01: Little Darling

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

01: Little Darling:

Bất kỳ ai, dù là tinh linh cổ xưa nhất và con rồng già cỗi nhất, khi chào đời trên lục địa Paragon đều đã thấy nó chia làm hai tầng, tầng Mặt Đất và tầng lưng-lửng - những đảo-trôi bồng bềnh xa tít mù khơi, thoáng trông như lục bảo lung linh trên dải lụa sắc biếc. Không ai thắc mắc liệu trời có từng là đất hay đất có đã là trời hay không. Ta chấp nhận rằng Mặt Đất là Mặt Đất và lưng-lửng là lưng-lửng, như thể đó là lời răn của Mẹ.

Mặt Đất và lưng-lửng cách nhau khoảng chân mây lồng lộng tiếng nắng. Tiếng nắng ấy, cùng tiếng trời, tiếng mưa, tiếng bốn mùa, vùn vụt lướt qua rồi chồng chất hàng triệu triệu vụn màu rực rỡ lên gờ đá những đảo-trôi, từ rạng đỏ chớm bình minh, mảng rêu phong xanh biếc, dải đèn trời màu vàng mật,... đến cả bụi sao ánh ngân tuyến cũng góp vui. Khi mặt trời ló rạng, gờ đá nâu lưng-lửng ám vụn thời gian ấy hồng sực lên như lửa, mặt đá nhẵn nhụi sáng choang, kẽ đá lấp lánh, sắc nắng chói lọi rải xuống cùng khắp tầng Mặt Đất, cùng khắp hai biển, một đại dương và vô số thác-trời đổ từ hằng hà đảo-trôi đây đó.

Tại khoảnh khắc ấy, lục địa Toàn Bích mang vẻ đẹp thánh khiết hùng vĩ như kim cương, viên kim cương toàn bích. Vẻ đẹp hùng vĩ kia dội từng mảnh choáng ngợp vào tiềm thức những kẻ phiêu bạt, để khi con họ sinh ra, trong mắt chúng đã ánh màu đất mẹ.

Cha nó từng kể thế. Cha nó nói, đôi mắt nó mang thứ màu siêu thực mà ông không thể gọi tên, cũng không dám gọi tên. 

 - Ta e sợ những cái tên. - Ông bảo - Cái tên có quyền năng của nó, quyền năng khủng khiếp. Ta chỉ là một kẻ nhát gan nữa bị khiếp đảm bởi thứ quyền năng mà nó chứa đựng thôi, con của ta.

Ông thở dài buồn bã. Ông vẫn luôn buồn bã như thế. Đôi mắt ông luôn lờ đờ u tối hệt mưa dầm. Gương mặt ông khắc khổ như khối gỗ đẽo vụng còn nụ cười thì xám ngoét, tái nhợt. Dường như vùng đất nhiệm màu cha nó vừa ngắm nhìn vừa tỉ tê ban nãy đã tham lam hút hết màu sắc sống động trong ông, đem dán lên những gờ đá của nó rồi cũng nên? Sáng mai, khi nắng tỏa, đám màu ấy trôi đi đâu sạch, còn ông vẫn xám xịt như đá. 

Ngày đến ngày đi, ngày qua ngày, chút ít màu sắc còn lại cũng càng bạc thếch, hoen ố, nhợt nhạt như trang giấy cũ, vốn cũ càng thêm cũ, đã xám càng xám hơn. Ngay cả nó, con gái của ông, cũng không thể cản ông lại sao?

Nó đâm thù màu xám, thứ màu lạnh lẽo như bếp tàn. Nó chỉ thích màu trời mà thôi.

Chợt nó nhận ra, càng ghét màu xám bao nhiêu, nó càng yêu màu trời ấm áp bấy nhiêu. Nó yêu ánh sáng. Nó yêu khôn tả cái cảm giác nắng châm chích vào mi, đọng lại đầy vệt loang lổ lấp lánh. Nó yêu cái thú phơi nắng cực! Mấy lúc ấy, nó thấy mình như bột bơ được nướng thành màu caramel vàng ruộm ngọt ngào. Mấy lúc ấy, nỗi buồn mang tên màu xám bỗng nhòe đi cả. 

Sẽ có một ngày, nó thầm nhủ, rồi sẽ có một ngày nó rong ruổi tít tắp bên kia rặng Gravyr, quay cuồng tận đêm trong mùi gió rực rỡ. 

Thác-trời mộng mơ. Đảo-trôi đẹp đẽ. Trảng cỏ ngút ngàn.

Rồi khắp đại dương, rồi thuyền, rồi sóng. Rồi bình minh thiêu sôi bọt nước. Rồi ánh sao vụt chạm vào tóc mai. Sẽ có một ngày như thế! Ôi, chắc chắn sẽ rất tuyệt vời nhỉ? Hẳn đó cũng là tại sao cha nó trông bừng sáng đến lạ khi ông kể lại những cuộc phiêu lưu thú vị nhất trên đời, đúng không nào. 

Nhưng đó là tương lai.

Còn bây giờ, nó vẫn mắc kẹt với cha nó và những tông màu xám. Bây giờ, cô gái nhỏ vẫn yêu nhất ngôi nhà ấm như nắng mai của nó - Quý bà Dinh thự.

Nó tự hỏi, liệu có phải Quý bà từng là một dinh thự hồi đâu xưa xửa xừa xưa không nhỉ? Vì Quý bà lộng lẫy và ấm sực nhất nhất trong những ngôi nhà nó từng thấy! Những ô cửa lấp lánh mỗi sáng, mái ngói đỏ ưng ửng giữa trưa, tường chạng vạng màu bơ tan lịm hay quầng sáng nhuần ấm như thánh ca khi tối - quầng sáng dịu dàng từ những ngọn đèn chùm pha lê, hàng tá nến và chân nến và lò sưởi và tất tần tật các thứ hay ho nó có thể thắp lửa. Nó có thể thắp cả ngày nếu muốn! Những ngọn nến chẳng bao giờ tàn lụi, còn lò sưởi lúc nào cũng đầy củi. Vì thế, với cô-nàng-tám-tuổi, lũ nhà còn lại trong trấn thật xoàng xĩnh, chẳng khác nào cái cút kít gỉ.

Vậy đấy! Nên ngoài trang hoàng cho Quý bà Dinh thự thành Quý-bà-Chói-Lóa ra, nó còn rất thích khoe khoang Quý bà của mình với mọi người nữa. Ồ, tuy nó không chắc là mình cần khoe mấy, vì mỗi lần khách của cha ghé thăm, họ đều ồ à lên vì vẻ tráng lệ của bữa tiệc ánh sáng này. 

Điều ấy khiến nó tự hào cực kỳ! Nó có thể vui sướng đến mức vừa đi vừa hát cả ngày hôm ấy. Đồng dao, tình ca, bài hát dân chăn cừu, khúc lãng du của kẻ hát rong... nó sẽ hát bất cứ giai điệu nào nó có thể nghĩ tới. Dù sau đó những vị khách ấy sẽ cười khúc khích hết buổi, nhưng nó không nghĩ điều đó làm nó bớt thích họ tí nào. 

Bạn biết đấy, khi ấy họ thật dễ thương, dù dễ thương theo kiểu dễ thương hay dễ thương theo kiểu lạ lùng đi nữa.

Nào là những vị hầu tước vận áo chẽn lụa viền chỉ vàng, giày da bọc bạc sáng choang, thanh gươm bên hông họ trông hãnh tiến như một chiến công thượng hạng. Họ hay kể cho nó nghe trận chiến với lợn rừng và gấu, và cuối cùng họ chiến thắng bằng bít tất thối như thế nào.

Rồi các quý cô trẻ tuổi váy cánh cầu kỳ, đai lưng nạm ngọc, tay áo hoa chuông phồng phềnh buông rũ, cứ thích nghịch đôi bím xinh xẻo bện đăng ten. Họ trông tinh tế tựa búp bê, tính tình còn dễ chịu cực kỳ. Nhưng sao họ cứ tủm tỉm mãi thế?

Đến các vị học sĩ giắt kính trước mũi, tay ôm chồng sách, các ông thợ đá quý răng nạm vàng chào mời những viên đá lấp lánh sặc sỡ, những nhà buôn xởi lởi cùng chiếc rương nặng trịch quyến rũ của họ, và thậm chí có cả những tay tạp kỹ thích kè kè lũ vẹt và hàng đống thứ kỳ quặc nữa. 

Nhưng dù kỳ lạ thế nào, họ đều sống động và vui tươi, hoạt náo và rạng rỡ, tạo thành một tổ hợp kỳ quặc cạnh màu xám lặng ngắt của cha. Họ hẳn có rất nhiều cuộc vui nhỉ? Rất nhiều cuộc đi săn tưng bừng, rất nhiều bữa trà chiều đầy bánh ngọt, rất nhiều buổi tiệc tùng cùng vô số chuyến phiêu lưu lớn bé. Và rất nhiều bạn bè. 

Còn nó, nó chỉ có một Quý bà mà thôi.

Nhưng chẳng có gì phải ghen tị cả, nó nghĩ, vì họ tuyệt vời thế kia mà! Không như nó, họ biết rất nhiều câu chuyện thú vị để kể cho cha nó và nó nghe. Họ lịch thiệp, phóng khoáng. Họ biết kéo đàn, biết nhảy múa thật điệu nghệ với thanh gươm hay đánh bóng một hòn đá cuội thành viên ruby sáng lấp lánh. Và, tuyệt vời nhất là, họ rất thích bất ngờ đâm sầm vào một ngày buồn tẻ của nó, khuấy động cả hôm ấy lên bằng bảng giao hưởng màu sắc nồng nhiệt. Như hôm nay chẳng hạn.

- Ồ, chào quý cô. Một ngày tốt lành nhé. Có thể cho ta biết tên cô lần nữa được không, bằng chất giọng ngọt ngào ấy đấy, thưa cô?

- Celastrina Ladon, thưa ngài.

Nó dợm nhún gối, rồi phá lên nắc nẻ:

- Lần thứ tư rồi đấy, thuật sỹ lang thang!

- Albert, cư xử đúng mực đi cô nhỏ! Ta hết phiêu lưu từ đời nảo đời nào rồi nhé!

Nghe anh ta gầm gừ, nó lại cười ầm lên. Mắt nó cũng đang cười. Tóc nó cũng thế. Đã lâu lắm rồi từ lần cuối cùng nó được chòng ghẹo ai đó như vậy, hẳn là từ lúc Albert đi du hí dăm ba tháng trước. Anh ta vốn là một tay lang bạt mà, lúc nào cũng xách theo một chiếc hòm nhỏ, mũ trùm lụp xụp, hông giắt cặp dao găm Sasha và Syssie. Không có tên hợm hĩnh cách hôm lại ghé này, ngày của nó còn chán chường hơn nữa - không có tiếng đùa cợt, không có tiếng cười, không có lấy một người bạn để nói chuyện cùng, vì Albert là một trong số ít những người bạn nó có, với "số ít" ở đây là nắng, Quý bà, và anh ta. Chịu thôi, trong số bạn của nó chỉ có mình anh ta biết nói, mà không phải rì rào, xào xạt. 

Nghĩ đến đây, nó lại cười khúc khích. Ôi Albert-lang-thang đáng yêu, áo chùng nhung đỏ, tóc hung rối bù, ghim áo anh túc và mắt xếch màu nhạt. Nếu có thêm một đường sẹo bên mắt, dám cá anh ta trông y chú mèo hoang trộm cá. À trừ việc anh ta biết làm xiếc.

- Phép thuật! - Albert lại nổi quạu khi nó vòi anh ta biểu diễn "một trò".

- Suỵt! -  Nó hết hồn, vội bịt miệng anh mèo quạu quọ - Họ sẽ giết anh đấy! Anh không sợ bị thiêu sống sao! 

Mấy năm trước, ở trấn này đã có một mụ phù thủy hắc ám bị dân làng thiêu chết. Người ta bảo mụ ta đã bán linh hồn cho Underworld để đổi lấy sắc đẹp vĩnh cửu, bù lại, mỗi tháng mụ ta sẽ giết một người để tế cho lũ quỷ linh hồn tươi sống của anh ta. Vì thế dân làng đã thuê những thợ săn tiền thưởng cừ nhất để bắt được mụ ta, đưa mụ ta lên giàn thiêu. 

Nó không nhớ năm ấy nó bao tuổi, chỉ nhớ giữa bóng tối đặc quánh rùng rợn bùng lên ánh lửa hung bạo, rồi sau đó là tiếng thét the thé xé lòng.

Thấy nó sợ hãi, Albert tròn mắt:

- Thiêu sống? Cái quái gì thế! - Anh ta hếch mũi - Ta là thiên tài giả kim, không phải đám triệu hồn sư* hắc ám đâu nhé!

*Necromancer

Gì cơ? Lại là những thứ bên kia rặng Gravyr ư?

Albert giải thích:

- Paragon tồn tại rất nhiều những sức mạnh cổ xưa, cha em không kể cho em nghe sao? 

Nó lắc đầu. Cha nó chỉ thích kể về các vùng đất và thổ ngữ thôi, ngoài ra ông không nói gì khác. Ông thậm chí còn chưa từng cho nó biết mẹ nó là ai.

Albert gục gặc, vẻ bí hiểm. Chợt, anh ta đến gần, thì thầm vào tai nó:

- Vậy, Cielle, em có muốn học phép thuật không? Phép thuật sẽ thay đổi chính em ấy?

Nó mở bừng mắt. Thoạt tiên nó nghĩ Albert đang trêu chọc nó, như anh ta vẫn thường hay vậy. Nhưng không, có thứ tia lửa kỳ lạ nào đó trong ánh xếch tinh quái dưới đám tóc lòa xòa  khiến nó bỗng tin chắc điều anh ta đang nói. Nó thảng thốt nhìn ảnh dội của bản thân trong đôi mắt màu nhạt: còi cọc, khẳng khiu, bím tóc buộc lệch, tàn nhang lấm tấm quanh mũi. Nó có thể làm được không? 

Nó không sợ sao? 

Tim nó giộng ùng ùng trong lồng ngực, thình thịch, thình thịch. Mắt nó vẫn mở to, nắm tay siết chặt. Dường như ánh lửa tí tách kia đang rừng rực đốt cháy nó. Nó bỗng muốn hét lên thật to. Nhưng lạ kỳ chưa, đó chẳng phải cảm giác sợ hãi, như mỗi khi nó nhớ đến đêm kinh hoàng ấy, hay như khi nó thấy cha nó xám dần. Đó là cảm giác của những lần nó mơ một giấc mơ xa xăm, huyền ảo, về nơi mà Paragon có một tầng gọi là tầng lưng-lửng.

- Anh sẽ dạy em chứ, Albert?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro