ nhiên tất cả vật chất của trần gian chàng đều giải nghĩa được hết, vì cái kiến thức đó nó đã nằm trong các tài liệu sách vở của thư viện, trong các bộ tự điển bách khoa. Mọi vật hữu hình chàng lý luận để chứng minh như trở bàn tay. Bây giờ thiếp hỏi chàng nếu có một đoạn là D đem lũy thừa ba sẽ thành hình khối vuông. Tâm thức của loài người chỉ biết đến chiều đo thứ ba mà thôi. Nếu thiếp đem D lũy thừa bốn là không gian bốn chiều thì nó là hình như thế nào?

Hàn Sinh hơi bối rối, vì chàng chỉ biết D lũy thừa ba là không gian ba chiều, còn D lũy thừa bốn là hình khối như thế nào ? Chàng đành ngồi lặnh thinh. Người con gái bước nhẹ đến ngồi sát bên Hàn Sinh. Để đánh tan bầu không khí im lặng nàng lên tiếng :

– Chàng nên biết tất cả vật chất trong cõi hữu hình cũng từ trong cõi vô hình mà ra. Nếu đem phân tích tất cả thì chúng cũng chỉ là những nguyên tử nhưng có sự rung động nguyên tử của mỗi cõi khác nhau. Định luật vũ trụ định rằng : mỗi cõi giới có chiều đo riêng biệt và nguyên tử mỗi cõi có sự rung động khác nhau. Chàng nên để ý mỗi cõi giới có một chiều đo riêng biệt, đó là cõi hồng trần của thể xác và cõi trung giới của vong linh là hai cõi có nguyên tử rung động khác nhau vì có chiều đo khác nhau, cái riêng biệt đó là cõi hồng trần có ba chiều đo nên D lũy thừa ba chàng biết được dễ dàng. Còn D lũy thừa bốn thì chàng không bao giờ biết được vì chàng còn mang tâm thức hồng trần. Chính vì lẽ đó mà người cõi hồng trần không bao giờ thấy được những vong linh ở cõi âm là như vậy đó. Vì tất cả sự thấy, hiểu biết phải theo đúng luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, nghĩa là phải có cùng một thứ rung động.

Hàn Sinh cúi đầu suy nghĩ : Lại một vấn đế lạ lùng từ trước đến nay chàng chưa từng nghe nói đến. Tại sao nàng biết được, định luật của vũ trụ xuất phát từ đâu hay là một sự hoang tưởng. 

Như đoán được ý nghĩ người con gái mỉm cười, vỗ nhẹ lên vai Hàn Sinh thân mật nói :

– Chàng ơi ! Cái kiến thức này nó vượt lên trên tâm thức của chàng thì chàng không tin là đúng rồi, thiếp đâu có bảo chàng tin đâu. Bất cứ sự tin tưởng nào cũng xuất phát từ cái tâm chân thành, đó là sự chứng nghiệm bằng tâm linh; còn tin tưởng theo kiểu nói theo người khác, ai khen một tác phẩm hay bèn khen theo thì người đó giống như cái máy ghi âm. Tin vì thấy người khác tin bèn tin theo, đó là sự tin tưởng mù quáng, tin tưởng giả dối, mà bất cứ sự giả dối nào nó đều làm trở ngại cho sự tiến hóa của linh hồn; vì sự giả dối là một thứ khí trược nên ánh sáng chân lý không xuyên qua họ được.(Cái chân và cái giả không cùng một thứ rung động thì làm sao mà hòa nhập !)

Hàn Sinh thẫn thờ vì càng nghe nàng nói nhiều chừng nào thì càng không biết nhiều chừng đó, nàng dùng những từ ngữ lạ lùng, nửa hư nửa thực. Hàn Sinh liếc nhìn thiếu nữ đang trầm ngâm, ánh trăng chập chờn hư ảo trên dung nhan như có một cái gì huyền bí, khó diễn tả. Từ xa, tiếng thú rừng gọi nhau, tiếng lao xao của gió lùa qua cành cây. Hàn Sinh tự hỏi : Làm sao biết được chiều đo thứ tư và mỗi cõi giới có chiều đo riêng biệt cho nên cõi hồng trần có ba chiều đo thì tâm thức hồng trần chỉ biết có ba chiều đo. Muốn có tâm thức của chiều đo thứ tư thuộc về cõi trung giới thì phải làm sao, học cách nào, sách vở ở đâu ?

Hàn Sinh ngước nhìn người con gái đang dựa vào thành ghế, vài cơn gió nhẹ thoảng qua tóc nàng phất phơ. Ôi! Đôi mắt có gì khôn ngoan nằm trong đó, từ trước đến nay chàng thường tự đắc là người thông minh, học đâu hiểu đấy mà tại sao chỉ có chiều đo thứ tư khi nàng nói thì chàng không hiểu gì hết. Như đoán được ý nghĩ, người con gái nhìn Hàn Sinh bằng ánh mắt thương mến và nàng rất hài lòng trước một người khiêm tốn chịu học hỏi. Nàng vỗ nhẹ lên vai Hàn Sinh tỏ tình thân thiết :

– Chàng ơi ! Thiếp cũng không hẹp hòi gì mà không nói cho cạn lý lẽ, hết ý để chàng hiểu được chiều đo thứ tư. Nếu nói qua lý thuyết mà không thực hành cũng giống như đem đến cho chàng một cái bánh rồi nói rằng cái bánh này rất là ngon, ăn vào thì không có cái bánh nào ở cõi trần gian sánh kịp. Nếu chàng chỉ nhìn cái bánh rồi nghe nói rằng ngon nhưng chàng không ăn thử thì cũng như không. Cho nên cái quan trọng là phải thực hành chứ không phải là nghe người khác nói.

Hàn Sinh vội hỏi :

– Thưa tiểu thơ, tôi phải thực hành như thế nào ?

Người con gái sửa lại khăn choàng cổ rồi thong thả:

– Phàm làm việc gì cũng phải qua lý thuyết trước rồi mới thực hành. Lý thuyết về chiều đo thứ tư như sau: Muốn khai mở quyền năng tâm thức thì trước tiên phải thanh lọc các thể: xác, vía và hạ trí cho trong sạch. Theo giáo lý Huyền Môn : Sự đau đớn và cảm xúc của nhân loại không phải ở trong xác thịt mà hoàn toàn nằm trong thể vía; mọi sự vui buồn giận hờn đều do thể vía. Thể vía là trung tâm của tình cảm. Cho nên khi con người có được tình cảm trong sạch, vị tha, bác ái và có tấm lòng nhân đạo, nhân hậu thì thể vía có được chất khí thanh nhẹ nên sự rung động lên một bình diện cao hơn.Trong ba thể : xác, vía và hạ trí thì mỗi thể đều có giác quan riêng của nó. Giác quan của thể vía chỉ hoạt động đúng vào một chu kỳ; và chỉ khi nào thể vía rung động đúng vào chu kỳ này thì mới khai mở được giác quan của thể vía. Giác quan thể vía hoạt động ở chiều đo thứ tư, cho nên muốn sử dụng chiều đo thứ tư thì phải khai mở giác quan thể vía. Thể xác và thể vía liên lạc với nhau qua bẩy trung tâm sinh lực gọi là Luân Xa, tại đây có một tấm lưới được cấu tạo bằng nguyên tử của thể Phách; nhờ tấm lưới này mà vong linh không nhập được vô thể xác người thế gian, nghĩa là nó ngăn chặn ảnh hưởng cõi âm. (Người nào bị thủng tấm lưới này thì bị vong linh nhập vô thể xác một cách dễ dàng. Vì chiều đo thứ tư xuyên qua được chiều thứ ba). Muốn khai mở giác quan thể vía thì phải hoàn tất việc khai mở bẩy giác quan của thể vía. Khi bẩy giác quan của thể vía hoạt động thì nó sẽ khai mở một số bí huyệt để luồng Hỏa Hầu Kun-da-li- ni được đánh thức để hoạt động. Khi sự rung động (vibration) đến một chu kỳ nào đó( in phase) thì các giác quan thể vía bắt đầu khai mở và khi đó thì con người sử dụng thể vía của mình mà thấy được vong linh (chỉ có thể vía mới thấy được thể vía, đó là đồng khí tương cầu, đồng thanh tương ứng). 

Thiếp chỉ tóm tắt thôi, vì thiếp không có thì giờ nhưng đại khái thì thể xác phải ăn những thức ăn tinh khiết, không được ăn những động vật, thể vía phải có những tình cảm tốt lành, hạ trí phải suy tư chân chánh. Vấn đề lý thuyết người thông minh như chàng chỉ cần đọc đi đọc lại sẽ thuộc lòng. Nhưng cái quan trọng là thực hành lý thuyết ấy, nhiều khi cả một kiếp người cũng chưa vượt qua.

Hàn Sinh phân vân :

– Thưa tiểu thơ, nếu kiếp này tôi chưa vượt qua thì tôi phí phạm việc học của tôi quá.

Người con gái gõ nhẹ xuống bàn, một âm thanh nhỏ phát ra rồi nói :

– Chàng nên biết, trong vũ trụ không có một động lực nào phát ra mà không có một phản động lực để tạo lập sự quân bình. Chàng vừa nghe một âm thanh nhỏ từ cái bàn phát ra do bàn tay của thiếp chạm vào mặt bàn. Như vậy thì việc làm nào nó cũng  có một kết quả của việc đó. Định luật vũ trụ định rằng : Một tia sáng xuất phát từ đại thể sẽ trở về nguồn gốc của nó. Nếu chàng tin rằng linh hồn trường sinh bất tử thì cái học, sự hiểu biết của chàng không mất đi đâu cả, kiếp này chàng chưa dùng đến thì sẽ sử dụng nó ở kiếp sau. Truyện Hán Sở tranh hùng có cậu bé 13 tuổi, một lời của cậu nói ra làm cho mọi người sửng sốt.  : « Cừu Minh nói :

– Việc di quân để tránh hỏa lực của địch là phải lẽ. Song nếu một mai thành này thất thủ, dân chúng không khỏi bị Hạng Vương chém giết.

Cừu Minh vừa nói dứt lời, thì bên cạnh có một tiểu tử bước ra nói :

– Việc đó không lo, nếu thành vỡ tôi sẽ dùng lời thuyết phục Hạng Vương, không để cho Hạng Vương giết hại dân chúng.

Bành Việt ngạc nhiên hỏi :

– Tiểu tử là con ai mà dám buông lời ngộ nghĩnh như vậy ?

Cừu Minh thưa :

– Nó là con lớn của tôi tên Cừu Thúc.

Bành Việt hỏi :

– Cừu Thúc năm nay bao nhiêu tuổi ?

Cừu Minh nói :

– Năm nay nó vừa lên mười ba. Từ thuở lên năm nó đã biết làm thơ rồi. Khi lên bảy thì bắt đầu đọc sách. Bất kỳ sách gì hể qua mắt nó thì nó thuộc làu ngay. Mỗi khi có khách làm thơ, nó vẫn cùng khách xướng họa, xuất khẩu thành chương. Thường tình tính nó rất can đảm ....

Sau khi an bài, Hạng Vương đòi Hạng Bá đến nói :

– Thành Ngoại Hoàng bị vây mấy ngày mới chịu đầu hàng, đó là thói đáng ghét. Ta muốn bắt nam nữ từ tuổi mười lăm trở lên đem đào hố chôn sống cho bỏ ghét.

Dân chúng hay tin ấy kêu khóc ầm ĩ. Cưù Thúc vội đến trước mọi người nói :

– Chớ nên làm huyên náo như vậy, Hạng Vương biết được càng giận chẳng ích gì. Để tôi đến nói với Hạng Vương cho.

Cừu Thức lền đến trước cửa dinh, xin vào yết kiến Hạng Vương.

Hạng Vương truyền cho vào. Thoạt trông thấy một đứa bé mặt mũi khôi ngô, ung dung đi đến, Hạng Vương liền hỏi :

– Mày là đứa bé miệng chua ráo sữa, sao dám đường đột đến cửa quân, không sợ ta sao ?

Cừu Thúc tươi nét mặt đáp :

– Tôi là con đẻ của Đại Vương. Đại vương là cha mẹ của tôi. Con yết kiến cha mẹ sao lại sợ ?

Hạng Vương nghe câu nói lạ, lòng khoan khoái hỏi :

– Ồ ! Con không sợ quân uy vào đây hầu ta, muốn nói chi chăng ?

Cưu Thúc nói :

– Tôi muốn Đại Vương đức như Vũ Thang, công như Nghiêu Thuấn mở lòng trời đất, ban ơn hiếu sinh, khiến cho trăm họ yên vui. Còn như việc múa mép khua môi làm thuyết khách, tính tôi không muốn.

Hạng Vương nói :

– Người đã không muốn làm thuyết khách, thế thì ta muốn chôn sống hết con trai, đàn ông ở thành này, người nghĩ sao ?

Cừu Thúc nói :

– Tôi nghe nói dân là tấm gương phản chiếu hành động của kẻ cầm quyền. Kẻ nào yêu dân sẽ được dân yêu, kẻ nào ghét dân sẽ được bị dân ghét. Trước đây Bành Việt vì bạo ngược không thương dân, nên dân không phục, tuy đầu hàng nhưng vẫn mong Đại Vương đến đây để giải thoát. Nay Đaị Vương đến, dân chúng chưa kịp mừng mà Đại Vương đã có ý ấy, e rằng sau này Đại Vương đi đến đâu thì dân chúng sợ hãi, đóng cửa thành thà chết chớ không chịu đầu hàng.

Hạng Vương nghe nói như tỉnh ngộ, vội ra lệnh tha chết cho dân Ngoại Hoàng, và cấm quân lính không được xâm phạm của cải của họ.

Dân chúng mừng rỡ cám ơn Cừu thúc khôn cùng. » 

Thiên tài là gì ? Thần đồng là gì ? Đó là những người mà trong tiền kiếp của họ đã học hỏi và hiểu biết, đã từng trải qua và có những kinh nghiệm về vấn đề được nêu ra. Linh hồn đã đến thế gian hàng ngàn kiếp chứ đâu phải mới sinh ra một vài năm mà biết được tất cả như vậy. Không có gì huyền bí hoặc ơn trên độ cho người đó, họ chỉ là những linh hồn cố gắng, siêng năng học hỏi trong nhiều kiếp để có sự hiểu biết làm cho nhân loại bật ngửa mà thôi.

Hàn Sinh nhìn qua khung cửa. Trăng đã khuất dạng, cảnh vật lờ mờ, vài tiếng chim rừng gọi nhau trong đêm vắng lặng, người con gái xoay qua âu yếm nhìn Hàn Sinh một hồi lâu rồi thỏ thẻ :

– Thiếp còn bận nhiều việc, xin từ giã chàng. Thiếp hẹn gặp lại chàng trong một khung cảnh khác.

Nàng vừa dứt lời, Hàn Sinh định nói lời lưu luyến thì không thấy nàng ở đâu. Chàng thẫn thờ bước ra hiên nhà, đứng bất động như một pho tượng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro