Chương 15

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Với việc ngày nào cũng chơi đánh trận giả ngoài bãi biển, làn da cớm nắng xanh bợt của chúng tôi chẳng mấy chốc đã chuyển sang màu nâu sẫm. Bộ đồ bơi đen xì trước đây cũng chuyển hẳn sang mày xám cũ rích của bọt biển, làm cho cái nhãn hiệu trên quần càng nổi rõ mồn một: hình con gà trống béo ị đang cất tiếng gáy bên cạnh dòng chữ Bột mì Mãi Vươn Cao. Các thớ vải dãn ra đến nỗi chúng tôi đã phải thắt vài cái nút trên quai áo để giữ cho đũng quần khỏi bị tụt xuống dưới đầu gối.

Không ai hỏi han hay bàn luận thêm gì về câu chuyện mà tôi nghe lỏm được giữa chú Foley và ông O’Leary. Có lẽ bởi đứa nào cũng đinh ninh rằng chú Foley đã có quyết định của riêng mình. Khi chú cho tụi tôi xem những bức ảnh sống động về cuộc sống trước kia của mình, chẳng phải chú ấy đã hỏi tại sao chưa có ai nhận nuôi tụi tôi đó sao. Sau đó cháu gái của cô Teresa tới chơi và ở lại một đêm, một cô bạn có cái giọng léo nhéo, tầm tuổi tụi tôi, tóc vàng, chân tay khẳng khiu, mặc quần sóoc trắng, áo màu da cam.

“Chú Doley nói muốn nhận mình làm con nuôi” – cô bé tự hào nói.

“Thật sao?”

“Các cậu nghĩ là bó mẹ mình sẽ chịu chắc?” – cái giọng chanh chua bật lại.

Nếu tôi mà là bố mẹ cô ta thì tôi lại chẳng mừng quá đi ấy chứ, nhưng tôi đồ rằng chú Foley sẽ không chịu nổi cô ta quá ba ngày. Đó là một đứa con gái hống hách và tự phụ, đủ tiêu chuẩn được khoác áo nữ tu ở St. Roderick.

Tại bàn ăn buổi sáng ngày hôm sau, chúng tôi nhìn nhau đầy thận trọng. Sau khi hoàn thành các công việc mà ông bà McAnsh phân công, chúng tôi lại được tự do ra ngoài chơi. Misty ra ngồi một mình ngoài cồn cát, trong khi bốn đứa còn lại tha thẩn dạo quanh ghềnh đá quan sát hai người đánh cá cần mẫn nhất vịnh: Ông O’Leary và chú ngựa già Socrates. Ông lão đang hoan hỉ thả cái mồi câu cũ kỹ xuống nước, trong khi con Socrates đứng bên cạnh đang dùng chân khuấy nước ầm ĩ, để rồi nghiêng đầu đớp lấy những váng nước bắn vọt lên không trung một cách điệu nghệ.

Trước nay tụi tôi chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện đi đếm đầu người xem đứa nào có mặt đứa nào không, bởi lúc nào mà năm đứa chúng tôi chẳng dính chặt lấy nhau. Do đó, phải mất một lúc lâu, cả đám mới phát hiện ra sự vắng mặt của Misty.

Thì ra cậu ta đang lượn lờ trong khu vườn trước cửa nhà cô Terasa.

Giờ thì dù ông lão O’Leary có bắt được con Henry khổng lồ đi chăng nữa thì chúng tôi cũng không đời nào chịu nán lại để chứng kiến thời khắc lịch sử ấy. Cả bốn đứa xô nhau chạy như bay qua ghềnh đá, lao về phía cồn cát trắng nhà cô Teresa, bỏ lại đằng sau tám vết chân còn mới nguyên trên cát.

Chạy được một quãng thì Maps dừng lại đi bộ thong dong, để mặc cho ba thằng tụi tôi tiếp tục chạy thục mạng về khu vườn nơi Misty Hayward đang lom khom cần mẫn nhặt cỏ.

Cậu ta đang tính toán điều gì? Định bắt chước ông già Bandy McAnsh tự nhận mình là thợ làm vườn chăng?

Misty luôn có cách rất lạ để bày tỏ thái độ rằng mình đang phớt lờ những người xung quanh. Cậu ta sẽ nhắm tịt con mắt bình thường của mình lại và nhìn mọi thứ qua con mắt mờ kia. Và cậu ta đang làm như vậy với ba đứa tụi tôi. Sau đó lại lúi húi cúi xuống nhặt cỏ tiếp, như thể không nhìn thấy bọn tôi đang đứng sờ sờ trước mặt.

“Cậu đang làm cái quái gì thế?” – một đứa cau có gắt lên.

Misty vẫn vờ như không nghe thấy gì, tiếp tục công việc của mình một cách cần mẫn. Từ bên trong nhà phát ra một bản nhạc du dương và tiếng cô Teresa đang khe khẽ hát theo.

“Cô ấy thuê cậu đấy à?”

“Bao nhiêu tiền?”

“Cẩn thận không cậu xới tung cả mấy bông hoa lên bây giờ.”

Misty hành động như thể đôi tai của cậu ta giờ cũng trở nên kém hiệu quả như con mắt phải của mình. Có tiếng chân cô Teresa đi về phía cửa ra vào và ba đứa bọn tôi nhanh chóng trốn ra sau bờ giậu. Đứa nào cũng nhíu mày khó chịu khi thấy cô mỉm cười âu yếm với thằng Misty. Sau khi cô quay vào trong nhà, cả đám lại trồi lên ngó nghiêng qua hàng rào.

“Biến đi!” – Misty rít lên.

Cậu ta với tay lấy một nắm đất và định ném về phía tụi tôi. Tất nhiên là tụi tôi sẽ né kịp.

“Biến đi!” – cậu ấy lại gắt lên.

“Nói cho tụi này biết đi. Cậu kiếm được bao nhiêu tiền trong vụ này?”

“Chẳng đồng nào cả” – Misty cộc lốc nói.

“Vậy thì tự dưng sao cậu lại đi làm việc đó?”

“Biến đi!”

Và một cục đất bay vèo về phía tụi tôi đang đứng nhưng cả ba thằng núp xuống kịp.

“Tớ biết chuyện gì đang xảy ra rồi” – Spark nói – “Chẳng có ai thuê ai cả, mà chính cậu đã đề nghị được nhổ cỏ hộ cô Teresa”.

Đúng vậy, tôi nhớ có lần cô Teresa than phiền là chưa có thời gian làm cỏ cho khu vườn trước nhà. Mặt Misty đột nhiên tái nhợt đi, và tụi tôi hiểu Spark đã đoán đúng.

“Nghe này, tất cả hãy biến khỏi đây ngay! Biến ngay đi!” – nói rồi cậu ta vung tay ném tiếp cục đất thứ hai, lần này là nhắm thẳng vào Spark. Tất nhiên là Spark thụp đầu né kịp, sau đó ngóc lên nói với theo: “Tớ nghĩ là tớ cần phải giúp cậu một tay mới được”.

Những nắm đất tiếp tục được ném vèo vèo qua hàng rào, kèm theo những lời đe dọa của Misty nhưng ngần ấy sao cản nổi ba đứa tụi tôi. Spark, Fido và tôi lần lượt xắn tay nhập cuộc, nhổ tất cả những gì có màu xanh mà trông giống cỏ dại. Tiếng cãi cọ, tranh giành của chúng tôi làm át cả tiếng nhạc trong nhà, vọng tới tai cô Teresa. Từ trong nhà chạy ra, mặt cô lộ rõ vẻ ngạc nhiên khi thấy có thêm ba đứa tụi tôi trong vườn.

“Chuyện gì thế này? Mấy đứa tính mở hội Hướng đạo sinh đấy hả?”

“Nhổ cỏ lên! Nhổ cỏ lên! Xong!” – Spark tay làm thoăn thoắt, miệng nghêu ngao hát.

Misty hoàn toàn có thể kể cho cô Teresa biết sự thật của câu chuyện, nhưng làm sao cậu ta dám mở lời chứ? Bởi đó sẽ là một nước cờ sai trầm trọng. Việc tỏ ra thù địch với ba đứa bọn tôi – nhất là khi chúng tôi tình nguyện giúp cậu ta – sẽ chỉ làm cho hình ảnh cậu ta trong mắt cô Teresa xấu đi mà thôi.

“Hôm nay quả là một ngày may mắn của cô. Nếu các cháu muốn giúp cô đến vậy thì đương nhiên là cô sẵn lòng rồi” – cô Teresa cười rạng rỡ.

Kết quả là, Spark: chịu trách nhiệm cắt cỏ, Fido: chịu trách nhiệm lau chùi và đnáh bóng các gạt tàn thuốc lá, các hộp đĩa hát bằng đồng thau mà chú Foley cất công mang từ Châu Âu về hồi cuối Thế chiến lần thứ nhất. Tôi: cũng là lau chùi và cọ rửa các bậc cầu thang và cửa sổ trước.

Còn Maps thì sao? Sau một hồi im lặng và chậm rãi một cách khó hiểu, cậu ta từ từ tiến lại phía mấy cô cháu tụi tôi. Không để cho cô Teresa kịp nghĩ ra việc giao cho mình, cậu ấy nói rất nhanh: “Cô ơi, cô có thời gian dạy cháu không?”

“Dạy cháu ư? Nói cô nghe xem cô có thể dạy cháu điều gì nào?”

Maps dùng tay xoay tròn một vòng rồi nói: “Cô dạy cháu làm sao để nhào lộn giỏi như cô đi”.

Thật là đồ mưu mô xảo quyệt, đồ phản bội đáng khinh! Bốn đứa chúng tôi đứng sững như trời trồng, sốc không nói nên lời. Đến cô Teresa cũng há miệng ngạc nhiên khi nghe thấy lời đề nghị táo bạo đó. Chẳng nhẽ cô ấy chịu lãng phí thời gian dạy cho con cáo già hai – chân xảo quyệt đó cách lộn nhào trên không sao? Thật không ngờ, cô Teresa có vẻ như đang cân nhắc làm chuyện đó thật. Cô nhìn xuống bộ đồ đang mặc trên người, một chiếc ao thun cộc tay và một cái quần sooc, rồi vui vẻ nói: “Tại sao lại không nhỉ? Dù sao cũng cần có một khởi đầu mới”.

Vấn đề là, cái khởi-đầu-mới-mẻ đó thuộc về ai?

Không đứa nào có cơ hội hỏi cô Teresa câu đó bởi cô đã cùng Maps chạy vù ra phía nền cát cứng. Tôi tìm mọi cách để giữ cho đầu óc mình không bị ảnh hưởng bởi cú đánh lén hèn hạ vừa rồi của cậu ta, bằng cách tập trung vào công việc của mình, nhưng hình ảnh hai cô cháu nô đùa trên bãi biển hiện rõ mồn một trước mắt tôi qua khung cửa sổ. Tôi giận dữ lấy nước hắt lên cửa kính nhằm xóa nhòa cái hình ảnh đó đi, nhưng cũng vô ích, thậm chí nó lại càng hiện rõ hơn.

Và khi những tràng cười giòn giã của Maps vọng tới tai chúng tôi, cả đám quyết định liên minh với nhau chống lại cậu ta. Đây là sự bắt đầu của những lần luân phiên liên kết: bốn chống một, ba chống hai, năm chống năm, nhưng cũng có lúc cả năm đứa lại cùng liên minh với nhau để chống lại mối đe dọa chung.

Vậy chẳng lẽ đây là kết quả của việc ăn năn sám hối theo lời khuyên của Đức Cha Scully hay sao?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro