Phần XVI: Lễ hội săn bắn mùa đông

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1: Mùa săn

Sáng nay trời rất lạnh, lão vương gia chống gậy đi ra vườn. Cái gọi là "vườn" cũng không có gì đáng xem, chỉ gồm vài giống xương rồng, cây bụi, còn có ít vò lan hiếm hoi vẫn nở hoa trong cái thời tiết oái oăm này. Ông chầm chậm ngồi xuống xích đu, đây là chỗ con gái thường đọc sách. Chu Lạc Trinh khẽ vuốt sợi dây thừng đã sờn cũ, nhẹ nhàng đung đưa. Ông chìm trong hồi ức về nhiều chuyện đã qua, về kinh thành, về các con, về tuổi trẻ và về người vợ thân yêu của mình.

Lệ Hà bưng chén thuốc nóng đi ra vườn, thấy cha chồng đang nhắm mắt dưỡng thần. Nàng lễ phép thưa với ông:

-Phụ thân, đã tới giờ uống thuốc rồi!

Chu Lạc Trinh mở mắt, thở dài nhìn dâu trưởng.

-Lại thuốc, lão già này sắp thành cái ấm thuốc rồi...

Lệ Hà mỉm cười, cũng to gan đùa giỡn một chút.

-Con có chuẩn bị mứt quả, sẽ không đắng lắm đâu!

Chu Lạc Trinh cười một tiếng ồm ồm, đưa tay nhận cái chén. Sức khỏe của ông mấy năm gần đây không tốt lắm, bệnh này vừa hết bệnh khác lại tới, ông thực sự già rồi... Chu Lạc Trinh nhớ lại những người cùng thời với mình, hầu hết đã khuất núi, lão tiên đế có mười sáu con trai, hiện tại còn dư lại mỗi ông. Hòa An vương nào có tham sống, sống dai sống lâu cũng chỉ tổ cô đơn tịch mịch, gắng gượng đến tuổi này vì không yên tâm đứa con gái, con gái duy nhất của ông.

Khách quan mà nói, Hòa An vương là người có phúc, tuổi già an nhàn, con cháu đầy đàn, trong ngoài đầm ấm. Ở những vương phủ khác không được như thế! Chủ yếu vẫn do sáu đứa con của ông cùng một mẹ sinh ra, thân tình khăng khít, không phải đố kị ghen ghét nhau. Sau khi vương phi mất, ông không cưới vợ khác, chỉ ở vậy nuôi con. Các thiếu gia hiếu thảo lại học theo cha, không nạp tiểu thiếp, nhờ vậy luôn giữ được hòa khí. Hiện tại ông có ba nàng dâu, trừ dâu thứ ba phải theo chồng ở xa thì dâu trưởng và dâu hai đều rất nết na ngoan hiền. Trừ Tiểu Hà tuổi nhỏ thì chỉ còn đứa con trai thứ tư vẫn chưa chịu thành gia lập thất. Ông không quản được đứa con này, từ nhỏ tới lớn đã như vậy.

Lệ Hà thấy cha chồng uống hết thuốc liền nhận lại cái chén, sau đó lấy ra hai phong thư.

-Cha, Lục muội và A Tề hôm qua gửi thư về! Thật trùng hợp tới cùng một lúc!

Chu Lạc Trinh nhíu mày xé thư, ông cảm thấy kì lạ. Mỗi tháng Tịch Tề chỉ gửi thư về một lần, thậm chí hắn còn lười viết. Mọi việc hắn làm đều do Thế tử nói lại với ông. Tháng này mới ngày ba mà đã gửi thư, không lẽ có chuyện khẩn cấp? Vương gia lo lắng đọc thư của con trai trước. Tịch Tề vờ vịt hỏi thăm sức khỏe người nhà, dặn dò ông ăn uống đầy đủ, nói huyên thuyên một hồi mới nhắc tới Sử Hựu Trát. À, thì ra muốn tiến cử em rể tương lai! Lão vương gia đọc kĩ vài lần, tự hỏi chàng trai này là người thế nào mà khiến đứa con bất kham của ông tán thưởng như vậy.

Vương gia khép thư, hỏi dâu trưởng vẫn đứng hầu bên cạnh:

-Con có biết ai là Sử Hựu Trát không?

Lệ Hà lễ phép đáp:

-Dạ biết, Sử công tử là bạn của Tư nhi nhiều năm, thường viết thư qua lại, đôi khi gửi chút đồ chơi ở kinh thành. Con thấy quan hệ của hắn với em chồng rất tốt!

-Đã quen nhiều năm...?

Chu Lạc Trinh suy nghĩ xuất thần, lúc lâu mới tạm gác lại, mở thư của con gái. Tương Tư cũng vờ vịt thăm hỏi gia đình, nói rất nhớ cha, kể tội của Nha Nha rồi mới vào mấu chốt vấn đề là sợi dây bình an của Niệm Nhất. Lão vương gia cảm thấy hai đứa con của ông quái lạ, rốt cuộc chúng nó tính toán cái gì? Ông thở dài lắc đầu, không hiểu nổi lớp trẻ. Được dâu trưởng nâng đỡ, vương gia trở vào thư phòng, bắt đầu lấy giấy mực viết thư hồi đáp...

Kể từ hôm đó, Chu Lạc Trinh quan tâm nhiều tới vị công tử họ Sử kia. Ông sai Thế tử tìm hiểu gia thế nhân phẩm của Sử Hựu Trát, chỉ thiếu điều lật rách gia phả chín đời nhà người ta. Vương gia cảm thấy chàng trai này rất tốt, rất xứng với con gái mình, quan trọng là Tương Tư cũng có tình cảm với hắn, ông chưa từng thấy nàng qua lại với nam nhân nào như vậy, quan hệ "bằng hữu" cũng thật mập mờ. Tuy nhiên, vương gia vẫn còn đắn đo, bởi vì hoàng thượng đã nói trước, muốn đích thân lo chuyện hôn nhân cho Tương Tư.

Thế rồi vào một ngày cuối đông, Chu Lạc Trinh đột nhiên ho ra máu. Ông run run giấu chiếc khăn tay vào ngăn tủ, hoang mang một lúc bèn hạ quyết tâm viết chúc thư. Di nguyện cuối đời ông là con gái yêu dấu được gả cho người chồng tốt, con rể mà ông chọn là Sử Hựu Trát. Vương gia đóng dấu mộc, trực tiếp chuyển lên kinh thành cầu hoàng thượng lo liệu. Chu Lạc Trinh nào có biết, chúc thư ấy là đả kích lớn nhất đối với Ca Dương trong hoàn cảnh bế tắc. Nó đã đánh tỉnh chút u mê cuối cùng, khiến hắn hiểu được hạnh phúc rất mong manh, không lập tức giành lại thì vĩnh viễn vuột mất!

***

Đông năm nay Ca Dương không thể dẫn Tư Tư đi Ôn Chi Sơn, bởi vì có một sự kiện lớn năm năm một lần hoàng đế không thể vắng mặt. Lễ hội săn bắn mùa đông là một truyền thống đã tồn tại từ thời khai quốc. Thuở ban sơ, trên bình nguyên Khương La chỉ có các bộ lạc. Để chống chọi tiết đông khắc nghiệt, mùa thu bọn họ tích trữ thức ăn, mùa đông ẩn trốn trong sơn động tránh rét. Chuyện kể rằng một năm nọ tù trưởng mắc bệnh nặng mà thảo dược đều không tìm thấy, tuyết phủ trắng đất, cỏ cây không mọc nổi. Ông gọi các con trai lại bên giường căn dặn, nếu ai săn được Yêu hồ lấy mật chữa bệnh cho ông thì ngôi tù trưởng sẽ thuộc về người đó. Yêu hồ là giống cáo lông đỏ vô cùng quý hiếm, chúng chỉ làm hang ở nơi địa hình hiểm trở. Các con tộc trưởng không biết loài Yêu hồ có tập tính ngủ đông, trừ khi vào tận hang thì không cách nào bắt được. Bọn họ kéo nhau đi tìm Yêu hồ, chỉ có người con thứ sáu ở lại chăm sóc cha già. Cuối cùng Yêu hồ không bắt được mà bệnh tình tộc trưởng nhờ con trai tận tình chăm nom nên vượt qua mùa đông. Tộc trưởng truyền ngôi lại cho đứa con này, nói rằng đây chỉ là một bài thi khảo nghiệm, đứa con hiếu thảo nhất mới xứng đáng được phần thưởng lớn nhất.

Đây là một trong nhiều truyền thuyết vẫn còn lưu hành trong dân gian, về sau hoàng tộc tổ chức Lễ hội săn bắn mùa đông để nhắc lại tích này, đồng thời tưởng nhớ ân đức của vua, cũng là dịp cho quân thần có cơ hội gần gũi. Năm Sùng Nghi thứ hai mươi hai, trong Lễ hội săn bắn tổ chức ở khu rừng Bách Thượng, Thái tử Chu Lạc Ca Thần vì giúp phụ hoàng bắt Yêu hồ mà rơi vào bẫy của Nhị hoàng tử, chết không toàn thây. Lúc đó Ca Dương vừa thành thân với Triệu Tiếu Vy, trong hôn kỳ không thể tham dự.

Do cái chết bi thương của phụ hoàng và đại ca, về sau Ca Dương không mặn mà với Lễ hội săn bắn mùa đông nữa, các hình thức được giản lược, vỏn vẹn mười lăm ngày là kết thúc. Năm nay cũng không khác mấy, hoàng đế đem theo năm nghìn Ngự lâm quân, một nghìn thị vệ, khoảng hai trăm triều thần và gia quyến, hậu cung có Hoàng hậu và Dung phi, thêm cả Quận chúa cùng khởi giá đến Bách Thượng.

Buổi tối trước khi đi, Tư Tư phấn khích kiểm tra lại hành lý, xét tới xét lui lo lắng bỏ sót thứ gì. Nàng chưa từng đi săn bắn nên Tiểu Mai chuẩn bị một bộ đồ cưỡi ngựa, mặc lên trông rất oách. Tư Tư thích thú mang giày ống cao, tay cầm roi ngựa chạy qua chạy lại, tưởng tượng hình dáng oai phong lẫm liệt của nữ tướng quân. Nha Nha bị kích thích, cũng sủa ầm ĩ, nhảy tưng tưng chạy theo cắn đầu roi. Hai chủ chó càng chơi càng hăng!

Tiểu Mai đứng bên cạnh ôm trán thở dài, Quận chúa tưởng mình sắp đi đánh trận à? Ngay lúc đó một nô tài cầm theo phong thư nơm nớp chạy vào, hai mắt Tiểu Mai sáng lên, vội thông báo với Quận chúa thư nhà đã tới, giục nàng mau chóng mở thư. Hòa An vương như mọi khi dặn dò con gái quan tâm sức khỏe, không được ham chơi, ở hoàng cung hành vi cử chỉ phải cẩn thận, gặp lúc nguy nan thì tìm Tứ ca bảo vệ. Bình thường vương gia luôn dạy nàng như vậy nhưng Tư Tư thầm nghĩ bất cứ trường hợp nào nàng cũng tìm hoàng thượng trước tiên! Cuối thư, ông giải đáp thắc mắc về sợi dây bình an. Tư Tư đọc cho Tiểu Mai nghe.

Đại khái là sợi dây này không có gì quý nhưng nó được lưu truyền nhiều đời, có ý nghĩa gia tộc. Dây bao gồm ba loại, đeo tay, chân và cổ. Khi nhỏ Hòa An vương có một cái, sau này vương phi sinh trưởng nam nên ông cho Thế tử. Thế tử phi sinh trưởng tôn nên Niệm Nhất được thừa kế. Sùng Nghi đế ngày xưa có hai sợi, một cái cho Thái tử Ca Thần. Hiện giờ dây đeo tay đó có lẽ đang ở chỗ hoàng thượng hoặc thái hậu. Còn sợi dây đeo cổ đã lâu không biết tung tích, có người nói rằng Sùng Nghi đã cho Hoàng quý phi. Bà ấy chính là nguyên nhân khiến vở hí kịch "Mai Hoa nương tử ở Châu Kinh" bị cấm diễn.

Tư Tư rành rọt đọc hết thư, ngẩng đầu nhìn Tiểu Mai ngồi đến hoang mang. Trong đầu nàng có một trăm con ngựa đang chạy loạn. Một vật gia truyền như vậy tại sao nằm trong tay sư phụ, liệu thân phận của Phong có giống như nàng suy đoán? Tiểu Mai lắc mạnh đầu, không thể nào, không thể nào...

Mặc cho Tiểu Mai có một đêm mất ngủ, sáng hôm sau vẫn theo Quận chúa khởi hành. Đoàn người hùng hồn với nghìn ngựa trăm xe, loằng ngoằng một đầu ra khỏi thành, một đầu vẫn còn di chuyển từ cửa cung. Đế Đô cách Bách Thượng không xa lắm, gần hơn Ôn Chi Sơn, chỉ mất khoảng nửa ngày. Long liễn đi sau tốp Ngự lâm quân mở đường, kế đó là Phượng liễn. Triệu Phi Liên ngồi trong cỗ xe xa hoa ở giữa đoàn, nàng ta vốn tính đi cùng long liễn với bệ hạ, ai ngờ hoàng thượng không thèm cân nhắc đã từ chối. Lề mề phía sau là xe của Quận chúa, Tư Tư đang ôm Nha Nha háo hức nhìn ra bên ngoài, mặc cho Tiểu Mai nhiều lần nhắc nhở không nên mở rèm cửa. Chỉ trách từ xưa đến nay Tư Tư chưa bao giờ chứng kiến một cảnh tượng đồ sộ như vậy, cũng chưa từng thấy nhiều người như vậy. Đối với nàng, Lễ hội săn bắn mùa đông chỉ là một chuyến đi chơi mà thôi, nàng đâu biết phía sau nó là tâm kế trùng trùng, mỗi người đều không đơn giản!

Ở rất xa đằng trước, Ca Dương nằm nghiêng trên tháp, chậu hoa trên bàn đung đưa nhè nhẹ, khó nhận ra xe đang chuyển động. Hắn nhắm mắt nhưng không ngủ, Ninh công công khẽ khàng nói gì đó bên tai. Chân mày như kiếm nhếch lên một tí, tổng hòa trên khuôn mặt lạnh nhạt không biểu lộ suy nghĩ vòng vo lắc léo trong đầu.

-Rốt cuộc đây là trò gì?

Ninh công công phập phồng lo lắng, hắn không biết bệ hạ đang hỏi ai, hay là tự hỏi mình.

-Hoàng thượng... vậy... đoàn sứ thần này phải xử lý ra sao? Trong đó có cả Lỗ Lang, bào đệ* của thái tử. Người ta vẫn nói ở đâu có Lỗ Lang ở đó có Lỗ Tông Phi, hắn đi chẳng khác nào Lỗ thái tử đi, nếu để bọn họ chờ trong kinh nửa tháng có phải hơi thất lễ...?

*bào đệ: em cùng cha cùng mẹ

Ca Dương hừ một tiếng:

-Trẫm cho phép nhập cảnh đã là lịch sự lắm rồi, mấy năm nay ải Bình Thành tiêu tốn rất nhiều quân binh và tiền của mới trấn giữ được, ba tháng một trận nhỏ năm tháng một trận lớn. Lỗ Kiến Cao hiện tại tuổi già sức yếu, tuy vẫn làm vua nhưng không nắm thực quyền, con trai hắn mới là Thái tử mà đã ngạo mạn như vậy, tương lai hắn kế vị, trẫm và Lỗ Tông Phi chính là kẻ thù không đội trời chung!

Ninh công công cúi thấp đầu, cảm thấy may mắn là ở Phượng Triều đã có Phượng Thể, bệ hạ nhìn xa trông rộng, sớm thu phục vào tay, nếu không Phượng Vận hoặc Phượng Doãn lên ngôi chẳng khác nào một núi ba hổ, sớm muộn gì cũng cấu xé nhau!

-Bệ hạ, nói vậy chuyện lần này là chủ ý của Lỗ thái tử rồi. Liệu trong sứ đoàn đó có gì mờ ám, nô tài có cần sắp xếp người theo dõi sát sao không?

Ca Dương chầm chậm mở mắt, Ninh công công dỏng tai chờ phân phó, ai dè bệ hạ lại hỏi:

-Tư Tư ở đâu rồi?

Lão Ninh nghẹn họng, hai giây sau mới định thần trả lời:

-Bẩm, Quận chúa đi chậm, vẫn ở ngoài sau...

-Tấp xe vào bên đường!

Ninh công công ngờ ngợ mà không dám hỏi, chỉ răm rắp làm theo. Thế là Long liễn đột ngột chuyển hướng, đỗ lại trên khoảng đất trống toàn cây bụi. Phượng liễn thế chỗ lên trước, Triệu Tiếu Vy nhìn qua cửa sổ mà không hỏi hang gì. Nô tài của Dung phi chạy qua nghe ngóng, cũng bị đuổi về. Rồi sau đó xe của các triều thần và gia quyến đều vượt qua Long liễn, không ai dám thắc mắc. Ca Dương hơi mất kiên nhẫn, gõ ngón tay từng nhịp, không biết rốt cuộc Tư Tư bị tuột lại ở chỗ nào rồi. Mãi đến cuối đoàn xe mới thấy bốn con ngựa đi chậm như rùa, kéo theo cỗ xe có rèm châu lấp lánh. Ở cửa sổ, đầu người và đầu chó đang thò ra.

Tư Tư cười toe toét nhìn núi non trùng điệp và màu xanh bát ngát hai bên đường. Nha Nha thè cái lưỡi dài liếm gió, thở khì khì góp vui. Ca Dương nhíu nhíu chân mày, thay đổi ý định, tự đi xuống bắt nàng. Xung quanh Long liễn vẫn có một nhóm Ngự lâm quân ngoài sáng và ám vệ trong tối vây quanh, ước chừng mấy chục người. Bọn họ đơ như tượng nhìn hoàng đế từ Long liễn nhảy xuống, chui vào xe của Quận chúa rồi hai giây sau ôm ra một người một chó trở lại. Thật ra ngài chỉ ôm Quận chúa mà Quận chúa ôm con Samoyed to đùng, "dây chuyền" cứ vậy biến mất trong Long liễn. Xe rồng lại lăn bánh đuổi theo đoàn người, tăng tốc tối đa.

Ninh công công chui ra ngoài ngồi ở đầu xe, ấm ức ganh tị với Nha Nha. Bên trong đốt sáp hương mùi đồng nội dìu dịu, Ca Dương vẫn lười biếng tựa trên tháp như cũ, chỉ khác là có thêm một nữ nhân trong lòng mà cô gái này cũng ôm một con chó trắng đang kêu gừ gừ phản đối. Sáp hương có chút dược liệu, dễ làm người ta buồn ngủ. Ca Dương lơ đễnh vuốt ve mái tóc đen mượt chọc vào cổ hắn ngưa ngứa. Tư Tư bắt đầu lim dim, áp má lên lòng ngực ấm áp thiu thiu ngủ, bàn tay theo thói quen gãi lông cho Nha Nha. Con chó híp mắt lại, gác cái đầu to bè trên đùi nàng, chiếm gần nửa cái giường của họ, phần đuôi xù đung đưa dưới chân tháp, chốc chốc lại ngúng nguẩy. Sáng nay lên đường sớm, cả ba đều thiếu ngủ!

Ninh công công không tiếng động hạ một góc rèm xuống, che đi khung cảnh thân thiết làm người ta xao xuyến này. Hắn đột nhiên nghe tiếng bệ hạ nói nhỏ:

-Đưa Lỗ Lang đến Bách Thượng đi, để hắn tham gia Lễ hội sắn bắn mùa đông...

Chương 2: Bách Thượng

Bách Thượng không phải cánh rừng lớn nhất Khương La nhưng tuyệt đối là khu rừng độc nhất vô nhị. Tên của nó có từ lâu đời, nghĩa là vùng đất cao có nhiều cây bách. Giống bách là chúa tể của rừng già, từ trắc bách diệp chỉ cao ngang người cho tới cự sam như gã khổng lồ quá cỡ. Bách xanh, bách vàng, liễu sam và tuyết tùng trắng cùng mọc thành quần thể trong khi bách xù thích uốn éo cái thân duyên dáng trên mõm đá đơn độc. Rừng triệu năm, cây nghìn năm, Bách Thượng như một xứ sở cổ kính mang theo hơi thở tổ tiên, khiến người ta choáng ngợp trước vẻ đẹp của nó hoặc sợ hãi trước hình thù của nó.

Ở Bách Thượng cũng có hành cung, gọi là Thần Thụ Cung. Do thường xuyên có lễ hội nên tiểu cung điện này được trùng tu kĩ lưỡng, vẫn mới tinh đồ sộ không thua gì Ôn Chi Sơn vừa xây xong một năm. Sở dĩ gọi là Thần Thụ Cung bởi vì tòa kiến trúc này vây quanh một cây bách xanh cổ thụ, cái cây cao tuổi nhất rừng. Chính điện mượn thân cây làm cột, thuở xưa nó cũng giống như Dụ Kiến cung ở kinh thành, bị phong thủy sư kịch liệt phê bình bởi vì người ta quan niệm "mộc ở giữa nhà là vây khốn". Chữ "mộc" () đóng lại bốn gốc chính là "khốn" ().

Thần Thụ Cung là một tác phẩm điên rồ khác của Thiên Vĩnh đế ngày xưa. Sau khi ông qua đời, các triều đại sau không sử dụng chính điện này nữa, nó bị bỏ hoang và đập phá một phần. Vậy mà đến khi Chu Lạc Ca Dương lên ngôi, lần nữa quay lại Bách Thượng, chỉ bằng một cái liếc mắt hắn đã quyết định ở trong tòa nhà đổ nát đó. Lần này không giống như trước, Ca Dương không cần tìm lại sử sách để hiểu về Thần Thụ Cung, hắn nhớ cả quá trình khi nó từ một bức vẽ trở thành hiện thực.

Năm ấy Khương La có một mùa hạ oi bức khác thường, ruộng đồng khô nứt nẻ, cá giãy chết trên con suối cạn nước, nắng như đổ lửa có thể khiến mọi thứ tự động bốc cháy. Triều thần kiến nghị lập đàn cầu mưa, dân chúng khắp nơi đổ xô đi chùa miếu cúng bái. Phù Dung cả ngày mặc áo mỏng, cầm chiếc quạt nhỏ phẩy phẩy. Nàng sai nô tài dọn bàn ghế ra vườn, ở đó có một cây bách xanh khá lớn, tán rộng che một khoảng sân. Dưới bóng mát với hơi ẩm dễ chịu, nàng ở lì bên ngoài cả ngày, thậm chí đem giường màn ra ngủ trưa. Hạ Hầu Vĩnh Khang cũng học theo nàng, đem hết tấu chương ra gốc cây ngồi đọc. Hai người không nói chuyện nhưng chỉ cần ngẩng đầu là nhìn thấy nhau. Giấc hè bởi vì bách xanh mà mát mẻ hơn nhiều, hắn ôm nàng nằm ở trên giường, gác tay sau đầu nhìn lên bầu trời màu diệp lục, vài tia nắng vàng le lói xuyên kẽ lá. Vĩnh Khang khẽ nghiêng sang hôn lên tóc nàng. Phù Dung bị nóng đẩy đẩy hắn, rầm rì than vãn: "Phải chi đem cái cây này vào nhà thì tốt biết mấy!" Khi đó hắn không nghĩ nhiều, chỉ hợp tình hợp lý mà đáp: "Cổ thụ bộ rễ rất lớn, đâm rất sâu, đào lên làm đứt mạch rễ thì cây không sống được!"

Sau đó họ không bao giờ nhắc tới chuyện này nữa nhưng Vĩnh Khang vẫn thầm để trong lòng. Nếu cây không dời thì nhà dời. Hắn muốn xây một cung điện vây quanh cây đại thụ lớn nhất Bách Thượng. Mỗi lần đi săn hắn thường dừng lại ngắm cái cây ấy thật lâu. Gốc cây to quá khổ, không còn là hình trụ mà giống một vách tường gỗ, chạy dài đến vài mét. Vỏ cây nâu sẫm xù xì với những vết sẹo lồi lõm cho thấy quá khứ của nó có bao phen oanh liệt. Một cành lớn bị cụt tạo ra hình dáng kì quái, nhìn giống như đầu người, không biết vì bão tố đánh gãy hay một nguyên do thần bí nào đó. Có người nói rằng đại thụ đã thành tinh. Vĩnh Khang thì nghĩ nếu cái cây cũng có linh hồn thì chắc hẳng là một linh hồn hiền lành. Đứng dưới tán lá khổng lồ, cảm nhận sự dịu mát của bóng râm, dường như ta nghe thấy tiếng lá xào xạc của khu rừng một triệu năm về trước.

Xây dựng Thần Thụ Cung không phải việc đơn giản. Về căn bản chúng ta không thể làm nhà trên một bộ rễ chằng chịt và lớn dần từng năm, nền móng sẽ bị hỏng và mất đi độ vững chắc. Cũng khó dựng nhà dưới một tán cây cản gió cản nắng, nó sẽ khiến ngôi nhà âm u và ẩm ướt. Bài toán này khiến bang hội kiến trúc thời ấy phải vắt óc suy nghĩ. Hoàng đế muốn chính là trời muốn, họ phải biến không thể thành có thể! Triều đại về sau nào có biết, Thần Thụ Cung là một kiệt tác, tuy Thiên Vĩnh đế là ông vua tiêu pha xa xỉ, vừa hách dịch lại ngang ngược nhưng tất cả những gì hắn để lại đều là vật vô giá.

-Muội thích chỗ này không?

Khi Ca Dương hỏi, hai người đang đứng giữa đại sảnh, ngửa đầu nhìn lên thân cây to quá tầm mắt, phía trên là mái vòm mở rộng, không khí mát lạnh của rừng rậm tràn vào. Tư Tư tròn mắt không thể tin nổi trên đời có một cái cây khủng bố như vậy. Bộ rễ của nó như bầy mãng xà, ngụp lặn trong đất. Tại một chùm rễ lớn từ gốc cây đưa ra, người ta đẽo thành cái bục cao bằng phẳng, đặt lên chiếc ghế vàng chạm ngọc lưu ly. Thần Thụ Cung là hành cung duy nhất có sân triều, bởi vì nó không chỉ là nơi nghỉ mát mà còn là nơi tổ chức chính sự, giống như hoàng cung thứ hai.

-Anh họ, anh mà ngồi ở đó thì giống thần rừng hơn là hoàng đế đấy!

Ca Dương bật cười, dắt Tư Tư tiến đến gốc cây.

-Mời ngồi, thưa nữ thần!

-Muội ngồi được sao? Không mắc tội khi quân chứ?

Hắn ấn vai nàng xuống, còn mình ngồi lên tay vịn. Tư Tư híp mắt nhích tới nhích lui cái mông, cuối cùng tìm một tư thế tự cho là oai phong nhất. Ca Dương gác đầu lên lưng tựa, vén một lọn tóc rối của nàng ra sau vành tai. Hắn đang nghĩ, khi Thần Thụ Cung hoàn thành thì Phù Dung đã chết, nàng ấy chưa được nhận món quà bất ngờ này.

-Trong nhà có cái cây to, rất mát đúng không?

-Dạ đúng! Ngủ trưa ở đây sẽ không sợ nóng... chỗ này tốt thật đấy!

-Sau này Thần Thụ Cung tặng cho muội, muốn đến lúc nào cũng được.

Tư Tư không cảm thấy hắn đang nghiêm túc, nàng nhếch miệng cười hùa theo:

-Vậy muội sẽ ngồi ở đây, làm nữ chúa, rồi nạp vào một trăm nam sủng!

Ca Dương gõ nhẹ vào chiếc mũi nhỏ bướng bỉnh.

-Nữ chúa có thể, nam sủng thì không! Đi ăn cơm nào!

Tư Tư lại ở trong một gian phòng thuộc chính điện trong khi hoàng hậu và Dung phi được an bài trong tiểu cung bên ngoài. Trước sự sủng ái của bệ hạ đối với Quận chúa, người ta chỉ biết lắc đầu nhìn quen. Hội săn bắn mở màn vào ngày thứ hai, mọi người có một ngày để dắt ngựa làm quen địa hình các khu phụ cận. Ở Bách Thượng, gấu xám là loài hung hãn và khó bắt nhất. Những người tham gia hội săn đều ao ước gặp được một con, chỉ cần cái đầu gấu cũng quý giá hơn tất cả hươu nai heo rừng.

Buổi sáng sau khi ăn uống no đủ, mọi người được bệ hạ ban rượu mật đào, nghe ngài nói vài câu động viên đại khái là chú ý an toàn, trở về trước giờ Ngọ. Quan võ bừng bừng khí thế, quan văn lúi húi xắn ống quần. Công tử nhà quan căng tràn sức trẻ sớm đã đánh ngựa chạy trước. Vài tiểu thư cá biệt cũng thay y phục bó sát, động tác thành thục giục ngựa đuổi theo. Vị tướng quân nào đó kiêu ngạo nói với đồng liêu: "Nữ nhi của ta đấy!"

Ca Dương cười nhạt nhìn từng tốp biến mất vào rừng sâu, mấy ngày sắp tới Bách Thượng sẽ không được yên tĩnh. Ninh công công cúi đầu hỏi hắn:

-Bệ hạ, ngài muốn dùng Tiểu Hắc hay Tiểu Bạch?

Ca Dương thở dài.

-Trẫm già rồi, không bon chen với lớp trẻ làm gì...

Ninh công công ôm phất trần thầm nghĩ, ngài mà già thì mấy lão kia đã thành tinh hết! Hắn còn tính khuyên bệ hạ nên ra ngoài thư giãn, hiếm có dịp thảnh thơi thế này, ai ngờ Ca Dương nhíu mày chợt hỏi:

-Vừa chạy đi là Tư Tư đúng không?

Ninh công công nhìn theo mắt hoàng thượng, thấy cái bóng đen khuất vào rặng cây, không khỏi toát mồ hôi đáp:

-Bẩm... bẩm... hình như là Quận chúa...

-Dẫn Tiểu Bạch lại đây!

Trong này hội săn đã bắt đầu, giữa khu rừng tĩnh lặng thỉnh thoảng vang lên tiếng ngựa hí, tiếng cung tên xé gió, tiếng gào của dã thú,... thiên nhiên thật sự bị quấy rầy. Bên ngoài bìa rừng, một đoàn ngựa xe thong dong đến muộn. Những con tuấn mã to khỏe lông đen bóng và những người hộ vệ không khác gì chiến mã. Cách ăn mặc của họ tương đối giống dân Khương La, chỉ khác ở những họa tiết và chất liệu. Đoàn người ngoại quốc mặc dù bước đi ung dung nhưng vẫn âm thầm đề cao cảnh giác. Vùng đất dưới chân không thuộc về họ nữa, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp hiểm nguy.

Rèm xe bị nâng lên, một lão già mái tóc muối tiêu rướn cổ nói với một người cưỡi ngựa ở gần đấy:

-Thập thất điện hạ, ngài vào xe ngồi đi! Cứ thế này vi thần sẽ đau tim chết mất...!

Người cưỡi ngựa không thèm quay đầu, chỉ thấy một dáng cao vai rộng. Gió thổi áo choàng bay phần phật, làm những tua rua ngọc trai chạm vào nhau lách cách. Khuôn mặt hắn giấu sau nón áo, giọng nói là một cung âm đầy từ tính:

-Dừng tưởng gia không biết ông có bệnh cũ, nếu chết thì bởi vì ông kém, không liên quan đến gia!

Lão già ngồi trong xe mếu máo:

-Điện hạ à... nhưng mà chúng ta đang ở Khương La đấy! An toàn vẫn là trên hết mà!

-Hừ, đã biết không phải nơi tốt mà hắn còn bắt gia đi! Từ nhỏ tới lớn gia bị đè đầu cưỡi cổ đã đủ rồi! Lần này còn ép gia cưới vợ. Ai biết cái cô Quận chúa đó là hà mã hay thú ăn kiến?

Lão già thở phì phò, không thể chịu được mà nhắc nhở:

-Điện hạ của tôi ơi, ngài đừng có mở miệng ra là "gia" này với "gia" kia! Không khéo người ta "oánh" giá nhân phẩm của ngài kém!

-Từ khi nào ông tinh tường như vậy, cũng biết nhân phẩm gia kém?

Ở Đại Thế, nam nhân đi kỹ viện đều tự xưng là "gia", gái làng chơi cũng gọi họ là "gia". Chữ này thay cho tên, đôi khi sẽ dẫn tới mấy chuyện dở khóc dở cười. Chẳng hạn có lần hắn vừa ý một cơ thiếp, tưởng sẽ có một đêm vui vẻ, ai dè nàng ta cứ rên rỉ "gia gia... gia gia...". Thế là hắn bực mình đá cửa bỏ đi.

-Ta không phải ông nội cô!

*gia gia: ông nội

Đoàn xe tiến sát bìa rừng, Ngự lâm quân gươm giáo chỉnh tề chặn ngựa của họ lại. Vì vấn đề an toàn, ba mặt của Bách Thượng đã được canh phòng nghiêm ngặt, còn mặt hướng Tây thì dựa núi cao, vách tường tự nhiên này đã phần nào kiên cố bất khả xâm phạm. Bởi vì cả đầu não triều đình đều đang ở đây, một chút sơ suất cũng không thể.

Bọn họ buộc phải giao nộp mọi vũ khí, để thị vệ kiểm tra hành lý, còn đòi khám xét người. Lão già là Nguyên thái phó, chức này ở Đại Thế là bậc tam chính phẩm không hề thấp, tất nhiên lão không vui lòng để tay chân phàm phu chạm vào người mình. Trái lại Thập thất hoàng tử hết sức thờ ơ xem nhẹ, đã đến tận đây rồi thì mấy thứ ám khí gì đó có thể bảo vệ mạng sống sao? Hắn vô tư giơ rộng cánh tay cho họ khám xét, còn có lòng nhắc nhở một câu:

-Cẩn thận, cẩn thận... chỗ nào đụng được chứ đừng đụng của quý của gia!

Đã biết là miệng Lỗ Lang xưa nay không hề sạch! Trải qua mấy khâu rắc rối phiền phức, cuối cùng họ cũng được tiến vào Bách Thượng. Nguyên Kế Sanh giật giật chòm râu dê, khinh thường quay đầu nhìn đám người phía sau, nói với Lỗ Lang:

-Đạo hiếu khách của Khương La đây sao? Thật là thất lễ quá mức!

Thập thất hoàng tử phủi bụi trên áo choàng, cười như không cười.

-Gia không cần họ hiếu khách, nhưng mà vừa rồi đúng là quá sức cẩn thận... Xem ra Thái Minh đế cũng đề phòng lắm, người yếu tim sao làm được chuyện lớn?

Nguyên thái phó gật đầu đồng ý, hạ giọng cực thấp nói:

-Điện hạ nói phải. Chuyến này ngoài cầu thân còn phải thăm dò một chút Chu Lạc Ca Dương kia... đúng rồi, Thái tử còn dặn dò liên lạc với Triệu Phi Liên, bảo nàng ta lấy cho được Ngọc hồi về cứu mạng Thủy Tức Chân Nhân!

Lỗ Lang khịt mũi nhổ một bãi nước bọt.

-Mẹ kiếp! Hắn còn sai cái gì nữa? Tại sao lại đổ hết lên đầu gia? Lẽ ra giờ này gia đang vui vẻ với mỹ nhân, thế mà phải chạy cả đêm đến cái nơi rừng rú này, còn chưa biết Quận chúa là yêu quái phương nào. Gia nói trước, cô ta mà xấu quá là gia không lấy đâu, có đánh chết cũng không lấy đâu!!!

Nguyên thái phó chảy mồ hôi ròng ròng, kêu trời không thấu kêu đất không nghe. Lão sớm biết vị điện hạ này không phải hạng vừa, Thái tử giao nhiệm vụ giám sát và hỗ trợ, đối phương không chịu hợp tác thì lão phải làm sao? Chẳng nhìn ra Thái tử và Thập thất hoàng tử là anh em chỗ nào, hai người đều từ bụng Hoàng hậu chui ra nhưng khác biệt quá lớn. Thái tử là quốc chủ tương lai, không chỉ đầu óc hơn người mà tâm kế càng sâu, làm việc gì cũng nghiêm túc thỏa đáng. Trong khi Thập thất điện hạ suốt ngày chỉ thích rong chơi, tất cả chỗ đỏ đen ở kinh thành đều quen mặt hắn cả. Nguyên thái phó không hiểu nổi vì sao Thái tử vẫn không la mắng dạy dỗ em trai, vẫn thương yêu hắn hết mực, muốn gì được nấy...

Hàng năm Lỗ Tông Phi đều giao vài việc không lớn không nhỏ cho hắn làm. Sau ít tháng thì báo cáo lên hoàng thượng kết quả tốt đẹp. Thật ra triều thần ai cũng hiểu, "tốt đẹp" này là nhờ vào những người tài Thái tử cố ý sắp xếp đi theo Thập thất hoàng tử, cuối cùng công trạng đều thuộc về hoàng tử cả! Họ chỉ cúi đầu không dám tố giác, tự hứa trong lòng hoàng đế có thể đắc tội nhưng mà tiểu điện hạ thì không được đâu!

Ngựa xe theo con đường mòn cắm cờ đỏ làm dấu mà tìm tới Thần Thụ hành cung. Ninh công công sớm nhận được tin đi ra nghênh đón. Đoàn khách này được sắp xếp ở trong một tiểu viện sạch đẹp, với cơ sở vật chất trong hành cung thì viện này rất khá rồi, thế mà Nguyên thái phó cứ chê đông chê tây, chỗ nào cũng không bằng Đại Thế. Ninh công công cười hề hề khách khí, không có biểu hiện bất mãn gì. Hiện tại cả hành cung vắng vẻ, chỉ có nô tài, cung nữ và binh lính. Hỏi ra mới biết hôm nay là ngày đầu của hội săn, mọi người đã vào rừng từ sớm. Lỗ Lang nghe Ninh công công giới thiệu về Bách Thượng, cảm thấy rừng bách này quá độc, không thể không đi xem một chút.

Mặc cho Nguyên thái phó nói hết nước miếng, Lỗ Lang vẫn dắt ngựa chạy ra ngoài. Hộ vệ đi sát theo hắn một tấc không rời. Dĩ nhiên nếu Lỗ Tông Phi đẩy em trai vào hang cọp thì hắn đã tính sẵn đường lui, tạm thời không phải lo lắng chuyện an nguy.

Bách Thượng rừng cũng như tên, khắp nơi là chủng loại họ bách. Giống cây hạt trần này ở Đại Thế cũng có nhưng cả một khu rừng bách và bách thì rất hiếm lạ. Lỗ Lang cho ngựa đi chậm, dành ít phút trầm ngâm. Hắn đã nhìn kĩ Thần Thụ Cung lúc nãy, cái cây khổng lồ như mái nhà xanh, che rợp kiến trúc xinh đẹp hài hòa vô cùng, tựa như đại thụ vì cung điện này mà mọc. Lỗ Lang đã đến nhiều nơi, cũng từng mon men ở vài châu trì biên giới của Khương La nhưng hắn chưa có dịp được đến Đế đô hay những vùng nằm sâu trong nội địa. Hiện tại Khương La có hơi khác so với tưởng tượng của hắn...

Đi càng xa, những cái cây càng lớn, chúng là rừng thứ sinh hoặc nguyên sinh, khắp nơi mang hơi thở nguyên thủy vừa huyền bí lại nguy hiểm. Những cây cự sam giống cái trụ trời, không biết ngọn cây có chạm đến mây không? Lỗ Lang rẽ lá mà đi, gót ngựa giẫm lên nền dương xỉ xanh rì. Thình lình lúc đó có cái bóng trắng xẹt qua, Lỗ Lang nheo mắt nhìn kĩ, hóa ra là thỏ! Hắn nhếch môi cười, tay sờ vào thanh cung đeo ở bên hông. Cung tên này do Ninh công công đưa, tuy không tốt mấy nhưng dây cước rất chắc. Sở trường của Lỗ Lang không phải cung thủ, đối với hắn cung tốt cũng vô ích.

Lỗ Lang giơ tay lấy mũi tên đồng sau lưng, gài vào thân cung nhắm ngay con thỏ xấu số. Lúc hắn chuẩn bị nhả tên không ngờ có một mũi tên khác từ đâu bay tới, không trúng con thỏ nhưng dọa nó chạy mất. Lỗ Lang hạ tay chửi một tiếng. Mũi tên kia cắm vào thân cây, phất phơ một sợi lông hồng, loại mũi tên này cũng dùng để săn thú sao? Tiếng gót ngựa xa xa vọng tới, trước khi thấy người đã nghe tiếng nói.

-Muội chậm thôi... chậm thôi... ngồi không vững mà còn chạy!

-Tứ ca phiền quá, đừng theo muội nữa!

-Nè nè, vậy cái tên này thì sao? Sao chỉ có ta phiền mà không phải hắn?

-Tứ thiếu gia, bởi vì tại hạ biết giữ im lặng!

-Hừ, ngươi đang xỏ xiên bổn công tử lắm lời?

-Không dám...

-Đúng thế!

Ba con ngựa đi tới trước mặt Lỗ Lang. Hắn thấy một thiếu nữ mặt hoa mày ngọc cưỡi bạch mã ở trước, theo sau là con ngựa đen nhìn qua rất tốt, con ngựa nâu giá trị không thấp. Đám người này có lẽ là hoàng thân quốc thích... Lỗ Lang chú ý đến cô gái đi trước. Mỹ nhân đối với hắn cũng như hoa lá trên cành, nhiều vô số kể, cực phẩm cũng thành bình thường. Nhưng mà thiếu nữ này hơi đặc biệt, nàng không phải người đẹp nhất nhưng chính là người hợp gu thẩm mỹ của hắn nhất, cứ như trong mộng chui ra, đường nét hài hòa hắn thầm phác thảo trong lòng... Nàng giơ tay gạt tán lá, bước vào vùng sáng do nắng sớm rọi xuống, giống tiên nga hạ phàm!

Tư Tư, Tịch Tề và Hựu Trát thấy Lỗ Lang, ngẩn ra không biết kẻ này là ai. Sáng sớm hai chàng trai hẹn nhau đi săn, không ngờ nhìn thấy Quận chúa leo lên con ngựa, chẳng ai tháp tùng đã xông vào rừng. Họ trợn mắt không biết nàng kiếm đâu ra bộ đồ bó sát... sát... sát kia... Cả giày ống cao nữa! Bệ hạ nhìn thấy mà không lôi nàng về treo lên ngọn cây mới lạ! Hai người ăn ý lập tức phóng ngựa đuổi theo, thế là bám sát cho tới bây giờ.

Lỗ Lang nhìn cục diện một nữ hai nam, híp đôi mắt cáo, lên tiếng trước:

-Các ngươi làm sổng con mồi của gia rồi!

Chu Lạc Tịch Tề nhíu mày nhìn hắn, rồi nhìn năm hộ vệ phía sau hắn, cảnh giác khiển ngựa tiến lên trước che chắn cho em gái.

-Ngươi là ai? Ăn mặc không giống chúng ta, thấy Quận chúa còn không biết chào.

Lỗ Lang nhìn xuyên qua Tịch Tề, ánh mắt chạm vào đôi nhãn tròng long lanh của cô gái. Hắn tự hỏi ở Khương La có bao nhiêu "Quận chúa", nếu thật là nàng thì bọn họ có duyên quá chứ, vừa đến đã gặp!

-Cái tên này! Mắt chó nhìn đi đâu đó?

Tịch Tề xắn tay áo dong dỏng mắng, hắn chịu không nổi cái cách gã này nhìn em gái mình, giống ruồi nhìn hũ mật! Lỗ Lang gãi gãi mũi, tiểu thư khuê các thật là phiền, xưa nay hắn rất ghét mấy cô nàng đụng đến là đỏ mặt, mở miệng chỉ nói lễ nghĩa rất giả dối. Hắn vẫn thích nữ nhân ở thanh lâu hơn, trực tiếp thẳng thắn, tiền trao cháo múc! Cũng vì thế Lỗ Lang không ưng mấy đám mà Thái tử giới thiệu. Một cô cứ tránh hắn như tránh tà, vừa nắm tay một cái đã lăn ra ngất, một người khác mặt đỏ như đít khỉ, làm như bị hắn nhìn cũng to bụng vậy! Có cô khá hơn chút thì ra vẻ thanh cao lạnh nhạt, cảnh giới cao như vậy đi tu cho rồi! Không biết Quận chúa này thuộc loại nào trong những loại trên, nàng được nuôi dưỡng trong hoàng gia, tính tình có lẽ kiêu ngạo tự phụ...

Trong khi ba chàng trai đều giữ im lặng đánh giá lẫn nhau thì Tư Tư chỉ quan tâm đến mũi tên của mình. Nàng nhảy xuống ngựa, chạy tới gốc cây. Cái lông hồng đung đưa, mũi nhọn bằng đồng cắm vào vỏ cây. Tư Tư dùng sức giật ra, không được thì đạp một chân lên thân cây kéo ra. Tịch Tề và Hựu Trát cùng hô một tiếng "Cẩn thận!", thế là nàng và mũi tên trong tay té bịch xuống đất, mông đau ê ẩm. Tư Tư lật đật bò dậy, lá khô dính trên tóc, mắt nhìn chăm chăm cái lỗ trên gốc cây như có thâm thù đại hận. Lỗ Lang cảm thấy thú vị, trông cô gái này giống con búp bê bằng rơm mà ngày bé hắn ăn cướp được từ tay nhị tỷ.

-Cô là Minh Châu quận chúa?

Tư Tư phủi cỏ trên người, ngẩng đầu khó hiểu nhìn hắn.

-Ngươi là ai?

-Lỗ Lang!

-"Lang"? Khoai lang?

Lỗ Lang xám mặt, buồn bực sửa lại:

-Không phải, "lang" nghĩa là tốt đẹp!

-Ồ?

Tư Tư không có thói quen nói chuyện với người lạ, mặc kệ củ khoai này có ăn được không, nàng muốn đi săn cơ! Cứ vậy trèo lên ngựa, Tư Tư chọn bừa một hướng đi tiếp. Tịch Tề và Hựu Trát phải đuổi theo, cho dù có trăm suy nghĩ về Lỗ Lang cũng không biểu hiện gì. Nếu họ nhớ không lầm, Thập thất hoàng tử của Đại Thế tên là Lỗ Lang.

Lỗ Lang nhìn ba người quay đít bỏ đi, thế là xong rồi? Không phải chứ? Đây là phép xã giao gì vậy? Hắn khịt mũi quay đầu hỏi một hộ vệ:

-Này, ngươi xem sức hút của gia có phải không hợp khí hậu nên giảm đi chút ít không?

Hộ vệ nghiêm chỉnh quan sát:

-Bẩm điện hạ,... sức hút là gì...?

***

Chương 3: Sóng ngầm

Ca Dương đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống Bách Thượng xanh ngát không thấy chân trời. Gió rừng có mùi vị đặc trưng của gỗ mục và hơi ẩm. Lúc này trông hắn không giống quân vương mà tựa một lãnh tướng. Ca Dương khẽ vuốt bờm ngựa bị gió thổi loạn, Tiểu Bạch lắc lắc đầu hưởng thụ sự thân mật này. Nó không phải ngựa thuần chủng giá trị liên thành mà chỉ là một con ngựa lai giữa Ô Tuyết với Hãn Huyết Mã. Thông thường ngựa lai tạp không được yêu thích, chúng dễ bị các khiếm khuyết về tốc độ và sức dẻo dai. Tuy Ô Tuyết là giống ngựa hạng nhất, Hãn Huyết Mã xếp hạng nhì nhưng con Tiểu Bạch này không được hạng một rưỡi mà chính thức bị đá ra khỏi bảng ngựa quý. Tiểu Bạch có lông màu xám bụi, nhìn bẩn bẩn. Đây là kết quả của mối tình ngang trái giữa con Ô Tuyết lông trắng và Hãn Huyết lông đen. Tiểu Bạch xuất thân từ trại ngựa triều đình, lai lịch của nó là một câu chuyện ly kỳ mà sau nhiều năm được truyền miệng đã có mấy trăm phiên bản.

Trại ngựa nuôi gần một ngàn con tuấn mã, chia thành hai khu vực dành cho quân đội và hoàng gia. Ngựa ở đây được phân chuồng, đánh số, tắm rửa, cho ăn và vận động điều độ theo lịch huấn luyện. Ô Tuyết cùng Hãn Huyết Mã là hai giống ngựa quý nhất. Ô Tuyết có ngoại hình vương giả, thân trắng chân đen, giống như mang bốn chiếc ủng đắt tiền. Ô Tuyết cái thường đỏm dáng, bờm ngắn chân nhỏ, được các tiểu thư ưa chuộng, thích hợp để dạo chơi và khoe khoang trên đường. Trong khi đó Ô Tuyết đực sinh ra đều là chiến mã, bốn chân to khỏe, tính khí ngoan cường, luôn được nuôi nhốt trong khu chuồng thượng hạng. Hãn Huyết Mã kém hơn một tí, nó không được ưa thích vì bề ngoài xấu xí, cổ ngắn chân bè, lông đen hung. Loài ngựa này không nhanh bằng Ô Tuyết nhưng lại bền sức. Đây là giống ngựa phổ biến trong quân đội vì nó chịu được gian khổ, rất trung thành đồng thời sức sống dẻo dai. Có những con cả đời bị thương hàng chục lần mà vẫn nghênh ngang ra trận.

Mẹ của Tiểu Bạch là một con Ô Tuyết thuần chủng trong khi cha nó là giống Hãn Huyết Mã. Ô Tuyết mẹ sinh ra và lớn lên trong khu trại hoàng gia, là một trong số những con ngựa tốt được lựa chọn để sinh sản. Hãn Huyết cha xuất thân từ khu ngựa quân đội, sau một trận đánh nó bị thương mạn sườn, phải ở lại điều dưỡng. Hai con ngựa khác loài gặp nhau ở bãi chạy tập trung, sau này nhiều người vẫn gật đầu bảo rằng đó gọi là "nhất kiến chung tình", thì ra ngựa cũng có tình!

Trại trưởng còn nhớ rõ, con Hãn Huyết Mã thuộc về một vị phó tướng họ Phan, còn khá trẻ, lập được vài chiến công nên cấp trên coi trọng. Sau khi ngựa của hắn bị thương được đem về trại chăm sóc cẩn thận trong ba tháng. Trại ngựa phân chuồng nghiêm ngặt, không để chúng giao phối lung tung làm hỏng huyết thống đời sau. Ngựa thuần chủng được nhốt thành đôi, sau khi ngựa cái mang thai mới tách riêng ra. Ghép ngựa khác giống là điều tối kị, nếu ai lầm lẫn sẽ bị phạt nặng.

Hãn Huyết cha là một con ngựa tinh quái khôn ranh. Ban đêm nó đá bật khóa cửa, giật đứt dây cương, lẻn vào chuồng Ô Tuyết mẹ. Khi người ta phát hiện thì lập tức đổi chuồng, Hãn Huyết cha bị chốt đến một chỗ rất xa, cửa khóa thêm hai lớp. Chẳng biết con ngựa này thành tinh hay sao mà vẫn đá hỏng rào chắn, thoát ra thêm mấy lần nữa. Lúc trại trưởng tức giận sai người đóng đinh bốn phía thì đã muộn, con Ô Tuyết quý giá đã mang thai. Thai kì của ngựa là mười một tháng, tuy có tiếc nuối nhưng người ta vẫn phải chăm sóc Ô Tuyết mẹ cẩn thận, đây là lần đầu nó mang thai. Lúc này Phan tướng quân được lệnh điều động xuống phía Nam, đánh dẹp một bang sơn tặc. Hãn Huyết cha theo chủ ra trận, Phan tướng quân bị tập kích trọng thương, ngất trên lưng ngựa. Con Hãn Huyết Mã kiên cường chở chủ chạy về doanh trai, rồi do mất máu và kiệt sức mà chết. Khi đó ở kinh thành, Ô Tuyết mẹ sinh ra Tiểu Bạch. Phan tướng quân rất thương xót người bạn trung thành của mình, biết chuyện về Tiểu Bạch nên nhận nuôi nó, tránh cho người ta xem thường, bán nó đi làm súc vật kéo xe. Tiểu Bạch có màu lông tạp sắc, lúc nào trông cũng bẩn dù tắm chải hàng ngày. Nó còn là một con ngựa lì lợm hiếm thấy, biết bao thợ đóng móng ngựa bị đá sưng đầu, phải tốn nhiều người ra sức đè nó lại nhưng vẫn không xong.

Phan Thế Anh là bằng hữu của Đô Thư Doanh, trong một lần than phiền về con ngựa của mình đã khiến Đô Thư Doanh có ấn tượng sâu. Hắn lại tình cờ nhắc tới với bệ hạ, rồi Ngô Hà Huy lắm chuyện thêm mắm thêm muối, kể thành một tình sử ngựa lâm li bi đát. Ca Dương nhướng chân mày, chợt nhớ ra mình còn thiếu một con tuấn mã. Chuyện này kể cũng lạ, Phan Thế Anh dắt nó đến cho hoàng thượng nhìn, chẳng biết bệ hạ thì thầm gì vào tai con ngựa mà khiến nó chịu đứng yên cho thợ đóng móng. Bốn cái móng sắc đóng đinh kiên cố, từ đó Tiểu Bạch đi theo hoàng thượng.

Tính tới nay cũng đã bốn năm, bây giờ Tiểu Bạch là một con ngựa thành thục nhanh nhẹn, sức chạy không thua gì Hãn Huyết Mã, tốc độ sánh ngang với Ô Tuyết. Nó là loài tạp chủng tập hợp đủ ưu thế của cha và mẹ. Ca Dương giật nhẹ dây cương, Tiểu Bạch luôn ăn ý nhịp bước. Lúc này hai chủ tớ đứng trên đỉnh đồi, híp mắt cho gió lùa qua bờm phất phơ, đuôi tóc hắn bay bay theo áo choàng thêu rồng.

Phong thình lình nhảy xuống từ ngọn cây, ôm quyền báo cáo:

-Bẩm hoàng thượng, nhóm người của Ngô thượng thư ở phía sau rất gần. Thánh Kim vương và Thiết Bình vương đang hợp sức săn một con hươu đực. Tề vương đi cùng Cận vương, nói là muốn bắt gấu xám. Thần phát hiện Sử Hựu Trát và Tứ công tử đang đi cùng Quận chúa... còn có...

Phong dừng lại, cân nhắc rồi nói tiếp:

-Có một nhóm nam nhân lạ mặt theo sau, thuộc hạ đoán là Lỗ Lang và hộ vệ!

Ca Dương híp mắt nghĩ, tên Lỗ Lang này thật là tùy hứng, trên đất Khương La mà chút khách sáo cơ bản cũng không có. Hắn gặp Tư Tư như thế nào, tại sao lại bám đuôi rồi? Tề vương và Cận vương đi săn gấu, hai người họ trở nên thân thiết từ bao giờ vậy? Thánh Kim với Thiết Bình vương lâu ngày gặp lại tay bắt mặt mừng, dường như ai cũng tìm được tri kỷ. Bốn vương gia đã ở đây, chỉ thiếu Hòa An vương, lâu lắm rồi hoàng thất chưa tề tựu như vậy... Bữa tiệc này là tiệc sum vầy hay Hồng Môn Yến? Rất nhiều ý niệm xẹt qua đầu nhưng Ca Dương không biểu lộ ra, hắn giao cung tên cho thuộc hạ, kéo dây cương nói với Phong.

-Dẫn đường!

Tư Tư đang ở cánh rừng phía Nam. Nàng đi tới đâu là mũi tên vương vãi tới đó, không cần đoán cũng biết chưa săn được gì. Tịch Tề và Hựu Trát chỉ làm hộ hoa sứ giả trong khi Lỗ Lang chẳng tốt như thế, hắn liên tục chế giễu trình độ gà mờ, chờ Tư Tư dọa cho con thú chạy thật xa mới trình diễn kĩ xảo của mình. Lỗ Lang hếch mũi lên trời nhưng không nhận được vẻ mặt hâm mộ như dự tính. Nàng chỉ tức giận liếc xéo hắn, hừ một tiếng khinh thường rồi quay ngựa bỏ đi. Tịch Tề và Hựu Trát cũng không ưa gì tên phá đám kia. Mặc cho ba người lạnh nhạt cỡ nào, Lỗ Lang vẫn xem như không thấy, quyết chí làm con đỉa. Tư Tư càng chơi càng hăng, từ trình độ nắm hụt dây đã bắt đầu điều khiển mũi tên bay đúng hướng. Nàng chơi hết ống tên của mình thì lấy luôn ống tên của hai người kia. Chỉ khổ cho thị vệ buổi tối phải vào rừng nhặt tên.

-Còn của ta đây!

Lần này Lỗ Lang diễn vai người tốt, hiến tặng ống tên của mình. Hắn thừa nhận việc trêu chọc cô gái này vui hơn nhổ râu dê của Nguyên thái phó. Tư Tư nhìn ba ống tên trống rỗng, lại nhìn ống tên còn hơn phân nửa của Lỗ Lang.

-Không cần!

Nàng ương ngạnh từ chối, nghĩ một lát bèn trèo xuống ngựa.

-Tự ta nhặt còn hơn!

Nàng tới chỗ gốc cây, vạch cỏ tìm tên rơi trên đất. Tịch Tề và Hựu Trát thở dài, đành phải giúp một tay. Bọn họ cũng không ủng hộ Quận chúa nhận đồ của người lạ. Lỗ Lang làm mặt giận gãi mũi, lần nữa khẳng định khí hậu vùng này không thích hợp với mình, mị lực giảm mất không ít.

Hội săn năm năm tổ chức một lần, thú rừng tự nhiên ở Bách Thượng dĩ nhiên không đáp ứng đủ nhu cầu. Người ta phải bắt sống nhiều động vật nhỏ và thú lớn ở nơi khác về thả. Công tác này tròn trĩnh một năm. May mắn là Bách Thượng trù phú bạt ngàn, sau mỗi lần bị con người hoành hành và tàn sát sẽ vực dậy rất nhanh. Tựa như những bụi dương xỉ bé nhỏ này, ban ngày bị gót ngựa giẫm đạp, ban đêm cây non trỗi dậy thay thế cây bị đổ, đến sáng đã xanh rì như cũ. Rừng già có một sức mạnh phi thường như vậy!

Tư Tư nhặt được một nắm tên, cảm thấy hài lòng quay trở về. Không ngờ mặt đất lồi lõm bị lá cây che mất, nàng bước hụt, hiên ngang sái cổ chân! Ngay khi nghe thấy tiếng kêu, Tịch Tề, Hựu Trát, cả Lỗ Lang cũng vội vàng chạy tới.

-Đã nói muội phải cẩn thận rồi mà! Đi đứng thế nào để trật giò rồi?

-Quận chúa đứng dậy được không? Đưa tay ta kéo nàng lên...

Sử Hựu Trát chuẩn bị ôm lấy Tư Tư thì Tịch Tề giơ tay ngăn cản

-Này, này, này... Ở đâu tới phiên cậu hả? Anh trai của nàng còn ở đây mà dám thừa nước đực thả câu rồi!

Hắn đánh bật Hựu Trát ra, xắn tay áo nói với Tư Tư:

-Lại đây, tứ ca ôm muội về!

Tư Tư cảm thấy một chân này không ảnh hưởng đại cuộc, nàng vẫn cưỡi ngựa được mà. Tư Tư lắc đầu, chống tay xuống đất, dùng chân trái đứng dậy.

-Huynh dẫn ngựa tới cho muội được rồi...

"Không được động!" Ba nam nhân đồng thanh lên tiếng, có một sự ăn ý bất ngờ. Xét thấy Tịch Tề là anh trai, hắn ôm muội muội trở về là hợp tình hợp lý nhất. Sử Hựu Trát cũng không đôi co nữa, biết thân tránh qua một bên. Không ngờ hắn vừa tránh ra thì một cái bóng nhanh nhẹn len vào, bàn tay giơ tới đoạt được Tư Tư. Hai người trơ mắt nhìn tên vô lại ngông cuồng ôm lấy Quận chúa, động tác thành thục tự nhiên cứ như ôm vợ nhà hắn! Tịch Tề giật mình, mất hai giây mới phản ứng, la toáng lên:

-Buông móng heo của ngươi ra! Trả muội muội cho ta!

Hựu Trát tỉnh táo hơn, tay nắm lấy chuôi kiếm đeo bên hông.

-Phi lễ đương kim Quận chúa là tội nặng, ngươi biết điều thì lập tức buông ra!

Phản ứng của Lỗ Lang chính là hất cầm ra lệnh năm hộ vệ. Bọn họ có kinh nghiệm dồi dào, cảnh tượng Thập thất hoàng tử bắt cóc con gái nhà lành nhìn mãi cũng thành quen. Động tác của họ râm rấp, đứng thành một hàng che chắn, dù ở Đại Thế hay Khương La cũng không ngại cường địch. Lỗ Lang khoái trá nhìn hai tên mặt trắng, gầy tong teo kia. Gu thẩm mỹ ở nước họ là phải cao to, da ngâm đen, khỏe mạnh chính là xinh đẹp! Lỗ Lang khinh thường phần lớn đàn ông Khương La. Lúc này Tư Tư bị xoay choáng váng dần dần tỉnh lại. Nàng ngửi thấy mùi hương xa lạ, hoảng hốt vùng vẫy trong gọng kìm cứng như sắt.

-Buông ta ra! Đồ vô lại! Thả bổn Quận chúa ra! Ta đánh chết cả họ nhà ngươi!

Đùa à, nàng là Minh Châu của hoàng triều đấy! Sao có thể để người ta khi dễ được! Lỗ Lang cúi đầu nhìn cô gái vì giận mà hai má ửng đỏ, mắt long lanh như con vật nhỏ đang tố cáo sói ác. Nắm tay nàng không đủ lực, đánh vào ngực hắn như gãi ngứa, Lỗ Lang thấy đáy lòng nhộn nhạo.

-Tiểu mỹ nhân, chân bị đau, gia bế nàng trở về!

Tư Tư thẹn đỏ mặt, cánh tay to với khối cơ chắc nịch vòng dưới mông nàng, ép sát thân thể mảnh mai vào lòng ngực nóng hổi. Ngoài cha và hoàng thượng ra chưa có ai ôm nàng như vậy. Tư Tư gấp muốn khóc, thở hổn hển. Nàng càng chống cự thì Lỗ Lang càng khoái trá. Hắn mặc kệ hộ vệ và Hựu Trát đã tuốt gươm ra rồi, quay người chuẩn bị lên ngựa. Vừa khéo lúc ấy có tiếng xé gió vùn vụt, Lỗ Lang nhạy bén lùi hai bước, mặt đất nơi hắn vừa đứng ghim đầy mũi tên sắt, đuôi đồng đỏ. Đây là vũ khí kí hiệu của Ngự lâm quân. Lỗ Lang điềm tĩnh ngẩng đầu lên, rặng cây rung động rồi một nhóm kị binh hiện ra, sát khí chưa thu lại, nhìn nhằm nhằm về phía này. Lỗ Lang không thèm bận tâm tới đám người lúc nào cũng vũ trang tận răng kia, hắn chú ý tới nam nhân cưỡi con ngựa xám, áo choàng bay trong gió, con rồng thêu chỉ vàng cứ như sắp phóng lên trời.

Hắn nói thầm trong miệng: "Thái Minh đế... Chu Lạc Ca Dương..."

Thì ra hoàng đế Khương La trông như vậy, trẻ như vậy. Hắn nhớ tới phụ hoàng quanh năm đau ốm, thảo nào Bát ca nói thời đại của ông nên kết thúc. Lỗ Lang không lo không sợ, trực tiếp nhìn vào Chu Lạc Ca Dương, kình địch của hoành huynh là đây, hắn có ánh mắt thông tuệ, cái nhìn vừa uy vừa lạnh cứ như thần thánh nhìn xuống cõi vong linh. Tuổi trẻ vẫn còn ngự trị trên khuôn mặt góc cạnh của người đàn ông đó, trán rộng cằm vuông, mũi thẳng và mày kiếm đen đậm. Ở Đại Thế người như vậy được xem là anh tuấn.

Ca Dương cũng đánh giá Lỗ Lang một chút, cuối cùng dán mắt vào Tư Tư bị hắn ôm thóp như chú gà con. Ném dây cương đi, Ca Dương nhảy xuống ngựa, không có một động tác thừa đi tới phía trước. Năm hộ vệ của Thập thất hoàng tử tỏ ra cảnh giác, Lỗ Lang vững vàng chờ nghênh địch. Hắn nhìn vào mắt đối phương, quái thật, một chút cảm xúc cũng không thấy! Đây là người hay xác ướp vậy? Lỗ Lang chưa hồi hồn thì thấy đầu gối đau điếng. Hắn "a" một tiếng, phát hiện cô gái trên tay bị người ta dễ dàng đoạt mất. À, thì ra là người, Lỗ Lang nhìn thấy một chút lo lắng dịu dàng khi Thái Minh đế nhìn Quận chúa.

-Bệ hạ...

Tư Tư mếu máo ôm cổ Ca Dương, cuối cùng đã tìm lại cảm giác an toàn. Nàng rút vào lòng hắn, không thèm nhìn Lỗ Lang đang bất bình vì phân biệt đối xử. Ca Dương nhíu mày đảo mắt sang Tịch Tề và Hựu Trát. Bọn họ thở phào gọi một tiếng "hoàng thượng". Nhìn sơ qua cũng đoán được chuyện gì.

-Lỗ hoàng tử vừa mới tới, nên ở trong hành cung nghỉ ngơi. Người đâu? Dẫn đường cho điện hạ.

Phong đưa tay ra động tác mời, thật ra là "áp giải". Lỗ Lang không có ý định chống trả Ngự lâm quân như la sát tinh kia, đành phải hừ một tiếng bất mãn, ai oán liếc nhìn "vị hôn thê" không cho hắn mặt mũi.

Đợi Lỗ Lang rời đi Ca Dương lại nói với Hựu Trát và Tịch Tề:

-Các ngươi cũng về đi, Tư Tư đã có trẫm.

Hai người vâng một tiếng, lên ngựa chạy mất. Họ cảm thấy bệ hạ không được vui. Khi những người "ngoài lề" đã đi hết Ca Dương mới nhìn xuống Tương Tư đang giở thói đà điểu trốn trong ngực hắn.

-Ai cho muội tự tiện vào rừng? Ai cho muội mặc bộ đồ này? Ai cho muội giao du với Lỗ Lang? Ai cho muội đi ôm ấp hắn?

Cái từ "ôm ấp" thiệt khó nghe. Tư Tư bị hỏi một tràng "ai cho", ngẩng đầu nhìn Ca Dương lắc lắc bàn chân.

-Bệ hạ còn hỏi, muội bị sái cổ chân đó!

Ca Dương nghe vậy liền bỏ mặt nạ hình sự xuống, lo lắng nhìn đôi ủng của nàng.

-Chân làm sao? Có đau không?

-Đau, đau, đau... đau muốn chết!

-Trẫm đưa muội về, sau này không được chạy vào rừng một mình nữa.

-Có Tứ ca và Sử đại ca mà!

-Không có ta thì vẫn là "một mình".

-Ồ... được rồi...

Nàng chẳng dại đi cãi lý với bệ hạ, quốc pháp đều từ miệng hắn ra đấy! Ca Dương ôm Tư Tư leo lên Tiểu Bạch, con ngựa không xem mấy kí thịt của nàng ra gì, vẫn chạy nước đại ung dung như trước. Ngày đầu của hội săn đã bị trật chân, Tư Tư thê thảm nghĩ, xem ra nàng phải ở trong phòng cho tới hết mùa săn rồi!

-Bệ hạ, Tư Tư muốn bắt thỏ, đừng nhốt muội trong phòng.

-Trở về để ngự y chữa chân trước, sau đó trẫm dẫn muội đi săn gấu xám!

-A! Thật không, thật không?

Nàng kích động dựa vào người hắn, chỉ có các thuộc hạ theo phía sau mới thấy được động tác này thân mật cỡ nào. Gió rừng đem hai mái tóc quyện vào nhau, nàng bị cuốn trong áo choàng của hắn, toát lên ý niệm chiếm hữu. Một tay Ca Dương nắm dây cương, tay kia cẩn thận ôm Tư Tư ngồi vững. Chỉ cần hắn nghiêng đầu đã có thể áp má lên vầng trán trơn mịn.

-Những gì trẫm hứa với nàng, trẫm luôn luôn làm được.

***

Lễ hội săn bắn năm nay khá phong phú. Mở đầu là hai ngày du săn, cho phép mọi người tự do vào rừng, con mồi đem về sẽ được kiểm kê ghi sổ, tổng kết vào ngày cuối để hoàng thượng ban thưởng. Tiếp đó sẽ có năm ngày hội võ, mục đích là tái hiện lại truyền thống bộ lạc Khương La thời xa xưa. Sống trên cao nguyên ai cũng phải biết thuần ngựa và dùng cung, hội võ còn mở thêm tiết mục đấu kiếm và đá bóng chân gỗ. Lúc này tinh thần thượng võ cao ngùn ngụt, nam nhân hăng máu đi thi thố, nữ quyến hi hi ha ha ngồi trên lễ đài bình luận. Có người chỉ xem như cuộc vui, cũng có kẻ vô cùng coi trọng, hy vọng được bệ hạ chú ý tới. Các vị đại nhân có dịp khoe khoang hậu thế nhà mình, các vị phu nhân có dịp tha hồ chọn rể, các tiểu thư muốn tìm ý lang quân mà các công tử muốn thể hiện bản lĩnh trước mỹ nhân. Ai cũng ôm một tâm tư kín đáo.

Bốn ngày đầu là các vòng loại, chọn ra những người ưu tú nhất. Từ đầu tới cuối đều không thấy bệ hạ lộ diện. Vinh dự chỉ dành cho kẻ xứng đáng nhất. Hoàng tộc và triều đình không bị gò bò, thoải mái giao du câu kéo quan hệ. Năm năm mới có một dịp để người ta quang minh chính đại gặp gỡ nhau, thăm dò nhau. Phía sau mỗi sự kiện đều có mục đích chính trị cả. Cứ tối xuống hành cung lại đốt lửa trại, thức ăn chế biến từ những con mồi được săn về. Triều thần có rượu ngon mỹ thực, uống say lại hát ca, cuộc sống cũng có lúc lãng tử như vậy!

Điều khiến người ta không thoải mái nhất là sự xuất hiện của Lỗ Lang. Ai mà không biết quan hệ của Đại Thế với Khương La chưa bao giờ tốt, bây giờ Thập thất hoàng tử đặt chân tới đây, phía sau là mưu mô quỷ kế gì khó ai đoán trước. Mọi người đều ăn nói ẩn thận trước mặt hắn, vừa đủ khách sáo mà không quá vô lễ, dù gì người ta vẫn là em ruột của Thái tử. Lỗ Lang này cũng cá tính lắm, hắn không ngại thái độ của người khác, vẫn lăn xả hết sức, giống như vô tư, cũng giống như cố tình thâm nhập.

Tất nhiên không phải ai cũng ái ngại hắn. Dần dần người ta phát hiện hình như Sử công tử con nhà Đô đốc quân rất có thành kiến với Lỗ Lang. Bọn họ đấu nhau tóe lửa, Sử công tử có thân thủ rất tốt, không hổ là võ trạng của Thánh Kim hội. Chuyện này đã trôi qua mấy năm, nhớ khi ấy Sử Hữu Trát mới mười tám tuổi, chưa dự tuyển vào kinh. Thánh Kim vương ngày trước là một người chuộng võ, rất trọng hiền tài. Ba năm một lần ông bỏ tiền tổ chức hội võ, thanh niên cả nước đều có thể tham gia. Về sau người ta gọi là Thánh Kim hội, nổi tiếng gần xa, người vô địch gọi là võ trạng. Thế tử lên nối ngôi, vẫn duy trì Thánh Kim hội cho tới bây giờ, các đời võ trạng đều được nhiều người xem trọng. Suýt nữa đã quên mất, Sử Hựu Trát từng là võ trạng, hắn còn đỗ đến Bảng Nhãn, người văn võ song toàn thế này đã lâu không có!

Chỉ trong mấy ngày mà tên tuổi Sử Hựu Trát lên vùn vụt, một đồn mười, mười truyền trăm, thế rồi ai cũng đánh giá hắn là thanh niên xán lạn. Sử Đình Thành híp mắt nghe con mình được người ta ca ngợi, làm cha chỉ vui đến thế là cùng. Mấy lão đồng liêu nhiệt tình với ông, bắt đầu nhắc tới con gái út con gái tư nhà họ. Đô đốc quân chưa sướng được mấy ngày thì bị hoàng thượng truyền dụ gọi tới. Ông chẳng biết chuyện chi, cúi đầu kính cẩn nghe bệ hạ hỏi:

-Sử công tử đã đến tuổi thành thân, vì sao còn chưa thành gia lập thất?

Chết thật! Đến hoàng thượng cũng ưng ý con trai nhà ông rồi! Sử Đình Thành mừng thầm vuốt râu mép, không lẽ bệ hạ muốn gả Minh Châu Quận chúa vào Sử gia? Nhiều người biết quan hệ của Quận chúa với Trát nhi rất thân thiết, hắn từ chối bao nhiêu mối mai, lại có người tung tin hắn thừa nhận với bằng hữu mình phải lòng Quận chúa. Nói chung bây giờ đã đồn ầm lên, ai cũng biết Sử Hựu Trát với Quận chúa có cái gì gì gì đó. Các cáo mệnh phu nhân không dám giới thiệu thiên kim cho hắn nữa, sợ mắc tội giật rể hoàng gia.

Sử Đình Thành càng nghĩ càng khoái chí, ông là tuýp người thích hư vinh, địa vị và quyền lực dâng tới tay ngu gì mà không lấy?

-Tâu bệ hạ, Trát nhi coi trọng sự nghiệp, không muốn vướng bận thê thiếp sớm. Vi thần nuôi con lớn cũng rất hiểu tính cách của hắn. Trát nhi là người kiên trung, một khi lấy vợ sẽ quý trọng hết lòng. Gia quy của Sử gia cũng không khuyến khích thê thiếp, cho nên trong nhà ít nữ nhân. Vi thần cam đoan với bệ hạ Trát nhi sẽ không trăng hoa lung tung, cả đời yêu thương thê tử!

Ninh công công ôm phất trần nghe ông ca ngợi con trai mình, len lén nhìn bệ hạ mặt lạnh như cá chết. Hắn rất hoài nghi ông ta làm thế nào lên tới bậc Tam phẩm. Ca Dương im lặng nghe Sử Đình Thành hát hết một khúc, khóe môi nhếch lên chẳng biết vui hay giận.

-Tốt lắm, quý tử nhà khanh đã như vậy sao còn không sớm cưới vợ về cho hắn. Thành gia mới lập nghiệp, chẳng phải ông bà dạy thế sao? Gái lớn chưa gả nhiều tiếng gần xa. Trai già chưa cưới cũng lắm phiền phức. Khanh lo mà giải quyết cho sớm, ảnh hướng tới Quận chúa trẫm sẽ hỏi thăm cái đầu của khanh!

Sử Đình Thành vô duyên bị mắng, ngớ ra hết mấy giây. Lời của bệ hạ đâu giống phụ huynh đang cân nhắc con rể, rõ ràng là cảnh cáo không được dụ dỗ nữ nhi nhà mình! Thì ra hoàng thượng gọi ông tới không phải bàn chuyện cưới hỏi mà là chướng mắt với Trát nhi! Sử lão gia méo miệng, cũng ấm ức lắm. Ông vẫn thấy con mình ưu tú là thế, có chỗ nào không xứng với điện hạ? Chẳng lẽ hoàng thượng đã vừa lòng mối khác, người này còn tốt hơn Trát nhi? Sử Đình Thành là thần, tất nhiên không dám chấp vấn chuyện hôn sự trong hoàng tộc, suy tính của hoàng thượng luôn luôn có lý!

Ông trở về với tâm trạng âm u. Gần đây Chu Lạc Tịch Tề rất thân với Trát nhi, vài hôm trước ông còn nhận được thư của Hòa An vương, Sử lão gia tính đâu mối này ăn chắc. Hóa ra bệ hạ không đồng ý, cửa ải to nhất không qua được thì hết hy vọng rồi! Sử Đình Thành đi nói chuyện với phu nhân. Phu nhân giật mình, chuẩn bị tìm cơ hội khuyên nhủ con trai. Mọi việc chưa đến đâu thì xảy ra một chuyện lớn khiến họ không kịp trở tay.

Sử Hựu Trát với Lỗ Lang tranh cãi trên triều, hai người đều trực tiếp cầu hôn Quận chúa!!!

Eo ôi, ai mà không thấy bộ mặt của bệ hạ đáng sợ thế nào. Sử Đình Thành lạnh gáy ôm cổ, cái đầu của ông bị hoàng thượng hỏi thăm cẩn thận rồi!

Chương 4: Thiện xạ

Sáng nay là một ngày nắng đẹp, Thần Thụ Cung náo nhiệt hơn bình thường. Ngọn cờ Khương La bay phấp phới trên đầu kị binh. Gót ngựa cào vào đất, bới tung một màng bụi mỏng. Ngựa chạy thong dong, chuông đeo trên cổ kêu leng keng, khuyên sắt trên áo giáp cọ loảng xoảng. Đoàn diễu hành ôm cờ chạy quanh đấu trường. Quốc kỳ Khương La có hình tam giác lệch, nền vàng kim, xung quanh là những tua rua đỏ mô tả ngọn lửa. Cờ thêu chữ "Khương" kiểu phức thảo hai mươi tư nét ở góc trái, chính giữa là con mãnh long vảy trắng, thân hình to khỏe đang rướn cổ nuốt mặt trời. Ngọn quốc kỳ nào đã lưu truyền qua nhiều triều đại, họa tiết có khác, màu sắc có khác nhưng mãi mãi là rồng trắng và mặt trời. Quốc giáo Khương La cho rằng Thái Dương là khởi nguồn của sự sống, nó mang ánh sáng xua đi tối tăm, làm cỏ cây nảy mầm, vạn vật sinh sôi. Rồng trắng là nguyên hình của Bạch Cự Long trong truyền thuyết, chính là con rồng bị trời phạt hóa thành ngựa một sừng của thảo nguyên. Ngưu Chỉ Ôn thuần phục Bạch Cự Long, thống nhất mười tám bộ lạc khai sinh ra Khương La hoàng triều. Thế nhưng, vì sao rồng nuốt mặt trời? Muốn biết rõ phải nhắc lại một tích cũ...

Dưới thời trị vì của Thiên Vĩnh đế, một năm nọ xảy ra Nhật thực, trời trưa đang nắng bỗng tối om om. Tuy ánh sáng chỉ biến mất vài phút nhưng thói mê tín dị đoan trong dân chúng nghìn năm khó sửa, khắp nơi rộ lên tin đồ thất thiệt, nói rằng điềm báo ngày tận thế sắp tới. Ngày đó mặt trời sẽ bị quái thú nuốt chửng, trần thế phải sống trong cảnh lầm than. Ban đầu tin đồn chỉ lưu hành trong nhóm nhỏ, dần dần lan ra cả nước. Nhiều người bắt đầu tích trữ lương thực, đào hầm ẩn trốn, tình trạng cướp của giết người xảy ra thường xuyên, cả nước chìm trong không khí âm u quỷ dị. Thiên Vĩnh đế ngự trên ngai vàng, sau khi nghe triều thần báo cáo thì đột nhiên vui tính muốn kể chuyện cười:

-Tháng trước trẫm đang ngủ trưa, nằm mơ thấy mình biến thành con rắn. Mặt đất quá bẩn, trẫm nghĩ đi trên mây sạch sẽ hơn. Xung quanh lại không có gì ăn, may mắn tìm được một cái bánh nóng giòn. Vui vẻ cắn một miếng ai ngờ trời đất tối đen, trẫm đành phải kiềm cơn đói mà ói nó ra... Chặc chặc... cái bánh đó ngon lắm, ói ra vẫn hơi tiếc...

Triều thần đứng bên dưới tất cả ngây đơ. Bệ hạ à, truyện cười này không vui chút nào! Thế là hôm sau có một tin đồn khác trổi dậy lấn áp tin đồn cũ. Hóa ra hoàng đế ngủ gật nên bị ngớ ngẩn, ăn gì không ăn, lại ăn nhầm mặt trời. Để toàn dân tin tưởng, Thiên Vĩnh đế cho sửa lại quốc kỳ, con rồng trắng há to cái miệng rộng, chực nuốt Thái Dương. Về sau nhiều nhà sử gia vỗ bụng bật cười, bảo rằng Thiên Vĩnh đế bốc phét có nghệ thuật, vừa khéo xoa dịu lòng dân, vừa nâng cao uy vọng của mình.

Trở lại đấu trường ở Thần Thụ Cung sáng hôm ấy. Kị binh vũ trang đúng quy cách, bắt đầu trình diễn múa cờ theo thông lệ. Trống cái nổi lên, trống con hòa âm, tiếng huỳnh huỳnh dội vào lồng ngực, đầu óc cũng tăng tăng dồn dập như nhịp trống. Đây là trống trận quen thuộc mà bất cứ ai đã sống qua thời buổi loạn lạc đều bị ám ảnh. Tiếng trống nổi lên cùng tiếng thét xung phong, lớp lớp người nằm xuống, lại tầng tầng kẻ lao lên, hiên ngang bất khuất đến khi không còn sót lại ai, đến khi người đánh trống cuối cùng cũng buông dùi ngã xuống. Đó là trống trận của Khương La, thứ âm thanh như một mê khúc in hằn vào tâm trí vạn người, là rượu nồng không thể thiếu của binh lính, là độc dược quấy nhiếu giấc mơ của quân thù. Tiếng trống như mang theo hồn nước bay lên, bay lên, bay lên...

Múa cờ không hẳn là vũ điệu, nó giống võ học quyền cước hơn. Múa chính là một đại nam nhân to khỏe, tay như cành lim, gồng mình nâng trụ cờ nặng mấy tạ. Lá cờ to như tấm chăn lớn, phải dùng thật nhiều sức lực mới có thể khiến nó tung bay. Động tác đảo cờ, quạt cờ, thậm chí lộn nhào mà vẫn giữ vững trụ cờ, tốc độ nhanh tới mức chỉ kịp nhìn thấy những vệt màu vàng kim chớp nhoáng. Trống nện dồn dập, mồ hôi túa ra bóng loáng trên cánh tay nổi đầy gân xanh, lá cờ lướt là là trên đất mà không kịp chạm đất đã bay vọt phất lên. Trống đánh đến hồi cuối, nhiều người không chịu nổi bưng ngực nín thở, họ cảm giác mạch máu muốn vỡ tung ra theo cao trào. Người múa chính đá mạnh trụ cờ ở thế nằm ngang, với sức nặng này có thể gãy chân như chơi, vậy mà hắn đã khiến cây cờ bay tự do lên không trung. Chờ đến tầm cao vừa phải, hắn phóng người dùng khinh công đỡ lấy ngọn cờ, chân đạp gió như đuôi cá bơi trong nước, thành công bay lên nóc nhà chính cung. Lá cờ được cấm xuống tòa kiến trúc cao nhất, những viền tua rua bay phần phật như đóm lửa. Mọi người ngẩng đầu trông lên Quốc kì, cảm giác con bạch long sống động như thật, chỉ sơ sẩy một chút là nó hướng lên trời xanh bay mất. Bấy giờ trống ngừng lại, tất cả dũng mãnh lắng xuống, chỉ còn có màu cờ và tiếng tim thình thịch. Không biết là ai hồi tỉnh trước, vỗ tay kịch liệt, mọi người bị đánh thức mới vội vàng hùa theo, tiếng thán tụng ngập trời, cũng oai hùng không thua gì trống trận. Mãi đến khi bệ hạ ra hiệu ngưng thì họ mới phát hiện bàn tay đỏ bừng đau rát. Qúa tuyệt!

-Tốt! Tốt! Tốt!

Hoàng đế nói liền ba chữ tốt, nét mặt cũng vui vẻ nhu hòa đi.

-Người đâu, trọng thưởng!

Đoàn kị binh đồng loạt quỳ tạ ơn sau đó nhanh chóng lui ra. Sáng nay là ngày cuối của hội võ, năm người xuất sắc nhất sẽ tranh tài để tìm chức vô địch. Chức này còn lớn hơn võ trạng, vẻ vang hơn võ trạng biết bao lần! Hoàng đế ngồi ở chỗ cao nhất trên khán đài. Hôm nay ngài không mặc triều phục, chỉ có một bộ lam y thanh thoát, ngọc quan đơn giản, nếu trà trộn vào đám đông sẽ giống một công tử thế gia. Tiếc là ánh mắt vừa kiêu ngạo lại oai nghiêm này không sớm thì muộn cũng tiếc lộ thân phận của hắn.

Triệu hoàng hậu hiếm có lúc cùng xuất hiện với bệ hạ. Hôm nay nàng mặc váy tím, điềm đạm đoan trang đúng vai mẫu nghi thiên hạ. Ngồi dưới một bậc là Dung phi nương nương, quả đúng là mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành. Nàng che vải sa mỏng, càng lộ ra sự huyền bí và dụ hoặc, hoa sen giữa trán rực rỡ như thanh xuân của nàng. Bên tay trái bệ hạ là Minh Châu Quận chúa. Mặc dù tên tuổi nàng được nhắc tới quá nhiều, ai ai cũng rõ nhưng xưa nay bệ hạ giấu người thật kĩ, chưa bao giờ nàng có mặt trong những sự kiện đại chúng thế này. Lần đầu tiên Quận chúa lộ diện công khai, mọi người đều tranh thủ nhìn lén một chút, nhớ kĩ một chút.

Màn múa cờ khai mạc hội võ quá sức hấp dẫn, tinh thần mọi người lên cao, hứng thú bừng bừng chờ phần thi chính thức. Năm người giỏi nhất cũng không khó đoán, đều là tên tuổi lớn, trong đó được chú ý nhất là Thập thất hoàng tử của Đại Thế, Sử Hựu Trát con trai Đô đốc quân và Đô Thư Doanh cận thần bên người bệ hạ. Hai cái tên đầu không có bất ngờ gì nhưng mà Đô Thư Doanh có thể vào vòng trong khiến nhiều người suýt rớt tròng mắt. Thật sự bản lĩnh của hắn chỉ ở mức khá nhưng chẳng biết lần này ăn phải thuốc kích thích gì nên hết sức liều mạng, bị đánh bầm giập vẫn nhìn chằm chằm đối thủ mà gắng gượng bò dậy. Thấy hắn cố chấp bán mạng, đối phương chần chừ để lộ sơ hở, không thì chủ động nhận thua luôn. Cho dù khó khăn vượt qua từng người, Đô Thư Doanh vẫn trèo lên tốp năm.

Tiếng huýt sáo và reo hò trên khán đài rộ lên, năm người lần lượt bước vào sân, đứng thành một hàng chấp tay sau lưng, chân ngang bằng vai, ngực ưỡn thẳng nhìn lên đấng chí tôn. Mặc dù chiều cao có phần xê xích nhưng cả năm người đều anh khí xán lạn theo một cách riêng, thân hình chắc nịch vững vàng, đôi mắt thể hiện quyết tâm và lòng hiếu thắng. Đúng là tuổi trẻ!

Ca Dương thầm than một tiếng, mắt nhìn qua một lượt năm khuôn mặt, thâm ý dừng lại ở Đô Thư Doanh khá lâu. So với bốn người kia, thể trạng hắn kém hơn. Trên khóe môi vẫn còn vết bầm đen chưa lành. Ca Dương biết rõ bên dưới quần áo là vết thương lớn nhỏ khác. Tình cảm quân thần bao nhiêu năm không phải bằng hữu sơ giao, Thư Doanh trở nên như vậy Ca Dương cũng thấy khó chịu.

Hoàng đế phát biểu vài lời hình thức, đại khái là khen ngợi và hứa hẹn phần thưởng. Ánh mắt của ba người trong số đó làm hắn hơi bực mình. Ngồi ở vị trí này Ca Dương thấy rất rõ, hai nữ nhân trái phải bên cạnh hắn đều bị chiếu tướng. Chuyện giữa Hoàng hậu và Thư Doanh hắn không can thiệp vào, chỉ cần đừng liếc mắt đưa tình lộ liễu là được. Thế nhưng tại sao hai tên kia cứ nhìn chằm chằm Tương Tư? Sắc mặt hoàng thượng trầm xuống, làm động tác giả ngã lưng vào thành ghế, cánh tay trái khẽ chuyển, giấu dưới ống tay rộng lén lút nắm lấy bàn tay nhỏ. Khoảng cách giữa hai chiếc ghế rất gần, ở vị trí cao này sẽ không ai phát hiện bàn tay Quận chúa bị bệ hạ siết chặt. Tư Tư đang híp mắt cổ vũ Sử Hựu Trát đồng thời lè lưỡi với Lỗ Lang, đột nhiên bàn tay bị giam lại khiến nàng bối rối nhìn sang bệ hạ. Vậy mà hắn không tỏ thái độ gì, vẫn bình thản nhìn xuống võ đài. Tư Tư khó hiểu nghiêng đầu, nàng từng nghe Tiểu Mai kể chuyện ma, có một a hoàn nọ buổi tối đi vệ sinh mà quên mang giấy. Trong lúc gấp gáp thì một bàn tay thò vào ô cửa nhà xí, tốt bụng đưa giấy cho nàng. Kết quả a hoàn kia vừa nhận giấy thì cánh tay đó rớt xuống, từ cổ tay trở lên trống rỗng, bốn ngón tay bò lổn ngổn trên đất... Tư Tư dựng tóc gáy, run run sờ thử không biết là tay ai... Mãi tới khi xác định đúng là tay anh họ nàng mới thở ra một hơi, an tâm nắm ngược lại. Thấy Tư Tư không phản kháng mà còn hồi đáp hắn, Ca Dương khẽ nhếch môi cười, may là hắn không biết trong đầu cô nhóc vừa nghĩ chuyện gì.

-Được rồi, cuộc thi có thể bắt đầu nhưng mà... Thái y đã nói sức khỏe Đô Thư Doanh không đảm bảo tham gia, khanh bước ra ngoài đi!

Hoàng đế dứt lời, mọi ánh mắt đổ dồn về nam nhân mặt mũi nhợt nhạt đứng ở giữa. Hắn cúi đầu rồi lại ngẩng đầu, tỏ vẻ quyết liệt chống lại mệnh lệnh:

-Bẩm thánh thượng, trong luật lệ thi đấu không có điều khoản này, đánh thắng tức là vào vòng trong, không liên quan sức khỏe tốt hay không.

Ca Dương bật cười, trong nụ cười không thấy vui vẻ mà chỉ có tức giận và châm biếm.

-Đánh thắng? Ý ngươi là đem mạng ra cược để thắng? Ngươi có hiểu tinh thần thượng võ là gì không? Thua phải biết nhận thua, võ học là để bảo vệ Quốc gia và rèn luyện thân thể, không phải dùng để thí mạng vô ích. Lập tức cút ra ngoài!

-Bệ hạ, thần không đồng ý, như vậy là bất công, tại sao thần không thể đứng ở đây trong khi rõ ràng thần đã đánh bại những đối thủ của mình?

Đô Thư Doanh ăn miếng trả miếng làm cho chúng quan thần phải líu lưỡi đọc kinh cầu siêu cho hắn. Họ Đô này ỷ được bệ hạ coi trọng mà làm kiêu, hắn không cần cái đầu nữa à?

Ca Dương nheo mắt lại, sắp sửa bạo phát dạy cho Thư Doanh một bài học vì dám đối đầu với mệnh lệnh của hắn. May mắn lúc này Tư Tư khẽ cử động bàn tay, bất an và lo lắng trong đôi mắt nàng hắn nhìn thấy rất rõ. Ca Dương hít sâu, cố kiềm chế cơn giận chực trào, hắn không muốn để lại ấn tượng xấu trong lòng Tư Tư, vẫn nên làm ông vua độ lượng nhân từ thì hơn! Ca Dương thu lại biểu tình, nhìn xuống khuôn mặt ương ngạnh của Thư Doanh.

-Khanh bất chấp như vậy, không lẽ thèm khát phần thưởng phát điên rồi? Bài miễn tử rất quan trọng với khanh sao? Khanh đã làm chuyện tầy trời gì nên mới cần lá bài miễn tử?

Vô địch hội võ lần này được thưởng vàng bạc rất hậu hĩnh, bên cạnh đó còn có bài miễn tử vô giá, giống như sinh mệnh thứ hai mà ai cũng ao ước. Đô Thư Doanh ngoan cố như thế, nhiều khả năng là muốn bài miễn tử. Mọi người đều gật gù đồng ý, chắc chắn Đô đại nhân đã làm sai chuyện lớn gì rồi, cho nên mới sốt ruột muốn phần thưởng như vậy!

Thư Doanh bị nói trúng tim đen, hơi bất an đưa mắt sang Triệu hoàng hậu ngồi bên trên, thấy nàng mím môi lạnh lùng không nhìn hắn. Thư Doanh cụp mắt xuống, hơi cười nhạo bản thân, hắn cũng không biết mình cuồng si đến thế sẽ được kết quả gì...

-Bệ hạ nói không sai, vi thần... muốn bài miễn tử nhưng vi thần không làm chuyện tầy trời ảnh hưởng quốc gia. Thần cần bài miễn tử... để tặng cho một người khác!

Ca Dương ồ một tiếng, như có như không liếc nhìn Hoàng hậu, nhận thấy Triệu Tiếu Vy chẳng còn trẻ trung gì nhưng nhan sắc không thay đổi nhiều so với lúc mới tới Khương La. Hắn nắn nhẹ bàn tay mềm mại, có chiều ngẫm nghĩ.

-Nếu khanh đã quyết tâm như vậy thì trẫm sẽ mở một cửa sinh. Bài miễn tử này chắc chắn khanh không lấy được nhưng một thỉnh cầu thì thế nào? Chỉ cần không tổn hại quốc gia, không bất trung bất nghĩa trẫm sẽ đồng ý!

Ánh mắt u ám của Thư Doanh sáng bừng lên, giống như cái cây khô héo lâu ngày tìm ra nguồn nước.

-Đừng vội mừng, thỉnh cầu không dễ dàng như thế. Chỉ cần khanh vượt qua hai người thì trẫm sẽ thành toàn.

Thư Doanh cung kính ôm quyền, trịnh trọng nói:

-Xin đa tạ bệ hạ! Điều kiện này vi thần chấp nhận!

Trên khán đài có tiếng bàn tán, mọi người đang cược liệu Đô đại nhân có thẳng nổi hai người không. May là bệ hạ cho phép hắn lựa chọn, Thư Doanh không ngu dại đối đầu với Lỗ Lang hay Sử Hựu Trát, hắn chọn hai người còn lại. Trận chiến diễn ra hết sức căng thẳng. Tuy kĩ thuật và chiến thuật của Thư Doanh tốt hơn đối thủ nhưng hắn có nhiều thương tích chưa lành, ảnh hưởng đến tốc độ và thể lực; hạ được người thứ nhất chủ yếu nhờ vào cái đầu tỉnh và sự sáng suốt. Triệu Tiếu Vy siết chặt khăn tay, dù không muốn xem vẫn phải nhìn mấy lần. Nàng thấy Thư Doanh chống kiếm bò dậy, miệng rách một đường, bên má sưng vù. Hắn dùng tất cả hơi sức đỡ mỗi nhát chém của người thứ hai. Vài lần mũi kiếm lia qua cổ, Tiếu Vy thấy tim mình nhảy thót lên, suýt văng khỏi lồng ngực. Ban đầu quần chúng thích thú bình luận, về sau tiếng nói chuyện cũng không có, ai cũng nhìn Đô Thư Doanh vùng vẫy mà xót xa. Cứ ngỡ hắn sắp ngã, không ngờ vẫn đứng lên!

Trong một khắc kịch tính đau tim, đối phương tung chưởng sắp nện trúng ngực, Thư Doanh khôn ngoan tránh ra, đồng thời dùng hết sức bồi một kiếm chéo lưng, lại vung chân đạp đối thủ xuống võ đài. Trong hội võ không thể khiến người khác mất mạng hay tàn phế, chỉ đánh tới khi cạn kiệt sức lực đầu hàng mới thôi. Người nọ rơi khỏi võ đài, nằm dài không dậy nữa, trọng tài xác định hắn đã bất tỉnh. Cả khán đài vỗ tay rần rần, Tiếu Vy rút hơi thở nhẹ nhõm, Thư Doanh lúc này mới yên tâm ngã xuống, hắn cũng mệt sắp chết rồi! Hoàng thượng cười tán thưởng, quả không nhìn lầm người.

Hội võ năm nay có nhiều chuyện bất ngờ, Đô Thư Doanh là một trong số đó. Sau khi hắn được khiêng đi chữa trị, trong sân chỉ sót lại hai người. Theo lệ cũ trọng tài sẽ tung đồng tiền, ai đoán trúng mặt phải thì được chọn hình thức tỉ thí. Lỗ Lang là người đoán trúng, hắn gãi mũi suy nghĩ một hồi rồi cười nói:

-Chuyện này... thật ra cung thủ của gia hơi tệ. Vậy cứ thi bắn cung đi!

Hắn vừa nói xong quần chúng đã gây gắt lên án. Lời này có ý gì? Khinh thường nam tử Khương La à? Một lão thần vuốt râu bất mãn, cao giọng châm chích:

-Hội võ của chúng tôi, hoàng tử Đại Thế tham gia làm cái gì? Hắn không phải con dân Khương La, bài miễn tử cũng không xài được. Chẳng lẽ Đại Thế nghèo tới nổi hoàng tử phải qua đây tỉ võ kiếm chút bạc vụn rồi?

Một người khác ngứa miệng cũng nói to:

-Đúng đó! Đúng đó! Sử tiểu tử, ngươi đánh cho tên phách lối này không còn cái quần chạy về nhà cho ta!

Cả khán đài rộ lên tiếng cười. Đối với một hoàng tử mà nói, bị xúc phạm đến mức này là nỗi nhục nhã. Lỗ Lang lại trơ trơ không bị đả kích gì, thứ hắn dư dả nhất chính là da. Có lẽ tính toán của Thái tử không sai, để Lỗ Lang đến Khương La sẽ tránh được nhiều chuyện phiền phức khoét sâu mối bất hòa giữa hai vương triều.

Ca Dương không thể hiện thái độ rõ ràng, vẫn im lặng mặc cho thần tử của mình công kích. Từ sau cuộc đụng độ ở trong rừng ngày đầu tiên, thiện cảm đối với Lỗ Lang từ số không đã thành số âm. Ca Dương lười phải khách khí với hắn, đạo làm chủ nhà cũng không thực hiện, chỉ cho người giám sát mà không ngó ngàng gì hắn nữa. Khá bất ngờ là Lỗ Lang cũng có bản lĩnh, đường hoàng lọt vào vòng trong, tự tin đứng trước mặt mọi người.

Lỗ Lang hào sảng ôm quyền chào một vòng đấu trường, giọng nói mạch lạch lễ độ:

-Các vị, các vị, gia rất cảm kích lòng quan tâm của các đại hiệp. Không có quần cũng không sao, bình thường gia cũng ít mặc quần, để vậy cho nó mát... thuận tiện hành sự hơn!

Ở trong nước ai mà biết Thập thất hoàng tử không nói thì thôi, hễ mở miệng đều rất thối! Văn nhân triều đình đọc sách thánh hiền, bị từ ngữ thô thiển làm nghẹn đỏ mặt. Tư Tư cũng thấy có gì đó không đúng, thì thầm hỏi hoàng thượng:

-"Hành sự" là làm cái gì?

-Đừng cố hiểu, chẳng có gì hay ho hết!

-À, muội biết ngay không phải chuyện hay ho mà!

-Không phải, ý trẫm là hắn hành sự chả hay ho gì hết... hành sự không hẳn là không hay...

Sao mà lòng vòng thế kìa? Tư Tư khó hiểu gãi vào mu bàn tay Ca Dương. Mặc cho người người phỉ nhổ cỡ nào, Lỗ Lang vẫn cười tươi rói. Cuộc thi cứ bắt đầu như thế, cho dù ở trên "sân khách" hắn cũng không mất phong độ chút nào. Tít xa bãi bắn dựng mười hai tấm bia, khoảng cách này đòi hỏi thị lực phải thật tốt cùng với sức kéo dây cung đủ mạnh mới trúng đích. Trúng hồng tâm lại là một cấp độ khác. Thi bắn tên chia ra nhiều thể loại, ví dụ đứng tại chỗ ngắm bắn, vừa chạy vừa bắn, khó nhất là cưỡi ngựa bắn liên hoàn. Vòng đầu tất nhiên cả hai đều dễ dàng vượt qua không chút sơ suất. Trên khán đài reo hò tên của Sử Hựu Trát, chàng trai bị người người xướng danh cũng bắt đầu ngượng.

Ngồi bên cạnh Ca Dương, Tư Tư nhiệt liệt không kém. Nàng vẫy khăn tay, hồi hộp chờ đợi mỗi khi hắn giương cung bằng động tác điệu nghệ. Có người khen thế đứng của Hựu Trát quá chuẩn, rất đẹp; xong rồi phê bình Lỗ Lang không biết cách cầm cung, hệt như trẻ con nghịch cho vui.

Tới phiên Hựu Trát ra sân, hắn siết chặt thân cung trong tay, đeo ống tên trên lưng, từ xa xa đã tập trung phán đoán khoảng cách và góc độ. Mười hai tấm bia đặt chênh lệch không đều, chỉ bằng một lần chạy phải bắn trúng nhiều nhất có thể. Khi hắn tập trung hết tinh thần vào những vòng tròn tròn đỏ đỏ thì bên tai chợt nghe một giọng nói mềm mại đầy vui vẻ:

-Sử đại ca cố lên!!! Cho củ khoai lang đó biết tay!

Hựu Trát khựng lại, quay đầu tìm kiếm ở chỗ cao nhất. Hắn bắt gặp ánh mắt đầy tin tưởng của nàng, môi nở nụ cười như gió xuân. Khuôn mặt nàng thanh tú sinh động là thế, khiến hắn lưu luyến nhìn thêm vài lần. Cảnh tượng Sử Hựu Trát và Quận chúa "dây dưa ánh mắt" khiến nhiều người có suy nghĩ bay bổng... Bởi vì quá bay bổng nên chẳng ai phát hiện sắc mặt bệ hạ như đang bệnh.

Hựu Trát đứng vào vị trí, tay phải chầm chậm nâng cán cung, ngón tay trái kẹp lấy một đuôi tên trong ống trúc, nhẹ nhàng ráp vào dây cước. Lúc này hắn thấy tự tin tràn trề, giống như không gì không làm được, trong tâm trí ngập tràn hình dáng của Tương Tư. Hựu Trát bắn phát thứ nhất, đôi chân chạy êm ả nhả phát thứ hai, hơi nghiêng người bắn phát thứ ba, dọc theo bãi đá ung dung thả tên, bách phát bách trúng! Mũi tên thứ mười hai ghim vào hồng tâm, tấm bia lắc lư, cả khán đài gào thét inh ỏi. Hựu Trát thở lấy hơi, lập tức tìm kiếm Tương Tư trên lễ đài. Đôi tai hắn sàn lọc tất cả tạp âm, chỉ còn nghe thấy tiếng hét kích động của nàng:

-Á Á! Trúng, trúng rồi, Sử đại ca giỏi nhất!!!

Tư Tư rất muốn đứng lên nhưng mà hoàng thượng vẫn giữ tay nàng gắt gao, hình như càng lúc càng chặt. Khi náo nhiệt chưa lắng xuống thì Lỗ Lang đã vào vị trí, hoàn toàn không bị áp lực sau màn trình diễn xuất sắc vừa rồi. Hắn vậy mà cũng nhìn lên Quận chúa, chỉ thấy cô nàng lè lưỡi làm mặt quỷ, miệng lẩm bẩm nguyền rủa gì đó. Lỗ Lang híp mắt quan sát, sau đó lắc đầu bật cười, giống như bó tay với thái độ "hờn dỗi" của nàng. Quần chúng lại ngửi thấy mùi mờ ám, Quận chúa và Lỗ Lang chắc chắn có cái gì không bình thường...

Lỗ Lang vào cuộc rất nhanh, gần như chẳng chuẩn bị gì ráo. Hắn chạy dọc theo chiều dài bãi bắn, tên rời cung như sao rơi. Đến khi mọi người bừng tỉnh thì tất cả đã xong, người kiểm tra đồng loạt giơ cờ đỏ, cho thấy mười hai phát này đều trúng hồng tâm. Không có cổ vũ, không có hoan hô, Lỗ Lang vẫn không bận tâm, hắn quay đầu nháy mắt với Tương Tư, gửi nàng một nụ hôn gió rồi thích thú nhìn vẻ mặt tức nghẹn và mắc cỡ đỏ bừng. Tại sao biểu cảm nào trên khuôn mặt trái táo đó cũng đáng yêu như vậy?

Lỗ Lang ha ha bước ra ngoài, đụng phải Sử Hựu Trát u ám nhìn mình, có một số tín hiệu mà chỉ đàn ông với nhau mới cảm nhận được. Hắn dừng lại đối diện Hựu Trát, cười khiêu khích trắng trợn, lửa điện xẹt tung tóe. Tình trạng này cứ tái diễn ở các phần thi sau, mặc dù Quận chúa tỏ thái độ rõ ràng đứng về "phe" Sử Hựu Trát nhưng mà Lỗ Lang vẫn trêu chọc nàng, cười sung sướng khi thấy nàng bị tức phát điên. Cuộc thi như đùa mà nghiêm túc, quá mức nghiêm túc, trải qua bao nhiêu loại hình vẫn bất phân thắng bại. Lúc này đã vào giữa trưa, khán giả đói bụng uể oải nhìn hai kẻ sung sức như bò đực, chạy nhong nhong dưới trời nắng gắt. Xong chưa, tại sao còn chưa xong, muốn đấu tới khi nào??? Ai đó thẩn thờ nhìn cảnh tượng này, ca thán một câu:

-Hóa ra là vậy, thì ra Thập thất hoàng tử đến Khương La dự hội võ kén rể!

Hội võ kén rể!

Hội võ kén rể!

Thì ra là vậy!!!

Mọi người chợt bừng tỉnh, suy nghĩ một chút thấy rất hợp lý. Sử Hựu Trát và Lỗ Lang đang cố gắng trổ tài trước Quận chúa đó thôi, quyết liệt tới mức này là muốn giành được mỹ nhân vào tay! Tin về "hội võ kén rể" nóng sốt lan truyền trong chúng thần tử và gia quyến, tự nhiên mọi người hết thấy đói bụng! Tiếng lành đồn xa, chỉ một lát đã lọt vào tai hoàng thượng. Hắn ngồi dưới lộng vải, ẩn mình trong bóng râm hình tròn. Không ai phát hiện ra thần sắc của hoàng thượng cực cực kém. Hàng mi dài hơi rủ xuống, che giấu nhiều ý nghĩ mãnh liệt bên trong. Hắn nắn nhẹ bàn tay mềm, cảm thấy mồ hôi trơn dính vì đã cầm quá lâu. Tư Tư hơi khó chịu, vài lần muốn rút ra nhưng hắn vẫn ngoan cố không buông. Chưa bao giờ Ca Dương có thứ cảm giác khó chịu này: cảm giác của người ngoài cuộc.

Mặt trời đã đứng bóng, mồ hôi nhễ nhại trên khuôn mặt Lỗ Lang và Hựu Trát, thế nhưng ánh mắt của họ vẫn rực sáng. Chiến thắng lúc này không đơn thuần là danh tiếng và phần thưởng nữa, nó là lòng tự trọng của đáng nam nhi! Một vòng lại trôi qua mà không có hơn kém, người xem cũng mệt rã rời. Vài thần tử nhỏ tiếng kiến nghị với bệ hạ, nên tạm dừng cuộc thì dời sang hôm sau. Ca Dương nhìn xuống tình hình bên dưới, không nói tiếng nào buông tay Tư Tư ra, từ trên ghế đứng dậy. Động thái của bệ hạ lập tức thu hút sự chú ý. Ca Dương nói mấy câu với Ninh công công, lão gật đầu vội vã chạy đi. Hắn bước xuống đấu trường, một thân lam y sạch sẽ tốt hơn Lỗ Lang và Hựu Trát rất nhiều. Dưới cái nắng đứng Ngọ, ánh mắt bệ hạ vẫn không nhíu lại, người ta có ảo giác hắn đang phát sáng. Ninh công công trở về, phía sau là hai thị vệ ì ạch bê một cái hòm dài. Hòm gỗ đặt dưới chân, Ca Dương khom người mở khóa, lấy ra một cây cung thép vàng. Xung quanh có mấy tiếng hít sâu, Trường Cung đã bao năm rồi không tái xuất?

Thanh cung này rất nặng, phải thử vài lần mới nhấc lên được. Ca Dương nhẹ nhàng vuốt ve những kí tự ngoằn ngoẻo không biết là loại ngôn ngữ gì, có lẽ giữa vũ khí và chủ nhân có một mối tương thông nào đó. Sau khi "trao đổi" xong, Ca Dương tùy tiện chọn một ống tên, đeo lên vai bước vào bãi bắn. Triều thần trợn mắt mà nhìn, bệ hạ muốn làm gì vậy???

Trường Cung là một thanh cung rất dài, dây cước cứng không phải ai cũng kéo nổi. Truyền thuyết kể rằng nó là vật tùy thân của Ngưu Chỉ Ôn, thánh vật khai quốc của Khương La. Trường Cung từng được hoàng tộc thay nhau bảo quản, rồi bị thất lạc trong chiến tranh. Tung tích của nó là một điều bí ẩn, mãi tới đời Thiên Vĩnh đế mới đoạt lại được từ tay triều đình Đại Thế. Đó là câu chuyện cũ mà kể ra sẽ khiến con dân Đại Thế thấy mất mặt. Năm ấy Hạ Hầu Vĩnh Khang ngông cuồng ngạo mạn, hắn chỉ nói một câu: "Đem trả Trường Cung, hoặc ta sẽ san bằng vương triều các người trở về thời đồ đá." Triều đình Đại Thế khi ấy vừa bị thua trận liên tiếp, đánh mất hàng loạt tòa thành. Một lời ngông nghênh đã dọa họ khiếp sợ, hai tay dâng trả Trường Cung. Hành động hèn nhát của chính quyền khiến dân chúng thất vọng tràn trề. Đến giờ nghĩ lại mới thấy, Thiên Vĩnh đế xứng đáng với hai tiếng "vĩ đại", tuy tính nết ông ta không tốt đẹp gì và kết cục của Hạ Hầu gia cực thê thảm nhưng cả đời Hạ Hầu Vĩnh Khang đã đưa Khương La lên tới đỉnh cao chưa từng có, lấy lại tất cả những gì bị đánh mất trong lịch sử.

Lúc này Trường Cung nằm trong tay Chu Lạc Ca Dương, thanh cung dựng đứng có thể cao bằng người. Sử dụng Trường Cung tốn sức gấp mười lần cung tên bình thường nhưng cũng uy lực hơn mười lần. Bãi bắn yên tĩnh, trăm đôi mắt nhìn theo bệ hạ. Ngài là quốc chủ của Khương La!

Ca Dương đứng vào vị trí ngắm, phía xa tít cuối bãi bắn vẫn đặt mười hai tấm bia như cũ. Hồng tâm đã ghim đầy mũi tên. Ca Dương giơ tay ra sau lưng lấy ba mũi tên sắt ráp vào dây cước, thật ra trình độ bắn ba tên một lúc không quá hiếm lạ, Sử Hựu Trát cũng có thể làm. Chẳng mất nhiều thời gian cân nhắc, hoàng thượng buông dây cung, một đột tác bình thường thế thôi nhưng đường bay của ba mũi tên rất khác thường. Đây là kiểu tốc độ gì thế? Tên bay quá nhanh, sức mạnh tập trung vào đỉnh đầu nhọn hoắc, lúc chạm tới bia vẫn không ngừng lại, xuyên qua tấm gỗ, chọc một lỗ hỏng nham nhở. Ba lỗ hỏng này không trúng hồng tâm mà nằm ở vòng thứ bảy. Không khí vẫn yên tĩnh khi Ca Dương buông dây cung lần nữa, phen này là bốn mũi tên. Vẫn tốc độ khó tin như cũ, đồng loạt đục lỗ hỏng vòng thứ bảy của bốn tấm bia khác. Lần thứ ba buông dây, năm tấm bia còn lại xuất hiện thêm năm cái lỗ. Ba bốn rồi năm, vừa đủ mười hai tấm bia. Quần thần hồi tỉnh, ngơ ngác giơ tay vỗ lốp bốp nhưng họ nhanh chóng ngừng lại vì hành động kế tiếp của bệ hạ. Ca Dương cầm một nắm mười hai mũi tên, từ điểm giữa trên dây cước rải khoảng cách đầu ra trên thanh cung. Bầu không khí ngưng động kì lạ, vài người vô thức cắn ngón tay ngăn tiếng kêu sợ hãi. Ca Dương nhìn chằm chằm mười hai mục tiêu, cẩn thận dịch chuyển từng mũi tên đúng góc độ. Hắn quá chậm rãi làm người xem không chịu được. Đến khi cảm giác tất cả đều ổn, Ca Dương dùng sức kéo dây cược rất cứng tới độ giãn tối đa. Hắn thấy ngón trỏ đau nhói, dây cước vốn trắng bỗng xuất hiện một đoạn đỏ thẳm. Nín thở, ngưng thần, nhẹ nhàng buông tay ra... Mười hai mũi tên bay vụt tới như một tấm lưới sắt, bủa vây đến hướng mục tiêu. Khi chúng rơi xuống đất, trên mười hai tấm bia không có bất kì thay đổi nào, bởi vì tất cả đã xuyên qua lỗ hỏng được khoét từ trước!

Hoàng thượng hạ tay phải, ống trúc đã rỗng, bấy giờ mọi người mới hiểu màn trình diễn xong rồi! Tiếng vỗ tay quá to, không ai nghĩ ngần ấy con người sẽ tạo thành âm thanh kinh động núi rừng như thế. Đâu đó còn có tiếng bật khóc, những lão tướng cả đời bán mạng cho bờ cõi Khương La, họ ở tuổi gần đất xa trời, cuối cùng cũng được nhìn thấy cái gọi là "thiện xạ".

Lỗ Lang khoanh tay nhìn theo bóng lưng Thái Minh đế quay trở lại lễ đài. Hắn có một ý nghĩ hài hước: Có lẽ Bát ca sinh lầm thời, anh hùng thiên hạ đều sinh lầm thời!

Chương 5: Hòa thân

Hội võ kết thúc để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi người, không chỉ vì hành động liều lĩnh của Đô Thư Doanh, sự tranh đấu của Lỗ Lang và Sử Hựu Trát mà còn bởi Trường Cung tái xuất. Nhiều ngày sau đó người người vẫn bàn tán về đề tài này, các giai thoại lại được kể, liệt kê tất cả triều đại trong lịch sử, tên tuổi những hoàng đế gây ảnh hưởng lớn đến Khương La từ xưa đến nay. Không phải lúc nào thiên tử cũng được kính ngưỡng. Tân đế lên ngôi là ván cược nặng cả giang sơn. Vua tốt thì dân nhờ, vua xấu thì dân chịu, đó là bản chất của phong kiến.

Sau mấy nghìn năm thịnh trị, Khương La trải qua hơn năm mươi lăm triều đại với gần hai trăm vị vua, phải đọc hết tất cả tài liệu ở Tàng Kinh Các mới có thể hình dung toàn cảnh lịch sử của một vương triều đồ sộ. Người Khương La thông thường chỉ nhắc tới hai kiểu mẫu đế vương: minh quân hoặc hôn quân, đôi khi nằm giữa hai loại này, như Thiên Vĩnh đế chẳng hạn. Ông ta cũng là nhân vật gây tranh cãi trong hàng thế kỉ, không ai có thể phủ nhận Hạ Hầu Vĩnh Khang là một hoàng đế rất thành công, rất tài ba, rất mưu lược. Nếu Ngưu Chỉ Ôn là người khai quốc thì Thiên Vĩnh đế là người mở rộng bờ cõi. Những cuộc viễn chinh đưa Khương La thành cường quốc, giành lấy vô vàn đất đai, của cải trong thiên hạ nhưng bản tính hiếu chiến cũng đã đẩy cả vùng bình nguyên vào niên đại bất ổn nhất lịch sử, thương vong vô số, khắp chốn lầm than. Trong mắt các nước ngoại bang, Thiên Vĩnh đế là cái tên tượng trưng cho cái ác!

Theo trường phái ôn hòa, nhà thông thái cho rằng "minh quân" phải là người hiền tài, thương dân như con, biết đau cho nỗi khổ của dân, biết lấy hòa bình làm thịnh trị, khiến trong ngoài yên ổn, không chiến tranh chết chóc. Với tiêu chí này, Thiên Vĩnh đế bị chỉ trích là hôn quân.

Theo trường phái hiện thực, sử gia lại quan niệm, "minh quân" nên là người quyết đoán mạnh mẽ, oai hùng dũng mãnh, đưa tên tuổi Khương La lên tới đỉnh cao, mở mang bờ cõi, răn đe ngoại bang khiến thiên hạ kinh sợ. Xưa nay quy luật sống còn là cá lớn nuốt cá bé, ta không vì mình trời chu đất diệt, vì thế hiếu chiến là hành động tự vệ sớm, âu cũng là lẽ đương nhiên. Với tiêu chí này, Thiên Vĩnh đế được ca ngợi là người vĩ đại nhất.

Cho dù cuộc tranh cãi không có hồi kết, người ta vẫn phải thừa nhận Hạ Hầu Vĩnh Khang là một người tràn đầy mâu thuẫn, cả đời ngập ánh vinh quang của ông đã kết thúc bằng những tháng năm lặng lẽ. Làm cách nào Chu Lạc gia có thể hất chân Hạ Hầu gia đang lớn mạnh một cách dễ dàng như thế? Đây mãi mãi là một nghi vấn có nhiều giả thuyết nhưng không có kết luận cuối cùng. Đến triều đại sau này, khi Thái Minh đế lên ngôi, tác phong hành sự và khí chất của hắn lại khiến không ít người phải thốt lên: "Thiên Hạ" lại thêm một "Thiên Vĩnh"!

Lỗ Lang và Sử Hựu Trát còn chưa phân thắng bại, hoàng thượng áp đảo quần phương, hội võ cứ vậy mà kết thúc. Mọi người đành trông chờ dạ tiệc đêm mười lăm, xem bệ hạ định đoạt thế nào. Những ngày kế tiếp là du săn và đá bóng chân gỗ. Có người vào rừng tìm gấu xám, cũng có người ở lại hành cung. Bóng chân gỗ là trò chơi được ưa chuộng trong dân gian. Người chơi chia hai đội, mỗi đội năm chân đá và một thủ môn. Họ phải đi trên đôi cà kheo cao hai tấc, giành bóng da, dẫn bóng về phần sân đối phương, sút vào cầu môn ghi điểm. Nói thì đơn giản nhưng chơi rất khó, bị ngã khỏi cà kheo là chuyện thường. Luật chơi không quy định nhiều cho nên người ta mặc sức dùng bạo lực đàn áp đối phương, cảnh tượng khá dã man, thường dẫn tới xô xát đánh nhau. Đôi khi bất hòa ngày thường sẽ được nam nhân lôi vào trận đấu giải quyết, tẩn nhau đã đời rồi xí xóa bỏ qua. Bóng chân gỗ thô tục nhưng cũng có cái hay, điểm đặc biệt là sau trận đấu sẽ không ai để bụng chuyện cũ, đây là quy ước ngầm, đàn ông vẫn có cách giải quyết vấn đề của riêng họ.

Giống như hầu hết con gái, Tư Tư không thích xem bóng chân gỗ, nàng chẳng thấy hay ho chỗ nào. Thời gian còn lại của lễ hội săn bắn chỉ có vài ngày, nàng muốn thấy gấu xám, cho tới bây giờ cả hội chưa ai săn được gấu xám. Ca Dương và Tư Tư cưỡi Tiểu Bạch vào rừng, Nha Nha tí tởn chạy theo đuôi, nó cảm giác ngoài kia là tiếng gọi hoang dã, bản chất loài sói kế tục từ máu tổ tiên, bốn chân to khỏe đi trên địa hình rừng rậm rất thành thục. Ngự lâm quân giữ khoảng cách xa, nếu không có hiểm nguy họ sẽ không xuất hiện, nơi đây hoàn toàn thuộc về hai người.

Sáng nay trời lạnh hơn bình thường, cổ chân của Tư Tư đã không đau nữa, nàng bị cuốn trong áo choàng lông rất dày, chỉ lộ khuôn mặt nhỏ ửng hồng vì hưng phấn. Tiểu Bạch phi nước đại tiến vào rừng sâu, cỏ cây hai bên bị đánh dạt ra. Nha Nha giống tia chớp nhỏ chạy theo phía sau, nhảy qua những thân cây ngã chắn đường, có khi phóng lên mõm đá lao xuống, linh hoạt nhanh nhẹn không thua tốc độ của ngựa. Ca Dương vẫn chú ý tới nó, sợ nó bị bỏ lại nhưng Nha Nha nào phải con chó tầm thường. Cuối cùng hắn khẽ cười yên tâm, ra lệnh Tiểu Bạch tăng tốc hướng mặt trời mà đi. Bộ tứ kì lạ xé rừng đạp lá, hù dọa không ít chim chóc. Gió lùa rát da mặt, Tư Tư nhắm mắt nép vào ngực hắn, cười khúc khích nhìn Nha Nha cướp đường chạy đua cùng Tiểu Bạch. Lông trắng ngã hết về sau, dính đầy lá khô và sương sớm lấp lánh, cái lưỡi dài thè ra dưới chóp mũi nhọn, dáng chạy uy lực như một cỗ máy cơ bắp đang guồng quay. Hóa ra Nha Nha có thể chạy nhanh như vậy!

Tư Tư ngồi trên lưng ngựa an toàn, phía sau có vòng tay kiên cố, bên cạnh lại có một hộ vệ đáng yêu. Nàng đột nhiên mong ước bọn họ cứ chạy mãi thế này, chạy tới chân trời góc bể! Đáng tiếc phía trước là một cái dốc, Ca Dương kéo dây cương cho ngựa chậm lại, dừng ở đỉnh dốc nhìn xuống vùng đất xanh rờn bên dưới. Tư Tư không rõ mình đang ở chỗ nào, khu rừng quá lớn nàng không xác định nổi phương hướng, chỉ thấy cảnh đẹp hùng vĩ ngay trước mắt, một dòng sông nước chảy trong vắt, một dãy núi nhấp nhô in lên nền trời, một cánh rừng họ bách chặt chẽ san sát. Ca Dương nhìn xuống cô gái nhỏ, đôi mắt nàng mở to kinh ngạc, thần sắc tươi tỉnh sáng ngời, hắn biết mình đã đến đúng chỗ. Ca Dương kéo chặt vạt áo, thân mật ôm Tư Tư chỉ về nơi xa.

-Ở chỗ đó, phía sau ngọn núi là sáu quận ba châu thuộc về Khương La. Gồm có quận Bắc Hà, Tây Hà, Nam Hà, Đông Hà, Kiến Tạo, Tân Định. Ba châu là Tấn châu, Bình châu, Ngô châu. Vựa lúa lớn thứ hai cả nước nằm ở Bình châu.

Ca Dương lại chỉ về một hướng khác:

-Đi hết cánh rừng đó là eo biển Nam Hải, bến tàu Nam Hải hàng năm là nơi giao thương với các quốc gia bên kia bờ biển. "Thái tượng giữ đất" cũng ở đó. Sông này khởi nguồn từ dãy núi rừng Bách Thượng, chảy theo hướng Tây Nam qua một phần ba lãnh thổ. Ở mỗi nơi nó lại có cái tên khác, Trường Giang cũng là nó, Hạ Giang cũng là nó...

Tư Tư say mê nghe hắn nói, những điều nàng chưa hình dung được, Khương La... Khương La... có bao nhiêu miền đất trải dài, bao nhiêu cánh đồng màu mỡ và cao nguyên mênh mông...

-Vậy còn bên kia?

Nàng vươn tay ra khỏi áo choàng. Ca Dương nhìn theo hướng nàng chỉ, cười nhẹ mà đáp:

-Đi tới chân trời, tới khi muội không đi nổi nữa, mặt đất chỗ đó vẫn là Khương La!

Hắn hơi nghiêng đầu, môi chạm vào vành tai nàng hỏi khẽ:

-Tất cả là giang sơn của trẫm, nàng có hài lòng không?

Tư Tư không hiểu cho lắm, ngẩng đầu nhìn vào mắt hắn, phát hiện bệ hạ cũng đang nhìn nàng. Khoảng cách này không gọi là khoảng cách, chóp mũi hai người suýt chạm nhau. Tư Tư bần thần bị giam trong ánh mắt của hắn, có cái gì đó râm ran hối thúc... Nàng hốt hoảng nhìn về phía trước, lờ đi ngọn lửa dính ở sau gáy.

-Không biết gấu xám ở đâu ấy nhỉ?

Tư Tư cười một tiếng, cố ý ngâm nga, giọng nói như trẻ con. Ca Dương im lặng nhìn chiếc cổ trắng nõn có những sợi tóc không ngoan rơi xuống.

-Gấu ở vùng này không ngủ đông, chúng thích ra sông bắt cá, đi dọc bờ sông sẽ thấy!

Tư Tư gật đầu, nàng hơi hồi hộp khi cánh tay hắn vòng ra trước nắm đoạn dây cương, sau lưng có một nguồn nhiệt trùm xuống. Tư Tư rùng mình vì ảo giác có thứ gì đó mềm mại chạm vào sau gáy, lông tơ dựng đứng, sự đụng chạm chỉ trong tích tắc nhưng xúc giác nói cho nàng biết... nó là một nụ hôn. Tư Tư mím môi im lặng nhìn đường, Tiểu Bạch đi qua con dốc thoải, theo lối tắt tiến gần bờ sông. Ca Dương cũng không nói gì, cả đoạn đường chỉ nghe tiếng tim đập và tiếng móng sắt lộp cộp. Tương Tư có phần mơ màng, cảm giác phập phồng này là sao? Nàng vô thức hơi nghiêng về trước, cách xa thân nhiệt phía sau một chút. Ca Dương nắm bắt mọi sắc thái của nàng nhưng hắn cũng không vạch trần, lợi dụng đoạn đường gập ghềnh mà ôm chặt Tư Tư như cũ, lý do vô cùng chính đáng!

Thần trí cô nàng cứ lòng vòng bay bổng, mãi đến khi bị tiếng sủa vang trời của Nha Nha đánh tỉnh. Chỗ sông chia nhánh có nhiều đá ngầm và cây thủy sinh, là nơi lý tưởng để cá làm ổ đẻ trứng. Một con gấu xám ục ịch đang vục đầu vào nước bắt cá, bờ bên kia loi nhoi bốn chú gấu con. Chúng là lứa mới sinh mùa đông này, có lẽ ra khỏi hang được mấy ngày, đi đứng còn chập chững té lên té xuống. Tư Tư chưa bao giờ tận mắt thấy gấu, nàng "oai" một tiếng, trợn tròn nhìn gấu mẹ gấu con. Hóa ra gấu không đáng sợ như mọi người thường kể, gấu con giống quả banh lông, lăn lăn đùa giỡn với nhau, thỉnh thoảng chạy ra mép nước làm động tác giả bắt chước mẹ chụp cá. Con gấu mẹ thực sự cao to, nó phát hiện người lạ liền chạy vào bờ, có ý định bảo vệ bầy con. Trước khi Tư Tư và Ca Dương phản ứng thì Nha Nha đã phi thân tới, nó thoăn thoắt bơi ngang dòng nước xiết, phóng lên bờ chặn đường lui của lũ gấu. Gấu mẹ nhảy lên trước che chở bầy con, nó hạ thấp người nhe bộ răng nhọn gầm gừ, chi trước giơ lên sẵn sàng vồ lấy con chó. Tay gấu có bốn móng, sức mạnh phi thường, người bị nó vồ không trọng thương cũng vỡ sọ. Nha Nha không chịu thua kém, nó dựng lông cổ, nhe răng nanh trắng phếu nhọn hoắt ra, cơ thể chùng xuống chuẩn bị lao vào ẩu đả. Đây là cuộc đối đầu trong tự nhiên!

Tư Tư sợ hãi muốn gọi Nha Nha trở lại nhưng Ca Dương đã giơ tay ngăn cản.

-Mặc kệ nó, cứ nhìn xem!

Bên kia bốn chú gấu con lao nhao trốn vào bụi cây, đầu nhỏ ló ra run run nhìn gấu mẹ chiến đấu. Gấu và chó là hai loài khác biệt, động tác của chúng đều theo bản năng. Gấu tuy chậm nhưng có lợi thế to lớn, khi nó đứng trên hai chân vững vàng giống bức tường cơ bắp đe dọa đối thủ. Chó Samoyed vẫn còn nhiều đặc tính của chó sói, tuy nhỏ con mà nhanh nhẹn, cả hàm răng chắc khỏe cũng là vũ khí lợi hại. Nha Nha chạy lòng vòng tìm thời cơ, táp một cái rồi giật lùi ra. Gấu mẹ chỉ đứng quanh một chỗ, gồng người lên chờ Nha Nha tấn công. Tiếng hăm he gầm gừ của hai con vật làm cánh rừng náo nhiệt. Chúng quần ẩu rồi kéo nhau xuống mép nước. Nha Nha lắc bộ lông ướt, cả người xù lên như một cục mây. Gấu mẹ cũng ướt đẫm, lông xám chảy xuống dính sát vào da. Hai con vật chơi đến là vui vẻ, quậy tung tóe bên bờ sông. Nha Nha là con chó rất cà chớn, nó tí tởn chọc giận con gấu, lựa mông mà táp. Tư Tư phì cười nói với Ca Dương:

-Nếu gấu đực tới thì phải làm sao?

Ca Dương nghiêm túc trả lời:

-Có người đi theo cắn mông vợ mình, nó không nổi khùng mới lạ!

Dường như bầy quạ bay ngang đâu đây...

Thật ra gấu xám sống đơn độc, không phải mùa sinh sản gấu đực tự đi kiếm ăn, chỉ còn gấu mẹ phải chăm đàn con. Ca Dương lặng lẽ sờ vào thanh cung, hành động này bị Tư Tư phát hiện. Nàng nôn nóng nắm cổ tay hắn.

-Anh muốn làm gì?

-Không phải nàng thích lông gấu sao? Con gấu mẹ đã mệt, đây là thời cơ tốt!

Tư Tư nhíu mày, nhìn bốn gấu con co ro trong bụi cây.

-Hay là thôi đi... nó có con nhỏ, nếu nó chết gấu con phải làm sao? Muội từng nghĩ gấu xám là loài độc ác hung hãn cần phải diệt trừ nhưng hóa ra nó cũng như muông thú trong rừng... săn gấu chả có gì vinh quang hết!

Ca Dương nhẹ cười, khẽ vuốt một lọn tóc mềm.

-Nàng không thích thì thôi... Thật ra săn gấu không dễ, gấu ít khi chết sau một lần bắn nhưng người ta không thể bắn quá nhiều, sợ hỏng bộ da lông của chúng. Gấu có thể bị ngất và tỉnh lại rất nhanh, nếu sơ ý tiếp cận sẽ bị nó giết trong chớp mắt.

Ca Dương nhìn trận chiến chưa có hồi kết, giơ tay lên miệng huýt một tiếng dài. Nha Nha dựng đứng lỗ tai quay đầu bỏ chạy, nó bơi qua sông trở về bên họ. Con chó vận động mạnh nên thở phì phò, lông bẩn, bốn chân dính sình. Tư Tư bật cười cúi xuống xoa xoa đầu nó.

-Lát nữa trở về xem Tiểu Mai xử lý mày thế nào!

Gấu mẹ dẫn gấu con chạy nhanh vào rừng, cả nhà thoát một nạn. Ca Dương lại cho ngựa đi dọc con sông, gặp thêm không ít gấu xám nhưng hắn không săn con nào. Hai người thong dong đi dạo, ngắm cảnh đẹp, bình luận về động vật, mãi đến khi mặt trời lên cao mới tìm đường quay về.

Những ngày du săn khép lại, buổi chiều trước khi hồi kinh ở hành cung tổ chức dạ tiệc. Thức ăn là thành quả đi săn của mọi người, ban thưởng cũng được công bố. Ngoài tiệc tất niên mỗi năm thì hội săn bắn mùa đông là dịp lớn các đại thần tề tựu. Trong chính điện, hoàng đế ngồi ở cao, bên cạnh có Dung phi và Quận chúa, dưới là hoàng thân cùng triều thần. Cáo mệnh phu nhân và các tiểu thư nhà quan mở tiệc ở ngoài điện, do Hoàng hậu chủ trì. Phân chia như vậy tránh cho chính điện quá tải, cũng để mọi người thoải mái hơn.

Hoàng hậu không có mặt, mọi người chú ý tới Dung phi nương nương một thân hồng cánh sen ngồi cạnh bệ hạ. Hậu cung Thái Minh đế vắng vẻ là chuyện ai cũng biết, nếu bây giờ có một phi tần mang thai nhất định là tin chấn động. Dung phi xuất thân cao quý, đường đường là công chúa Trung Lương, hơn nữa nàng tuổi trẻ xinh đẹp, được sủng ái vô vàn, khó nói trước tương lai tiến xa cỡ nào. Quần thần nuôi tâm tư riêng, tuy nói nói cười cười nhưng ánh mắt thường nhìn lén bên trên, muốn tìm chút manh mối có giá trị.

Triệu Phi Liên đêm nay đặc biệt diễm lệ, nàng mặc váy hồng, tóc vấn kiểu linh xà kế, điểm lên bướm vàng và trâm ngọc bích, kim bộ diêu đung đưa theo từng cử động mê người. Dung phi dính ở bên hoàng thượng, dịu dàng trò chuyện, chốc chốc lại bóc hoa quả đưa cho ngài. Ca Dương vẫn giữ khuôn mặt nhàn nhạt vui ý, trông hòa nhã mà cũng xa cách. Hắn ăn tượng trưng vài múi cam, sau đó chuyển tay đưa cho Tư Tư. Hôm nay Quận chúa có vẻ không vui, hơi trề môi nhàm chán xem hát múa. Ca Dương thấy vậy len lén nắm bàn tay nàng trong ống áo rộng, động tác này làm mãi thành quen.

-Bệ hạ... thần thiếp rót rượu cho chàng...

-Ái phi không cần động tay, nàng ăn gì đó đi, để Tiểu Ninh Tử làm!

Ninh công công lập tức lấy bình rượu từ tay Dung phi, động tác vừa đủ kính cẩn. Mấy hôm nay hắn theo lệnh của bệ hạ cho người theo dõi Dung phi sát sao. Quả nhiên tìm ra chút manh mối. Thủ đoạn của họ vừa kín đáo vừa bí mật, nếu không phải ám vệ được đào tạo tốt và kinh nghiệm nhiều năm sẽ không phát hiện ra. Ví dụ như Nguyên Kế Sinh nổi hứng muốn đi dạo, thấy cây đào nở đẹp liền đến gần ngắm nhìn một lúc. Vài ngày sau Dung phi dẫn cung nữ đi ngang qua, cũng dừng lại ngắm hoa đào. Nói ra không có gì đặc biệt nhưng bọn họ đã truyền tin cho nhau bằng cách này. Mẫu giấy rất nhỏ dính ở nhánh cây, chỉ cần giơ tay sờ hoa là rơi vào tay áo. Ninh công công xác định phía sau Triệu Phi Liên không chỉ có Trung Lương mà Đại Thế cũng là đồng lõa.

Đêm qua lão báo cáo với bệ hạ, hoàng đế híp mắt nghĩ ngợi một lúc: "Không thể đánh rắn động rừng, cần xoa dịu con mồi dụ nó ra khỏi ổ!" Dạ tiệc bắt đầu được một lúc, sau khi điệu múa lụa kết thúc Ninh công công khom người chờ ý chỉ của bệ hạ. Ca Dương vẫy tay cho vũ công lui ra. Bên dưới lập tức trật tự nhìn lên.

-Giờ Dần sáng sớm mai sẽ khởi giá hồi kinh, cho nên yến tiệc này các khanh cứ thoải mái ăn uống, trẫm miễn cho nghi thức rườm rà. Hội săn năm nay rất thành công, thợ săn bắt được nhiều con mồi nhất sẽ được trọng thưởng nhưng trước tiên trẫm có một chuyện hệ trọng phải tuyên bố trước...

Ninh công công vỗ tay hai cái, thái giám bưng ra chiếc khay bạc, bên trên là thánh chỉ đã được niêm phong. Ninh công công trịnh trọng dùng hai tay cầm lên, tháo băng lụa mở chiếu thư ra.

-Dung phi nương nương tiếp chỉ!

Triệu Phi Liên giật mình ngẩng đầu. Nàng ta nhìn bệ hạ một cái rồi hồi hộp quỳ xuống.

-Có thần thiếp!

-Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết: Dung phi họ Triệu phẩm hạnh cao quý, hiền lương thục đức, tư chất vô song. Nay trẫm tấn phong Dung phi làm Hoàng quý phi, an bài ở cung Trúc Uyển. Khâm thử!

Thánh chỉ súc tích ngắn gọn, Ninh công công đọc xong khép lại, bên dưới là một mảng im lặng, Dung phi cũng ngẩn người ra.

-Nương nương, mời tiếp chỉ!

-Thần... thần thiếp tiếp chỉ. Đa tạ hoàng thượng. Ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế...

Triệu Phi Liên run run nâng cao tay nhận thánh chỉ, trong mắt là sự khát vọng điên cuồng. Khi nàng đứng lên thì quần thần cũng đồng loạt quỳ xuống.

-Hoàng quý phi nương nương thiên tuế, thiên tuế, thiên thiên tuế...

Triệu Phi Liên kích động quay lại nhìn, nàng chưa từng bước lên đỉnh cao như thế. Mười năm làm công chúa Trung Lương, chịu đớn đau thể xác, bị lợi dụng sai khiến như con chó, cuối cùng ông trời cũng đền đáp công bằng. Nàng hoàn toàn xứng đáng với những gì có được hôm nay. Tuy hơi khó tin nhưng nàng đã chiếm vị trí đặc biệt trong trái tim nam nhân kia... Phi Liên cảm thấy không bao lâu nữa mình sẽ trở thành độc nhất vô nhị. Nét cười hiện lên trên khuôn mặt diễm lệ, đủ kiêu ngạo, đủ đắc ý. Ca Dương nhàn nhạt quan sát, hắn hơi tức giận vì khuôn mặt giống hệt A Dung lại mang biểu cảm không thuộc về A Dung. Ca Dương đã nghĩ thông suốt. Nếu hắn không giống Hạ Hầu Vĩnh Khang ở kiếp trước thì chẳng lý nào "nàng" lại cùng bộ dạng với "nàng" kiếp này. Mỗi vòng luân hồi là một quy luật nhân quả, người ta đầu thai với thân phận khác, gia cảnh khác, cha mẹ khác... Bề ngoài cũng vì vậy mà đổi thay. Thể xác chẳng qua là lớp vỏ tạm bợ cho linh hồn, sau mấy chục năm nó cũng hết thời hạn. Suy nghĩ như thế, hắn chẳng còn tí nào yêu thích đối với gương mặt của Dung phi nữa...

Quần thần bên dưới chúc mừng rôm rả, hoàng đế cười cười chỉ lo uống rượu. Quận chúa nhìn Dung phi thu hết ánh hào quang, tự nhiên thấy lòng bực bội khó chịu, dứt khoát giật tay về. Nàng giận! Ca Dương hơi nhướng mày liếc qua, nhìn bộ mặt hờn hờn tủi tủi chưa từng thấy của Tư Tư. Hắn biết nàng không thích Dung phi, chuyện tấn phong này có mục đích khác, hắn nghĩ đợi tiệc tan phải giải thích một chút. Ca Dương thử mò mẫm sang ghế bên cạnh nhưng hết lần này tới lần khác bàn tay nhỏ kia đều kháng cự dời đi. Hắn đành thở dài bỏ cuộc...

Sau khi Hoàng quý phi được tấn phong, dạ tiệc càng náo nhiệt chúc mừng người đạt danh hiệu thợ săn giỏi nhất với tổng cộng hai mươi sáu con mồi. Có vài người săn được gấu xám, hoàng thượng cũng ban thưởng hậu hĩnh. Đến khi nhắc tới quán quân hội võ, triều thần đều trông mong phán quyết của bệ hạ. Dẫu rằng chính ngài bon chen làm hỏng hội thi nhưng không thể tự nhận làm quán quân được. Vậy thì Lỗ Lang và Sử Hựu Trát phải phân tranh thế nào?

-Hội võ năm nay có nhiều chuyện khó lường. Trước mắt, Đô ái khanh có thỉnh cầu gì để trẫm suy xét?

Đô Thư Doanh từ đầu đến cuối chỉ im lặng thưởng rượu, khi bị nhắc tên mới lò dò đứng lên.

-Muôn tâu bệ hạ, hiện tại vi thần chưa có chuyện thỉnh cầu, có thể cho thần nợ lại không?

-Ha, lại còn để dành dùng sau! Thôi cũng được nhưng chỉ có một điều duy nhất, khanh tự cân nhắc đi.

-Đa tạ hoàng thượng!

Ca Dương dời mắt nhìn xuống người nào đó bên dưới, nhàn nhạt nói tiếp:

-Còn về ngôi vị quán quân, bởi vì Thập thất hoàng tử và Sử Hựu Trát không ai chiến thắng chung cuộc nên trẫm ban thưởng như nhau. [Bài miễn tử] thuộc về Sử công tử, phần của Lỗ hoàng tử sẽ thay thế bằng huân chương dũng sĩ danh dự. Không biết hoàng tử hài lòng chưa?

Huân chương mà Ca Dương nhắc tới cũng không có gì ghê gớm nhưng được cái danh tiếng. Huân chương dũng sĩ dành cho người có công lao với triều đình, tôn vinh kẻ sĩ phu. Ở một làng có người nhận huân chương cũng giống như vinh quang cho cả họ, trưởng thôn phải kính nể người này, trong mọi chuyện đại sự tiếng nói của người này đều có trọng lượng. Cho nên, huân chương dũng sĩ không có lợi về vật chất nhưng là thứ đánh bóng uy danh.

Lỗ Lang ngồi một bàn riêng lẻ bên dưới chúng hoàng thân. Tối hay hắn có vẻ đạo mạo trang trọng, mặc áo chéo vạt thêu huyền điểu, đeo đai lưng vàng treo khối ngọc bội xanh lam, đầu tóc chải chuốt bảnh bao, cả người toát lên một vẻ gọn gàng xán lạn. Lỗ Lang híp mắt cười, bớt đi một chút lưu manh, thêm vào mấy phần nho nhã. Người này... biến hóa ghê gớm thật!

Lỗ Lang đứng lên, bước ra lối đi giữa điện hướng mặt về phía hoàng đế. Lần này mỗi cử chỉ của hắn đều có phép tắc nghi lễ, trông vương giả đường hoàng.

-Ngô hoàng ban thưởng hậu hĩnh, ta đây hết lời cảm tạ! Sẵn dịp vui lớn này, Đại Thế cũng có chút lòng thành gọi là giao hữu lâu dài...

Hắn dứt lời, ngoài cửa điện từng tốp hộ vệ khiêng hòm xiểng đi vào. Đây là tất cả hành lý đoàn sứ thần đem theo. Lỗ Lang từ tốn mở từng nắp rương, châu báu ngọc ngà làm lu mờ ánh sáng dạ minh châu trong đại điện. Mọi người rướn cổ nhìn theo, bị líu lưỡi vì trình độ xa hoa của Đại Thế. Ngọc trai to như vậy họ chưa từng thấy, đồ chặn sách đúc vàng rồng, cẩn huyết ngọc hồng ngọc lam ngọc... Một rương khác thì chứa toàn gấm quý. Ở Khương La, loại vải này mỗi năm chỉ dệt ra một trăm tấc. Thế mà Lỗ Lang đem tới đầy một rương, ít nhất phải hơn nghìn tấc vải. Còn có hai hòm dược liệu làm ngự y đỏ mắt mà nhìn. Lỗ Lang giới thiệu sơ qua, sau đó mở cái rương thứ năm.

-Đây là kinh Phật và tượng Bồ Tát nạm hồng thạch, xin kính biếu Thái hậu nương nương. Kinh thư này không phải vật tầm thường, nó là đoạn cuối trong bộ [Đại từ bi chú] bị thất lạc từ lâu. Sau khi chùa Thiếu Lâm bị hỏa hoạn, hai quyển kinh và tượng Bồ Tát đã được giải cứu, do Đại Thế bảo tồn đến ngày nay...

Trong điện có không ít người sùng Phật, vừa nghe tới hai món bảo vật họ liền kích động suýt khóc. Quả thật của cải đánh vào vật chất lẫn tinh thần! Nếu Thái hậu có mặt lúc này, nói không chừng bà sẽ lập tức đem kinh và tượng giấu đi. Lỗ Lang hài lòng nhìn triều thần Khương La lộ ra vẻ tham lam, tiếp tục mở năm rương còn lại, vật sau càng quý giá hơn vật trước, đến Quốc bảo cũng đưa tới.

Từ đầu tới cuối Ca Dương không chút lay động, chỉ trầm ngâm nhìn núi châu báu lấp la lấp lánh. Hắn thấy thất vọng vì thần tử của mình dễ bị mê hoặc đến thế. Chẳng lẽ Quốc khố Khương La còn không bằng một chút "bạc vụn" Đại Thế đem tới? Trình diễn khoe giàu xong rồi, Lỗ Lang hướng về phía hoàng thượng chân thành nói:

-Không dám múa rìu qua mắt thợ, chỗ này nhỏ nhoi mong Thái Minh đế đừng chê bai. Ta lấy danh nghĩa chính cung hoàng tử Đại Thế xin được cầu hôn Minh Châu quận chúa của quý quốc. Hai phần sính lễ còn lại tháng sau sẽ dâng đủ!

Lỗ Lang dứt lời, không khí trong điện bị nghẹn lại như gà mắc dây thun. Triều thần há mồm trợn tròn mắt, đảo qua mười rương "sính lễ", tuy có hơi tiếc nhưng đành nuốt ngược vào trong. Châu báu quý thì có quý nhưng mà Quận chúa điện hạ sao có thể so sánh được? Bọn họ há có thể vì chút xíu tài sản này mà đem Quận chúa gả cho ngoại bang?

Ngồi ở trên kia, Tư Tư giận đến run người. Hắn nói cái gì? Đòi cưới nàng à? Nằm mơ đi! Tư Tư nóng nảy nhìn qua bệ hạ, chỉ thấy Ca Dương đột nhiên cười khùng khục, xoa cằm hỏi Lỗ Lang:

-Trẫm không nghe được tiếng chim cò, ngươi có thể nói tiếng người không?

Lỗ Lang giật giật khóe miệng, cố gắng giữ nguyên nụ cười lại tha thiết khẩn cầu:

-Ngô hoàng thích đùa. Ta đây thật lòng thật dạ mến mộ Quận chúa, ngay từ cái nhìn đầu tiên đã không thể buông tay. Được phụ hoàng cho phép, ta xin thể hiện thiện chí bằng chiếu cầu hòa này...

Trước khi đến Khương La, Lỗ Tông Phi đã lường trước mọi tình huống. Chắc chắn Chu Lạc Ca Dương không dễ dàng đáp ứng, vì vậy phải đem giang sơn của hắn ra làm mồi nhử, thứ này so với nhi nữ thường tình quan trọng hơn nhiều! Ninh công công đi xuống lấy "chiếu cầu hòa", đứng giữa điện đọc to. Đại khái ý nói nếu hôn sự này thành, trong vòng năm năm ải Bình Thành sẽ ngừng chiến, đồng thời bồi thường chín vạn hoàng kim. Các tướng ở đây đều sáng mắt lên, họ rất hiểu chiến sự liên miên ở Bình Thành là gánh nặng lớn nhất của triều đình, tiêu tốn quốc khố, hao tổn binh lực. Nếu Đại Thế ngừng chiến, đây là cơ hội tốt để Khương La phục hồi, đợi năm năm qua đi thì một mẻ thu gọn! Chiếu cầu hòa đáng giá hơn sính lễ rất nhiều!

Triều thần bắt đầu lung lay, nhìn lên bệ hạ mong chờ. Giữa bầu không khí im lặng giằng co đó, Tề vương đột nhiên đứng lên. Cùng độ tuổi với hoàng thượng, Tề vương Chu Lạc Huyên Kim là một nam nhân rắn rỏi, nước da ngăm đen, tuổi trẻ vẫn còn lưu lại trong đôi mắt lấp lánh của một người lòng đầy tham vọng. Từ khi tân hoàng lên ngôi, hắn bị đuổi về đất phong ở Đông Hoang, kiên trì xây dựng thế lực riêng mặc do Ca Dương âm thầm áp chế rất nhiều năm. Ca Dương không đào tới gốc rễ, không muốn Khương La nội loạn, chẳng biết đây là quyết định sáng suốt hay sai lầm?

Lúc này Tề vương nhìn lên hoàng đế, bộ dạng chính nhân quân tử mà nói:

-Bệ hạ, thành ý của Đại Thế rõ ràng như vậy, chúng ta không nên cự tuyệt. Ai cũng biết bệ hạ yêu quý Quận chúa, không muốn nàng gả đi xa nhưng mà xét trên thân phận, là Quận chúa đương triều phải có trách nhiệm bổn phận với đất nước. Nàng hòa thân đổi lấy hòa bình, điều này cao quý biết bao! Đường muội nói có đúng không? Chẳng lẽ muội có thể ngồi nhìn biên giới loạn lạc gần chục năm mà không ra tay cứu giúp?

Tề vương dứt lời thì một tiếng bát vỡ vang lên. Chu Lạc Tịch Tề đập chén đứng dậy:

-Đường ca! Huynh nói như vậy sao công bằng? Quận chúa đương triều không chỉ một mình Tương Tư, huynh có hai cô con gái đến tuổi cập kê, sao không cho các nàng đi hòa thân đổi lấy "vinh quang" đi! Chiến tranh là chuyện của đàn ông, lấy một cô gái ra gánh vác là đồ hèn!

Tề vương đối địch với bệ hạ lâu nay, mà cả nhà Hòa An vương cùng hoàng thượng lại giao hảo. Lẽ dĩ nhiên Chu Lạc Huyên Kim muốn nhân cơ hội nào quấy phá mối thâm tình giữa bọn họ. Nếu Quận chúa hòa thân, không chỉ Tịch Tề mà cả năm anh em sẽ trở mặt với bệ hạ. Không khí trong điện nực mùi thuốc pháo, Lỗ Lang híp đôi mắt cáo, nhìn lên Tư Tư đang bồn chồn âu lo. Tuy cầu thân là kế hoạch của Lỗ Tông Phi nhưng chính Lỗ Lang cũng chấp nhận rồi, hắn thực sự hứng thú với Minh Châu, hứng thú hơn bất cứ nữ nhân nào. Lỗ Lang cắn môi suy nghĩ, hắn đã tự ý chuẩn bị đòn sát thủ cuối cùng, có thể Bát ca sẽ tức giận nhưng Lỗ Lang chỉ muốn cướp mỹ nhân vào tay!

-Các vị, các vị... xin chớ vì chuyện này mà bất hòa. Nếu ta chưa thể hiện đủ thành ý thì đây, phần lễ vật này Lang mỗ cũng muốn làm sính lễ, như vậy không biết Quận chúa có hài lòng không?

Hắn lấy ra một cuộn giấy, nói với Ca Dương:

-Trên tay ta là kế ước đất đai. Tuy chưa chính thức được phong vương nhưng phụ hoàng đã cấp đất phong hai năm trước. Sau khi Thái tử lên ngôi, ta sẽ thành Chiến vương sở hữu năm quận và một châu phía Tây Nam, bao gồm cả thành Hòa Lợi giáp biên giới Khương La. Nếu Quận chúa hòa thân, Lang mỗ sẽ hai tay dâng thành Hòa Lợi sáp nhập vào lãnh thổ quý quốc!

Toàn triều máu sôi sùng sục! Trời đất ơi, một tòa thành đấy! Năm xưa Thiên Vĩnh đế đem quân xâm chiếm năm thành của Đại Thế, sau khi ông băng hà Đại Thế giành lại bốn thành. Một tòa thành không chỉ có giá trị về lãnh thổ mà còn là sĩ diện quốc gia. Cắt đất cho nước khác như vậy mà Lỗ Lang cũng làm được!

Tề vương sảng khoái cười to, chắp tay nói với hoàng thượng:

-Thâm tình đến mức này bệ hạ còn chần chừ gì nữa? Thành Hòa Lợi có vị trí quân sự chiến lược, Đại Thế tỏ rõ lập trường, chúng ta không nên do dự nữa! Hoàng thượng, ngài phải suy nghĩ cho đại cục, một mối hòa thân này lưu danh sử sách, vẻ vang cho Quận chúa và cả Chu Lạc gia. Mọi người thấy có đúng không?

Phe cánh của Tề vương nhao nhao ủng hộ, những người khác quyết định giữ im lặng. Tịch Tề giận run mà không biết nói gì. Lỗ Lang thực sự hạ sát chiêu, giờ chỉ còn trông chờ vào bệ hạ. Tịch Tề không tưởng tượng nổi, cô em gái bé bỏng của hắn, muội muội mà cha anh nâng niu trong tay, nàng sẽ trở thành vật hy sinh chính trị sao?

Tư Tư đã trưởng thành, nàng nhìn nghe đều hiểu hết. Lúc này gần như tất cả triều thần đang mong ước nàng gả cho Lỗ Lang. Một vị Quận chúa đổi lấy chiếu cầu hòa, một tòa thành, chín vạn hoàng kim và bao nhiêu châu báu. Có phải quá hời không? Tư Tư tựa lưng vào ghế, không dám nhìn hoàng thượng. Đột nhiên nàng thấy mình bé nhỏ làm sao. Hôm trước hắn đã hỏi: "Tất cả là giang sơn của trẫm, nàng có hài lòng không?" Tư Tư rất hài lòng nhưng mà chàng có hài lòng không?

Ca Dương vẫn thờ ơ như cũ, hắn ở trước ánh mắt trông ngóng của triều thần, ánh mắt cầu xin của Tịch Tề, ánh mắt thách thức của Huyên Kim, rồi cả ánh mắt đắc ý của Lỗ Lang. Nhẹ nhàng bao lấy bàn tay run run của Tương Tư, Ca Dương chẳng có chút do dự mà nói:

-Chuyện này... trẫm không đồng ý!

Tề vương nhíu mày phản bác ngay:

-Bệ hạ, lý do nào ngài không đồng ý, phải cho mọi người ở đây một lý do chính đáng chứ!

Ca Dương nhìn Huyên Kim bằng nửa con mắt.

-Khương La xem trọng chữ tín, trẫm đã hứa gả cho người khác thì không thể vì danh lợi mà đổi ý được!

Ca Dương chỉ tìm một cái cớ, hoàn toàn không nghĩ đến hệ lụy của nó. Tề vương cười gằn hai tiếng, không chịu thua hỏi tiếp:

-Là ai? Bệ hạ hứa gả cho ai?

Ca Dương bực mình nhíu mày, cái tên này, đã nói như vậy mà còn bám riết không tha! Khi Ca Dương chưa nghĩ xong đối sách thì Sử Hựu Trát đã đứng lên, chắp tay nói với Tề vương:

-Vương gia lượng thứ! Quả thật bệ hạ đã chỉ hôn Quận chúa cho vi thần!

Oa! Mọi người chợt tỉnh ra. Thảo nào, thảo nào! Tịch Tề mở to hai mắt, cười ha hả chạy tới vỗ vai Hựu Trát:

-Đúng! Đúng! Phụ vương ta rất vừa ý con rể tương lai. Tháng trước viết thư xin ban hôn rồi! Quân vô hí ngôn tứ mã nan truy! Lỗ Lang ngươi chấp nhận đi! Quận chúa không gả cho ngươi được đâu!

Ca Dương bị biến chuyển bất ngờ này làm cho giật mình, hắn lập tức trừng mắt nhìn Sử Đình Thành. Lão già chết tiệt! Lời nói của trẫm như nước đổ lá môn phải không??? Sử đại nhân co rúm lau mồ hôi. Con ơi là con... con cứ thế này cái đầu của cha phải làm sao nhặt về đây!?

Tư Tư ngơ ngác, nàng và Sử đại ca sao? Vì sao không ai nói với nàng chứ??? Nàng đồng ý hôn sự này từ bao giờ chứ!? Vẻ mặt như khỉ ăn ớt của Tư Tư bị Tề vương chú ý. Hắn gian xảo vô cùng, lập tức bắt được đầu mối!

-Bổn vương thấy Quận chúa không cam tâm tình nguyện, liệu có phải hoàng thượng chỉ tìm cái cớ từ chối thôi không?

Sử Hựu Trát nghe vậy nhìn lên Tư Tư, quả thật nàng không vui vẻ chút nào. Hắn biết mình hơi đường đột nhưng mà cưới nàng là ý nguyện từ rất lâu rồi. Hựu Trát cân nhắc thận trọng, nếu bệ hạ không muốn hòa thân vậy thì hắn đứng ra làm lá chắn, nhất định bệ hạ sẽ hài lòng! Lấy đủ tự tin, Hựu Trát mỉm cười đối đáp với Tề vương:

-Vương gia thật vui tính. Thần và điện hạ quen biết lâu năm, tình cảm sâu nặng, tất nhiên hôn sự này có sự đồng ý từ hai phía!

-Hai phía? Có đúng thế không Quận chúa?

Tề vương dùng ánh mắt uy hiếp. Mọi người đều nhìn vào Tư Tư, ngay cả Ca Dương cũng đang nhìn thẳng nàng bằng ánh mắt sắc bén... Tư Tư chưa từng bị tứ phương tám hướng chiếu tướng thế này, thần kinh chịu không nổi áp lực, lắp bắp nói:

-À... ta... là... là... đồng... đồng ý!

Tiếng "đồng ý" bé như muỗi kêu, vừa đủ cho Ca Dương nghe thấy. Hắn lập tức đứng bật dậy, vẻ mặt như cuồng phong vũ bão đang kéo tới. Nàng đồng ý, nàng nói nàng cũng đồng ý, cũng có "tình cảm sâu nặng" với Sử Hựu Trát!!! Gân xanh trên thái dương giật đau đớn, Ca Dương hơi loạng choạng lấy thăng bằng. Ở giữa bao người, hai nam nhân đều có thể nói rằng họ yêu thích nàng, muốn thành thân với nàng. Lời này dễ bày tỏ như thế mà hắn không nói được. Ca Dương thấy mấy trăm khuôn mặt ở bên dưới chao nghiêng, giống như giễu cợt thứ tình cảm nhen nhóm của hắn. Nàng là ai còn quan trọng nữa sao? Hạ Hầu Vĩnh Khang yêu Sở Phù Dung bao nhiêu, bây giờ hắn thấy mình cũng yêu Tương Tư bấy nhiêu, chỉ có cơn hoảng hốt khi sắp mất đi người thương mới khiến hắn nhận ra sức nặng của tình cảm này!

-Sử Hựu Trát loạn ngôn hàm hồ, kéo ra đánh năm mươi trượng!

Ca Dương làm lơ với bàn tay giữ chặt cổ tay hắn, Tư Tư thấy Hựu Trát đột nhiên bị phạt không khỏi lo lắng, mở miệng muốn nói đỡ. Nàng càng như thế Ca Dương càng thấy phát điên!

-Lỗ Lang ngươi nghe cho rõ đây! Sính lễ của ngươi chẳng là cái thá gì, năm năm ngừng chiến giống như phút giải lao vô nghĩa, trẫm không cần thứ hòa bình giả tạo đó! Chín vạn hoàng kim của các ngươi không đủ dính răng mà thành Hòa Lợi nếu trẫm muốn sẽ tự mình tới lấy. Còn chờ ngươi dâng lên sao? Một lũ quan tham thấy lợi trước mắt mà không tính đại cuộc sau này. Nuôi các ngươi tốn cơm tốn gạo! Tất cả về nhà đóng cửa tự suy nghĩ đi!

Một tràng mắng từ Đại Thế mắng tới Khương La. Lỗ Lang chưng hửng, Tề vương trầm mặt, Hựu Trát bị lôi đi hành hình, những người khác cũng đần mặt đủ kiểu. Thái Minh đế phất tay áo bỏ đi, để lại một đại điện ngổn ngang trăm mối...

Chương 6: Phù Dung Trì

-Hoàng thượng, giờ Mẹo sáng nay nhóm Lỗ Lang và sứ thần đã ra khỏi biên giới, không có động thái gì mờ ám. A Mị cũng điều tra được, Triệu Phi Liên liên lạc với bên ngoài nhờ vào một con kim tước mang bên người. Loại chim này đã trải qua huấn luyện, có khả năng ghi nhớ giai điệu, truyền đi dưới dạng tiếng hót. Gần đây Tề vương thường xuyên giao thiệp với một gã sĩ phu họ Minh, lai lịch không rõ, trước mắt chỉ biết hắn cố ý tiếp cận vương gia, đang từng chút thâm nhập vào phe cánh ở Đông Hoang. Bình Thành vẫn trong giai đoạn ngừng chiến, tuy nhiên đáng chú ý là phía nhà Mạc có động tĩnh lạ, một vài nhóm du mục bỗng nhiên xuất hiện, mon men quanh quẩn ở khu vực biên giới. Bởi vì họ không cố ý vượt biên, không gây rối cho nên phía ta chỉ duy trì quan sát. Ở Phượng Triều tất cả đều ổn, tháng tới Phượng Thể lập Hậu, thân thế của hoàng hậu hơi đặc biệt, nàng là phi tần của Phượng Trầm, là em gái ruột của Hoàng thái hậu...

Nói mãi tới đây, Phong cũng ngừng lại tự cảm thán. Nhớ năm đó hắn bảo hộ Thập lục hoàng tử, ba phen bốn bận bị Phượng Doãn, Phượng Vận cho người ám sát. Con đường đến ngai vàng của Phượng đế thật không dễ dàng. Sau mấy năm ngồi vững trên cương vị, cuối cùng Phượng Thể đã công thành danh toại, nắm vận mệnh trong tay, thách thức tất cả luân thường đạo lý, chỉ hành động theo ý muốn đến trời cũng không ngăn nổi! Làm được như vậy, thiên hạ nào có mấy ai?

Hiện tại là mùng sáu tháng Chạp, lễ hội săn bắn đã kết thúc một tuần nhưng dư âm của Bách Thượng vẫn còn lưu lại trong triều. Nếu không kể tới đêm dạ tiệc thì có thể coi mùa lễ hội năm nay thành công mỹ mãn. Lỗ Lang cầu hôn thất bại, ngày hôm sau lập tức bị lệnh trục xuất, cấm nhập cảnh vào Khương La trong vòng ba năm. Bệ hạ xử lý không nặng tay nhưng cũng khiến Thập thất hoàng tử mất hết mặt mũi, gián tiếp làm xấu thêm mối quan hệ vốn chẳng tốt đẹp giữa hai nước... Triều thần lên tiếng phản đối, hoàng đế hành động cảm tính, không để vào tai, thêm cả vụ việc Sử công tử bị phạt năm mươi trượng khiến cho mấy vị Cáo mệnh phu nhân dường như nhận ra tín hiệu nào đó, không dám lôi thôi nhắc tới hôn sự của Quận chúa Minh Châu nữa...

Quay về Đế Đô, mọi thứ lại nề nếp như cũ, ám vệ vẫn phải thực hiện nhiệm vụ hàng ngày. Lúc này thư phòng chỉ đốt ngọn đèn mờ, Ca Dương ngồi trên chiếc ghế quen thuộc, cả người bị bóng tối nuốt chửng. Gần đây không khí trong triều có phần âm u đáng sợ, những buổi chầu cũng tĩnh lặng hơn, không có tiếng oang oang cãi vã như thường lệ. Từ đại thần cho tới gã thị vệ cũng cảm nhận được, bệ hạ dạo này luôn luôn nhíu mày, tâm tình buồn bực, giống như cái ấm nước sôi có thể phun trào bất cứ lúc nào. Ở đời khó đoán nhất là long tâm, thay vì thăm dò lòng vua, thà về nhà nhắc nhở vợ con, ít ra ngoài, ít gây chuyện, thành thật một chút kẻo rước họa vào thân!

Lúc này Phong đứng dưới thư án, vẫn bộ đồ ám vệ đen thui bó người, đeo mặt nạ ngang sống mũi. Hắn trông lên vẻ mặt như quỷ la sát của Ca Dương mà thầm nguyền rủa hai tên Lôi Trì, đúng là huynh đệ không bằng cắc bạc, ai cũng cao chạy xa bay, để một mình hắn ở trong kinh chống đỡ, mỗi ngày đứng trước mặt bệ hạ làm bài kiểm tra tâm lý...

-Đã biết, còn chuyện gì nữa không?

Tất nhiên là còn, Phong ước gì mình có thể nói hết. Hắn đảo tròn mắt, quyết định câu giờ:

-Bẩm, có một chuyện liên quan tới Hoàng hậu nương nương. Thuộc hạ phát hiện gần đây Đô đại nhân lui tới Phượng Nghi cung hơi nhiều, có lúc còn ở qua đêm... Không biết...

Ca Dương mân mê hai viên lam thạch, đối với tin tức "giật gân" này không có phản ứng gì lớn.

-Phái một người đi theo Đô Thư Doanh giúp hắn che giấu, đừng để người ngoài phát hiện! Kiểm tra hết cung nhân ở chỗ Hoàng hậu, kẻ nào không biết kín mồm thì xử lý sớm, tránh lưu hậu họa!

-Vâng ạ!

Phong líu lưỡi đáp lại, lần nữa có thêm hiểu biết mới về quan hệ của đế – hậu, không chỉ cảm phục Đô Thư Doanh ăn gan hùm dám cắm sừng bệ hạ mà còn khâm phục cả hoàng thượng vừa rộng rãi lại nhân từ, hiểu rằng tình yêu không có tội!?

-Ngoài chuyện này còn chuyện gì nữa không?

Còn, tất nhiên vẫn còn! Phong nuốt nuốt nước bọt, biết là tai kiếp này tránh không khỏi.

-Bẩm... hôm qua Quận chúa lại sai Tiểu Mai xuất cung, đem theo không ít dược quý và thức ăn bồi bổ đến phủ đô đốc quân. Sử phu nhân từ chối nhưng Tiểu Mai đã được phân phó, ép bà phải nhận. Sử gia sau phen này rốt cuộc hiểu rõ tâm ý của bệ hạ, hoàn toàn giam lỏng Sử công tử ở nhà, cắt đứt thư từ qua lại của hai người. Sử Hựu Trát phản ứng mạnh, bị Sử Đình Thành đánh hai bạt tai, đòi từ mặt hắn. Sử phu nhân rất khổ tâm, vừa khuyên chồng vừa khuyên con. Có đêm Sử Hựu Trát trèo tường trốn đi, ám vệ phát hiện, kịp thời đánh ngất hắn, đem trở về phủ... Quận chúa không biết được tình hình Sử công tử nên rất lo lắng, cứ đòi xuất cung... Thuộc hạ đã căn dặn đồ đệ chú ý khuyên bảo điện hạ!

Phong nói hết, mặt cúi gằm xuống, chờ nghe bệ hạ nổi cơn tam bành. Nhớ ngày trước trong tổ ám vệ lưu truyền "bí kíp" sinh tồn, một khi tâm trạng hoàng đế chuyển biến xấu, chỉ cần kiếm cớ báo cáo ít chuyện liên quan tới Quận chúa là ngài sẽ xẹp xuống, thuộc hạ bọn họ cũng thở phào may mắn. Bây giờ thì nhìn đi, vận đổi sao dời rồi, thế cuộc khác xưa rồi, hoàng thượng mà nghe đến chuyện của Quận chúa thì y như ăn nhầm thuốc nổ, ở đời hiếm ai có khả năng chọc giận Thái Minh đế đến mức độ này!

Phong im lặng chấp nhận số phận nhưng mà lần này thật kì lạ, hắn không nghe thấy tiếng đỗ vỡ gì hết, cả thư phòng chìm vào yên tĩnh lạnh lẽo, rất lạnh lẽo... Phong nghi ngờ nhìn lên, thị giác của ám vệ rất lợi hại, trong bóng tối vẫn nhìn rõ sắc mặt bệ hạ trắng nhợt, mí mắt thâm quầng vì mất ngủ nhiều đêm. Hắn nhớ lại mấy hôm nay Ninh công công cứ than phiền sức khỏe của ngài, làm việc lao lực, ăn ít đi, ngủ không ngủ mà còn bắt đầu nghiện rượu. Từ sau khi tiên đế và thái tử qua đời, hình như bệ hạ chưa từng sa sút như vậy...

-Trẫm cảm giác mình giống nhân vật phản diện trong một vở hí tuồng, làm nhiều chuyện xấu, hãm hại người vô tội, chia rẽ uyên ương, khiến người xem phẫn nộ! Ha ha...

Tiếng cười của Ca Dương có gì đó chua chát, hắn ngã lưng xuống ghế, khuỷu tay gác trên thành ghế, chống lên vầng trán lại đau âm ỉ. Hắn thấy mình thật thảm bại! Mọi thứ đột nhiên lệch khỏi quỹ đạo từ khi trở về kinh thành. Sử Hựu Trát bị đánh năm mươi đại trượng, may là hắn tập võ từ nhỏ, thân thể khỏe mạnh mới chịu đựng được. Tư Tư trách hắn quá mạnh tay, Ca Dương nhạy cảm với đề tài này, có nói mấy câu nặng lời khiến quan hệ hai người nứt vỡ. Nhớ hôm ấy hắn cố tình đến chỗ nàng ăn cơm, khi tới vẫn mỉm cười vui vẻ. Phòng bếp Tương Đông Hiên làm mấy món truyền thống, bàn cơm có không khí gia đình. Tư Tư khéo léo gắp một miếng cá bỏ vào bát của hắn, híp mắt bảo:

-Lần đầu tiên đến kinh thành, muội đã ăn món này, Cá Vựt sốt chanh, bệ hạ có nhớ không?

Ca Dương mắt đầy ý cười, ăn hết miếng cá của nàng.

-Tất nhiên trẫm nhớ, năm đó muội mới bảy tuổi, rất nhỏ, rất xinh xắn, ôm trên tay nhẹ như nắm bông.

Tư Tư cắn đũa, nghiêng đầu hồi tưởng:

-Uhm...ngày xưa muội cứ tưởng vương phủ nhà muội là to nhất thế giới, đẹp nhất thế giới rồi! Không ngờ hoàng cung còn rộng lớn hơn, đi mãi không hết. À, lúc đó xa nhà quá lâu, muội rất muốn quay về nhưng bệ hạ cứ nói bận rộn, không rảnh đưa muội về... Giờ nghĩ lại mới thấy, rõ ràng là anh họ lừa gạt muội!

Ca Dương đang gắp dưa muối thì khựng lại, hắn ngước lên nhìn khuôn mặt phụng phịu tố cáo mình, nhẹ cười một cái.

-Trẫm ước gì có thể lừa muội mãi mãi ở lại đây, một mùa đông làm sao đủ chứ? Phải là cả xuân hạ thu đông...

Ca Dương hạ tầm mắt, rẩy rẩy cơm trong bát.

-Tết ở kinh thành rất buồn chán, muội vừa về thì hoa mai trong vườn Thượng uyển liền nở. Trẫm đứng nghe pháo nổ ngoài kia, dân chúng trong thành đón năm mới rất vui vẻ, nhà nhà đều đông nghịt người nhưng mà trẫm chỉ có mỗi Tiểu Ninh Tử bên cạnh...

Nói tới đây, Ca Dương bỗng phì cười, vươn tay véo má nàng.

-Biểu cảm gì thế? Là thương hại hay là đau lòng? Nếu đau lòng thì muội đừng đi nữa, ở lại đây nhé?

Tư Tư nhăn mặt, một bên má bị ai đó xoa đến méo mó, hiện lên dấu tay đỏ ửng.

-Không thèm đâu! Buông ra! Đau quá đi mất!

Nha Nha ngồi phía sau sủa hai tiếng, chạy tới liếm mặt nàng, Tư Tư đẩy nó cười khanh khách còn Ca Dương phiền chán chửi thầm con chó: Đồ phá đám! Hắn buồn bực nhìn "hai người" chơi đùa, nhắc nhở Tư Tư:

-Muội lo ăn cơm đi, còn mày cút ra ngoài!

Nha Nha cụp đuôi, chẳng biết nó nghe hiểu hay không mà răm rắp chạy đi, phải chi lúc nào nó cũng ngoan ngoãn như vậy thì tốt quá! Con kỳ đà đã biến mất, trong phòng lại yên tĩnh. Ca Dương quen tay đẩy mấy món Tư Tư thích về phía nàng, Tư Tư cũng quen tay gắp đậu tương nàng không muốn ăn vào bát của hắn.

Khi cung nữ đem trái cây và trà sen lên, nàng mới gạ gẫm hỏi:

-Bệ hạ, ngày mai cho muội xuất cung có được không?

Ca Dương đưa trái quýt vừa lột vỏ cho nàng, lơ đãng hỏi:

-Muốn đi đâu?

-Muội muốn đến Sử gia, không hiểu sao Sử đại ca chẳng trả lời thư của muội. Không biết huynh ấy bị thương đã khỏi chưa? Bệ hạ cũng thật là, đánh tượng trưng là đủ rồi, tại sao ra tay mạnh như vậy? Muội thấy Hựu Trát suýt mất cả mạng, khắp người bê bết máu...

Ca Dương quay sang ngắt lời:

-Vì thế nàng đem Phục Tâm hoàn đưa cho hắn?

-Phục... cái gì? À, là lọ thuốc màu xanh kia? Không phải bệ hạ nói là "thần dược" sao? Sử đại ca dùng có lẽ mau khỏi bệnh...

-Đồ trẫm đã cho thì là của nàng nhưng không có nghĩa là nàng được phép tặng người khác! Có biết Phục Tâm hoàn quý tới mức nào không? Mạng của Sử Hựu Trát đáng giá một viên thuốc sao?

Giọng nói của hắn hơi lớn, Tư Tư nhíu mày khó hiểu:

-Tại sao không đáng? Cứu mạng một người còn hơn xây một tòa thành. Huống hồ huynh ấy bị như vậy cũng do bệ hạ!

Ca Dương âm trầm nhìn Tư Tư, bắt lấy cổ tay nàng kéo qua.

-Em đang trách ta? Bởi vì Sử Hựu Trát mà trách ta?

Tư Tư không để ý xưng hô của hắn thay đổi mà chỉ để ý cổ tay đau nhói. Nàng run run cố giằng tay lại.

-Bệ... bệ hạ... tay muội...

Tư Tư đau muốn khóc, tròn mắt nhìn khuôn mặt hắn giận dữ. Không, một từ giận dữ không đủ diễn tả hết biểu cảm đáng sợ của Ca Dương lúc này. Trong đôi mắt sâu đen giống như có bão tố, xoáy thẳng về phía nàng, cái nhìn thâm trầm và nghiêm khắc, chiếm hữu và độc đoán. Tư Tư hoảng hốt, nàng không biết Ca Dương còn có biểu tình như vậy. Quá đổi gần gũi và thân thiết khiến nàng quên mất hắn không chỉ là anh họ của mình mà còn là hoàng đế Khương La. Hắn có đủ quyền uy thao túng nhân sinh, có thể quyết định sống chết của vạn người. Tư Tư bàng hoàng nhìn kĩ gương mặt quen thuộc kia, chợt thấy một Ca Dương xa lạ...

-Hoàng thượng! Không phải chỉ là một lọ thuốc thôi sao, hà cớ gì ngài tính toán chi li như vậy? Hựu Trát làm sai thì đã nhận phạt, huynh ấy bị thương nặng khiến muội thấy áy náy, tặng chút thuốc tốt là việc thường tình...

Một tiếng Hựu Trát, hai tiếng Hựu Trát, Ca Dương cảm giác lỗ tai đau bùm bùm. Cô em họ luôn luôn ngoan ngoãn này, nàng đang dũng cảm cãi lý với hắn, phải biết rằng ở trong triều rất ít ai dám chấp vấn những quyết định của hắn. Ca Dương nhìn kĩ Tư Tư, nàng lớn lên rất xinh đẹp, lúc cười như một đóa sen, cả lúc tức giận cũng lung linh sống động. Vẻ mặt ngang bướng không chịu thua khiến hắn nhớ tới một người khác... cô ấy bình thường cũng hiền lành như ngọn cỏ, vậy mà lúc nổi giận có thể làm chuyện tầy trời. Cô ấy còn rất quyết tuyệt và tàn nhẫn, giống như lúc từ bỏ đứa trẻ, giống như lúc từ bỏ hắn...

Ca Dương thấy hai mắt hơi mờ, dường như không nhìn rõ người trước mặt. Hắn không thả lỏng tay mà còn dùng tay kia giữ lấy chiếc cằm nhỏ bướng bỉnh. Tư Tư cảm giác như bị mặt trời chiếu trực diện, chói lòa và nóng rực, nàng ngân ngấn lệ bị ép ngẩng đầu.

-Tại sao nàng không nghĩ sai lầm của Sử Hựu Trát là vô cùng nghiêm trọng, bị phạt năm mươi trượng không hề vô lý? Hắn ở trước mặt toàn triều nói rằng trẫm đã ban hôn, kể lể tình cảm hai người thắm thiết tới dường nào. Thanh danh nàng ở đâu? Nếu lúc đó trẫm không bất chấp thể diện hoàng tộc mà thuận theo thì nàng sẽ phải gả vào nhà họ Sử. Có hiểu không? Rốt cuộc nàng có hiểu suýt tí nữa thì gạo nấu thành cơm không? Hả? Hả?

Mỗi một câu hỏi hắn lại lắc mạnh cằm nàng. Tư Tư bị bóp đau, có chút choáng váng, nóng nảy đánh vào ngực hắn, phẫn hận mà nói:

-Muội là đứa ngốc không hiểu gì hết! Nhưng muội biết mình là Minh Châu quận chúa, các người đem ta ra làm quân cờ chính trị, thần tử của ngài ước gì gả quách ta cho Đại Thế, đổi lấy vạn hoàng kim, đổi lấy chiếu cầu hòa, đổi cả một tòa thành! Gía trị cao thật đấy! Tề vương thì bức bách, tứ ca thì không đủ tiếng nói, Hựu Trát đứng ra bảo vệ ta không được sao? Cùng lắm là cứ gả cho huynh ấy! Vẫn tốt hơn bị đem đi hòa thân!!

Ca Dương bị nàng đánh không thấy đau nhưng lời nàng vào tai hắn đau muốn nổ óc! Bảo vệ, rốt cuộc là ai đang bảo vệ? Hắn đã làm cái gì vì nàng lẽ nào nàng không hiểu? Ca Dương mấp máy môi, khó khăn gằng từng chữ:

-Chu Lạc Tương Tư, em nghe cho rõ đây! Trong thiên hạ này, người có thể bảo vệ được em trước sau chỉ có một mình trẫm! Đừng bao giờ nhắc tới họ Sử trước mặt trẫm, cũng đừng nghĩ lòng khoan dung của trẫm là vô hạn! Em đã biết mình chỉ là một Quận chúa, vận mệnh của em nằm trong tay ai?

Tư Tư trân mắt nhìn hắn, sau phút ngỡ ngàng khó tin thì lệ nóng ngập mi, tràn ra thành dòng. Lúc này Ca Dương mới ý thức được mình vừa nói những lời làm tổn thượng sâu sắc, hắn hối hận không kịp, nhìn nàng im lặng khóc mà cảm thấy ruột gan siết lại. Ca Dương vô lực buông tay, quay đầu bước thẳng ra ngoài. Chỉ cần chuyện liên quan tới nàng hắn đều đánh mất bình tĩnh, phong phạm đế vương rèn giũa qua bao năm cứ thế mà hỏng mất!

Ninh công công đứng canh ở ngoài đã nghe tiếng quát của bệ hạ, thấy sắc mặt hoàng đế cực tệ, bỏ đi như bay, hắn cũng ráng ba chân bốn cẳng chạy theo. Từ sau cái hôm cãi cọ đó, Quận chúa không tìm hoàng thượng mà hoàng thượng cũng không ngó ngàng tới Quận chúa, bầu không khí âm u trùm xuống hoàng cung, khiến người người cảm giác nghẹn thở. Hoàng thượng không nhắc lại chuyện này nhưng cứ giữ trong lòng càng nguy hại hơn. Ngài làm việc không kể ngày đêm, ăn uống thất thường, buổi tối mất ngủ. Rồi một hôm nọ, bệ hạ nói với lão Ninh:

-Tiểu Ninh Tử, lấy rượu cho trẫm!

Có lần đầu thì có lần sau, kể từ hôm đó Ca Dương thường đem rượu thay nước, trước khi đi ngủ phải uống đến thần trí mơ hồ mới chịu lên giường. Lão Ninh lo lắng sốt vó, chạy đi cầu cứu Ngô Hà Huy. Cái tên này càng ăn hại hơn, không thèm khuyên ngăn bệ hạ mà còn đục nước béo cò, tranh thủ uống ké Hầu Nhi Tửu được chưng cất trong hầm rượu hoàng cung! Ngô Hà Huy thấy Ninh công công mặt mày ai oán bèn nấc một cái, say xỉn lèo nhèo vỗ vai hắn:

-Lão già! Ông khỏi có lo! Bộ dạng của bệ hạ bây giờ giống y hệt ta hồi xưa, chính là cái thời yêu đơn phương Lý Minh Nguyệt đến khổ! Dấu hiệu tốt! Dấu hiệu tốt! Ông chuẩn bị mở cái rương trong tẩm phòng, lấy tiền cho bệ hạ cưới vợ là vừa!

-Ngô đại nhân, ngài nói linh tinh gì vậy?

-Ta nói nghiêm túc mà, ông đúng là đầu gỗ thái giám, bệ hạ ở cùng ông thảo nào cũng đầu gỗ theo!

Ngô Hà Huy cả người toàn mùi rượu, bá cổ Ninh tổng quản, đảo tròn cặp mắt hồ ly:

-Ông nghĩ lại mà xem! Có phải mấy năm nay bệ hạ chuẩn bị rất nhiều của hồi môn cho Quận chúa không?

-Uhm... đúng vậy, rất nhiều, rất nhiều...

-Sắp bằng quốc khố thứ hai rồi chứ gì? Đó! Nguyên nhân đó! Hiện tại Quận chúa tới tuổi lấy chồng, nghĩa là tài sản chuẩn bị vào tay người khác. Bệ hạ thấy tiền không cánh mà bay, đau từng khúc ruột! Bây giờ ân hận cũng muộn, chỉ còn cách uống rượu giải sầu!

-...

-Ông phải động não chút, làm sao để Quận chúa gả đi mà tiền của bệ hạ không mất! Tới chừng đó ngài tự nhiên vui trở lại, tươi tắn mơn mởn như mùa xuân mới về... là lá la... mùa xuân ơi mùa xuân...

"Choang!" Trong phòng có tiếng chén vỡ, sau đó là tiếng gầm của khủng long bạo chúa:

-Ngô. Hà. Huy! Trẫm lột da ngươi!

Ninh công công nhận ra mỗi lần Ngô thượng thư tới là tốn thêm rượu thịt, thất thoát tài sản mà bệ hạ còn bị hắn chọc sôi máu. Đúng là chữa lợn lành thành lợn què! Trong số các cận thần, Ngô đại nhân theo hoàng thượng lâu nhất, từ khi cả hai còn bé. Đáng mừng ở chỗ cho dù trải qua bao thăng trầm chốn quan trường, mấy phen lên voi xuống chó nhưng Ngô Hà Huy vẫn giống như cậu bé năm nào – chui vào bụi cỏ chờ hoàng thượng tới gặp. Thần tử của hoàng thượng rất nhiều, người xứng làm tri kỷ lại ít. Ninh công công thở dài, thầm nghĩ thôi thì có Ngô đại nhân vẫn tốt hơn. Người xưa nói gần vui như gần cọp, lời này không đúng với Ngô Hà Huy. Trước mặt bệ hạ, hắn là kẻ to gan dám nói thẳng, không sợ chọc giận thiên tử, cũng không sợ mất lòng ai. Bề ngoài Ngô thượng thư trông ngã ngớn không đàng hoàng nhưng làm việc gì cũng chu toàn hoàn mỹ, khó trách bệ hạ xem hắn như cánh tay phải đắc lực! Ninh công công thở dài cảm thán, ông chỉ là thái giám, không phải chuyện gì cũng can thiệp được.

Hôm nay trăng không tròn mà rất sáng, Ninh công công tìm một vòng mới tìm thấy bệ hạ ở trên mái nhà. Ngài gối tay sau đầu, mơ màng nhìn trời, khi thì một mình cười, khi thì một mình ngâm nga làm thơ, vần trắc trật tự đều rối loạn. Biết hoàng thượng lại say, lão Ninh thở dài thườn thượt.

-Bệ... bệ hạ! Trên đó gió lớn, ngài mau xuống đi!

-Không, trẫm không xuống! Không xuống đấy làm gì được nhau?

Ninh công công lau mồ hôi hột.

-Nô tài nào dám làm gì hoàng thượng, chỉ xin hoàng thượng đừng ở trên đó nữa... cứ thế này sẽ nhiễm phong hàn mất!

-Mặc kệ ta, cho bệnh chết luôn! Hứ!

Ninh công công nước mắt lưng tròng, bệ hạ mà giở thói trẻ con thì không thể dùng cách bình thường nói chuyện được!

-Hoàng... hoàng thượng, ngài nhanh xuống đi, hoàng cung cháy rồi!

-Hoàng thượng! Có người đem xe thồ tới muốn mua phế liệu!

-Hoàng thượng, hoàng thượng, người ta dỡ Dụ Kiến cung xây chuồng bò rồi!!!

Không biết từ lúc nào, Phong đã đứng phía sau, khóe miệng giật giật hỏi:

-Có tác dụng à?

Ninh công công mếu máo lắc đầu:

-Hình như không có!

Phong ngước mắt nhìn lên nóc nhà, thấy bệ hạ đang trồng cây chuối. Đúng là người bình thường lý trí bao nhiêu thì lúc say lại trở nên điên rồ bấy nhiêu! Hắn e hèm một tiếng:

-Khụ khụ... Hoàng thượng, bên Tương Đông Hiên báo lại, không tìm thấy Quận chúa đâu hết!

Phong vừa dứt lời thì cổ áo bị tóm lấy.

-Ngươi nói cái gì? Tư Tư đi đâu?

Phong rất bình tĩnh đáp lại:

-Bẩm, không đi đâu cả, điện hạ vừa mới ngủ!

Ca Dương buông hắn ra, cả người mất trọng tâm lảo đảo muốn ngã. Ninh công công và Phong hợp sức lôi kéo, hì hục đưa Ca Dương trở về tẩm phòng. Đặt hoàng thượng lên giường, họ chưa kịp nhẹ nhõm thì Ca Dương bỗng mở bừng mắt, bắt lấy cánh tay của Phong.

-Tương Tư... Tương Tư...

Ninh công công che mắt la oai oái.

-Hoàng thượng, hoàng thượng, lầm người rồi!

Phong không hổ danh là ám vệ giỏi nhất Mật Bảo Các, trong mọi tình huống vẫn giữ được tỉnh táo cần thiết. Hắn điềm nhiên nắm tay hoàng thượng đặt lên ngực:

-Hoàng thượng, ngài sờ đi, thuộc hạ là nam nhân!

-Nam...

Ca Dương chớp chớp mắt, giây sau Phong liền bị đá bay ra ngoài, hệt như con thằn lằn dính lên cột nhà.

-Đều cút hết đi! Đừng có sàm sỡ ta!!!

Rốt cuộc là ai sàm sỡ ai? Phong ôm cột trượt xuống, thầm nghĩ ngày mai tới phiên Trì túc trực, haha... hắn rất mong chờ! Gần đây công việc bảo vệ hoàng thượng trở thành nghiệp vụ khó nhất trong tổ ám vệ, tính nguy hiểm cao lại không có trợ cấp thương tật!

Những tháng ngày gà bay chó nhảy ở Dụ Kiến cung không thấy điểm kết mà đạt hết cao trào này tới cao trào khác. Điển hình là một hôm nọ Hòa An vương gửi thư về kinh thành. Hoàng thượng đọc xong, cứ như phát cơn điên đạp đổ ghế, quét sạch đồ vật trên bàn, gầm lên với thái giám tổng quản:

-Lập tức sai người giết Sử Hựu Trát cho trẫm! Đem đầu hắn về đây cho trẫm!!!

Lão Ninh mụ mị không hiểu chuyện gì, giết Sử công tử? Không thể nào! Lúc này bệ hạ đang kích động, nổi lên sát tâm, lão không thể để ngài làm chuyện khiến mình ân hận.

-Bệ hạ, bệ hạ... ngài bình tĩnh, bình tĩnh... Sử Hựu Trát phạm tội thì cứ trừng phạt, không nhất thiết phải giết người.

Ca Dương siết chặt lá thư nhàu nát, nhớ lại từng câu từng chữ Chu Lạc Trinh viết:

"... Thần cảm giác mình sống không lâu nữa, nay chỉ có mối bận lòng duy nhất là đứa con gái út. Thần tha thiết cầu xin bệ hạ gả Lục nha đầu cho Sử Hựu Trát con trai Sử Đình Thành. Đây là người hiếu trung có nghĩa, phẩm chất tài năng đều không thể nghi ngờ. Thần rất yên tâm, mong bệ hạ thay người cha này lo lắng hôn sự cho Tương Tư chu toàn. Con cháu Hòa An vương xin phò chúa muôn đời! Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế..."

Ca Dương hít sâu một hơi, nắm lá thư ngã xuống ghế.

-Giỏi lắm, Sử Hựu Trát! Ngươi vậy mà có thể kéo cả Hòa An vương về phe mình!

Đáy mắt hắn tóe lên một tia thâm độc, quay sang bảo Ninh công công mài mực, đặt bút viết một thánh chỉ...

Mấy ngày sau Tư Tư vẫn chưa biết chuyện gì, nàng rầu rĩ vì lo lắng cho Sử đại ca, mà hơn thế nữa là hối hận vì cãi nhau với hoàng thượng. Nàng biết trong chuyện này Ca Dương đã vì mình trục xuất Lỗ Lang, không ngại gây bất hòa với Đại Thế, hắn còn vì thanh danh của nàng phạt đánh Hựu Trát, khiến triều thần bất bình, khiến Tề vương có cớ bắt thóp ... Mọi chuyện đều không có lợi nhưng Ca Dương đã chọn bảo vệ nàng. Nếu là người khác, với bao nhiêu điều kiện mà Đại Thế đưa ra, có lẽ một Quận chúa nho nhỏ như nàng sẽ không có con đường nào khác ngoài chấp nhận hòa thân. Trong lúc nóng giận tuy hoàng thượng nói lời tổn thương nhưng không phải không đúng. Mang phận nữ nhi, sinh ra trong hoàng tộc, tuy sống không lo cơm áo nhưng ai biết trước mình sẽ đi về đâu? Tư Tư có mấy chị em họ ở xa. Con gái thứ tám của Thiết Bình vương cũng là một quận chúa, nàng bị gả đi Cao Kê – một nơi xa mịt mù không thấy ngày về, chỉ để đổi lấy giống lúa mạch quý giá của người Cao Kê. Đôi khi cha mẹ thân sinh cũng vì lợi ích gia tộc mà đem con mình làm vật thế chấp quan hệ. Tư Tư buồn bã cúi đầu, bứt lông của Nha Nha.

-Mày nói xem, có phải bệ hạ không thèm quan tâm đến ta nữa không?

Nha Nha kêu gừ gừ, bởi vì nó đau.

-Bệ hạ chưa từng nặng lời với ta như vậy, chắc là ngài giận lắm...

Tư Tư rứt lỗ tai con chó. Nha Nha kêu gừ gừ, bởi vì nó nhột. Nàng mếu máo úp mặt vào cổ nó khóc rống.

-Ta sai rồi, ta sai rồi, làm sao bây giờ...?

Nha Nha thích thú tru một tiếng dài phụ họa. Tiểu Mai hốt hoảng chạy vào, thấy chủ thì bù lu bù loa, chó thì vẫy đuôi sung sướng. Nàng lắc đầu kéo Tư Tư ra.

-Quận chúa, làm sao vậy? Đừng khóc, đừng khóc, có chuyện gì nói nô tì nghe...

-Oa... bệ hạ ghét muội rồi, không thèm quan tâm đến muội rồi...

Tiểu Mai thở dài vỗ lưng nàng.

-Không phải đâu, hoàng thượng không bao giờ ghét bỏ điện hạ, ngài thương còn không hết nữa là... Nếu Quận chúa muốn bệ hạ bớt giận, không bằng chiều nay đem đĩa bánh quế đến Dụ Kiến cung, chủ động làm hòa với ngài đi!

Tư Tư quẹt nước mắt, nắm chặt tay quyết tâm. Nàng không còn mấy ngày nữa phải trở về Sa Đà, không thể cứ vậy mà đi, để lại mâu thuẫn giữa hai anh em chưa được giải quyết! Chiều hôm ấy Tư Tư tắm gội cẩn thận, thay chiếc váy hoa xinh đẹp, còn kiên nhẫn ngồi nửa canh giờ cho Tiểu Mai chải búi tóc bách hợp. Tư Tư ngắm nhìn bản thân trong gương, vỗ lên cặp má hồng hào, thầm nghĩ phải cầu xin hoàng thượng tha thứ, còn phải cảm ơn ngài đã làm nhiều việc vì mình...

-Tiểu Mai tỷ, bánh quế đã xong chưa?

Tiểu Mai vén rèm bước vào, vẻ mặt hơi kì lạ:

-Quận chúa... bên ngoài có Sử tiểu thư xin cầu kiến...

-Ai cơ?

-Sử Mỹ Cảnh.

Tư Tư nhíu mày nhớ lại, Sử Mỹ Cảnh – chính là cô em gái tính tình bộp chộp của Sử Hựu Trát. Nàng đến đây làm gì?

Tiểu Mai cẩn thận nhìn Quận chúa, dè dặt hỏi ý:

-Vậy... điện hạ gặp hay không?

-Gọi nàng vào tiền sảnh ngồi đi, ta sẽ ra ngay!

-Vậy... bánh quế...?

-Cứ để đó, nói chuyện xong ta liền sang chỗ hoàng thượng!

-Vâng!

Khi Tư Tư bước vào phòng thì thấy Sử Mỹ Cảnh hai mắt đỏ như mắt thỏ, chật vật ngồi ở một góc. Nàng nhớ lại lễ chải tóc của mình vào năm mười bốn tuổi, lần đầu Tư Tư xuất hiện với tư cách Quận chúa, chủ trì một bữa tiệc trà. Sử Mỹ Cảnh đi cùng mẹ, ngồi ở gần chỗ nàng. Cô gái này vừa ngây thơ vừa nông cạn, dám gọi bừa "tẩu tẩu". Cũng hơn ba năm trôi qua, không ngờ lần này gặp lại, Sử Mỹ Cảnh vẫn mang bộ dạng non nớt chưa trưởng thành. Tư Tư âm thầm lắc đầu, có lẽ Sử phu nhân bảo bọc nàng quá tốt!

Mỹ Cảnh nhìn thấy Quận chúa lại có suy nghĩ khác. Đầu tiên là kinh ngạc, sau đó là tủi thân, tiếp đến sinh lòng oán hận. Người ta là cành vàng lá ngọc, được hoàng đế nâng niu trong tay, có cha là vương gia, các anh trai yêu thương bảo vệ. Nhìn trang phục trâm tóc của nàng là biết quý giá như thế nào, cả người như dát bạc lấp lánh... Cho nên huynh trưởng của nàng là kẻ trèo cao, bị người ta khinh thường đâu thèm nhìn ngó tới! Sử Mỹ Cảnh xoắn chặt khăn tay, kiềm chế tâm trạng mà quỳ xuống.

-Mỹ Cảnh tham kiến Quận chúa, điện hạ vạn phúc kim an!

Tư Tư trước hết nâng nàng dậy, hòa nhã mời ngồi:

-Không cần đa lễ. Muội đến đây thật khéo, ta cũng không biết Sử đại ca gần đây thế nào? Sức khỏe đã tốt chưa? Vết thương đã lành chưa?

Mỹ Cảnh cúi đầu:

-Ca ca không tốt ạ.

Tư Tư nhíu mày, chờ nàng nói hết. Mỹ Cảnh ngẩng đầu nhìn lên, hai mắt đỏ hoe, dung nhan ảm đạm. Nàng đột ngột quỳ xuống ôm chân Tư Tư, khóc lóc kể lể:

-Điện hạ, tiểu nữ cầu xin điện hạ... Ca ca không biết lượng sức mình, bản thân không xứng với người mà dám mơ mộng hão huyền. Quận chúa rũ lòng thương đừng đuổi cùng giết tận. Sau này ca ca sẽ rời khỏi kinh thành, không bao giờ xuất hiện ở Đế Đô, không bao giờ khiến người chướng mắt nữa... Cầu xin điện hạ, coi như nể tình mấy năm nay hắn làm bạn với người, hãy tha cho hắn một mạng...

Tư Tư bị nàng vừa ôm vừa lắc, ngơ ngác nhìn Mỹ Cảnh khóc thảm, chẳng hiểu cô ta nói cái gì. Tiểu Mai thấy tình hình không ổn, lập tức gọi thị vệ. Sử Mỹ Cảnh trông nhỏ bé yếu ớt vậy mà sức lực kinh người, vùng vẫy đẩy té cả thị vệ muốn kéo nàng lôi đi. Tư Tư thấy bộ dạng quyết liệt liều mạng của cô ấy, không khỏi giơ tay ra lệnh ngừng.

-Chờ đã! Để nàng nói cho rõ ràng, rốt cuộc ta "đuổi cùng giết tần" Sử đại ca ở chỗ nào?

Sử Mỹ Cảnh khóc đỏ mặt, hung hăng nói:

-Làm Quận chúa thì có thể tráo trở hay sao? Cô đừng khinh người quá đáng! Ca ca ta có mắt như mù mới si mê vọng tưởng cô! Huynh ấy có gì không tốt? Đường đường là trưởng nam của Sử gia, nhà chúng tôi chẳng so được với hoàng tộc nhưng nào phải khố rách áo ôm, cũng nghìn mẫu ruộng, vạn hoàng kim kia mà! Ca ca khôi ngô tuấn tú, thi đỗ Bảng Nhãn, văn võ song toàn, con gái cả kinh thành ai chẳng hâm mộ hắn? Cô đã không coi trọng thì sớm nói rõ cho hắn thôi hy vọng, tại sao còn chơi trò mèo vờn chuột?

Tư Tư bị mắng vô cớ, giận run người đập tay xuống bàn.

-Câm mồm! Người ăn nói có biết suy nghĩ không? Giữa bổn quận chúa và Sử Hựu Trát trước giờ chỉ có tình bằng hữu. Ta không khinh thường hắn, cũng không làm chuyện gì có lỗi với hắn. Bây giờ cô chạy lại đây chấp vấn là ý gì?

-Còn nói không khinh thường, ca ca đứng ra bảo vệ cô thì bị đánh năm mươi trượng cả tháng không dậy nổi. Hắn bị giam lỏng, nằm trên giường ngày đêm gọi tên cô, thị vệ bao vây phủ không cho hắn bước ra nửa bước. Bây giờ ca ca còn bị đày đến Mạn Hồng, nói là nhận chức huyện lệnh gì đó. Mạn Hồng là nơi thế nào? Là chỗ không có mặt trời, hoang sơ không người, đầy rẫy yêu ma quỷ quái! Đưa hắn tới đó chẳng khác nào chặt đứt đường công danh sự nghiệp của hắn, mãi mãi chẳng có ngày ngóc đầu lên!

Tư Tư nghiêm túc bặm môi:

-Những chuyện này ta hoàn toàn không biết, không liên quan gì đến ta!

Tất nhiên Mỹ Cảnh không tin, nàng chạy tới nắm tay Tư Tư, nửa cầu xin nửa oán trách:

-Cô đã là Quận chúa đứng trên vạn người, có thể đừng so đo với Sử gia chúng tôi được không? Ca ca vẫn đang bệnh nặng, chiếu chỉ yêu cầu mười này sau phải lên đường. Với sức khỏe của huynh ấy sợ là chưa tới nơi thì đã chết! Mạn Hồng không phải chỗ tốt đẹp, sau này huynh ấy phải sống ra sao? Coi như ta quỳ lạy cầu xin cô, dời lại vài tháng nữa, để hắn ở nhà đón tết, bình phục rồi đi có được không?

Tư Tư nhìn vẻ mặt khốn khổ của Mỹ Cảnh, tất nhiên nàng ấy không giả vờ, trọng thương, giam lỏng, lưu đày... tất cả đều là thật! Thế nhưng, Tư Tư không biết chút gì về sự thật này cả! Nàng nhẹ nhàng gỡ tay Sử Mỹ Cảnh, ôn tồn đưa khăn lụa qua.

-Đừng khóc, lau nước mắt đi, bổn quận chúa sẽ đi tìm hoàng thượng hỏi rõ. Nếu Hựu Trát chưa khỏi bệnh thì chăm sóc hắn chu đáo, ta sẽ đưa thêm thuốc tốt. Còn chuyện nhận chức ở Mạn Hồng ta sẽ đi cầu hoàng thượng. Như vậy cô yên tâm chưa?

Mỹ Cảnh nhận khăn tay, nghi ngờ hỏi:

-Điện hạ nói thật?

Tư Tư gật đầu, sai người tiễn Sử tiểu thư ra tới cửa cung. Mỹ Cảnh vừa khuất bóng, nàng liền quay qua nhìn chằm chằm Tiểu Mai. Tiểu Mai cúi đầu không nói, Tương Đông Hiên yên tĩnh kì lạ...

-Bánh quế đâu rồi?

-Dạ, để ở trong...

-Lấy ra đây! Bổn Quận chúa phải đi thăm hoàng thượng!

-Điện hạ...

-Đừng nhiều lời. Nhanh lên!

Khi Tư Tư đến Dụ Kiến cung thì Ninh công công mặt mày hớn hở chạy ra nghênh đón. Hắn thấy Quận chúa còn mừng hơn thấy thần phật giáng thế.

-Điện hạ, điện hạ! Cuối cùng người cũng tới! Mấy hôm nay hoàng thượng không khỏe, Quận chúa vào khuyên ngài uống thuốc nghỉ ngơi đi!

Tư Tư ngó lơ, kéo váy bước thẳng vào trong điện. Ca Dương vẫn đang duyệt tấu, ngồi trên long ỷ, trước mặt là một núi giấy cao quá đầu. Hắn tập trung giở từng trang, phê tỉ mỉ ý chỉ bên dưới công văn, đóng ngọc tỉ rồi ném sang bên cạnh. Ca Dương nghe thấy tiếng mở cửa nhưng không ngẩng đầu.

-Trẫm chưa đói, lát nữa mới ăn!

Không nghe ai đáp lại, Ca Dương nghi hoặc nhìn lên, bất ngờ trông thấy mỹ nhân xinh đẹp mặc xiêm y màu hồng, môi đỏ thắm, gò má hây hây. Hắn ngạc nhiên sau đó vui mừng, nhẹ nhàng đặt bút lông xuống.

-Nàng đến rồi? Đã ăn cơm chưa?

Tư Tư không cười tươi như hoa, cũng không nhanh nhảu chạy về phía hắn. Nàng đứng thẳng lưng, nét mặt trang nghiêm và lạnh lùng.

-Bẩm hoàng thượng, thần nữ có chút chuyện cần thương lượng.

Ca Dương từ từ thu lại nét cười, hắn biết nàng muốn thương lượng cái gì.

-Nếu đã tới thì ngồi đi. Người đâu? Bưng trà!

Khói trà bốc lên nghi ngút, ngăn cách một bức tường mờ giữa họ. Tư Tư không có tâm trạng thưởng thức, ngồi nhìn Ca Dương ung dung uống từng hớp nhỏ. Đợi hắn đặt tách xuống, nàng mới trực tiếp hỏi thẳng:

-Không biết chiếu chỉ của bệ hạ là thế nào? Vì sao ngài không nói với muội chuyện điều động Sử đại ca đi Mạn Hồng nhận chức?

Ca Dương gõ ngón tay xuống bàn, bật cười:

-Tại sao phải nói? Hắn là quan nhân triều đình, là thần tử của trẫm, muốn hắn đi đâu công tác là quyền của trẫm.

Tư Tư hít sâu một hơi, kiềm nén khó chịu, lại hỏi tiếp:

-Vậy tại sao ngài giam lỏng hắn ở trong phủ?

-Trẫm muốn hắn an ổn trị thương.

-Hựu Trát còn chưa khỏi bệnh, tại sao bệ hạ gấp gáp điều hắn đi?

Ca Dương quay sang, nghiêng đầu kề sát mặt nàng, giọng nói có gì đó mơ hồ nguy hiểm:

-Em hỏi những chuyện này để làm gì? Em không thấy mình quá quan tâm tới người dưng nước lã rồi hay sao?

Tư Tư lùi lại tránh né.

-Hoàng thượng, trong lòng Tương Tư ngài là một vị vua anh minh thần võ, không bao giờ làm chuyện vô lý, không áp bức kẻ tôi tớ thấp hèn, không lấy công làm tư, luôn nghĩ cho quốc gia đại sự. Lẽ nào ngài muốn Tương Tư thay đổi hình mẫu này trong lòng?

Ca Dương nhìn nàng chằm chằm. Thư phòng có mái vòm cao, bốn bề tràn ngập ánh nắng nhưng không thấy một tia ấm áp...

-Phải! Trẫm là như vậy đó, nàng muốn nghĩ thế nào thì tùy! Nhưng mà trẫm cũng nói cho nàng biết, thánh chỉ đã ban xuống không thể thay đổi, mười ngày sau Sử Hựu Trát phải lập tức lên đường!

Thái độ hắn ngang ngược bất cần, giọng nói trầm đục vì cổ họng đã đau mấy ngày. Tư Tư mím chặt môi, nhìn bánh quế bị ném trên đất vỡ nát, bản thân nàng cũng không hiểu nổi, tại sao lại như vậy? Nó giống như một tấm bia cũ kĩ, từ từ bị tróc lớp sơn, để lộ phía sau những dòng chữ khiến người ta sợ hãi. Quan hệ giữa nàng và bệ hạ cũng thế, từ từ rạn nứt, từ từ thay đổi... Cái mới bao giờ cũng khó tiếp nhận, nhất là khi nó xảy ra quá thình lình, không kịp cho trái tim chuẩn bị...

-Hoàng thượng... thật ra muội và Sử đại ca không có gì hết. Muội gặp huynh ấy năm mười lăm tuổi, tình cờ quen nhau trong một lần đi dạo ngoài thành. Sử đại ca là người phóng khoáng vui tính, học cao hiểu rộng. Huynh ấy...

Ca Dương đứng dậy cắt ngang lời nàng:

-Không cần kể, trẫm chẳng hứng thú nghe chuyện của hai người!

Tư Tư giữ ống tay áo, không cho hắn bỏ đi.

-Bệ hạ, xin ngài...

Ca Dương quyết tuyệt hất tay, khàn khàn phiền muộn:

-Em trở về đi, trẫm còn rất nhiều việc phải làm!

-Hoàng thượng! Ngài nói lý lẽ một chút có được không? – Tư Tư cất cao giọng, buồn bực đứng dậy.

-Nàng càng nhiều lời thì kết cục của tên họ Sử kia càng thê thảm! Trẫm có thể đưa hắn tới Mạn Hồng thì cũng có thể đày hắn ra hải đảo, khiến hắn không còn mạng trở về!

Ca Dương ngang tàn nói. Tư Tư trợn tròn mắt, không tin nổi cái người vừa phách lối vừa hách dịch này là anh họ dịu dàng đáng kính của nàng. Nàng hoàn toàn không có phương pháp nói chuyện cùng hắn! Nhìn thấy Ca Dương sắp bỏ đi, nàng vừa gấp gáp vừa bối rối, giậm chân tức tối.

-Hoàng thượng!

Hắn chẳng buồn trả lời, giơ tay đẩy cửa, không thèm đoái hoài tới nàng nữa. Tư Tư muốn khóc quá, càng muốn đánh người hơn, trong lúc nổi khùng nàng vơ bừa cái gì trên bàn ném tới. Ca Dương theo phản xạ giơ tay bắt được, sau đó...

-Hoàng thượng! – Tiếng Ninh công công kêu như giết heo.

-Bệ hạ! –Tư Tư cũng hết hồn la lên.

Ngự lâm quân chạy ùa vào, dáo dác nhìn quanh phòng, chỉ thấy Quận chúa tái nhợt che miệng, mặt mày hoảng hốt. Theo ánh mắt của nàng nhìn về phía hoàng thượng, ngài đứng bên thềm cửa, bàn tay vẫn nắm chặt lưỡi dao, máu nhỏ thành một vũng đỏ tươi dưới chân... Ninh công công run rẩy:

-Bệ hạ, bệ hạ, đừng cầm nữa... xin buông ra đi! Người đâu gọi thái y! Đem cung nữ quét dọn thư phòng ra đây! Tại sao lại để dao gọt trái cây ở trên bàn thế kia!!??

Khi mọi người xung quanh đang rối loạn, Ca Dương vẫn như cũ siết chặt con dao, mắt nhìn chằm chằm Tư Tư. Không có giận dữ, cũng không oán trách... ánh mắt của hắn gọi là đau lòng...

***

-Ngươi nói, hoàng thượng không hề phạt Quận chúa? Cứ vậy để cho nàng ta đi?

Triệu Phi Liên một tay xòe ra cho cung nữ giũa móng, một tay chơi đùa áo lông chồn. Tiểu Na đứng bên cạnh gật đầu bất bình:

-Đúng thế ạ! Nô tì nghe kể, hoàng thượng bị thương tay phải, không cầm bút được nữa. Sau khi thái y xử lý vết thương ngài chỉ bảo Quận chúa trở về Tương Đông Hiên, không hề nhắc tới hình phạt!

Triệu Phi Liên híp mắt, quay qua tát vào mặt tiểu cung nữ nọ.

-Muốn chết à? Người có biết cắt móng tay không? Người đâu, đem con tiện tì này ra đánh một trăm roi cho ta!

-Nương nương tha mạng, nương nương tha mạng, nô tì không dám nữa, không dám nữa...!

Qúy phi ngoáy lỗ tai, chờ cung nữ nọ bị bịt miệng kéo đi mới nói với Hiền Nhi và Tiểu Na:

-Tổn hại long thể, cho dù cố ý hay vô tình đều là trọng tội! Vương tử cũng không khoan thứ! Dựa vào đâu đứa con gái kia có thể dễ dàng thoát nạn như vậy?

Hiền Nhi so với Tiểu Na đã hầu hạ công chúa hơn mười năm, từ khi còn ở Trung Lương. Nàng là người điềm đạm, sâu sắc, không chỉ kín mồm kín miệng mà còn khôn ngoan. Hiền Nhi cúi đầu nhẹ nhàng đáp:

-Nương nương, qua chuyện hòa thân và chuyện lần này, chúng ta thấy rõ bệ hạ đối với Quận chúa rất không đơn giản! Nương nương đã đoán sai rồi, Chu Lạc Tương Tư không chỉ là con cờ kiềm hãm Hòa An vương, không chỉ là đường muội của bệ hạ. Quận chúa là người đặc biệt đối với ngài...

Hai chữ "đặc biệt" này có sức nặng vô cùng! Triệu Phi Liên ngồi thẳng dậy, suy nghĩ một lát thì lắc đầu:

-Hoàng thượng cũng đối với bổn cung rất đặc biệt. Ngài phong ta làm Hoàng quý phi, thậm chí ta xin Ngọc Hồi cũng không nói hai lời liền đem ra! Ta không tin mình chẳng bằng một đứa con gái miệng còn hôi sữa... Nếu hoàng thượng có ý kia thì đã sớm đưa nàng vào hậu cung rồi, sao có thể để nàng làm Quận chúa, các Cáo mệnh phu nhân dòm ngó, rước lắm phiền phức vào người!

Hiền Nhi mỉm cười, hạ thấp giọng:

-Vậy nô tì hỏi nương nương, bệ hạ đã thị tẩm nương nương chưa?

Triệu Phi Liên khựng lại, sắc mặt trắng bệch:

-Ngươi câm mồm! Hoàng thượng có uẩn khúc nên mới...

-Uẩn khúc gì? Nam nhân không chạm vào nữ nhân còn có uẩn khúc gì?

Triệu Phi Liên quắc mắt nhìn Hiền Nhi, biểu cảm hung tợn:

-Ngươi giỏi lắm, ăn nói với bổn cung như vậy đó hả?

Hiền Nhi nhún người, vẫn giữ khuôn mặt non nớt vô hại:

-Nô tì không dám, chỉ xin nhắc nhở nương nương... xuất thân của người như thế nào, người ngồi lên vị trí này là nhờ ai? Phải báo đáp như thế nào cho đúng? Chủ tử rất kỳ vọng vào người, chỉ mong... người đừng làm chủ tử thất vọng...

Triệu Phi Liên nhìn chằm chằm Hiền Nhi, không, phải nói là nhìn chằm chằm Tiểu Na.

-Hiền Nhi trước kia không phải bệnh chết mà do ngươi giết có đúng không?

Hiền Nhi lại khẽ cười, nhu mì đáp:

-Bẩm nương nương, đó là kết cục của những kẻ không biết nghe lời!

Triệu Phi Liên nhìn xuống bộ móng tay mới vẽ, màu đỏ son chói lọi, đáy mắt lóe ra tia sát ý. Một ngày nào đó... một ngày nào đó... ta sẽ...

Bên này Qúy phi đang buồn bực khó chịu, bên kia Tư Tư cũng không khá hơn. Nàng nằm trong ổ chăn cả ngày, giống như mất hết sức lực. Tiểu Mai bước vào phòng, nhỏ nhẹ gọi:

-Quận chúa ăn chút gì đi, sáng giờ không có gì bỏ bụng...

Tư Tư ậm ừ, uể oải bò dậy, đầu tóc bù xù chưa chải. Tiểu Mai cười cười, đặt tay lên trán nàng. Tốt quá, không có bệnh!

-Điện hạ muốn ăn cháo yến mạch hay là súp măng gà?

-Ta không muốn ăn cái gì hết.

-Đừng như vậy... ăn một chút đi rồi nô tì dẫn điện hạ ra ngoài chơi?

Tư Tư mím môi, rầu rĩ nuốt cháo. Nàng nhớ lại tình huống ngày hôm qua, bàn tay Ca Dương bị cắt rất sâu, phải dùng kim khâu lại. Suốt quá trình hắn không hó hé lời nào, để im cho ngự y chữa trị. Tư Tư co ro ở bên cạnh, nhìn da thịt máu me còn thấy đau huống chi người bị khâu. Nàng rụt rè lau mồ hôi bết trên trán hắn, ý thức được mình đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Cuối cùng tay Ca Dương bị bó như cái đùi gà, không may còn là tay phải. Đây là bàn tay mỗi ngày xử lý biết bao chuyện lớn nhỏ của một quốc gia, Tư Tư cảm giác mình là tội đồ dân tộc!

Lúc này nàng không dám nghĩ tới chuyện hòa giải với hoàng thượng nữa, chuẩn bị về nhà nghe phụ vương la mắng. Năm nay đúng là năm hạn, chuyện xui xẻo liên tục tới. Tiểu Mai giúp nàng thay y phục và chải tóc gọn gàng, sau đó dắt theo Nha Nha đi dạo hoa viên. Con chó lon ton chạy trước hai người, hoàn toàn không để ý tâm trạng ảm đạm của cô chủ. Nó ngửi chỗ này một chút, ngửi chỗ kia một chút, tè mấy bãi làm héo hết hoa hải đường rất đẹp trong vườn. Đi được một lúc, Tư Tư thấy khát khô cả họng.

-Tiểu Mai tỷ, ta muốn uống nước!

-Quận chúa ở đây chờ, nô tì sẽ đi lấy nước.

Tiểu Mai đi rồi, Tư Tư lại thất lểu cùng Nha Nha đi lòng vòng, kết quả bị lạc đường!

-Đây là đâu? Tại sao không thấy ai hết?

Nàng nhìn qua ngó lại, cảm giác đường mòn có hàng liễu che trông rất quen mắt, chắc là đường tắc trở về Tương Đông Hiên. Tư Tư càng đi càng cảm giác thân thuộc, phía xa xa có hồ sen rộng lớn và nhà thủy tạ.

-Nha Nha, mày có nghe tiếng hát không? Ai đang hát vậy nhỉ?

-Gâu?

Tư Tư mơ màng tiến về phía trước, nhìn thấy U Trì mênh mông, hoa sen nở bất kể bốn mùa, lá sen um tùm che phủ mặt nước. Giữa hồ xây cái đình nhỏ, kiến trúc độc đáo như một bông sen khổng lồ. Cây cầu gấp khúc quanh co dẫn ra Phù Dung Đình, Tư Tư kéo váy, bước chân chầm chậm. Không khí mang hơi nước mát lạnh, mùi hoa thơm thoang thoảng khiến thần trí tỉnh táo dễ chịu. Tư Tư nhớ lại, hồi bé nàng từng ra đây câu cá, bắt được con cá to rồi để nó sổng mất. Nàng chọn một chỗ sạch sẽ, có lan can thấp, cởi hài thêu, nhúng đôi chân trắng nõn xuống nước. Cá chép gấm bơi từng đàn bên dưới dòng nước trong vắt, chúng vòng qua cổ chân nàng, hoàn toàn không sợ người lạ. Nha Nha ngoẹo đầu nhìn lũ cá, cũng bắt chước thọc chân chó xuống. Eo! Lạnh quá! Nó khịt mũi chán ghét, nghĩ tới những lần bị Tiểu Mai đè ra tắm. Con chó xếp chân, ngay ngắn ngồi bên cạnh cô chủ, nhìn cô chủ đạp nước, nghịch cá. Gió hồ thổi hiu hiu, búp sen đung đưa chao nghiêng, mái tóc dài của nàng đùa giỡn trong gió, lông mao của Nha Nha rập rờn như biển lúa trắng phau. Tư Tư giơ chân kẹp một thân hoa ở gần đấy. Rễ cây nằm sâu trong lớp bùn, không dễ kéo ra. Trong lúc nàng đang chơi vui vẻ thì nghe thấy tiếng nói chát chúa của ai đó:

-Đây là chỗ nào mà Quận chúa điện hạ dám tự tiện đến? Ngươi không biết hoàng thượng cấm người ngoài bước vào U Trì sao?

Tư Tư không cần quay lại nhìn cũng đoán được, nàng thản nhiên đánh chân khua nước, trả lời Dung quý phi:

-Nếu hoàng thượng đã cấm, tại sao nương nương cũng tới?

-Ha ha, buồn cười! Bổn cung đường đường là Hoàng quý phi, chẳng lẽ không được tới?

-Ta cũng đường đường là Minh Châu quận chúa, sao không thể tới?

Qúy phi nóng nảy, trừng mắt nhìn Tư Tư. Nàng lại không thèm so đo, vẫn tự tìm vui cùng cá chép. Triệu Phi Liên tới gần, mắt nhìn xung quanh thấy không có thái giám cung nữ nào đi với nàng, trong lòng nảy sinh chút ác ý.

-Nghe nói U Trì này từng có nhiều người chết, oán khí rất nặng, nếu ai tới quấy rối sự thanh tĩnh ở đây sẽ bị ma nước kéo xuống hồ!

-À, vậy thì nương nương phải cẩn thận!

Quý phi tức giận híp mắt, nàng nhìn bóng lưng của Tư Tư, cảm giác Quận chúa càng lớn càng đẹp, vẻ mảnh mai yêu kiều khiến người ta nảy sinh yêu mến. Nàng hiểu được gây bất lợi cho Tương Tư thì mình cũng chịu thiệt nhưng mà nghẹn uất tích tụ bao nhiêu ngày không có chỗ giải thoát. Triệu Phi Liên thầm nghĩ, nếu không có Tương Tư, nhất định bệ hạ chỉ toàn tâm toàn ý với một mình nàng! Ghen tị là quái vật xấu xí nhất, đặc biệt khi nó hiện diện trong trái tim phụ nữ.

Phi Liên giả vờ bước ngang qua, lúc tới gần thì đột nhiên trẹo chân, thân thể lảo đảo xô trúng Tư Tư. Nàng ngồi ngay mép nước, bị đẩy một cái liền lao đầu rơi xuống. Tư Tư không ngu ngốc, thấy hành động của Qúy phi khả nghi, nàng đã chuẩn bị sẵn, trong lúc ngã còn lôi cả Qúy phi theo...

"ÙM!" Mặt hồ trào bọt sóng, hai màu áo cùng nhau chìm xuống...

-Áaaaa nương nương rơi xuống hố, bớ người ta nương nương rơi xuống hồ!!!

Cung nữ kinh hoàng chồm người ra ngoài lan can nhưng không ai biết bơi, thị vệ ở phía xa đang vội vàng chạy lại. U Trì vốn thanh tĩnh bỗng ồn áo rối loạn! Rất nhanh Dung quý phi được đưa lên, cả người ướt sũng, quần áo dính bùn, bất tỉnh nhân sự. Đoàn người gồm cung nữ, thái giám, thị vệ nhao nhao quay quanh nàng, giúp nàng thông khí, chạy đi gọi ngự y. Trên bờ hồ huyên háo như thế nhưng dưới đáy hồ cực kì yên tĩnh. Không ai nhớ còn có Quận chúa chưa được cứu, nàng chìm dần, chìm dần... mái tóc bồng bềnh trong nước, cá chép đủ sắc màu vờn quanh bơi tới bơi lui, váy áo dập dìu bị vướn vào thân sen nằm ẩn dưới lòng hồ. Tư Tư cảm thấy tức thở, nàng mở mắt nhìn lên mặt nước trên đầu lăn tăn ánh sáng...

Nàng nhớ, mình đã chèo thuyền ra giữa hồ, xung quanh tối đen như mực.

Nàng cũng nhớ, năm đó Trung Lương chìm trong khói lửa, phụ hoàng và mẫu phi chết chung một ngày.

Nàng nhớ, mình đã ngủ trong hồ sen thật lâu, chục năm... trăm năm... chứng kiến Khương La thay ngôi đổi chủ, chứng khiến giang sơn của hắn từng chút bị hủy hoại, rơi vào tay người khác...

Tư Tư cũng nhớ... hắn quanh quẩn tìm nàng trong hoàng cung nhiều năm trước khi bị hắc bạch vô thường bắt đi. Nàng không một lần lộ diện. Bởi vì hận hắn, cũng bởi vì thương hắn... Nàng là vong hồn không thể siêu sinh, nàng sợ hắn cũng lưu lại nhân gian không thể luân hồi...

Sau đó, nàng chui vào nhụy hoa ngủ một giấc trăm năm, mãi tới khi bị tiếng ồn trẻ con đánh thức. Năm đó Ca Dương mới sáu tuổi, hắn đứng trên bờ hồ kinh ngạc mở to mắt thì thầm hỏi: "Ngươi là tiên hay là ma đấy? Sao cứ bay lơ lững thế kia?"

Dòng hồi tưởng của nàng bị cắt ngang, bởi vì một con chó trắng xuất hiện. Bốn chân nó mạnh mẽ đạp nước bơi về phía nàng, vầng hào quang tỏa ra, nàng cảm tưởng nó như Cực Quang Khuyển mang theo sức mạnh băng tuyết và thủy triều đại dương... Con chó tìm dưới đáy hồ tối đen, may mắn trông thấy ánh sáng phát ra từ cây trâm Như Ý – ngọc Như Ý mà Ca Dương tặng nàng ngày lễ chải tóc. Nha Nha hì hục bơi về phía ánh sáng...

Ca Dương nhận được tin tức rất nhanh, hắn ném tấu chương, dùng khinh công bay tới U Trì. Ca Dương hoảng hốt đẩy đám người lố nhố, ngoài ý muốn nhìn thấy Triệu Phi Liên vẫn còn chưa tỉnh.

-Quận chúa đâu? Tư Tư đâu???

Hoàng thượng thình lình xuất hiện, tiếng gầm làm mọi người choáng váng, lúc này một cung nữ đi theo Triệu Phi Liên mới sực nhớ kêu lên:

-Chết rồi! Quận chúa còn ở dưới hồ!

Ca Dương không nói hai lời chạy ra mép nước, trước khi hắn lao xuống thì Nha Nha kịp thời trồi lên, đem theo Tư Tư lôi lên. Ám vệ Ca Dương sắp xếp vẫn luôn đi theo nàng, họ đến còn sớm hơn thị vệ. Nhưng điều kì lạ là họ không tìm được Quận chúa! Ở dưới chân cầu chỉ có mỗi Hoàng quý phi. Nước ở U Trì quá nhẹ, lặn rất khó khăn mà sóng ngầm không rõ nguyên do cứ liên tục xuất hiện, cuốn bọn họ trôi vào gần bờ. Ám vệ ba người, vừa bối rối lại hoảng hốt, hết phen này tới phen khác ngoi lên lấy hơi rồi hì hục lặn xuống, vẫn không tìm thấy tung tích của Quận chúa. Nha Nha rướn cổ nhìn dáo dác U Trì không một tín hiệu, nó gầm gừ nhe răng, tật sợ nước cũng biến mất, như một tia chớp bạc đâm xuống hồ. Tiềm thức của con chó mách bảo, nó phải cứu được cô chủ, sứ mệnh của nó là bảo vệ cô chủ! Kết quả ba ám vệ võ công cao cường bất lực lặn hụp trong đầm sen, con chó Samoyed chật vật cõng Quận chúa ngoi lên!

Ca Dương thấy nàng gục trên lưng Nha Nha, bỗng nhiên nhớ tới một buổi sáng rất lâu về trước, hắn cũng tìm thấy A Dung ở hồ sen này, nàng lạnh lẽo không một hơi thở...

-Tương Tư, Tương Tư, Tương Tư...

Ca Dương lội xuống nước đón lấy nàng từ trên người Nha Nha. Con chó rên ư ử, đầu đội lá sen, chân vướn rễ cây, ướt như chuột lột, chủ tớ đều thê thảm. Ca Dương đỡ Tư Tư nằm vào lòng mình, nâng đầu nàng không ngừng gọi tên. Làn da vốn hồng hào bây giờ tái nhợt, rất lạnh, không một chút sức sống. Ca Dương không dám kiểm tra hơi thở, chỉ dùng hết cánh tay và lồng ngực bao bọc nàng bên trong.

Đừng rời khỏi ta, đừng lần nữa rời khỏi ta... xin em... xin em...

Hắn niệm đi niệm lại trong lòng, ôm lấy nàng, vùi mặt vào người nàng. Tư Tư dưới sức ép của hắn chầm chậm mở mắt, nàng trông thấy gương mặt khác xưa nhưng đôi mắt vẫn bi thương như cũ. Hình như lần cuối cùng nàng thấy hắn cũng là khi hắn khóc, trần trụi ôm nàng ở trên giường rơi lệ. Tư Tư mở miệng cười nhạt:

-Lớn rồi mà khóc, không sợ thần tử của chàng cười cho à? Mình làm hoàng đế đấy!

***

Tương Đông Hiên đốt huân hương thoang thoảng, khắp phòng đặt lò than ấm áp. Ca Dương ngồi bên giường nhìn Tương Tư say ngủ, hắn nhớ tới cảnh tượng chỉ vừa diễn ra mấy giờ trước. Triệu Phi Liên được thị vệ cứu lên, cung nhân hối hả gọi ngự y trong khi Tư Tư của hắn còn ở dưới đáy hồ. Chỉ có Nha Nha cứu nàng, chỉ có một con chó quan tâm tới nàng! Tất nhiên hắn sẽ không nhắc tới đám ám vệ bất tài vô dụng kia!

Ca Dương giận run người, lại đau lòng tê tái. Hắn cẩn thận vuốt ve khuôn mặt say ngủ, may là nàng không sao, nếu nàng có mệnh hệ gì... Hắn không dám nghĩ tới giả thiết này! Ninh công công vén rèm đi vào, nói thật khẽ:

-Bệ hạ, đã điều tra được, Quý phi cố ý xô Quận chúa xuống nước, điện hạ trong lúc cấp bách bám lấy nàng ta, khiến cả hai cùng ngã. Khi đó chỉ có ba cung nữ của Dung phi ở đấy, thị vệ nghe rằng nương nương té hồ nên nhảy xuống cứu, không biết Quận chúa cũng ở dưới...

Ca Dương nắm bàn tay Tư Tư đã được ủ ấm, ánh mắt thâm độc cười gằng:

-Triệu Phi Liên... đã tới lúc không cần giữ lại ả đàn bà này...

Ninh công công rùng mình, trong lòng cũng bội phục Dung quý phi, người có thể khiến hoàng thượng hận thấu xương như vậy không phải bình thường! Dung phi này cứ tưởng thông minh, ai ngờ ngu đần có đủ!

-Bệ hạ, đã khuya lắm rồi... ngài đi ngủ một chút đi!

Ca Dương cúi đầu nhìn Tư Tư, xua tay với Ninh công công:

-Trẫm ở đây, không cần hầu hạ!

Ninh công công không khuyên được, thở dài lui ra ngoài. Trong phòng còn lại hai người, ánh nến đỏ bập bùng, in lên tường bóng lưng hắn tĩnh lặng. Ca Dương cứ thất thần nhìn nàng một lúc, sau đó cởi giày nằm xuống khoảng trống nhỏ phía ngoài. Hắn đem Tư Tư ôm vào lòng, giống như ngày bé nàng thường bị đau đầu, ban đêm cũng nằm trong lòng hắn ngủ tới sáng. Ca Dương thở dài thỏa mãn, bàn tay có nhịp điệu vuốt ve mái tóc tơ. Hắn khẽ khàng áp môi lên trán nàng, thầm thì những lời nàng không nghe được:

-Tư Tư... em nhanh tỉnh lại đi, ta sẽ không phạt Sử Hựu Trát, em muốn gì cũng được, ta đều nghe theo hết. Ta hứa không bao giờ gắt gỏng, không bao giờ to tiếng, không bao giờ làm em buồn, em giận... Những kẻ khốn khiếp dám đọng vào sợi tóc của em ta cũng không tha một tên nào... Em là ai không quan trọng nữa, ta chỉ biết em là người ta yêu, hiện tại rất yêu, rất yêu, rất yêu...

Tình trạng của Quận chúa làm toàn bộ Thái y viện bối rối. Nàng ngủ một ngày một đêm, vẫn không chịu tỉnh lại. Nếu nhớ không lầm thì vào năm Thái Minh thứ nhất, hoàng đế phát điên cũng nhảy xuống U Trì rồi bất tỉnh như vậy. Ngự y rùng mình, cái ao sen kia quả nhiên có "thứ gì" không sạch sẽ, về sau tránh được thì tránh!

Mỗi ngày Ca Dương vẫn túc trực bên giường, sắc mặt ngài trắng nhợt, còn trắng hơn cả tiểu cô nương hồng hào đang say giấc nồng kia. Nàng mơ giấc mơ một đời người, rất đẹp, cũng rất buồn...

Đến một đêm nọ, Tư Tư im lặng mở mắt. Nàng nhìn lên đỉnh màn thêu hình bươm bướm rối rắm mà trật tự, bất động một lúc lâu... Có thứ gì đó thay đổi trong ánh mắt trong trẻo kia, thêm phần già dặn, cũng thêm phần u sầu... Tư Tư kéo chăn ngồi dậy, nàng nhìn ra cửa sổ để mở, vô thức bước tới, thành thạo trèo ra ngoài. Đêm yên tĩnh thanh vắng, nàng đi đến Phù Dung Đình. Cái hồ sen này so với trong trí nhớ đã khác, nhà thủy tạ xây lên rất đẹp, giống hệt tưởng tượng của nàng ở kiếp trước. Tư Tư cười nhẹ, chân trần bước qua cây cầu khúc khuỷu. Nàng từng ở chỗ này mấy trăm năm, quen thuộc mỗi bông hoa chiếc lá. Tư Tư đẩy cánh cửa gỗ, đi vào Phù Dung Đình đã lâu không ai tới. Nàng hơi bàng hoàng nhìn bài trí của căn phòng, từng chi tiết giống hệt Trúc Uyển ngày xưa. Tư Tư vuốt ve đệm trải giường, rèm che thêu hoa sen tịnh đế, phía sau tấm bình phong là bộ bàn trà chân thấp... Nàng buồn bã nhớ lại, trên chiếc giường này họ đã từng nhiều lần... Trên chiếc bàn này hắn ngồi duyệt tấu chương, còn nàng vừa ăn nho vừa đọc du kí. Lúc vui vẻ nàng đút hắn một quả, lúc buồn phiền hắn đút nàng một quả. Mở cửa sổ nhìn ra, bên ngoài đã không còn tổ chim bạc trĩ mà là hồ sen khoe sắc thắm. Tư Tư mòn mỏi dựa vào khung cửa, mắt nhìn căn phòng như chiếc hộp kí ức. Nàng trông thấy cổ đàn dựng ở một góc, không phải cái ngày xưa nhưng giống hệt ngày xưa, nàng do dự đi qua, vuốt ve chất gỗ đen bóng mát lạnh...

Lúc này ở Dụ Kiến cung, Ca Dương đột nhiên giật mình thức giấc. Hắn nhớ buổi chiều đến Tương Đông Hiên thì Tư Tư chưa tỉnh, hắn ngồi cùng nàng một lúc, quá mệt mà thiếp đi. Thuộc hạ đưa trở về hắn cũng không tỉnh lại, xem ra mấy ngày nay thiếu ngủ trầm trọng. Ca Dương đứng lên khoác áo choàng vào người, hắn trèo qua cửa sổ vì không muốn nghe Ninh công công lải nhải. Gần đây cửa sổ trong cung thật là tiện lợi!

Ca Dương dự định đi đến Tương Đông Hiên nhưng vừa dợm bước thì nghe thấy một tiếng đàn văng vẳng. Hắn kinh ngạc hướng về phía âm thanh. Bốn bề tối đen như mực, giai điệu ấy tựa đốm lửa giữa đêm khuya thanh vắng. Triệu Phi Liên từng ăn trộm bài ca này, bị hắn nổi giận cấm không được hát. Ca Dương có thể phân biệt rõ ràng, tiếng đàn lúc này không phải sự sao chép, nó chính là khúc nhạc nguyên bản hệt như trong quá khứ! Ca Dương thấy nhịp tim dồn dập, vừa kích động lại vừa lo sợ. Sợ rằng đây lại là một ảo ảnh khác, giống như rất nhiều ảo ảnh hắn từng gặp...

Chân không tự chủ đi về phía đó, Ca Dương như vong hồn bị tiếng đàn ma thuật lôi kéo, hắn đi qua cây cầu nhỏ quanh co, cảm giác lâng lâng như mộng du. Dừng lại trước cánh cửa, Ca Dương run run không dám mở. Sợ chỉ cần đẩy nhẹ thì ảo ảnh biến mất, bên trong chỉ có những kỷ vật vô tri, lạnh lẽo không người...

"Thiên địa vạn năm vẫn bốn mùa, lá cây trên cành muôn đời vẫn từ chồi non thành lá úa...

Kén sâu chỉ một lần hóa bướm, phù dung chỉ một lần tỏa hương...

Đời nhi nữ có mấy thời xuân sắc? Làm nữ nhân, thiếp chỉ một lần yêu. Như trăm loài hoa một lần khoe sắc, một lần tàn...

Chiến trường gió tanh mưa máu, nghe đã hãi hùng. Nhưng than ôi, hậu cung bốn bề tĩnh lặng còn đáng sợ hơn địa ngục trần gian...

Phải chi ta chưa bao giờ gặp, sẽ chưa bao giờ thương, cũng chưa bao giờ nhớ...

Phải chi người không khoác long bào, không giang sơn gấm vóc, không mỹ nhân giai lệ trùng phùng...

Kiếp làm hoa lặng thầm đợi cánh bướm. Bướm bay gần rồi bay xa, nhưng chưa từng ghé lại...

Kiếp làm hoa vẫn nhớ hoài cánh bướm. Bướm bay cao bay thấp, nhưng chẳng bao giờ nhìn thấy ta...

Kiếp làm hoa cứ phải đợi cánh bướm... đến khi hoa tàn, đến khi lá héo, đến khi cành khô... bướm vẫn chưa đến một lần..."

Ngón tay dạo qua dây đàn, vẫn thành thạo như trước. Nàng nghe thấy rất nhiều lần trong những giấc mơ nhưng chưa bao giờ nhớ trọn vẹn. Tư Tư ấn nhẹ dây trầm thứ sáu, hoài niệm mà dừng lại. Trong phòng đốt ngọn nến nhỏ do cung nữ quét dọn để lại, xung quanh không có lò sưởi mà hơi ẩm từ mặt nước bốc lên khiến chân nàng lạnh cóng. Nhà thủy tạ không phải lúc nào cũng tốt, mùa đông mà ở đây chẳng khác gì hành xác! Nàng xuýt xoa hà hơi vào lòng bàn tay, cảm khác khớp xương cũng lạnh. Tư Tư duỗi chân đứng dậy, không ngờ giẫm phải một góc áo đen. Nàng giật mình, rồi có dự cảm chẳng lành ngẩng đầu lên.

Năm đó Khương La tiếp tục lớn mạnh dưới triều đại Chu Lạc, U Trì thành nơi hoang phế không ai đến thăm. Thỉnh thoảng nàng vẫn đưa tiễn một vài vong linh xấu số bị người ta hãm hại, chôn xác dưới đáy hồ. Nàng cảm thấy buồn, bởi vì Phù Dung Trì bị lòng dạ con người vấy bẩn. Nàng bảo vệ ao sen này, giữ hoa nở bốn mùa, giữa nguyên khí hoàng cung trong sạch. Thời gian trôi qua dài dặc, có khi nàng không nhớ nổi mình tên gì, vì sao tồn tại, vì sao không biến mất...

Rồi một buổi sáng bình thường như bao buổi sáng, nàng ngủ trong nhụy hoa, nghe thấy tiếng cười khanh khách, tiếng tóe nước bì bõm, tiếng hoa sen than thở... Uể oải ngồi dậy, hé cánh hoa chui ra, nàng nhìn thấy cậu bé đứng trên bờ hồ. Đứa trẻ chỉ khoảng sáu bảy tuổi, mắt sáng trán cao, trên người ẩn hiện bạch long còn chưa thành hình. Nàng hoài nghi bay tới gần, không biết thân phận của con rồng nhỏ này là gì. Long mệnh được đính vào hồn phách khi thiên tử ra đời, giống như vua Sùng Nghi, giống như thái tử Ca Thần. Đứa bé này cũng có long mệnh, lại còn vảy trắng lục giác nàng chưa thấy bao giờ! Đáp xuống một đài sen ở trước mặt thằng bé, nàng vừa lo vừa sợ khi nó ngẩng đầu lên, ngây ngô hỏi:

-Ngươi là tiên hay là ma đấy? Sao cứ bay lơ lững thế kia?

-Ta... không phải tiên...

Đứa trẻ chớp chớp mắt.

-Vậy là ma? Ma cô nương thật là xinh đẹp...

Nàng hơi đỏ mặt, thầm nghĩ đứa nhỏ này rất lưu manh, còn bé tí thế kia đã biết trêu hoa ghẹo nguyệt. Hóa ra hắn là Tam hoàng tử, tên Chu Lạc Ca Dương. Nàng dần quen thuộc với sự có mặt của hắn, mỗi ngày đều đến đây trình diện.

-Ma cô nương, tên nàng là gì thế?

-Uhm... tên là... Phù Dung, hình như họ Sở...

-Hình như? Cả tên cũng không nhớ rõ?

-Uhm, không nhớ rõ...

Ca Dương mỗi năm lại cao thêm một tí, ngày càng ra dáng thiếu niên anh tuấn. Nàng trước sau vẫn vậy, vẫn khuôn mặt trắng nhợt, đầu tóc bù xù, mặc chiếc váy ẩm ướt, nàng không hiểu con ma chết trôi như mình đẹp ở chỗ nào.

-Mẫu hậu lại giục ta cưới vợ. Làm sao bây giờ, ta chỉ thích em thôi...

-Phù Dung không phải người, điện hạ đừng sinh lòng yêu mến.

Hắn nằm trên chiếc thuyền neo ở giữa hồ, nàng ngồi ở mũi thuyền, mắt buồn nhìn Ca Dương. Hắn dần trưởng thành, nàng cũng dần nhận ra luồng nguyên khí quen thuộc. Nàng hiểu, chàng đã quên tất cả, bắt đầu cuộc đời mới. Còn nàng vẫn chỉ là linh hồn đến từ dĩ vãng, gặp lại cố nhân, một cái chạm tay cũng không thể!

-Điện hạ, Phù Dung múa cho chàng xem được không?

-Uhm? Em còn biết múa nữa sao?

-Biết chứ, điệu này gọi là Phù Dung Lưu Hương...

Năm Sùng Nghi thứ hai mươi hai, Ca Dương cưới Triệu Tiếu Vy làm chính thê, lý do đơn giản vì một điệu múa. Nàng ngồi trên đài sen, ngửa đầu nhìn mặt trăng tròn vành, ma vốn không biết khóc nhưng cảm giác lòng đang rơi lệ.

-Phù Dung, ta sai lầm rồi, cho dù bất cứ ai cũng không thay thế em được.

-Phù Dung không phải người, hoàng tử việc gì phải cố chấp như thế?

-Ta biết em không phải người, cho nên ta nghĩ... mình cũng không cần làm người...

Nàng cắn răng không đáp. Ông trời thật biết đùa giỡn nhân duyên, một kiếp khổ chưa đủ sao, lại cho thêm một đời dang dở? Ca Dương vẫn thích nàng, dù hắn không nhớ nàng là ai, cũng không biết chuyện xưa của họ...

-Ta nghe Vy Vy nói Trung Lương từng có một công chúa tên Sở Phù Dung. Nàng ấy gả đến Khương La, chết ở Khương La. Chính là em sao?

-Điều này quan trọng à? Tất cả đã qua hết rồi...

-Nhà Phật nói chưa buông hồng trần thì chưa siêu thoát, em không rời đi vì còn yêu Hạ Hầu Vĩnh Khang sao?

-Phải thì sao mà không phải thì thế nào?

-Ta ghen đấy!

-Hả?

-Ta nói là ta ghen đấy! Gã khốn khiếp đó có gì đáng để em thương nhớ chứ, đã thành bộ xương khô rồi! Hắn mà tài giỏi chỗ nào, vương triều cũng không giữ được, cuối cùng vẫn mất trong tay Chu Lạc gia đấy thôi!

Nàng không nhịn nổi cười, thâm ý bảo hắn:

-Chàng đừng tùy tiện mắng Vĩnh Khang, chàng không biết hắn là ai đâu...

-Là thằng ngốc chứ ai, phụ bạc một cô gái như em là đứa ngốc!

Ca Dương lên ngôi giữa bốn bề thù trong giặc ngoài. Ngày đăng cơ, nàng hái lá sen che nắng, lần đầu bước ra khỏi U Trì. Ca Dương lên đường đánh giặc, nàng lặng lẽ tiễn đưa, nào hay biết lần này không từ mà biệt... Hoa sen trong hồ dần dần héo úa, nàng kiệt sức hy vọng hắn về kịp. Đáng tiếc, cuối cùng nàng vẫn một mình ra đi, chẳng biết phía trước là thiên đường hay địa phủ...

-Tư Tư... em là ai?

Ca Dương nhìn xuống cô gái ở trước mặt, tất nhiên nàng là Chu Lạc Tương Tư, nhưng nàng còn là ai khác? Tư Tư chật vật đứng dậy, nàng chỉ cao tới vai hắn, phải ngửa đầu nhìn lên một Ca Dương đã quá ba mươi. Năm tháng rất nhân từ với người đàn ông này, chưa cướp đi thanh xuân, chỉ cho thêm nét chững chạc và nam tính.

-Ca Dương, ngày xưa chàng nói nếu em không phải người chàng cũng không làm người, bây giờ em là người, chàng đã hài lòng chưa?

Lời nàng giống như tiếng thì thầm từ kí ức. Hắn thấy đồng tử co rút, kịch liệt co rút, môi mấp máy không nói được một lời. Nhân sinh đất trời hình như chao đảo, giống như trái tim hắn lúc này, đã muốn ngừng đập rồi! Tư Tư thấy biểu cảm "kinh khủng" của Ca Dương, nghịch ngợm vuốt ve mặt hắn:

-Nhưng mà chàng già quá, em chê đấy! Vẫn thích Ca Dương mười bảy tuổi hơn!

Xúc giác truyền đến từ đôi bàn tay giá lạnh, nói cho hắn biết mình không phải nằm mơ. Giống như con đập không cản nổi dòng nước lũ, vỡ nát, tuôn trào... Hắn cuốn lấy nàng, siết chặt lấy nàng, gấp gáp không chờ được. Tư Tư vươn tay ghì lấy cổ hắn, đôi chân cắp vào bên hong hắn, chặt chẽ không khe hở.

Là Sở Phù Dung yêu hận của kiếp trước

Là "ma cô nương" ở trong hồ sen năm nào

Cũng là Chu Lạc Tương Tư của hiện tại

Ba người nhập thành một, là nàng ngày hôm nay.

-Người em lạnh quá...

Hắn xé toạc mảnh áo cuối cùng, nhíu mày hôn lên mỗi khoảnh da lạnh lẽo. Tư Tư như con thú nhỏ gặm cắn ngón tay hắn, bất mãn kêu lên:

-Ai bảo chàng không chuẩn bị than, ngón chân em không cử động được nữa!

Hắn xoa nắn hai bàn chân trắng nõn, mỗi chiếc ngón sạch sẽ tinh tế.

-Ta giúp nàng ấm lên...

Ca Dương hôn ngón chân, gót chân, hôn lên cẳng chân, mon men bò lên đùi. Môi chạm vào da, cảm giác như chạm vào thứ lụa hảo hạng. Tư Tư bị nhột, cười một tiếng kẹp lấy cổ hắn, một động tác quật ngã xuống giường. Ca Dương choáng váng bị nàng cưỡi lên, vội vàng đỡ lấy cô gái nhỏ lớn mật. Mái tóc không có trang sức gì cần phải gỡ, tùy tiện xõa xuống, chảy dọc theo sống lưng gợi cảm, chấm lên da bụng nhột nhạt râm ran. Ca Dương không nhịn được thở gấp. Tư Tư vẽ những vòng tròn trên ngực hắn, vờn qua hai điểm đỏ, cười khánh khách nhìn hắn cắn răng chịu đựng. Ca Dương mặc cho nàng nghịch, bây giờ nàng muốn hắn chết hắn cũng cam tâm... Tư Tư sờ sờ mó mó, khi nắm đến bàn tay phải thì dừng lại. Ca Dương để ý hành động của nàng, kéo nàng nằm lên người mình, khẽ khàng nói:

-Không sao cả, bây giờ em muốn cắt tim ta cũng được, huống hồ là cánh tay này...

Nàng vén tóc qua một bên vai, gác cằm trên ngực hắn thầm hỏi:

-Nói em biết, rốt cuộc chàng yêu ai? Phù Dung, ma cô nương hay là Tương Tư? Thói trăng hoa đa tình cần phải trừng trị!

Ca Dương bị hỏi khó, bật cười áp nàng xuống giường, đảo khách thành chủ.

-Hạ Hầu Vĩnh Khang yêu Sở Phù Dung. Chu Lạc Ca Dương trước mười bảy tuổi yêu ma cô nương. Còn ta hiện tại chỉ yêu em, đã hài lòng chưa?

Tư Tư đỏ mặt véo mũi hắn, đúng là mồm miệng ngọt ngào, dụ dỗ bao nhiêu ong bướm! Ca Dương để nàng véo, tranh thủ hôn lên bàn tay vẫn còn hơi lạnh.

-Chàng không thấy mình là gã biến thái hay sao? Trước kia yêu nhầm em gái ruột, sau đó phải lòng một con ma, đến bây giờ lại quay sang mơ tưởng cô em họ!

Tuy nói như thế nhưng chính bản thân Tư Tư cũng thấy may mắn. Là anh em ruột, họ không thể đến với nhau. Là người và ma cách trở âm dương, một cái chạm tay cũng vô vọng. Hiện tại đã hoàn hảo mỹ mãn, không có gì ngăn cản giữa nàng và hắn nữa... Ca Dương híp híp mắt, nâng cổ nàng hôn xuống.

-Vậy thì biến thái triệt để đi, chúng ta tiến đến quan hệ "anh em họ không trong sáng", nàng thấy thế nào?

Tư Tư run rẩy khi chân bị kéo sang hai bên, còn hắn ngang ngược chen vào. Khung cảnh này vừa khéo, nó giống như ký ức, cũng căn phòng như vậy, chiếc giường như vậy, làm người ta trầm luân một đời. Nàng không phải Phù Dung, hắn cũng không là Vĩnh Khang, ít nhất tương lai của họ vẫn còn hy vọng. Tư Tư không có gì hối tiếc, nàng nhắm mắt, bấu vào bờ vai hắn, để hắn đưa mình đi đâu thì đi...

Nha Nha ngủ trong ổ chó ở góc phòng, nó đã quen với việc canh giữ cho cô chủ hàng đêm. Một tiếng động khẽ cũng làm con chó tỉnh giấc. Lỗ tai nó nhún nhích, im lặng mở mắt dõi theo Tư Tư. Nàng một thân đơn bạc trèo qua cửa sổ, Nha Nha khó hiểu cũng lặng lẽ đuổi theo. Nó nấp trong bụi cây ven hồ, đứng xa xa nhìn cô chủ đi vào Phù Dung Đình. Một lát sau nó lại thấy Ca Dương xuất hiện, Nha Nha tự hỏi, hai người này tính chơi trò gì vậy? Năm nay số nó đào hoa, đào hoa theo kiểu hay bắt gặp chuyện mờ ám của người khác! Nha Nha cảm thấy Ca Dương so với Phong rất không đáng tin, mà cô chủ so với Tiểu Mai thì ngờ nghệch lắm, không khéo bị người ta ăn đến xương cũng chẳng chừa!

Nha Nha do dự... do dự... nó rất sợ Ca Dương, nó không kháng lại được mệnh lệnh của Ca Dương... nhưng nó vẫn muốn bảo vệ cô chủ... Nha Nha rón rén đi đến cửa, tai chó áp vào nghe ngóng. Trong phòng khá yên tĩnh nhưng vẫn có chút âm thanh kì lạ... Con chó giơ chân khều một cái, cánh cửa hé ra khe nhỏ, nó khẽ khàng chuồn êm vào trong. Mắt chó nhìn bóng tối rất tốt, Nha Nha nhanh chóng phát hiện có cái gì động đậy ở trên giường... Con "quái vật" trùm mền rên ư ử, làm như đau đớn mà cũng như sung sướng... Thật khó hiểu! Nha Nha quyết định xếp chân ngồi xem một chút, chó cũng hiếu kì mà!

-Đừng... huhu, đáng ghét!

Tiếng này giống cô chủ nhưng sao lại ướt át như vậy? Nha Nha ngoẹo đầu đánh giá.

-Ngoan, đừng khóc, thả lỏng chút... azz... em làm ta điên mất!?

Tiếng này rõ ràng là hoàng đế xấu xa nhưng sao lại dịu dàng như vậy? Nha Nha liếm chân đánh giá. Khung giường kêu kẽo kẹt, rung rung lắc lư, trong không khí có mùi xạ hương mờ ám. Không may lúc đó tấm chăn bỗng rơi xuống, Nha Nha lập tức gác chân lên mõm, thành thật cúi đầu đếm kiến. Phía bên này Ca Dương đánh mất cảnh giác, hoàn toàn không phát hiện trong phòng còn có hơi thở lạ. Hắn đem nàng lăn qua lộn lại, mái tóc hai người tán loạn, rối vào nhau tưởng như không gỡ được. Tư Tư oằn mình chịu đựng từng cái chạm nảy của hắn, nàng không lầm được, đây chính xác là tác phong cầm thú của Hạ Hầu Vĩnh Khang!

-Không được... không làm nữa... huhu muốn hỏng cả rồi! Chàng có thôi không hả?

-Em muốn ta chết sao? Lúc này mà ngừng thì chết chắc!

-Vậy chàng tự đi chết đi!

-Có chết cũng kéo em theo...

-Á...!

Nha Nha cụp lỗ tai thầm nghĩ, có vẻ trình độ hơi bị khó, óc chó không tiếp thu nổi. Lúc này Ca Dương trong tình trạng gặp thần giết thần, gặp phật giết phật, nó phải lo thân mình, tìm nơi an toàn trốn trước đã! Nha Nha liếc quanh phòng, nghĩ rằng nơi nguy hiểm nhất là chỗ an toàn nhất, chui xuống gầm giường! Con chó nhanh nhảu trườn vào, nằm sấp hết đêm nghe ván giường rung hết hồi này sang chương khác. Nó thấy âm thanh cũng không tệ, ngáp dài đánh một giấc!

Ở phía trên hai người không hề biết sự hiện diện của con chó dở hơi. Tư Tư nằm trong lòng hắn, lim dim không nhấc nổi ngón tay bé nhỏ. Ca Dương vẫn giữ thần thái thỏa mãn, sẵn sàng tái chiến chín mươi chín hiệp! Tay hắn lướt qua làn da nàng mát rượi, thứ lụa hảo hạng giờ đã lấm tấm những vết hồng ngân. Ca Dương thương tiếc hôn lên những nếp cong trên bờ ngực, hắn đột nhiên nhớ... trước kia cũng từng âu yếm chỗ này rất nhiều lần, năm ấy nàng mang thai...

-Tư Tư, chúng ta có con đi.

Nàng giật mình mở mắt, nhìn thấy khuôn mặt hắn dịu dàng mà như buồn man mác. Dù không nói ra, những vết thương trong tâm hồn vẫn còn nguyên ở đó, làm đau lòng nàng, cũng cứa rách tim hắn. Tư Tư mềm mại nép vào ngực Ca Dương, gật đầu đồng ý:

-Ừ, em lại sinh con cho chàng, lần này sẽ thương yêu nó, nuôi lớn nó!

Ca Dương run run ôm siết lấy, hắn nhận ra mình đã bắt đầu già, nếu không gấp rút chạy theo hạnh phúc thì không kịp nữa! Tư Tư ngoan ngoãn ngửa đầu, nhắm mắt phập phồng theo sự cuồng dã của hắn. Nàng cảm nhận rõ ràng từng nhịp đập của hắn trong cơ thể mình, man dại và trần trụi, ủy mị và say đắm...

Phù Dung Đình đêm nay có gì đó xinh đẹp khác xưa, hoa sen trong hồ uống sương khuya, chờ đợi bình minh để xòe hết cánh...

Đôi tình nhân đuối trong đam mê của họ, chỉ có bên ngoài vì sự biến mất của hai người mà rối loạn. Tiểu Mai gần rạng sáng phát hiện Quận chúa không ở trong phòng, hốt hoảng báo cho hoàng thượng. Ninh công công biết tin chạy vào tẩm điện, cũng không thấy bệ hạ ở đó. Lão ngẩn tò te nhìn chăn gối lạnh ngắt, không hiểu nổi chuyện gì xảy ra.

Tư Tư cảm giác bị liếm láp mà tỉnh lại. Nàng cười cười ôm lấy kẻ quấy phá kia, ai ngờ ôm phải một cái đầu đầy lông...

-Nha Nha?

Con chó kêu gừ gừ, ở bên giường giục nàng thức dậy. Tư Tư thấy ô cửa sổ đã lờ mờ ánh sáng, quay qua ngắm nhìn Ca Dương còn ngủ say sưa, nàng biết gần đây hắn uống nhiều rượu, bị mất ngủ vì phiền muộn trăm điều. Tối hôm qua còn thức trắng đêm vì nàng, chắc hẳn chàng rất mệt! Tư Tư nhìn quanh phòng, tìm được y phục rơi vãi dưới đất.

-Mày quay đầu lại, chị phải mặc quần áo!

Con chó rất có ý thức cong mông chạy ra sau bình phong. Tư Tư khoác thêm áo choàng của Ca Dương tối hôm qua, cúi người hôn lên mắt hắn.

-Em sẽ trở lại ngay, chàng ngủ ngoan nhé!

Nàng trở về Tương Đông Hiên khi Tiểu Mai sắp sửa triệu tập cả Mật Bảo Các đi tìm hai người. Nàng gấp gáp không kịp hỏi Tư Tư đã đi đâu, chỉ lo lắng đưa lá thư ra:

-Quận chúa, không tốt rồi, vương gia bệnh nặng, thế tử gửi thư gọi điện hạ trở về!

Tư Tư lập tức đọc sơ qua những dòng chữ viết vội, sắc mặt tái nhợt nói:

-Chuẩn bị xe ngựa, thu dọn hành lý, chúng ta về Sa Đà!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro