Cắt cổ gà vịt

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

MẸ ĐẦU THAI LÀM GÀ BỊ CON TRAI GIẾT THỊT CÚNG GIỖ CHO MẸ

Sư cô Diệu Thanh, hiện giờ đang tu học tại Đà Lạt, Lâm Đồng kể lại rằng:
Cha sư cô là ông Mười, thường hay sát sanh hại vật. Ông thích mời bạn bè về nhà chơi rồi sát sanh để đãi khách, trong khi mẹ lại hết lời khuyên cha cô nên ăn chay niệm Phật nhưng ông không nghe theo.
Có một lần vào kỳ nghỉ hè, ông bà Mười cùng người cháu ngoại tên Hòa ra Vũng Tàu để nghỉ mát. Ngoài Vũng Tàu có nhà người quen là đứa cháu bà con tên Bê gọi bà Mười bằng dì.
Tối hôm đó khi ngủ ở khách sạn, bà Mười nằm chiêm bao thấy cậu Bê đến mời hai ông bà đến nhà ăn đám giỗ mẹ mình. Trong giấc mơ, bà thấy hai người đến nhà cậu Bê dự tiệc giỗ, khi đó cậu Bê đem ra chén nước có in hình bông súng nói:
- Dì với dượng uống  nước rồi vô bàn ăn tiệc với tụi con, hôm nay đám giỗ mẹ con.
Bà Mười nhìn ra sau bếp nói:
- Bữa nay tụi bây nấu gì để cúng giỗ cho mẹ tụi bây vậy?
Vừa nhìn ra sau bếp thì bà thấy mẹ cậu Bê bị cắt cổ và cắt một cánh tay chỉ còn lại một cánh tay treo ở xà ngang. Bà Mười mới hoảng hốt la lên:
- Trời ơi, sao mày giết mẹ mày để cúng giỗ cho mẹ mày vậy Bê ?
Nói xong bà la lên thất thanh, mộng đến đây do sợ quá nên bà tỉnh giấc.
Lúc tỉnh dậy, bà kể toàn bộ giấc mơ cho chồng nghe: "Ông ơi, sao tui nằm chiêm bao thấy kỳ lạ quá, thấy thằng Bê nó mời hai vợ chồng mình đi ăn đám giỗ. Nó đem chén nước có hình bông súng mời mình uống nước. Tui ra sau bếp thấy vợ nó cắt cổ mẹ nó làm giỗ ông à, chỉ còn một cái tay, cái tay kia vợ nó xé làm gỏi rồi...". Ông Mười bảo: "Chỉ là mơ không có thật, thức dậy là tỉnh rồi còn gì phải sợ nữa, bà suốt ngày toàn chiêm bao bậy bạ".
Bà Mười thấy chồng không chịu nghe nên bà mới gọi cháu ngoại (Hòa) kể cho nó nghe để bớt sợ. Không ngờ đến 7 giờ sáng hôm sau thì cậu Bê đến khách sạn, thưa rằng:
- Dì Mười dượng Mười ơi, bữa nay là đám giỗ mẹ con. Con mời dì dượng đến nhà con dự tiệc giỗ.
Bà Mười mới nghe qua liền giật mình, sao mà giống trong mơ quá! Trong khi đó, hai ông bà chỉ vô tình đi Vũng Tàu nghỉ mát cùng cháu ngoại chơi mùa hè thôi chớ không hề biết ngày giỗ kỵ của mẹ cậu Bê này. Bà nói với ông Mười:
- Đó thấy chưa ông, thấy chưa, chiêm bao tui thấy hay chưa?
Ông Mười quay sang khều bà:
- Thôi bà, giữ dùm cái miệng bà lại đi, đừng có nói bậy nói bạ. Người ta nghèo khổ, đến ngày giỗ mẹ người ta có lòng mời thì mình nghĩ tình, bớt chút thời gian đến dự chứ khước từ thì người ta tủi thân.
Ông quay sang nói với cậu Bê:
-  Không sao đâu con, con về đi. Khoảng 9-10 giờ, dì dượng sẽ ghé qua dự giỗ.
Đến hơn 9 giờ sáng, ông Mười kéo bà Mười đi đến nhà cậu Bê thì bà bảo:
- Thôi tui sợ lắm, rõ ràng tui thấy là đám giỗ má thằng Bê, tụi nó giết má nó để cúng giỗ mà. Tui sợ lắm, tui không đi đâu, ông đi một mình đi.
Ông Mười nói:
- Chiêm bao chỉ là mộng, đâu có thật đâu mà bà lo. Đi đi, có tui đây nè bà đừng có sợ gì cả.
Sau cùng thì ông cũng dẫn được bà Mười cùng cháu ngoại ghé sang nhà cậu Bê dự đám giỗ. Vừa đến nhà ngồi vào ghế thì cậu Bê rót nước vào hai cái tách: - Con mời dì dượng uống nước rồi vô bàn ăn cơm với tụi con.
Nhìn vào tách nước, quả nhiên trên tách có in hình bông súng. Bà Mười lên tiếng:
- Đó ông thấy chưa, hồi hôm tui thấy y hệt như vậy luôn.
Ông Mười khều nhẹ:
- Bà làm ơn giữ cái miệng lại dùm tui đi.
Bị chồng nói hoài nên bà hậm hực:
- Vậy để tui ra sau bếp coi tụi nó làm gì để cúng má nó?
Khi bà đi ra phía sau nhà bếp thì thấy ở cây xà ngang treo một con gà đã bị cắt cổ, chỉ còn một cánh, cánh kia thì bị vợ cậu Bê đem xé phay trộn gỏi rồi. Bà la lên:
- Ông Mười ơi, đúng rồi đó, con gà này chỉ còn có một cánh à. Trong chiêm bao tui thấy rõ ràng nó làm thịt mẹ nó rồi cắt cổ treo ở trên xà ngang, chỉ còn một cánh tay, cánh tay kia bị vợ thằng Bê xé trộn gỏi rồi. Bây giờ xảy ra y hệt như vậy luôn.
Bà vội kể hết sự tình trong giấc chiêm bao cho gia đình cậu Bê này nghe. Vừa nghe xong thì cậu này rùng mình toát mồ hôi lạnh, dẹp luôn, không ăn không uống gì nữa cả. Cậu chỉ bới ba chén cơm trắng lên cúng mẹ còn lại thịt gà bỏ hết. Cũng từ ngày hôm đó, cậu Bê ăn chay niệm Phật luôn vì không ngờ chính mình lại "giết mẹ để cúng giỗ cho mẹ". Sau này cả ông Mười cũng phát tâm ăn chay niệm Phật. Đây là câu chuyện có thật của mẹ sư cô Diệu Thanh.

Diệu Âm Lệ Hiếu tổng hợp từ bài giảng của Sư cô Thích Nữ Như Lan

GƯƠNG NHÂN QUẢ: CẮT CỔ GÀ VỊT - QUẢ BÁO UNG THƯ LƯỠI PHẢI MỔ QUANH CỔ ĐAU ĐỚN Y NHƯ TỪNG GIẾT HẠI CHÚNG SANH

Cô Đàm Thị Hoa, pháp danh Diệu Phước, sinh năm 1970, sống ở quận 12. Cô sinh ra trong một gia đình miền quê, thuộc tỉnh Thanh Hóa. Năm 1984 cô theo cha vào Nam sống chung với chú thím. Thấy hoàn cảnh chú thím khó khăn, nên cô bắt đầu xin đi làm ở hãng kem ăn để kiếm tiền phụ giúp thêm gia đình. Làm việc được hai năm, cô thấy lương quá ít, nên chuyển sang cắt cổ gà cho nhà hàng bán Hambuger. Sau ba năm nhà hàng phá sản, cô lại chuyển sang phụ bếp tại các nơi khác, công việc vẫn là cắt cổ gà. Ngày tháng trôi qua, cô vẫn sống bình yên như vậy, cho đến khi cô lập gia đình và sinh em bé. Chồng cô làm việc ở xa thỉnh thoảng mới về nhà, một mình cô vừa đi làm, vừa nuôi con nhỏ. Nhưng vì em bé ốm yếu, bệnh tật liên miên, và cô cũng phát bệnh liên tục, nên cô đành phải bỏ việc phụ bếp. Cô ở nhà, nhận vài đứa trẻ chăm sóc để có tiền chi phí hàng ngày, vừa tiện lo cho con.

Năm 2007, lưỡi cô bắt đầu lở bên phải. Cô đã đi khắp các bệnh viện như Tai Mũi Họng, Da Liễu, Thống Nhất, Hòa Hảo, Hoàn Mỹ v.v. Nhưng các bác sĩ đều bảo, lưỡi cô bị viêm nóng và mọc nấm, chỉ cho thuốc uống. Cô uống suốt mấy tháng vẫn không hết bịnh.

Năm 2008, lưỡi cô đã bị thủng một lỗ lớn bằng đầu ngón tay. Cô thường khóc vì rất đau nhức, ăn cơm không được chỉ ăn cháo và ngày nào cũng phải ghé bác sĩ gần nhà để xin chích thuốc giảm đau. Cô hoàn toàn không biết bịnh này là do nghiệp sát sanh trước đây chiêu cảm. Sau đó, cô đến bệnh viện Da Liễu tái khám. Bác sĩ bảo chữa không khỏi, nên chuyển sang bệnh viện Ung Bướu. Sang bệnh viện này, cô bị cắt một ít ở lưỡi để sinh thiết. Sau một tuần có kết quả, bác sĩ không giấu mà báo thẳng cho biết cô đã bị ung thư lưỡi nên phải nhập viện mổ gấp. Vừa nghe xong, cô bủn rủn tay chân, giống như người mất hồn; cô đi lang thang mãi về đến nhà cô chỉ biết khóc và thở than với người thân.

Đến tháng 3 năm 2009, cô bị mổ nguyên đường vòng ngang cổ, giống như cô từng cắt cổ gà, lưỡi cũng bị cắt một nửa, hành cô đau đớn quằn quại; lại không nói được, không ăn được, thức ăn loãng xay nhuyễn lỏng mà phải đưa ống dẫn vào đường mũi, đau đớn vô cùng. Cô lâm vào tình cảnh đúng như trong kinh nói, sống không được mà chết cũng không xong. Mổ hơn một tuần thì bác sĩ điều trị yêu cầu cô phải nhổ năm cái răng cấm mới tiến hành xạ trị ung thư. Cơn đau này chưa dứt thì cơn đau khác lại đến, sức khỏe suy yếu, cô phải chịu nỗi đau không thể nào diễn tả được, miệng lúc nào cũng đầy máu, đêm không ngủ được. Bệnh tật ập đến khiến cô tuyệt vọng không còn tha thiết sống, nhưng phải cố vì đứa con nhỏ.

Sau khi nhổ răng xong được hai tuần thì cô đi xạ trị. Xạ đến tia thứ mười lăm thì mặt cô đen thui giống như da con gà ác, miệng và cổ cứng ngắc, không ăn, không nói được, cô quyết định bỏ cuộc.

Lúc cô lâm vào tình cảnh đau đớn thể xác cần người động viên, an ủi thì chồng cô lặng lẽ chạy theo bóng hồng khác. Lần này, chồng chất lên cô nỗi đau tinh thần, cô chỉ biết ôm mà con khóc. Ba tháng cô ăn cháo liên tục, có uống chút sữa nào cũng ói ra, cô nằm thiêm thiếp một chỗ. Cô phải dùng thuốc ngủ nhiều lần, vẫn không thể ngủ được, thức trắng suốt ngày đêm bị suy nhược thần kinh.

Cũng may! Cô còn một chút duyên lành, bà Phật tử gần nhà biết chuyện của cô. Bà đến động viên, khích lệ cô ăn chay, niệm Phật. Ban đầu cô không nghe, bà vẫn kiên nhẫn khuyên bảo, mang các loại đĩa giảng về Phật pháp, đĩa niệm Phật chuyển hóa tế bào ung thư tặng cho cô và muốn dẫn cô đi chùa, cô vẫn không chịu đi.

Một hôm ở chùa gần bên nhà, có mở khóa tu một ngày, bà dìu cô đi. Cô vào nghe quý Thầy giảng kinh, niệm Phật, cũng không hiểu nhiều. Cứ nhiều lần đi như vậy, dần dần cô được bà hướng dẫn quy y Tam bảo. Nhờ đó cô mới biết rõ quả báo, mình mắc bệnh là do sát sinh, vì cắt cổ gà quá nhiều, khiến cô sợ hãi vô cùng. Bà tiếp tục hướng dẫn cô thỉnh Phật về nhà, hàng ngày tụng kinh, niệm Phật, lạy sám hối.

Từ đó, ngày nào cô cũng đến trước Bồ-tát Quán Thế Âm chí thành sám hối, phát nguyện ăn chay, niệm Phật, không dám sát sinh. Tâm cô bắt đầu chuyển biến tốt, không còn nghĩ đến chuyện tự tử, mà biết chấp nhận trả nghiệp, đi phóng sinh chung với các Phật tử ở chùa Hoằng pháp, khuyên người phóng sinh v.v. Ban đầu, cô ăn chay kỳ dần dần về sau cô ăn chay trường. Từ khi, cô phát tâm sám hối, ăn chay, tụng kinh, niệm Phật thì sức khỏe cô ngày càng tiến triển tốt. Cô tăng lên được mười mấy ký và bệnh cô từ từ thuyên giảm, cô không còn nghĩ đến bệnh tật và người chồng bội bạc. Cô dạy cho con không được sát sinh, ngay cả con kiến cũng thương nó; bởi vì trải nghiệm từ bản thân mình mà cô sợ hãi.

Đến tháng 9 năm 2011, cô khi đi xét nghiệm máu ở bệnh viện thì bác sĩ báo sức khỏe cô hoàn toàn bình phục và không còn một chút tế bào ung thư. Cô cảm động mừng rỡ khóc nức nở. Nhờ cô chí thành sám hối mà được cảm ứng đến Bồ-tát Quán Thế Âm. Thật đúng như trong kinh dạy:

Tội từ tâm khởi đem tâm sám

Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu

Tội tiêu tâm tịnh thảy đều không

Thế mới thật là chân sám hối.

Phật pháp đã cứu cuộc đời cô như thế. Phật pháp thật sự không thể nghĩ bàn. Hiện nay cô trở thành một Phật tử tin theo Phật pháp tuyệt đối.

Con người sinh ra ở cõi đời này ai cũng phải làm việc để mà tồn tại, nhưng phần đông hàng phàm phu chúng ta đều tạo nghiệp ác. Có người vì chén cơm manh áo mà tạo nghiệp nói dối; có người vì cơm áo gạo tiền bức bách mà tạo nghiệp sát sinh v.v. khi nhân duyên chín muồi thì quả báo đến chúng ta phải nhận lãnh. Vì thế trong kinh Đức Phật thường nói: "Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả". Câu chuyện của Phật tử Diệu Phước trả quả báo ngay đời hiện tại, là do cô tạo nghiệp sát sinh.

Diệu Âm Lệ Hiếu kính ghi lại từ Phật pháp nhiệm mầu kỳ 27 (4/2014)

Câu chuyện quả báo nhãn tiền: 3 NĂM BẮN CHIM, ĐAU ĐỚN 18 NĂM
Khi còn đi học, tôi hoàn toàn không tin Phật, Bồ Tát, tội, phước-đức hay nhân-quả báo ứng gì cả. Tôi cho rằng đây là chuyện của những người mê tín, thiếu học vấn, chứ còn người có học thức thì không tin những việc nầy.
Khi còn nhỏ, tôi sống ở tỉnh Quảng Đông. Thời gian đó và ở nơi đó, tôi đã gặp chuyện nhân quả báo ứng mà chính bản thân tôi bị. Trải qua hơn 20 năm vở kịch kinh hoàng nầy mới được diễn xong, máu và nước mắt đã làm tôi tỉnh ngộ, nhận thức của tôi thay đổi 360 độ.
Vì không muốn ai dẫm lên vết xe đổ của tôi, tôi xin viết câu chuyện có thật của bản thân mình, để mọi người đừng làm cái việc như tôi đã từng làm, và đây cũng là cũng cách sám hối mà tôi đã thực hành bao năm nay.
Năm 1960 vì hoàn cảnh khó khăn, tôi buộc phải nghỉ học khi đang học trung học phổ thông. Từ Quảng Xuyên, tôi trở về quê hương để phụ gia đình làm rẫy. Do còn quá trẻ, nhận thức kém, tôi suốt ngày sống buông lung không có mục đích. Lúc bấy giờ đang là thời kỳ 'Cách Mạng Văn Hoá', ở thôn quê gần 10 năm thì mọi tín ngưỡng tôn giáo đã bị dẹp sạch hoàn toàn. Thanh thiếu niên lớn lên chỉ tin khoa học, tuyệt đối không được tin Phật, tin Nhân-Quả. Đương nhiên tôi cũng không là trường hợp ngoại lệ.
Do cuộc sống quá vô vị, tẻ nhạt, tôi nghĩ phải tìm cách giải trí gì đó để kích thích cuộc sống. Vả lại lúc đó vật chất, thực phẩm vô cùng thiếu thốn, thèm thịt còn hơn thèm á phiện nữa, do đó tôi tích cóp tiền trong nhiều năm mua được cây súng hơi. Từ khi có súng, tôi lấy việc bắn chim làm thú vui, bắn được chim tôi liền đem về làm thịt, ăn cho có thêm chất dinh dưỡng.
Hai ba năm sau, nhờ bắn chim nhiều nên kinh nghiệm càng dày dạn, tôi trở thành xạ thủ bắn chim có tiếng. Tôi thường nấp vào những đám ruộng hoang, bên rừng cây, hoặc vào trong núi để tìm chim bắn. Chỉ cần nghe thấy chim hót trên cây, tôi liền mò đến và giương súng bắn; trong nháy mắt viên đạn trong nòng súng của tôi đã ghim vào con chim. Máu nó tuôn chảy, nhỏ thấm vào lá cây, một lúc sau mới rớt xuống, nhưng mắt của nó vẫn giương to không chịu nhắm lại. Hình như nó còn luyến tiếc bầu trời trong xanh, cánh rừng tươi mát, đàn con dại trong tổ đang chờ Mẹ, Cha đi kiếm mồi về, hay là nó không nhắm mắt vì thù hận tôi?
Có nhiều khi con chim bị bắn trúng, rơi xuống đất, vẫy cánh yếu ớt vài cái rồi mới chết, lông mao bay tứ tung, máu chảy nhầy nhụa. Có những con chim chỉ bị thương, nó cố dùng chút hơi tàn để chạy trốn thì tôi đuổi theo ngay, quyết không để nó trốn thoát. Có khi đuổi mệt quá, tôi liền cho nó ăn thêm một viên đạn nữa. Cũng có khi tôi lần mò theo vết máu để tìm, rất nhiều con chim khôn lắm, biết trốn vào cỏ, khi tôi phát hiện ra thì thấy nó đang giẫy giụa, miệng há hốc, máu trong miệng túa ra... Thế mà tôi nào biết thương nổi thống khổ của nó. Lúc ấy tôi chẳng mảy may động lòng hành động tàn nhẫn của mình, cũng không hề có cảm giác tội lỗi, mà còn cho đó là thú vui nhất trên đời, nên càng ra sức bắn giết. Tôi có thể bỏ cả ngày đi săn lùng chúng mà không thấy mệt mỏi.
Vì đã giết quá nhiều chim, cho nên bất luận tôi đi đến đâu, trên tay có cầm súng hay không, tất cả chim muông vừa thấy tôi là tự dưng chúng đều bay mất dạng. Thậm chí, có những đàn chim rất lớn, chúng đang tìm mồi, vừa thấy bóng dáng tôi từ xa là chúng lập tức bay ngay, động tác của chúng vô cùng vội vàng, chẳng những vậy mà chúng còn hốt hoảng kêu la nữa.
Do vô minh, tôi không biết rằng do sát khí của mình quá nặng khiến chim muông vừa thấy bóng tôi liền chạy trốn vì quá sợ hãi. Thời gian tôi bắn chim không lâu, chỉ trong khoảng ba năm, từ năm 18 tuổi cho đến năm 20 tuổi, nhưng vì là tay thiện xạ, lại rất say mê, nên số lượng chim trời bị tôi bắn rất nhiều, có ngày bắn được mấy chục con. Không có người thân bên cạnh, người trong làng cũng không ai khuyên bảo, tôi lại càng dấn thân sâu vào tội lỗi. Mãi sau, tôi dần nhận thấy hành động của mình quá tàn nhẫn, tôi mới bỏ việc bắn chim.
Một lần nọ, tôi tình cờ gặp được một người bị dân trong làng cho là "gàn dở mê tín" và "côn đồ". Tôi và ông ta cùng đi chung một đoạn đường. ông kể cho nghe một chuyện có liên quan đến báo ứng. Thú thật, lúc ấy những tư tưởng được nhồi sọ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã ăn sâu trong trí nên tôi không một chút tin tưởng vào lời ông. Nhưng, sâu trong tâm khảm tôi, vẫn còn lắng đọng âm hưởng những gì ông nói, tôi thường thấy bất an vì những hành động trước kia của mình. Tôi bắt đầu đi tìm người để thỉnh giáo. Nhưng những người trong làng họ đâu có tin tội phước, đâu có tin Nhân-Quả Báo-Ứng, biết hỏi ai bây giờ?
May sao, giữa cánh đồng có một ngôi miếu bị bỏ hoang, trong ngôi miếu ấy có một ông lão ngày ngày lo việc hương khói, tôi liền đến thỉnh giáo.
Sau khi nghe tôi kể về những hành động tội ác trước kia của mình, ông suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Theo chỗ tôi được biết, vấn đề của anh thì nếu đã biết sợ tội ác, thì phải mau chóng quyết tâm sửa lỗi lầm, lúc nào anh cũng phải có tâm nguyện: thà chết chớ không làm việc ác nữa, thì mới mong cứu vãn bớt việc ác báo sau nầy.
Đó chỉ là lý thuyết, nhưng thực tế chẳng hề dễ dàng, đơn giản như vậy.
Hai năm sau, tôi phát hiện ở hậu môn của mình có năm sáu cục trĩ, nó thường làm cho tôi đau đớn thống khổ vô cùng, nhất là những lúc đi vệ sinh. Trước giờ bệnh trĩ là căn bệnh mà mọi người thường gặp, chỉ cần tìm một vị bác sĩ chuyên khoa thì sẽ chữa bớt ngay. Tôi liền đi mời một vị bác sĩ giỏi về bệnh trĩ đến chữa bệnh.
Cách trị liệu của ông ta là dùng một loại thuốc nước có mùi rất thối xoa vào những cục trĩ đó, mục đích để cho thuốc nầy ăn mòn dần dần những cục trĩ. Hàm lượng thạch tín trong thuốc nước của ông rất cao (thạch tín là hợp chất Arsenium, ký hiệu As, màu vàng, vị đắng, rất độc). Mỗi ngày ông đến nhà để thoa thuốc, sau đó mỗi cục trĩ ông châm một cây kim. Nhiều năm lão luyện, tay nghề ông rất giỏi, cộng thêm ông dùng thuốc tê, vì vậy khi châm kim vào tôi không có một chút cảm giác đau đớn. Nhưng khoảng năm giây sau khi châm, tôi thấy trong tim hồi hộp khó chịu, hô hấp bắt đầu khó khăn, thấy trời tối sầm, tình hình không mấy khả quan.
- Không được rồi! Bác sĩ!...
Tôi dùng hết sức mới nói được mấy tiếng đó, nói xong tôi không còn sức để thở nữa. Lúc ấy trước mắt chỉ là màn đen tối mịt, dù tôi cố mở to mắt cũng không thấy được gì hết, tay chân run rẩy, rung lắc giống như thây ma treo cổ bị gió lùa; tiếp theo là co giật giống như người mắc bệnh kinh phong, cảm giác như bay lơ lửng trong không trung; tâm tôi tuy vẫn tỉnh táo sáng suốt, nhớ rõ từng hành động cử chỉ của mình, nhưng vô cùng khó chịu. Tôi nghe rất rõ tiếng hô hoán của bạn tôi đang đứng bên cạnh để chăm sóc:
- Bác sĩ! Không ổn rồi! Anh ta sẽ chết mất! Không cần thoa thuốc nữa! Hãy mau rút kim ra đi!
Anh ta la tiếp:
- Máu chảy ra nhiều quá kìa, Bác sĩ! Chất độc trong thuốc nước của ông đã xâm nhập vào máu của bạn tôi rồi...
Rồi anh ta làm náo động cả lên, cảm giác của tôi lúc đó rất lạ kỳ, tôi thấy hình như có người rót nước vào miệng cho tôi uống... Khoảng nửa giờ sau, tôi dần dần tỉnh lại. Kiểm tra lại, thì đâu có ai cho tôi uống nước lúc đó, và nguyên nhân là do vì muốn bệnh mau lành nên ông bác sĩ đã bỏ hàm lượng thạch tín vào trong nước thuốc khá cao, chất thạch tín theo cục trĩ xâm nhập vào mạch máu, mà mạch máu thì thông với tim, vì vậy mới khó thở khi thoa thuốc. Nhờ phước duyên, tôi đã trở lại từ cõi chết, đây là lần thứ nhất tôi nếm sơ mùi vị của cái chết.
Những lỗ kim châm lần này lại là nguyên nhân chính khiến cho sau nầy càng khó chữa trị. Trải qua 18 năm, những lỗ kim vẫn không lành, do trĩ ngoại liền với mạch máu nên những lỗ kim nầy giống như cái ống dẫn máu ra ngoài, do đó máu cứ liên tục chảy ra nhưng chuyện vẫn chưa kết thúc ở đây.
Do lần chữa trị đầu tiên đã mắc sai lầm, nên máu càng ngày càng ra nhiều, lúc bình thường thấy ít ra máu, lâu lâu mới chảy ra vài giọt. Nhưng khi đi đại tiện thì thật kinh hồn. Vừa ngồi xuống, thấy máu chảy ra như nước từ trong người chảy ra qua đường tiểu tiện, máu chảy mạnh giống như lúc bác sĩ châm kim vào. Máu chảy xong , tiếp theo là huyết tương chảy ra thành vòi (huyết tương là chất nước màu vàng của máu sau khi loại bỏ hết huyết cầu). Mỗi ngày tôi phải đi đại tiện một lần, mỗi lần như vậy đồng nghĩa là tôi mất cả một bô huyết tương.
Chỉ vài tháng sau, da tôi trắng bạch, tay chân run rẩy, mắt bắt đầu mờ dần. Nhiều người thấy tình cảnh như vậy họ thương quá, ai cũng bảo tôi đi mời bác sĩ về chữa, bằng không hậu quả khó lường được. Tôi lại đi mời một vị bác sĩ giỏi về bệnh trĩ, ông ta là bác sĩ chuyên khoa rất nổi tiếng ở một bệnh viện lớn. ông bảo tôi hãy yên tâm, ông chữa mau và đặc biệt không đau, vì không tiêm chích chỉ thoa thôi. Ông dùng thuốc giã nhuyễn, mỗi ngày thoa lên cục trĩ, cục trĩ sẽ khô và tự rụng. Ông còn bảo đảm chỉ sau một tuần toàn bộ những cục trĩ của tôi đều rụng hết, mà vĩnh viễn không còn chảy máu nữa. Đương nhiên khi nghe vị bác sĩ nổi tiếng hứa như thế, tôi vô cùng vui mừng, đặt hết hy vọng vào ông.
Ngờ đâu, ngay đêm hôm đó, tôi rất muốn đi đại tiện. Nó thúc giục giống như bị tiêu chảy vậy. Tôi nhờ người bạn dìu đến nhà vệ sinh, mà hơn nửa tiếng không ra được một chút phân. Trải qua mấy tiếng, càng ngồi lại càng mắc. Tôi cố nhẫn nại ngồi, cho đến khi hai chân không còn cảm giác, đến nổi ngủ gục trong nhà vệ sinh. Anh bạn chờ lâu quá đã vào phòng ngủ một giấc, giật mình dậy mới dìu tôi vào phòng ngủ. Nhưng chưa kịp leo lên giường, tôi lại trở ra đi cầu tiếp... Cứ như thế, suốt đêm tôi cứ chạy đi chạy lại liên tục. Thống khổ đến mức chảy nước mắt, toàn thân run lên. Vậy mà sự thống khổ nầy kéo dài liên tục suốt 7 ngày đêm, mà thống khổ của đêm sau lại hơn đêm trước.
Trong lúc thống khổ cực độ, tôi ngước mặt lên hỏi ông trời:
- Ông trời ơi! Tôi đã phạm tội gì mà phải chịu thống khổ như thế nầy?
Dẫu bị như vậy, tôi vẫn chưa tỉnh ngộ đấy là lúc quả báo đến, sự trừng phạt giống như ở địa ngục.
Nhưng qua bảy ngày, tôi bỗng dưng dần dần khỏe trở lại, những búi trĩ cũng khô và rụng từ từ, máu không còn chảy nữa, tôi hết sức vui mừng.
Nhưng, chỉ 6 tháng sau, bệnh trĩ lại tái phát trở lại, chẳng những thế mà còn phát rất mau, máu cũng bắt đầu chảy ra như trước. Bi kịch tiếp tục tái diễn, tôi lại phải tiếp tục tốn kém tiền bạc để chữa trị Ngày nào cũng chảy máu, thân thể tôi suy nhược hẳn đi, dẫn đến chứng mất máu kinh niên. Các búi trĩ làm tôi vô cùng khó chịu giống như bị lửa thiêu, dao cắt, tôi đau đớn trong từng giây từng phút không lúc nào yên. Biết bao nhiêu vị bác sĩ giỏi, nổi tiếng đều bó tay đành giương mắt nhìn tôi quằn quại trên giường mà không còn biết làm gì cả. Riết tôi cũng bị hội chứng sợ hãi bác sĩ, vì bao nhiêu người chữa trị bệnh cũng không bớt mà còn đau đớn đủ kiểu nên tôi quyết định không chữa trị theo y học nữa.
Cũng chính vì quyết định đó nên tôi lại bị điều tiếng thị phi trong làng là trốn tránh lao động (kỳ thực lúc này tôi cũng chẳng còn chút hơi sức để làm việc chi nữa). Thời đó là còn thời kỳ bao cấp, ai nấy cũng phải lao động sản xuất làm ruộng, rẫy nên việc tôi không chịu chữa chạy bác sĩ dấy lên mối nghi hoặc của người dân trong làng. Người thì nói: "Có bác sĩ mà không chịu chữa, vậy rốt cuộc nó bị bệnh thật hay giả?", người khác thì bồi thêm: "Bệnh trĩ của nó là giả, trốn tránh lao động mới là thật!"
Sau đó, trưởng thôn, phó thôn, gọi bác sĩ lấy cớ cùng đến thăm tôi nhưng thật ra để dò la, điều tra. Biết mục đích của họ, tôi vào nhà vệ sinh đại tiện, giống như thường ngày, máu chảy ra cả một đống lớn rồi tôi gọi mọi người vào xem. Trưởng thôn vốn không tin tôi bị bệnh thật, nên vào xem ngay. Vừa nhìn thấy, ông vô cùng kinh hãi thốt lên: "Ôi máu ra nhiều thế này à!"
Sau đó, nể lời mọi người khuyên bảo tôi quyết định để ông bác sĩ, được cho là 'thần tiên giáng thế' chữa trị thêm một lần nữa. Than ôi, lại thêm một lần nữa, máu vẫn chảy, đau đớn vẫn còn nguyên, ông bác sĩ 'thần tiên' cũng đành bó tay rồi lặng lẽ bỏ đi.
Có lúc tôi chịu đựng đau đớn hết nổi, tôi khóc than rên la thảm thiết. Trên gò má, nước mắt trộn lẫn mồ hôi chảy ròng ròng, tóc tai bù xù. Tôi bấu chặt quần áo, mền mùng có lúc xé rách, hai chân đạp tấm nệm đến mức rách bươm, chẳng khác chi người điên là mấy. Ai thấy cũng đều lắc đầu thở dài, có nhiều người đã rơi nước mắt khi thấy cảnh thống khổ của tôi.
Trong lúc quằn quại trên giường chịu đựng đau khổ, tôi chợt phát hiện ra nếu để mông cao hơn đầu thì sự đau đớn sẽ giảm đi một ít, tức là nằm theo tư thế treo ngược. Tôi nhờ bạn tôi lấy mền gối chồng lên nhau, để lài lài giống như mái nhà,rồi tôi leo lên đó, đầu thấp xuống và nâng cao mông, như thế trồng cây chuối. Tôi không nhớ rõ mình trải qua bao nhiêu ngày đêm như vậy, tôi chỉ nhớ trừ lúc ăn cơm. đi vệ sinh ra, còn suốt ngày luôn sống với tư thế treo ngược kể cả lúc ngủ nghỉ.
Rồi đến một ngày, khi đang ở tư thế 'treo ngược' như thế, khi máu chảy ra đọng thành vũng rồi thấm vào mền chiếu, nằm trên vũng máu đỏ tươi, tôi thảng thốt nhận ra cảnh tượng đó rất giống những con chim trước kia bị tôi bắn giết, máu của chúng nó cũng chảy rớt xuống những cành, lá cây. Trời ơi! tư thế "treo ngược" của mình với tư thế những con chim bị tôi bắn trước đây không hai không khác. Đây không phải là quả báo nhãn tiền đó sao? Đúng là "Nợ máu phải trả bằng máu, Nhân-Quả công bằng, một sợi tơ cũng không sót ". Cái cảnh tôi đang chịu đựng trong đau đớn đó không phải là hình phạt trong địa ngục đó sao?
Tôi bắt đầu tỉnh ngộ ra rằng : Tất cả những nỗi đau khổ của con người chẳng phải do ông trời làm ra mà chính là những tư tưởng xấu, hành động ác mà con người đã tạo trong đời này hoặc trong đời trước mới là nguyên nhân con người phải chịu mọi thống khổ trong hiện kiếp. Muốn cải đổi vận mệnh chỉ có một con đường duy nhất là năng làm việc lành, tích chứa âm đức mà thôi.
Khi được thấu suốt, tôi đã không còn oán hận những vị bác sĩ đã 'hại' mình nữa, ngược lại, tôi lại vô cùng biết ơn họ, vì họ đã giúp tôi sớm trả xong món nợ máu. Nếu họ không chữa sai, có lẽ tôi còn mang bệnh tới già hoặc tiếp đến đời sau tiếp tục trả.
Sau khi có nhận thức đứng đắn về cuộc đời, tôi luôn luôn sám hối trong tâm, có lúc sám hối cho đến khi chịu không nổi khóc rống lên mới thôi. Tôi quyết tâm "lấy công chuộc tội". tự nhủ tranh thủ lúc còn trẻ, gấp rút lo tu hành để cải thiện vận mệnh đời mình. Sau đó tôi thường nhờ bạn bè đi mua động vật để phóng sinh, hằng ngày gặp những cơ hội phóng sinh cứu sinh vật là tôi đều không bỏ qua, đồng thời tôi cũng dùng hết khả năng của mình để giúp đỡ người bệnh tật, nghèo đói. Tôi cũng thường ráng hết sức lực để bí mật đến ngôi đền giữa cánh đồng, lễ bái và cúng thí cho các oan hồn uổng tử ở mười phương, giúp họ được ấm no...
Nói ra cũng thật kỳ lạ, từ sau khi tôi bố thí phóng sinh, cơn thống khổ của bệnh trĩ của tôi dần dần giảm thiểu một cách rõ ràng, máu cũng chảy ít hơn, dần dần cách hai ba ngày, rồi đến một tuần mới phát một lần mà không cần tới thuốc men chi cả.
Nửa năm sau, bệnh bắt đầu bình phục, người tôi có da thịt trở lại, có thể đi lại mà không cần người dìu như suốt mười mấy năm qua. Tôi càng vui mừng nên ra sức làm việc thiện quanh năm suốt tháng như vậy. Bệnh trĩ từ tám, rồi mười ngày, một tháng, hai tháng mới phát một lần. Đến mùa xuân năm trước nó hết còn chảy máu và cơn đau hết hẳn. Tính ra từ khi phát bệnh cho đến khi lành hẳn hết cả thảy là 18 năm.
Bảy năm trước, tôi may mắn được đến Hồng Kông, nhưng còn may mắn hơn nữa là gặp được Phật Pháp. Từ đó niềm tin của tôi đối với Nhân-Quả báo ứng càng thêm kiên cố.
Tôi giác ngộ sâu sắc rằng: "Mục đích đời người, chẳng phải là tiền rừng bạc biển, nhà cao cửa rộng, hoặc danh cao chức trọng mới làm rạng rỡ tông phong. Chỉ cần siêng năng làm thiện pháp, tích chứa âm đức, không sát sinh, làm lợi vật lợi người, Cửu huyền thất tổ nhờ đó mà được siêu thăng thì ta sẽ không thấy hổ thẹn một đời."

***
Một số câu chuyện khác
Năm 1997, có một vị kỹ sư tài ba ưu tú, đã thiết kế và chế ra một máy mổ heo độc đáo khác người. Nếu đem heo sống bỏ vào miệng máy thì chỉ mấy phút sau, da, lông, thịt, xương, huyết, đầu...từng phần đều được cắt chia thành phẩm và xuất ra hoàn hảo.
Khi máy giết mổ này được lắp ráp thành công, ngày cho máy hoạt động thử thì tất cả ban lãnh đạo và gia đình viên kỹ sư thiết kế máy, đều đến dự khán.
Kỹ sư đích thân khai máy, biểu diễn cho mọi người xem. Ông tự tin bật công tắc khởi động máy. Lúc ông quay mình bước đi, thì y phục bất ngờ bị vướng vào máy, giống như có người kéo giữ lại vậy, đang dùng tay tháo thì nơi miệng cỗ máy như có một lực cực mạnh hút ông vào thẳng trong máy. Những người đứng xem, chứng kiến thảm trạng này, đều bàng hoàng hoảng kinh.
Một người vội lao tới ngắt điện, nhưng quá muộn. Viên kỹ sư đã không còn sống, vì chỉ trong vòng mấy phút, đúng như tài năng ông thiết kế, máy giết mổ đã nhanh chóng hoàn thành sứ mệnh và chia chẻ thân ông thành từng phần hoàn hảo y như ý người sáng chế cài đặt: máu, thịt, xương, cái đầu, nội tạng đều xuất ra sắp xếp rất khéo trong thoáng chốc. Các đồng sự của ông chỉ biết sững người đứng ngó. Còn gia quyến của ông thì khóc to vang trời, ai cũng bất ngờ vì sự cố vừa xảy ra, không thể tưởng tượng được chính ông lại là vật thí nghiệm đầu tiên cho cỗ máy giết mổ.
Ta có thể thấy lòng ích kỷ không mảy may có chút từ tâm của nhân loại. Giả như vừa rồi rơi vào máy mổ là một con heo, thì tất cả sẽ reo mừng vì thí nghiệp thành công, và tuyệt chẳng hề thương tâm như thế.
* Đại văn hào Mỹ quốc trứ danh Hemingway lúc ông chết, toàn thế giới đều chấn động và dành cho sự thương tiếc, vì ai cũng đều cho rằng một nhà văn tài ba nổi danh như thế vì sao có thể tự sát, hơn nữa lại dùng súng tự tử? Đối với việc này người ta cảm thấy vô cùng thắc mắc, không sao hiểu nổi.
Thực ra ông Hemingway lúc sinh tiền rất ưa săn bắn và đã dùng súng bắn giết vô số động vật, vì vậy mà cuối cùng ông đã dùng súng để tự giết mình. Nếu nói theo báo ứng nhân quả thì chẳng phải đây là đáp án hay sao?

2. Bò Mẹ Đã Ngất Khi Thấy Bò Con Bị Làm Thịt
Câu chuyện này đã được báo Tuổi Trẻ đăng lâu rồi (25.7.2006) ở chuyên mục Câu Chuyên Văn Hóa rồi nhưng do khá cảm động nên xin đưa vào đây để khích lệ những bạn đang ăn và sẽ ăn chay.
Cô bé ấy khoảng 14, 15 tuổi sôi nổi kể chuyện với bà mẹ đang ngồi bên chị gái cô ở bệnh viện phụ sản.
- Mẹ biết không, con bò mẹ nó ngất.
Tôi theo bạn vào thăm vợ anh mới sinh con gái đang ngồi giường bên cạnh lập tức phải chú ý đến một thông tin khá giật gân như thế.
Bà mẹ thì không nói gì nhưng cô chị có vẻ không tin ra mặt, cô nhỏ nhẹ nói:
- Mày có hâm không đấy? Bò làm sao mà ngất được.
- Em này, chính em thấy này - cô bé càng sôi sục trước vẻ ngờ vực của cô chị - chị biết không, nhà chú Hùng mua con bê của bác Bằng làm đám cưới cho chị Thoa. Nhưng kéo thế nào con bê cũng không chịu đi. Chú Hùng phải mượn con bò mẹ dẫn đi trước để con bê đi theo.
Khi mẹ con con bò đến nhà chú Hùng, mấy người buộc cổ con bê tại gốc mít. Đến lúc này, dắt thế nào con bò mẹ cũng không chịu đi. Nó xoạc chân ra để không ai lôi được. Người ta bèn vật con bê ra làm thịt ngay trước mặt con bò mẹ.
Con bò mẹ ò ò kêu lên mấy tiếng. Nó nhìn chăm chăm vào con nó đang bị làm thịt, tự nhiên nó quị xuống rồi lăn quay ra đất. Nó bị ngất, bốn chân như bơi bơi trong không khí. Nhà chú Hùng phải đốt rơm, quạt khói một lúc lâu con bò mẹ mới tỉnh lại. Nó cúi đầu lững thững một mình đi ra cánh đồng...
Cô bé đột nhiên ngưng bặt. Mấy người ở trong phòng cũng lặng đi. Cô chị mặt thẫn thờ. Riêng tôi cứ cay cay nơi sống mũi và hình dung con bò mẹ vật vã khi nhìn thấy con bê con giãy giụa.
Bước lại gần, tôi xoa đầu cô bé, em ngước nhìn tôi đôi mắt trong veo: "Cháu thương bò con, bò mẹ". Tôi gật đầu nói với em: "Chú cũng tin là con bò mẹ đã ngất!".
Đôi khi chỉ vì niềm vui, vì miếng ăn...mà vô tình chúng ta đem lại sự bất hạnh, thống khổ cho những loài vật khác, có đáng không???? Xin hãy suy nghĩ lại đi các bạn.

3. Câu Chuyện Cảm Động Về Con Rái Cá
Có một vị hòa thượng trước khi xuất gia, chuyên săn bắt rái cá. Một ngày nọ, ông vừa ra ngoài đã săn được một con rái cá. Sau khi đã lột bộ da quý của nó, ông đặt con rái cá còn sống lên một bãi cỏ. Buổi tối, ông quay về chỗ cũ, nhưng lại kiếm không được con rái cá. Ông quan sát thật kĩ, phát hiện trong đám cỏ có dính một chút máu, vết máu dẫn đến một cái hang nhỏ gần đó.
Khi đến gần hang, ông ngỡ ngàng giật mình: Thì ra con rái cá chịu nỗi đau hành xác mất da, chạy về hang của mình.
- Tại sao nó lại phải làm như thế?
Khi ông ta lôi con rái cá đã tắt thở ra, mới phát hiện hai con rái cá con vẫn còn chưa mở mắt, chúng đang ngậm chặt xác chết khô của vú mẹ.
Nhìn cảnh tượng ấy, ông bàng hoàng và chợt ngộ ra, từ trước đến giờ ông chưa hề nghĩ đến động vật lại có tình cảm mẹ con thiêng liêng đến thế, ngay cả con người khó có thể làm tốt được. Trước lúc chết vẫn còn nghĩ đến cho con thơ bú sữa, vì sợ con mình đói. Nghĩ tới đó, nước mắt ông rơi, cảm thấy tội lỗi, xấu hổ cho hành động của mình. nên ông ta đem 2 con Rái Cá con về nuôi rồi khi nó lớn khôn ông thả nó về thiên nhiên. Sau cùng, ông rửa tay hoàn thiện, quyết tâm xuất gia để chuộc lại những lỗi lầm của mình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro