Phá giá tiền tệ-tài chính quốc tế

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tác động của việc phá giá tiền tệChủ nhật, 28/11/2010, 23:26 GMT+7

Phá giá tiền tệ là việc giảm giá trị của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ so vớimức mà chính phủ đã cam kết duy trì trongchế độ tỷ giá hối đoái cố định.Việcphá giáVNDnghĩa là giảm giá trị của nó so với các ngoại tệ khác như  USD,EUR ...Tác động của việc phá giá tiền tệTrong ngắn hạn

Khi giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc thì ngay lập tức việc phá giá tiềntệ sẽ làm chotỷ giá hối đoái thực tếthay đổi theo, nâng cao sức cạnh tranh củaquốc gia và có xu hướng làm tăngxuất khẩu ròng vì hàng xuất khẩu rẻ đi mộtcách tương đối trên thị trường quốc tế còn hàng nhập khẩu đắt lên tương đốitại thị trường nội địa. Tuy vậy có những yếu tố làm cho xu hướng này không phát huy tức thì: các hợp đồng đã thoả thuận trên cơ sở tỷ giá cũ, người muacần có thời gian để điều chỉnh hành vi trước mức giá mới và quan trọng hơn làviệc dồn các nguồn lực vào và tổ chức sản xuất không thể tiến hành nhanhchóng được. Như vậy trong ngắn hạn thì số lượng hàng xuất khẩu không tăngmạnh và số lượng hàng nhập khẩu không giảm mạnh. Nếu giá hàng xuất khẩuở trong nước cứng nhắc thì kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng không nhiều đồngthời giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng lên do tỷ giá đã thay đổi dẫnđến cán cân thanh toán vãng lai có thể xấu đi.

Trong trung hạn

GDPhay chính là tổng cầu gồm các thành tố chi cho tiêu dùng của dân cư, chi chođầu tư, chi cho mua hàng của chính phủ và xuất khẩu ròng. Việc phá giá làm tăng cầuvề xuất khẩu ròng và tổng cung sẽ điều chỉnh như sau:

 Nếu nền kinh tế đang ở dưới mứcsản lượng tiềm năngthì các nguồn lực nhànrỗi sẽ được huy động và làm tăng tổng cung.

 Nếu nền kinh tế đã ở mứcsản lượng tiềm năngthì các nguồn lực không thểhuy động thêm nhiều và do đó tổng cung cũng chỉ tăng lên rất ít dẫn đến việctăng tổng cầu kéo theo giá cả, tiền lương tăng theo và triệt tiêu lợi thế cạnhtranh của việc phá giá. Vì thế trong trường hợp này, muốn duy trì lợi thế cạnhtranh và đạt mục tiêu tăng xuất ròng thì chính phủ phải sử dụngchính sách tàichínhthắt chặt (tăng thuế hoặc giảm mua hàng của chính phủ) để tổng cầukhông tăng nhằm ngăn chặn sự tăng lên của giá cả trong nước.

Trong dài hạn

 Nếu như trong trung hạn, phá giá tiền tệ kèm theo chính sách tài chínhthắtchặt có thể triệt tiêu được áp lực tăng giá trong nước thì trong dài hạn các yếutố từ phía cung sẽ tạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu trở nên đắt tương đốivà các doanh nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có chi phí sản xuất tănglên dẫn đến phải tăng giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá caohơn sẽ yêu cầu tăng lương và gây áp lực làm cho tiền lương tăng. Cuối cùng việc tăng giá cả và tiền lương trong nước vẫn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh do phá giá. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy lợi thế cạnh tranh do phá giá bịtriệt tiêu trong vòng từ 4 đến 5 năm.

Tại sao chính phủ phá giá tiền tệ

Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực cạnhtranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tựđiều chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuấtkhẩu ròng giảm dẫn đến tổng cầu giảm) đi kèm với mức lạm phát thấp kéo dàicho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm xuốngđến mức có khả năng cạnh tranh). Chính phủ các nước thường sử dụng chínhsách phá giá tiền tệ khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thươngmại.

Trong trường cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ đểmua nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệtthì không còn cách nào khác, chính phủ phải phá giá tiền tệ.

Những yếu tố cần xem xét trong các quyết sách về tỷ giá

Đối với thực tế của Việt Nam, có 5 đặc điểm kinh tế và thị trườngtài chính cần được nhấn mạnh xem xét trong các quyết sách về tỷ giá, đólà:(1) Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển nên cónhu cầu lớn về nhập khẩu thiết bị máy móc để đổi mới công nghệ và nhậpkhẩu các nguyên, vật liệu sản xuất các sản phẩm tiêu dùng trong nước vàxuất khẩu. Trên thực tế, nhiều mặt hàng sản xuất trong nước phụ thuộcvào nguyên vật liệu nhập khẩu. Theo số liệu thống kê của Tổng cụcThống kê, hiện nay, khoảng 90% tổng giá trị hàng nhập là nhập thiết bịmáy móc và nguyên, vật liệu sản xuất. Vì vậy, việc tăng hay giảm giá trịnhập khẩu sẽ phụ thuộc nhiều vào chu kỳ tăng trưởng kinh tế hơn là tỷgiá hối đoái.(2) Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàngnông thủy sản, sản phẩm tài nguyên, như dầu thô, cao su... Thêm vào đó,trong cấu thành các mặt hàng xuất khẩu, nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỷtrọng đến 70% là giá trị hàng nhập khẩu. Mặt khác, xuất khẩu của Việt Nam cũng như các nước khác chịu tác động rất nhiều của các yếu tố như:Thuế xuất khẩu, mức giá cả hàng hoá trong nước và nước ngoài, năngsuất lao động của ngành hàng xuất khẩu, cơ cấu hàng xuất, chất lượng vàmức độ đa dạng hoá chủng loại, công tác tiếp thị, xúc tiến thương mại...Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam thì dầu thô, hàng dệt may,thủy sản và gạo chiếm tỷ trọng tương đối lớn (khoảng gần 40%), mà giátrị xuất khẩu của các mặt hàng này chủ yếu dựa vào kết quả của hoạtđộng sản xuất và khả năng chiếm lĩnh thị trường quốc tế hơn là tỷ giá hốiđoái. Do vậy, một sự giảm giá VND không chắc đã làm tăng cường khả

năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Bởi năng lực cạnh tranh của hàngxuất khẩu chịu tác động bởi nhiều yếu tố đan xen nhau. Bên cạnh đó,năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu và hàng hóa đủ tiêu chuẩnxuất khẩu ở Việt Nam đều còn hạn chế (xem bảng 1).

Bảng 1: Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ViệtNam

Tuy nhiên, phân tích từng lĩnh vực xuất nhập khẩu cụ thể, nếuVND lên giá thì một số lĩnh vực cũng bị ảnh hưởng, nhưng tựu chung lạilà tác động không lớn. Chẳng hạn khối doanh nghiệp xuất khẩu hàngnông, lâm, thuỷ sản là nhóm hàng chủ yếu sản xuất ở trong nước chịu tácđộng bất lợi hơn đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng gia công chế biến, lắp ráp linh kiện điện tử. Khối khai thác dầu khí chịu bất lợi khiVND lên giá, nhưng do giá thế giới lên cao, nên tác động không lớn.(3) Lạm phát của Việt Nam tuy đã được kiểm soát ở mức dưới haichữ số, nhưng tính ổn định chưa cao, còn tiềm ẩn những yếu tố gây áp lựctăng giá. Bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách kéo dài, vay nợ nước ngoài để bù đắp thâm hụt ngày càng tăng (xem bảng 2).

Bảng 2: Tổng số dư nợ nước ngoài so với GDP (%)

 (4) Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đang bị “đô la hóa”, trongsuốt thời kỳ cải cách, mức độ đô la hóa tính theo tiêu chí của IMF cógiảm dần, song so với các nước trên thế giới Việt Nam vẫn là nước bị đôla hóa. Với một nền kinh tế đô la hóa, nếu các biện pháp chính sách tiềntệ, tỷ giá hối đoái thiếu thận trọng, không cân nhắc đến tất cả các khía cạnh của vấn đế thì hậu quả của bất ổn vĩ mô là rất nặng nề, khi đó thìkhông thể nói đến vấn đề tăng trưởng kinh tế cũng như đẩy mạnh xuấtkhẩu được: Nhìn vào diễn biến thị trường tiền tệ từ năm 1990 trở lại đây chothấy, vào những thời điểm tỷ giá biến động, trên thị trường tiền tệ có sựdịch chuyển vốn từ tiền gửi VND sang tiền gửi ngoại tệ tương đối rõ nét. Năm 1997, nền kinh tế bị tác động bởi khủng khoảng tài chính của khuvực Đông Á, khi đó Việt Nam buộc phải phá giá VND để hạn chế nhữngtác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam. Đồngthời, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lãi suất VND có xu hướng giảm,cộng thêm lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng nên xẩy rahiện tượng chuyển dịch từ VND sang USD, tỷ lệ tiền gửi USD / tổng tiềngửi tăng từ mức 33% năm 1997 lên mức 36,6% năm 2000 và 41% năm2001. Ngược lại, các khoản vay bằng ngoại tệ/ trên tổng dư nợ lại có xuhướng giảm từ mức 31,3% năm 1997, xuống mức 25,4% năm 1998 và21% năm 2001. Một xu hướng ngược lại diễn ra rõ nét trong năm 2007 vàquý I/2008 là VND có xu hướng lên giá do dòng vốn nước ngoài vàonhiều, lãi suất VND tăng cao do tác động của yếu tố cung cầu và lạm phát, và lãi suất USD có xu hướng giảm do ảnh hưởng của lãi suất thếgiới, thì lại xẩy ra hiện tượng chuyển dịch từ tiền gửi ngoại tệ sang VND:tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ/ tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2006 xuống21,5% vào tháng 4/2008, trong khi đó, cho vay bằng ngoại tệ/ tổng dư nợ lại tăng mạnh từ mức 21% năm 2006 lên 23,25% vào tháng 4/2008.Sự dịch chuyển từ VND sang ngoại tệ và ngược lại, có thể sẽ gâymất cân đối nguốn vốn và với sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại(NHTM), gây mất an toàn hoạt động của các NHTM - một sự đổ vỡ của 1ngân hàng có thể là ngòi nổ cho sự bất ổn kinh tế vĩ mô trầm trọng.(5) Thêm vào đó, từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở thànhthành viên của WTO, một biểu hiện rõ nét nhất ngay sau khi hội nhập, đólà dòng vốn nước ngoài chảy vào nhiều, áp lực lạm phát gia tăng. Cũngnhư hầu hết các nước khi mở cửa hội nhập, Việt Nam đang phải đối mặtvới hiện tượng “Bộ ba bất khả thi”. Đó là, khi dòng vốn nước ngoài vàonhiều, để ổn định tỷ giá, NHNN mua ngoại tệ, qua đó gây áp lực lạm phát, việc kiểm soát dòng vốn theo qui định của Pháp lệnh Ngoại hối thì Việt Nam đã tự do hoá giao dịch vãng lai, còn các giao dịch vốn chưađược tự do hoàn toàn nhưng đã nới lỏng một cách tương đối. Theo lýthuyết này, với một tài khoản vốn mở, một quốc gia không thể đạt đượccùng một lúc 2 mục tiêu ổn định lạm phát và ổn định tỷ giá (tỷ giá mụctiêu). Các nỗ lực tăng lãi suất để làm giảm áp lực lạm phát thì đồng thờicũng làm tăng khả năng hút các nguồn vốn từ bên ngoài. Vì vậy, tỷ giá lạiđược nâng lên, nhưng điều này lại làm suy yếu mục tiêu của các NHTWvề tỷ giá hối đoái. Tác động hai chiều ngược nhau của chính sách này đãtác động mạnh trong môi trường hiện tại. Đối với các thị trường mới nổi,

nơi mà thị trường tài chính và tiền tệ còn kém phát triển, thì hiện tượng“bộ ba bất khả thi” là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Việc giải quyết hợplý 3 mục tiêu vĩ mô này, đối với mỗi quốc gia khác nhau thì có các phảnứng khác nhau. Ví dụ như Thái Lan và Colombia đã lựa chọn áp dụngkiểm soát các nguồn vốn đi vào các nước này (tức là bỏ mục tiêu thứ 3trong “bộ ba bất khả thi”). Trong khi đó, Nga lại cho phép nâng giá đồngRúp để làm giảm áp lực về lạm phát.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro