phá giá đồng nội tệ 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Việc phá giá đồng nội tệ ảnh hưởng như thế nào đến cán cân thương mại trong ngắn hạn và trong dài hạn (trong trường hợp các quốc gia phát triển và đang phát triển)

Phân tích 4 trường hợp: 

- Đối với quốc gia phát triển

+ Trong ngắn hạn

+ Trong dài hạn, 

- Đối với quốc gia đang phát triển

+ Trong ngắn hạn 

+ Trong dài hạn 

Phá giá tiền tệ là việc giảm giá trị của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ so với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Việc phá giá VND nghĩa là giảm giá trị của nó so với các ngoại tệ khác như USD, EUR...

Trong ngắn hạn

Khi giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc thì ngay lập tức việc phá giá tiền tệ sẽ làm cho tỷ giá hối đoái thực tế thay đổi theo, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng vì hàng xuất khẩu rẻ đi một cách tương đối trên thị trường quốc tế còn hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường nội địa. Tuy vậy có những yếu tố làm cho xu hướng này không phát huy tức thì: các hợp đồng đã thoả thuận trên cơ sở tỷ giá cũ, người mua cần có thời gian để điều chỉnh hành vi trước mức giá mới và quan trọng hơn là việc dồn các nguồn lực vào và tổ chức sản xuất không thể tiến hành nhanh chóng được. Như vậy trong ngắn hạn thì số lượng hàng xuất khẩu không tăng mạnh và số lượng hàng nhập khẩu không giảm mạnh. Nếu giá hàng xuất khẩu ở trong nước cứng nhắc thì kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng không nhiều đồng thời giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng lên do tỷ giá đã thay đổi dẫn đến cán cân thanh toán vãng lai có thể xấu đi.

Trong trung hạn

GDP hay chính là tổng cầu gồm các thành tố chi cho tiêu dùng của dân cư, chi cho đầu tư, chi cho mua hàng của chính phủ và xuất khẩu ròng. Việc phá giá làm tăng cầu về xuất khẩu ròng và tổng cung sẽ điều chỉnh như sau:

* Nếu nền kinh tế đang ở dưới mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực nhàn rỗi sẽ được huy động và làm tăng tổng cung.

* Nếu nền kinh tế đã ở mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực không thể huy động thêm nhiều và do đó tổng cung cũng chỉ tăng lên rất ít dẫn đến việc tăng tổng cầu kéo theo giá cả, tiền lương tăng theo và triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của việc phá giá. Vì thế trong trường hợp này, muốn duy trì lợi thế cạnh tranh và đạt mục tiêu tăng xuất ròng thì chính phủ phải sử dụng chính sách tài chính thắt chặt (tăng thuế hoặc giảm mua hàng của chính phủ) để tổng cầu không tăng nhằm ngăn chặn sự tăng lên của giá cả trong nước.

Trong dài hạn

Nếu như trong trung hạn, phá giá tiền tệ kèm theo chính sách tài chính thắt chặt có thể triệt tiêu được áp lực tăng giá trong nước thì trong dài hạn các yếu tố từ phía cung sẽ tạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu trở nên đắt tương đối và các doanh nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có chi phí sản xuất tăng lên dẫn đến phải tăng giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá cao hơn sẽ yêu cầu tăng lương và gây áp lực làm cho tiền lương tăng. Cuối cùng việc tăng giá cả và tiền lương trong nước vẫn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh do phá giá. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy lợi thế cạnh tranh do phá giá bị triệt tiêu trong vòng từ 4 đến 5 năm.

Tại sao chính phủ phá giá tiền tệ

* Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tự điều chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuất khẩu ròng giảm dẫn đến tổng cầu giảm) đi kèm với mức lạm phát thấp kéo dài cho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm xuống đến mức có khả năng cạnh tranh). Chính phủ các nước thường sử dụng chính sách phá giá tiền tệ khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại.

* Trong trường cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ để mua nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệt thì không còn cách nào khác, chính phủ phải phá giá tiền tệ.

 Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tự điều chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuất khẩu ròng giảm dẫn đến tổng cầu giảm) đi kèm với mức lạm phát thấp kéo dài cho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm xuống đến mức có khả năng cạnh tranh). Chính phủ các nước thường sử dụng chính sách phá giá tiền tệ khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại.

Trong trường cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ để mua nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệt thì không còn cách nào khác, chính phủ phải phá giá tiền tệ.

Khi ngân hàng TW bán ngoại tệ thì có sự giảm sút ngoại te trong dự trữ mà nguôn dữ trữ thì có giới han nên NHTW phải phá giá đông nội tệ

Bác hiểu sai về phá giá đồng nội tệ rồi. Không phải NHTW bán ngoại tệ=> ngoại tệ giảm sút nên phải phá giá đồng nội tệ.

Không phải chính phủ nào nói phá giá đồng nội tệ (PG DNT) là có thể làm được. Vì có thể sẽ vướng phải sự phản đối, trừng phạt của các nước lớn, các nước trong FTA...hay luật pháp quốc tế...

** Phá giá đồng nội tệ nghĩa là sự qui định giá trị đồng nội tệ thấp hơn so với các ngoại tệ mạnh khác (USD, EUR...). Mà khi một đồng tệ giảm giá trị cũng tức là các ngoại tệ khác tăng giá trị tương đối. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến xuất nhập khẩu ròng của một quốc gia với thế giới:

+ Giả sử phá giá VND, điều này nghĩa là một đồng USD trước đổi được 18.000 VND nay đổi được nhiều hơn 18.000 VND, cũng có nghĩa là hàng nhập khẩu đắt lên tương đối so với trước (vì nhập khẩu bằng USD vào VN) và hàng SX trong nước rẻ hơn tương đối so với trước ( liên quan đến chi phí SX)...

Chính các điều trên sẽ khuyến khích các doanh nghiệp trong nước dùng nguyên liệu trong nước, sản xuất để xuất khẩu thu ngoại tệ => đổi được nhiều VND hơn. Bên cạnh đó sẽ hạn chế nhập khẩu, tức là xuất khẩu ròng của nước đó sẽ tăng lên, NK ròng giảm xuống (XKR=XK-NK).

Bên cạnh đó các nước trên thế giới sẽ bị thâm hụt cán cân thương mại với nước này, tức là dòng tiền chảy từ nước này sang nước phá giá nhiều hơn=> tôi sẽ không thích điều này nếu tôi là thủ tướng nước này.

+ Một thực tế đã xảy ra là trong suốt vài năm từ 1992 đến năm 1996, Trung quốc đã tuyên bố phá giá nhân dân tệ (NDT) làm cho thặng dư thương mại của trung quốc tăng lên đáng kể (dự trữ tăng lên vài nghìn tỷ USD) còn Mỹ thâm hụt thương mại vài nghìn tỷ USD. và lúc này tổng thông mỹ phải yêu càu trung quốc giữ đúng tỷ giá của nó trong thương mại.

Chỉ Khi mà lạm phát hặc thâm hụt quá lớn, chính phủ không còn biện pháp nào mới có thể tuyên bố phá giá Nội tệ: mua USD ở các ngân hàng thương mại, vay quốc tế, phát hàng trái phiếu.... Ngày nay tỷ giá được xác định thông qua cung cầu, ở VN là chính sách tỷ giá linh hoạt, thả nổi có kiểm soát.

 -          Thứ nhất, tỷ giá tác động đến cán cân thương mại quốc tế. Như ở trên các bác đã đề cập rồi. Tức là muốn khuyến khích xuất khẩu, giảm nhập khẩu thì nên tăng tỷ giá, tức giảm giá đồng nội tệ và ngược lại.

- Thứ hai, vì tỷ giá tác động trực tiếp đến vấn đề lạm phát nên cần phải điều chỉnh tỷ giá. Cụ thể: khi tăng tỷ giá tức là đồng nội tệ mất giá thì kéo theo hàng hóa nhập khẩu quy đổi sang nội tệ sẽ bị đội giá lên kéo theo giá cả của các hàng hóa và nguyên liệu nhập khẩu tăng, dẫn đến chi phí đầu vào tăng, ... tạo áp lực lên lạm phát (gọi là nhập khẩu lạm phát) và ngược lại.

Như vậy, chính sách tỷ giá bản thân nó cũng có tác động đối lập nhau, tùy vào mục tiêu của chính sách, kết hợp với chính sách khác để điều tiết cho phù hợp. Nếu chỉ xét đơn thuần về chính sách tỷ giá, bạn nhìn thấy ngay: khi phá giá nội tệ sẽ kích thích xuất khẩu giảm nhập khẩu dẫn đến giảm thâm hụt (tốt đấy chứ), nhưng thêm vào đó nó lại gây tác động lên lạm phát.

-Xét trên quan điểm cán cân thanh toán (BOP)

+ Dòng ngoại tệ vào trong nước bao gồm Xuất khẩu và đầu tư FII, FDI, ODA... bắt buột phải chuyển sang đồng nội tệ để hoạt động kinh doanh trong nước, Ngân hàng Nhà nước sẽ mua số ngoại tệ này để ổn định tỷ giá hối đối và dự trữ số ngoại tệ này.Khi đó, lượng tiền nội tệ trong nền kinh tế sẽ tăng lên gây áp lực lên lạm phát.

+ Dòng ngoại tệ đi ra ngoài nước do nền kinh tế trong nước bị bất ổn, không đủ niềm tin của nhà đầu tư, nên bị các nhà đầu tư gián tiếp (không cam kết đầu tư lâu dài) rút vốn ra khỏi nền kinh tế, họ phải bỏ tiền nội tệ ra để mua ngoại tệ để đem ra khỏi nền kinh tế, nên Ngân hàng nhà nước phải bỏ ngoại tệ ra để mua đồng nội tệ để ổn định tỷ giá hối đối, điều này đòi hỏi lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng nhà nước phải đủ khả năng, nếu như lượng vốn rút ra khỏi nền kinh tế nhiều hơn số lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng nhà nước, bắt buộc Ngân hàng nhà nước phải phá giá đồng nội tệ để làm nản lòng các nhà đầu tư rút vốn vì khi đó trong tay họ nắm đồng nội tệ không còn bao nhiêu giá trị nửa khi đổi ra ngoại tệ và nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên, đây là trường hợp bất khả kháng (con dao hai lưỡi), vì sẽ là gia tăng gánh nặng nợ nước ngoài của quốc gia và làm giảm sút niềm tin của các nhà đầu tư. Trường hợp này có thể là nguyên nhân để giải thích khủng hoảng kinh tế ĐNÁ năm 1997.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro