TỪ ẤY (KHỔ 1+3)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Cái đẹp mà văn học đemlại không phải là cái gì khác hơn là cái đẹp của sự thật đời sống được khám phá1 cách nghệ thuật". Trong vũ trụ văn chương của các nhà văn, tiếp cậncái đẹp luôn là hạt nhân quan trọng nhất, bởi bản chất của sáng tạo nghệ thuậtvốn cũng là sáng tạo cái đẹp. Cảm quan thẩm mĩ tinh tế trong nghệ thuật còn thểhiện ở hình thức, được biểu đạt qua hình tượng nghệ thuật riêng biệt,không lặp lại, sự sáng tạo các yếu tố nghệ thuật phong phú... Với cảm hứng vàngòi bút tài hoa, tác giả Tố Hữu với bài thơ Từ ấy đã thể hiện chất thơ riêng, độc đáo của mình và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Đến với bài thơ, ta không chỉ thấy một Tố Hữu với niềm vui sướng, say mê, hạnh phúc khi gặp lí tưởng cộng sản, mà còn có những chuyển biến mới, sâu sắc trong anh.

Tập thơ Từ ấy gồm 71 bài thơ được chia làm ba phần: Máu lửa, Xiềng xíchGiải phóng. Trong đó, bài thơ Từ ấy được rút từ phần một – Máu lửa, được coi là bài thơ hay nhất, ấn tượng nhất trong tập thơ.

Mở đầu bài thơ là niềm vui sướng, say mê, hạnh phúc của nhân vật trữ tình khi gặp lí tưởng cộng sản:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Với lời thơ tự sự, câu thơ đã kể lại một kỉ niệm không quên trong cuộc đời nhân vật trữ tình. Từ ấy là mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và đời thơ Tố Hữu. Đó là giây phút nhà thơ được đứng trong hàng ngũ của Đảng (khi đó mới 18 tuổi, đang hoạt động tích cực trong Đoàn TNCS Huế). Giây phút ấy, mốc thời gian có ý nghĩa quan trọng bởi trước Từ ấy, Tố Hữu cũng như bao trí thức đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, anh cần lắm hướng đi cho cuộc đời mình. Cùng thời với nhà thơ có rất nhiều thanh niên yêu nước nhưng không thể hoặc không có cơ hội để đến với cách mạng. Lớp thanh niên ấy đã rơi vào tâm trạng bế tắc, chán chường, đắm chìm trong nỗi buồn, nỗi cô đơn của cái tôi sầu mộng. Tố Hữu may mắn hơn. Anh đã tìm ra con đường đi cho cuộc đời mình nhờ bắt gặp lí tưởng cộng sản.

Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng

Ta bước tới. Chỉ một đường: Cách mạng 

(Như những con tàu – Tố Hữu)

Giây phút ấy trở nên hết sức kì diệu, thiêng liêng trong tâm hồn nhà thơ. Vì vậy bao niềm vui sướng, say mê anh gửi ở những hình ảnh bừng nắng hạ, mặt trời chân lí chói qua tim. Nắng hạmặt trời chân lí là những hình ảnh ẩn dụ để chỉ lí tưởng cách mạng, lí tưởng của Đảng cộng sản. Mặt trời gợi lên nguồn sáng ấm nóng, rực rỡ, bất diệt, còn nắng hạ thì chói chang, mãnh liệt, dồi dào. Lí tưởng cách mạng đến với nhà thơ như một nguồn sáng chói lòa, xua tan màn đêm tăm tối, chấm dứt những ngày tháng vô nghĩa không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi. Những động từ mạnh bừng, chói cho ta thấy ảnh hưởng lớn lao của nguồn ánh sáng chân lí đến với nhà thơ: bừng là nguồn sáng phát ra mạnh mẽ, bất ngờ, đột ngột; chói là ánh sáng huy hoàng, rực rỡ khiến người ta phải choáng ngợp. Đây không phải là sự bừng sáng từ bên ngoài mà là sự bừng sáng từ bên trong – bừng sáng về trí tuệ, tâm hồn, tình cảm như nhà thơ Louis Aragon từng nói: Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng. Ánh sáng của Đảng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản, đem đến cho tâm hồn nhà thơ những chuyển biến, nhận thức sâu sắc:

Và rồi từ đây ánh dương soi đời mới

Tiến theo cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi... 

Lí tưởng cộng sản không chỉ là sự bừng ngộ lớn mà còn là sự phục sinh mạnh mẽ trong tâm hồn nhà thơ. Niềm vui đã cất thành tiếng hát sôi nổi, náo nức, say mê:

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim...

Phép so sánh độc đáo, đầy thi vị hồn tôi – vườn hoa lá rất đậm hương và rộn tiếng chim đã cụ thể hóa niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản. Lí tưởng cách mạng như một chiếc đũa tiên thần kì chạm vào thế giới tâm hồn khô héo của nhà thơ và đem đến cho nó một sự phục sinh kì diệu. Tâm hồn ảm đạm, buồn bã tự như khu vườn mùa đông lạnh lẽo của thi sĩ bỗng hóa thành một khu vườn xuân từng bừng sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá và âm thanh rộn rã của tiếng chim ca.

Đối với khu vườn đầy hoa lá còn gì đáng quý hơn là ánh sáng mặt trời. Đối với một tâm hồn đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời còn gì quý giá hơn khi có được lí tưởng soi sáng, dẫn đường. Tố Hữu đón nhận lí tưởng cách mạng như cỏ cây đón nhận ánh sáng mặt trời, cái nguồn sống mãnh liệt của mặt trời cách mạng đã khiến cuộc sống của nhà thơ thật thắm sắc, đượm hương, trẻ trung, nhiệt huyết. Nhịp thơ sôi nổi cùng với hai tính từ đậm, rộn đã diễn tả chân thực, tinh tế bao cảm xúc dâng trào, niềm say đắm, hân hoan của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng. Phải đặt bài thơ vào trước thời điểm Từ ấy mới thấy niềm vui đó quả thật lớn lao như thế nào. Đây là lúc người thanh niên trẻ thiết tha kiếm tìm lẽ sống:

Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi

Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời 

(Nhớ đồng – Tố Hữu)

Bao nhiêu băn khoăn, bế tắc phút chốc được khai quang bởi mặt trời chân lí hóa thành niềm lạc quan bay bổng trên đôi cánh của trí tưởng tượng. Có thể nói mặt trời chân lí đã xua tan những bóng đêm u ám, mở ra một tương lai tươi sáng, mang đến một nguồn sinh lực dồi dào vẫy gọi tâm hồn nhà thơ hăm hở bước vào đời với tất cả niềm tin yêu, hi vọng, nguyện suốt đời theo Đảng. Nhưng Tố Hữu không chỉ là một chiến sĩ mà còn là thi sĩ nên vẻ đẹp và sức sống mới ấy của tâm hồn cũng chính là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Như vậy lí tưởng cộng sản không chỉ làm nên một cuộc đổi đời mà còn khai sinh ra nguồn cảm xúc mới với những cảm hứng sáng tạo mới. Đó là một hồn thơ của những tình cảm lớn, hồn thơ của lí tưởng.

Ánh sáng lí tưởng đã khai sáng tâm hồn và trí tuệ để từ ấy nhân vật trữ tình đi đến những nhận thức mới về lẽ sống:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Cùng thời với Tố Hữu nhưng khi chưa đến được với cách mạng nhà thơ Xuân Diệu viết:

Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất.
Không có chi bè bạn nối cùng ta
... 

(Hy Mã Lạp Sơn – Xuân Diệu)

Đó là trạng thái cô đơn của thanh niên chưa tìm được vị trí của mình trong lòng dân tộc, chưa có tình cảm cách mạng, vẫn là một cái tôi cá nhân. Nhưng nhân vật trữ tình trong Từ ấy thì khác hẳn. Anh đã ý thức rõ mối quan hệ tình cảm của mình với nhân dân. Anh tự nhiên hòa cái tôi cá nhân nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn để tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nên sức mạnh của khối đời to lớn. Động từ buộc là một ngoa dụ, thể hiện ý thức tự nhiên sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân chật hẹp để sống chan hòa với mọi người, để tâm hồn, tình cảm của nhà thơ có thể trang trải với trăm nơi. Mọi người, trăm nơi là hình ảnh hoán dụ chỉ cuộc đời rộng lớn. Nhân vật trữ tình chủ động và khao khát mở rộng lòng mình, sẻ chia với quần chúng, tạo nên sự đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.

Hai câu thơ sau cho ta thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình cảm chung chung mà là tình hữu ái giai cấp. Trong mối quan hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến tầng lớp lao khổ. Bao hồn khổ là để chỉ tầng lớp đáng thương nhất trong xã hội đương thời. Ý thơ không chỉ thể hiện sự chủ động, gắn kết mà còn chỉ sự thương xót tận cùng, thương cảm sâu sắc với đại gia đình trong cảnh lầm than. Chính trong mối quan hệ gắn bó, gần gũi đó nhân vật trữ tình mới tìm thấy sức mạnh của mình: gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. Khối đời là một hình ảnh hoán dụ chỉ khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau, phấn đấu vì một mục tiêu chung. Ở đây cái tôi và cái ta đã chan hòa vào nhau. Cá nhân đã hòa vào tập thể, cái tôi góp mình vào cái ta để tạo nên sức mạnh chung. Mặt khác, sức mạnh của cái tôi sẽ được nhân lên trong sức mạnh của khối đời to lớn.

Câu thơ như một lời tuyên thề nghiêm trang và thẳng thắn về một lẽ sống cao cả. Đó là sống một cuộc sống dấn thân, tự nguyện hiến dâng đời mình, tự nguyện gắn bó đời mình với mọi người, trước hết là những người lao khổ. Đó là lẽ sống vì mọi người, đoàn kết, thương yêu, đi từ chân trời của một người đến với chân trời của nhiều người. Từ đó thực hiện lí tưởng mà Đảng đã giác ngộ, sứ mệnh của người chiến sĩ cộng sản: giải phóng giai cấp cần lao, giải phóng dân tộc. Tố Hữu đã đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng để tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu. Ý thơ không chỉ nói lên sự gặp gỡ của cái tôi với cái ta, giữa cá nhân với tập thể, không chỉ là tuyên ngôn về lẽ sống vì muôn người lao khổ. Tố Hữu còn là một nghệ sĩ vì thế ý thơ hướng tới sự khẳng định về mối quan hệ gắn bó giữa nghệ sĩ với nhân dân, văn học với đời sống, nghệ sĩ chỉ tìm thấy cảm hứng sáng tạo, sức mạnh của mình trong sức mạnh của nhân dân. Văn học chỉ có khả năng tác động mạnh mẽ khi gắn bó và nói lên tiếng nói đồng cảm với nhân dân lao khổ.

Từ niềm vui sướng say mê khi bắt gặp lí tưởng đến những nhận thức mới về lẽ sống, khổ ba cho ta thấy chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu:

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ...

Ở khổ thơ hai, nhờ sự soi sáng của mặt trời chân lí mà nhân vật trữ tình đã tìm thấy một lẽ sống lớn, vượt qua cái tôi ích kỉ, hẹp hòi để gắn bó chan hòa với quần chúng lao khổ. Tình hữu ái giai cấp đó đến đây đã biến thành tình thân yêu ruột thịt. Nếu lẽ sống vì mọi người mới chỉ dừng lại ở sự tâm niệm thì ở khổ ba lẽ sống ấy đã biến thành hành động, được kiểm chứng bằng những hành động thực tế, không phân biệt giai cấp, thương yêu đồng bào như máu thịt.

Lời thơ ấm áp, thương yêu, đầy trách nhiệm. Điệp từ là, của trở đi trở lại cùng với từ chỉ số lượng, ước lệ vạn đi cùng với các danh từ chỉ quan hệ gia đình rất tự nhiên con, em, anh... đã nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, chân thành. Qua đó, cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân mình đã là một thành viên của đại gia đình quần chúng. Với Tố Hữu, tình cảm anh dành cho mọi người là thứ tình cảm thường trực vốn có, chân thành, không gượng ép. Nhà thơ tự nguyện mang cả cuộc đời mình để đem lại hạnh phúc, ấm no cho những mảnh đời bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi trong tuyệt vọng. Câu thơ trùng điệp, nhịp điệu sôi nổi, mạnh mẽ vang lên niềm tự hào của nhân vật trữ tình khi mình là một thành viên của nhân loại đông đảo, vô địch. Từ đã diễn tả rất sắc nét cái hăm hở hành động của người thanh niên yêu nước và say mê cách mạng. Đã chứ không phải là muốn hay sẽ, vì muốn hay sẽ là điều đó chưa xảy ra, mới chỉ dừng lại ở khát vọng, mong ước. Còn đã là sự nhìn lại con đường đã đi của mình, kiểm điểm lại hành động thực tế của mình để thấy rằng mình đã thực sự là một thành viên ruột thịt của quần chúng lao khổ vừa hướng tới sự biểu đạt của sức mạnh đoàn kết. Nhà thơ Tố Hữu đã vượt qua cái khoảng cách xa xôi giữa hai giai cấp (tiểu tư sản và vô sản) trong xã hội để hòa mình vào giai cấp quần chúng lao động bằng tình cảm chân thành, thương yêu, gắn bó trong gia đình. Thế mới biết sức mạnh của lí tưởng cách mạng to lớn đến nhường nào. Nó đã cảm hóa, biến đổi những người trí thức tiểu tư sản vốn có lối sống cá nhân thành những con người của cách mạng, thi sĩ của cách mạng, không còn quẩn quanh trong chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, hẹp hòi để vươn tới một tình yêu vẹn tròn, to lớn với giai cấp cần lao.

Điều này chúng ta không chỉ thấy ở riêng Tố Hữu mà còn có trong các nhà thơ khác như Huy Cận, Xuân Diệu,... Lí tưởng cộng sản đã biến họ từ những thi sĩ lãng mạn:

Làm thi sĩ nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây 

(Cảm xúc – Xuân Diệu)

Thành những nhà thơ cách mạng:

Dùng bút làm đòn chuyển xoay chế độ,

Mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền...

(Là thi sĩ – Sóng Hồng (Trường Chinh))

Biến họ từ những cá nhân ích kỉ thành những chiến sĩ cộng sản kiên trung, chấp nhận:

Dấn thân vô là phải chịu tù đày

Là gươm kề tận cổ, súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn một nửa 

(Trăng trối – Tố Hữu)

Các hình ảnh vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ, không áo cơm, cù bất cù bơ đã diễn tả một cách chân thành tấm lòng xót thương, đồng cảm của nhà thơ với những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên dãi dầu mưa nắng, những em bé không nơi nương tựa, phải lang thang, vất vưởng. Đằng sau những lời thơ ấy còn là lòng căm giận của nhà thơ trước những bất công trái ngang trong chế độ cũ đày đọa con người. Chính những kiếp người phôi pha, những em nhỏ cơ nhỡ là động lực thúc đẩy người thanh niên Tố Hữu hăng say hoạt động cách mạng:

Đi, bạn ơi, đi! Sống đủ đầy

Sống trào sinh lực, bốc men say

Sống tung sóng gió thanh cao mới

Sống mạnh, dù trong một phút giây. 

(Đi – Tố Hữu)

Và chính họ cũng là cội nguồn cho cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ Tố Hữu, họ sẽ là đối tượng sáng tác chủ yếu của tập thơ Từ ấy nói riêng và thơ Tố Hữu nói chung. Đó là những cô gái giang hồ (Tiếng hát sông Hương), những chú bé đi ở (Đi đi con), những ông lão khốn khổ (Lão đầy tớ).

Bài thơ có giọng điệu say đắm, nồng nàn rất mực, thể hiện sự cháy bỏng về lí tưởng, hiến dâng đến độ quên mình. Hình ảnh thơ rực rỡ, tươi sáng. Nhịp điệu thơ sôi nổi, dồn dập. Lớp từ vựng chính trị xã hội tưởng như khô khan nhưng đã được sử dụng một cách tự nhiên, thoải mái. Có thể thấy rằng, bài thơ tiêu biểu cho thi pháp thơ Tố Hữu trong giai đoạn sáng tác đầu tiên. Nói như Chế Lan Viên: Tất cả Tố Hữu, thi pháp, tuyên ngôn, những yếu tố làm ra anh có thể tìm ra tế bào này.

Từ ấy là khởi đầu của mọi khởi đầu, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp thơ ca Tố Hữu. Bài thơ thể hiện rõ nét hình ảnh người chiến sĩ cộng sản với niềm vui sướng vô hạn khi bắt gặp lí tưởng cộng sản, qua bài thơ nhà thơ muốn gửi gắm tâm nguyện gắn bó cống hiến hi sinh cả cuộc đời mình cho cách mạng, tầng lớp cần lao.

Nếu 1 cuốnsách làm cho tôi cảm thấy giá lạnh mà không 1 ngọn lửa nào có thể sưởi ấm, tôibiết đó là thở. Nếu tôi cảm thấy mình đang cất cánh, tôi cũng biết đó là thơ.(Emily Dickinson). Quả thật khi đọc bài thơ củanhà thơ Tố Hữu tâm hồn ta như được bồi đắp thêm nhựa sống, một nguồn năng lượngtích cực. Bài thơ với ngôn từ tinh tế, mộc mạc nhưng vô cùng tha thiết, thể hiệncái tôi nghệ sĩ của tác giả, đã để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#văn11