Chương một

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I

        Quyển hồi ký của H.S Olcott, cố hợi trưởng hội Thông Thiên Học Thế Giới, đã miêu tả bà Blavatsky ở ngoài xã hội, bây giờ chúng ta hãy nhận xét bà khi ở nhà.

        Nếp sinh hoạt hằng ngày của chúng tôi tại tư gia (mà tôi dặt cho cái tên hài hước là “Lạt Ma Viện” là như sau đây. Chúng tôi ăn điểm tâm lúc tám giờ, dùng bữa chiều lúc sáu giờ,làm việc tới hai giờ sáng mới nghỉ, tùy theo việc làm của chúng tôi và những lúc gián đoạn công việc khi có khách đến viếng. Bà HPB dùng bữa trưa tại nhà, còn tôi ăn trưa ngoài thành phố, ở một nơi gần văn phòng Luật của tôi.Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên hoạt động của Câu Lạc Bộ “Loto Club”, nhưng khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén Màn Isis”, tôi bèn chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám và mọi hoạt động thế tục nói chung.

        Sau bữa ăn điểm tâm, tôi đến văn phòng làm việc của tôi, còn bà HPB ngồi vào bàn làm việc tại nhà. Đến bữa ăn chiều, chúng tôi thường hay có khách, chứ ít khi không có ai; và dẫu cho những ngày không có khách đến dùng bữa, thường cũng có người đến ở chơi vào hôm. Việc bếp núc của chúng tôi rất đơn giản, chúng tôi không uống rượu, và chỉ ăn uống sơ sài. Chúng tôi có một người tớ gái giúp mọi việc nhà, hay đúng hơn là một chuỗi dài những người giúp việc luân phiên đến rồi lại đi, vì chúng tôi không giữ họ ở lâu.

        Người tớ gái dọn dẹp bữa ăn chiều xong thì về nhà nghỉ, và sau đó chúng tôi phải đích thân trả lời những tiếng gọi cửa. Việc ấy không bận rộn bao nhiêu, nhưng có điều nghiêm trọng hơn là cung ứng trà với sữa và đường cho một số đông quan khách đến đầy nhà có khi vào độ một giờ sáng. Những dịp đó, bà HPB nhân lúc cao hứng, tự pha cho mình một chén trà, và với một cách điệu rộng rãi hào phóng, không màng nghĩ đến những khả năng tiếp tế thực phẩm trong gia cư, bèn tuyên bố:

        -Tất cả mọi người đều uống một chén, quý vị nghĩ sao?

        Dẫu cho tôi ra dấu làm hiệu để can gián cũng vô ích, bà vẫn không chú ý.

        Thế là, sau nhiều cơn lục lạo đi tìm sữa và đường một cách vô hiệu ở vùng lân cận vào lúc nửa đêm, tôi bèn dán một tờ cáo tri lên vách về việc đó như sau:

                                               Trà

        “Quý khách sẽ thấy có nước sôi và trà trong nhà bếp, có thể cũng có sữa và đường, xin hãy tự pha chế và tùy nghi sử dụng.  

        Điều nầy có vẻ phù hợp với bầu không khí tự do phóng khoáng của tư gia chúng tôi, nên không ai nghĩ gì khác, và sau đó thật là một điều thú vị mà thấy những khách quen thản nhiên đứng dậy đi vào nhà bếp để tự pha lấy một chén trà nóng. Các bà mệnh phụ, các vị giáo sư, học giả, nghệ sĩ và ký giả nổi tiếng, tất cả đều vui vẻ trở thành những nhân viên tự động pha trà trong nhà bếp của chúng tôi.

        Bà HPB không hề có một kiến thức sơ đẳng vế vấn đề nội trợ. Có lần,muốn ăn trứng luộc, bá để những quả trứng sống trên lò than hồng! Đôi khi người tớ gái xin phép nghỉ cuối tuần vào chiều thứ bảy và để cho chúng tôi tự xoay sở lấy bữa ăn chiều. Những lần đó, có phải bà HPB ra tay nấu nướng và dọn ăn không? Hẳn là không, mà là bạn đồng hành bất hạnh của bà! Còn bà thì hoặc là ngồi viết và hút thuốc lá, hoặc bước vào nhà bếp nói chuyện chơi tiêu khiển. Đôi khi, có những vị nữ khách đến nhà trong những dịp đó, bèn giúp tôi một tay, chẳng hạn như tuần rồi, nữ bá tước L.P. bước vào đúng lúc và làm giúp tôi một món sà lách ngon tuyệt trần.

        Hồi đó, bà HPB luôn luôn có một tính chất trẻ trung, vui nhộn. Tôi không thể diễn tả tâm trạng vui tươi phấn khởi của bà hối đó bằng cách nào khác hơn là trích dẫn một đoạn văn phóng sự đăng trên nhật báo Hartford nói về bà như sau.Phóng viên báo ấy viết:

        “…HPB phu nhân cười! Khi tôi viết về cái cười của bà HPB, tôi cảm thấy dường như tôi muốn nói rằng bà là hiện thân của Thần Hài Hước ngay trong phòng khách! Vì trong tất cả những chuỗi ngày dài sáng sủa, vui tươi, giòn giã, mà tôi đã từng nghe trong đời, thì chuỗi cười của bà thật là độc đáo, điển hình. Thật vậy, bà dường như là tiêu biểu cho cái tinh thần hài hước mà bà biểu lộ thường xuyên bất cứ lúc nào, nó chứng tỏ nơi bà một nguồn sinh khí dồi dào vô tận”.

        Đó là cái sắc thái của tư gia chúng tôi; và tính vui vẻ hồn nhiên, ngôn ngữ hoạt bát linh động, tình thân hữu đậm đà của bà HPB đối với những người mà bà ưa thích hoặc muốn cho họ quý mến bà, những đề tài đàm thoại lạ lùng kỳ bí và, bộ môn hấp dẫn nhất đối với số đông các quan khách, những phép thuật thần thông của bà, làm cho “Lạt Ma Viện” của chúng tôi trở thành phòng khách sáng giá nhất của thành phố New York hồi thời kỳ đó, tức là trong những năm đầu của hội Thông Thiên Học Thế Giới.

II

        Phòng khách của chúng tôi được trang hoàng theo một mỹ quan đặc biệt lạ thường. Nói chung nó có một phong cách mỹ thuật và hấp dẫn đối với gia chủ và các quan khách; nó là một đầu đề của nhiều bài phóng sự đăng trên các báo và đầu đề những câu chuyện mạn đàm trong các giới hạn hữu của chúng tôi. Không một bối cảnh nào có thể thích nghi hơn nữa để làm nổi bật cái cá tính lạ lùng của chủ nhân nó là nhân vật kỳ bí HPB.

        Nhiều nhà báo đã từng viết bài diễn tả phòng khách của chúng tôi đăng trên các báo Mỹ thời bấy giờ, trong số đó có bài tường thuật của phóng viên nhật báo Hartford Times như sau:

        “…Bà HPB ngồi nơi phòng khách vừa là phòng làm việc của bà,  mà người ta cũng có thể gọi là phòng trưng bày đồ cổ của bà nữa, vì không một gian phòng nào chứa đầy những vật lạ, vật quý, đồ cổ xưa, đẹp mắt ,sang trọng, đắt giá và cả những đồ cổ có vẻ tầm thường vô giá trị nữa, hơn là gian phòng nầy. Miệng ngậm thuốc lá, tay cầm kéo, bà đang bận rộn cắt ra những đoạn văn, những bài báo, bài phê bình, và những bài vở đủ mọi loại, từ những đống báo chí đến từ khắp nơi trên thế giới nói về bà, về quyển sách của bà viết, về Hội Thông Thiên Học, và về bất cứ mọi chuyện liên quan đến công việc và mục đích của đời bà.

        Bà đưa tay ra hiệu mời chúng tôi ngồi, và trong khi bà đang chăm chú đọc một bài báo, chúng tôi có thì giờ quan sát qua một lượt cảnh vật trang trí trong phòng khách của “Lạt Ma Viện” nầy. Đứng sững ngay giữa phòng là một con khỉ đột nhồi cứng, mặc quần áo chỉnh tề, với cổ “cồn” trắng thắt cà vạt, tay cầm tập bản thảo một bài diễn văn, sống mũi đeo kính trắng. Phải chăng đó là một sự châm biếm ngầm các hàng giáo phẩm? [Không, mà là các nhà bác học duy vật(HSO) ]!

        Phía trên cánh cửa lớn, là một đầu sư tử cái dồn gòn, hai quai hàm mở lớn với những nanh nhọn nhe ra một cách dễ sợ, đôi mắt trừng lên với vẻ độc ác tự nhiên của loài mãnh thú rừng xanh. Giữa những đồ vật cổ xưa, những pho tượng Phật bằng trầm hương, và những vật linh tinh khác, bà HPB nổi bật trong chiếc áo choàng bằng tơ óng ánh, màu mè sặc sỡ, hoàn toàn phù hợp và thích nghi với cảnh vật chung quanh. Bà có một tác phong đặc biệt nó toát ra một dũng lực và một sự tự tín lạ thường. Trên gương mặt bà, dường như luôn luôn có sự diễn biến của nhiều sắc thái và tâm trạng khác nhau. Bà dường như không bao giờ chú tâm vào một vấn đề nhất định. Có một luồng cảm xúc linh động, tế vi, sắc bén biểu lộ trong cặp mắt bà, nó làm cho chúng tôi có cái ấn tượng rằng bà có hai cá tính song đôi: cơ hồ như bà đang ở đây, nhưng không có ở đây; bà nói chuyện nhưng tâm trí bà đang suy tư, hay bà đang bận hoạt động ở một cõi giới khác.

        Bà có một bộ tóc rất dầy, màu nâu lợt, dợn sóng tự nhiên và không thấy có một sợi bạc nào. Da mặt bà hơi sậm hẳn là vì phơi nắng và hứng gió miền biển, và không có một vết nhăn; hai cánh tay và bàn tay bà nõn nà trắng nuột như tay con gái. Toàn thể cá tính của bà biểu lộ một sức tự chủ, phong thái uy nghi, và nội lực điềm tĩnh của nam phái, nhưng vẫn không vượt quá cái giới hạn những đức tính thuần hậu, dịu dàng tế nhị của nữ giới.”

        Như đã nói ở trên, các quan khách đến viếng trụ sở “Lạt Ma Viện” đều rất thích thú mà có dịp thấy bà HPB làm những hiện tượng thần thông ngoài việc được nghe những câu chuyện lạ lùng thú vị, cùng thưởng thức tài hùng biện và nói năng lưu loát hấp dẫn của bà. Đôi khi, câu chuyện tạm ngưng một lúc, một vị khách bỗng đưa một ngón tay lên với cử chỉ ngạc nhiên, rồi tất cả đều nín thở lắng tai nghe trong im lặng, thì kế đó nghe có tiếng nhạc reo trong không gian. Có khi tiếng nhạc ấy chỉ thoảng nghe vọng lại từ đàng xa, rồi từ từ đến gần và vang dội âm thanh cho đến khi nó vang rền khắp phòng, vọng lên trần nhà, và sau cùng thì lại tan biến dần trong khoảng không. Hoặc có khi bà HPB đưa tay đánh mạnh trong không khí vài cái, thì nghe vọng lại có tiếng ngân như tiếng chuông. Nhiều khi trước mặt người khác, bà đặt bàn tay lên một thân cây, một vách tường, một thùng đồng hồ lớn, hoặc trên đầu một người, hoặc bất cứ vật gì khác hay ở bất cứ chỗ nào khi có sự yêu cầu, và làm cho tiếng “chuông âm” vang động ở bên trong chất liệu của cái vật thể đông đặc mà bà vừa đặt bàn tay lên.

        Có lần tôi với bà cùng có mặt tại nhà của ông bà Sinnett ở Simla, và khi chúng tôi đang đứng ngoài hàng ba, bà làm cho những tiếng nhạc vọng đến chúng tôi từ đàng xa, trong không gian của một đêm sao sáng. Tôi cũng có mặt tại chỗ trong một buổi tiếp tân khi bà làm cho tiếng chuông âm ngân vang trong đầu của một vị khách có chức vị cao, và một tiếng chuông âm reo trong túi áo ngoài của một vị quan chức lớn khác nữa.

III

          Về hình dáng, bà HPB từ khi còn trẻ, vẫn là một người đầy đặn phương phi, và khi đến độ trung niên bà là người có một thân hình rất đồ sộ.Dường như đó là một huyết thống của gia đình. Trong trường hợp nầy thì cái khuynh hướng ấy càng trở nên trầm trọng do bởi nếp sinh hoạt của bà hoàn toàn thiếu vận động về thể xác, và ăn uống rất khỏe trừ ra những khi bà ngã bệnh. Dẫu trong những lúc đó, bà cũng ăn nhiều thịt mỡ và thường tưới rất nhiều bơ lỏng lên đĩa trứng gà chiên khi ăn điểm tâm. Bà không uống rượu mà chỉ uống trà và cà phê.

        Bà không phải là một người khổ hạnh, không ăn uống chay lạt, mà ăn thịt dường như là điều cần thiết cho sức khỏe và tiện nghi của bà, cũng như đối với nhiều người khác trong Hội, kể cả tôi. Tôi biết có nhiều người cố gắng ăn chay với tất cả thiện chí và vài người khác, trong đó có tôi, đã ăn chay trong nhiều năm liên tiếp, nhưng sau cùng đã phải bỏ cuộc và quay về với lối sống trước kia ngoài ý muốn của họ. vài người khác, trái lại, như bà A.Besant và những bạn đạo tên tuổi khác mà tôi biết, đã trở nên lành mạnh hơn, sáng suốt hơn và sức khỏe tốt hơn với cách ăn uống chay lạt, và lâu dần đã trở nên sợ ăn thịt dưới bất cứ hình thức nào. Điều nầy chứng minh cho câu tục ngữ “thức ăn của người nầy là thuốc độc của người kia”. Tôi nghĩ rằng không có vấn đề khinh trọng, khen chê trong trường hợp nầy hay trường hợp khác, do sự chọn lựa cách ăn uống thích hợp của mỗi người. Không phải cái gì chui vào lỗ miệng của một người nó làm cho y bị ô nhiễm xấu xa, mà chính là cái gì nằm trong tâm hồn y. Đó là một lời cách ngôn cổ mà người học Đạo nên ghi nhớ(*).

        Bà HPB như cả thế giới đều biết, là một người ưa hút thuốc lá. Bà tiêu thụ một số rất nhiều thuốc lá mỗi ngày, và do thói quen, bà vấn thuốc rất khéo. Thậm chí bà có thể vấn thuốc lá bằng tay trái trong khi bà cầm bút viết bằng bàn tay mặt.

        Trong khi bà viết bộ “Vén màn Isis” tại New York bà không hề bước chân ra khỏi nhà suốt một thời gian sáu tháng trường liên tiếp. Bà ngồi vào bàn làm việc từ sớm mai cho đến khuya, thường là đến gần hai giờ sáng. Một điều thông thường không ai lạ, là bà làm việc mỗi ngày mười bảy giờ đồng hồ. Sự vận động duy nhất của bà là đi vào phòng ăn hay phòng tắm rồi trở lại bàn viết.

        Tính vui vẻ hồn nhiên là một trong những khía cạnh duyên dáng hấp dẫn của bà HPB. Bà hay nói những chuyện trào phúng hài hước và thích nghe người khác nói những chuyện ấy. Như đã nói ở trên, phòng khách của bà không bao giờ nhàm chán, vô vị, trừ ra đối với những người không hiểu biết gì về triết học Đông Phương hay không có chút kiến thức nào về Đạo Lý cổ truyền. Đối với họ, thời gian có thể kéo dài một cách nặng nề khi mà bà luận về những giáo lý thâm sâu hay những quan điểm cao siêu huyền bí suốt nhiều giờ liên tiếp. Dẫu cho trong những lúc đó, bà cũng nói năng hoạt bát tự nhiên, không gò bó kiểu cách và phát biểu những quan điểm của bà một cách lưu loát dễ dàng như giòng suối chảy trường lưu bất tận, đến nỗi nếu người nghe không thể theo dõi giòng tư tưởng của bà, thì y cũng phải thán phục tài hùng biện và khoa ngôn ngữ điêu luyên hấp dẫn của kỳ nữ HPB.

        Trong những lúc nhàn rỗi, tức là sau những giờ làm việc ban đêm, hoặc khi có khách đến viếng, hoặc những khi rất hiếm mà bà muốn nghỉ ngơi giải trí trong giây lát, bà kể cho tôi nghe những chuyện lạ lùng, kỳ bí, những chuyện pháp môn phù thủy hoặc những chuyện phiêu lưu mạo hiểm của bà, và đổi lại, bà bảo tôi huýt gió, hoặc hát những bài hát khôi hài chọc cười, hoặc kể những chuyện vui vô lý.

IV

          Về mặt xã giao, lúc bình thường bà là người hay nói thẳng, nói toạc sự thật không sợ mích lòng, nhưng khi cần phải lễ độ đối với một nhân vật mới quen biết, thì bà tỏ ra là một phụ nữ quý phái chính cống. Dù cho bà ăn mặc xuề xòa không chải chuốt về hình dáng bên ngoài, bà vẫn có cái tác phong của một người thuộc dòng quý tộc, và nếu bà muốn,bà vẫn có thể sang trọng, hào hoa như một bà công tước nước Pháp. Nhưng trong đời sống bình thường hàng ngày, những lời châm biếm của bà thật sắc như dao, và những cơn thịnh nộ của bà cũng như những quả bom nổ!

        Đối với bà, cái điều khả ố duy nhất không thể tha thứ là sự giả dối khoác lác, mạo lấy cái vẻ thượng lưu, trang trọng bề ngoài. Khi gặp những trường hợp đó, bà không ngần ngại nói phăng vào mặt kẻ giả dối, làm cho y cảm thấy như bị tạt một thúng nước lạnh! Do nhãn quang thần thông, bà thường nhìn thấy như soi gương, những thói hư tật xấu của những người nam và nữ mà bà gặp; và nếu họ tỏ ra chê bai giáo lý Thông Thiên Học, hoặc nói đến bà với một giọng khinh thường, thì bà sẽ trút tất cả những sự thật bỉ ổi kia lên đầu họ! Những hạng người giả dối làm cho bà phát ghét, còn đối với những người nghèo khổ, dốt nát nhưng ngay thẳng, thật thà, bà luôn luôn dành cho họ một lòng ưu ái và thường tặng cho họ một món quà.

        Tinh thần khoáng đạt và không chịu sự gò bó chật hẹp theo nghi thức xã hội, đối với bà gần như một điều thiêng liêng và bà cảm thấy không gì thích thú hơn là làm hoặc nói những điều làm sửng sốt những kẻ đạo mạo mực thước. Thí dụ như tối hôm nọ, bà mặc áo ngủ nằm trên giường tiếp chuyện với một nhóm khách quen cả nam lẫn nữ. Đó là một lối sinh hoạt theo cách điệu của các vị phu nhân vương giả quý phái hồi thời tiền cách mạng ở Âu Châu. Tính chất tự nhiên vô mặc cảm của bà trong cách xã giao đó vẫn không làm cho ai khó chịu. Không một vị nữ khách nào nhìn thấy nơi bà một kẻ tình địch khả hữu, không một người đàn ông nào nghũ rằng bà có thể bị họ ve vãn đến phải xiêu lòng.

        Bà nguyền rủa (chửi thề) như lính tập ngoài mặt trận nhưng không có ác ý, và nếu cái thú vui dị thường đó của bà không làm cho ai chú ý và lên án, thì bà sẽ thôi không còn tiếp tục. Đó là điểm tâm lý chung của mọi người, cũng nhu nó thuộc tính chất tự nhiên của bà, là thích làm những điều cấm kỵ chỉ vì do một tinh thần phản kháng. Cuộc đời thế gian đối với bà là một trò vô nghĩa, mồi danh bã lợi chỉ là đồ rơm rác, cuộc sống thức tỉnh của bà lúc ban ngày chỉ là một sự sống ảm đạm, khô khan, tẻ nhạt; đời sống thật sự của bà là lúc ban đêm, khi bà rời khỏi thể xác để đi đến ngồi dưới chân các đấng Chân Sư.

        Bà khinh bỉ những nhà bác học thiển cận mù quáng, đầu óc nông cạn chật hẹp, họ không hề nhìn thấy mảy may sự thật, nhưng lại xét đoán bà bằng sự nhận biết bất chính và thiển kiến sai lầm, rồi họ tìm cách chận họng bà bằng những âm mưu vu khống.

        Đối với các hàng giáo phẩm nói chung, bà rất ghét, bởi vì họ thường không biết gì về những chân lý trên địa hạt tinh thần, nhưng lại nắm quyền dắt dẫn những kẻ mù quáng tâm linh, kiểm soát tín ngưỡng của người thế tục, hưởng thụ lợi lộc mà họ không có làm ra và lên án những người “ngoại đạo”, những người nầy lại thường là những nhà hiền triết, thức giả, siêu nhân.

        Bà HPB có vô số bạn bè thân hữu, nhưng thường hay mất bạn, có người về sau lại trở thành những kẻ thù nghịch với bà. Không ai có thể dễ mến hơn bà khi bà muốn, đó là những khi bà muốn quy tựu những người cộng tác với bà trong công việc đạo sự. Những khi đó thì bà tỏ ra rất ngọt ngào dễ thương trong giọng nói và thái độ, cử chỉ, làm cho người kia cảm thấy rằng y được coi như người bạn tốt nhất, nếu không phải là người bạn duy nhất của bà. Đối với những người thường như tôi và những người cộng tác thân tín khác nữa, tôi không thể nói rằng bà luôn luôn trung hậu, chân thành. Tôi nghĩ rằng bà chỉ coi chúng tôi như những con xe con pháo trong một ván cờ, thế thôi, chứ bà không hề có một cảm tình trìu mến xâu xa tự đáy lòng. Bà nói lại cho tôi biết những điều bí mật của những người, cả nam lẫn nữ, chí đến những điều rất tổn thương danh dự mà họ đã kể lại  cho bà nghe, và tôi tin chắc rằng bà cũng xử sự y như vậy về những việc riêng của tôi. Nhưng bà luôn luôn trung thành tuyệt đối với các đấng Chân Sư; vì công việc của các Ngài, bà sẵn lòng hy sinh không phải chỉ trọn một cuộc đời, mà có thể đến hai chục kiếp, và thản nhiên nhìn xem toàn thể chủng tộc loài người bị cháy thiêu trong lửa đỏ nếu cần.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro