LỜI BẠT
Quản lý tiền theo phong cách Warren Buffett
Mùa hè năm 1984, tôi bắt đầu làm quản lý quỹ ở Legg Mason. Đó là một ngày
nóng ẩm thường thấy ở Baltimore. Mười bốn người chập chững bước vào
nghề môi giới đầu tư trong đó có tôi đến một phòng họp để bắt đầu khóa học.
Khi ngồi ở bàn, tất cả chúng tôi được nhận một bản copy của cuốn sách Nhà
đầu tư thông minh của Benjamin Graham (trước đó, tôi chưa bao
giờ nghe nói đến cuốn sách này) và một bản sao báo cáo thường niên năm
1983 của Berkshire Hathaway (một công ty lần đầu tôi nghe đến) của Warren
Buffett (lần đầu tôi được biết đến).
Buổi học đầu tiên chỉ là buổi giới thiệu và chào mừng từ các nhà quản lý hàng
đầu, trong đó có cả một số nhà môi giới thành công nhất trên cả nước. Lần
lượt từng người tự hào giải thích rằng 100% triết lý đầu tư của Legg Mason
đều dựa trên giá trị. Dựa trên cuốn Nhà đầu tư thông minh, mỗi người lần
lượt kể lại một chương từ nguyên bản. Họ nói đến việc mua chứng khoán với
tỷ suất giá trên doanh lợi (P/E), giá kế toán thấp và cổ tức cao. Họ nói đừng để
ý đến sự biến động hàng ngày của thị trường chứng khoán; nhịp điệu của thị
trường sẽ làm bạn đi sai hướng. Hãy tìm cách thoát khỏi điều đó. Hãy mua
chứng khoán khi chúng được chiết khấu và không hấp dẫn. Như thế khi chúng
trở nên hấp dẫn, bạn có thể bán chúng ở mức giá cao.
Những thông điệp chúng tôi nhận được trong suốt ngày đầu tiên đều nhất
quán và hợp lý. Chúng tôi đã dành một buổi chiều để phân tích các báo cáo
nghiên cứu về Đường giá trị và học cách phân biệt giữa chứng khoán giảm giá
và chứng khoán có vẻ rẻ và chứng khoán tăng giá và chứng khoán có vẻ đắt.
Kết thúc buổi học đầu tiên, tất cả chúng tôi đều tin rằng mình đã chạm đến
Chén Thánh Đầu tư. Khi chúng tôi thu xếp đồ dùng cá nhân, giáo viên hướng
dẫn nhắc chúng tôi cầm báo cáo thường niên của Berkshire Hathaway và đọc
nó trước giờ vào lớp ngày mai. Cô vui vẻ nhắc nhở: "Các anh chị biết không,
Warren Buffett là học trò nổi tiếng nhất của Benjamin Graham đấy".
Khi quay trở lại phòng khách sạn tối hôm đó, tôi đã mệt lử. Mắt tôi mờ đi và
trĩu xuống. Đầu óc tôi tràn ngập bản cân đối tài sản, báo cáo thu nhập, và tỷ
suất kế toán. Thành thật mà nói, điều cuối cùng tôi muốn làm là phải dành
khoảng một tiếng để đọc báo cáo thường niên kia. Tôi tin chắc, chỉ cần thêm
một điều gì đó vào đầu nữa, chắc chắn tôi sẽ nổ tung. Tôi miễn cưỡng và mệt
mỏi cầm bản báo cáo lên.
Bản báo cáo bắt đầu bằng lời mở đầu Dành cho cổ đông của Berkshire
Hathaway. Trong phần này, Buffett ghi vắn tắt các nguyên tắc hoạt động chính
của công ty. Ông viết: "Mục tiêu kinh tế dài hạn của chúng tôi là tối đa hóa tỷ
lệ thu nhập trung bình hàng năm dựa trên giá trị nội tại của một cổ phiếu.
Chúng tôi ưu tiên đạt được mục tiêu này bằng cách sở hữu trực tiếp
một nhóm gồm nhiều doanh nghiệp có khả năng thu được tiền mặt và liên tục
có lợi nhuận trên vốn cao hơn mức trung bình". Ông cam kết: "Chúng tôi sẽ
công bố các báo cáo đúng sự thật đến các bạn, nhấn mạnh các yếu tố tích cực
và tiêu cực có ảnh hưởng quan trọng đến việc xác định giá trị doanh nghiệp.
Chúng tôi chủ trương cung cấp cho các bạn biết tình hình thực tế của doanh
nghiệp. Qua đó, chúng tôi muốn biết vị trí của chúng tôi có bị thay đổi
không".
Mười bốn trang tiếp theo nói sơ lược về tài sản chính của Berkshire bao gồm
See's Candy Shop Nebraska, Furniture Mart, Buffalo Evening News, và
Goverment Employees Insurance Company. Thành thật trong từng câu chữ,
Buffett tiép tục cho tôi biết mọi thứ tôi cần về tình hình kinh tế của công ty và
hơn thế nữa. Ông liệt kê danh sách cổ phiếu thường trong danh mục đầu tư
bảo hiểm của Berkshire, bao gồm Afiliated Publications, General Foods,
Ogilvy & Mather, R.J Reynolds Industries, và Washington Post. Ngay lúc đó, tôi
cảm thấy thật ngạc nhiên, và không hiểu làm thế nào Buffett có thể liên tục
luân phiên miêu tả các chứng khoán ở danh mục đầu tư và những đóng góp
kinh doanh của các tài sản lớn cứ như thể là phân tích chứng khoán và phân
tích doanh nghiệp là một vậy. Cứ cho là tôi dành trọn một ngày để phân tích
những chứng khoán mà tôi biết đó là một phần tài sản của doanh nghiệp sở
hữu, nhưng tôi không đưa ra được mối liên hệ phân tích nào. Khi nghiên cứu
báo cáo Đường giá trị, tôi thấy các số liệu kế toán và các tỷ lệ tài chính. Còn
khi đọc báo cáo của Berkshire, tôi biết thêm về sản phẩm và khách hàng của
doanh nghiệp. Tôi thấy được tình hình tài chính và thu nhập tiền mặt. Tôi
cũng thấy các đối thủ cạnh tranh và chi phí vốn. Đúng ra, tôi nên biết tất cả
những điều này khi phân tích báo cáo dòng giá trị nhưng vì lý do nào đó, tôi
đã không làm được như vậy. Khi tôi tiếp tục đọc báo cáo của Berkshire, toàn
bộ thế giới đầu tư, thế giới vẫn còn bí ẩn đối với tôi, bắt đầu hé mở. Tối hôm
đó, trong một khoảnh khắc quý giá, Warren Buffett đã hé lộ cho tôi bản chất
của đầu tư.
Buổi sáng hôm sau, trong tôi tràn ngập niềm đam mê đầu tư mới mẻ, và khi
khóa học kết thúc, tôi nhanh chóng quay lại Philadelphia với một mục đích
duy nhất: Tôi sẽ đầu tư tiền của khách hàng theo đúng cách Warren Buffett đã
làm.
Tôi biết tôi cần học hỏi thêm, do đó tôi đã tìm kiếm những thông tin cơ bản về
Warren Buffet. Đầu tiên, tôi thu thập tất cả các bản sao báo cáo thường niên
của Berkshire Hathaway. Sau đó, tôi đặt mua các báo cáo thường niên
được công bố của những công ty thương mại mà Buffett đầu tư. Tiếp theo, tôi
tập hợp tất cả các tạp chí và bài báo về Buffett mà tôi có thể tìm được.
Khi tập hợp được tất cả các tài liệu, tôi bắt đầu thực hiện mục đích của mình.
Mục tiêu của tôi là trở thành chuyên gia đầu tiên nghiên cứu về Warren
Buffett, rồi sau đó sẽ chia sẻ những hiểu biết sâu sắc này với khách hàng của
mình.
Trong những năm tiếp theo, tôi xây dựng được một công việc kinh doanh đầu
tư đáng nể. Tôi giúp các khách hàng đầu tư thành công nhiều hơn khi đi theo
hướng dẫn và lựa chọn chứng khoán của Buffett. Hầu hết khách hàng của tôi
đều rất sáng suốt khi mua cổ phần với suy nghĩ coi chứng khoán là doanh
nghiệp và cố gắng mua những doanh nghiệp tốt nhất với mức chênh lệch. Một
vài khách hàng không thân thiết đã bỏ đi không phải bởi vì phương pháp của
Buffett sai lầm mà do họ không chịu được quá nhiều thử thách cảm xúc. Một
số người bỏ đi chỉ đơn giản vì họ không đủ kiên nhẫn để chờ đợi thành công.
Họ mất bình tĩnh khi hành động và không ngừng mong muốn thu về một cái gì
đó. Chính mong muốn nóng vội đã khiến họ đi chệch hướng. Khi nhìn lại, tôi
tin rằng tôi khó có thể làm việc được với bất cứ ai công khai phản đối tính hợp
lý trong phương pháp đầu tư của Buffett.
Tôi tiếp tục thu thập dữ liệu về Buffett những khi có thể. Tôi đọc, phân tích và
lưu giữ các báo cáo thường niên, bài báo, các cuộc phỏng vấn, và bất cứ điều
gì liên quan đến Warren Buffett và Berkshire Hathaway. Tôi giống như một
đứa trẻ chạy theo người chơi bóng. Buffett là người anh hùng trong suy nghĩ
của tôi và mỗi ngày, tôi đều cố gắng để trở nên giỏi giang như ông.
Nhiều năm trôi qua, tôi càng nóng lòng trở thành một nhà quản lý danh mục
đầu tư chuyên nghiệp. Vào thời điểm đó, các nhà môi giới đầu tư được trả hoa
hồng dựa trên giao dịch mua và bán. Đó là một hệ thống dựa trên tiền hoa
hồng phổ biến. Với tư cách là môi giới, tôi đã khiến phần "mua" của phương
trình diễn ra hợp lý, nhưng Buffett lại nhấn mạnh phải giữ chứng khoán dài
hạn. Điều này khiến cho phần "bán" gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, hầu hết
các doanh nghiệp dịch vụ tài chính cho phép các nhà môi giới đầu tư và các
nhà tư vấn tài chính quản lý tiền bạc cho khách hàng để lấy phí thay hoa
hồng nếu họ muốn. Cuối cùng, tôi gặp một số nhà quản lý danh mục đầu tư,
những người được trả tiền để hoạt động không liên quan đến việc họ có mua
hay bán nhiều hay không. Đối với tôi, sự thay đổi này là môi trường hoàn hảo
để áp dụng các bài học củaBuffett.
Đầu tiên, tôi thu thập kinh nghiệm quản lý danh mục đầu tư ở phòng tín thác
của một ngân hàng địa phương ở Philadelphia, kết hợp với việc chọn lựa
phân tích tài chính toàn diện bắt buộc. Sau đó, tôi tham gia hãng tư vấn đầu tư
nhỏ. Ở đó, tôi quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng để hưởng phí. Mục
đích của chúng tôi là giúp khách hàng đạt được tỷ lệ lợi nhuận hợp lý mà
không gặp rủi ro. Hầu hết mọi người đã đạt được mục tiêu tài chính của mình,
và bây giờ họ muốn duy trì tài sản của họ. Chính vì điều này, rất nhiều danh
mục đầu tư ở hãng chúng tôi cân bằng giữa chứng khoán và trái phiếu.
Chính tại đây, tôi bắt đầu viết ra những suy nghĩ của tôi về Buffett, chia sẻ với
khách hàng của mình phương pháp đầu tư khôn ngoan của ông. Xét cho cùng,
Buffett đã đầu tư trong suốt 40 năm, và kiếm được những khoản lợi nhuận
khổng lồ, thì việc học hỏi cách thức ông đã làm chắc chắn không thể có hại.
Những văn bản tổng hợp này về sau đã trở thành nền tảng cho Phong cách
đầu tư Warren Buffett.
Quyết định bắt đầu một quỹ tương hỗ chứng khoán dựa trên những nguyên
tắc được đề cập trong Phong cách đầu tư Warren Buffett được hình thành
dựa trên hai vấn để. Thứ nhất, hãng tư vấn đầu tư của chúng tôi cần một công
cụ để quản lý những tài khoản không đủ lớn để có thể quản lý danh mục đầu
tư riêng lẻ. Thứ hai, tôi muốn thiết lập một hồ sơ thực hiện khi cần thiềt dựa
trên những bài học có trong cuốn sách. Tôi muốn chứng minh rằng nếu tuân
theo những gì Buffett dạy và những điều tôi viết, các nhà đầu tư sẽ kiếm được
lợi nhuận từ thị trường. Hoạt động chính là bằng chứng chính xác nhất.
Ngày 17 tháng Tư năm 1995, một quỹ mới được thành lập. Với những kiến
thức thu lượm được từ việc nghiên cứu của Warren Buffett trong hơn 10
năm, kết hợp với những kinh nghiệm quản lý danh mục đầu tư trong bẩy năm
đó, tôi cảm thấy chúng tôi đang có vị trí thuận lợi để giúp khách hàng đạt
được lợi nhuận trên mức trung bình.
Chuyện gì đã xảy ra?
Khi phân tích danh mục đầu tư và thị trường chứng khoán trong suốt giai
đoạn này, tôi phát hiện ra hai lý do quan trọng nhưng không liên quan đến
nhau. Đầu tiên, khi mở quỹ này, tôi đã lựa chọn những chứng khoán gần như
giống với Berkshire Hathaway: báo chí, các công ty nước giải khát, các doanh
nghiệp hàng tiêu dùng không lâu bền, và các công ty dịch vụ tài chính
được lựa chọn. Thậm chí tôi còn mua cả cổ phiếu của Berkshire Hathaway.
Vì quỹ của tôi áp dụng thí điểm các bài học của Buffett nên có lẽ không có gì
ngạc nhiên khi rất nhiều chứng khoán trong danh mục đầu tư là chứng khoán
mà Buffett đã mua. Nhưng sự khác biệt giữa chứng khoán của Buffett những
năm 1980 và những chứng khoán này vào năm 1997 rất rõ ràng. Cuối
những năm 1990, phần lớn các công ty liên tục tăng lợi nhuận chủ sở hữu ở tỷ
lệ hai chữ số đã giảm tỷ lệ xuống một chữ số. Thêm vào đó, trong suốt thập kỷ
trước, giá chứng khoán của những công ty này tăng đều đặn, do đó mức chênh
lệch so với giá trị nội tại đã thấp hơn giai đoạn đầu. Khi tăng trưởng của công
ty chậm lại và chênh lệch với giá trị nội tại giảm đi, những cơ hội tăng lợi
nhuận đầu tư trong tương lai tuộtmất.
Nếu như nhân tố đầu tiên là thiếu tốc độ tăng trưởng cao bên trong danh mục
đầu tư, thì nhân tố thứ hai là chuyện gì đang xảy ra bên ngoài danh mục đầu
tư. Trong khi kinh tế của các doanh nghiệp trong quỹ đang chậm lại, kinh tế
của các công ty kỹ thuật nhất định—viễn thông, phần mềm, dịch vụ
Internet—lại tăng lên nhanh chóng. Bởi vì những ngành công nghiệp mới
này đang nắm thị phần lớn hơn trong thị trường, nên thị trường chứng khoán
sẽ tăng nhanh hơn. Điều tôi sớm nhận ra đó là kinh tế của những doanh
nghiệp tôi sở hưu trong quỹ này không bắt kịp với những công ty ra đời muộn
hơn, những công ty dựa trên công nghệ cao đang tăng tốc trên thị trường
chứng khoán.
Năm 1997 là thời điểm quyết định đối với quỹ của tôi. Nếu tôi tiếp tục đầu tư
vào những chứng khoán truyền thống giống như Buffett, có lẽ lợi nhuận sẽ chỉ
ở mức trung bình. Thậm chí Buffett nói với các cổ đông của Berkshire
Hathaway rằng họ có thể không mong đợi thu được lợi nhuận đầu tư trên
trung bình như trong quá khứ nữa. Tôi biết nếu tôi tiếp tục sở hữu những
chứng khoán đó với mức giá cao và tăng trưởng kinh tế ổn định, tôi có thể
không tạo được lợi nhuận đầu tư trên mức trung bình cho các cổ đông. Và
trong trường hợp đó, kết quả sẽ như thế nào? Nếu một quỹ tương hỗ liên tiếp
không thể tạo ra lợi nhuận đầu tư tốt hơn chỉ số thị trường, thì các cổ đông tốt
hơn nên chuyển sang một quỹ tương hỗ chỉ số.
Đứng giữa ngã tư đường trong suốt giai đoạn này thật khó khăn. Tôi không
biết có nên tiếp tục duy trì quỹ này không. Nhiều câu hỏi đặt ra xung quanh
vấn đề liệu Buffett có thể cạnh tranh với các công ty ra đời sau nhưng vẫn cps
lợi nhuận trên mức trung bình hay không. Liệu tất cả những phương
pháp coi chứng khoán như doanh nghiệp có còn thích hợp khi nghiên cứu các
ngành kinh doanh mới mẻ hướng vào công nghê không?
Trong thâm tâm, tôi biết phương pháp đầu tư của Buffett vẫn có giá trị. Tôi
biết chắc chắn nó vẫn đem lại cơ hội cho các nhà đầu tư phát hiện khi định
giá không hợp lý, từ đó kiếm được lợi nhuận từ thị trường hẹp hơn. Tôi biết
tất cả những điều đó và còn hơn thế nữa. Nhưng ngay bây giờ, tôi đang do dự,
chưa thể bước sang mảnh đất kinh tế mới.
Tôi thật may mắn vì đã kết bạn với Bill Miller khi bắt đầu công việc ở Legg
Mason. Lúc đó, Bill đang đồng quản lý quỹ cùng với Ernie Kiehne. Bill định kỳ
dành thời gian gặp gỡ các nhà môi giới đầu tư mới để chia sẻ những suy nghĩ
của ông về thị trường chứng khóan, về công ty, và các ý tưởng từ vô số quyển
sách ông đã đọc. Sau khi tôi rời Legg Mason để trở thành một nhà quản lý
danh mục đầu tư, tôi và Bill vẫn là bạn. Sau khi xuất bản cuốn Phong cách đầu
tư Warren Buffett, chúng tôi vẫn gặp nhau để bàn luận về đầu tư và những
khó khăn khi bắt tay vào làm kinhtế.
Trong cuốn sách, tôi chỉ ra rằng Buffett không chỉ dựa trên tỷ lệ P/E thấp để
lựa chọn chứng khoán. Động lực tạo ra giá trị là lợi nhuận chủ sở hữu và khả
năng tạo ra lợi nhuận trên vốn trên mức trung bình của công ty. Đôi khi,
chứng khoán có tỷ lệ P/E thấp tạo ra tiền mặt và đạt được lợi nhuận trên vốn
cao và sau đó trở thành vụ đầu tư lớn. Nhưng lại có lúc, chứng khoán có tỷ lệ
P/E thấp tiêu tốn tiền mặt và tạo ra lợi nhuận trên vốn dưới mức trung bình
và đo đó trở thành vụ đầu tư tồi. Buffett nói rằng những chứng khoán với tỷ lệ
P/E thấp có thể được ví như một cái ao dễ chịu cho cá bơi trong đó, nhưng cái
khiến tỷ lệ này tăng lên lại là tiền mặt và lợi nhuận trên vốn đầu tư cao.
Bill nhận ra điều này sớm hơn một vài năm, và ông đã điều chỉnh quỹ đầu tư
của mình theo hướng này. Nhiều năm liên tiếp, ông hoạt động thành công
hơn và hướng dần vào thị trường đầu tư.
Khi quỹ của tôi cố gắng đạt đến mức an toàn, tôi đã gặp Bill để thảo luận về
chiến lược và cơ hội. Tôi nói với ông rằng phương pháp của Buffett rất đáng
tin cậy. Ông đồng ý. Tôi khẳng định với ông cách duy nhất để giành chiến
thắng trên thị trường chứng khoán là coi chứng khoán như doanh nghiệp để
phát hiện ra những thay đổi cơ bản tồn tại từ lâu trong doanh nghiệp đó
trước khi cơ chế tự điều chỉnh giá của thị trường tìm ra nó. Ông đồng ý. Tôi
cũng quả quyết là mình tin chắc phương pháp của Buffett có thể được áp
dụng cho các ngành công nghiệp mới nhưng tôi vẫn không chắc phải bắt đầu
như thế nào. Và Bill nói: "Hãy đến làm việc ở Legg Mason đi. Tôi sẽ chỉ cho
anh biết".
Bằng cách sử dụng phương pháp định giá chủ yếu dựa trên thu nhập tiền mặt
và lợi nhuận trên vốn chứ không phải là tỷ lệ P/E, Bill đã và đang theo đuổi
những công ty ra đời sau trong ngành kỹ thuật. Năm 1996, ông mua hãng máy
tính Dell khi thu nhập gấp sáu lần với lợi nhuận trên vốn là 40%. Các nhà
quản lý quỹ khác cũng mua Dell nhưng sau đó họ bán đi khi thu nhập gấp 12
lần bởi vì theo suy nghĩ thông thường bạn luôn mua vào khi mức lợi nhuận
gấp 6 lần và bán đi ở mức lợi nhuận gấp 12 lần. Thay vào đó, Bill lại nghiên
cứu các báo cáo kinh doanh và nhanh chóng phát hiện ra rằng lợi nhuận trên
vốn của Dell đang tăng nhanh chóng với tỷ lệ thu nhập trên vốn đáng ngạc
nhiên ở mức ba con số. Do đó, trong khi các nhà quản lý quỹ khác bán cổ
phiếu của Dell khi lợi nhuận tăng 12 lần thì Bill lại giữ lại cho đến khi đạt lợi
nhuận gấp 20, 30, 40 lần, vì ông tin rằng công ty vẫn được định giá thấp hơn
rất nhiều so với giá trị nội tại đang tăng rất nhanh của nó. Và ông đã đúng. Vụ
đầu tư vào hãng máy tính Dell của ông đã đem về 3000% lợi nhuận cho các cổ
đông trong quỹ củaông.
Bill quan tâm đến việc đầu tư thêm vào mảnh đất Kinh tế mới. Ông đã thành
công liên tiếp với AOL. Ông đầu tư vào viễn thông, thu được lợi nhuận vô cùng
lớn tại Nokia và hãng tin tức Nexel. Người quản lý vốn Legg Mason là cổ đông
lớn thứ hai của Amazon.com, chỉ đứng sau Tổng Giám đốc Điều hành Jeff
Bezos. Gần đây, Bill lại đưa eBay vào danh mục đầu tư của quỹ, vì hãng này
đóng vai trò là cổng chắn kinh tế tương tự như Microsoft năm 1993.
Vào thời điểm đó, Microsoft là công ty có giá trị 22 tỷ đô la. Hầu hết các nhà
đầu tư giá trị đều rằng Microsft đã được đánh giá quá cao. Nhưng đến cuối
năm 2003, giá trị của Microsoft tăng lên 295 tỷ đô la. Giá của công ty tăng trên
1000% trong khi chỉ số S&P 500 tăng 138% tại cùng thời điểm.
Năm 1993, Microsoft có phải là một chứng khoán giá trị? Câu trả lời rõ ràng là
như vậy mặc dù không có nhà đầu tư nào nhận ra điều đó. Hiện nay, eBay có
phải là chứng khoán giá trị? Tất nhiên, chúng ta tin tưởng điều đó, nhưng
chúng ta không thể biết chắc trong vài năm tới, mọi chuyện sẽ thay đổi như
thế nào. Nhưng chúng ta biết rõ một điều: Bạn không thể xác định xem eBay
có phải là một cổ phiếu giá trị hay không nếu dựa trên tỷ lệ P/E cũng như bạn
không thể định giá Microsoft dựa trên tỷ lệ này.
Yêú tố chủ chốt trong tất các các quyết định đầu tư của Bill là phải hiểu mô
hình kinh doanh của công ty. Đâu là các nhân tố tạo ra giá trị? Công ty tạo ra
tiền mặt như thế nào? Công ty có thể thu được bao nhiêu tiền mặt và tỷ lệ
tăng trưởng dự đoán có thể đạt được là bao nhiêu? Lợi nhuận trên vốn của
công ty là bao nhiêu? Nếu công ty đạt mức lợi nhuận trên chi phí vốn, tức là
công ty đang tạo ra giá trị. Nếu công ty có tỷ lệ lợi nhuận dưới chi phí vốn, tức
là, công ty đang mất giá trị.
Nhờ những phân tích của mình, Bill hiểu ra cái gì đem lại giá trị cho doanh
nghiệp, khi dựa trên giá trị hiện tại đã được chiết khấu của các khoản thu
nhập bằng tiền mặt trong tương lai. Mặc dù quỹ của Bill sở hữu các doanh
nghiệp không giống các doanh nghiệp trong danh mục đầu tư của công ty
Berkshire Hathaway của Buffett nhưng không ai có thể phủ nhận rằng cả hai
đang tiếp cận với quy trình đầu tư theo cùng một cách thức. Điểm khác biệt
duy nhất là Bill quyết định chọn thuyết đầu tư và áp dụng nó vào các vụ
nhượng quyền kinh doanh đang thống trị thị trường kinh tế toàncầu.
Khi Bill yêu cầu tôi làm việc tại công ty quản lý vốn Legg Mason và sáp nhập
cả quỹ của tôi, tôi tin chắc, phương pháp của chúng tôi giống hệt nhau. Một lợi
thế quan trọng hơn khi gia nhập nhóm của Bill là bây giờ tôi đã là một phần
của tổ chức mong muốn áp dụng phương pháp định giá trị doanh nghiệp vào
đầu tư ở bất cứ nơi nào có cơ hội tạo ra giá trị. Sự quan tâm của tôi không chỉ
giới hạn ở những cổ phiếu Buffett đã mua. Nó mở rộng ra toàn bộ thị trường
chứng khoán.
Một trong những lỗi tư duy đầu tiên khi bắt tay vào quản lý quỹ là niềm tin
mù quáng cho rằng bởi vì Buffett không sở hữu các doanh nghiệp công nghệ
cao nên những doanh nghiệp này chắc hẳn không thể phân tích được. Đúng là,
những doanh nghiệp mới ra đời này chứa đựng nhiều rủi ro kinh tế hơn các
doanh nghiệp mà Buffett sở hữu. Người ta có thể dễ dàng dự đoán tình hình
kinh doanh của các hãng sản xuất nước soda, dao cạo râu, thảm,
sơn, kẹo, và đồ dùng gia đình, nhưng lại không thể làm thế với ngành kinh
doanh phần mềm máy tính, viễn thông và dịch vụ Internet.
Nhưng "khó dự đoán" không có nghĩa là "không thể phân tích". Dĩ nhiên, môi
trường kinh tế của các công ty kỹ thuật hay biến đổi hơn môi trường kinh tế
của các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Nhưng một cuộc nghiên cứu tỷ
mỷ hoạt động của các doanh nghiệp vẫn cho phép chúng ta xác định một loạt
các khả năng giá trị. Hơn nữa, phương pháp của Buffett không hề bắt
chúng ta phải xác định chính xác giá trị của doanh nghiệp là gì, mà chỉ là
khuyên chúng ta nên mua công ty ở mức giá chênh lệch đáng kể (biên độ an
toàn) trong một loạt các khả năng giá trị.
Nhưng có một điều mà các nhà nghiên cứu phương pháp của Buffett chưa
nghĩ tới đó là mức lợi nhuận thu về khi phân tích đúng các công ty kỹ thuật
cao hơn mức phạt khi gặp phải rủi ro. Phân tích mỗi chứng khoán như một
doanh nghiệp, xác định giá trị của doanh nghiệp và đòi hỏi biên độ an toàn
cao hơn trong giá mua để giảm tỷ lệ rủi ro kinh tế là tất cả những gì chúng ta
phải làm.
Chúng ta không nên quên rằng trong nhiều năm, những người tán thành
phương pháp đầu tư của Warren Buffett đã lựa chọn và áp dụng nó vào
những mảng thị trường chứng khoán khác nhau. Một số nhà đầu tư nổi bật
mua chứng khoán không có trong danh mục đầu tư của Berkshire. Những
người khác mua chứng khoán vốn hóa nhỏ hơn. Còn một số ít lại đưa ra
phương pháp của Buffett ra thị trường quốc tế và mua các chứng khoán của
nước ngoài. Kết luận quan trọng đó là: Chúng ta có thể áp dụng phương pháp
đầu tư của Buffett vào tất cả các lĩnh vực kinh doanh, bất kể là ngành công
nghiệp, thị trường vốn hay các ngành kinh doanh nào khác.
Từ khi trở thành một bộ phận của công ty quản lý vốn Legg Mason vào năm
1998, quỹ của tôi đã trải qua một giai đoạn đầu tư thành công nổi bật. Thành
công đó không phải là do phương pháp hay quy trình đầu tư thay đổi, mà do
phương pháp và quy trình đầu tư này đã được áp dụng vào những danh mục
chứng khoán rộng hơn. Khi các nhà quản lý danh mục đầu tư và các nhà
phân tích sẵn sàng nghiên cứu tất cả các loại hình kinh doanh, và không để ý
tới sự phân loại các ngành công nghiệp, thì cơ hội khai thác những công ty
định giá sai định kỳ trên thị trường ngày càng mở rộng, và chuyển cơ hội đó
thành lợi nhuận cho các cổ đông của chúngtôi.
Điều này không có nghĩa là chúng tôi không có những năm, những quý hay
những tháng tồi tệ. Nó chỉ đơn giản là khi bạn tính tổng những lần chúng tôi
thua lỗ trên thị trường trong một giai đoạn nào đó, lượng tiền thua lỗ đó nhỏ
hơn tiền lãi chúng tôi kiếm được trên thị trường.
Xét theo khía cạnh này, thành tích của quỹ không khác nhiều so với những
danh mục đầu tư tập trung. Bạn hãy nhìn lại hoạt động của Charlie Munger,
Bill Ruane, và Lou Simpson. Mỗi người đều đạt được thành công suất sắc
trong dài hạn nhưng cũng phải trải qua những giai đoạn hoạt động không
hiệu quả ngắn hạn. Mỗi người đều sử dụng một phương pháp định giá doanh
nghiệp để xác định xem liệu chứng khoán có bị định giá sai hay không. Mỗi
người đều điều hành một danh mục đầu tư tập trung có doanh thu thấp.
Phương pháp họ sử dụng giúp họ đạt được kết quả tốt trong dài hạn với chi
phí chệch hướng tiêu chuẩn cao hơn.
Nhà chiến lược hàng đầu của công ty quản lý vốn Legg Mason, Michael
Mauboussin đã tiến hành nghiên cứu các quỹ tương hỗ hoạt động tốt nhất từ
năm 1992 tới năm 2002. Ông chọn những quỹ do một người quản lý trong
suốt giai đoạn, có tài sản ít nhất là 1 tỷ đô la, và vượt qua chỉ số S&P 500 trong
giai đoạn 10 năm. Có 31 quỹ tương hỗ đã lọt vào danh sách.
Sau đó ông xem xét phương pháp mà mỗi nhà quản lý sử dụng để thành công
trên thị trường, và đưa ra bốn tiêu chí khiến những nhóm này tách ra khỏi
phần lớn các nhà quản lý quỹ khác:
1. Doanh thu danh mục đầu tư: Nói chung, các quỹ tương hỗ thành công trên
thị trường có tỷ suất doanh thu trung bình khoảng 30%. Điều này hoàn toàn
trái ngược với lợi nhuận của tất cả các quỹ chứng khoán-110%.
2. Danh mục đầu tư tập trung: Những người thành công hơn trong dài hạn có
xu hướng chọn danh mục đầu tư tập trung hơn là các chỉ số hay các quỹ
chứng khoán thông thường. Trung bình một quỹ tương hỗ hoạt động hiệu quả
sẽ sử dụng 37% tài sản vào các công ty hàngđầu.
3. Phong cách đầu tư: Đa số những nhà kinh doanh trên thị trường theo đuổi
phương pháp giá trị nội tại để lựa chọn chứng khoán.
4. Vị trí địa lý: Chỉ một bộ phận nhỏ các nhà nhà đầu tư nổi tiếng đến từ trung
tâm tài chính ở bờ biển Đông, New York hay Boston. Hầu hết những người
thành công nhất lại xây dựng sự nghiệp ở các thành phố như Chicago, Thành
phố Salt Lake, Memphis, Omaha, và Baltimore. Michael cho rằng cólẽ việc
thoát khỏi tốc độ phát triển quá nhanh chóng ở New York và Boston đã giảm
bớt những hành động quá khích tràn ngập ra quá nhiều danh mục đầu tư quỹ
tương hỗ.
Chiến lược đầu tư chú trọng vào các vụ đánh cược tập trung, doanh thu thấp
và quy trình lựa chọn chứng khoán chậm dựa trên việc tìm ra giá trị nội tại
của chứng khoán là mối đe dọa chung cho việc đầu tư hiệu quả, dù là của
những nhà đầu tư siêu hạng như Graham và Dodds, Buffett và những
người điều hành các quỹ mà nghiên cứu của Michael đã chỉ ra.
Tuy nhiên, phần lớn các nhà quản lý quỹ vẫn tiếp tục thua lỗ trên thị trường
chứng khoán. Một vài người tin rằng đây là bằng chứng của hiệu quả thị
trường. Có lẽ với sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà quản lý tiền bạc, chứng
khoán sẽ được định giá chính xác hơn. Điều này cũng có phần đúng. Chúng ta
tin rằng thị trường trở nên hiệu quả hơn, và có nhiều cơ hội tìm kiếm lợi
nhuận cao hơn từ thị trường chứng khoán bằng cách sử dụng các kỹ thuật
đơn giản để xác định giá trị. Chắc chắn không ai còn tin rằng thị trường sẽ cho
phép bạn kiếm được lợi nhuận chỉ bằng cách tính tỷ lệP/E.
Các nhà phân tích hiểu rằng những thay đổi cơ bản biểu hiện trong các mô
hình kinh doanh sẽ có thể tìm ra những giá trị bất thường xuất hiện trên thị
trường. Họ sẽ có quan điểm khác thị trường về sự tồn tại và tầm quan trọng
của khả năng thu lợi nhuận của công ty. Bill Miller đã nói: "Không phải vì
không tán thành cách quản lý tiền tệ chủ động mà chỉ số chứng khoán S&P
500 đánh bại các nhà quản lý tiền tệ chủ động. Nguyên nhân là do chỉ số này
phản đối phương pháp mà hầu hết các nhà quản lý tiền tệ chủ động sử
dụng".
Đã hơn 20 năm kể từ lần đầu tiên tôi đọc báo cáo thường niên của Berkshire
Hathaway. Thậm chí ngay cả bây giờ, khi tôi nghĩ về Warren Buffett và
phương pháp của ông, tôi vẫn thấy tràn ngập vui sướng và thích thú. Tôi tin
chắc đây là phương pháp đúng đắn và nếu được áp dụng nhất quán, nó sẽ tạo
ra lợi nhuận trên trung bình trong dài hạn. Chỉ cần quan sát các nhà quản lý
tiền tệ nổi tiếng nhất hiện nay, chúng ta có thể thấy rằng tất cả đều sử dụng
phương pháp của Warren Buffett dưới các dạng khác nhau.
Mặc dù các công ty, các ngành công nghiệp, các thị trường và nền kinh tế sẽ
luôn thay đổi nhưng giá trị của phương pháp đầu tư Warren Buffett sẽ tồn tại
mãi mãi với thời gian. Với bất kỳ điều kiện nào, các nhà đầu tư có thể áp dụng
phương pháp của Buffett để lựa chọn chứng khoán và quản lý danh mục đầu
tư của mình.
Những năm 1950, 1960 khi Buffett bắt đầu quản lý tiền tệ, ông đã coi chứng
khoán như một doanh nghiệp và áp dụng phương pháp quản lý danh mục
đầu tư tập trung. Những năm 1970 và 1980 khi ông đưa thêm một ngành kinh
doanh mới mẻ là nhượng quyền kinh doanh vào danh mục đầu tư, ông vẫn coi
chứng khoán là doanh nghiệp và quản lý các danh mục đầu tư tập
trung. Cũng tương tự như vậy, khi Bill Miller mua các công ty kỹ thuật và nhà
cung cấp dịch vụ Internet cho quỹ giá trị của mình vào những năm 1990 và
nửa đầu thập kỷ này, Buffett vẫn coi coi chứng khoán là doanh nghiệp và quản
lý các danh mục đầu tư tậptrung.
Liệu những công ty được mua vào những năm 1950 có khác biệt với những
công ty mua vào những năm 1980 hay không? Có. Liệu những công ty được
mua vào những năm 1960 có khác biệt với những công ty mua vào những
năm 1990 hay không? Dĩ nhiên là có. Các doanh nghiệp đã thay đổi, công
nghiệp phát triển, và sự cạnh tranh của thị trường cho phép các vụ nhượng
quyền kinh doanh mới ra đời trong khi những loại hình khác ngày càng lụi tàn
hơn. Sự phát triển liên tục của các thị trường và công ty giúp các nhà đầu tư
nhận ra có một phương pháp đầu tư vẫn thiết thực ngay cả khi họ không thể
tránh khỏi những ảnh hưởng của quá trình chuyểnđổi.
Tại đại hội thường niên của Berskhire năm 2004, một cổ đông đã hỏi Warren
rằng nếu nhìn lại, ông có thay đổi bất cứ điều gì trong phương pháp của ông
không. Ông trả lời: "Nếu chúng ta phải tiến hành lại một lần nữa, tôi vẫn sẽ
làm theo đúng con đường đó. Chúng ta đọc mọi thứ về nội bộ các doanh
nghiệp và các ngành công nghiệp. Hệ thống đầu tư của chúng ta sẽ được mở
rộng hơn hiện tại rất nhiều với lượng vốn ít hơn đáng kể. Tôi sẽ tiếp tục học
hỏi các nguyên tắc cơ bản từ những vụ đầu tư thành công như của Ben
Graham, chịu ảnh hưởng của Charlie và Phil Fisher khi lựa chọn những doanh
nghiệp hiệu quả hơn". Ông dừng lại trong giây lát rồi nói tiếp: "Trong quan
điểm của tôi không có gì khác biệt về việc phân tích chứng khoán ngày hôm
nay so với 50 năm trước đây".
Chẳng có gì khác biệt dù là năm năm, 10 năm hay thậm chí 20 năm sau đi
chăng nữa. Sự thay đổi của thị trường giá cả, môi trường kinh tế, các ngành
công nghiệp liên tục diễn ra. Một nhà đầu tư thông minh sẽ thay đổi hành vi
của họ theo từng ngày để thích ứng với bối cảnh mới. Tuy nhiên, cái không
bao giờ thay đổi chính là nền tảng.
Những người theo đuổi con đường của Buffett vẫn sẽ phân tích chứng khoán
(và công ty) dựa trên những nguyên lý giống như vậy. Họ sẽ vẫn duy trì danh
mục đầu tư tập trung; và sẽ không quan tâm đến sự biến động, suy giảm, và
tác động. Giống như tôi, họ tin rằng những nguyên lý này từng chỉ đường cho
những quyết định đầu tư của Warren Buffett trong 60 năm qua thực sự sẽ tồn
tại mãi mãi, và tạo cơ sở cho những ý tưởng đầu tư đáng tin cậy mà tất cả
chúng ta có thể phát triển.
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên tôi muốn gửi lời cám ơn trân trọng nhất đến Warren Buffett vì
những bài học của ông. Đặc biệt, ông đã cho phép tôi sử dụng những tư liệu có
bản quyền. Những điều Warren nói gần như không thể hoàn thiện hơn được
nữa. Cuốn sách này trở nên hay hơn vì có thể sử dụng những từ ngữ của bản
thân ông thay vì đem đến cho các bạn những lời diễn giải dài dòng.
Tôi cũng muốn cám ơn Charlie Munger vì đóng góp của ông trong nghiên cứu
về đầu tư. Những ý tưởng của ông về "Tâm lý phán đoán sai" và "Những mô
hình trí tuệ dạng mắt cáo" thực sự rất quan trọng và tất cả mọi người nên
nghiên cứu chúng. Chúng tôi cũng đánh giá cao những cuộc trò chuyện sâu
sắc và những lời khích lệ, ủng hộ ban đầu của ông.
Trong việc phát triển các kỹ năng đầu tư của tôi, không ai quan trọng hơn Bill
Miller khi giúp tôi chuyển từ lý thuyết sang thực tiễn. Bill là người bạn và là
người thầy tài năng của tôi trong suốt hơn hai mươi năm. Sự giúp đỡ của ông
thật không gì sánh được. Với tư cách là Giám đốc Điều hành công ty Quản lý
vốn Legg Mason, Bill đã hướng dẫn cho tôi cách làm thế nào để áp dụng
phương pháp của Warren Buffett cho tất cả các công ty, bao gồm cả những
công ty gia nhập các ngành Kinh tế mới. Điều thật sự khiến tôi thích thú đó là
Bill không chỉ là một người bạn, một người thầy mà còn là một người đồng
nghiệp
Tôi cũng may mắn được làm việc trong một môi trường khuyến khích và phát
triển việc quản lý trí tuệ. Và do đó, tôi muốn cảm ơn tất cả những bạn đồng
nghiệp của tôi tại Legg Mason gồm có Nancy Dennin, Mary Chris Gay, Ernie
Kiehne, Kyle Legg, Ira Malis, Michael Mauboussin, Jenifer Murphy, David
Nelson, Randy Befumo, Scot Labin, Jay Leopold, Samatha McLemore, Mitchell
Penn, Dale Wettflauer, và Jean Yu.
Trong nhiều năm, tôi đã được lợi rất nhiều khi chia sẻ về Warren Buffett
trong các buổi nói chuyện với rất nhiều người tài giỏi như Bob Coleman, Tom
Russo, Chris Davis, David Winters, Jamie Clark, Bill Ruane, Bob Goldfarb, Lou
Simpson, Ajit, Lisa Rapuano, Alice Schroeder, Chuck Akre, Al Barr, David
Braverman, Wally Weitz, Mason Hawkins, Larry Pidgeon, và Ed Thorp.
Một số người đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong việc nghiên cứu những phần của
cuốn sách. Xin cám ơn Justin Green, Joan Lamm -Tennant, Pat Shunk,
Michael Levitan, Steward Davis, Mary Mclaugh, John Rothchild, Jack Bogle, Pil
Fisher, Ken Fisher, và Ed Halerman.
Trong nhiều năm, tôi có vinh dự được làm việc cùng với các nhà văn đều là
những người am hiểu về Buffett theo cách riêng của họ. Tôi đặc biệt gửi lời
cám ơn tới Andy Kilpatrick, nhà sử gia chính thức về Berkshire Hathaway
trong tâm trí tôi. Cám ơn Roger Lowenstein, Henry Emerson, Janet Lowe,
Carol Loomis, và Larry Cunningham.
Có ba người phụ nữ tài năng và vô cùng tài giỏi đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong
khi viết cuốn sách này, mỗi người đóng góp một phần nghiên cứu và phát
triển bản thảo. Cám ơn Ericka Peterson, Cathy Coladonato, và Victoria Larson.
Trong số tất cả những người kể trên, không ai tôi cảm thấy biết ơn nhiều như
nhà văn Maggie Stuckey. Mặc dù chúng tôi làm việc ở hai đầu châu lục nhưng
Maggie có khả năng thấu hiểu những suy nghĩ của tôi và biết chính xác tôi
muốn truyền đạt điều gì trước cả khi tôi nói ra. Bà là chuyên gia đã cống hiến
công sức không biết mệt mỏi để hoàn thành cuốn sách này. Tôi thật may mắn
khi có bà giúp đỡ.
Mối quan hệ của tôi với John Wiley & Sons luôn rất tốt đẹp. Người bạn và biên
tập viên của tôi là Myles Thompson đã rất am hiểu về cuốn sách Phong cách
đầu tư Warren Buffett khi chưa có ai từng nghe đến nó và chưa có bản sao
nào được bán. Cám ơn Myles. Tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới Joan O'Neil,
Pamela van Giessen, Mary Daniello, và các chuyên gia về xuất bản khác ở John
Wiley vì sự quan tâm và chú ý của họ tới những bài viết về Warren Buffett của
tôi.
Tôi thật sự mắc nợ nhân viên của tôi, Laurie Harper ở văn phòng Sebastian
Literary. Laurie là một người đặc biệt. Cô làm việc trung thực, với sự trung
thành, chính trực, thông minh và luôn làm hài lòng người khác. Tôi không thể
có một người phụ tá đắc lực hơn được. Lời cám ơn muộn tôi muốn dành cho
Michael Cohn vì đã tạo cơ hội cho một nhà văn khởi nghiệp mười năm trước
đây.
Bất cứ ai từng viết một cuốn sách đều biết rằng họ phải dành rất nhiều thời
gian làm việc một mình thay vì dành thời gian cho gia đình. Maggie, vợ tôi đã
luôn luôn dành tình cảm và ủng hộ tôi. Ngày đầu tiên tôi nói với cô rằng tôi
sẽ viết cuốn sách này, cô đã mỉm cười và thuyết phục tôi rằng tôi có thể làm
được. Trong nhiều tháng tiếp theo, cô đã chăm sóc gia đình để tôi có nhiều
thời gian sáng tác. Tình yêu vô tận dành cho các con của tôi, Kim, Robert, và
John và vợ tôi nữa, những người làm tất cả những gì có thể để giúp tôi. Mặc dù
họ nằm cuối danh sách này, nhưng họ mãi mãi là những người quan trọng
nhất trong trái tim tôi.
Vì tất cả những điều tốt đẹp và đúng đắn mà cuốn sách đem lại, các bạn có thể
biết ơn những người mà tôi đề cập trên đây. Tôi xin chịu trách nhiệm về
những lỗi và thiếu sót của cuốn sách này.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro