Viết bài văn phân tích tác phẩm "Đất Vị Hoàng" của nhà thơ Trần Tế Xương

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tiếng cười trong các tác phẩm thơ trào phúng thường được các nhà thơ dùng để phê phán cái chưa hay, chưa đẹp hoặc cái tiêu cực, xấu xa. Thơ trào phúng được biểu đạt bằng nhiều sắc thái và cung bậc cảm xúc khác nhau. Nổi bật nhất có thể kể đến nhà thơ Trần Tế Xương. Ông là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam. Trần Tế Xương được sinh ra và lớn lên tại vùng quê Nam Định. Từ xa xưa, nơi đây đã được biết đến với truyền thống hiếu học lâu đời và cũng là nơi sản sinh ra những nhân tài yêu nước. Cuộc đời ngắn ngủi 37 năm của ông gắn liền với giai đoạn giao thời đầy bi thương của dân tộc. Vì thế, khi đọc thơ của Trần Tế Xương ta sẽ dễ dàng bắt gặp tiếng cười đả kích châm biếm những thói hư tật xấu trong cuộc sống. Tuy rằng cuộc đời ngắn ngủi nhưng ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm thơ có tầm ảnh hưởng lớn và được đánh giá cao. Trong đó, có thể kể đến bài thơ "Đất Vị Hoàng", đây là một tác phẩm rất nổi tiếng của Trần Tế Xương. Bài thơ mang giọng điệu trào phúng, đả kích nhẹ nhàng mà sâu cay. Qua tác phẩm "Đất Vị Hoàng", nhà thơ đã thể hiện thái độ phẫn uất của mình trước những đổi thay ghê gớm làm mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp ngay trên mảnh đất quê hương.

Nhà thơ Trần Tế Xương sinh năm 1870, mất năm 1907. Là người con của đất Thành Nam nên từ nhỏ ông đã nổi tiếng về tài thơ phú và cũng từng được biết là nhà thơ lận đận nhất trên con đường thi cử, học hành "tám lần không khỏi phạm trường quy", nhiều lần đi thi mới đỗ tú tài nên còn được gọi là Tú Xương. Thơ Tú Xương có hai mảng chính là trào phúng và trữ tình. "Đất Vị Hoàng" thuộc thể thơ trào phúng. Bài thơ viết về vùng đất Vị Hoàng, quê cha đất tổ của nhà thơ Trần Tế Xương. Làng Vị Hoàng xưa có con sông Vị Thủy chảy qua, là nơi nổi tiếng với chuối ngự và các đặc sản chuyên dùng để dâng cho vua chúa trong thời kỳ phong kiến. Đây được coi là vùng đất "nơi sang trọng, chốn nhà quan". Thực dân Pháp sang xâm lược đã khiến nước ta trở thành buổi giao thời dở tây dở ta, nửa địa chủ, nửa phong kiến. Xã hội ở Vị Hoàng cũng chịu ảnh hưởng, ngày càng trở nên lộn xộn, đạo lý sa sút, suy đồi. Một xã hội yên bình lỗi thời đang tắt và một xã hội tuy mới mẻ nhưng hỗn độn hình thành. Tú Xương đau xót cho thảm cảnh của quê nhà, ông đã viết bài thơ này để nói lên những chuyện xấu xa, đồi bại tại vùng đất Vị Hoàng.

Mở đầu bài thơ là hai câu đề, gợi tả hình ảnh vùng quê Vị Hoàng có nhiều thay đổi. Đồng thời diễn tả cảm xúc của nhà thơ trước sự thay đổi về cả không gian địa lý và đời sống xã hội của quê hương:
"Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông"
Ở trong hai câu thơ này, ta có thể thấy được sự đổi thay của vùng quê, đổi thay của xã hội. Làng quê yên bình nơi tác giả sinh sống giờ đây đã trở thành chốn đô thị phồn hoa. Những mái ngói đơn sơ dần được thay thế bằng phố phường tấp nập, những cánh đồng rộng bao la đã biến mất theo sự xô bồ của phố thị phồn vinh. Cảnh vật duy nhất còn ở lại là dòng sông Vị Thủy, mãi trường tồn theo dòng chảy thời gian, đã chứng kiến bao nhiêu đổi thay của xã hội. Câu hỏi tu từ được đặt ngay đầu bài thơ đã gợi thái độ hoài nghi của tác giả về quê hương, phải chăng sự thay đổi quá chóng vánh của xã hội đã khiến cho con người phải hoài nghi, ngỡ ngàng. Đồng thời bộc lộ nỗi xót xa của tác giả trước hiện trạng của quê hương đất nước. Từ một vùng quê thanh bình, tĩnh lặng với dòng sông nhỏ chảy xiết đầy thơ mộng, đẹp đẽ, Vị Hoàng giờ đây đã là thành phố nhộn nhịp, xô bồ. Vậy tại sao làng của tác giả trở nên phồn hoa nhưng tác giả lại buồn? Có lẽ vì xã hội phồn hoa ấy đã không còn là của nhân dân Việt Nam nữa mà đã trở thành chốn chơi bời của thực dân Pháp. Qua đó, thể hiện tâm trạng đau đớn, hoài niệm, xót xa với cuộc sống bình yên của tác giả

Hai câu thơ tiếp theo đã miêu tả bức tranh đất Vị Hoàng với những thay đổi to lớn trong lề lối gia đình và xã hội:
"Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng"
Với cách dùng từ "nhà kia lỗi phép", "mụ nọ", "chửi chồng" tác giả đã phơi bày hiện thực xã hội đầy xót xa một cách chân thực. Hai mối quan hệ rường cột của đạo lý là phụ tử và phu thê chỉ vì tiền mà đồi bại đến cùng cực. Hỏng từ chính gia đình mà ra đã không còn là hiện tượng cá biệt nữa. Thật đáng buồn cho chữ hiếu ngàn đời của dân tộc ta đã bị mai một theo năm tháng. Đọc câu thơ ta bắt gặp cảnh con cái chửi lại bố mẹ, khinh thường bố mẹ, người trên hư hỏng, người dưới hỗn hào, đạo đức chuẩn mực nay còn đâu. Mẹ là người mang nặng đẻ đau, bố là người dưỡng nuôi dạy dỗ, bất cứ bố mẹ nào cũng đều yêu thương con, mong con là chỗ dựa tuổi già. Con cái cũng cần phải có trách nhiệm báo đáp công ơn của bố mẹ, vậy mà ở trong bài thơ tình cảnh lại diễn ra ngược lại. Còn đâu làng quê yên bình bên dòng sông Vị Thủy, còn đâu truyền thống hiếu học của quê hương, còn đâu đạo lý luân thường nghĩa phu thê - tình phụ tử. Trong mối quan hệ vợ chồng cần phải biết tôn trọng lẫn nhau để giữ cho gia đình luôn hòa thuận êm ấm. Người xưa có câu "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". Xã hội Việt Nam xưa vốn đề cao tiết hạnh của người phụ nữ, tức là sống phải phép với chồng, cũng là trụ cột của gia đình. Qua hai câu thực, ta thấy mọi trật tự luân lý đều bị ngược, xã hội ấy đã để đồng tiền vượt lên mọi chuẩn mực đạo đức. Từ sự xuống đạo đức trong mối quan hệ gia đình đã kéo theo những thay đổi trong quan hệ giữa người với người ở ngoài xã hội.

Trần Tế Xương đã khắc họa những thay đổi to lớn trong xã hội, nơi mà con người hiện ra với hình ảnh xấu xa, bần tiện:
"Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng"
Bằng cách sử dụng phép so sánh "người đâu như cứt sắt" tác giả đã cho ta thấy những kẻ keo kiệt, bủn xỉn đến bần tiện. Với cách sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đưa từ "tham lam", "keo cú" lên đầu nhằm nhấn mạnh, phê phán loại người tham lam, keo kiệt. Đây là những nét tính cách tiêu biểu của con người trong thời đại đô thị hóa ở làng Vị Hoàng. Qua đó, ta có thể thấy xã hội đảo lộn buổi giao thời đã đẻ ra lắm "quái thai", đó là những loại người "tham lam" và "keo cú" đến bần tiện, kệch cỡm, ghê tởm. Những kẻ này chỉ sống vì tiền, coi tiền bạc là trên hết, vượt lên mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. Câu như ta thấy được rằng bốn câu thơ giữa đã lên án mạnh mẽ cái xã hội buổi giao thời thối nát, kệch cỡm bằng các từ ngữ thô tục, đả kích châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay. Đằng sau những lời thơ, người đọc nhận ra thái độ đau đớn, phẫn uất của tác giả Trần Tế Xương trước thói đời đen bạc.

Lời nhắn hỏi đầy xót xa của nhà thơ Tú Xương được thể hiện trong hai câu thơ cuối:
"Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh
Có đấy nào như đất ấy không?"
Với cách sử dụng nghệ thuật mở đầu - kết thúc bằng câu hỏi tu từ nghẹn ngào cất lên như một lời đay nghiến vừa xót xa vừa đau đớn, góp phần tạo nên sự riêng biệt cho bài thơ. Câu hỏi ấy không chỉ dành riêng cho người dân làng Vị Hoàng mà còn là câu chuyện đáng suy ngẫm của cả xã hội. Khác với đầu bài thơ, câu hỏi tu từ xuất hiện ở hai câu kết đã không còn là sự lên án nữa mà là sự trăn trở, đau đớn đến bất lực trước tình cảnh của quê hương đất nước. Tác giả đã thể hiện thái độ bất mãn, phẫn uất trước tình cảnh lề lối đạo đức suy đồi, phép tắc trong gia đình bị đảo lộn, xã hội đầy rẫy những kẻ tham lam, hám lợi, keo kiệt, bủn xỉn. Nơi quê hương thân yêu bị biến đổi đến không còn nhận ra đối với một con người yêu quê hương như nhà thơ mà nói thì đó là sự mất mát không từ ngữ nào có thể miêu tả được. Qua hai câu kết, tác giả đã nâng cao mở rộng tâm tư tình cảm của bài thơ.

Bài thơ "Đất Vị Hoàng" đã thể hiện nỗi đau đơn chua xót của một nhà thơ luôn thiết tha với những giá trị truyền thống, tốt đẹp nay phải tận mắt chứng kiến sự băng hoại của những giá trị ấy, từ đó gián tiếp phê phán cái xã hội giao thời thối nát, xấu xa, suy thoái về cả phẩm chất lẫn đạo ly luân thường. "Đất Vị Hoàng" là bài thơ được viết theo thể thơ Thất Ngôn bát cú Đường Luật bằng chữ Nôm. Với cách sử dụng ngôn ngữ thơ bình dị mà sâu sắc, bút pháp tự nhiên, điêu luyện tác giả đã khắc họa thành công một xã hội giao thời thối nát, tràn ngập những loại người ích kỷ hám lợi. Cùng với biện pháp tu từ so sánh, đảo ngữ và những câu hỏi tu từ theo kết cấu vòng tròn độc đáo khiến cho lời thơ cứ đau đáu, day dứt mãi khôn nguôi, tạo nên sự riêng biệt cho bài thơ.

"Đất Vị Hoàng" là bài thơ trào phúng, đặc sắc tiêu biểu góp phần làm lên tên tuổi của nhà thơ Trần Tế Xương. Bài thơ ngắn gọn với kết cấu Đường luật chặt chẽ, ngôn ngữ thơ giản dị tự nhiên, bút pháp tả thực sống động, điêu luyện đã giúp ta thấy được những thay đổi tiêu cực của vùng đất Vị Hoàng, đồng thời cũng là sự thay đổi của xã hội trong buổi giao thời. Đọc những trang thơ mang đậm tiếng cười trào phúng đầy chân thực, Ta càng thêm trân quý tài năng của nhà thơ Trần Tế Xương - một cây bút xuất sắc của nền văn học trung đại góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam, truyền lửa cho thế hệ trẻ sau này.

..............
Cảm ơn mọi người đã đọc 😘
Thfddfg
MLSakura

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro