Chương Hai: CUỘC HÀNH TRÌNH SANG ẤN ĐỘ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I

          Ngày dời Trụ Sở Hội Quán của chúng tôi càng đến gần, thì bà HPB càng phấn khởi hơn trong việc ca tụng xứ Ấn Độ, người Ấn Giáo, toàn thể phương Đông và người Đông phương nói chung, và càng hăng tiết chỉ trích người Tây phương, những tập quán xã hội, óc độc tài tôn giáo và những lý tưởng hẹp hòi nói chung của họ.

        Có những đêm hào hứng sôi nổi diễn ra tại “Lạt Ma Viện”, trong những đêm đó, có xảy ra một chuyện đáng kể. Nhà nghệ sĩ Walter Paris, một trong những hội viên đắc lực nhất đã từng sống vài năm ở Bombay với chức vụ kiến trúc sư của chánh phủ, đã thích thú nói chuyện với chúng tôi về xứ Ấn Độ. Nhưng y không có lòng kính trọng đặc biệt đối với Ấn Độ và lòng ưu ái đối với dân tộc xứ ấy như chúng tôi, nên y thường làm phật lòng bà HPB với những lời lẽ mà tôi cho rằng theo lập trường của giới cai trị Anh Ấn.

        Một đêm nọ, y nói chuyện về một người gia nô của y đã làm một việc lỗi lầm ngu ngốc trong khi thắng một cỗ yên ngựa, và thản nhiên nói rằng y đã quất người ấy bằng roi vọt. Ngay tức khắc, dường như bị cú roi vọt ấy quất vào mặt mình, bà HPB chồm hẳn dậy, đứng ngay trước mặt người kia, và trong một tràng độc thoại kéo dài độ năm phút, bà cho y một trận sửa sai và quở trách nặng nề đến mức làm cho y ngồi im không thốt ra được  một lời nào. Bà lên án hành động của y như một cử chỉ hèn mạt, và nhân dịp ấy bà ứng khẩu thốt ra một bài luận thuyết hùng hồn chỉ trích cách đối xử của giới cai trị Anh Ấn đối với các chủng tộc Đông phương.

        Đó không phải là một trường hợp đơn độc về mối bất bình của bà đối với cách sử xự của người Tây phương; bà vẫn luôn luôn giữ một thái độ đó trong nhiều dịp khác nữa, và tôi đã thường thấy bà biểu lộ hào khí và ăn nói bạo dạn y như vậy trong nhiều lần tiếp xúc với những viên chức cao cấp Anh Ấn ở Allahabad, simla, Bombay, Madras, và ở các nơi khác.

        Khi cuộc hành trình sang Ấn Độ của chúng tôi đã được quyết định, tôi bắt đầu thu xếp mọi công việc riêng của tôi vào mùa thu năm 1878. Việc trao đổi thư từ vẫn tiếp tục với các bạn đạo ở Bombay và Tích Lan (một số Phật Tử và tín đồ Ấn giáo đã gia nhập Hội Thông Thiên Học bằng thơ từ). Chúng tôi không công khai tuyên bố ý định xuất hành, nhưng các bạn bè thân hữu đến đầy nhà khi họ biết được tin chúng tôi sắp ra đi. Những lời ghi chép của bà HPB trong tập Nhật Ký của tôi khi tôi thường vắng mặt tại New York trong những tuần lễ cuối cùng, diễn tả sự hối thúc của các Chân Sư mong muốn chúng tôi lên đường càng sớm càng hay. Ngày 22 tháng 10, bà viết:

        “N. xuất ra và S. nhập vào(thể xác của bà) với mật lệnh của Q.T.H. dạy phải hoàn thành tất cả mọi việc vào đầu tháng 12”.

        Câu ấy ngụ ý có sự thay đổi cá tính của các Nhân Vật mượn xác bà HPB, và các đoạn nhật ký với những lời ghi bằng những tuồng chữ khác nhau cũng xác nhận việc ấy.

        Một đoạn Nhật Ký tương tự ngày 14 tháng 11 nói rằng chúng tôi phải cố gắng tối đa để lên đường trước ngày 20 tháng 12 là kỳ hạn cuối cùng.

        Ngày 22 tháng 11, những thượng lệnh khẩn cấp khác nữa cũng đến bằng một đường lối ấy, và chúng tôi được lệnh phải bắt đầu chuẩn bị rương tráp hòm xiểng. Nhiều bạn Đạo muốn tháp tùng đi theo chúng tôi sang Ấn Độ, và vài người cũng đã cố gắng sửa soạn chuyến đi, nhưng sau cùng chỉ có hai người là cô Bates, một cô giáo người Anh, và ông Wimbridge, một họa sư và kiến trúc sư, cùng đi với chúng tôi. Kể từ đó, các thượng lệnh vẫn tiếp tục đến luôn luôn không ngớt và hối thúc chúng tôi lên đường.

        Những quan khách đến viếng thăm dồn dập và vãng lai nhộn nhịp, có những bài vở xuất hiện trên các báo nói về chuyến đi của chúng tôi và những bài trả lời của bà HPB. Ngày 13 tháng 12, tôi nhận được một bức thơ viết tay của Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ giới thiệu tôi cho tất cả các viên Đại Sứ và Lãnh Sự Hoa Kỳ ở hải ngoại; và một thẻ thông hành đặc biệt của Bộ Ngoại Giao giống như những thẻ thông hành cấp cho các nhà ngoại giao Mỹ, với một sứ mạng tường trình cho chính phủ về triển vọng và khả năng nới rộng những quyền lợi thương mãi của Hoa Kỳ ở Á Châu. Những văn kiện nầy đã tỏ ra có tác dụng hữu ích về sau ở Ấn Độ, khi bà HPB và tôi bị nghi ngờ là nhân viên gián điệp của Nga! Những chi tiết của sự diễn biến khôi hài nầy sẽ được tường thuật vào đúng chỗ của nó ở một chương sau.

        Trong những ngày cuối cùng, tôi không hề nghỉ ngơi được chút nào, thường ngồi thức suốt đêm để viết thơ, hoặc di chuyển thường xuyên đến các thành phố xa gần để thu xếp công việc, và ăn uống rất thất thường trong khi di chuyển: trong khi đó thì luôn luôn vang dội những mật lệnh hối thúc chúng tôi phải lên đường trước ngày 17 tháng 12 là kỳ hạn chót. Tuồng chữ của bà HPB có vẻ nguệch ngoạc, và trong đoạn Nhật Ký đề ngày 15 tháng 12, tôi nhận thấy có hai lối viết khác nhau của tuồng chữ bà như đã nói trước đây, chứng tỏ rằng có hai vị Chân Sư đã mượn xác của bà trong đêm hôm đó.

        Ngày 17 tháng 12 là ngày cuối cùng của chúng tôi trên đất Mỹ. Đoạn Nhật Ký của bà HPB viết:

        “Một ngày đáng ghi nhớ! Olcott trở về lúc bảy giờ tối với những vé tàu “Canada” và ngồi viết thơ đến 11 giờ 30. Maynard mời HPB dùng cơm tối tại nhà y. Bà về nhà lúc chín giờ. Đến gần mười hai giờ đêm, HSO và HPB rời khỏi nhà bước lên xe ngựa để ra bến tàu”.

        (Hãy nhận xét người viết luôn luôn đề cập đến bà HPB với nhân vật đại danh từ ở ngôi thứ ba).

            Thế là chấm dứt giai đoạn đầu tiên của lịch sử Hội Thông Thiên Học,  với cuộc khởi hành của hai nhà sáng lập rời khỏi Mỹ Quốc.

        Sau lưng họ là một dĩ vãng ba năm tranh đấu; với những chướng ngại đã vượt qua; những kế hoạch đã thức hiện được vài phần; những công lao trước tác sách vở; những bạn bè bỏ cuộc nửa chừng; những kẻ thù nghịch phải đối phó; và với việc đặt nền tảng rộng lớn cho cái cơ cấu vĩ đại được xây dựng lên trải qua thời gian để quy tựu các quốc gia, cái thành quả nầy, hồi đó họ không thể ngờ trước được. Bởi vì họ đã xây dựng một công trình Những gì còn thuộc về tương lai, chúng tôi không thể tiên liệu trước. Ý nghĩ về sự phát triển thần diệu lạ lùng của Hội Thông Thiên Học, không hề thoáng qua chí đến trong những ước mơ của chúng tôi.

        Một bạn đạo của chúng tôi tuyên bố rằng Hội Thông Thiên Học đã chết một cách tự nhiên trước khi chúng tôi lên đường sang Ấn Độ. Sự thật là trong những năm đầu ở New York, Hội tương đối bất động và không có làm gì đáng kể, nhưng nó bắt đầu phục sinh kể từ khi Trụ Sở Hội được dời sang Ấn Độ.

        Chiếc “Canada” tách rời khỏi bến vào ngày 18 và phải đợi cho nước thủy triều lên cao mới ra khơi vào trưa ngày 19 tháng 12. Sau cùng, chiếc tàu đã vượt ra biển đại dương màu xanh biếc trực chỉ vùng Đất Hứa của chúng tôi. Lòng tôi tràn đầy một lòng hứng khởi và triển vọng tương lai đến mức tôi không còn muốn đứng trên sàn tàu để ngắm nhìn cảnh tượng đất Mỹ lui dần rồi tan biến khỏi tầm mắt mình, mà liền đi xuống phòng “cabin”của tôi để tìm vị trí hải cảng Bombay trên tấm bản đồ của xứ Ấn Độ.

II

          Tuy chúng tôi rời khỏi cảng New York ngày 17 tháng 12 năm 1878, chúng tôi vẫn chưa ra khỏi hải phận Mỹ cho đến trưa ngày 19, vì bị nước ròng vào ngày 18 và tàu phải bỏ neo ở vịnh Lower Bay để chờ con nước lên. Bạn đọc hãy tưởng tượng tâm trạng của bà HPB nếu bạn có thể! Bà quở trách, quát tháo vị thuyền trưởng, viên hoa tiêu, các kỹ sư, chủ tàu, và cả những con nước thủy triều lên xuống!

        Sau hơn hai tuần vượt biển Đại Tây Dương, vào ngày đầu năm 1879, tàu tiến vào hải phận Anh trong một biển sương mù dầy đặc, giống như cái tương lai hãy còn mờ mịt của chúng tôi. Sáng ngày hôm sau, tàu cặp bến Gravesend, tại đây chúng tôi đáp xe lửa đi Luân Đôn, và thế là kết thúc giai đoạn đầu của cuộc hành trình. Đến thủ đô Anh Quốc, chúng tôi được Tiến sĩ Billing và phu nhân tiếp đón nồng hậu tại tư gia của họ ở vùng ngoại ô Norwood Park, ngôi nhà nầy đã trở nên trung tâm quy tựu tất cả những bạn đạo và thư tín viên của chúng tôi ở Luân Đôn kể từ khi đó. Ngày 15 tháng 1, tôi chủ tọa một phiên họp của xứ bộ Thông Thiên Học Anh Quốc, để bầu cử một ban Chấp hành và bàn về nhiều vấn đề linh tinh khác.

        Thời gian của chúng tôi ở Luân Đôn hoàn toàn bận rộn với những công việc Hội, tiếp khách, và đi viếng thăm viện Bảo Tàng Anh cùng những nơi khác. Ngoài ra cũng có những màn trổ phép thuật thần thông của bà HPB và những buổi họp đàn với bà Hollis-Billing và vong linh khuất mặt mệnh danh “Ski”, mà toàn thể các giới Thần Linh Học đều biết tên.

        Diễn biến kỳ diệu nhất trong thời gian chúng tôi ở Luân Đôn là việc gặp gỡ một vị Chân Sư khi tôi và hai bạn đạo cùng nhau đi dạo chơi trên đường lộ Cannon Street. Sáng hôm đó sa mù dầy đặc đến nỗi người ta không nhìn thấy bờ bên kia đường, và cả thành phố đều hoàn toàn mờ mịt. Hai bạn tôi nhìn thấy Ngài trước nhất, còn tôi lúc ấy mắc lo nhìn quanh nên không để ý. Khi hai bạn tôi thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên, tôi mới quay đầu nhìn lại và gặp cái nhìn của Chân Sư, khi ấy Ngài cũng vừa quay đầu nhìn lại đằng sau. Tôi nhận ra Ngài không phải như một người quen biết thường, mà là nhận ra gương mặt của một đấng Cao Cả, vì gương mặt ấy khi người ta đã gặp một lần thì không bao giờ có thể lầm lẫn. Cũng như ánh sáng huy hoàng chói rạng của Mặt Trời so với ánh sáng nhẹ nhàng êm dịu của Mặt Trăng, vốn có một sự khác biệt rõ ràng giữa sự sáng sủa dịu hiền trên gương mặt một người hiền lương của thế tục, và sự sáng lạn huy hoàng rực rỡ trên gương mặt của một vị Siêu Nhân, nó phản ảnh cái ánh sáng bên trong của tinh thần đã thức tỉnh về phương diện tâm linh và hoàn toàn giải thoát.

        Chúng tôi ba người cùng dạo chơi trong thành phố và cùng về một lượt, nhưng khi vừa bước vào nhà thì đã nghe bà Billing và bà HPB nói cho chúng tôi biết rằng Chân Sư đã đến đây và Ngài có nói đã gặp chúng tôi đi chơi ngoài thành phố. Ngài cũng có nêu đích danh của cả ba người. Câu chuyện của bà Billing thuật lại rất thú vị. Bà nói rằng cửa trước vẫn đóng và khóa chặt như thường lệ, và không ai có thể vào nhà mà không reo chuông báo hiệu. Tuy nhiên, khi bà rời khỏi phòng khách đi qua hành lang để đến phòng bà HPB, thì bà suýt đụng phải một người lạ mặt hình dung cao lớn, đứng sững ngoài hành lang trước cửa buồng của bà HPB. Bà diễn tả người ấy như là một người Ấn Độ có cái tác phong sang quý, với đôi mắt sáng và cái nhìn như soi thấu lòng người. Lúc ấy bà ngạc nhiên đến nỗi không thốt ra được một lời nào, nhưng người lạ mặt nói: “Tôi muốn gặp bà Blavatsky”,và tiến về phía cửa buồng của bà HPB. Bà Billing đích thân mở cửa cho Ngài và mời Ngài vào. Ngài bước vào phòng, tiến đến gần bà HPB, chào bà theo cung cách của người phương Đông, và bắt đầu nói chuyện với bà HPB bằng thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ đối với bà Billing, tuy rằng bà nầy, với tư cách một người đồng tử công cộng với nhiều năm thực nghiệm, đã từng tiếp xúc với mọi hạng người của nhiều xứ khác nhau. Tự nhiên bà Billing đứng dậy để bước ra ngoài, nhưng bà HPB mời bà ở lại và bảo bà đừng để ý về việc hai người nói chuyện với nhau bằng một thổ ngữ lạ, vì họ cần thảo luận với nhau về một việc đạo sự trên phương diện huyền linh.

        Không biết rằng người khách Ấn Độ bí mật nầy có trợ giúp thêm thần lực cho bà HPB hay không thì tôi không thể nói, nhưng khi ngồi vào bàn ăn tối hôm đó, bà làm cho vị nư gia chủ rất vui mừng thích thú khi bà thò tay xuống dưới mặt bàn rồi lấy lên cho bà kia một ấm trà Nhật Bổn bằng sứ rất đẹp, dường như do lời yêu cầu của chủ nhà, tuy rằng tôi không chắc lắm về chi tiết nầy.

        Ngày 15 tháng 1, chúng tôi sửa soạn điLiverpool để đáp tàu “speke Hall” đi Ấn Độ qua ngã Địa Trung Hải, Hồng Hải và Ấn Độ Dương trực chỉ Bombay. Đúng một tháng sau, ngày 15 tháng 2, chúng tôi đã lọt vào hải phận Ấn Độ và sáng ngày hôm sau, tàu đã cặp bến hải cảng Bombay. Đêm hôm đó, tôi đã ngồi trên sàn tàu đến một giờ sáng để ngắm nhìn bầu trời xanh biếc hùng vĩ của xứ Ấn Độ, và vận hết nhỡn lực nhìn lên bờ để mong nhìn thấy ánh sáng đầu tiên của thành phố Bombay.

        Sau cùng, từ đàng xa một ngọn đèn nhỏ xuất hiện trên mặt biển, và tôi liền trở về ca bin  để dưỡng sức cho cái thể xác mỏi mệt được nghỉ ngơi để còn chờ đón công việc của ngày mai. Trước khi mặt trời mọc, tôi lại trở lên sàn tàu, và khi chiếc tàu lướt trên mặt nước, tôi ngắm nhìn và thưởng thức cảnh tượng hải cảng Bombay diễn ra trước mắt tôi. Động Voi (Elephanta Cave) ngay trước mặt là địa điểm đầu tiên mà chúng tôi muốn được xem, vì đó là cái kiểu mẫu điển hình của xứ Ấn Độ cổ xưa, tức đất Tây Trúc thiêng liêng cổ kính của muôn đời (Bharata-Varsha),mà chúng tôi vẫn chiêm bái tận đáy lòng và ước mong được thấy phục sinh trở lại nơi xứ Ấn Độ ngày nay. Nhưng than ôi! Khi chiếc tàu lượn vòng quanh ngọn đồi Malabar Hill, thì sự mơ ước của chúng tôi liền tiêu tan ra mây khói. Cảnh tượng mà chúng tôi thấy ngay trước mắt đó là một xứ Ấn Độ tân thời với những dinh thự, lầu đài nguy nga tráng lệ, lồng trong cái bối cảnh xinh tươi của những công viên được chăm sóc lịch sự theo kiểu du nhập từ Anh Quốc, và bao phủ chung quanh với tất cả những dấu hiệu giàu có sung mãn thu hoạch được bằng các nghiệp vụ kinh doanh thương mãi. Xứ Tây Vực cổ kính của thời đại Elephanta đã bị xóa nhòa bởi sự lộng lẫy huy hoàng của một nền trật tự mới, trong đó triết học và tôn giáo không có dự phần, và lòng tôn sùng nhiệt thành nhất được đặt vào hình ảnh của thần tượng Nữ Hoàng trên tờ giấy bạc Ru bi! Bây giờ thì chúng tôi đã quen với tình trạng đó, nhưng lần đầu tiên cảnh tượng đó gây cho chúng tôi cái cảm giác đau lòng của sự thất vọng chua cay.

        Tàu chưa bỏ neo để cặp bến thì đã có ba người Ấn  sắc phục chỉnh tề đến tìm chúng tôi. Đó là Mulji Thackersey, Krishnavarma và Sitaram, đã gia nhập Hội Thông Thiên Học bằng thơ từ và được cấp chứng thư của Hội. Ba người này đã ngủ đêm trên một chiếc giang đỉnh nhỏ để đợi tàu cặp bến và lấy làm vui mừng mà tiếp đón chúng tôi cũng như chúng tôi rất vui mừng mà đến xứ họ. Chúng tôi bốn người cùng với họ xuống chiếc giang đỉnh để vào bến. Khi vừa đổ bộ lên đất liền, cử chỉ đầu tiên của tôi là cúi rạp xuống hôn bực tam cấp bằng đá, một hành động chiêm bái do bản năng thúc đẩy tự nhiên của tôi! Đây là cái giờ phút chờ đợi từ lâu, nay mới là lúc chúng tôi đã thật sự đặt chân lên giải đất thiêng liêng, nơi đất lành của các Chân Sư, quê hương của các tôn giáo cổ từ ngàn đời, xứ sở của những huynh đệ đồng môn cùng một lý tưởng tâm linh với chúng tôi, và cùng sống chết với họ là tất cả những gì chúng tôi có thể mong ước. Tất cả những gì mà người ta đã nói với chúng tôi trên tàu về những thói hư, tật xấu của họ như sự nhu nhược tinh thần, thói a dua, nịnh hót, bợ đỡ, sự bất trung bất tín của họ, nay đã bị quên mất hết cả. Đó là bởi vì chúng tôi thương yêu họ vì những truyền thống tổ tiên của họ và thậm chí, vì những điểm thiếu sót bất toàn của họ như thế nào. Ít nhất đối với tôi, cái cảm nghĩ đó vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay. Tôi cảm thấy thực sự rằng dân tộc họ là dân tộc của tôi, quê hương xứ sở họ là quê hương xứ sở của tôi: ước mong sao những ân huệ của các đấng Chân Sư Minh Triết luôn luôn đến với họ và che chở họ mãi mãi!

III

          Những đường phố của Bombay có một tính chất đặc biệt Đông Phương nó làm cho chúng tôi vô cùng thích thú. Những dinh cơ nguy nga đồ sộ, những sắc phục màu mè sặc sỡ của dân bổn xứ gồm đủ mọi thành phần vô cùng phức tạp, những xe cộ hình dáng dị kỳ, cái cảm giác mới mẻ lạ lùng mà toàn thể cảnh tượng đó gây ra do cái thẩm quan mỹ thuật của chúng tôi, và niềm phúc lạc thần tiên được đạt tới mục đích cuộc hành trình sau những chuỗi ngày khắc khoải chờ mong kéo dài, để đến giải đất của những dân tộc mệnh danh “ngoại đạo” thân yêu của chúng tôi, để tiếp xúc và sống chung với họ chúng tôi đã vượt qua bao vùng biển cả trùng dương và chạm trán với bao cơn giông tố bão bùng, tất cả những cảm giác, ấn tượng sống động đó làm cho lòng chúng tôi tràn ngập một niềm sung sướng hạnh phúc khôn tả.

        Chiếu ngày 17 tháng 2, một cuộc tiếp tân được tổ chức tại tư gia một bạn đạo với ba trăm quan khách được mời đến để gặp gỡ chúng tôi. Như thường lệ trong những dịp nầy có đọc diễn văn chúc mừng, với những tràng hoa trồng vào cổ và nước hoa rẩy vào người chúng tôi theo phong tục bổn xứ. Bà HPB, ông Wimbridge, ông Scott và tôi đều có đáp từ tùy theo khả năng và tùy hứng của mỗi người, và cơn xúc động sâu xa trong lòng đã khiến cho tôi rơi nước mắt.

        Ngày hôm sau, chúng tôi được mời đi tham dự cuộc lễ kỷ niệm “Shivaratri” của Ấn Giáo tại Động Voi. Sau đó, chúng tôi hàng ngày đều có quan khách đến viếng nườm nượp mỗi lúc càng đông, trong số đó có các gia đình cư sĩ tại gia người Parsi (Hỏa Giáo), người Ấn Giáo, các tu sĩ xuất gia, tăng lữ Kỳ Na Giáo (jain)v.v….Có những mâm lễ vật hoa quả được gởi đến tặng chúng tôi với những thông điệp chào mừng. Một đêm văn nghệ đặc biệt với vở kịch Ấn Độ “Sitaram” được trình diễn cho chúng tôi xem tại Hí Viện Elphinstone.

        Ngày 7 tháng 3, chúng tôi dời chỗ ở đến một ngôi biệt thự nhỏ ở số 108, đường Girgaum, chúng tôi ở luôn tại đây suốt hai năm liền, và dùng nơi đó làm Tổng Bản Dinh Hội Thông Thiên Học Thế Giới. Bạn Mulji có tìm được cho chúng tôi một đứa tớ trai chừng mười lăm tuổi tên Babula mà ai cũng biết lòng trung tín của nó đối với bà HPB thật là tuyệt đối cho đến khi bà rời khỏi xứ Ấn Độ.

        Mỗi đêm chúng tôi đều có quan khách đến viếng, trong những dịp có những vấn đề triết học, siêu hình và khoa học rắc rối khó khăn nhất được đem ra thảo luận. Chúng tôi sống và thở trong một bầu không khí tinh thần, trí tuệ, với những lý tưởng tâm linh cao cả nhất. Trong cái bối cảnh tinh thần đó, lần đầu tiên đã xuất hiện những bạn đạo cùng đồng thanh khí với chúng tôi, những người này về sau đã có liên hệ mật thiết với sự tiến triển của phong trào Thông Thien Học. Trong số những người bạn mới của chúng tôi lúc ấy, có hai anh em MM. và AM. Kunte, người anh là một giáo sư kiêm học giả ưu tú về môn Phạn Ngữ, còn người em là một vị bác sĩ giảng khoa Cơ Thể Học tại trường Đại Học Y Khoa ở Bombay. Người bác sĩ nấy đã tỏ ra thiếu sự can đảm tinh thần đến một mức độ tuyệt vọng, nó khêu gợi lòng khinh bỉ của tôi. Y là một thành viên trong Hội Đồng Quản Trị của Hôi Thông Thiên Học, được đối xử trên một cương vị bình đẳng và thân hữu mật thiết với chúng tôi. Lúc đầu y rất nhiệt thành với Hội, sẵn lòng trợ giúp và ứng đáp rộng rãi mọi nhu cầu của chúng tôi; y cung hiến nhà ở, tài sản, xe ngựa của y cho chúng tôi tùy nghi sử dụng; y thật sự coi chúng tôi như anh em một nhà. Bỗng nhiên, một ngày nọ, tên gia nô của y đem đến cho tôi một bức thơ từ chức và xin ra khỏi Hội mà không một lời giải thích lý do. Tôi còn không tin nơi thị giác của tôi, và nghĩ rằng đó chắc là một trò đùa vô lý, nhưng khi tôi hối hả đến nhà y thì mới bật ngửa người ra mà nghe y nói rằng đó là sự thật. Sau nhiều lần cật vấn về lý do của sự việc ấy, tôi mới biết rõ sự thật. Vị Khoa Trưởng Trường Đại Học Y Khoa đã khuyên y nên chấm dứt mọi liên hệ với chúng tôi, vì Hội Thông Thiên Học đã bị chánh phủ Anh Ấn nghi ngờ là có những ý đồ và mục tiêu chính trị! Như vậy, thay vì mạnh dạn đứng ra binh vực chúng tôi và tuyên bố rằng Hội Thông Thiên Học hoàn toàn không dính dáng gì đến vấn đề chính trị, mà y, với tư cách là một bạn thân của chúng tôi và là một thành viên Hội Đồng Quản Trị của Hội, đã có thể làm một cách dễ dàng, người bác sĩ giàu có phong lưu nầy, mà vấn đề sinh kế không lúc nào tùy thuộc vào cái số lương chết đói của chính phủ, lại chay thẳng một mạch về nhà và đặt sự hèn nhát của y trên giấy trắng mực đen! Người biết chuyện sẽ hiểu cái cảm giác khinh bỉ của tôi đối với y luôn luôn từ đó về sau. Ngày hôm sau, tôi viết thơ cho vị giáo sư Phạn Ngữ nói rằng vì người em ruột của y thấy có điều bất lợi trong việc liên hệ với Hội Thông Thiên Học, nên tôi hy vọng rằng không một sự e ngại tế nhị nào có thể ngăn sự rút lui của y nếu y cũng chia sẻ sự băn khoăn ấy. Sự trả lời của y là một lá đơn từ chức viết tay!

        Trong một trường hợp khác, với một bạn đạo Ấn Độ mà tôi biết rằng vấn  đề sinh kế của y tùy thuộc vào số lương nghèo nàn của chính phủ đài thọ là bốn chục Ru bi mỗi tháng, tôi nói:

        _Anh Martandras Bhai, thí dụ như sáng mai đến sở làm, anh thấy trên bàn giấy của anh một bức thơ nói rằng anh hãy chọn một trong hai điều, là chỗ làm của anh với Hội Thông Thiên Học, bởi vì chúng tôi bị nghi ngờ là có âm mưu chính trị, thì chừng đó anh sẽ nghĩ sao?

        Người bạn kia lộ vẻ đăm chiêu nghĩ ngợi, nét mặt cứng rắn như người sắp phải quyết định một việc nghiêm trọng, và kế đó với đôi môi mím chặt và một cái lắc đầu, y bèn đáp một cách quyết liệt:

        -Tôi…tôi không thể làm trái với lương tri của tôi!

        Tôi bèn ôm chầm lấy y và kêu to với bà HPB ở phòng kế bên:

        -Qua đây! Bà hãy qua đây để nhìn xem một người Ấn Độ chân chính và một con người can đảm !...

        Tên họ người ấy là Martandras Babaji Nagnath; y là một người Bà La Môn thuộc tiểu bang Maratha.

IV

          Những quan khách dủ các giới vẫn tiếp tục tới viếng Trụ Sở Thông Thiên Học của chúng tôi càng ngày càng đông, và thường ở nán lại mỗi đêm cho đến khuya để thảo luận về các vấn đề tôn giáo. Nhờ những cuộc tiếp xúc nầy trong những thuở ban đầu sống trên đất Ấn Độ, mà chúng tôi mới nhận thức sự khác biệt giữa những quan niệm sống của Đông Phương và Tây Phương, và thấy rằng người Phương Đông có một nhân sinh quan cao cả hơn nhiều.

        Những vấn đềdanh lợi trần gian, khác biệt chủng tộc, doanh thương, hay chính trị không hề lọt vào ngưỡng cửa của chúng tôi. Sự tiến hóa tâm linh là đề tài thảo luận nóng bỏng nhất, và đó là lần đầu tiên mà bà HPB và tôi chú trọng sâu xa đến những vấn đề tiến hóa tuần tự của linh hồn qua từng giai đoạn luân hồi chuyển tiếp theo định luật Tuần Hoàn. Chúng tôi cảm thấy hoàn toàn thỏa mãn mà được ẩn cư nơi một biệt thự hẻo lánh dưới bóng mát của những hàng dừa rậm rạp, trong một khu vực bình dân của thành phố nầy. Những chuyến vãng lai của những chiếc tàu chở đầy của cải kho tàng, sự ồn ào, náo nhiệt của thị trường thương mãi, sự cạnh tranh ráo riết của các xí nghiệp doanh thương trên thị trường bông vải và sự lên cao xuống thấp của các giá trị cổ phần; những tranh đua ti tiện nhỏ nhen giữa các hàng quan chức; những cuộc tiếp tân linh đình trọng thể tại dinh Chính Phủ; tất cả những thứ đó không hề thoáng qua trong trí óc của chúng tôi. Chúng tôi lấy làm sung sướng mà quên lãng việc đời, và bị đời bỏ quên!

        Người đời có thể cho chúng tôi là cuồng tín, mộng mơ, có những hứng khởi điên rồ, không thiết thực, nạn nhân của những điều giả tưởng ngông cuồng, hoặc tự lừa dối lấy mình. Tuy nhiên, những mộng mơ của chúng tôi là ước mơ sự toàn thiện của loài người khát khao sự minh triết thiêng liêng, hy vọng duy nhất của chúng tôi là giúp đỡ nhân loại,  nâng cao hoài bảo tinh thần và sống một cuộc đời thanh cao tốt đẹp hơn. Và dưới những hàng dừa sầm uất, chúng tôi đã được sự đích thân viếng thăm của các đấng Chân Sư. Sự hiện diện cao cả của các Ngài đã giúp thêm sức mạnh cho chúng tôi tiến bước trên con đường mình đang theo đuổi, và tưởng thưởng chúng tôi gấp trăm lần nhiều hơn tất cả những sự lừa đảo, phản bội, nhạo báng, lăng nhục, ngược đãi của người đời và sự rình rập theo dõi của nhân viên công an, cảnh sát, mà chúng tôi đã phải chịu.

        Khi đã có các Ngài thường xuyên hỗ trợ chúng tôi, thì có hề gì nếu chúng tôi bị người đời chống  đối thù nghịch? Thế gian đã không chinh phục được chúng tôi, nhưng Nghiệp Quả đã đặt để cho chúng tôi cái vai trò thắng đoạt sự thờ ơ lãnh đạm của nó và rốt cuộc đáng được cho thế gian tôn trọng.

        Chúng tôi không biết, nhưng các đấng Chân Sư biết, rằng hai chúng tôi sẽ được xử dụng như cái trung tâm hạt nhân cần thiết cho sự tập trung và phổ biến những giáo lý Huyền Môn cổ truyền của Ấn Độ, nay đã  đến chu kỳ tái xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của nhân loại theo định luật Tuần Hoàn. Một người thừa hành luôn luôn là cần thiết như một vận hà để phát động những phong trào phục hưng trí tuệ và tâm linh đó, và tuy hãy còn là thiếu sót bất toàn, nhưng chúng tôi cũng tạm gọi là khá tốt để thi hành cái sứ mạng đó, bởi vì chúng tôi có ít nhất là niềm hứng khởi nhiệt thành, lòng ưu ái và sự vâng lời tuyệt đối. Những điểm thiếu sót bất toàn cá nhân của chúng tôi không đáng kể vào đâu so với những nhu cầu cấp bách của nhân loại. Bởi vậy nên, hiểu theo một ý nghĩa, chúng tôi là những người hướng đạo dọn đường khai sáng phong trào Thông Thiên Học, sẽ tác động như cái trung tâm để thể hiện và phát huy bầu ánh sáng rạng ngời của nền Minh Triết cổ truyền Đông Phương, nó đang gây nên sự thán phục và ca tụng trong các giới học giả quốc tế hiện đại do bởi sự thanh cao mỹ lệ và giá trị độc đáo vô song của nó.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro