Chương Mười Một + Chương Mười Hai

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương mười một

VIẾNG THỊ TRẤN SIMLA

I

       Thị trấn Simla phô bày trước mắt chúng tôi những cảnh tượng rất hùng vĩ của miền sơn cước. Ngôi biệt thự của ông Sinnett tọa lạc trên một sườn núi, nhìn xuống một vùng thung lũng rất ngoạn mục, và ngồi trên hàng ba nhà ông, người ta có thể nhìn thấy những biệt thự của phần nhiều những vị quan chức Anh Ấn cao cấp nắm guồng máy cai trị cả một đế quốc rộng lớn nầy.

        Sáng ngày hôm sau, cử chỉ đầu tiên của ông Sinnett là bắt đầu có một cuộc nói chuyện rất nghiêm trọng với bà HPB về chính sách mà bà nên theo đuổi. Ông khẩn khoản yêu cầu bà hãy nên coi cuộc viếng thăm nầy như một chuyến đi chơi giải trí mà thôi, và trong thời gian ba tuần lễ ở tại đây, bà đừng nói gì đến Hội Thông Thiên Học cũng đừng đề cập đến việc chúng tôi bị chính phủ theo dõi vì bị tình nghi là gián điệp của Nga. Nói tóm lại, hãy quên đi việc riêng của mình, mà tốt hơn hãy đạt kết quả bằng cách gây cảm tình trong các giới quen biết tại đây, những giới nầy sẽ không có thiện cảm nếu họ bị bắt buộc phải nghe những quan niệm dị kỳ của chúng ta và nghe những sự than phiền về những nỗi bất công vô lý mà chúng ta phải chịu.

        Lẽ tất nhiên, bà HPB hứa sẽ nghe theo, và cũng lẽ tất nhiên, bà quên hết tất cả khi người khách đầu tiên vừa bước chân vào nhà. Những tin tức từ Bombay về hậu quả của vụ xung đột với cô Bates làm cho bà xúc động đến cực điểm, và sáng ngày hôm sau, như thường lệ, bà trút hết tất cả mọi tội lỗi, trách nhiệm lên đầu tôi. Bà dậm chân đi bách bộ tới lui trong phòng và nói độc thoại cơ hồ như tôi là cái nguyên nhân của tất cả mọi sự đắng cay khổ sở của bà. Sau đó, ông Sinnett, trong một buổi nói chuyện riêng với tôi, có bày tỏ sự thất vọng mà thấy rằng bà không chịu tự chủ lấy mình, mà đã bỏ mất tất cả những cơ hội kết thân với những người mà mình rất cần gây thiện cảm như một điều tối ư quan trọng. Ông nói rằng người Anh luôn luôn coi đức tự chủ, điềm nhiên như một dấu hiệu của giá trị nhân bản thực sự của con người.

        Bà bạn trung kiên của chúng tôi, Gordon phu nhân, là vị khách đầu tiên của chúng tôi tại Simla, và sau đó nối tiếp nhau một loạt những quan chức quan trọng nhất của chính phủ, mà ông Sinnett mời đến nhà để gặp bà HPB. Trong tập Nhật Ký của tôi có chép rằng bà bắt đầu làm những hiện tượng thần thông ngay lập tức. Từ ngày đầu tiên cho đến sau, không một buổi dạ tiệc nào được coi như đầy đủ mà không có sự biểu diễn những phép thuật của bà HPB, chẳng hạn như phát động tiếng gõ nhịp dưới mặt bàn và tiếng chuông reo trong không khí,v.v... Thậm chí, bà còn làm cho tiếng chuông reo ở trên và bên trong đầu của những vị chính khách nghiêm trang khả kính nhất.

        Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn bị chính phủ ghét và theo dõi vì bị nghi ngờ là nhân viên gián điệp của Nga. Một mục tiêu của chuyến đi nầy là phải làm sao giải tỏa sự hiểu lầm vô lý đó để cho công việc làm của chúng tôi ở Ấn Độ khỏi bị ngăn trở, chướng ngại. Nhưng tôi đợi cho đến khi chúng tôi đã đích thân gặp gỡ và tiếp xúc với tất cả những vị quan chức ở cấp lãnh đạo, để cho họ có cơ hội nhận xét trực tiếp về tác phong, hạnh kiểm và ý đồ khả hữu của chúng tôi khi đến xứ Ấn Độ.

        Khi nhận thấy đã đến lúc, một ngày nọ sau bữa ăn tối, tôi nói chuyện một cách thân hữu với vị Bộ Trưởng Bộ Ngoại Vụ trong chính phủ, và sắp đặt một cuộc trao đổi thư từ, kèm theo với những bổn sao các văn kiện, chứng thư riêng của tôi. Vì tính cách lịch sử và tầm mức quan trọng của vấn đề nầy, nên tôi in lại nguyên văn bức thư của tôi như sau:

        Simla, ngày 27 tháng 9 năm 1880

        Kính gởi: Ông Bộ Trưởng Bộ Ngoại Vụ.

        Thưa ông Bộ Trưởng,

        Tham chiếu cuộc đàm thoại giữa chúng ta ngày thứ bảy vừa qua về Hội Thông Thiên Học và công việc của Hội tại Ấn Độ, và thể theo lời đề nghị của tôn ông, tôi xin trình bày vấn đề lại bằng văn thư.

        1.-Hội Thông Thiên Học được tổ chức tại New York năm 1875 do bởi một số học giả khoa Đông Phương học và Tâm Linh học, nhằm mục đích học hỏi khảo cứu các tôn giáo, triết lý và khoa học cổ của Á Châu với sự trợ giúp của các nhà học giả, chuyên viên bổn xứ.

        2.-Ngoài những mục đích kể trên, Hội không có mục đích nào khác nữa, và nhất là không có ý định xen vào các vấn đề chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu.

        3.-Năm 1878, hai nhà sáng lập Hội, là bà H.P.Blavatsky, một công dân nhập quốc tịch Mỹ(*)[i] và là một học giả khoa Tâm Linh Học Á Châu và tôi, cùng với hai hội viên khác (thuộc quốc tịch Anh) đã đến Ấn Độ để xúc tiến công việc của Hội. Vì lẽ hai người trong nhóm chúng tôi là ngưới Anh, người thứ ba có quốc tịch Mỹ, và tôi là một công dân sinh trưởng tại Mỹ Quốc, nên chúng tôi không hề dính líu đến vấn đề chính trị của xứ Ấn Độ. Riêng tôi có một thẻ thông hành đặc biệt (theo thể thức ngoại giao) của Ngoại Trưởng Evarts cấp cho tôi, với một chứng thư của Bộ Ngoại Giao Mỹ giới thiệu cho tôi các vị Đại sứ và lãnh sự Mỹ ở hải ngoại, cùng với một chứng thư tương tự viết tay của Tổng Thống Hoa Kỳ. Những bổn sao các văn kiện trên đã được lưu trữ tại Văn Khố của chính phủ tiểu bang Bombay, và sẽ được gởi đến Bộ Ngoại Vụ Ấn Độ trong nay mai.

        4.-Những báo cáo sai lầm, do bất minh hay ác ý, về mục đích của chúng tôi tại Ấn Độ, đã được đệ trình lên chính phủ Ấn, bởi đó chúng tôi bị đặt dưới sự canh chừng và theo dõi của nhân viên công lực, nhưng công việc nầy đã được thi hành một cách vụng về đến nỗi nó làm cho cả nước đều chú ý, và người dân bổn xứ thấy rằng mọi liên hệ với chúng tôi sẽ gây ác cảm đối với chính quyền, và sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tương lai của họ.

        Như vậy, những kế hoạch lợi ích của Hội chúng tôi bị ngăn trở một cách trầm trọng, và chúng tôi phải chịu nhiều sự ngược đãi hoàn toàn không có lý do chính đáng, do hậu quả hành động của chính phủ căn cứ trên những tin đồn nhảm và thất thiệt.

        5.-Bất cứ người nào đã từng có dịp biết rõ sự thật, đều nhận thấy rằng trong thời gian lưu trú của chúng tôi trên mười tám tháng nay ở Ấn Độ, chúng tôi đã gây một ảnh hưởng lành mạnh và bảo thủ đối với dân bổn xứ, và được họ chấp nhận như những người bạn tốt lành, chân chính của dân tộc và xứ sở họ. Chúng tôi có giữ nhiều thư từ gởi đến từ khắp mọi nơi trên xứ Ấn Độ để chứng thực điều ấy.

        Nếu chính phủ có thể giải tỏa những sự bất lợi mà họ đã vô tình gây cho chúng tôi, và phục hối trở lại thanh danh mà chúng tôi vẫn có trước khi cái nhãn hiệu "âm mưu chính trị" bị chụp mũ lên đầu chúng tôi một cách tàn nhẫn và bất công như đã kể trên, thì chúng tôi sẽ có thể làm một công việc phụng sự lớn lao không những cho dân chúng Ấn Độ mà còn cho cả nền văn hóa và khoa học Đông Phương.

        Nếu lịnh cho nhân viên mật thám theo dõi chúng tôi chỉ bị hủy bỏ không thôi cũng vẫn chưa đủ, vì sự nghi ngờ đã âm thầm tác động từ trên xuống dưới trong guồng máy cai trị của chính phủ, xuyên qua tất cả mọi giai tầng cơ sở trong quần chúng Ấn, làm cho chúng tôi đương nhiên trở thành một hình ảnh của tai họa.

        Như một giải pháp hữu hiệu, chúng tôi yêu cầu Bộ Ngoại Vụ ra lịnh cho các cấp trực thuộc hãy thông báo cho từng địa phương biết rõ sự kiện nầy là chúng tôi không còn bị nghi ngờ, và xét vì công việc của chúng tôi làm là vì sự lợi ích cho xứ Ấn Độ, nên nó được chấp nhận. Và điều nầy, với tư cách là một sĩ quan và một công dân Mỹ, tôi trân trọng giải bày với tôn ông như nhà đại diện của nền công lý và luật pháp công minh của Anh Quốc.

        Trân trọng kính thư,

        Đại tá Henry S. Olcott.

Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới

        Sự trả lời của chính phủ Ấn Độ vẫn chưa làm tôi thỏa mãn; tuy họ có lời bảo đảm rằng chúng tôi sẽ không bị quấy rầy nếu chúng tôi không xen vào việc chính trị, nhưng họ không nói rằng những lịnh truyền cho các quan chức Anh Ấn ở các tiểu bang theo dõi và dò xét chúng tôi sẽ được hủy bỏ.

        Trong một bức thư thứ nhì, tôi đã lưu ý Bộ Ngoại Vụ đến vấn đề này, và sau đó ít lâu, tôi đã đạt được như ý muốn. Kể từ khi đó, chúng tôi đã được tự do.

II

          Ngày 29 tháng 9, bà Sinnett, bà HPB và tôi cùng đi dạo chơi trên đỉnh một ngọn đồi ở vùng chung quanh. Trên nóc lợp ngói của một ngôi miễu nhỏ của Ấn giáo tại đó, giữa vô số những chứ khắc tên họ của du khách bốn phương đến viếng, tôi nhận thấy có một chứ khắc ám hiệu của Chân Sư M. với tên tôi ở dưới, nhưng do đâu mà có chữ đó thì tôi cũng không biết. Khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, bà HPB nhân lúc cao hứng, mới hỏi chúng tôi có ai mơ ước điều gì không?

        Bà Sinnett nói:

        -Tôi muốn có một thông điệp của Chân Sư rơi xuống ngay chỗ tôi ngồi.

        Bà HPB bèn lấy từ trong quyển sổ tay bỏ túi của bà một tờ giấy màu hồng, dùng ngón tay vẽ lên đó vài phù hiệu bí mật, xếp tờ giấy thành hình ba góc, cầm nó trong tay đi xuống sườn đồi cách đó độ hai mươi thước, day mặt về hướng Tây, đưa tay vẽ một đạo bùa trên không gian, xòe cả hai bàn tay ra, và tờ giấy kia liền biến mất.

        Thay vì nhận được thư trả lời rơi xuống chỗ bà đang ngồi, bà Sinnett nhận thơ bằng cách trèo lên một cái cây ở gần bên. Thông điệp ấy được viết trên tờ giấy màu hồng lúc nãy, cũng xếp thành hình ba góc, và mắc vào một nhánh nhỏ trên cây. Trên tờ giấy có chữ viết do một bàn tay lạ, để trả lời một câu hỏi riêng tư của bà Sinnett, và do Chân Sư K.H. ký tên bằng chữ Tây Tạng.

        Bây giờ tôi xin kể một chuyện khác.

        Một nhóm chúng tôi gồm sáu người, ba người nam và ba người nữ, sửa soạn từ nhà ra đi trong một cuộc du ngoạn dưới một thung lũng cách xa thành phố. Người quản gia của gia đình Sinnett đã sắp đặt các giỏ mây đựng đồ vật thực, và đã gói vào trong giỏ sáu bộ chén dĩa kiểu lạ để dùng trà. Khi chúng tôi sắp sửa ra đi, thì một người khách đến thình lình, và cũng được mời cùng đi với chúng tôi. Những người gia bộc đã xách các giỏ mây đi trước, còn chúng tôi từ từ đi sau theo hàng một, trên con đường mòn gồ ghề khúc khuỷu đưa xuống thung lũng. Sau một chuyến đi bộ dạo chơi thong thả, chúng tôi đến một chỗ bằng phẳng trên sườn một dãy đồi cỏ cây sầm uất, với những cây cổ thụ to lớn có tàn cây che mát rợi.

        Chúng tôi bèn cắm trại ở đây, và nằm ngồi rải rác trên bãi cỏ xanh, trong khi những gia nô trải tấm nắp bàn trên bãi cỏ và bày đồ vật thực. Họ vừa nhúm lửa nấu nước pha trà, thì thấy người quản gia vẻ mặt băn khoăn bước đến gần bà Sinnett, và thưa với bà rằng còn thiếu một bộ chén dĩa cho ông khách mới đến vào giờ phút chót. Bà nói với một giọng bực mình:

        -Anh thật là lơ đễnh mà không nhớ đem thêm một bộ chén dĩa nữa, khi anh biết rằng ông khách ấy cũng sẽ dùng trà như mọi người.

        Kế đó bà quay lại với chúng tôi và vừa nói vừa cười:

        -Hình như trong các bạn, chắc phải có hai người uống chung một cốc.

        Lúc ấy tôi mới nói rằng trước đây trong một trường hợp tương tự, chúng tôi đã giải quyết vấn đề bằng cách đưa cái chén cho một người và cái dĩa cho người kia. Đến đây, một người trong nhóm nói đùa với bà HPB:

        -Bây giờ, thưa bà, đây là một cơ hội để cho bà làm một ít phép thuật thần thông.

        Tất cả chúng tôi đều bất giác cười lớn vì câu nói đùa bỡn vô lý đó, nhưng khi thấy bà HPB có vẻ sẵn lòng chấp nhận thì mọi người đều hoan hô thích thú, và yêu cầu bà ra tay ngay lập tức. Những người nằm trên bãi cỏ cũng đã đứng dậy và tề tựu chung quanh. Bà HPB nói rằng để làm cái việc nầy, bà cần có sự trợ giúp của Thiếu Tá X., một bạn hữu của chúng tôi cũng đang có mặt lúc ấy.

        Ông này tỏ vẻ bằng lòng, bà mới yêu cầu ông đem theo một đồ dụng cụ để đào đất; ông ta bèn chụp lấy con dao lớn đựng trong giỏ và đi theo bà. Bà HPB nhìn chăm chú trên mặt đất, đưa mặt chiếc nhẫn lớn của bà đeo, chiếu xuống chỗ nọ chỗ kia, và sau cùng bà nói:

        -Ông hãy đào chỗ nầy.

        Ông khách kia ra tay đào xới, và nhận thấy rằng phía dưới lớp cỏ xanh che phủ mặt đất, là một hệ thống chằng chịt những rễ cây của những cây lớn nhỏ ở gần bên. Ông ta cắt những đám rễ và lôi ra từng nắm, kéo đất rời qua một bên, và đụng phải một vật màu trắng. Thì ra đó là một cái chén sứ uống trà nằm trong lòng đất, và khi ông ta lấy cái chén ra thì thấy nó thuộc cùng một kiểu giống y như sáu cái chén kia. Hãy tưởng tượng những tiếng kêu ngạc nhiên và xúc động của nhóm người đứng xem chung quanh!

        Bà HPB bảo ông kia hãy tiếp tục đào nữa ở chỗ ấy, và sau khi ông nầy đã cắt bỏ và kéo ra một rễ cây lớn bằng ngón tay út của tôi, ông ta lôi ra một cái dĩa cũng cùng một kiểu với những bộ chén dĩa khác. Điều nầy làm cho cả bọn xúc động đến cực điểm, và ông khách sử dụng con dao lại là người kêu to ầm ĩ nhất vì ngạc nhiên và khoái trá.

        Khi cuộc đi chơi kết thúc và chúng tôi trở về nhà, bà Sinnett và tôi cùng đi thẳng đến cái tủ đựng chén để kiểm điểm lại, thì thấy bốn bộ chén dĩa uống trà bỏ sót lại ở nhà vẫn còn nguyên, cùng với sáu bộ đem theo là tất cả mười bộ. Thế là bộ thứ bảy do bà HPB tạo thêm trong cuộc đi chơi, không phải ở trong số mười bộ chén của bà Sinnett.

        Nếu có kẻ hoài nghi đưa ra giả thuyết rằng bộ chén sau cùng nầy đã có thể được chôn dấu từ trước để lòe bịp chúng tôi, thì sự thật hiển nhiên đã đính chánh ngay điều ấy. Mọi người có mặt đều nhìn thấy rõ rằng bộ chén dĩa ấy nằm gọn trong lòng đất y như những mảnh đá vụn, giữa những rễ cây mọc dọc ngang chằng chịt như màng lưới, phải dùng sức mạnh và dao bén để chặt đứt và bứng ra một cách tàn bạo phũ phàng mới lôi bộ chén dĩa kia ra được. Lớp cỏ trên mặt đất ở chỗ ấy vẫn xanh tươi và không có dấu hiệu gì khả nghi, và nếu có ai đã đào đất lên để chôn bộ chén dĩa từ trước, thì mặt đất bị đào xới đã không thể nào thoát khỏi cái nhìn nhận xét tinh vi của toàn thể quan khách đứng vây chung quanh trong khi ông Thiếu Tá ra tay làm việc.

        Sau buổi ăn trưa, bà HPB còn làm một phép mầu khác, nó làm tôi ngạc nhiên hơn cả. Một trong những vị khách nói rằng ông ta sẵn lòng gia nhập Hội Thông Thiên Học nếu bà HPB có thể làm ngay tại chỗ cho ông ta một chứng chỉ Hội viên đã hoàn tất mọi thủ tục.

        Đó hẳn là một yêu cầu quá đáng, nhưng bà bạn tôi không hề e ngại, đưa tay khoát một cái trên không trung, và chỉ vào một bụi rậm cách đó một khoảng ngắn, bà bảo người kia hãy đến đó xem có gì không, vì cây và bụi rậm thường được dùng làm các trạm phát thư tín.

        Người khách kia vừa cười vừa đi đến chỗ bụi rậm, dường như không tin tưởng lắm về kết quả mong ước, nhưng khi đến nơi, ông ta rút ra từ trong bụi rậm một chứng chỉ hội viên bằng chữ in có ghi tên họ của y và ngày tháng hôm đó, với một bức thư chính thức của vị Hội Trưởng, mà tôi biết chắc rằng tôi không hề viết, nhưng lại viết bằng chính tuồng chữ của tôi!

        Điều nầy làm cho tất cả mọi người đều hoan hô vui vẻ, và vì bà HPB đang nhân lúc cao hứng, nên dường như không một phép lạ nào khác mà bà không làm cho chúng tôi xem. Những màn biểu diễn phương thuật của bà HPB đã có kết quả là làm cho nhiều nhân vật người Âu có thế lực đã gia nhập Hội Thông Thiên Học, và biểu lộ một lòng ưu ái đầy thiện cảm đối với bà bạn của tôi.

        Ngày 7 tháng 10, tôi thuyết trình về đề tài: "Thần Linh Học và Thông Thiên Học " tại hội trường của Viện Phụng Sự Hợp Nhất ( United Institution). Tôi được cho biết rằng số thính giả hôm ấy gồm một cử tọa đông đảo nhất chưa từng thấy tại Simla. Tối hôm đó tôi được mời tham dự buổi dạ tiệc tiếp tân của vị Phó Vương Anh, Lord Ripon, tại Dinh Chính Phủ và được nhiều bạn hữu đến chúc mừng, khen tặng tôi về buổi diễn thuyết và về những mối giao tế được cải thiện tốt đẹp với chính phủ Anh Ấn.

        Hằng ngày chúng tôi đều bận rộn tiếp khách, bà HPB vẫn tiếp tục làm các hiện tượng thần thông, đến mức làm cho một nửa dân số Simla tin rằng bà được sự " trợ giúp của Quỷ Vương (Satan)". Một viên sĩ quan Anh trong nhóm quan khách cũng đã không ngần ngại mà nói thẳng với bà như vậy. Chiều hôm đó, ông Hume đưa cho bà một bức thư đầu tiên để nhờ bà chuyển đạt lên Chân Sư K.H. Đó là bước khởi đầu cuộc trao đổi thư từ vô cùng thú vị giữa ông với Chân Sư, thỉnh thoảng vẫn được mọi người nhắc đến.

        Những ngày cuối cùng của chúng tôi ở Simla vẫn còn gồm những buổi dạ tiệc tiếp tân và những cuộc đi du ngoạn ngoài thành phố, trong những dịp đó một vài màn biểu diễn phép thuật của bà HPB đã làm cho các quan khách thích thú đến cực điểm. Một màn trong số đó rất thú vị.

        Ngày hôm đó bà Sinnett, bà HPB và tôi đang ngồi đợi ông Sinnett tại phòng khách. Các bà ngồi chung với nhau trên chiếc divan, bà Sinnett cầm tay bà HPB để ngắm nhìn đến lần thứ hai mươi và trầm trồ khen ngợi một chiếc nhẫn kim cương màu vàng rất đẹp, vốn là món quà tặng của bà Wijeratne, vợ một nhà thầu giầu có ở tỉnh Galle trong dịp viếng thăm của chúng tôi đến Tích Lan trong năm ấy.

        Đó là một hột kim cương loại rất hiếm và quý giá, long lanh chớp và phóng ra những tia sáng chói lập lòe. Bà Sinnett đã có lần yêu cầu bà HPB dùng phép thuật tạo thêm cho bà một phó bổn của hột kim cương ấy, nhưng bà này không hứa gì cả. Tuy nhiên, lần này bà chịu làm.

        Bà HPB dùng hai ngón của bàn tay kia xoa lên hột đá quý độ một lúc, kế đó bà ngừng tay và để lộ chiếc nhẫn đeo trên bàn tay bên này. Nằm sánh đôi với hột kim cương của bà đeo, giữa ngón tay đeo nhẫn và ngón tay bên cạnh, là một hột kim cương khác cũng màu vàng, tuy không chói sáng bằng hột của bà, nhưng cũng là một hột kim cương rất đẹp, mà bà liền tặng cho bà Sinnett. Cho đến bây giờ, món bảo vật ấy vẫn còn là sở hữu của bà bạn quý mến của chúng tôi.

        Buổi cơm tối hôm đó, bà HPB không ăn gì cả, nhưng trong khi mọi người đang dùng bữa thì bà cứ ngồi sưởi ấm hai bàn tay trên dĩa bàn đựng nước nóng đặt trước mặt bà. Độ một lát, bà xoa hai bàn tay, và chà xát thật mạnh, thì tahy61 có hai hột ngọc bích nhỏ rơi xuống dĩa. Hiện tượng làm cho xuất hiện các loại đá quý này cũng rất thường xảy ra đối với Staiton Moses, người bạn Anh mà chúng tôi có đề cập tới trong quyển Hồi Ký I. Đôi khi các loại đá quý nhỏ rơi xuống như mưa trên mình y và rơi khắp phòng, có khi thì vài viên ngọc thạch lớn. Người Đông Phương nói rằng đó là do tác động của những tinh linh của loài khoáng thạch, thuộc loại mà người Tây Phương gọi là Thổ Tinh (Gnomes), hay tinh linh của các hầm mỏ, và thổ ngữ Tamoul Ấn Độ gọi là Kalladimanden.

        Ông Sinnett có ghi chép lại một việc xảy ra ngày 20 tháng 10, mà ông gọi là "hiện tượng cái gối". Hôm ấy chúng tôi đi du ngoạn và cắm trại trên một ngọn đồi, ông Sinnett cũng đang trông đợi một thông điệp trả lời cho một bức thư ông gửi cho một vị Chân Sư, nhưng ông không nghĩ rằng ông sẽ nhận được trong chuyến đi dạo chơi hôm đó.

        Tuy nhiên, một người trong nhóm đề nghị với bà HPB làm xuất hiện một vật gì bằng phép thần thông. Bà HPB hỏi:

        -Các ông muốn nhận được vật ấy ở đâu ngoài trên một cành cây? không nên làm cho phép thuật trở thành nhàm vì cứ lặp lại những chuyện cũ.

        Mọi người mới thăm dò ý kiến lẫn nhau, và sau cùng họ đồng ý yêu cầu bà làm cho vật ấy xuất hiện bên trong cái gối dựa lưng của bà Sinnett đang dùng ở trên chiếc ghế bành của bà lúc ấy. Bà HPB bèn nói:

        -Được rồi, hãy mở nó ra xem có vật gì ở trong không.

        Ông Sinnett bèn lấy con dao bỏ túi của ông và rọc cái gối. Cái áo gối ở ngoài mặt có thêu hoa, được lót bằng da hay một thứ vải cứng và may bằng thứ chỉ lớn, dầy và rất chắc. Đó là một cái gối kiểu xưa, và đường chỉ đã trở nên cứng chặt với thời gian, làm cho công việc cắt rạch nó ra hơi có phần khó nhọc.

        Tuy nhiên, sau cùng thì cái bao ngoài đã bị rách đứt, và bên trong là một cái bao thứ nhì chứa đựng lông chim và cũng được may bằng một thứ chỉ rất chắc. Khi cái gối trong đã bị cắt ra xong, ông Sinnett mới thọc tay vào, mò trong đống lông chim, và lấy ra một bức thư với một cái trâm cài đầu. Đó là bức thư của Chân Sư K.H. đề cập đến một câu chuyện giữa ông Sinnett với bà HPB; còn cái trâm cài đầu là của bà Sinnett, và ngay trước khi xuất hành, bà còn để nó lại trên mặt bàn phấn của bà. Tôi để cho độc giả hãy tự rút lấy kết luận của những sự việc kể trên.

III

          Để hoàn tất đầy đủ việc ghi chép lịch sử những mối giao thiệp đầu tiên của chúng tôi với chính phủ Ấn Độ, và cho thấy họ đã đi tới hành động cực đoan vô lý như thế nào để tự bảo vệ chống những âm mưu chính trị khả hữu của Hội Thông Thiên Học, tôi đã quyết định in lại bức thư của tôi đề ngày 17 tháng 9. Thư ấy tuy cũng khá thân thiện, nhưng không đủ làm thỏa mãn yêu cầu của chúng tôi. Nguyên văn bức thư ấy như sau:

        Bộ Ngoại Vụ

        Tổng Lý Sự Vụ

        Số 1025 E.G.

        Simla, ngày 2 tháng 10 năm 1880

        H.M. Durand,

        Thứ Trưởng Ngoại Vụ Chính Phủ Ấn Độ

        Kính gửi:Đại Tá H.S.Olcott

        Hội Trưởng

        Hội Thông Thiên Học Thế Giới

        Kính Ông,

        1.-Vì lý do công vụ, ông Bộ Trưởng A.C.Lyall vắng mặt tại Simla, nên tôi được chỉ thị trả lời bức thư Ông đề ngày 27 tháng 9 vừa qua.

        2.-Ông trình bày rằng Hội Thông Thiên Học không có chủ trương can thiệp vào việc chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu; nhưng ông đã bị theo dõi và phiền nhiễu trong những khi di chuyển ở Ấn Độ vì công việc của Hội; và bởi lẽ đó những chương trình hoạt động công ích của Hội đã bị ngăn trở trầm trọng. Ông yêu cầu Chính Phủ Ấn Độ giải tỏa những sự bất lợi đã vô tình gây ra cho ông trong vấn đề nầy do bởi việc cho người dọ thám và theo dõi mọi động tác, xê dịch của ông.

        3.-Tôi xin cám ơn Ông về những tin tức, dữ kiện mà Ông đã có nhã ý trình bày về những mục đích và hoạt động của Hội Thông Thiên Học, và tôi xin bảo đảm rằng Chính Phủ Ấn Độ không có ý muốn gây sự bất tiện cho Ông trong thời gian lưu trú tại xứ này. Bao lâu mà những hội viên của Hội chỉ theo đuổi sự học hỏi khảo cứu triết học và khoa học, hoàn toàn không dính dấp đến vấn đề chính trị, mà Ông đã giải thích rằng đó là mục đích duy nhất của họ, thì họ không cần phải lo ngại một sự phiền phức nào đến với họ từ phía các chức viên Cảnh Sát.

        4.-Tôi xin nói thêm rằng Chính Phủ Ấn Độ sẽ rất hân hạnh nếu Ông vui lòng gửi đến Bộ Ngoại Vụ những bổn sao các văn kiện nêu ra ở đoạn thứ ba trong thư ông.

        Trân trọng kính thư,

        Ký tên: H.M.DURAND

        Thứ Trưởng Bộ Ngoại Vụ.

        Ngày 20 tháng 12, tôi nhận được của chính quyền bức thư sau cùng mà tôi trông đợi, giải tỏa mọi sự khó khăn giữa chúng tôi với quan chức Anh Ấn. Thơ ấy viết như sau:

        Bộ Ngoại Vụ

        Tổng Lý Sự Vụ

        Số 1060 E.G.

        Simla, ngày 20 tháng 10 năm 1880

        H.M.Durand,

        Thứ Trưởng Ngoại Vụ

        Kính gửi: Đại Tá H.S. Olcott

        Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới

        Kính Ông,

        1.-Tôi được chỉ thị nhận thơ Ông đề ngày 14 tháng 10, có kèm theo những văn kiện, chứng thư của Ông gửi cho Chính Phủ Ấn Độ, và yêu cầu rằng tất cả những chức viên Chính Phủ có lệnh theo dõi và canh chừng Ông trước đây, được thông báo cho biết rằng mục đích của Ông khi đến Ấn Độ nay đã được giải thích rõ ràng.

        2.-Tôi xin đa tạ Ông về những bản sao văn kiện mà Ông đã gửi, và chúng tôi sẽ cho lưu trữ tại Văn Khố của Bộ Ngoại Vụ.

        3.-Về khoản yêu cầu của Ông, tôi được chỉ thị trả lời rằng những viên chức địa phương mà chúng tôi đã báo động về sự có mặt của ông ở xứ này, sẽ được thông tri cho biết rằng những biện pháp theo dõi do lịnh truyền cho họ thực thi trước đây, nay đã được thâu hồi.

        4.-Tuy nhiên, tôi xin nói thêm rằng sở dĩ có quyết định này là do hậu quả của sự tín nhiệm mà Tổng Thống Hoa Kỳ và Ngoại Trưởng Mỹ đặt nơi Ông, chứ nó không nên được hiểu là đương nhiên bày tỏ thái độ lập trường của Chính Phủ Ấn Độ đối với Hội Thông Thiên Học, mà Ông là Hội Trưởng.

        Trân trọng kính thư,

Ký tên: H.M. Durand,

Thứ Trưởng Bộ Ngoại Vụ.

        Đoạn chót của bức thư này đề cập đến những văn kiện của tôi gởi, gồm có bức thư viết tay của Tổng Thống Hayyes giới thiệu và gửi gấm tôi cho tất cả các vị Đại Sứ và Lãnh Sự Mỹ ở hải ngoại, và một bức thư giới thiệu tương tự của Ngoại Trưởng W.M. Evarts, cùng với thẻ Thông Hành Ngoại Giao của tôi.

        Thời gian viếng thăm Simla của chúng tôi đã chấm dứt, chúng tôi bèn rời khỏi thị trấn miền núi đẹp đẽ này để tiếp tục chuyến đi công tác đã sắp đặt trước ở các vùng đồng bằng. Kiểm điểm lại những kết quả đã thu thập được, có thể nói rằng chúng tôi đã có thêm vài bạn hữu, giải tỏa Hội Thông Thiên Học khỏi sự vướng mắc về phương diện chính trị, và tạo thêm nhiều kẻ chống đối thù nghịch trong các giới Anh Ấn, họ vẫn bám giữ lý thuyết cho rằng có sự can thiệp của Quỷ Vương Satan trong các vấn đề nhân sự (mà trong trường hợp này là bà HPB được sự trợ giúp của Quỷ Vương Satan để làm các phép thuật nhiệm mầu).

        Trong một xã hội nghiêm chỉnh và bảo thủ như các giới ở đây, thì những cử chỉ, tác phong giang hồ phóng đãng của bà HPB đương nhiên là đã làm chướng mắt mọi người; cái khả năng trí thức, tâm linh xuất chúng của bà đã gây nên sự tị hiềm, đố kỵ; và những quyền năng thần thông kỳ bí của bà đã làm cho người ta nhìn bà bằng cái nhìn sợ hãi, kinh hoảng.

        Dù sao, nhận xét chung thì những lợi điểm thu hoạch được vẫn trội hơn sự mất mát thua thiệt, và chuyến đi này được coi như một sự thành công xứng đáng.

Chương mười hai

VÀI MẪU CHUYỆN BÊN LỀ

I

        Sau khi rời thị trấn Simla, bận về chúng tôi dừng chân tại Amritsar, thành phố nổi tiếng về Ngôi Đền Vàng, một kỳ công kiến trúc mỹ lệ của người dân Sikh, một chủng tộc thiện chiến và có tinh thần thượng võ ở miền Punjab (Bắc Ấn). Vì lúc đó chúng tôi còn đang được sự bảo trợ tinh thần hoàn toàn của Đạo Sư Dyanand Saraswati, nên sự giao tế của chúng tôi với những tín hữu môn đệ của ông rất thân thiện tốt đẹp, và những Chi Bộ địa phương của môn phái Arya Samaj đã dành cho chúng tôi những cuộc tiếp đón thân mật đầy hảo ý ở khắp mọi nơi.

        Có ba mươi tín hữu Arya Samaj đến đón chúng tôi tại nhà ga xe lửa Amritsar và đưa chúng tôi về quán trọ an nghỉ. Ngày hôm sau, một phái đoàn Arya Samaj đến từ Lahore, do các bạn Rattan Chand và Siris Chandra cầm đầu. Đó là hai bạn Đạo lịch thiệp và khả kính, mà tôi có hân hạnh coi như những người bạn tốt và vẫn giữ mối tình thân hữu cho đến ngày nay.

        Một cuộc đàm thoại và thảo luận về Đạo Lý rất thú vị đã diễn ra với độ ba mươi hay bốn mươi tín hữu Ấn Giáo Arya Samaj, và đến chiều tối, khi mọi người đã ra về và chỉ còn có hai người bạn trẻ nói trên ở lại với chúng tôi, bà HPB làm reo vang những tiếng "Chuông thần" một cách rõ ràng và du dương hơn tất cả những lần mà tôi đã từng được nghe bà làm ở Ấn Độ trước đây.

        Kế đó, bà đề nghị với hai người bạn trẻ một việc nó đã đưa đến một sự hiểu lầm, mà tôi thấy cần phải thuật lại một cách chính xác để tránh sự đáng tiếc có thể xảy ra nếu có một kẻ thù nghịch nêu việc ấy ra để chống lại bà trong tương lai.

        Từ trước đến nay, ông Sinnett chưa bao giờ có dịp thảo luận về Đạo Lý với một người Ấn Độ trí thức nào, đó là điều mà ông và chúng tôi đều lấy làm tiếc. Sự trao đổi thư từ giữa ông với Chân Sư K.H. vẫn đang tiếp tục, nhưng ông muốn được có dịp gặp gỡ tận mặt với Ngài hay với một vị đệ tử của Ngài.

        Nhận thấy bạn Rattan Chand là người có đủ tính chất cần thiết để lãnh nhiệm vụ giao liên, bà HPB, bà HPB với sự chấp thuận của Chân Sư (như bà nói cho y và tôi biết điều ấy), đã cố gắng thuyết phục y đến gặp ông Sinnett với tư cách là một sứ giả đem thư của Chân Sư K.H. Y sẽ không được tiết lộ cho ông Sinnett biết gì về cá nhân của y, như tên họ, thân thế, chỗ ở của y ra sao, mà chỉ trả lời đầy đủ tất cả những câu hỏi của ông Sinnett về những vấn đề triết học và tôn giáo.

        Bà HPB còn cho y biết rằng mọi tư tưởng và luận điệu cần thiết sẽ được truyền đạt cho y vào lúc cần dùng bằng phương pháp thần giao cách cảm. Hai người bạn trẻ, vốn chưa biết gì về hiệu lực của phương pháp chuyển di tư tưởng, và không thấy tung tích Chân Sư cũng như bức thư của Ngài ở đâu, nên đã tỏ ra e ngại và không có hứng thú để làm việc này. Nhưng sau cùng, họ bằng lòng và trở về Lahore để xin phép nghỉ việc ngắn hạn rồi sẽ trở lại ngày hôm sau.

        Khi họ đã ra đi, bà HPB tỏ vẻ hài lòng và nói với tôi rằng vai trò của họ sẽ đem lại kết quả rất thuận lợi cho ông Sinnett, và gây một Nghiệp Quả rất tốt lành cho hai người bạn trẻ. Ngày hôm sau, không thấy họ trở lại mà chỉ có một bức điện tín nói rằng họ cực lực từ chối không chịu thực hiện vai trò nói trên; và trong một bức thư sau đó, họ cho biết rằng họ không muốn tham dự vào một hành động giả trá phỉnh lừa như thế.

        Việc ấy làm cho bà HPB rất bực mình và bày tỏ sự bất mãn bằng những lời lẽ nặng nề. Bà không do dự mà gọi họ là hai thằng điên vì đã gạt bỏ một cơ hội hiếm có, là làm việc với các Chân Sư để thực hiện những kết quả lớn lao. Bà cho tôi biết rằng nếu họ chịu hợp tác, thì bức thư của Chân Sư sẽ rơi xuống ngay trước mắt họ từ trên không gian, và họ sẽ có dịp thi hành sứ mạng,

        Đây là một trong những trường hợp mà một việc hoàn toàn có thể thực hiện được đối với nhà Huyền Học, vốn đã khai mở những giác quan nội tàng và những quyền năng tâm linh, lại có vẻ như một việc không tưởng, viễn vông đối với người thường, họ không thể quan niệm rằng việc ấy có thể làm được, trừ phi bằng những mưu mẹo dối trá, phỉnh lừa.

        Thế là những người bạn trẻ chưa tiến hóa kia đành phải tự tạo lấy nghiệp quả của họ, họ đã chọn lấy con đường thích hợp với mình, và đã bỏ mất đi một cơ hội tốt. Đã có hằng bao nhiêu trường hợp tương tự mà bà HPB bị hiểu lầm và chuốc lấy sự hình phạt đắng cay chỉ vì sự dột nát tâm linh của kẻ khác, mà ý muốn thành thật của bà chỉ là để giúp đỡ họ.

II

          Ngày 27 tháng 10, tôi thuyết trình đề tài "Môn phái Arya Samaj và Hội Thông Thiên Học) trước một cử tọa đông đảo, và ngày 29, tôi nói tiếp theo về đề tài "Quá Trình Lịch Sử và Tương Lai của Ấn Độ".

        Những ai nghĩ rằng người Ấn không có tinh thần yêu nước, ước gì họ có dịp nhìn thấy tác dụng của buổi diễn thuyết này đối với toàn thể hội trường  đông đảo như hôm ấy. Khi tôi diễn tả tính cách vĩ đại huy hoàng của nền văn minh cổ Ấn Độ, và tình trạng suy đồi của Ấn Độ ngày nay, toàn thể cử tọa phát ra những tiếng thì thầm vui sướng hoặc những tiếng thở dài đau đớn não nuột. Có lúc họ hoan hô và vỗ tay nhiệt liệt, một lúc sau đó họ ngồi im lặng, và rơi nước mắt.

        Tôi lấy làm ngạc nhiên và sung sướng, nhưng cảnh tượng bi ai đau đớn của họ làm tôi xúc động đến mức tôi gần như muốn xỉu. Đó là một trong những dịp vẫn thường xảy ra trong những cuộc tiếp xúc giữa chúng tôi với người Ấn Độ, trong khi đó những sợi dây liên lạc của tình tương thân tương ái kết hợp cõi lòng chúng tôi làm một, và chúng tôi cảm thấy thật là một ân sủng quý báu mà có cơ hội đến đây để sống chung và phụng sự sát cánh với những bạn Đạo cùng đồng chung lý tưởng với mình.

        Tôi còn nhớ một kinh nghiệm tương tự đã trải qua khi tôi cùng đi với bà Annie Besant trong chuyến đi thuyết pháp đầu tiên của bà. Trong dịp đó, bà thuyết pháp về đề tài "Vị Trí của Ấn Độ trên Thế Giới", tại một tỉnh nhỏ ở miền Nam Ấn. Nói theo nguồn cảm hứng thiêng liêng, và sử dụng những ý nghĩ gần giống như của tôi, bà lôi cuốn toàn thể cử tọa theo với bà, và làm cho họ đáp ứng như những sợi dây đàn mà những ngón tay điêu luyện của bà có thể tác động khéo léo để tạo ra bất cứ âm điệu nào bà muốn.

        Bận về ngồi trên xe, tôi với bà không ai có thể thốt ra một lời nào, mà chỉ ngồi đê mê trong im lặng, cơ hồ như vừa bước ra từ một nhạc viện trong đó vị Nhạc Trưởng vừa mới trình bày những âm điệu nhạc khúc của Cõi Trời. Ai chưa từng cảm xúc được nguồn cảm hứng thiêng liêng thoi thóp rung động trong người của mình, không bao giờ biết rõ ý nghĩa của danh từ "hùng biện".

        Ngày hôm sau, chúng tôi đáp xe lửa đi Lahore, tại đây một cuộc tiếp đón nồng nhiệt đã chờ đợi chúng tôi. Một phái đoàn Ấn Giáo hùng hậu của chi phái Arya Samaj đến đón chúng tôi tại nhà ga và đưa chúng tôi về nơi quán trọ. Kế đó họ trở về nhà dùng bữa và tối hôm đó họ trở lại để thảo luận về Đạo Lý với chúng tôi cho đến khuya. Những đề tài thảo luận là vấn đề tính chất của Thượng Đế, Thượng Đế Hữu Ngã và Vô Ngã. Những quan điểm của tôi và bà HPB đưa ra đều trái ngược hẳn với những sự tin tưởng của họ.

        Hôm sau, bảy tín hữu Arya Samaj, gồm cả hai người bạn trẻ mà chúng tôi đã gặp tại Amritsar trước đây, gia nhập Hội Thông Thiên Học và đứng ra thành lập một Chi Bộ tại địa phương.

III

          Trong thời gian ở tại Lahore, chúng tôi luôn luôn bận rộn tiếp khách và thảo luận về những vấn đề Đạo Lý, nhưng không phải là không có những cơ hội tiêu khiển. Chẳng hạn như chuyến đi tham quan kinh lý của vị Phó Vương Anh, Lord Ripon, vào ngày mồng mười, và chúng tôi có dịp trông thấy cuộc tiếp rước linh đình trọng thể diễn ra trong thành phố.

        Phó Vương cưỡi một con voi lớn, lưng voi bao phủ vải vàng óng ánh, đầu con voi cũng có đội một thứ mào hay đồ trang sức bằng vàng. Bành voi mạ vàng sáng chói, đứng một bên là một người hầu Ấn Độ mặc sắc phục sặc sỡ cầm một cây lọng vàng che trên đầu ngài.

        Những vị Quốc Vương và Đại Vương (Maharajah) Ấn Độ mặc triều phục lộng lẫy, cưỡi voi đi theo sau tùy theo cấp bậc chức vị lớn nhỏ, và tất cả đều được những quan viên dân sự người Anh cũng cưỡi voi đi theo hộ tống ( bà HPB cho là dường như bị canh chừng).

        Nối tiếp theo sau là những toán kỵ binh Anh và kỵ binh xứ Bengale, quân bổn xứ mặc sắc phục đỏ, những đội quân Ấn Độ cầm kích và cầm giáo dài, những toán quân nhạc thổi kèn, đánh trống, và đánh chụp chõa. Thật là một cuộc diễn hành long trọng huy hoàng, tiền hô hậu ủng, rực rỡ tưng bừng.

        Tôi quả quyết chắc chắn rằng mỗi người Anh trong cuộc diễn hành hẳn là cảm thấy lố bịch, và mỗi vị Quốc Vương bổn xứ chắc cũng cảm thấy bị hạ thấp trong cái màn trình diễn công khai phô trương thanh thế và uy lực này, nó làm nổi bật trước mắt công chúng cái vị thế của kẻ chinh phục và kẻ bị trị, mà cái ý nghĩa thật sự của nó, trong thâm tâm mỗi người đều biết rằng tất cả mọi người khác cũng biết rõ như mình.

        Bà HPB và tôi đứng xem cuộc diễn hành từ trên lầu một nhà ga xe lửa được xây cất như một pháo đài, để có thể xử dụng như một công sự phòng thủ khi có biến. Những lời bình phẩm của bà về cuộc diễn hành và về những nhân vật ăn mặc trang sức lố lăng thái quá, làm cho tôi luôn luôn phát cười nôn ruột, và về sau, trong một bài phóng sự du ký của bà đăng trên tạp chí Russky Vyestnick, bà làm cho cả nước Nga đều cười vỡ bụng về chuyện vắng mặt của vị Đại Vương xứ Kashmir trong cuộc diễn hành, mà thoạt tiên người ta nghi ngờ là có che dấu một vụ âm mưu chính trị, nhưng sau đó mới vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là vì bịnh kiết lỵ và đi tiêu chảy!

        Ngày 15 tháng 11, vị Phó Vương Anh, Lord Ripon, chủ tọa một cuộc lễ tiếp kiến các vị Đại Vương, Quốc Vương và các ông Hoàng bổn xứ. Một sảnh đường rộng lớn được dựng lên bằng vật liệu nhẹ, gồm những tấm vải cứng lớn có sọc xanh được căng ra làm nóc trên những cột đứng bằng sắt, và những tấm vách ngăn cũng bằng một loại vải cứng tương tự, dưới đất trải những tấm thảm gấm đỏ, bên trong thắp sáng bằng những ngọn đèn lớn.

        Phó Vương ngự trên một chiếc ngai bằng bạc, mặc triều phục chỉnh tề có thêu chỉ vàng và gắn đầy phù hiệu, huy chương, với một tấm băng lụa xanh vắt ngang trên ngực. Đứng phía sau ngài là những người hầu bổn xứ mặc đồng phục trắng tay cầm những cây quạt lớn màu đỏ thêu phù hiệu của Hoàng Gia Anh; hai người hầu khác cầm những cây phất thủ trắng làm bằng đuôi con Yak của xứ Tây Tạng, và hai người hầu nữa cầm những cây vương trượng, biểu hiệu quyền uy của vị Phó Vương.

        Giữa sảnh đường là hai hàng ghế đối diện nhau, các quan viên Anh ngồi ở hàng ghế bên tay mặt Phó Vương, các vị vương hầu bổn xứ ngồi bên tay trái; ở dưới hai hàng ghế là lối đi rộng rãi từ chỗ cửa vào đưa đến ngai chủ tọa. Các vị Quốc Vương, Đại Vương và những ông Hoàng khác của xứ Ấn Độ được chỉ định chỗ ngồi theo thứ tự cấp bậc, vị cao nhất ngồi gần vị Phó Vương.

        Khi mỗi ông Hoàng vừa đến ngoài cửa, có tiếng súng đại bác chào mừng, quân dàn hầu hai bên bồng súng chào, và đoàn nhạc thổi kèn. Ông Alfred Lyall, trưởng ban Nghi Lễ, mặc quốc phục ngoại giao, tiếp đón và đưa mỗi ông Hoàng đến trước ngai vị Phó Vương. Ông Hoàng Ấn Độ dâng lên một mâm lễ vật gồm có một số đồng tiền vàng đựng trên một cái mâm bạc, mà vị Phó Vương đưa tay sờ với một cử chỉ tượng trưng, rồi trả lại (nghĩa là không nhận). Cả hai, chủ và khách, đều cúi đầu chào nhau, kế đó ông Hoàng được đưa đến chỗ ngồi an tọa, rồi đến lượt một ông Hoàng khác.

        Sau khi tất cả các ông Hoàng đã được tiếp đón xong, vị Phó Vương mới đứng dậy làm lễ ban phát quà tặng quý giá gồm có những đồ trang sứcbằng vàng ngọc châu bảo, những đồ khí giới nạm bạc, yên ngựa thêu vàng,v.v... mà những ông Hoàng chỉ đưa tay sờ một cái rồi để cho những quân hầu mang đi.

        Những bộ triều phục lộng lẫy và khăn vấn đầu giát ngọc chớp sáng lập lòe của những ông Hoàng Ấn Độ trình bày một cảnh tưởng huy hoàng đặc biệt của Phương Đông, và làm cho buổi lễ càng thêm phần long trọng.

IV 

 Sau khi đã viếng thăm vài trạm dọc đường, chúng tôi tiếp tục đi Bénarès và được tiếp đón như những tân khách của vị Quốc Vương tại địa phận này.

        Trong thời gian tám ngày ở Bénarès, chúng tôi thường hội kiến với vị Quốc Vương và các triều thần cùng với những nhân sĩ của thành phố Ba Nại La. Có lần, Quốc Vương đi với hai người thông ngôn viên đến nơi quán trọ và thảo luận suốt nhiều giờ với chúng tôi về những vấn đề Đạo Lý, Triết Học và Tôn Giáo. Một lần khác, Quốc Vương đi với viên quan Thủ Kho và đề nghị cho viên quan này đếm ngay tại chỗ vài ngàn đồng Ru-bi (một số tiền rất lớn) để cung hiến cho Hội Thông Thiên Học nếu bà HPB chịu biểu diễn cho ông ta xem vài phép lạ.

        Lẽ tự nhiên, bà từ chối cũng như bà đã từ chối làm như vậy đối với nhiều nhà tỷ phú Ấn Độ khác, mà một là ông Mungaldas ở Bombay, nhưng khi ông này vừa đi khỏi, thì bà liền biểu diễn một số phép thuật thần thông cho những vị khách nghèo không có tiền.

        Tuy nhiên, bà đã tiết lộ cho vị Quốc Vương biết một điều bí ẩn về nơi chôn dấu những văn kiện giấy tờ quan trọng của Hoàng Gia nay đã mất, mà nếu tôi không lầm, thì những giấy tờ đó đã được đem chôn dấu một cách vội vã trong cuộc Nổi Loạn năm 1857.

        Tuy bị thất vọng, nhưng tôi có lý do để tin rằng vị Quốc Vương kính trọng bà bội phần hơn là nếu bà đã chấp nhận lấy món quà tặng của ông ta. Thái độ thản nhiên đối với tiền bạc luôn luôn được người Ấn Độ coi như một bằng chứng chắc chắn về đức xả thân vô kỷ của một vị đạo sư.

        Người đạo sĩ ở Lahore từng biểu diễn cơn xuất thần nhập định trước Quốc Vương Runjit Singh, đã vĩnh viễn tự hạ thấp nhân cách mình khi ông ta nhận lãnh những món quà đắt tiền của nhà vua. Một người cận thần cũ đã già của nhà vua có lần nói với tôi ở tại Lahore rằng:

        -Nếu người đạo sĩ ấy không nhận quà biếu, mà tỏ thái độ dửng dưng đối với của cải tiền bạc, thì có lẽ vị Quốc Vương đã giữ ông ta lại suốt đời bên cạnh mình và tôn sùng ông ta như một vị Thánh.

V

          Ngày đầu năm (Tết Tây) 1881, tôi ngồi vào bàn làm việc đến hai giờ khuya, để viết bài cho tạp chí Theosophist. Nói chung, thì những tuần lễ đầu năm, mọi sự vẫn bình thường, không có gì đáng kể, trừ ra những dịp chúng tôi đã tiếp xúc và có những mối quan hệ thân thiện hay bất thân thiện với một vài nhân vật.

        Tác giả quyển sách nổi tiếng " Nhựa Sống", với cái biệt danh Mirza Murad Ali Beg, đến với chúng tôi lần đầu tiên vào ngày 20 tháng giêng. Y là một người thanh niên Anh, thuộc giòng dõi của gia đình Mitford, đã từng đào tạo ra nhiều nhà văn nổi tiếng của Anh Quốc.

        Y sinh trưởng tại Madras, có một nếp sống dị thường, và theo đạo Hồi Giáo. Khi chúng tôi gặp y, thì y đang phục vụ trong quân đội của vị Đại Vương xứ Bhavnagar, với cấp bậc "sĩ quan kỵ binh", nhưng trên thực tế thì đó chỉ là một chức vụ ngồi không, ăn lương.

        Y sống một cuộc đời phiêu lưu, phóng dật, dẫy đầy những nỗi trắc trở gian lao. Y đã từng thực hành khoa Bàn Môn Tả Đạo, và cho tôi biết rằng tất cả những nỗi khổ đau mà y đã trải qua trong vòng vài năm trước đây đều có thể trực tiếp truy nguyên từ những tác động hiểm ác của vài loại âm binh bất hảo mà y đã kêu gọi để trợ giúp y chinh phục một người nữ nết hạnh mà y thèm muốn.

        Tuân theo sự chỉ dẫn của một nhà Phù Thủy Hắc Phái Hồi Giáo, y đã ngồi suốt bốn mươi ngày trong một gian phòng kín, mắt nhìn chăm chú vào một cái chấm đen trên vách tường, trong khi đó y dùng trí tưởng tượng hình dung gương mặt của người nữ ấy và niệm một câu thường trú nửa Ả Rập và nửa tiếng Phạn, lặp đi lặp lại đến cả trăm ngàn lần.

        Y phải tiếp tục làm như vậy cho đến khi y nhìn thấy gương mặt của người phụ nữ ấy linh động như người thật ở trước mặt y, và khi y thấy đôi môi nàng mấp máy như sắp sửa nói chuyện, thì khi đó nàng đã hoàn toàn bị quyến rũ bởi ma lực của y và sẽ tự động tìm đến với y.

        Tất cả những sự việc đã xảy ra y như đã dự liệu trước, cái ý đồ hiểm ác xấu xa của y được thực hiện, người đàn bà kia bị tàn hại cuộc đời, và chính y bị lệ thuộc quyền của những âm binh bất hảo mà y không có đủ sức mạnh tinh thần để chế ngự khi đã nhân lãnh sự phục dịch cưỡng ép của chúng.

        Thật sự y đang ở vào một tình trạng bi đát, khốn cùng. Thần kinh căng thẳng, dễ bị kích động, không nhất quyết về một điều gì, nô lệ cho những cảm xúc cho chính mình, nhìn thấy những khả năng cao quý của bản chất con người, nhưng lại bất lực không thể đạt tới, y đến với chúng tôi để tìm nơi ẩn trú, và đã ở lại trong nhà chúng tôi trong vài tuần.

        Tuy là người Anh, nhưng y lại có một hình thù dị dạng.

Y mặc y phục của người Hồi Giáo, gồm có một cái áo vải trắng rộng và dài phủ đến chân. Y để tóc dài màu nâu lợt, bới phía sau ót như kiểu bới đầu của đàn bà, nước da trắng và mắt xanh. Từ ngày y đến với chúng tôi, y dường như trải qua một cơn xung dột mãnh liệt trong nội tâm. Y than phiền rằng y bị lôi cuốn dằng co từ mọi phía, trước hết bởi những ảnh hưởng tốt lành, và kế đó bởi những lực lượng bất hảo.

        Y có một trí óc thông minh, và đã đọc qua nhiều sách vở; y muốn gia nhập Hôi Thông Thiên Học, nhưng vì tôi không tin tưởng nơi căn bản đạo đức của y nên tôi từ chối. Tuy nhiên, vì bà HPB đề nghị chịu trách nhiệm về phần y, nên tôi không phản đối và để cho bà bảo trợ sự gia nhập của y. Vài tháng sau đó, y trả ơn cho bà một cách đích đáng, bằng cách giật lấy một cây gươm của một lính canh ở ga Wadhwan và toan đâm chết bà, rồi la lớn lên rằng bà và các Chân Sư đều là ma quỷ! Nói tóm lại, y đã nổi điên.

        Đây nhắc lại khi y còn trí óc lành mạnh và đang ở chung với chúng tôi, y có viết vài bài đăng trong tạp chí "Theosophist" và một đêm nọ, sau một cuộc nói chuyện với chúng tôi, y ngồi viết một bài tham luận về quyền năng của ý chí và tác dụng của nó đối với sự sống lâu. Bà HPB và tôi còn ngồi lại trong phòng, và khi y bắt đầu viết, bà bước đến gần và đứng sau lưng y, cũng như hồi ờ New York, bà đã đứng phía sau lưng họa sĩ Harisse khi người này đang vẽ bức chân dung của một vị Chân Sư theo sự hướng dẫn vô vi bằng phương pháp chuyển di tư tưởng của bà.

        Bài tham luận của Mirza Sahib được sự chú ý của mọi người khi nó xuất hiện trên tạp chí, và được coi như một trong những bài vở có giá trị nhất trong văn chương đạo lý của Hội Thông Thiên Học. Y tỏ ra có trình độ trí thức, và có nhiều triển vọng cứu vãn một phần lớn những khả năng tâm linh đã bị mất của y nếu y chịu ở lại với chúng tôi. Nhưng sau khi đã hứa làm như vậy, y lại tuân theo một động lực vô hình không thể cưỡng, và bỏ nhà ra đi theo tiếng gọi của sự diệt vong.

        Y không thể nào phục hồi lại được sự thăng bằng của trí não; kế đó y theo đạo Gia Tô, rồi quay trở lại Hồi Giáo, và sau cùng y đã chết và được chôn tại Junagadh, tại đây tôi có nhìn thấy nấm mồ sơ sài của y. Trường hợp của y là một trường hợp đáng sợ về cái hiểm họa nó chờ đợi những người nào thực hành Bàn Môn Tả Đạo trong khi còn những đam mê thú dục tiềm ẩn trong lòng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro