Sáp Huyết 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sáp Huyết

Tác giả: Mặc Vũ

Thể loại: Lịch Sử Quân Sự

Nhóm Dịch: Tàng Thư Viện + Đọc Truyện Đêm Khuya

Nguồn: Tàng Thư Viện + Mê Truyện

Ebook by: Kiếm Giới

Creator by: Thủy Hỏa Thần

-------o0o-------

Chương 201 - 204: Kinh sợ trôi qua

Địch Thanh chưa từng nghe qua tên Bao Chửng, nên nghe vậy không khỏi thấy lạ, thầm nghĩ Bao Chửng này dám đắc tội với Tri châu Phần Châu, thậm chí khiến Tri châu không tiếc bỏ tiền mua kẻ giết người, sao lại có thể là hạng vô danh được?

Rồi lại nghĩ, những kẻ cứng cựa trên đời này thiếu gì, mình chưa từng nghe qua về Bao Chửng cũng là chuyện chẳng có gì lạ. Mình còn dám đắc tội với Đô Bộ Thự Hạ Thủ Vân, chắc chắn Bao Chửng cũng chưa từng nghe qua về hắn.

Quả nhiên trong lòng Bao Chửng cũng đang nghĩ, Địch Thanh? Cái tên này sao mình chưa từng nghe qua nhỉ. Trên mặt người này có hình xăm kiêu võ, không lẽ lại là người trong bát đại cấm quân ở Biện Kinh? Nhưng tên họ của các lãnh quân trong bát đại cấm quân ta hầu như đều biết, đâu có người này. Người này thân thủ cao cường, làm việc quả cảm, quyết không phải là hạng tầm thường trong cấm quân! Lúc trước dưới cây mai, thấy ánh mắt người này đầy vẻ đau thương, dung nhan tiều tụy, nhưng cũng không mất đi vẻ cương nghị tuấn kiệt. Tuổi tác hắn không lớn, nhưng đầy vẻ tang thương, chắc chắn có chuyện đau lòng gì đó. Người này tuy trong lòng có chuyện đau buồn, nhưng vẫn không quên giúp người khốn khó, cho thấy hắn là người tính tình cương trực.

Bao Chửng nhìn người rất chuẩn, đã có lòng tin đối với Địch Thanh, nói:

-Địch huynh, ta vốn là Điện Trung Thừa trong triều, nghe nói Tri châu Phần Châu lạm dụng chức quyền, lấy công làm tư, lạm sát người vô tội, cho nên mới phụng chỉ đến Phần Châu điều tra. Sau khi điều tra cẩn thận, thu thập chứng cứ sẽ bí mật về kinh. Ta thấy hắn thế lực đang mạnh, tạm thời không thể làm gì được hắn, cho nên chỉ có thể về kinh dâng tấu xin Thiên tử định đoạt. Thiết nghĩ chắc hắn cảm thấy không xong, cho nên mới phái người giết ta, muốn che dấu tội lỗi.

Địch Thanh biết Điện Trung Thừa thuộc Ngự Sử Đài, những người trong đó chủ yếu là duy trì trật tự trong quan trường, chỉnh đốn kỷ cương, chứ chức quan thì không cao. Thấy người này lại dám lật đổ Tri châu, trong lòng cũng có vài phần khâm phục. Nhưng nhìn Xa quản gia nằm dưới đất, Địch Thanh không khỏi nhíu mày, nói:

-Theo như ta được biết, Xa quản gia này vốn là giáo đồ Di Lặc, đường đường là một Tri châu của Phần Châu, sao lại có quan hệ với giáo đồ Di Lặc?

Bao Chửng hơi biến sắc mặt, kinh ngạc nói:

-Địch huynh, điều huynh nói là thật sao?

Địch Thanh nói:

-Bộ đầu Diệp Tri Thu và Quách Tuân, Quách đại nhân ở kinh thành đều biết Xa quản gia là giáo đồ Di Lặc, ngươi chỉ cần hỏi hai người này, là sẽ biết lời ta nói không sai.

Bao Chửng nghe đến tên của Diệp Tri Thu và Quách Tuân thì cũng tin lời Địch Thanh nói là thật, trầm tư nói:

-Vậy thì tội danh của Nhậm Biện không chỉ có như ta đã kể rồi, chắc là còn phải thêm một tội “câu kết giáo đồ Di Lặc” nữa.

Trong lòng Bao Chửng thoáng run, Nhậm Biện thân là Tri châu Phần Châu, vì cớ gì lại có liên quan với giáo đồ Di Lặc, chẳng lẽ… hắn định muốn làm phản?

Bao Chửng nghĩ đến đây bèn nói:

-Địch huynh, ta muốn hỏi người này vài câu.

Địch Thanh gật đầu:

-Được.

Bao Chửng thấy Xa quản gia nhìn mình hằm hè, cũng không lấy làm khiếp sợ, chỉ hỏi:

-Xa quản gia, gần đây Nhậm Biện giao cho các ngươi một lô quân bị, các ngươi dấu ở đâu?

Xa quản gia nghiến răng nói:

-Bao Hắc Đầu, người chưa cai sữa mẹ phải không, lại đi hỏi ta vấn đề ấu trĩ như vậy? Quân bị dấu ở đâu, ta làm sao mà nói cho ngươi biết được? Ngươi có thể để Địch Thanh giết ta, còn muốn lấy được manh mối của những thứ đó từ miệng ta ư… không đời nào.

Bao Chửng cười nhạt nói:

-Ta đã biết rồi.

Xa quản gia kêu lên:

-Ngươi biết cái đếch gì!

Bao Chửng bình tĩnh nói:

-Ít nhất thì ta cũng biết Nhậm Biện có liên quan với giáo đồ Di Lặc. Lúc ta điều tra về Nhậm Biện, thì phát hiện ra một lô giáp trụ binh khí trong tay hắn bị biến mất, không rõ tung tích, cho nên mới hỏi ngươi, hóa ra quả thật là ông ta đã tặng như đồ đó cho các ngươi. Nói như vậy… Nhậm Biện sớm đã có ý làm phản rồi.

Xa quản gia điếng người, giờ mới hiểu được dụng ý trong câu hỏi của Bao Chửng, hối hận vô cùng.

Địch Thanh đứng nghe bên cạnh, cũng bái phục cơ trí của Bao Chửng, đột nhiên thấy ớn lạnh, quay đầu nhìn qua, nói:

-Ai?

Chỉ thấy một người đang đứng nơi cửa, mặc trang phục của tiểu nhị, Địch Thanh nhíu mày, hỏi:

-Ngươi đến làm gì?

Tên tiểu nhị nọ sắc mặt hơi đen, đội mũ quả dưa, trong mắt đầy vẻ khiếp sợ, run run nói:

-Rốt cuộc là xảy ra chuyện gì vậy? Chết… người rồi? Ông chủ bảo ta đến xem xem.

Gã nhìn thấy tình cảnh trong phòng, hai chân run cầm cập. Rõ ràng là bị ông chủ bắt đến xem xét, không dám không đến, trong lòng hết sức sợ hãi.

Địch Thanh nói:

-Có kẻ ác phạm tội, quan gia bắt án, các ngươi không cần phải lo.

Tên tiểu nhị đó bước tới một bước, thò đầu vào trong phòng, dò hỏi:

-Vậy…

Lời gã nói chưa dứt, Địch Thanh bèn cảnh giác, Bao Chửng cũng đồng thời quát:

-Ngươi không phải tiểu nhị!

Tên tiểu nhị nọ bỗng ngẩng phắt đầu, ánh mắt lóe sáng, vung tay lên, hai đạo hàn quang bay ra, nhắm thẳng vào Địch Thanh vào Bao Chửng.

Địch Thanh khẽ lắc người một cái, đã lao đến trước Bao Chửng, vỏ đao vung ra “cách” một tiếng, đánh bay thanh phi đao nhắm vào Bao Chửng. Hắn lách người một cái, gạt một cái, động tác hết sức gọn gàng.

Đúng lúc đó, tên tiểu nhị quát lớn một tiếng, hai tay vung lên liên tiếp. Cuồng phong gào thét cuốn tới, không biết có bao nhiêu bông tuyết điên cuồng lao vào, che phủ đất trời, nhắm thẳng Địch Thanh và Bao Chửng mà đánh tới.

Không phải bông tuyết, mà là Thiết Tật Lê (đinh sắt)!

Tên tiểu nhị đó đúng là một cao thủ hiếm thấy, đánh ra mười mấy mũi Thiết Tật Lê liền một lúc, phong tỏa khắp các vị trị trên người Địch Thanh, Bao Chửng.

Địch Thanh vừa hét lớn phẫn nộ, đồng thời mũi chân khẽ điểm một cái, chiếc hướng án trên sàn đột nhiên dựng thẳng lên, chắn phía trước hắn.

Những tiếng phập phập vang lên không dứt, Địch Thanh kéo Bao Chửng lui vội về phía sau.

Phía sau là tường, tường đất sét.

Địch Thanh thình lình húc mạnh vào tường.

Mặt tường đó nhìn thì có vẻ chắc chắn, nhưng bị Địch Thanh dùng toàn lực húc vào, đổ ầm lộ ra một cái lỗ lớn. Cú húc trong lúc cấp bách đó sức mạnh vô cùng, húc một cái mà khiến cho cả căn phòng rung chuyển như sắp đổ sụp xuống.

Bụi tung mù mịt.

Tên tiểu nhị nọ đã tính mọi đường, chỉ duy nhất không tính đến nước Địch Thanh sẽ phá tường mà chạy. Ngay lúc phóng ám khí ra, gã đã rút ra cặp Sinh Tử Đoạt, hình dạng như bánh xe có răng, chuẩn bị cho đợt công kích tiếp theo. Thấy Địch Thanh phá tường mà ra, tên tiểu nhị nọ cũng không bỏ qua, cũng lao ra theo qua lỗ hổng.

Không đợi đến gần, tên tiểu nhị bỗng hét lớn một tiếng, cầm Sinh Tử Đoạt chắn ở trước ngực, bay ra.

Một luồng đao quang phá tuyết bay tới, chém thẳng vào ngực của tên tiểu nhị.

Tuyết cuộn điên cuồng, đao quang chém thẳng.

Địch Thanh đã xuất đao.

Một chiêu đã ép lui tên tiểu nhị. Nếu không phải tên tiểu nhị đó sớm đã dùng binh khí che chắn trước ngực, thì một đao này đã rạch ngang ngực gã rồi.

Địch Thanh định đuổi theo vào, nhưng không kìm nổi đưa mắt nhìn Bao Chửng một cái. Đúng vào lúc này, nóc nhà đột nhiên nổ ầm một tiếng, một người phá nóc nhà mà mà ra, thân hình thoáng một cái đã lao về hướng tây mà đi.

Địch Thanh không đuổi theo, nhìn chăm chú vào giọt máu vương trên lưỡi đao, trong lòng thầm nghĩ: “tên tiểu nhị đó là ai? Hắn muốn giết ta hay là muốn giết Bao Chửng… hay là…”

Nghĩ đến đây, Địch Thanh dậm chân kêu lên:

-Hỏng rồi.

Hắn không để ý đến Bao Chửng nữa, lao vào lại căn phòng đầy bụi mù.

Giữa màn khói bụi, Địch Thanh nhìn thấy tình hình của Xa quản gia và tên đồng bọn, lòng chợt chùng xuống. Yết hầu của cả hai người đều bị cắt đứt, đã tắt thở.

-Thích khách chắc là cùng một bọn với Xa quản gia. Hắn làm thế này là giết người diệt khẩu chứ không thể khác.

Bao Chửng cũng đã bước vào, thấy thảm cảnh trong phòng, lập tức nói.

Địch Thanh gật gật đầu, trong lòng thầm nghĩ: “tên tiểu nhị đó tuy bị một đao của ta đánh thương, nhưng võ nghệ y cao cường là điều không cần hoài nghi. Từ khi nào mà giáo đồ Di Lặc lại có loại cao thủ như thế này? Loại người này, lẽ nào lại có liên quan đến bát bộ của Nguyên Hạo?”

Địch Thanh trầm ngâm, xé rách ngực áo của Xa quản gia, bên trong hiện ra lớp áo lót có khắc chữ “Phúc”.

Bao Chửng thấy vậy, nhíu mày nói:

-Nghe nói người của Di Lặc giáo đều mặc áo có chữ “Phúc”, nói như vậy là… người này đích thị là giáo đồ Di Lặc rồi.

Địch Thanh lục soát trên người hai xác chết, chỉ tìm thấy một ít ngân lượng, đột nhiên tay hắn khựng lại, lấy từ nơi thắt lưng của Xa quản gia ra một tấm lệnh bài.

Lệnh bài được làm bằng đồng thau, ở giữa có một mảng màu bạc, giữa mảng màu bạc đó lại vẽ ba vòng tròn.

Nhưng ba vòng tròn đó lại không phải là hình tròn đúng nghĩa, có vẻ giống hình trái tim hơn.

Hình vẽ đơn giản nhưng rất cổ quái.

Ý nghĩa gì đây? Địch Thanh suy tư khó hiểu, ngẩng đầu lên nhìn Bao Chửng. Bao Chửng lắc đầu, nói:

-Ta cũng không nhìn ra cái hình đó nói lên điều gì. Hay … đây là lệnh bài xử dụng nội bộ của những người trong Di Lặc giáo?

Địch Thanh thở hắt ra một hơi, lắc đầu, đoạn cùng Bao Chửng sóng đôi đi ra khỏi căn nhà nát. Trong lòng thầm nghĩ: “Tên tiểu nhị đó võ nghệ cao cường, liệu hắn có phải là người lục lọi tay nải của ta hay không? Nếu như hai người này là một, vậy thì hắn nhắm ta mà đến. Bao Chửng nói quả không sai, ba người này vốn là đồng bọn. Di Lặc giáo đồ giết Bao Chửng là vì Nhậm Biện, nhưng tại sao lại phải lục soát tay nải của Địch Thanh ta?”

Bao Chửng thấy Địch Thanh có vẻ suy nghĩ, áy náy nói:

-Địch huynh, đều là do tại hạ làm liên lụy đến huynh. Nếu không phải vì huynh lo để mắt đến ta, thì đã giữ được hung thủ rồi, hoặc ít nhất thì cũng có thể truy đuổi, chắc chắn sẽ chẳng bị mất hết manh mối như thế này.

Y thấy Địch Thanh làm việc khôn khéo quả cảm như vậy, sớm đã không còn coi Địch Thanh là cấm quân bình thường nữa rồi.

Địch Thanh lấy lại tinh thần, lắc đầu nói:

-Bao huynh chớ nên tự trách. Nếu không nhờ huynh phát hiện ra tên tiểu nhị đó khác thường, nói không chừng ta đã chết dưới tay hắn rồi cũng nên. Phải rồi, làm thế nào mà Bao huynh nhận ra tên tiểu nhị đó không ổn?

Bao Chửng mỉm cười, nói:

-Lúc ta vào khách điếm, đã biết là chủ quán là người keo kiệt, chỉ mướn hai tên tiểu nhị. Cả hai tên tiểu nhị đó ta đều gặp qua, người vừa rồi tuyệt đối không phải là tiểu nhị trong quán, ta nhìn qua là biết người đó có âm mưu rồi.

Địch Thanh thầm than hổ thẹn quá, không ngờ Bao Chửng lại suy nghĩ tỉ mỉ như vậy. Không kìm nổi, nói:

-Lúc nãy huynh tung cái hương án ra, là muốn ta đến chỗ huynh phải không?

Bao Chửng hơi do dự một chút, giây lát sau thành khẩn nói:

-Địch Thanh, nói thật là từ Phần Châu về kinh ta luôn cảm thấy sát khí trùng trùng, cho nên mới thay áo mà đi, để tránh bất trắc. Lúc gặp huynh ở dưới gốc mai, còn tưởng rằng huynh đến để giết ta. Nhưng thông qua nói chuyện vài câu và quan sát, nhìn vào đôi mắt của Địch huynh, ta bèn biết ngày Địch huynh là người chính trực. Ta biết Địch huynh biết võ, nên mới hỏi Địch huynh ở đâu, cố ý ở cùng khách điếm với Địch huynh, thầm mong huynh có thể bảo vệ cho tại hạ. Lúc ta lớn tiếng kêu quát, ta biết, nếu Địch huynh biết ta gặp nguy, tất sẽ không ngồi yên mà nhìn.

Địch Thanh cười:

-Bao huynh, chẳng ngờ mấy câu vu vơ của huynh đều là có suy tính cả. Ta quả là ngu ngốc.

Bao Chửng cười khổ:

-Địch huynh khiêm tốn rồi. Huynh có võ nghệ phòng thân, cần gì đến những suy tính này? Ta thì suốt ngày sống trong sợ hãi, cho nên khó tránh phải suy tính nhiều một chút.

Ánh mắt Địch Thanh sáng rực, nhìn chằm chằm vào Bao Chửng, nói:

-Huynh biết rõ là nguy hiểm, sao lại còn cố ý muốn vạch tội Nhiệm Biện? Huynh vốn là an văn, chức quan lại không cao, đắc tội với Nhiệm tri châu, chẳng lẽ thật sự không sợ chết sao?

Bao Chửng rời mắt chuyển qua nhìn gió tuyết quay cuồng, chậm rãi nói:

-Bao Chửng thân ở chức vị này thì phải tận chức tận trách, mới không phụ lòng trông mong của người trong thiên hạ.

Y nói lạnh lùng dứt khoát, trong sự bình thản tràn đầy vẻ quyết liệt.

Địch Thanh nói từng chữ một:

-Nhưng nếu như ta không đến, huynh sẽ chết ở đây, không có người nào nhìn thấy, càng không có ai biết huynh đã làm những gì.

Vẻ mặt nghiêm nghị của Bao Chửng pha thêm phần cố chấp, quay lại nhìn Địch Thanh, bình tĩnh nói:

-Ít nhất thì bản thân ta cũng thấy được. Ít nhất… ta biết là mình đang làm gì.

Đoạn nhoẻn miệng cười, nói:

-Nhưng mà mạng ta rất lớn, một năm nay, mấy lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc rồi. Lần này lại gặp được Địch huynh, thiết nghĩ chắc trời cao cũng không muốn để ta chết như vậy.

Địch Thanh thấy Bao Chửng là người chính trực như vậy, trong lòng tràn đầy kính phục. Lại hỏi:

-Thì ra năm nay Bao huynh mới nhậm chức ở Điện Trung Thừa đó sao?

Trong lòng có chút giật mình, chả trách hắn nhìn Bao Chửng thấy lạ lẫm như vậy.

Bao Chửng gật gật đầu, nói:

-Không sai, mười mấy năm trước tại hạ đã đậu Tiến sĩ, nhưng ra làm quan thì mới được mấy năm gần đây thôi. Có một điều tại hạ rất lấy làm lạ, với khả năng của Địch huynh, mà chỉ là một cấm quân bình thường thôi sao? Sao ta lại chưa từng nghe nhắc qua đại danh của huynh?

Địch Thanh cười nói:

-Vừa hay một năm trước tại hạ đến Tây Bắc trấn thủ biên cương, hiện nay làm Chỉ huy sứ của Tân Trại Tây Bắc, cũng chả trách Bao huynh chưa từng nghe nhắc tới. Lần này ta là phụng chỉ về kinh, không ngờ lại gặp Bao huynh. Như vậy cũng tốt, vừa hay cùng đường về kinh.

Trong lòng Bao Chửng rất lấy làm cảm kích, biết rằng Địch Thanh nói như vậy là muốn hộ tống hắn về kinh. Thi lễ, nói:

-Vậy thì nhờ cậy Địch huynh rồi.

Địch Thanh nói:

-Đều là lo đi cho nhanh cả mà, có gì mà phiền với không phiền. Đúng rồi, sao bọn họ lại gọi huynh là Bao Hắc Đầu, ta thấy huynh cũng đâu có đen.

Bao Chửng thản nhiên cười, nói:

-Tại hạ mặt không đen, nhưng lòng dạ đen thôi. Cả năm nay, ta làm người mặt đen lâu rồi (nên hiểu là đóng vai ác, mượn hình ảnh mặt đỏ, mặt đen trong kinh kịch), đắc tội với rất nhiều người, cho nên bọn họ gọi ta là Bao Hắc Đầu.

Địch Thanh bật cười ha hả, trong lòng thầm nghĩ, “Bao Chửng này cũng không nghiêm túc như vẻ ngoài của hắn, tính tính lại ngay thẳng chính trực. Ta có thể giúp cho hắn, cũng là việc đáng mừng.”

Bao Chửng thấy Địch Thanh tuy cười đó, nhưng vẻ suy tư trong mắt vẫn không đổi, trong lòng thầm nghĩ, “Rốt cục là Địch Thanh có chuyện khó khăn gì? Người này ân oán phân minh, nhìn thì có vẻ tàn độc, nhưng tâm tư lại tinh tế, trong tình hình đó mà vẫn còn nhớ cứu ta, quả đúng là hiệp sỹ. Nếu Bao Chửng ta có thể giúp gì được cho hắn, thì nhất định sẽ làm hết sức.”

Hai người bèn đi tìm chủ quán, phát hiện cả chủ quán và tiểu nhị đều bị đánh ngất. Sau khi chủ quán tính lại, thấy nhà hỏng người chết, không khỏi kêu thét. Địch Thanh lấy hết số tiền trên người Xa quản gia, đưa cả cho chủ quán, bồi thường tổn thất cho ông ta. Bao Chửng thuật lại sơ qua sự tình trên một tờ giấy, đóng ấn quan lên, lệnh cho chủ quán đem vụ án mạng đi báo quan.

Hai người Địch Thanh đợi đến sáng ngày hôm sau, lại tiếp tục xông vào gió tuyết lên đường. Khi đi qua Củng huyện, Địch Thanh chỉ có thể ngó qua một chút, chứ không ở lại. Hai người gấp rút đi liền ba ngày đường mới đến Biện Kinh.

Biện Kinh cao lớn nguy nga, phủ đầy tuyết trắng.

Vào khoảnh khắc nhìn thấy Biện Kinh, Địch Thanh không khỏi cảm thấy thổn thức trong lòng. Biện Kinh trong tuyết vẫn phồn hoa như thế, nhưng có những người, bất luận là vào thời điểm nào, cũng đều thấy càng thêm cô đơn mà thôi.

Vào đến Biện Kinh, hai người đều đi thẳng vào cung. Bao Chửng đến Ngự Sử Đài đợi lệnh, Địch Thanh phải vào gặp Thiên tử. Trước lúc chia tay, Bao Chửng nói:

-Địch huynh, hôm nay từ biệt, biết là huynh bận rộn nhiều việc, không biết bao giờ mới được gặp lại. Chỉ mong rằng, huynh có thể trút bỏ tâm sự… mọi việc cẩn thận.

Địch Thanh biết là Bao Chửng có con mắt sắc bén, sớm đã nhìn ra là hắn có tâm sự, mỉm cười nói:

-Không sai, e rằng tại hạ sẽ phải nhanh chóng quay lại Tây Bắc, lần từ biệt này, cũng không biết về sau còn có cơ hội gặp lại nữa không. Con đường phía trước hiểm ác, chỉ mong Bao huynh cát nhân thiên tướng!

Hai người chắp tay cáo biệt, Địch Thanh vào đến trước cổng cung, không khỏi nghĩ thầm: “Triệu Trinh tìm hắn rốt cục là có chuyện gì?”

Có cấm quân thấy Địch Thanh đến gần, quát hỏi:

-Cấm địa trong cung, không được tự tiện xông vào!

Địch Thanh đưa ra Kim Bài ngự ban, nói:

-Tân Trại Chỉ huy sứ Địch Thanh, phụng chỉ về kinh kiến giá. Xin thông truyền giúp.

Tên cấm quân nhìn thấy Kim Bài, lại nghe thấy hai chữ Địch Thanh, vội nói:

-Ngươi đợi chút.

Nói đoạn vội đi vào phía trong, giây lát sau đưa ra một cung nhân.

Cung nhân nọ mặt mũi trắng trẻo trơn tru, tuổi tác không lớn lắm, nhìn thấy Địch Thanh, đưa mắt dò xét một lượt từ trên xuống dưới, rồi lại nhìn tấm Kim Bài, nói:

-Tại hạ Diêm Sỹ Lương. Thánh thượng đợi Địch chỉ huy mãi, mời đi cùng ta vào cung kiến giá.

Thái độ Diêm Sĩ Lương khiêm nhường ôn hòa, dường như có chút địa vị ở trong cung, dọc đường thông suốt không bị ngăn trở, nhanh chóng vào đế cung.

Cảnh còn người mất, Địch Thanh thấy đám thị về trong cung phần lớn đều là những gương mặt lạ lẫm, trong lòng không khỏi cảm khái.

Diêm Sĩ Lương vào cung trước bẩm báo, không lâu sau, vội vã bước ra nói:

-Thánh thượng tuyên Địch Thanh vào gặp.

Có tên thị vệ định thu giữ đao của Địch Thanh, Diêm Sĩ Lương lắc đầu ngăn lại, nói:

-Thánh thượng có chỉ, cho phép Địch thanh mang đao vào.

Đám thị vệ đó đều không biết Địch Thanh, ai nấy đều ngạc nhiên, thầm nghĩ cái tên Địch Thanh nhìn có vẻ nghèo túng này, sao lại có thân phận cỡ đó?

Hai người cùng bước vào đế cung, Diêm Sĩ Lương đột nhiên nói:

-Tại hạ nghe nghĩa phụ nói, Địch chỉ huy có duyên kỳ ngộ khác thường, con người anh tuấn, sảng khoái, chính trực, hôm nay được gặp quả là danh bất hư truyền.

Địch Thanh khẽ rúng động trong lòng, hỏi:

-Ngươi là… nghĩa tử của Diêm Văn Ứng đại nhân đó sao?

Diêm Sĩ Lương gật đầu:

-Địch chỉ huy quả nhiên thông minh, đoán cái là đúng ngay. Về sau mong được chiếu cố.

Trong lòng Địch Thanh nghĩ thầm: “Diêm Văn Ứng đối với ta không được hòa thuận lắm, nhưng nghĩa tử của hắn đối với ta cũng khách khí ra phết. Bọn người La Sùng Huân đều chết, không cần phải hỏi, cũng biết chắc chắn Diêm Văn Ứng sẽ trở thành đệ nhất thái giám trong cung. Diêm Sĩ Lương có quyền thế như vậy ở trong cung, hắn nhờ ta chiếu cố chẳng qua là nói cho khách sáo vậy thôi… hay là có thâm ý gì khác?”

Trong lúc đang mải suy nghĩ, hai người đã bước vào trong điện. Địch Thanh thấy trên ghế rồng đang có một người ngồi, đó chính là Triệu Trinh. Triệu Trinh nhìn thấy Địch Thanh, đột nhiên đứng bật dậy, bước xuống khỏi ghế rồng, đến gần Địch Thanh, nói:

-Địch Thanh, cuối cùng khanh cũng về.

Trong giọng nói của y có chút kích động.

Địch Thanh thấy vậy cũng cảm thấy ấm áp, bất luận thế nào đi nữa, Triệu Trinh đối xử với hắn bao giờ cũng đặc biệt.

Hai người bọn họ dù sao cùng từng cùng nhau dạo qua thanh lâu, chui qua chuồng heo, chạy trốn đuổi giết, trải qua cung biến. Những trải nghiệm này, những bậc quân thần khác rất hiếm có dịp cùng trải qua.

Triệu Trinh xưa nay đều cô đơn một mình, nên rất có cảm tình với người cùng chung hoạn nạn như Địch Thanh.

Địch Thanh quỳ một gối xuống đất, hành quân lễ, nói:

-Thần Địch Thanh… khấu kiến Thánh thượng.

Triệu Trinh kéo Địch Thanh đứng lên, mỉm cười nói:

-Không cần đa lễ. Địch Thanh, lần này ngươi về rồi, thì chớ có hòng đi nữa.

Địch Thanh chẳng ngờ Triệu Trinh vừa mở lời đã nói ra câu này, nên rất lấy làm khó xử. Nhưng thấy trên mặt Triệu Trinh có chút trông mong, nên không nỡ làm hắn mất hứng, bèn nói tránh:

-Thánh thượng, thần đang lúc phải đánh trận ở Tây Bắc, bị chỉ ý của Thánh thượng triệu về, không biết Thánh thượng có gì chỉ bảo?

Triệu Trinh khẽ thở dài, nói:

-Trẫm rất nhớ khanh, nhưng lần này triệu khanh về kinh, là vì Thái hậu, người rất muốn gặp khanh.

Địch Thanh chấn động, không kìm nổi nói:

-Thái hậu… tại sao lại muốn gặp thần?

Đối với Thái hậu mà nói, hắn chỉ có oán hận, chẳng lẽ… Thái hậu vẫn còn hận hắn vụ giết Triệu Doãn Thăng hay sao?

Triệu Trinh lắc đầu, nói:

-Trẫm cũng không biết. Nhưng mà gần đây bệnh tình của Thái hậu ngày càng nặng, người muốn gặp khanh, thì trẫm phải hoàn thành mong muốn của người. Địch Thanh, khanh hãy đi gặp Thái hậu đi, được không?

Giọng điệu của hắn mang ý thương lượng.

Địch Thanh cuống quýt thi lễ, nói:

-Thần tuân chỉ.

Triệu Trinh thở dài một hơi, nhìn Địch Thanh nói:

-Gần đây sức khỏe của Thái hậu càng ngày càng tệ…

Lời nói còn chưa dứt, có cung nhân vội vàng chạy vào bẩm báo:

-Thánh thượng, Thái hậu… hình như là… có chút không ổn.

Cung nhân đó không dám nói nhiều, nhưng thần sắc lo sợ, giống như đại nạn sắp giáng xuống đầu.

Triệu Trinh cả kinh, thất thanh nói:

-Sao lại thế? Bãi giá cung Thùy Củng. Địch Thanh, khanh cùng đi.

Kể từ sau vụ cung biến, tám điện bị thiêu, cung Trường Xuân xây sửa lại, đổi tên thành Thùy Củng, Lưu Thái hậu vẫn ở trong cung Thùy Củng.

Mọi người nghe báo bệnh tình của Thái hậu có biến đổi, ai nấy đều hoảng sợ đi theo. Đến trước cung Thùy Củng, Triệu Trinh ra lệnh cho Địch Thanh và Diêm Sĩ Lương đi theo bên mình, tiến thẳng vào cung. Tuy trong cung Thùy Củng có rất nhiều lò lửa, ấm áp như mùa xuân, nhưng trong đó vẫn luôn ẩn chứa một bầu không khí chết chóc.

Triệu Trinh đến trước tẩm phòng (phòng ngủ) của Thái hậu, Diêm Văn Ứng vội vén rèm châu, thấy Địch Thanh thì có chút kinh ngạc. Hạ giọng nói nhỏ bên tai Triệu Trinh:

-Thánh thượng, Thái hậu vừa mới hôn mê. Nhưng… lại tỉnh lại rồi. Người đang nói chuyện với Lý Địch đại nhân.

Địch Thanh biết, Lý Địch vốn là ân sư của Triệu Trinh, lúc trước vì chuyện đứng ra xin Thái hậu trả lại quyền chấp chính cho thiên tử mà đắc tội với Thái hậu, bị đày ra khỏi kinh thành. Chẳng ngờ lúc Thái hậu bệnh tình nguy kịch, lại tìm Lý Địch nói chuyện.

Tại sao Thái hậu lại tìm Lý Địch? Tại sao Thái hậu lại tìm Địch Thanh hắn?

Địch Thanh nghĩ không ra, trong lòng cảm thấy có chút quái lạ, nhưng rốt cuộc là chỗ nào không ổn, thì nhất thời lại không nói được ra. Hắn liếc nhìn Triệu Trinh một cái, thấy sắc mặt Triệu Trinh hết sức lo lắng, nhưng lại không bước qua bức rèm châu, không khỏi tự nhíu mày thắc mắc.

“Bệnh tình của Lưu Thái hậu nguy kịch, sao Triệu Trinh lại không mau đi gặp? Rốt cuộc hắn đang nghĩ gì?”

Triệu Trinh đột nhiên nói:

-Những ngày này Thái hậu không muốn gặp ai, ngay cả đối với đứa con trai là ta đây, cũng không muốn gặp.

Giọng nói của y rất nhỏ, trong đó dường như có chút trách móc, pha lẫn thương cảm, giống như đã nhìn ra sự nghi hoặc của Địch Thanh, nên giải thích với hắn. Triệu Trinh chững lại một lát, đoạn nói:

-Diêm Văn Ứng, ngươi đi bẩm báo với Thái hậu, nói trẫm cầu kiến…

Lời nói chưa dứt, đã nghe giọng nói yếu ớt của Thái hậu cất lên phía sau rèm:

-Lý Địch, lão thân… hôm nay bảo vệ thiên tử… đến đây, ngươi nghĩ thế nào?

Cung Thùy Củng quả thật rất yên tĩnh, tuy tiếng nói của Thái hậu rất yếu ớt, nhưng những người trong rèm, ngoài rèm đều nghe thấy rõ.

Mắt Triệu Trinh đột nhiên có chút nhòe đi. Khoảnh khắc đó, thần sắc của y rất phức tạp, dịu dàng có, hồi tưởng có, thậm chí có cả một chút… áy náy.

Bất luận thế nào, năm xưa cũng là nhờ Thái hậu ổn định giang sơn cho nhà họ Triệu y.

Trước giờ Thái hậu cũng không làm gì Triệu Trinh y, có lẽ lần cung biến trước kia, cũng chẳng qua là do Triệu Doãn Thăng tự ý làm chủ? Triệu Trinh không muốn nghĩ thêm nữa.

Bên trong rèm châu, Lý Địch run rẩy nói:

-Lúc trước không biết Thái hậu có thánh đức như thế này, cho nên đắc tội, xin Thái hâu…đừng trách.

Lưu Thái hậu khẽ ho ra một tiếng, tựa như muốn nôn hết ra những ân oán bao nhiêu năm qua, lẩm bẩm nói:

-Tri nhi đâu, hình như lúc nãy ta mới nghe thấy tiếng của nó…

Triệu Trinh không ngờ Lưu thái hậu vẫn còn nhớ đến mình, không kiềm chế được nữa, vén xốc rèm châu bước vào, quỳ trước mặt Thái hậu, nức nở nói:

-Mẫu hậu…

Trên gương mặt tiều tụy của Lưu Thái hậu cố nở nụ cười, bàn tay khô gầy sờ lên đỉnh đầu Triệu Trinh, lẩm bẩm nói:

-Trinh nhi, chắc ta phải đi rồi. Sau này… con phải tự… chăm sóc lấy mình.

Triệu Trinh nắm lấy bàn tay khô gầy của Lưu Thái hậu, nức nở nói:

-Mẫu hậu, người sẽ không sao đâu, người không thể rời xa con được!

Ánh mắt Lưu Thái hậu trống rỗng, lẩm bẩm nói:

-Đứa con ngốc này, người ai mà không chết? Mấy ngày nay.. ta đều nằm mơ, mơ thấy tiên đế… người từng nói, sẽ đến đón ta…

Triệu Trinh rùng mình ớn lạnh, cảm thấy lời lẽ Thái hậu nói ra đầy quỷ khí.

Tiên đế làm sao có thể đến đón Thái hậu?

Trước mắt Lưu Thái hậu hơi hoa lên, dường như nhìn thấy Triệu Hằng đứng ngay phía trước, âm trầm nói với bà:

-Nga nhi, cho dù nàng không chống chọi được đến lúc trẫm hồi sinh, sau khi chết… trẫm cũng sẽ bầu bạn bên cạnh nàng! Nàng đừng sợ, cuộc đời này của trẫm, chỉ yêu một mình nàng!

Lưu Thái hậu nhìn vào ảo ảnh trong không trung, lẩm bẩm nói:

-Người rất sợ chết, nhưng thiếp không sợ. Sao thiếp phải đợi người đến đón chứ?

Bà ta cười chua xót, trong lòng thầm nghĩ: “thực ra… ta không còn muốn ở bên cạnh chàng lắm đâu”.

Những lời này, bà ta đã dấu ở trong lòng từ lâu lắm rồi.

Bụi phủ nhiều năm!

Thật sự là bà ta không phải với Triệu Hằng, bà ta đã không đặt Ngũ Long ở lăng Vĩnh Định, nhưng bà ta không hề có chút cảm giác áy náy gì cả.

Bởi vì bà ta cảm thấy, sức lực trên cơ thể mình đang rời bỏ bà ta mà đi, từng chút, từng chút một, bà ta phải chết rồi.

Người chết rồi, có phải chết là hết không?

Sống, thì có gì hay? Cô đơn, ngay cả đến một người để nói chuyện cũng không có. Người thân của bà ta, đều đã rời bỏ bà ta mà đi cả rồi, những người còn lại thì không có gì để nói. Cho dù là có trường sinh bất tử, thì sẽ thế nào? Cuộc sống trường sinh cô đơn, chẳng thà chết đi!

Nghĩ đến đây, đột nhiên Lưu Thái hậu nhớ ra một chuyện, thấp giọng hỏi:

-Địch Thanh… đến chưa?

Triệu Trinh hơi ngạc nhiên, ngoái đầu nhìn sang, ra hiệu cho Địch Thanh bước tới. Chỉ có điều trên trán y rịn mồ hôi, mà nếu không nhìn kỹ sẽ không thể nhận thấy.

Địch Thanh không để ý thấy sự khác thường của Triệu Trinh, lặng lẽ bước tới trước sập của Thái hậu, quỳ một gối xuống, trầm giọng nói:

-Thái hậu, thần Địch Thanh ở đây.

Thái hậu hướng ánh mắt nhìn về phía Địch Thanh, tròng mắt dường như là nhìn Địch Thanh, nhưng cũng dường như đang hồi tưởng lại một đoạn ký ức cũ.

Đến tận lúc này, Địch Thanh vẫn không biết Thái hậu tìm hắn để làm gì, chỉ có thể lẳng lặng chờ đợi. Hắn cũng không sợ hãi, chết hắn còn không sợ, bây giờ còn phải sợ gì nữa?

-Vũ Thường đi rồi… ta biết… ngươi rất buồn.

Thái hậu lẩm bẩm nói.uy

Địch Thanh nghe thấy câu nói này, cảm thấy như bị giáng một búa thật mạnh vào ngực, thân hình hơi chao đảo, trầm mặc không nói gì.

Lưu Thái hậu thấp giọng nói:

-Rất nhiều việc… đều là số phận đã định.

Địch Thanh đột nhiên ngẩng đầu, trên mặt lộ rõ vẻ kích động, nói rành rọt từng chữ:

-Thái hậu, cho dù là việc số phận đã định, Địch Thanh cũng phải thay đổi nó!

Lưu Thái hậu hơi chấn động, trong mắt ánh lên một luồng sáng, đờ đẫn nhìn Địch Thanh. Dường như bà ta đang kinh ngạc rằng cõi người này còn có người kiên trì như Địch Thanh.

Địch Thanh không hề sợ hãi, nhìn thẳng vào Lưu Thái Hậu, một lúc lâu sau mới nói:

-Thái hậu tìm thần, chẳng lẽ chỉ để hỏi thần có buồn hay không thôi sao?

Đôi môi khô quắt của Lưu Thái hậu khẽ nhúc nhíc một chút, dường như đang cười:

-Ta cứ nghĩ mãi, có nên nói cho ngươi biết một bí mật hay không?

Trống ngực Địch Thanh đập dồn, sắc mặt hơi biến đổi. Hắn có linh cảm, việc mà Lưu Thái hậu nói đến, chắc chắn có liên quan đến Vũ Thường, thậm chí còn có liên quan đến Hương Ba Lạp!

-Hương Ba Lạp…

Lưu Thái hậu mới nói ra ba chữ này, toàn thân Địch Thanh đã run rẩy, cố gắng kiềm chế sự kích động, lắng tai nghe.

Lưu Thái hậu đột nhiên ho lên một trận kịch liệt, Triệu Trinh vội nói:

-Người đâu, mau hầu hạ Thái hậu nghỉ ngơi. Mẫu hậu, hôm khác người hãy nói.

Cơn thở dốc của Lưu Thái hậu giảm bớt, yếu ớt nói:

-Không!

Tuy chỉ có một chữ, nhưng nói chắc như đinh đóng cột. Triệu Trinh không dám làm ngược, nháy mắt với Địch Thanh, ra ý nói Địch Thanh khuyên nhủ Thái hậu. Địch Thanh chỉ nhìn Thái hậu, giọng run run hỏi:

-Thái hậu, Hương Ba Lạp làm sao?

-Ngũ Long… vốn là… vật của Hương Ba Lạp.

Thái hậu lẩm bẩm nói.

Địch Thanh chấn động, thất thanh nói:

-Cái gì?

Khoảnh khắc đó, hắn vừa khiếp sợ vừa vui mừng. Hắn vẫn luôn không dám chắc là Hương Ba Lạp có tồn tại hay không, qua lời tiên tri của Thiệu Ung, hắn cũng từng nghĩ rằng Hương Ba Lạp có mối liên hệ với Ngũ Long, nhưng dù sao đó cũng vẫn chỉ là suy đoán.

Chính miệng Thái hậu đã nói là Ngũ Long và Hương Ba Lạp có liên quan với nhau, Ngũ Long là có thật, vậy chẳng phải minh chứng rằng, Hương Ba Lạp quả thực có tồn tại hay sao?

Địch Thanh mới nghĩ đến đây, lòng tin bắt đầu trỗi dậy, hy vọng tăng thêm gấp bội.

Thái Hậu thở hổn hển vài cái, gấp gáp nói:

-Nhưng mà… ngươi nhất định phải… phải…

Đột nhiên cổ họng bà ta như câm đặc, không thể nói tiếp. Lúc này, có thái giám bưng chén thuốc đến, nói:

-Thái hậu, phải uống thuốc rồi.

Lưu Thái hậu chầm chậm rời mắt nhìn sang phía thái giám. Quả thực là bà ta rất mệt mỏi, chuyển động mắt thôi mà cũng không có sức. Ánh mắt bà ta lướt qua Triệu Trinh, lướt qua Diêm Văn Ứng, rồi với dừng lại trên người tên thái giám nọ.

Trong đầu óc bà ta hiện lên một hình ảnh còn sót lại, nhớ rõ vừa rồi Diêm Văn Ứng còn đang nhìn Triệu Trinh.

Đây chỉ là một việc hết sức bình thường, nhưng sao bà ta lại ghi nhớ rõ ràng như vậy?

Đột nhiên, thân hình Lưu Thái Hậu chấn động, nhưng ngồi thẳng dậy ngay, giọng khàn khàn nói:

-Ngươi… ngươi… ta hiểu rồi…

Một tay bà ta nắm chặt hoa phục, một tay chỉ tới trước, dường như chỉ vào Địch Thanh, nhưng lại dường như chỉ ra phía sau hắn, khản giọng nói:

-Ngươi… ngươi… giỏi…

Khoảnh khắc đó, trên gương mặt tiều tùy của Lưu Thái hậu có một vẻ hết sức quái dị, trong ánh mắt vừa là đau thương, vừa là phẫn nộ, bà ta cứ đờ đẫn mà chỉ như thế, thân thế cương cứng, rất lâu sau không nói tiếng nào.

Địch Thanh nhìn ánh mắt trống rỗng đó của Lưu Thái hậu, tuy không phải là sợ, nhưng cũng cảm thấy ớn lạnh sống lưng. Hắn muốn ngoảnh đầu nhìn lại phía sau, nhưng không hiểu vì sao cổ lại cứng ngắc, không thể cử động được.

“ngươi… giỏi…”

Lưu Thái hậu muốn nói gì?

Ngũ Long là vật của Hương Ba Lạp, Thái hậu muốn Địch Thanh nhất định phải làm sao?

Tại sao Lưu Thái hậu lại phẫn nộ?

Mọi thứ hỗn độn phức tạp, chồng chất lên nhau, khiến cho cung Thùy Củng tràn ngập bầu không khí âm trầm.

Lúc này, Diêm Văn Ứng đã kịp lấy lại phản ứng, mắt đầy vẻ kinh hãi, kêu lên:

-Thái hậu… người… đi rồi.

Dường như vì quá sợ hãi với cái chết của Thái hậu, cổ họng hắn sợ đến mức á khẩu.

Mọi người kinh hoàng, nhao nhao nói:

-Thái hậu…

Ngay cả Triệu Trinh cũng quỳ mọp xuống đất, trong tiếng kêu khóc tràn đầy nỗi hoảng sợ. Hắn phủ phục xuống đất, trên trán rịn đầy mồ hôi.

Từng giọt từng giọt…

Nếu Địch Thanh quay đầu lại, thì đã nhìn thấy trên tráTriệu Trinh và Diêm Văn Ứng đẫm mồ hôi.

Nhưng hắn lại không quay đầu.

Vào khoảnh khắc nghe thấy tiếng kêu Thái hậu đi rồi, trong đầu hắn vừa là chấn động khiếp sợ, vừa là ngơ ngẩn thất vọng. Hắn không quân đến những việc khác, trong lòng chỉ nghĩ: “Ngũ Long vốn là vật của Hương Ba Lạp, ngươi nhất định phải…”

Thái hậu biết điểm mấu chốt để tìm kiếm Hương Ba Lạp? nhưng cái mấu chốt đó lại chưa được nói hết! Trong lòng Địch Thanh rớm máu, chỉ cảm thấy xung quanh có người chạy ra chạy vào hô hoán, có vẻ như rất hỗn loạn.

Nhưng những việc đó có liên quan gì đến hắn? Hắn đột nhiên hận bản thân mình, hận mình sao không về sớm một ngày. Nhưng về sớm một ngày, thì sự việc có thay đổi được gì không? Địch Thanh không biết.

Đúng vào lúc tâm trí đang rối bời, có một bàn tay đặt lên vai Địch Thanh. Địch Thanh ngoảnh đầu nhìn lại, thấy đôi mắt đầy tia máu của Bát vương gia. Khóe miệng Địch Thanh mấp máy, thấp giọng nói:

-Bá phụ…

Trong lòng hắn rất lấy làm áy náy. Vào khoảnh khắc nhìn thấy Bát vương gia đó, hắn đã biết, Bát vương gia cũng không tìm thấy Hương Ba Lạp, hơn nữa chắc chắn là người vẫn luôn tìm kiếm.

Sao Bát vương gia lại vào cung nhanh đến vậy?

Bát vương gia trông rất tiều tụy, nhưng trong mắt Bát vương gia có một vẻ gì đó rất kỳ quái, thấp giọng nói:

-Địch Thanh… có phải Thái hậu muốn tìm ngươi đến để nói gì đó phải không? Bà ta đã nói gì?

Địch Thanh thẫn thờ nói:

-Hình như bà ấy muốn nói đến Hương Ba Lạp, nhưng chưa nói được hết. Bà ấy chỉ nói Ngũ Long vốn là vật của Hương Ba Lạp, muốn tìm thấy Hương Ba Lạp ngươi nhất định phải… nói đến đây, Thái hậu đã ra đi rồi.

Bát vương gia ngưng thần nhìn Địch Thanh giây lát, chậm rãi nói:

-Thái hậu muốn nói gì, ta đều biết.

Địch Thanh nửa mừng nửa lo, chụp ngay lấy Bát vương gia, giọng nói trở nên run rẩy:

-Bá phụ, người biết ư? Người biết gì? Sao người lại biết được?

Bát vương gia ngoảnh đầu nhìn về hướng Triệu Trinh, dường như suy nghĩ điều gì đó.

Thái hậu băng hà, trong cung hỗn loạn, Triệu Trinh chỉ ngơ ngác quỳ trước sập của Thái hậu, nước mắt giàn giụa. Tin tức đã được truyền ra ngoài, các quần thần đang buổi triều sớm, nghe tin vội kéo đến.

-Chuyện này nhất thời không nói rõ được, lát nữa ta sẽ nói với ngươi.

Bát vương gia thấp giọng nói:

-Ta đi an ủi Thánh thượng trước đã.

Trái tim Địch Thanh đang đập dồn dập, nhưng cũng chỉ có thể đợi.

Bát vương gia đi đến bên cạnh Triệu Trinh, cũng quỳ xuống, thấy Triệu Trinh nước mắt giàn giụa, lẩm bẩm nói:

-Mẫu hậu… người… người… vì sao lại rời bỏ con?

Triệu Trinh cứ lặp đi lặp lại mấy lời đó, trong lúc đau thương, dường như hắn cũng rối loạn, hoàn toàn quên mất phải làm gì tiếp theo. Bát vương gia ở bên cạnh khuyên bảo:

-Thánh thượng, xin hãy bớt đau buồn.

Triệu Trinh đột nhiên nổi đóa, chụp lấy cổ áo của Bát vương gia, quát:

-Ngươi bảo trẫm bớt đau buồn? Mẫu thân của trẫm ra đi rồi, ngươi bảo trẫm phải bớt đau buồn thế nào?

Bát vương gia có chút sợ hãi, thấp giọng nói:

-Thánh thượng, bất luận thế nào, các quần thần đều đang đợi cả ngoài cung kìa. Thái hậu băng hà, Thánh thượng lại mới đăng cơ không lâu, trước mắt phải gấp rút trấn an quần thần, đề phòng biến cố.

Triệu Trinh vẫn nước mắt ngắn dài, nhưng tay đã lơi lỏng, thất thần nói:

-Trấn an thế nào?

Hắn nhìn lại Thái hậu một lần nữa, sắc mặt đột nhiên có chút thay đổi.

Bát vương gia nhìn theo hướng nhìn của Triệu Trinh, thần sắc cũng trở nên khác thường.

Cánh tay chỉ thẳng ra phía trước của Thái hậu đã được các cung nữ hạ xuống, nhưng cánh tay còn lại vẫn nắm chặt lấy Duyện Miện trên người, mặc cho các cung nữ làm đủ mọi cách, bàn tay cũng không chịu buông ra.

Thân hình Triệu Trinh có chút run rẩy, nhìn sang phía Diêm Văn Ứng. Diêm Văn Ứng cũng đang nhìn Triệu Trinh, ánh mắt cũng lộ vẻ sợ hãi.

Thái hậu chết, Diêm Văn Ứng phải sợ hãi điều gì? Thái hậu nắm chặt Duyện Miện kia như vậy, là có ý gì?

-Trước khi về cõi tiên, Thái hậu nắm chặt Duyện Miện, rốt cuộc là có ý gì?

Triệu Trinh lẩm bẩm, liếc xéo sang Bát vương gia.

Bát vương gia trầm ngâm hồi lâu, rồi mới nói:

-Tha lỗi cho thần ngu độn, không hiểu được. Nhưng các quần thần đều đã đợi cả bên ngoài cung chờ sai phái, chẳng bằng hỏi bọn họ xem, người đông ý nhiều, có lẽ sẽ có được đáp án?

 Chương 205 - 207: Nước mắt đế vương

Triệu Trinh chậm rãi gật đầu:

-Hoàng thúc nói không sai. Bây giờ trẫm sẽ đi hỏi.

Hắn bước ra khỏi cung Thùy Củng, thấy các quần thần đã quỳ đen nghịt bên ngoài. Quần thần nghe Thánh thượng xuất cung, đồng thanh hô vạn tuế.

Triệu Trinh nhìn các quần thần, nghẹn ngào không nên lời, chỉ khoát tay, Diêm Văn Ứng biết điều tiến lên phía trước, tuyên bố:

-Thái hậu đã… quy tiên.

Gió mây thê lương, quần thần gào khóc.

Triệu Trinh lại nước mắt chảy dài, đợi cơn đau thương của các quần thần lắng xuống, mới hỏi:

-Thái hậu ra đi rồi, nhưng hình như người vẫn có tâm sự. Trước khi ra đi, người nắm chặt Duyện Miện không buông, vậy rốt cuộc là nguyên do gì?

Quần thần trầm mặc, gió lạnh thét gào, tăng thêm phần nghiêm túc.

Lời Triệu Trinh hỏi còn có thâm ý sâu sắc, trước khi các quần thần chưa nắm bắt được ý của thiên tử, không dám tùy tiện nói bừa.

Duyện Miện vốn là phục trang của thiên tử. Phải biết rằng, Thái hậu có thể mặc được Duyện Miện cũng là có nguyên do của nó. Trước kia Thái hậu cố chấp muốn đăng cơ, sau khi Triệu Doãn Thăng chết, dục vọng đó của Thái hậu cũng không vơi. Nhưng trước đó không lâu, đột nhiên lại nằng nặc muốn mặc Duyện Miện đi đến Thái miếu, tham bái liệt tổ liệt tông của Triệu gia Đại Tống.

Các quần thần đều hiểu, Thái hậu làm thế là muốn nói với tất cả mọi người, đặc biệt là những Tống thần bọn họ rằng: Lưu Nga ta tuy là ti tiện, nhưng cuối cùng vẫn có thể sánh ngang với các bậc quân vương.

Yêu cầu này của Thái hậu đã làm khó quần thần Đại Tống.

Việc Thái hậu mặc Duyện Miện bái lạy, tuy không phải là đăng cơ, nhưng lại có nghĩa là tuyên cáo thiên hạ rằng mình tham bái với thân phận thiên tử. Chuyện này thì liệt tổ liệt tông nhà họ Triệu phải đối diện thế nào, chuyện này khiến các quan văn nhận ân huệ Triệu gia, một lòng coi bảo vệ giang sơn Đại Tống là nhiệm vụ của mình làm sao chịu nổi?

Thái hậu một lòng kiên quyết, các quần thần không còn cách nào khác, cuối cùng đành thỏa hiệp với Thái hậu, Tống thần sửa đổi vài chỗ trên Duyện Miện. Khiến cho chiếc Duyện Miện đó nhìn thì giống như Duyện Miện, nhưng lại không phải Duyện Miện, rồi để Triệu Trinh mời Thái hậu mặc chiếc Duyện Miện mới sửa đó tham bái thái miếu.

Cũng chẳng thể nói rõ ai là khẽ dối người dối ta, Thái hậu, thiên tử hay là là đám Tống thần? Thái hậu mặc chiếc Duyện Miện phải mà không phải đi đến Thái miếu, chuyện này giống như một vở hài kịch, nhạc ngừng người về, nhưng vở kịch vẫn chưa hạ màn.

Sau chuyện đó, Thái hậu luôn mặc chiếc Duyện Miện đó trên người, chết cũng không chịu cởi ra. Ai cũng nhìn ra là Thái hậu rất thích chiếc Duyện Miện đó.

Trước khi chết, Thái hậu nắm chặt Duyện Miện, liệu có phải là muốn tỏ ý rằng: chiếc áo này chớ có hòng cởi ra, phải mặc đến lăng Vĩnh Định chôn chung với Chân Tông?

Nhiều người đều nghĩ như vậy, nhưng không ai dám nói.

Bông tuyết rơi xuống, từng cánh hoa tuyết đều tràn ngập hiu quạnh.

Khoảnh khắc đó, thần sắc Triệu Trinh còn lạnh lùng hơn cả tuyết, hắn đang nhìn một người. Thần sắc người đó cũng lạnh lùng, hoặc có thể nói là trầm tĩnh. Người đó không hề nhìn Triệu Trinh, mà chỉ cúi đầu không nói, người đó chính là người đứng đầu trong lưỡng phủ, Lã Di Giản!

Lã Di Giản không bước tới, Tham chính Tiết Khuê quỳ lết tới trước, nói:

-Khởi bẩm Thánh thượng, Thái hậu trước khi quy tiên lấy tay giữ trừ phục, dụng ý rõ ràng, chắc chắn là Thái hậu không muốn mặc Duyện Miện đi gặp tiên đế. Trước kia tiên đế muốn Thái hậu chăm sóc thiên tử, muốn Thái hậu trả lại quyền chấp chính cho thiên tử sau khi thiên tử trưởng thành, nếu Thái hậu mặc Duyện Miện đi gặp tiên đế, thì làm sao trả lời cho sự nghi ngờ của tiên đế?

Triệu Trinh thở phào, lẩm bẩm nói:

-Thì ra là như vậy.

Ngoảnh đầu nhìn về phía lão thần Lý Địch cách đó không xa, Triệu Trinh hỏi:

-Ân sư, trước khi Thái hậu băng hà, là đang nói chuyện với người, thiết nghĩ người phải là người hiểu dụng ý của Thái hậu nhất. Theo như người thấy, thì Thái hậu có ý gì?

Lý Địch toàn thân run rẩy, trong mắt có một nỗi đau thương không thể nói thành lời, thấy ánh mắt như thiêu đốt của Triệu Trinh, thấp giọng nói:

-Lão thần già rồi… cũng hồ đồ rồi. Thấy lời Tiết Tham chính nói cũng có cái lý của ông ấy.

Triệu Trinh có chút không hài lòng, chuyển sang nhìn Lã Di Giản, nói:

-Lã tướng. ý ngươi thế nào?

Lã Di Giản trầm ngâm giây lát, nói:

-Lý đại nhân nói không sai, Tiết Tham chính nói cũng có cái lý của ông ấy.

Các quần thần có người không hiểu, có người đã hiểu, hai người bọn Lã Di Giản, Lý Địch nhìn bề ngoài thì có vẻ phụ họa theo Tiết Khuê, nhưng lời nói lại rất mơ hồ, chỉ nói Tiết Khuê có lý của hắn. Còn cái lý của Tiết Khuê có đúng hay không, bọn họ có khuyên thiên tử thu nhận hay không, thì hai người Lã, Lý lại đều không nói.

Hai kẻ lõi đời này, đương nhiên là vẫn đang đợi xem ý thiên tử thế nào.

Thiên tử chí hiếu, rốt cuộc sẽ quyết định thế nào, không ai biết!

Triệu Trinh nói:

-Nếu ba vị khanh gia đã có chung ý kiến, vậy quyết định cởi bỏ Duyện Miện của Thái hậu, trả lại phục sức vốn có cho Thái hậu, trẫm cũng nghĩ rằng như thế là thỏa đáng. Các vị ái khanh, các khanh còn dị nghị gì không?

Các quần thần hơi giật mình, liền ngay sau đó không đồng thanh nói:

-Thánh thượng anh minh.

Ánh mắt Triệu Trinh lướt qua trên người các quần thần, dường như mang theo tâm sự liếc nhìn Lã Di Giản một cái, nói:

-Thái hậu quy tiên, mấy ngày này trẫm tạm thời không xử lý triều chính, tất cả lui hết đi.

Dứt lời, Triệu Trinh phất tay áo hồi cung, quần thần quỳ tiễn, lén lén thảo luận, túm năm tụm ba mà giải tán.

Triệu Trinh trở lại vào trong cung, thấy Địch Thanh vẫn đứng ở đó, dường như chưa hề nhúc nhíc qua. Trong lòng đột nhiên kích động, đi đến, túm lấy cánh tay Địch Thanh, nức nở nói:

-Địch Thanh, Thái hậu người… đi rồi.

Trong cung khắp nơi đều có người, nhưng trong mắt hắn chỉ có một mình Địch Thanh.

Các cung nhân thấy thế, ai nấy đều kinh ngạc, không tại sao trong lúc đau lòng thế này, Triệu Trinh lại không tìm đến cung nhân, không tìm đến người thân, không tìm Hoàng hậu, vì sao lại chỉ tìm đến Địch Thanh để bộc lộ tâm tư.

Địch Thanh cũng kinh ngạc, chân tay luống cuống, một lúc sau mới nói:

-Thánh thượng, người đi đã đi rồi, người… xin nén đau thương.

Triệu Trinh khóc lóc một hồi lâu, dường như nhận thấy có chút thất thố, chậm rãi lơi lỏng hai tay, ngồi xuống thấp giọng nói:

-Địch Thanh, lúc trước trẫm thấy người đau buồn đến muốn chết trước mặt Dương Vũ Thường, trẫm vẫn không hiểu nổi. Nhưng đến bây giờ trẫm mới hiểu, Thái hậu đi rồi, trẫm không thể tận hiếu với người nữa, cứ nghĩ đến đây…

Hắn nghẹn ngào không nói nên lời, lấy tay áo lau mắt, thì thào nói:

-Trẫm… phải lo việc hậu sự của Thái hậu cho đàng hoàng…

-Thánh thượng, trước mắt vẫn chưa vội lo hậu sự cho Thái hậu.

Triệu Trinh giận tím mặt, quát lên:

-Ngươi… Bát vương gia, ngươi nói gì?

Hắn vốn nghĩ lời vừa rồi là do Địch Thanh nói, không kìm nổi cơn giận dữ, nhưng quay đầu nhìn lại mới phát hiện ra người nói lại là Triệu Nguyên Nghiễm.

Bát vương gia quỳ lết tới trước, run giọng nói:

-Thánh thượng, thần liều chết xin khẩn cầu một việc.

Hai hàng lông mày của Triệu Trinh dựng ngược, lạnh giọng nói:

-Ngươi yêu cầu điều gì? Ngươi có biết chỉ cần với một câu ngươi vừa nói, cũng đủ để trẫm ban chết cho ngươi rồi không!

Địch Thanh cũng lấy làm lạ, không hiểu vì sao Bát vương gia lại có một câu không hợp hoàn cảnh như thế vào lúc này.

Ngược lại, giọng nói của Bát vương gia lại trở nên trầm thấp, không còn sợ hãi nữa:

-Có những lời, thần dù chết cũng phải nói. Thần một lòng trung thành, không muốn để Thánh thượng phải gánh tội danh bất hiếu vào lúc này.

Sắc mặt Triệu Trinh đã thay đổi, âm trầm nói:

-Hoàng thúc, ngươi có biết mình đang nói gì không?

Bát vương gia vươn ngực dậy, nói rành rọt từng chữ:

-Đương nhiên thần biết. Điều thần muốn nói là, Lưu Thái hậu không phải là mẹ đẻ của Thánh thượng! Mà mẹ đẻ của Thánh thượng là người khác!

Triệu Trinh đột nhiên đứng bật dậy, sắc mặt lại thay đổi, thất thanh nói:

-Ngươi nói cái gì? Ngươi nói nhảm cái gì vậy!

Địch Thanh đứng bên nghe được, trong lòng lấy làm kinh hãi, cũng nhớ lại lời của Lý Thuận Dung, nhất thời tâm trí bất định. Lời Bát vương gia nói không sai, nhưng làm sao mà Bát vương gia lại biết được chuyện này? Chuyện này có nên nói ra hay không? Tại sao Bát vương gia lại muốn nói chuyện này ra?

Bát vương gia trở nên trấn tĩnh lạ thường, trầm giọng nói:

-Thánh thượng, việc này là hoàn toàn có thật. Năm xưa Thái hậu sinh hạ được một người con gái, còn Thánh thượng là do cung nữ sinh ra. Thái hậu vì muốn giữ ngôi vị Hoàng hậu nên mới nói dối tiên đế là mình sinh hạ được Thánh thượng. Khi đó thần có ở trong cung, nên mới biết được chuyện này, nếu Thánh thượng không tin lời thần nói, có thể tìm Lý Địch đến hỏi. Chuyện này tiên đế biết rõ, năm đó Lý Địch cũng ở trong cung, cũng biết.

Những lời Bát vương gia nói, giống như sấm nổ bên tai, khiến cho Triệu Trinh lảo đảo muốn ngã. Triệu Trinh vịn tay vào hương án, hồi lâu mới nói:

-Tuyên Lý Địch vào.

Lý Địch vốn chưa rời khỏi cung, nghe Thánh thượng tuyên triệu, vội run rẩy đi tới. Vào khoảnh khắc ông ta nhìn thấy Bát vương gia, dường như đã hiểu ra mọi chuyện, trong mắt ẩn chứa một nỗi bi ai sâu xa.

Triệu Trinh nhìn Lý Địch, nghiến răng nói:

-Ân sư, Bát vương gia nói… Thái hậu vốn không phải là mẹ đẻ của trẫm, chuyện này có thật không?

Trên gương mặt già nua của Lý Địch, lộ vẻ sợ hãi và đau thương. Ông ta chầm chậm quỳ xuống, một lúc lâu sau mới nói:

-Chuyện này đúng là sự thật.

Triệu Trinh bật cười, một nụ cười thể thảm, hồi lâu sau, giận giữ đập bàn quát lớn:

-Ăn nói sằng bậy! Ngươi sớm đã biết trẫm không phải là con đẻ của Thái hậu, tại sao không nói ra từ sớm? Chẳng lẽ ngươi không biết khi quân là tội lớn?

Lý Địch quỳ ở đó, nước mắt tuôn rơi, nói:

-Thánh thượng, thần tội đáng muôn chết!

-Lôi Lý Địch ra…

Triệu Trinh chẳng đợi phán quyết, Địch Thanh bừng tỉnh, thầm nghĩ, nếu Lý Địch phải chết thì Bát vương gia chẳng phải cũng là tội chết hay sao? Lúc đó hắn cũng chẳng kịp nghĩ đến bản thân mình, dứt khoát tiến lên nói:

-Thánh thượng, Lý đại nhân cũng không cố ý lừa dối, xin Thánh thượng xem xét lại.

Mọi người lấy làm lạ, không ngờ Địch Thanh lại đứng ra cầu xin cho Lý Địch vào lúc này.

Càng lạ hơn nữa là Triệu Trinh lại bĩnh tĩnh lại, hỏi:

-Địch Thanh, sao ngươi lại biết là Lý Địch không cố ý lừa dối?

Một lời của Địch Thanh đã nói ra, không cách gì thu lại được nữa, chỉ có thể phóng lao theo lao mà nói:

-Thánh thượng, thần nghĩ việc Lý đại nhân không nói ra sự thật, là vì muốn bảo vệ cho Thánh thượng. Ông ấy sợ nói ra rồi, ngược lại sẽ bất lợi cho Thánh thượng!

Lý Địch nhìn Địch Thanh với ánh mắt đầy kinh ngạc, biểu cảm trong ánh mắt vào thời điểm đó hết sức phức tạp.

Triệu Trinh không hỏi tiếp nữa, hắn đương nhiên nghe ra ẩn ý đằng sau lời nói của Địch Thanh.

Có Thái hậu giật dây, ai dám nói ra chuyện này, dồn ép Thái hậu, chẳng những thần tử có chuyện, mà e rằng ngay cả thiên tử cũng khó giữ được tính mạng.

Một lúc lâu sau, Triệu Trinh thở dài nói:

-Địch Thanh, ngươi nói phải lắm, suýt nữa thì trẫm đã trách lầm ân sư.

Nói đoạn tiến tới đỡ Lý Địch dậy, áy náy nói:

-Ân sư, trẫm nhất thời hồ đồ, hiểu sai ý tốt của người, người đừng trách trẫm.

Lý Địch kích động nước mắt chảy dài, lẩm bẩm nói:

-Thánh thượng… lão thần không dám. Thánh thượng anh minh, tiên đế trên trời có linh thiêng cũng có thể yên tâm rồi. Năm xưa tiên đế dặn dò lão thần chăm sóc Thánh thượng, nhưng lão thần bất tài, đã phụ thánh ân rồi.

Vừa nói vừa nghẹn ngào nức nở, khóc đến thương tâm.

Triệu Trinh thấy Lý Địch bộc lộ tình cảm chân thành như vậy, khóe mắt cũng ướt nhòe, hồi lâu sau mới nói:

-Nhưng chỉ dựa vào lời nói của Bát vương gia và ân sư, trẫm vẫn cảm thấy chuyện này thật khó tin…

Lý Địch nức nở nói:

-Thánh thượng, năm đó Lã tướng cũng ở trong cung, cũng biết chuyện này. Không chỉ Lã tướng biết, mà bên cạnh Thánh thượng còn có một người khác nữa cũng biết.

Tim Địch Thanh giật thót , thầm nghĩ chắc không phải Lý Địch biết là ta biết đấy chứ? Chẳng ngờ Lý Địch nói:

-Điện tiền thị vệ Lý Dụng Hòa cũng biết chuyện này.

Triệu Trinh nhíu mày, kinh ngạc nói:

-Lý Dụng Hòa? Chuyện bí mật lớn như thế này, làm sao ông ta lại biết? Triệu Lý Dụng Hòa, Lã Di Giản vào cung kiến giá.

Rồi như đột nhiên nghĩ ra chuyện gì, sắc mặt Triệu Trinh tái nhợt, nhìn chằm chằm vào Lý Địch, nói:

-Mẹ đẻ của trẫm không phải Thái hậu, vậy là ai?

Một hồi lâu Lý Địch mới nói:

-Thần chỉ biết, người đó họ Lý, vốn là một Thuận Dung.

Thân hình Triệu Trinh lảo đảo, vịn lấy hương án, đưa mắt nhìn Địch Thanh, trong ánh nhìn đó có một mối thương cảm không thể diễn tả bằng lời.

Khi nghe thấy ba chữ Lý Thuận Dung, hắn lại nhớ lại chuyện ở lăng Vĩnh Định. Nghe thấy ba chữ Lý Thuận Dung, hắn bèn hiểu ra tại sao Lý Dụng Hòa lại biết chuyện này.

Mắt hắn đã có nguồn sáng.

Hóa ra cái người phụ nữ nhìn hắn với ánh mắt tuyệt vọng và nồng hậu đó chính là mẹ đẻ của hắn! Hóa ra cái người phụ nữ bất chấp tính mạng để cứu hắn, che chắn cho hắn lúc nguy nan đó chính là mẹ đẻ hắn! Hóa cái người bao nhiêu năm nay cô đơn một mình trông coi lăng Vĩnh Định, ngước nhìn ngưỡng mộ sự huy hoàng vô biên của hắn chính là mẹ đẻ hắn!

Triệu Trinh không nghi vấn, không hoài nghi gì nữa. Mọi sự nghi hoặc ban đầu đều đã được giải đáp, máu mủ tình thâm, chỉ có mẹ đẻ mới đối xử với hắn như thế, còn cần lý do gì nữa?

Hóa ra hắn đã từng gặp mẹ đẻ của mình, nhưng lại coi như người xa lạ…

Khoảnh khắc đó, nước mắt Triệu Trinh tuôn chảy như mưa.

Địch Thanh thấy Triệu Trinh nhìn hắn mà rơi lệ, thì chỉ biết cúi đầu, không biết nói gì hơn.

-Địch Thanh, ngươi cũng biết việc này, đúng không?

Giọng nói của Triệu Trinh mờ ảo khó dò:

-Bằng không lúc nãy ngươi sẽ không mở lời biện bạch cho Lý Địch. Trẫm còn chưa tin, thế mà ngươi lại tin vào chuyện này, căn bản không hề hoài nghi.

Trong lòng Địch Thanh khẽ run, nhớ tới người phụ nữ mong manh như bông hoa trong mưa đó. Nhớ tới lời bà từng nói: “Địch Thanh, ta chỉ muốn cầu xin ngươi, nếu sau này có thể thì hãy cùng Ích Nhi đến lăng Vĩnh Định một lần nữa, mời Ích Nhi đến trước mộ ta nói vài câu, là ta cảm tạ ơn đức lắm rồi”.

-Sao ngươi không nói gì? Có phải ngươi đã sớm biết rồi không?

Triệu Trinh xông đến, túm lấy cổ áo Địch Thanh, gào lên khản đặc:

-Tại sao ngươi không nói cho ta biết sớm? Tại sao? Tại sao mọi người đều biết chuyện này, duy chỉ có trẫm là không biết? Tại sao?

Hai mắt Triệu Trinh vằn đỏ, đau buồn quá mà thành phẫn nộ, đau lòng quá mà ra oán trách.

Địch Thanh để mặc Triệu Trinh túm lấy cổ áo mình, đột nhiên ngẩng đầu lên, nói:

-Không sai, ta biết, ta vốn định sẽ nói cho người biết, nhưng lệnh đường không cho.

Triệu Trinh ngơ ngẩn, hai lưng bàn tay nổi đầy gân xanh, gằn từng chữ:

-Ngươi nói cái gì, mẹ ta không cho ngươi nói?

Địch Thanh trấn tĩnh lại, thận trọng nói:

-Đúng vậy, lệnh đường không cho. Bà ấy từng nói với ta, chỉ cần Thánh thượng khỏe, thì bà ấy có thế nào cũng không sao. Để cầu mong cho sự bình an của Thánh thượng, thậm chí bà ấy còn nói, kể cả sau khi Thái hậu băng hà, cũng không cần nói chuyện này với Thánh thượng. Bà ấy nói hết mọi chuyện với ta, chẳng qua là muốn ta nếu như có thể, thì một ngày nào đó sẽ đưa Thánh thượng đến trước mộ bà ấy nói vài lời, là bà ấy mãn nguyện rồi. Bà ấy cũng là muốn tốt cho người, ta làm sao lại có thể đi ngược lại tâm ý của lệnh đường?

Triệu Trinh buông tay ra, hồn siêu phách lạc thối lui vài bước, trong ánh mắt vừa có vẻ xin lỗi vừa có vẻ bi thương, rồi đột nhiên dựa vào hương án khóc lớn, nước mắt như mưa.

Mọi người đều yên lặng không nói năng gì, muốn khuyên nhưng không biết nói gì.

Tiếng bước chân vang lên, một người theo cung nhân bước vào, đầu cúi gằm.

Địch Thanh nhìn qua bèn nhận ra người đó là Lý Dụng Hòa, nhưng suýt chút nữa lại nghĩ rằng mình nhận lầm.

Lý Dụng Hòa vốn là điện tiền thị vệ, thân hình cường tráng, nhưng người bước vào đó dáng dấp cô độc, gầy gò.

Lý Dụng Hòa tiều tụy vô cùng, trên người hắn còn có mùi rượu nồng nặc. Địch Thanh thấy vậy, lòng hơi chùng xuống, cảm thấy có chút không ổn, hắn quay đầu nhìn sang Bát vương gia, thấy ánh mắt ông ta nhìn Lý Dụng Hòa cũng tràn đầy thương cảm, không khỏi nhớ lại lời Lý Thuận Dung từng nói trước kia: “khi ta còn sống tuyệt đối không được nói bí mật này với nó. Lần này Ích Nhi về kinh, chắc chắn là sẽ không quay lại nữa, ta cũng chẳng còn sống được mấy ngày nữa rồi…”

Địch Thanh hiểu ra vấn đề, trong lòng run lên.

Diêm Văn Ứng thấp giọng nói:

-Thánh thượng, Lý… thị vệ đến rồi.

Ông ta biết thân phận của Lý Dụng Hòa không phải bình thường, giọng điệu cũng tỏ ra khách khí vài phần.

Triệu Trinh đột nhiên xoay người, xông tới ôm lấy Lý Dụng Hòa, khan giọng gọi:

-Cậu!

Suốt cả đời này của hắn cũng chưa từng rơi lệ nhiều đến thế. Hắn ôm lấy Lý Dụng Hòa, khắp người run rẩy như chiếc lá khô trong gió lạnh.

Đây là một người thân hiếm hoi của hắn trên cõi đời này.

Lý Dụng Hòa đứng đờ ra như một khúc gỗ, dường như bị sợ hãi đến sựng người, lại dường như vẫn còn đang mơ hồ, một lúc lâu sau mới vỗ vỗ lên lưng của Triệu Trinh, thấp giọng nói:

-Thánh thượng… người… đừng khóc nữa.

Ông ta nói như vậy, nhưng ngược lại, bản thân lại rơi nước mắt.

Những người chứng kiến cảnh đó ai nấy đều thương tâm, Lã Di Giản cũng đã đến, thấy cảnh tượng trước mắt, sắc mặt có chút biến đổi.

Triệu Trinh nức nở nói:

-Cậu, người bảo trẫm làm sao mà không đau lòng cho được? Hai mươi mấy năm nay, trẫm chỉ gặp được mẫu thân có một lần!

Dường như hắn đột nhiên nghĩ ra chuyện gì, nắm chặt lấy hai vai Lý Dụng Hòa, gấp gáp nói:

-Mẹ ta đâu? Có phải người vẫn còn ở lăng Vĩnh Định không? Trẫm phải đi đón người về.

Lý Dụng Hòa giàn giụa nước mắt, trong mắt có một nỗi bi thương sâu xa, ông ta thối lui một bước, thấp giọng nói:

-Mẹ của người… bà ấy đã đi rồi.

Triệu Trinh nghe như sấm nổ bên tai, run giọng nói:

-Đi rồi? Đi…rồi?

Hắn đột nhiên như hiểu ra, khản giọng nói:

-Không đâu, cậu, người gạt ta! Mẫu thân vẫn còn trẻ, còn trẻ hơn Thái hậu nhiều. Thái hậu mới ra đi, sao bà lại ra đi trước được?

Lý Dụng Hòa nhìn Triệu Trinh hồi lâu, đoạn mới nói:

-Thánh thượng, ta không gạt người.

Ông ta cúi đầu, thần sắc ảm đạm, dường như không muốn để cho những người xung quanh nhìn thấy gương mặt rơi lệ của mình nữa.

Địch Thanh đứng một bên thấy vậy, trong lòng đột nhiên cảm thấy có chút kỳ lạ. Theo lý mà nói, việc Lý Dụng Hòa và Triệu Trinh nhận ra nhau vốn là chuyện vui, nhưng tại sao Lý Dụng Hòa lại tỏ ra xa cách với Triệu Trinh đến vậy? Rồi hắn lại nghĩ, chắc Lý Dụng Hòa đang đau thương vì cái chết của chị gái, nên mới như vậy, cũng không nghĩ tiếp nữa.

Bát vương gia ở bên cạnh đau thương nói:

-Thánh thượng, lệnh đường quả thực là đã ra đi từ nửa năm trước. Cho nên thần mới liều chết nói rõ chân tướng, chỉ mong trong lúc Thánh thượng lo việc hậu sự cho Thái hậu, cũng nhớ để tang cho mẹ đẻ mình.

Triệu Trinh cả giận nói:

-Ngươi nói láo, sao mẹ ta lại vô duyên vô cớ mà ra đi như thế?

Bát vương gia trả lời:

-Nếu Thánh thượng không tin, có thể hỏi Lã tướng.

Lã Di Giản vẫn giữ vẻ trầm lạnh thường ngày, nhưng trong mắt đã có chút thận trọng. Thấy ánh mắt Triệu Trinh dồn đến, Lã Di Giản cẩn thận nói:

-Hồi bẩm Thánh thượng, Bát vương gia nói không sai. Lý… nương nương, bà ấy… đã từ trần từ nửa năm trước. Hiện giờ di thể đang để ở Hồng Phúc Viện.

Triệu Trinh bước tới trước một bước, nhìn Lã Di Giản bằng ánh mắt giận dữ, nói:

-Vậy tại sao hôm nay ngươi mới nói?

Trong lòng Lã Di Giản lấy làm kinh hãi, nhưng vẫn trầm tĩnh đáp:

-Thánh thượng bớt giận, thần chẳng qua cũng chỉ là phụng chỉ mà làm thôi.

-Hay cho câu “phụng chỉ mà làm”!

Triệu Trinh ngửa cổ lên trời cười bi thương, hai hàng lệ tuôn dài, tiếng cười vừa ngớt, Triệu Trinh quát:

-Bãi giá Hồng Phúc Viện, trẫm muốn nhìn thấy di dung của mẫu thân. Sao mẫu thân lại chết như vậy? Diêm Văn Ứng!

Diêm Văn Ứng lao tới, nói:

-Có thần!

Triệu Trinh nghiến răng nói:

-Truyền chỉ ý của trẫm, lệnh cho Cát Hoài Mẫn đem quân bao vây phủ đệ của Lưu Mỹ. Bây giờ trẫm phải đi thăm mẫu thân, nếu như người là bị hại mà chết, thì lập tức truyền lệnh, chém đầu cả nhà họ Lưu!

Nếu Lý Thuận Dung chết không được yên, thì chắc chắn là do Lưu Thái hậu hãm hại. Ẩn ý ở trong lời nói của Triệu Trinh là, hắn sẽ không làm gì Thái hậu, nhưng người nhà của Thái hậu sẽ không ai có kết cục tốt đẹp.

Mọi người sợ hãi, nhưng thấy hai mắt Triệu Trinh đằng đằng sát khí, không ai dám khuyên can.

Diêm Văn Ứng vội vàng lui ra, Triệu Trinh cũng xuất cung, không quên dặn dò:

-Địch Thanh, ngươi theo ta!

Địch Thanh ớn lạnh, không ngờ Thái hậu vừa mới chết, trong cung chớp mắt lại phải đối mặt với một trận gió tanh mưa máu.

Triệu Trinh xuất cung lên xe Ngọc Lộ, dưới sự hộ vệ của cấm quân, đi thẳng đến Hồng Phúc Viện.

Thiên tử tức giận, quần thần sợ hãi. Tin tức này vừa mới được truyền đi, khiến các quần thần vừa mới rời đi nhao nhao quay lại, nhắm thẳng hướng Hồng Phúc Viện mà đến.

Khi gần đến Hồng Phúc Viện, Triệu Trinh đột nhiên nói:

-Dừng xe.

Mọi người còn chưa hiểu chuyện gì, thì Triệu Trinh đã xuống xe, đi bộ đến Hồng Phúc Viện, trong lòng hắn nghĩ: “mẫu thân, con bất hiếu, con đến đây”.

Đến giờ quần thần mới hiểu, Triệu Trinh muốn lấy thân phận là con đẻ chứ không phải thiên tử để đi bái kiến mẹ mình, mọi người vừa dưng dưng vừa kinh hãi. Ai nấy đều nghĩ, Thiên tử thương nhớ mẹ đẻ mình đến vậy, nếu quả thật Lý Thuận Dung chết không được yên, chỉ e rằng khi cơn giận của Thiên tử giáng xuống, không chỉ sẽ cho chu di cửu tộc nhà họ Lưu, mà thậm chí sẽ đại khai sát giới với ngay cả những quần từng thần từng có qua lại lấy lòng Thái hậu năm xưa.

Thái hậu buông rèm nhiếp chính bao nhiêu năm nay, trong triều ngoại trừ vài người ít ỏi như bọn Phạm Trọng Yểm ra, còn có ai mà không từng qua lại lấy lòng Thái hậu?

Trong lúc các quần thần đang hết sức lo sợ, Triệu Trinh đã đến Hồng Phúc Viện.

Cung nhân nghe Thánh thượng đến, sớm đã chạy ra dẫn đường, đưa Triệu Trinh đến một gian đại điện. Đại điện cô độc như phần mộ, không lấy gì làm xa hoa. Ngay giữa điện đặt một cỗ quan tài cô độc, cô độc như Lý Thuận Dung lúc còn sống.

Triệu Trinh không kìm nén nổi nỗi đau thương, quỳ gối mà lết tới, đến bên quan tài của mẫu thân, ôm lấy mà kêu khóc thất thanh.

Quần thần không dám khuyên nhủ, chỉ có thể quỳ lạy theo. Một lúc lâu sau, cuối cùng Triệu Trinh cũng đứng dậy, nhìn cỗ quan tài đó nói:

-Mở quan tài, trẫm muốn nhìn thấy mặt mẫu thân.

Lã Di Giản ở bên cạnh nói:

-Thánh thượng… kinh động vong linh của Thần phi e là không nên.

Thì ra sau khi Lý Thuận Dung chết đi, Lưu Thái hậu đã sắc phong cho Lý Thuận Dung làm Thần phi.

Triệu Trinh nghe thấy hai chữ Thần phi, thầm nghĩ, đến trước khi chết mẫu thân ta cũng chẳng qua chỉ là thân phận một Thần phi, cơn giận lại càng bốc lên:

-Có người mẹ nào lại không muốn gặp con sao?

Lã Di Giản khẽ cau mày, nhưng thấy Triệu Trinh lửa giận bừng bừng nên cũng không nói gì thêm, chỉ im lặng.

Triệu Trinh lại thầm nghĩ “năm xưa Lã Di Giản cũng giúp cho trẫm rất nhiều, nhưng Thái hậu ra đi rồi, ông ta ngược lại lại trở nên rụt rè do dự, khiến trẫm ngứa mắt”. Hắn chẳng buồn nói nhiều với Lã Di Giản, khoát tay một cái đã có các cung nhân bước lên, hiệp lực mở nắp quan tài.

Một tiếng “kẹt” vang lên, trái tim của mọi người đều muốn nhảy cả lên.

Nắp quan tài mở ra, Triệu Trinh đưa mắt nhìn vào, sắc mặt có chút khác thường.

Người nằm trong quan tài chính là Lý Thuận Dung, nhưng sắc mặt của Lý Thuận dung nhìn sống động như lúc sinh thời, bình tĩnh nằm trong quan tài. Các vật phầm tùy táng đều được xử lý theo quy cách giành cho Thái hậu, ngay cả trên người Lý Thuận Dung cũng mặc phục sức giành cho Thái hậu. Bất luận là ai mà nhìn thấy di dung của Lý Thuận Dung, đều cảm thấy cái chết của bà không hề phải chịu một chút tổn hại nào dù là nhỏ nhất.

Triệu Trinh đứng đờ ra như khúc gỗ hồi lâu, quay đầu đưa mắt nhìn Diêm Văn Ứng.

Diêm Văn Ứng luôn đi theo bên cạnh Triệu Trinh, thần sắc lúc nào cũng tỏ ra bất an, thấy Triệu Trinh nhìn qua, nơm nớp lo sợ nói:

-Thánh thượng, xem ra Thái hậu cũng không bạc đãi Lý nương nương.

Trong lòng Triệu Trinh cảm khái muôn phần, cơn giận bừng bừng cũng tiêu tan, bao ưu tư khó nói dồn cả lên đầu. Chuyện cũ cuồn cuộn hiện về, từng hình ảnh nối nhau không ngớt.

Các quần thần thấy sắc mặt Triệu Trinh lúc sáng lúc tối, lòng dạ cũng thấp thỏm theo không ngớt. Chẳng biết bao lâu sau, Triệu Trinh mới thở dài một tiếng, nhìn Bát vương gia một cái như có điều gì muốn nói, lẩm bẩm nói:

-Lời người làm sao mà tin cả được? Đại nương nương không bạc đãi mẫu thân ta.

Quay đầu sang phía Diêm Văn Ứng nói:

-Diêm Văn Ứng, truyền ý chỉ của trẫm, lệnh những binh sỹ ở phủ đệ Lưu Mỹ rút lui… về cả đi. Địch Thanh, ngươi ở lại.

Các quần thần không khỏi trút được tiếng thở phào, tuy có cảm thấy Triệu Trinh đối với Địch Thanh có hơi quá thân thiết, nhưng lúc này không tiện làm trái ý Thiên tử, ai nấy lòng đầy nghi hoặc mà lui ra.

Địch Thanh cũng không hiểu vì sao Triệu Trinh giữ lại một mình hắn, tuy hắn cũng thương cảm cho cái chết của Lý Thuận Dung, nhưng hắn còn nóng lòng đi tìm Bát vương gia để hỏi về di ngôn của Lưu Thái hậu hơn. Nhưng nhìn thấy Triệu Trinh một mình cô đơn đứng bên quan tài của Lý Thuận Dung, hết sức thê lương, rốt cục Địch Thanh cũng cố nén được cơn sốt ruột, ở lại bầu bạn bên cạnh Triệu Trinh.

Rất lâu sau, Triệu Trinh không quay người lại, chỉ lầm bầm nói:

-Địch Thanh, năm xưa trẫm gặp nạn, ở bên cạnh trẫm có mẫu thân, còn có cả ngươi… ngươi vì trẫm mà bất chấp sống chết, nhưng ngược lại lại do trẫm mà mất đi người phụ nữ mà ngươi yêu thương nhất. Lúc đó nhìn thấy hành động điên cuồng của ngươi, trẫm rất bất an, trẫm thật không phải với ngươi.

Địch Thanh nghe Triệu Trinh nhắc lại chuyện cũ, trong lòng cảm thấy chua xót, thấp giọng nói:

-Thánh thượng… có lẽ đó là số mệnh của thần.

Đột nhiên hắn lại nghĩ, nếu không làm thị vệ cho Triệu Trinh, hắn chẳng qua chỉ là một cấm quân bình thường, có lẽ đời này sẽ không phải khổ não như vậy. Rồi lại nghĩ, nếu căn bản hắn không tòng quân, Dương Vũ Thường không gặp hắn, thì cũng sẽ không gặp phải kiếp nạn này.

Nghĩ đến đây, Địch Thanh lại không khỏi đau lòng.

Triệu Trinh không nhìn Địch Thanh, chỉ tự nói một mình:

-Có lúc trẫm nghĩ, nếu trẫm chỉ là một người bình thường, thì có lẽ… sẽ vui vẻ hơn nhiều.

Địch Thanh ớ người, không ngờ Triệu Trinh lại có cùng suy nghĩ với hắn.

Triệu Trinh nhìn Lý Thuận Dung đang nằm trong quan tài kia, mi mắt lại hoen ướt, thấp giọng nói:

-Nhưng ta là Thiên tử, ta không có lựa chọn nào khác, ta xin người tha thứ cho… ta biết là người nhất định sẽ tha thứ cho ta, đúng không?

Địch Thanh có chút kinh ngạc, không biết là Triệu Trinh đang nói với ai? Nói với Địch Thanh hắn sao? Vụ việc cung biến xảy ra đột ngột, Triệu Trinh đâu cần phải tự trách như vậy.

 Chương 208 - 214: Lời thề

Toàn thân Triệu Trinh run rẩy, đột nhiên quay phắt người, chộp lấy hai vai Địch Thanh, ánh mắt tràn ngập vẻ áy náy day dứt, khản giọng nói:

-Địch Thanh, ngươi hiểu mẫu thân ta nhất. Ngươi nói xem, người sẽ không trách ta đâu, đúng không? Người nhất định sẽ tha thứ cho đứa con bất hiếu này, đúng không?

Thấy vẻ mặt Địch Thanh đầy kinh ngạc, Triệu Trinh hỏi dồn:

-Ngươi nói đi, ngươi nói đi!

Địch Thanh cảm thấy Triệu Trinh có chút thất thường, trong lòng khiếp hãi, lớn tiếng nói:

-Thánh thượng, lệnh đường chắc chắn sẽ không trách người. Người luôn một lòng muốn tốt cho Thánh thượng, người hiểu là Thánh thượng không hề biết chuyện. Người sẽ không trách Thánh thượng đâu, tuyệt đối sẽ không trách đâu!

Thân hình Triệu Trinh chấn động, vẻ mặt đầy sầu thảm, lầm bầm nói:

-Đúng vậy, ta không biết chuyện, người sẽ không trách ta đâu. Ta không biết chuyện, người sẽ không trách ta…

Hắn cứ lặp đi lặp lại câu nói đó, thần sắc hoảng hốt, sắc mặt tái nhợt, đột nhiên lại quay người đổ nhào xuống bên quan tài, khóc rống lên.

Nến trắng lệ trong, khóc than thiên hạ ấm lạnh; đêm lạnh đông tuyết, thờ ơ múa khúc biệt ly.

Một trận gió thổi vào, mang theo tuyết, lờn vờn xoáy thổi, Địch Thanh nhìn cảnh tuyết bay dưới ánh nến trắng như thế, không biết tại sao, trong lòng đột nhiên ớn lạnh.

Cơn ớn lạnh đó hòa cùng gió tuyết bên ngoài, khiến Địch Thanh không khỏi rùng mình. Tuyết càng lạnh, trời càng lạnh, thì ra Biện Kinh sớm đã vào độ đông giá…

Tuyết vẫn rơi, lúc Địch Thanh đến phủ đệ của Bát Vương Gia, trời tối đen như mực.

Bát Vương Gia vẫn chưa ngủ.

Ông lặng lẽ ngồi trong sảnh, nhìn bức bình phong đen sậm trong sảnh, lòng tràn đầy sự cô độc.

Địch Thanh lần đầu tiên đến phủ đệ của Bát Vương Gia, cảm thấy có chút kỳ lạ về sự lạnh lẽo trong phủ. Người mở cửa là một lão già, tuổi già trôi qua như năm tháng. Địch Thanh biết đó là quản gia của Triệu phủ, năm đó chính là người quản gia này đưa Bát Vương Gia tới cho Địch Thanh làm chứng mới giúp cho Địch Thanh miễn khỏi đại nạn.

Khi Triệu quản gia nhìn thấy Địch Thanh thì cũng không nói nhiều lời, chỉ chỉ về hướng xa xa nơi sảnh đường. Nơi đó, chiếc đèn lạng lẽ cháy trong đêm tuyết tràn đầy thanh lặng.

Địch Thanh yên lặng bước tới

trước mặt Bát Vương Gia, nhưng cũng không hỏi nhiều, chỉ yên lặng chờ đợi Bát Vương Gia nói ra những lời trăn trối của Lưu Thái Hậu.

Có rất nhiều chuyện Địch Thanh không muốn suy đoán, hắn chỉ muốn có một đáp án là đủ rồi.

Con người không vì hiểu biết ít mà phiền não, mà hoàn toàn là vì biết quá nhiều. Địch Thanh đã hiểu được đạo lý này, do đó lúc Triệu Trinh đau khổ khóc lóc, hắn chỉ im lặng đi cùng. Triệu Trinh khóc mệt rồi thì quay về nghỉ tạm, hy vọng trong lòng Địch Thanh tan biến, hắn cảm giác được Bát Vương Gia chắc chắn sẽ không ngủ, hắn đoán đã không sai.

Bát Vương Gia bình tĩnh nhìn Địch Thanh, chỉ lấy tay chỉ chỉ vào cái ghế đối diện, lại chỉ chỉ vào ấm trà trên bàn.

Địch Thanh ngồi xuống, tự lấy cho mình một chén trà đầy, giơ lên làm hiệu. Bát Vương Gia gật gật đầu, cùng uống với Địch Thanh một chén. Sau khi đặt chén trà xuống, Bát Vương Gia nói:

-Địch Thanh, chúng ta vốn gặp mặt nhau không được mấy lần, nhưng ta biết ngươi là người rất đáng tin cậy, vì vậy có rất nhiều chuyện ta có thể nói với ngươi.

Địch Thanh đặt chén trà xuống, vốn định nói mình không xứng đáng được tin cậy, nếu không Vũ Thường đã không trở thành bộ dạng ngày nay, nhưng hắn cuối cùng lại không nói gì nữa.

Bát Vương Gia nhìn nét mặt ảm đạm của Địch Thanh, lâu sau mới thở dài nói:

-Thái Hậu nói không sai, Ngũ Long chính là vật của Hương Ba Lạp.

Lòng Địch Thanh trỗi dậy, nhưng Bát Vương Gia bình tĩnh nói:

-Ngũ Long đang ở trên người ngươi, phải không?

Trong lòng Địch Thanh hơi run run, mốt lúc sau mới đáp:

-Đúng vậy, bá phụ, người cần Ngũ Long sao?

Bát Vương Gia lắc lắc đầu:

-Bây giờ không cần, nhưng có thể sau này sẽ cần dùng đến. Nhưng rốt cuộc liệu có thể dùng được hay không, ta cũng không biết.

Ông nói lung tung, biết là Địch Thanh không hiểu, liền giải thích:

-Ta biết Hương Ba Lạp là một nơi vô cùng thần bí, ta cũng biết Ngũ Long tới từ Hương Ba Lạp. Nhưng có Ngũ Long rồi, không chắc có thể tìm được Hương Ba Lạp. Nếu không thì năm đó Tiên đế giữ Ngũ Long trong tay bao nhiêu năm, biết rằng nó rất kỳ dị. Nhưng sự kỳ dị này không phải ai cũng có thể cảm nhận được.

Địch Thanh lần đầu tiên nghe có một người phân tích rõ ràng về Ngũ Long như vậy, không kìm nén được nói:

-Như vậy là Tiên đế đã cảm nhận được sự kỳ dị của Ngũ Long rồi sao?

Hắn thực lòng cũng muốn hỏi Bát Vương Gia có cảm nhận được sự kỳ lạ của Ngũ Long hay không?

Bát Vương Gia khổ sở nói:

-Người đương nhiên là cảm nhận được. Nếu không phải vì năng lực cảm thụ sự thần bí của Ngũ Long, thì làm sao người có thể bị điên cuồng si mê thần tiên như vậy được?

-Vậy Người đã cảm nhận được cái gì?

Địch Thanh lo sợ bất an hỏi lại.

Bát Vương Gia trầm ngâm hồi lâu, lúc này mới suy tư nói:

-Theo như những gì ta biết được Người có ít nhất hai lần cảm nhận được sự khác thường từ Ngũ Long. Lần thứ nhất, Người nằm mơ thấy một ngọn núi bị thiêu trụi, trên núi có ánh sáng, trong ánh sáng đó có người nói với Người là muốn dạy Người thiên thu vạn đại, cách bảo vệ cơ nghiệp mãi mãi.

Địch Thanh cau mày nói:

-Trên đời này làm gì có cái phương pháp này? Tiên đế chỉ là nhìn thấy trong mơ, không thể chính xác được.

Bát Vương Gia nhìn tuyết bay bay ngoài sân, không để ý tới phản ứng của Địch Thanh, lẩm bẩm nói:

-Lần cảm ứng thứ hai, tuy là hoang đường mà lại xảy ra thật sự.

-Là cảm ứng gì?

Địch Thanh vội hỏi.

Ánh mắt Bát Vương Gia tràn đầy vẻ hoang mang, thậm chí có đôi chút sợ hãi, lâu sau mới thốt ra bốn từ: “Mười lăm tháng Tám”

“Mười lăm tháng tám?”. “Mười lăm tháng tám” là cái gì?

Địch Thanh run run, nhớ lại lúc đó Quách Tuân đã nói tới bốn từ này trước mặt Lưu Thái Hậu. Lúc Quách Tuân nói xong bốn từ này, hình như thái độ của Thái Hậu có thay đổi.

Bởi vì “mười lăm tháng tám” cho nên Quách Tuân, Triệu Nguyên Nghiễm, Tiên Đế đều tin Hương Ba Lạp?

“Mười lăm tháng tám”, đó rốt cuộc chỉ là một ngày, hay đó là một ký hiệu? vì sao lại có sự thần kỳ này?

Thần sắc Bát Vương Gia mơ hồ tựa như tuyết rơi, lẩm bẩm nói:

-“Mười lăm tháng tám” rất đơn giản, đêm đó là đêm trăng tròn, hoa quế đang thơm, hương thơm ngạt ngào luôn khiến người ta rất dễ mất đi bản tính.

Trong lòng Địch Thanh lo lắng, không hiểu vì sao Bát Vương Gia lại nói tới những điều này.

Trong lòng Bát Vương Gia thì lại đang nghĩ, đêm đó, ta và Thái Hậu một đêm phong tình, là vì hương hoa… hay là bởi lửa lòng? Hay là…. Ông không nghĩ tiếp nữa, khóe miệng nở nụ cười giễu cợt. Sau đó Bát Vương Gia buồn bã nói:

-Ngày hôm đó, ta bị triệu vào cung, Tiên đế đối với ta rất tốt, chuyện gì Người cũng vui vẻ thương luợng cùng ta. Ngày hôm đó Người rất hưng phấn, nói với ta ông trời sẽ ban cho ta một đứa con trai. Tiên đế trước đó cũng từng có một người con, nhưng bị chết yểu. Người luôn vì chuyện kế thừa nghiệp đế mà phát sầu, nhưng ngày hôm đó Người rất tự tin, nói là đêm đó Người sẽ có con trai.

Địch Thanh trợn tròn đôi mắt, miệng há hốc, hồi lâu sau mới hỏi:

-Thế kết quả?

-Kết quả đêm đó Ngũ Long xuất hiện kỳ dị.. cụ thể thế nào ngươi thực ra có thể hỏi Quách Tuân, bởi vì khi đó Quách Tuân cũng có mặt. Sau này ta nghe nói, đêm đó Tiên đế sủng hạnh Lý Thuận Dung, ở cùng với nàng… Sau đó thì Lý Hạnh Dung có cốt nhục của Tiên đế, cũng chính là đương kim thiên tử.

Địch Thanh không hết ngạc nhiên, đột nhiên nhớ lại năm đó lúc ở lăng Vĩnh Định, Lý Thuận Dung từng nói: “Tiên đế say đắm, sùng bái nói tu tiên, có một ngày Người uống tiên đơn…bệnh điên đại phát, nói cái gì là ông trời nói sẽ cho Người một đứa con trai. Người điên cuồng đi lại trong cung, tìm được ta, sau đó ta…mang thai Ích nhi.”

Lúc đó Địch Thanh nghe thấy những lời kia nhưng lại không nghĩ gì nhiều, bây giờ kiểm chứng lại, những lời nói của Lý Thuận Dung thấy có chút không khớp. Nhưng rất hiển nhiên, Bát Vương Gia nói càng thêm tỉ mỉ, xác thực, đáng tin cậy. Hắn không ngờ rằng Quách Tuân cũng biết biết chuyện này, thảo nào khi đó Quách Tuân ở trong huyền cung, biểu hiện lúc nhìn thấy Lý Thuận Dung có chút gì đó khác thường.

Quách Tuân sớm đã biết rằng mẹ đẻ của Triệu Trinh chính là Lý Thuận Dung?

Chuyện cũ đã qua, Địch Thanh hận một nỗi không thề lập tức tìm Quách Tuân để hỏi cho rõ ngọn ngành. Có thể số phận không thể nắm chắc được, hắn ở Biện Kinh mà Quách Tuân thì lại ở Tây Bắc.

Bát Vương Gia khẽ thở dài, trong lòng đang nghĩ, đêm đó Lưu Nga cũng không chịu được sự lạnh lùng của Tam ca, vốn đã muốn ngăn cản Tam ca tin vào thần linh, kết quả bị Tam ca bạt tai mạnh một cái. Đó là lần đầu tiên Tam ca đánh Lưu Nga, cũng là lần cuối cùng. Dưới gốc cây Hoa Quế thơm hương đó, nàng đã gặp ta, khóc lóc kể lể những oan ức của nàng. Đêm đó gió rất nhẹ, hoa lại quá thơm, ta nghe nàng khóc lóc kể lể, vì sao thì….

Nghĩ đến đây ông mỉm cười, lại nghĩ, nghĩ những chuyện này thì có tác dụng gì, Lưu Nga chết rồi, sau khi nàng chết ta sẽ lập tức vạch trần những âm mưu của nàng. Ta đang hận nàng sao? Nàng chết thì cũng đã chết rồi, ta còn làm những chuyện đó thì cũng có tác dụng gì nữa? Chẳng lẽ ta thực sự nói với nàng như vậy, chưa từng yêu nàng sao? Hừ..Ta không nói, sớm muộn cũng sẽ có người nói.

Địch Thanh suy tư hồi lâu, lúc này mới nói:

-Bởi vì chuyện “mười lăm tháng tám” nên Quách đại ca, Bá Phụ và Tiên đế đều tin chuyện Hương Ba Lạp?

Bát Vương Gia chậm rãi gật đầu nói:

-Không sai, ta vốn nửa tin nửa ngờ, nhưng những sự kỳ dị này khiến ta không thể không tin. Tiên đế nói với ta, Ngũ Long vốn là vật của Hương Ba Lạp, Hương Ba Lạp là nơi có thể thỏa mãn mọi nguyện vọng của con người. Đây vốn là lời nói vô căn cứ, ta cũng không tin. Nhưng sau đó, cuối cùng ta lại tin. Tiên Đế mãi không tìm ra Hương Ba Lạp, nhưng sức khỏe thì không ổn rồi, Người liền dựa theo tâm tư của chính mình, xây nên Lăng Vĩnh Định, mô phỏng thành hình dáng của Hương Ba Lạp, sưu tập các loại đồ vật cổ quái đặt ở trong lăng Vĩnh Định.

Địch Tha thần sắc hoảng hốt, nhớ đến năm cái cửa kỳ quái trong huyền cung, bên trong có Thiên Thu, Phật cốt, tượng phật không mặt…

Hắn tựa như mơ hồ nhớ ra điều gì, thấy Bát Vương Gia nhìn mình một cách kỳ quái, bất giác hỏi:

-Tiên đế đặt mấy thứ đó trong huyền cung để làm gì?

Khóe miệng Bát Vương Gia tràn đầy vẻ mỉa mai, thản nhiên nói:

-Ngươi còn không đoán ra sao?

Trong đầu Địch Thanh như có dòng điện chạy xẹt qua, bỗng nhiên đứng bật dậy, khóe mắt sáng lên, kêu lớn:

-Người hy vọng trường sinh, Người còn muốn sống lại!

Lời nói đã nói ra, Địch Thanh chỉ cảm thấy lưng ngực vã hết mồ hôi.

Đây thực sự là chuyện kỳ lạ hoang đường. Ngay lúc đó Địch Thanh nhớ lại rất nhiều, rất nhiều chuyện, và cũng hiểu rõ được rất nhiều chuyện.

Lúc trước ba người hắn, Triệu Trinh và Lý Thuận Dung vào huyền cung, nhìn thấy một dấu tay ở trên bàn đá. Địch Thanh nhớ là biểu hiện của Lý Thuận Dung không phải là hoảng sợ mà là khó mà tin được rằng lúc đó Lý Thuận Dung nói: “không thể nào, tuyệt đối không thể.”

Địch Thanh khi đó không hiểu, nhưng bây giờ nghĩ lại, ý của Lý Thuận Dung đương nhiên là Triệu Hằng tuyệt đối không thể sống lại.

Do đó Lý Thuận Dung vội vàng đi đến nơi để quan tài của Triệu Hằng, chính là muốn xác minh lại Triệu Hằng liệu có phải đã thoát ra. Thảo nào khi đó lòng hắn buồn bã, luôn luôn lo lắng đề phòng. Khi đó hắn cũng không biết vì sao lại sợ hãi, bây giờ thì hắn đã hiểu.

Nàng sợ Triệu Hằng trong quan tài chui ra.

Nàng vô cùng sợ hãi dấu tay người lưu lại là của Triệu Hằng.

Thảo nào có rất nhiều chuyện mà Lý Thuận Dung nói cứ ấp a ấp úng, lại nói cái gì : “Sau khi Trân Tông chết, nhất định sẽ rất lạnh lẽo, ông ta hy vọng Lý Thuận Dung thường xuyên lui tới với ông ta”.

Địch Thanh chỉ cảm thấy cổ họng khô rát, khổ sở nói:

-Hóa ra Lý Thuận Dung canh giữ lăng Vĩnh Định, không chỉ là vì canh giữ lăng. Bà ấy vẫn đợi có một ngày Chân Tông sống lại sẽ đi đón Chân Tông về. Lý Thuận Dung đương nhiên biết những chuyện này sao?

Bát Vương Gia gật gật đầu, giễu cợt nói:

-Không sai. Nàng cũng biết sơ sơ, nhưng nàng phần lớn là không tin. Tiên đế cho rằng thần thánh đã khiến cho Lý Thuận Dung vì Người mà sinh con trai, chứng tỏ Người và Lý Thuận Dung có duyên, cũng chính là có duyên với Hương Ba Lạp, lúc này mới lấy chuyện này ra để Lý Thuận Dung làm, nhưng mà.. Thái hậu đi rồi, Lý Thuận Dung cũng đi rồi…Trên đời này người biết những bí mật này ngoài ta và ngươi ra, Quách Tuân có thể cũng sẽ biết chút ít.

Bát Vương Gia ngừng lại, sau đó khẳng định nói:

-Chính là vì những chuyện này, ta khẳng định Hương Ba Lạp tồn tại, nếu không thì Ngũ Long từ đâu mà tới? Nhưng lăng Vĩnh định tuyệt đối không thể là Hương Ba Lạp.

Sắc mặt Địch Thanh như tro tàn, hồi lâu sau mới nói:

-Với khả năng của Tiên đế, nếu như vẫn không tìm thấy Hương Ba Lạp…

Bát Vương Gia cắt ngang lời Địch Thanh, trầm giọng nói:

-Địch Thanh, ngươi chắc là muốn nói, Tiên đế tìm không thấy thì chúng ta chắc chắn cũng không thể tìm thấy Hương Ba Lạp?

Thấy Địch Thanh buồn bã gật đầu, Bát Vương Gia lắc đầu nói:

-Ngươi sai rồi, muốn tìm Hương Ba Lạp, tuyệt đối không phải là dựa vào quyền thế địa vị, mà dựa vào duyên phận.

Địch Thanh thần sắc tiêu điều đáp:

-Cái duyên này kông phải là chuyện dễ dàng.

-Ngươi buông tay sao?

Bát Vương Gia đột ngột hỏi lại.

Địch Thanh chấn động, trong đầu lại hiện lên nụ cười nhẹ nhàng đó, nhan sắc tựa như hoa. Cầm nhanh chén trà, Địch Thanh hít một hơi thật sâu rồi nói:

-Ta hơn một năm nay, tìm quá nửa vùng Tây Bắc, bị gạt vô số lần, vẫn chưa thu hoạch được gì. Nhưng mà….Bá Phụ, ta sẽ không từ bỏ.

Hắn nói chắc như đinh đóng cột. Vẻ mặt tuấn tú kia tuy sớm có những thăng trầm, cô đơn, nhưng đa phần là sự cương nghị bất khuất.

Bát Vương Gia thở dài nói:

-Ngươi không có manh mối, nhưng ta thì đã có manh mối rồi.

Địch Thanh nửa mừng nửa lo, vội hỏi:

-Manh mối gì?

Bát Vương Gia nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói:

-Trước khi Thái hậu lâm chung từng nói “Ngũ long vốn là vật của Hương Ba Lạp, muốn tìm Hương Ba Lạp, nhất định phải…”. Câu nói này chính là manh mối.

Địch Thanh liên tục bị sự mập mờ của Ngũ Long hấp dẫn. Đến lúc này mới nhớ ra hôm nay tới đây chính là muốn hỏi lời trăn trối của Thái Hậu, nên lo sợ nói:

-Nhất định phải sao?

- Nhất định phải tìm được bản đồ.

Bát Vương Gia hít một hơi thật sâu, nói từng chữ, từng chữ một.

Địch Thanh cảm thấy trong đầu như có gì đó xẹt qua, như là mất đi cái gì đó vô cùng quý giá, không kìm được hỏi lại:

-Bản đồ gì?

-Bản đồ Hương Ba Lạp.

Bát Vương Gia nhẹ nhàng đáp.

-Ta đã tận dụng hết khả năng, cũng nghe được tin, có một người họ Tào trong tay có bản đồ Hương Ba Lạp, ta đã sai người đi mua, chỉ cần bản đồ tới tay, tìm Hương Ba Lạp không còn là chuyện gì vô căn cứ nữa cả. Bản đồ này tuyệt đối không phải là cái gì vô lý. Ta nắm chắc tám phần rằng bản đồ đó là thật.

Bỗng dưng nhìn thấy sắc mặt Địch Thaanh tái nhợt đi, Bát Vương Gia không kìm được vội hỏi:

-Địch Thanh, ngươi sao vậy?

Thiếu chút nữa Địch Thanh ngã nhào xuống bàn, hắn bỗng nhiên nhớ lại Chủng Thế Hành từng nói có một người họ Tào bán bản đồ Hương Ba Lạp, nhưng hắn căn bản không tin. Chẳng lẽ cái bản đồ đó chính là cái mà Bát Vương Gia nói?

Chẳng lẽ…cái bản đồ đó là thật?

Lúc hắn ở gần Hương Ba Lạp nhất, không ngờ lại gặp thoáng qua Hương Ba Lạp?

Địch Thanh kinh hồn bạt vía, mãi lâu sau mới nói lại lời của Chủng Thế Hành, rồi uể oải nói:

-Bá phụ, Ta vốn cho rằng Chủng Thế Hành lừa mình, không ngờ lời hắn nói là sự thật. Ta lập tức đi Tây Bắc tìm Chủng Thế Hành.

Bát Vương Gia có chút ngạc nhiên, lẩm bẩm nói:

-Kỳ quá, ta phải tốn bao công sức mới tìm được người họ Tào đó, Chủng Thế Hành sao có thể dễ dàng biết được thông tin này?

Ông trầm ngâm hồi lâu, lắc đầu nói:

-Hiền chất, ngươi chớ vội vàng, có lúc vội vàng sẽ gây phiền phức. Người ta phái đi đã xuất phát nhiều ngày rồi, chắc cũng đã quay về. Nếu ngươi đi Tây Bắc, không chừng lại để vuột mất.

Địch Thanh cau mày hỏi:

-Vậy bây giờ ta phải làm gì?

Bát Vương Gia thở dài nói:

-Đợi, ngoài chờ đợi ra, ta cũng không có cách nào hay hơn.

Địch Thanh chỉ có thể gật đầu, không kìm được lại hỏi:

-Bá phụ, họ Tào kia là ai? Vì sao người có thể chắc chắn rằng trong tay hắn có bản đồ Hương Ba Lạp?

Bát Vương Gia do dự nói:

-Ta đồng ý với hắn không thể tiết lộ lai lịch của hắn. Ta có thể khẳng định hắn có bản đồ Hương Ba Lạp cũng là rất có lý do, nhưng lý do này ta tạm thời không thể nói. Địch Thanh, ngươi hãy tin ta, sau này sớm muộn ta cũng sẽ nói.

Địch Thanh thấy Bát Vương Gia rất khó xử, cũng không tiện ép hỏi, nhưng vẫn còn một nghi vấn, lại hỏi tiếp:

-Nếu như Hương Ba Lạp trong truyền thuyết là thật, bản đồ kia cũng là thật, sao người đó không tự mình đi tìm Hương Ba Lạp để được đền bù tâm nguyện, mà ngược lại lại phải đem bán bản đồ đó đi?

Bát Vương Gia khẽ mỉm cười đáp:

-Mấu chốt trong chuyện này không khó giải thích, cũng giống như hiền chất ngươi, được coi là có khả năng bình định Tây Bắc, thế nhưng có tâm, có lực mà không có cơ hội. Cho dù có bản đồ, muốn tìm được Hương Ba lạp cũng không phải là chuyện dễ dàng. Người họ Tào kia, vốn là thế hệ sau của ân tộc vùng Tây Bắc, nghèo túng đến tận bây giờ, đã không còn có khả năng tìm được Hương Ba Lạp nữa.

Địch Thanh thở phào nhẹ nhõm, lẩm bẩm nói;

-Thì ra là như vậy, xem ra lúc này chỉ có thể chờ đợi mà thôi.

Tuyết bay, sương lạnh, mắt trời mọc rồi mặt trời lại lặn.

Địch Thanh tuy biết là phải chờ đợi, nhưng cũng không nghĩ rằng hắn ở Quách phủ để chờ mà chờ tới tận cuối xuân.

Địch Thanh ở Biện Kinh, chức quan nhàn hạ nên chẳng có việc gì. Nhưng mấy ngày tới Triệu Trinh sẽ tìm Địch Thanh vào cung tán gẫu về chuyện trị quốc.

Đó đã từng là vị quân vương do dự, bất lực, cuối cùng có thể tự mình độc quyền cai trị, dần dần quên đi những buồn thương trước đó, quên đi những chuyện dĩ vãng không vui, giữa hai đầu lông mày lúc nào cũng thấy có tinh thần thoải mái, sảng khoái.

Địch Thanh hôm nay lại được Triệu Trinh tuyên triệu, không nhịn được cau mày. Hắn biết rằng bản thân không có chút hứng thú nào với những chuyện trị quốc, tự biết kiến thức càng nói càng không thông minh. Triệu Trinh cho triệu hắn, thay vì nói là thảo luận, chi bằng nói Triệu Trinh là người ba hoa khoác lác.

Mấy ngày nay, triều đình có sự thay đổi long trời lở đất, người trong Lưỡng phủ thay đổi rất nhiều. Triệu Trinh đã phong hai vị ân sư ngày xưa là Trương Sĩ Tốn và Lý Địch làm tể tướng, Tiết Khuê vẫn còn nguyên không đổi, vẫn tham chính cho Lưỡng phủ.

Địch Thanh không bất ngờ với sự sắp đặt này, lúc đó hắn cũng ở trong cung, biết rằng Tiết Khuê ban đầu là làm công việc lựa chọn chính xác trang phục cho Thái Hậu, do đó mà được Triệu Trinh đánh giá cao. Điều khiến Địch Thanh có chút không ngờ đó là Lã Di Giản bị Triệu Trinh loại ra khỏi Lưỡng phủ, tới vùng Thiền Châu.

Địch Thanh có thể có được địa vị ngày hôm nay vẫn là được sự bổ nhiệm của Lã Di Giản. Địch Thanh cũng biết mối quan hệ giữaTriệu Trinh và Lã Di Giản vốn không tồi. Hiện giờ Triệu Trinh đương quyền, vốn là càng phải thêm trọng dụng Lã Di Giản mới đúng. Địch Thanh lờ mờ nghe được, bởi vì Quách Hoàng hậu và Lã Di Giản không hợp, nhiều lần nói Lã Di Giản vốn là người bên cạnh Thái hậu nên đối xử hai mặt để lấy lòng. Trong lòng Triệu Trinh có kiêng kỵ, nên mới đuổi Lã Di Giản tới Biện Kinh.

Nhưng nội tình rốt cuộc là thế nào? Không ai có thể khẳng định.

Nhưng ai cũng biết rằng nguyên tắc thay đổi triều thần lần này của Thiên Tử là những triều thần năm đó có mối quan hệ thân cận với Thái hậu thì đa phần bị giáng chức.

Do đó Tri phủ Khai Phong Trình Lâm bị đuổi khỏi kinh thành. Đám người của Lưỡng phủ Hạ Tủng, Trần Nghiêu cũng là vây cánh thân cận của Thái Hậu, cũng đều bị điều dời khỏi kinh thành.

Ngược lại, những người lúc trước đắc tội với Thái Hậu, ví dụ như Phạm Trọng Yêm, Tống Thụ, Âu Dương Tu, Doãn Thù…đều được quay lại kinh, thăng quan trọng dụng.

Địch Thanh đối với đám người Âu Dương Tu, Doãn Thù cũng không hiểu rõ, cũng không hẳn là quan tâm. Niềm vui duy nhất hắn cảm giác được đó là việc Phạm Trọng Yêm hồi kinh.

Hắn còn nhớ rõ Phạm Trọng Yêm.

Đó là một Phạm Trọng Yêm luôn lo lắng cho thiên hạ, dám vì người khác trước.

Đó là một Phạm Trọng Yêm thà chết vinh còn hơn sống nhục.

Địch Thanh ở trong cung, nhìn thấy trọng thần triều đình quả thực không ít, nhưng hắn chỉ có ấn tượng duy nhất đối với người không được tính là trọng thần, đó là Phạm Trọng Yêm. Địch Thanh tuy không hiểu lắm về chuyện đất nước, nhưng hắn cũng biết rằng trong triều những người như Phạm Trọng Yêm càng nhiều thì càng tốt.

Rất nhiều người rời kinh thành, rồi lại rất nhiều người bị điều về kinh. Địch Thanh lại không muốn tiếp tục ở lại kinh thành, bị Triệu Trinh tuyên triệu. Địch Thanh lập tức quay người lao vào trong cung, muốn hỏi Triệu Trinh khi nào sẽ cử hắn tới vùng biên thùy.

Trong lúc vô số người phải lao tâm khổ tứ, không muốn rời xa kinh thành, chỉ có Địch Thanh mới muốn đi con đường khác ngược lại.

Ngay lúc rời khỏi Quách phủ, Triệu quản gia tới trước cửa, nói với Địch Thanh:

-Bát Vương Gia mời ngài tới Vương phủ có việc quan trọng.

Địch Thanh lập tức lui việc đi gặp Triệu Trinh sang một bên, mà đi tới phủ đệ của Bát Vương Gia trước. Đến lúc vào trong vương phủ, thấy chim Yến tử bay lơ lửng trên không, ánh nắng ấm áp của mặt trời rọi xuống người, tràn đầy thoải mái, nhưng trong lòng Địch Thanh lại cảm thấy hơi chút lạnh run.

Hắn tuy vẫn chưa nghe Bát Vương Gia nói rõ, nhưng biết rằng chuyện Bát Vương Gia mua bản đồ chắc chắn không thuận lợi.

Vào đến trong sảnh, lúc nhìn thấy nét mặt u ám của Bát Vương Gia, lòng Địch Thanh bỗng trầm xuống, nhưng vẫn không thể hỏi:

-Bá phụ, mọi việc thế nào rồi?

Mặt Bát Vương Gia hiện rõ vẻ nghiêm trọng, trầm giọng nói;

-Địch Thanh, ngươi nhất định phải bình tĩnh.

Địch Thanh đã mơ hồ cảm nhận được câu trả lời không ổn, nhưng không ngờ vẫn có thể bật cười, nhưng nụ cười ít nhiều có chút thê lương:

-Bá Phụ, người yên tâm, cháu có thể chịu đựng được.

Hắn không biết đã từng chịu bao nhiêu đả kích hy vọng, rồi thất vọng, vì vậy mới có thể bình thản nói ra câu nói này.

Ánh mắt Bát Vương Gia lộ rõ vẻ lo lắng, thần sắc cũng lạc đâu mất, nói;

-Người mà ta cử đi đã tìm được người họ Tào kia, nhưng y chết rồi, bản đồ cũng mất rồi.

Địch Thanh cũng thất vọng, nhưng càng cảm thấy rằng tấm bản đồ đó có lề lối, ngược lại có thể bình tĩnh hỏi lại:

-Bá phụ, người có biết là ai đã giết người họ Tào kia không?

Bất luận là ai cầm tấm bản đồ kia, Địch Thanh hắn nhất định phải cướp về lại.

Bát Vương Gia chau mày nói:

-Người mà ta cử đi đã kiểm tra ra trước khi tên họ Tào kia chết, từng có người đến tìm y. Đó là kẻ tình nghi lớn nhất. Thuộc hạ của ta đã nghe ngóng được rằng kẻ đến tìm người họ Tào kia tên gọi là Diệp Hỉ Tôn.

Hung thủ là Diệp Hỉ Tôn?

Bên tai Địch Thanh vang lên, thiếu chút nữa nhảy dựng lên, thất thanh nói:

-Diệp Hỉ Tôn, sao lại là y được?

Bát Vương Gia có chút kinh ngạc hỏi:

-Cháu biết y sao?

Trước mắt Địch Thanh hiện lên cái khuôn mặt cao ngạo lạnh lùng đó. Đương nhiên là hắn biết Diệp Hỉ Tôn rồi, nhưng vì sao Diệp Hỉ Tôn lại giết tên họ Tào kia?

Lúc trước Diệp Hỉ Tôn bị Dạ Xoa đuổi giết vì bên mình mang theo một vật, chẳng lẽ khi đó Dạ Xoa đuổi giết Diệp Hỉ Tôn cũng chính là vì tấm bản đồ Hương Ba Lạp?

Dã Lợi Trảm Thiên, Diệp Hỉ Tôn, Dạ Xoa không ngờ cũng đều có liên quan tới Hương Ba Lạp.

Tâm tư Địch Thanh rối bời, chỉ cảm thấy tất cả mọi chuyện ngày càng trở nên mờ mịt như sương mù dầy đặc. Hắn trầm ngâm một lúc, rồi hỏi lại:

-Bá phụ, cháu từng gặp Diệp Hỉ Tôn hai lần, nhưng cũng hoàn toàn không hay biết gì về y cả. Người có biết gì về lai lịch của Diệp Hỉ Tôn không?

Bát Vương Gia lắc lắc đầu nói:

-Chúng ta chỉ tra ra được tên của y đăng ký ở quán trọ là Diệp Hỉ Tôn, còn những thứ khác hoàn toàn không biết gì cả. Ta thậm chí có chút nghi ngờ cái tên này cũng là giả nữa.

Địch Thanh cũng có nghi ngờ này, trầm ngâm một lúc, Địch Thanh đã hạ quyết tâm, nói:

-Bá phụ, cháu không thể chờ đợi thêm được nữa, cháu bắt buộc lại phải đi Tây Bắc, hỏi thăm tung tích của tên Diệp Hỉ Tôn này. Hôm nay cháu sẽ đi cầu xin Thánh thượng, mong Người cho phép cháu xuất kinh.

Nét mặt Bát Vương Gia có vẻ mệt mỏi, gất gật đầu nói:

-Như vậy cũng tốt, ta và cháu phân công nhau đi tìm, không chừng có thể sẽ nhanh hơn chút. Thánh thượng sẽ cho cháu xuất kinh chứ?

Địch Thanh kinh ngạc hỏi:

-Sao bá phụ lại nói thế?

Bát Vương Gia muốn nói thêm nhưng lại thôi, một lúc sau mới đáp:

-Cháu hãy nói với Thánh thượng việc xuất kinh trước, tuy nhiên….nếu Người không chịu, cháu cũng chớ có xung đột với Người, tất cả nên lấy thương lượng làm chính nhé.

Địch Thanh rời Vương phủ mà trong lòng tràn đầy nghi hoặc, luôn cảm thấy Bát Vương Gia dường như không coi trọng việc hắn sẽ xuất kinh.

Trong lòng cười đau khổ, thầm nghĩ người khác đều mong muốn được vào kinh, chỉ có hắn muốn xuất kinh, chẳng lẽ cũng khó sao? Địch Thanh đến đại nội với lệnh bài thông hành nên không hề gặp trở ngại gì.

Hắn là cấm quân duy nhất trong cung không cần làm nhiệm vụ, nhưng lại có thể mang đao hoành hành. Đám thị vệ điện tiền sớm đã nhận ra Địch Thanh, thấy Địch Thanh tới ánh mắt có chút hâm mộ, cũng biết rằng Địch Thanh là người được tin cậy trong mắt Thiên tử, nên vội vàng đón tiếp.

Địch Thanh dù trong lòng lo lắng, nhưng vẫn gật đầu ra hiệu với đám người kia. Sau khi tới Đế cung, Triệu Trinh cũng đang đi tới đi lui, dường như đang suy nghĩ chuyện gì đó, nhìn thấy Địch Thanh liền cười nói:

-Địch Thanh, sao trễ thế này ngươi mới đến?

Địch Thanh thấy tâm trạng Triệu Trinh dường như rất tốt, trong lòng vui mừng, cung kính hành lễ nói:

-Thánh Thượng, thần có việc dở dang nên đến muộn một chút, mong Thánh thượng thứ tội.

Vốn cho rằng Triệu Trinh sẽ hói hắn có việc gì, Địch Thanh sẽ mượn cớ xuống thang để nhắc tới chuyện xuất kinh. Không ngờ Triệu Trinh lại không hề hỏi tới, chỉ nói:

-Ngươi đến là tốt rồi, ngươi đoán thử xem, hôm nay Trẫm cho gọi ngươi tới là có chuyện quan trọng gì?

Địch Thanh có chút kỳ quái, thấy Triệu Trinh hứng thú lên ao, đành tạm hoãn lại vấn đề của mình, dò hỏi:

-Thánh thượng cho triệu thần tới, chắc là có chuyện liên quan tới Tây bắc?

Triệu Trinh cười đáp:

-Địch Thanh, ngươi quả là người rất hiểu lòng Trẫm. Ta tìm ngươi có hai việc, trong đó có một việc liên quan đến Tây Bắc.

Địch Thanh thầm nghĩ, có một việc liên quan đến Tây Bắc, còn một việc khác là gì? Bất chợt nghe Triệu Trinh nói:

-Tây Bình Vương Triệu Nguyên Hạo năm ngoái khởi binh xâm chiếm vùng biên giới của ta, khiến quân Bảo An gặp nạn. Nếu không phải có ngươi dũng mãnh, cùng với bọn Võ Anh đốt trại Hậu Kiều thì Đại Tống của chúng ta có thể đã bị mất hết thể diện. Hừ! Ta đã cho dừng chợ Dác ở Tây Bắc, bọn chúng sẽ không có cách nào giao dịch được với ta, tổn thất càng nhiều. Lúc này, Triệu Nguyên Hạo phái sứ giả đi cầu cứu Phạm Ung, mong chúng ta mở lại chợ Dác, bọn chúng lại mong cầu hòa với chúng ta.

Trong lòng Địch Thanh bất an, dè dặt nói:

-Thánh thượng, thần biết đám người Đảng Hạng lòng muông dạ thú, Nguyên Hạo lại càng là kẻ lắm mưu nhiều kế đã lâu. Mấy năm nay, Nguyên Hạo đã chiêu nạp những người rất kỳ dị, tăng cường quân đội chuẩn bị chiến tranh, làm sao có thể dễ dàng nghỉ binh vậy? Thần chỉ e bên trong có âm mưu.

Triệu Trinh nhíu mày nói:

-Trẫm đã biết ngươi nhất định sẽ hiểu tâm tư của Trẫm, cũng có thể nhìn xuyên thấu ý đồ của Triệu Nguyên Hạo. Động tác này của Triệu Nguyên Hạo đa phần là làm tê liệt Trẫm. Trẫm đã sớm điều hai người Lưu Bình, Thạch Nguyên Tôn đi Tây Bắc chuẩn bị chiến tranh, lãnh binh đề phòng người Đảng Hạng.

Địch Thanh dò hỏi:

-Lưu Bình, Thạch Nguyên Tôn? Thần kiến thức nông cạn, chưa từng nghe qua tên họ.

Triệu Trinh đáp:

-Lưu Bình vốn là con nhà tướng, văn võ song toàn, trước kia làThứ sử Lô Châu, từng vài lần bình định dân di cư phản loạn. Lần này đi đối phó với người Đảng Hạng, dự đoán sẽ không phụ sự hy vọng của Trẫm. Thạch Nguyên Tôn cũng là con nhà hổ tướng, có thể gánh vác nhiệm vụ lớn.

Đang nói cao hứng, đột nhiên thở mạnh một hơi thật dài.

Địch Thanh không hiểu, hỏi:

-Thánh thượng nếu đã tìm được người để đối phó với Nguyên Hạo vì sao còn thở dài?

Triệu Trinh cau mày buồn rầu nói:

-Vua tôi chúng ta tuy biết rằng Nguyên Hạo dã tâm rất lớn, nhưng đám lão thần trong triều này, nghe tin Nguyên Hạo cầu hòa, xin được mở lại chợ Dác thì đều dâng tấu phân tích nói người Man ở Tây Bắc dễ trấn an, không cần binh đao. Bọn họ già cả nên hồ đồ hết rồi, một lòng muốn cầu ổn định, nhưng không có chí tiến thủ. Hiện giờ trong triều rất nhiều người phản đối việc Trẫm động binh, Trẫm hận một nỗi không thể…đuổi hết đám người bọn họ ra khỏi kinh thành.

Triệu Trinh tuy nói vậy, nhưng trong lòng cũng biết rằng tuyệt đối không thể làm như thế. Thái hậu vừa mất, anh ta đã dứt khoát thay đổi đám quan viên trong triều, đám thần tử thân cận lúc trước lên tiếng vì anh ta, lần lượt bỏ đi lấy lòng Thái hậu. Nhưng bất luận là loại thần tử nào thì xem ra cũng đều rất ghét chiến tranh. Nếu giờ anh ta lại thử thách đám thần tử này, chỉ e không đợi được đến lúc động binh ở Tây Bắc thì Biện Kinh đã bị lọan trước.

Địch Thanh biết trong lòng Triệu Trinh vẫn hận Nguyên Hạo. Thấy Triệu Trinh buồn phiền, Địch Thanh an ủi nói:

-Thánh thượng cũng đừng quá lo lắng. Việc giao chiến này không thể ngày một ngày hai có thể giải quyết được ngay. Phiến loạn Tây bắc xảy ra từ lâu, muốn bình định được thì việc cần gấp nhất lúc này không phải là xuất binh, mà là cho binh sĩ luyện tập chuẩn bị chiến tranh. Thần từng ở Tây Bắc một thời gian, phát hiện quân lính vùng biên thùy trang bị đơn sơ, tướng không biết quân. kỵ binh thiếu thốn, có thể thấy khuyết điểm rất lớn. Nếu thật sự phải xuất binh, thực không dám giấu, phần thắng sẽ không nhiều. Tình hình này nhất định phải thay đổi.

Triệu Trinh tỉnh táo lại, thở một hơi thất dài nói:

-Ngươi nói đúng.

Rồi cười ha hả nói tiếp:

-Địch Thanh, những điều ngươi nói giống với đám người Phạm Trọng Yêm, Bàng Tịch, Âu Dương Tu. Xem ra ngươi cũng có tài năng đấy chứ. Đúng rồi, lần trước Phạm Ung đem tấu chương đến nói, Chủng Thế Hành và ngươi kiến nghị xây dựng lại Khoan Châu, nói rằng nếu xây thành, bên phải có thể giúp thế lực Duyên Châu vững chắc, bên trái có thể tập trung trồng kê cho Hà Đông, phía bắc có thể tính toán cho Ngân HạNgươi nói rất hay, cả triều nếu bàn về người có chí tiến thủ thì ngươi được tính là một trong số đó.

Địch Thanh xấu hổ nói:

-Thần chẳng qua là nghe Chủng Thế Hành nói thôi. Đây mới chỉ là kiến nghị, còn chủ ý thật sự là của Chủng Thế Hành.

Triệu Trinh nói:

-Sau khi Trẫm nhận được tấu chương của Phạm Ung thì đã khen thưởng hắn, lại bắt đầu sử dụng lại Chủng Thế Hành, bổ nhiệm hắn thành chủ thành sự sửa thành. Đúng rồi…

Triệu Trinh cười đắc ý nói tiếp:

-Thành vẫn chưa xây lên, tuy nhiên Trẫm đã nghĩ kỹ tên cho thành trì rồi, gọi là thành Thanh Giản, Thanh trong từ thiên thanh, Giản trong sơn giản (khe suối). Đây là công đầu tiên mà Địch Thanh ngươi vì Trẫm đã chống lại người Đảng Hạng vùng Tây Bắc đạt được. Thanh Giản, Thanh kiến…haha.

Lúc này Địch Thanh mới hiểu Triệu Trinh đặt tên như vậy là nói Khoan Châu do Địch Thanh hắn xây dựng. Có chút lo sợ, nghi hoặc, cũng có đôi chút cảm động, Địch Thanh đáp:

-Thánh thượng, thành trì do ai xây không quan trọng, nhưng việc Thánh thượng trọng dụng người tài như Chủng Thế Hành mới chính là điều may mắn của Tây bắc.

Triệu Trinh đi tới đi lui trong điện, trầm ngâm nói:

-Trẫm đã điều tra rõ, Chủng Thế Hành cũng là triều thần, chẳng qua vì đắc tội với Thái Hậu mà bị giáng chức. Người như thế nhất định là người chính trực, Trẫm nên trọng dụng.

Địch Thanh thầm nghĩ, Người chưa từng gặp qua Chủng Thế Hành, nếu không thì cũng không thể đưa ra kết luận như vậy. Chẳng qua Thánh thượng coi trọng Tây Bắc như vậy, nếu như ta xin trấn thủ biên cương, nhất định Người sẽ ưng thuận.

Triệu Trinh mừng vui, không nhận ra tâm sự nặng nề trong lòng Địch Thanh, lại nói:

-Có thể kết bạn với người như Địch Thanh ngươi thật tuyệt vời. Đúng rồi, lần trước ngươi còn nói Bao Chửng là người tốt, Trẫm đã tra xét vụ án Phần Châu, phát hiện Nhâm Biện tội ác tày trời nên đã lưu đày đi Lĩnh Nam rồi. Tuy nhiên…tên Bao Chửng này dường như rất quật cường, dám phản bác lại kiến nghị của Trẫm.

Hóa ra Bao Chửng biết tạm thời không có manh mối việc Nhâm Biện câu kết với giáo đồ Di Lặc, chỉ có thể lấy việc Nhâm Biện lấy công cụ của công để dùng cho việc riêng, giết người bừa bãi để tố tội gã. Triệu Trinh luôn cảm thấy Nhâm Biện ở Sơn Tây cũng có chút công lao, cũng không muốn Nhâm Biện bị đầy đi ngàn dặm. Nhưng đã thấy sự kiên quyết của Bao Chửng, dám phản đối đề nghị của Triệu Trinh, cuối cùng dưới sự kiên quyết của Bao Chửng, Lưỡng phủ vẫn quyết định lưu đày Nhân Biệm tới vùng hoang vu cách xa ba ngàn dặm.

Đại Tống xưa nay không xử trảm văn thần mà chỉ lưu đầy Lĩnh Nam. Mặc dù Nhâm Biện tự sinh tự diệt thì đã là sự trừng phạt rất nặng rồi.

Địch Thanh nói:

-Chính trực không sợ quyền quý, đa phần giống Bao Chửng như vậy. Thử hỏi một người nếu không dám kiên trì với bề trên, làm sao có thể kiên trì với kẻ dưới? Ví dụ nói Phạm đại nhân Phạm Trọng Yêm, năm đó nếu không quật cường sẽ không bị giáng chức truất khỏi kinh thành, nhưng nếu không có sự kiên trì như của những người như Phạm đại nhân….

Địch Thanh không nói thêm gì nữa, thầm nghĩ nói tiếp thì sẽ nói tới Thái hậu, đây không phải là chuyện hắn nên đề cập tới.

Triệu Trinh gật đầu, thầm nghĩ Địch Thanh nói không sai, nhớ lại thời gian trước Thái Hậu mất đi, đám triều thần đó thấy Trẫm đau thương vô hạn đối với thân mẫu, vì lấy lòng Trẫm nên chỉ trích Thái Hậu không đúng, ngược lại kẻ vì từng thỉnh cầu Thái Hậu mà bị Trẫm giáng chức Phạm Trọng Yêm lại dâng tấu nói gì: “Thánh thượng là vĩ quân vương nhân từ, chớ quá lưu luyến chuyện xưa. Thái hậu hộ giá Thiên tử hơn mười năm, thiên tử nhớ những điều tốt đẹp mà quên đi những điều ác, như vậy mới là vị vua nhân đạo.” 

Phạm Trọng Yêm này, khi Thái hậu còn nắm quyền, dám chống đối lại Thái hậu. Hiện nay Triệu Trinh đăng cơ, cũng không lấy lòng Triệu Trinh.

Thà chết vinh còn hơn sống nhục.

Nghĩ đến đây, Triệu Trinh trong lòng bùi ngùi, chăm chú nhìn Địch Thanh nói:

-Địch Thanh, ngươi nói không sai, Trẫm biết điều này nên mới không trách cứ Bao Chửng và Phạm Trọng Yêm, mà ngược lại còn đề bạt bọn họ. Nhưng nếu Trẫm muốn làm một minh quân thì phải hành xử theo quy tắc. Ngươi xuất thân binh nghiệp, lúc này chỉ dựa vào chút công lao ấy Trẫm rất khó có thể nhanh chóng đề bạt ngươi.

Địch Thanh cười nói;

-Thánh thượng không cần coi đây là ý niệm. Thần có được ngày hôm nay là dựa nhiều vào Thánh thượng.

Hắn mới định thỉnh cầu chuyện trấn thủ biên cương thì Triệu Trinh đã đứng trước mặt hắn, nhìn chằm chằm Địch Thanh nói:

-Nhưng ngươi chớ quên, lúc trước Trẫm từng nói, nếu Trẫm tự mình chấp chính thì sẽ phải làm một quân minh thiên cổ, thay đổi tập tục xấu của Đại Tống, chấn chỉnh lại sự uy nghiêm của Đại Tống, dẹp loạn Tây Bắc, thu phục mười sáu vạn quân U Vân. Nếu Trẫm là Hán Vũ đế, ngươi chính là Hoắc Khứ Bệnh đánh Hung Nô, còn nếu trẫm là Đường Thái Tông, thì ngươi chính là Lý Tĩnh diệt Đột Quyết.

Địch Thanh hơi có chút động lòng nhớ lại những lời nói này chính là lời Triệu Trinh nói ở cung Hiếu Nghĩa lúc Triệu Trinh khó khăn nhất. Không ngờ giờ phút này Triệu Trinh vẫn nhớ chuyện đó.

Triệu Trinh hôm nay lại nhắc lại chuyện cũ, liệu có phải là ám chỉ Địch Thanh hắn? Tình nghĩa và lời thề giữa hai người cũng không có gì thay đổi.

Trong lòng Địch Thanh thấy ảm đạm, hồi lâu sau mới nói:

-Thánh thượng có lẽ có thể, nhưng thần thì không thể nữa.

Triệu Trinh nhìn Địch Thanh, từng từ từng từ nói:

-Vì sao lại không thể? Trẫm dù bị cản trở bởi phép tắc, không thể lập tức đề bạt ngươi, nhưng Trẫm đã có một cách, có thể xóa đi thân phận hèn mọn của ngươi trước kia, khiến cho ngươi lên như diều gặp gió.

Địch Thanh có chút kỳ quái, hỏi ngược lại:

-Thánh thượng có cách gì vậy?

Triệu Trinh cười không nói gì, quay đầu nhìn ra ngoài điện, lúc này có tiếng người cất lên:

-Trưởng công chúa Thường Ninh tới.

Địch Thanh không kìm được quay đầu lại nhìn, thấy ngoài cung tám cung nữ áo vàng đi vào, sau khi vào tới cung, tám người chia ra hai bên quỳ gối hướng về phía Triệu Trinh.

Một lát sau, một người con gái mặc một bộ hoàng y sam màu nhạt nhẹ nhàng bước ra từ trong đám cung nữ kia, bước tới trước mặt Triệu Trinh, chỉnh đốn trang phục cúi chào, dịu dàng nói:

-Thường Ninh bái kiến Thánh thượng.

Tiếng ngọc bội leng keng, lời nói dịu dàng, trong đế cung như vang lên những tiếng nhạc vui tai.

Người con gái kia dáng người thướt tha, giọng như chim oanh, tuy được che phủ bởi lớp vải mỏng khiến Địch Thanh không nhìn rõ khuôn mặt, lại càng khiến người ta cảm thấy mông lung, thướt tha.

Lúc này gió xuân ấm áp, thong thả suy tư.

Người con gái tới thăm thiên tử, đôi mắt đẹp tuyệt diệu lại đang nhìn về hướng Địch Thanh, ánh mắt dường như còn đa tình hơn cả gió xuân.

Địch Thanh không để ý tới hàm ý trong ánh mắt của người con gái, chỉ nghĩ chẳng lẽ đây là Trưởng công chúa? Đây là muội muội của Thánh thượng sao? Trước đây chưa từng gặp qua, nàng đến bái kiến thiên tử, chắc có chuyện. Ta xem ra chỉ có thể chờ sau khi huynh đệ họ nói chuyện mới có thể đề cập tới chuyện trấn thủ biên cương.

Nghĩ đến đây, Địch Thanh mới tạm dừng lại. Triệu Trinh mỉm cười nói;

-Thường Ninh không cần đa lễ, bình thân, đến đây đi, ban thưởng cho ngồi. Địch Thanh, ngươi cũng ngồi đi.

Có người chuyển qua ngồi chỗ khác, nhường chỗ cho Địch Thanh, Công chúa Thường Ninh ngồi đối diện hắn. Địch Thanh có chút ngạc nhiên, không hiểu Triệu Trinh muốn làm gì.

Triệu Trinh ngồi bên trên nhìn thuộc hạ Địch Thanh và Thường Ninh, dường như rất đắc ý. Anh ta mỉm cười nhìn Địch Thanh nói;

-Địch Thanh, Trẫm nói rồi, trẫm có chút áy náy với nhà ngươi.

Địch Thanh biết chuyện Triệu Trinh nói là Dương Vũ Thường, trong lòng buồn bã, thấp giọng nói:

-Thánh thượng, chuyện đã qua rồi…

Không đợi hắn nhiều lời, Triệu Trinh đã nói:

-Không sai, chuyện đã qua rồi, nghĩ mãi cũng không ích gì, nhưng Trẫm đã nghĩ đến một cách bù đắp lại cho ngươi, đây chính là chuyện quan trọng thứ hai mà Trẫm muốn nói với ngươi.

Địch Thanh nhận thấy trưởng công chúa Thường Ninh cứ nhìn hắn mãi, ánh mắt hàm ý như liễu bay trong gió mà trong lòng chấn động, sắc mặt biến đổi.

Triệu Trinh cũng không để ý sắc mặt Địch Thanh, chỉ nói:

-Địch Thanh, ngươi mất đi người thương yêu, Trẫm mỗi khi nghĩ đến chuyện này đều canh cánh trong lòng. Thường Ninh là muội muội của Trẫm, khi nghe nói về chuyện trước kia của ngươi thì rất có cảm tình với ngươi. Trẫm thấy muội muội như vậy liền nghĩ đến chuyện bù đắp cho ngươi. Biết ngươi vẫn còn độc thân liền nghĩ nếu ta gả Thường Ninh cho ngươi, thì đây chẳng phải là chuyện rất tốt sao?

Địch Thanh ngây người, thấy Triệu Trinh hứng thú hừng hực mà lòng dạ tê dại. Hắn cũng không để ý đôi mắt đẹp như mùa thu của công chúa Thường Ninh đang nhìn hắn. Trong ánh mắt đó không có niềm vui, cũng không tỏ ra phản đối.

Triệu Trinh nói tiếp:

-Địch Thanh, nếu ngươi cưới Thường Ninh, thứ nhất, đó là hoàng thân, Trẫm có thể đặc cách đề bạt ngươi theo luật nhà Tống, ngươi sẽ không cần chờ quân công thăng chức. Thứ hai, ngươi là Hoàng thân, sau này giúp Trẫm chỉ huy tướng lĩnh Tây Bắc, đánh một trận với Nguyên Hạo, Trẫm rất yên tâm. Cuối cùng…nếu ngươi cưới Thường Ninh, ta và ngươi sẽ tuy hai mà một, vài năm nữa, Trẫm có thể lệnh ngươi thống soái binh mã Tây Bắc, trước là chinh phạt Tây Bắc, sau phạt Khiết Đan, mở ra một thời đại mới cho Đại Tống, đó chẳng phải là kết cục rất tốt sao? Trẫm đã hỏi qua Thường Ninh, nó đã ngầm đồng ý, hiện tại..TrẠmuốn nghe tâm ý của ngươi.

Triệu Trinh trần đầy hy vọng, trong lòng hoan hỉ.

Cách nghĩ này đã tồn tại từ lâu, nhưng anh ta vì liên tục bận rộn với vấn đề về danh hiệu của mẹ đẻ mà không còn thời gian rảnh rỗi nào. Sau khi Lý Thuận Dung chết, tuy được phong làm Thần phi, nhưng Triệu Trinh vẫn không hài lòng, cuối cùng dưới sự bàn bạc của quân thần, sau khi Lý Thuận Dung chết sẽ được gia phòng làm Thái Hậu, tang lễ sẽ được cử hành giống như của Lưu Thái Hậu.

Triệu Trinh bận xong việc này, chỉnh đốn lại triều thần, liền nghĩ tới công Địch Thanh hộ giá rất lớn. Lần này hồi kinh sẽ giữ lại bên mình vài năm. Địch Thanh không dựa vào quân công, chỉ dựa vào tấm bài Hoàng thân thì có thể trục cấp thăng chức, đến lúc đó lại đi lãnh đạo quân Tây Bắc, có thể nói là vô cùng vui mừng.

Triệu Trinh mặc dù ở trên cao, muôn vàn vinh hiển, nhưng trong lòng cũng rất cô đơn lạnh lẽo. Có Địch Thanh ở bên cạnh, anh ta sẽ cảm thấy không còn cô đơn. Luôn nghĩ tới việc giữ Địch Thanh lại kinh thành, nên lúc này nhìn Địch Thanh, chỉ chờ Địch Thanh gật đầu.

Địch Thanh nhìn ánh mắt trưởng công chúa Thường Ninh, thấy nàng cúi đầu nhìn mặt đất, ngẩng đầu lên lại nhìn Triệu Trinh. Thấy Triệu Trinh có vẻ đang chờ đợi, Địch Thanh chậm rãi đứng lên, quỳ gối xuống đáp:

-Thánh thượng…, thần không xứng.

Người công chúa Thường Ninh khẽ run lên, ngọc bội trên người lại kêu lên mấy tiếng ting tang.

Triệu Trinh hơi ngạc nhiên, lập tức cười nói;

-Trẫm không chê xuất thân của ngươi, Thường Ninh cũng không chê, ngươi không có gì là không xứng. Được rồi…

Địch Thanh không đợi Triệu Trinh quyết định, ngắt lời nói:

-Ý tốt của Thánh thượng, thần xin ghi nhận, nhưng thần không thể đồng ý.

Triệu Trinh giật mình, tiếng ngọc bội lại vang lên rồi lại từ từ nhẹ xuống. Trong cung tất cả phẳng lặng như mặt nước.

Một lúc lâu, Triệu Trinh mới nói:

-Đây là tấm chân tình của Trẫm.

Trong lòng Triệu Trinh nổi giận, anh ta vốn nhân lúc vui vẻ mà đến, thấy công chúa Thường Ninh đối với Địch Thanh tràn đầy hiếu kỳ, lại vì rất yêu quí Thường Ninh, bởi vậy mà đã khoe khoang trước mặt Thường Ninh công chúa. Lần này bị Địch Thanh cự tuyệt nên vô cùng tức giận.

Địch Thanh vội nói:

-Thần biết Thánh thượng có ý tốt, nhưng thần thân vốn binh nghiệp…

Vốn định xúc phạm bản thân, không làm tổn hại thể diện của công chúa, nhưng nghĩ lại, chỉ e không có cách nào từ chối, nên lại dứt khoát nói:

-Thần không thể cưới thê thiếp.

Triệu Trinh thấy Địch Thanh đáp như vậy, đập mạnh xuống bàn, nổi giận nói:

-Ngươi có biết hậu quả của việc kháng chỉ không?

Địch Thanh cúi đầu đáp:

-Thần biết.

Triệu Trinh thấy Địch Thanh khiêm nhường thì giọng chậm lại, nói:

-Vậy ngươi về trước đi, Trẫm cho ngươi vài ngày, ngươi hãy suy nghĩ kỹ ý tốt của Trẫm.

Anh ta chỉ sợ Địch Thanh mặt mỏng, nên xuống nước với Địch Thanh.

Lúc này Địch Thanh mới hiểu vì sao lúc rời Vương phủ Bát Vương Gia có chút lo lắng. Chẳng lẽ Bát Vương Gia cũng biết chuyện này? Nhớ tới chuyện Bát Vương Gia dặn hắn không được xung đột với Triệu Trinh, Địch Thanh thở một hơi dài, từng từ từng từ đáp:

-Thần không cần suy nghĩ, thần không thể cưới thiếp, Thần xin được đi Tây Bắc.

Triệu Trinh nổi giận tay nắm chặt long án, đứng bật dậy, lạnh lùng nhìn Địch Thanh nói:

-Địch Thanh, ngươi cho rằng trẫm sẽ không xử trảm ngươi?

Thần sắc Địch Thanh tiêu điều không nói nổi lời nào nữa, nhưng trên nét mặt vẫn tràn đầy vẻ bướng bỉnh không chịu khuất phục.

Mấy năm gần đây gió sương đã tạo ra con người hắn. Hắn vốn đã thiếu phần góc cạnh, lại đa phần bình tĩnh, nhưng lúc này hắn không muốn bình tĩnh. Trong mắt người khác hắn có phần hơi ngốc, nhưng hắn biết mình làm gì, như vậy là đủ.

Hắn không cần hứa hẹn gì với Vũ Thường, nhưng ước hẹn giữa hắn và Vũ Thường thì cho dù ngân đao cũng không thể khắc sâu được như vậy.

Triệu Trinh lạnh lùng nhìn Địch Thanh, Thường Ninh cũng yên lặng nhìn hắn, còn Địch Thanh thì kiên định nhìn mặt đất phía trước.

Ba người im lặng hồi lâu, Triệu Trinh thở dài, buồn bực nói;

-Địch Thanh, ngươi lui xuống đi.

Địch Thanh có phần bất ngờ, nhưng biết rằng lúc này nói gì lúc này cũng là thừa. Sau khi đứng dậy cúi đầu hành lễ, lại cúi chào công chúa Thường Ninh, không nói thêm gì nữa, yên lặng rút lui.

Chờ cho Địch Thanh đi xa, lúc này Triệu Trinh mới lại giận giữ nắm long an nói:

-Thường Ninh, Địch Thanh không biết tốt xấu, Trẫm định sẽ phạt hắn thật nặng cho muội.

Công chúa Thường Ninh trầm lặng một hồi, từ từ đứng dậy, dịu dàng hành lễ nói:

-Thánh thượng, Địch Thanh không có gì sai cả.

Triệu Trinh sửng sốt, nửa cười nửa mếu, hồi lâu mới nói:

-Địch Thanh không sai, nói vậy người sai là Trẫm?

Công chúa Thường Ninh vội đáp:

-Thánh thượng tất nhiên cũng không sai. Thánh thượng, Địch Thanh đã cự tuyệt Thường Ninh, Thường Ninh cũng không tức giận. Thánh thượng cũng không cần vì Thường Ninh mà trách cứ Địch Thanh. Ban nãy Thường Ninh chăm chú nhìn Địch Thanh, trong lòng đã biết trên đời này chỉ e là không có ai có thể thay thế được Dương Vũ Thường trong lòng Địch Thanh, thay thế được vị trí cô ấy trong mắt anh ta. Nói thật, lúc nghe Địch Thanh cự tuyệt, Thường Ninh vốn cũng có chút oán giận.

Triệu Trinh kinh ngạc nói:

-Vậy bây giờ muội không giận hắn nữa?

Thường Ninh đáp:

-Địch Thanh vốn 1à diều hâu thì nên có chỗ cho hắn sải cánh. Địch Thanh là nhân kiệt, cũng không cần dựa vào thân phận Hoàng thân, Thường Ninh cũng không mong muốn điều gì, chỉ mong Địch Thanh một mảnh si tình cuối cùng có thể gửi gắm. Không có ai sai cả, nếu thực sự sai thì chỉ sai ở chỗ, Thường Ninh đã gặp đúng người nhưng không đúng dịp.

Nói xong câu này, trong mắt nàng có chút buồn bã, nàng lại hành một lễ rồi nói:

-Thường Ninh về phòng đây. Thánh thượng, Thường Ninh xin cáo lui.

Thường Ninh duyên dáng rời khỏi đế cung, chỉ còn tiếng ngọc bội leng keng quanh quẩn trong gió, như nỗi lòng của người con gái.

Địch Thanh rời cung, trong lòng cũng thấy áy náy. Hắn biết cự tuyệt một người con gái như vậy, thực sự rất khiến cho người ta mất thể diện, nhưng hắn không còn lựa chọn nào khác.

Lúc cần dừng nếu không dừng thì ngược lại sẽ phải chịu kỳ loạn. Hắn thà để cho Thường Ninh hận hắn chứ không muốn có chút vướng mắc nào với nàng.

Lơ mơ đi trên đường, không biết đi bao lâu, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa phảng phất tới, dòng người ồn ào, bất chợt hắn mới phát hiện ra thì ra không do lơ đãng, hắn đã tới trước chùa Đại Tướng Quốc.

Mấy ngày nay hắn cũng không tới chùa Đại tướng quốc, đây vốn là nơi mà hắn và Vũ Thường lần đầu tiên gặp nhau. Hắn không có nhu cầu lui tới nữa, vì chuyện cũ đã khắc sâu trong trí não hắn.

Tâ trí bấn loạn, lơ đãng mà hắn tới nơi đây, nhìn chùa Đại tướng quốc huy hoàng, sáng chói, nhưng trong đầu hắn không có ý định vào trong, bỗng trong lòng nghĩ: “Khi đó, nếu như mình không vào trong chùa Đại tướng quốc thì sẽ không gặp được Vũ Thường. Nếu như mình không gặp Vũ Thường, tuy suốt đời cơ cực thì trong lòng cũng không oán hận. Dù sao.. Vũ Thường cũng sẽ không xảy ra chuyện.”

Không thể gạt bỏ cái suy nghĩ này trong đầu hắn, khiến hắn luôn thấy đau đớn trong lòng. Hắn tuy biết Dương Vũ Thường sẽ không hối hận, nhưng sự thủy chung của hắn khó mà mất được.

Lững thững đi qua, vô tình đến trước một lán hoa, trước lán có một cụ già, thấy Địch Thanh thì chào nói:

-Quan khách, ngài chẳng phải là Địch tiểu ca sao?

Địch Thanh ngẩng đầu nhìn lại, nhìn thấy cụ già mặt đầy nếp nhăn, đã nhớ ra người này họ Cao, gật đầu đáp:

-Cao lão trượng, người vẫn bán hoa sao?

Bỗng dưng nhớ lại, lúc trước hắn đã gặp Vũ Thường lần thứ hai ở đây, khi đó đã ngây thơ tặng Vũ Thường một giỏ hoa, tên loài hoa đó là Phượng Cầu Hoàng.

Phố xá kẻ đến người đi, đã cuối xuân, trăm hoa khoe sắc, Địch Thanh ngơ ngác đứng nhìn đám hoa Phượng Cầu Hoàng phía không xa.

Hoa đẹp, nhưng người thì không còn nữa, phố xá nhộn nhịp nhưng lòng thì ở quan ải.

Không biết từ đâu vang lên tiếng đàn trầm tĩnh, khua những đám hoa còn lại bay phấp phới, hoa thương tiếc rơi đầy vai, đầu Địch Thanh, thổi qua những đầu ngón tay đang run rẩy của Địch Thanh.

Hắn chậm rãi bước qua, nhìn đám hoa Phượng Cầu Hoàng thật lâu. Cụ già Cao đến bên hỏi:

-Địch tiểu ca, nếu ngươi thích thì hãy lấy đi.

Cụ già Cao vẫn nhớ rõ ân tình của Địch Thanh ngày trước, nhưng lại không biết chuyện cũ năm đó.

Địch Thanh cười cay đắng, chỉ lắc lắc đầu, quay người bước đi thì nhìn thấy một đôi mắt đang nhìn hắn chằm chằm, trong ánh mắt tràn đầy vẻ trong sáng.

Giống như năm đó.

Mấy năm nhìn lại, vẫn tương tư sớm tối.

Trong lòng Địch Thanh rên lên một tiếng, mơ hồ kêu lên: “Vũ Thường…”. Hắn loạng choạng, chỉ tưởng là mộng ảo, nhưng sau khi tinh thần hồi phục lại, sự tiêu điều càng tăng lên, ánh mắt ẩn chứa sự kinh ngạc, ngạc nhiên nói;

-Phi Tuyết, sao lại là cô?

Người nhìn Địch Thanh đó chính là Phi Tuyết.

Địch Thanh chưa từng nghĩ rằng Phi Tuyết lại tới tận Biện Kinh, hắn còn lầm tưởng Phi Tuyết là Vũ Thường.

Đây vốn là chuyện rất kỳ lạ. Phi Tuyết và Vũ Thường là hai loại người hoàn toàn khác nhau, nhưng Địch Thanh mỗi lần thấy Phi Tuyết thì đều chú ý đến đôi mắt mà bỏ qua nhan sắc của cô.

Phi Tuyết lặng lẽ nhìn Địch Thanh, rồi cũng lặng lẽ hỏi:

-Tại sao không phải là ta?

Cô vẫn giữ vẻ bình tĩnh trước sau như một, khó mà thăm dò được sự cổ quái bên trong con người cô.

Địch Thanh nhất thời không thể trả lời, tuy có rất nhiều nghi hoặc nhưng cảm thấy không cần phải hỏi. Vì sao Phi Tuyết tới Biện Kinh, vì sao tới đây, vì sao luôn có vẻ hứng thú đối với hắn?

Chỉ là có hứng thứ, không phải là có tình ý. Địch Thanh hiểu rất rõ ràng điều này.

Trầm ngâm nhìn Phi Tuyết hồi lâu, Địch Thanh mới trả lời:

-Biện Kinh thực ra cũng không tệ.

Mỗi lần gặp Phi Tuyết hắn đều có những ấn tượng khác nhau. Ban đầu hắn bị Phi Tuyết hỏi tên, cảm giác gan nàng to một cách thần kỳ. Sau này tuy biết Phi Tuyết chẳng qua chỉ là tôn nữ của một nguời thợ rèn tầm thường, nhưng cảm giác người con gái này có tinh thần, mưu kế thật phi thuờng. Lần này gặp lại Phi Tuyết,thấy trong mắt nàng vẻ như hiểu rất rõ trò đời.

Người con gái này có suy nghĩ khác hoàn toàn khác so với tuổi đời của nàng.

Ánh mắt Phi Tuyết cuối cùng cũng nhìn đi nơi khác, nhìn vào đám người đang nhốn nhao, nói:

-Biện Kinh dường như không tệ, nhưng ta không thích, sự tốt xấu của một nơi không thể dựa vào sự phồn hoa của nơi đó, không thể dựa vào nới đó có nhiều hay ít hoa, không dựa vào nới đó có nhiều hay ít người, chỉ dựa vào tấm lòng ngươi.

“ Chỉ dựa vào tấm lòng ngươi”? Địch Thanh lẩm bẩm nhắc lại, trong lòng lại thấy đau buồn.

Những điều Phi Tuyết nói không sai, nơi có Vũ Thường thì đâu đâu cũng đều là tiên cảnh, không có Vũ Thường thì Biện Kinh và Tây Bắc có khác gì nhau?

-Rất nhiều thứ mà người khác cảm thấy rằng rất tốt, rất tốt, nhưng nếu trong lòng ngươi không thích thì là không tốt.

Ánh mắt Phi Tuyết trong suốt, đột nhiên hỏi lại:

-Mặt nạ mà ta tặng ngươi, ngươi có thích không?

Một hồi sau Địch Thanh mới đáp:

-Thích.

Phi Tuyết cười cười:

-Có thể tưởng tượng tất có rất nhiều người không thích, thậm chí là sẽ sợ, sẽ ghét.

Điều nàng nói có hàm ý sâu xa.

Địch Thanh nhíu mày, hồi lâu mới nói:

-Ta nhớ cô muốn ta giúp cô làm một việc, giờ cô sẽ nói với ta chứ?

Ánh mắt trong veo như nước mùa thu của nàng nhìn lại, sau một hồi, ánh mắt có phần nuối tiếc nói:

-Nói rồi ngươi cũng sẽ không đồng ý. Bây giờ ngươi ngay cả Biện Kinh cũng không thể rời đi được, sao có thể cùng ta đi đến nơi thiên sơn vạn thủy?

Địch Thanh hơi ngạc nhiên, không hiểu vì sao Phi Tuyết biết hắn tạm thời không thể rời Biện Kinh. Người con gái này, chẳng lẽ thật sự có trực giác khiến người ta kinh ngạc vậy sao? Phi Tuyết muốn đưa hắn đi đâu?

Thiên sơn vạn thủy? Đó là đi đâu?

Địch Thanh đang vô cùng kinh ngạc, Phi Tuyết lại nhìn đi nơi khác về hướng hoa Phượng Cầu Hoàng, lẩm bẩm nói:

-Hoa năm nay đẹp như hoa năm trước, người năm ngoái đến năm nay đã già, đã biết người già không giống hoa, tiếc cho những đám hoa rơi. Đời người là một chuỗi khổ, thật không giống như hoa nở hoa tàn.

Địch Thanh không biết ý tứ trong câu nói của Phi Tuyết, càng không hiểu vì sao nàng như còn trẻ mà lại đa cảm như vậy. Vừa định rời đi, cụ già Cao đứng bên đột nhiên nói:

-Đúng rồi, Địch tiểu ca, ngươi cầm lấy một giỏ hoa đi, không phải lần trước ngươi cũng tặng cô gái đó một giỏ hoa sao? Cô ấy rất thích hoa này.

Địch Thanh thấy ngực đập thình thịch, giọng có chút run run:

-Vì sao lão biết cô ấy thích hoa này?

Ông cụ Cao cười nói:

-Đương nhiên là ta biết, từ sau khi ngươi tặng hoa cho cô ấy, mấy ngày đó ngày nào cô ấy cũng tới đây, hỏi tên của Địch tiểu ca, hỏi khi nào ngươi sẽ đến, và có đến nữa hay không? Thì sao mà lão không biết được chuyện này? Liên tiếp nhiều ngày cô ấy luôn đi bộ tới đây. Địch tiểu ca, có phải cô ấy đang chờ ngươi không? Ta thấy chắc là cô ấy đang chờ ngươi. Đó là một người con gái tốt, ngươi không nên bỏ qua. Có một lần cô ấy còn tự minh giúp ta bắt sâu cho hoa. Kinh nghiệm chăm sóc hoa của cô ấy không hề thua kẽm lão đâu.

Địch Thanh trong lòng run rẩy, nhớ lại Tiểu Nguyệt từng nói: “Tiểu thư rất yêu thích loài hoa này, chăm sóc rất tốt, cô ấy không cho tôi chăm sóc hoa. Mấy ngày nay cô ấy lại không chăm sóc hoa nữa, chúng tôi đều chờ cô ấy, hoa cũng chờ cô ấy…”

Trong lòng chua xót, Địch Thanh cúi đầu không nói gì, hai giọt nước làm ướt đẫm hàng mi. Gió xuân không hiểu dính đầy tay áo. Hắn chỉ tặng cho Dương Vũ Thường một giỏ hoa, nhưng Dương Vũ Thường đã tặng lại hắn cả một mùa xuân.

Thì ra Vũ Thường vẫn luôn đứng trước mai trong đêm tuyết trông ngóng, thảo nào Vũ Thường gọi hắn là đại ca “Ngốc”.

Hắn thực sự quá ngốc, quá ngốc, bởi vì cho đến tận hôm nay, nếu người ngoài không nói thì vẫn còn bao nhiêu chuyện hắn không biết gì.

Gió xuân ấm áp, nhộn nhịp hỗn loạn. Địch Thanh cô đơn đứng đó, như đang đứng ở đồng cỏ bát ngát, nghe thấy Ông cụ Cao vẫn đang nhiệt tình nói:

-Sau đó cô ấy có gặp lại ngươi chưa? Ta nói cho cô ấy tên của ngươi, xem ra cô ấy rất hài lòng. Cô ấy rất thích Phượng Cầu Hoàng đó, mỗi khi tới đây, cô ấy đều nhìn ngắm rất lâu. Địch tiểu ca, hay là ngươi hãy lấy một giỏ đi, ta đảm bảo ngươi tặng cho cố ấy giỏ hoa này, cô ấy sẽ rất thích.

Địch Thanh muốn nói: “Cô ấy sẽ thích”, nhưng cổ họng nghẹn cứng, ngực đau đớn, lâu sau mới cất giọng nhẹ nhàng nói:

-Cô ấy không cần nữa rồi.

Hắn không biết phải dùng hết bao nhiêu công sức mới nói ra được câu này, cuối cùng chỉ cúi đầu.

Ông cụ Cao cuối cùng cũng nhận ra có chút không đúng, vội nó:

-Không cần cũng được.

Đang lúc nói chuyện, bỗng bên cạnh có một bàn tay mập mạp với tay cầm lấy giỏ hoa.

Một người khẽ nói:

-Hoa này… bản công tử muốn có.

Địch Thanh nghe thấy giọng nói quen thuộc, lấy ống tay áo lau mắt, ngẩng đầu nhìn vô cùng kinh ngạc.

Người đang đến đúng là Triệu Trinh, anh ta vẫn ăn mặc như Thánh công tử năm đó, tay cầm quạt giấy, có một người đứng bên cạnh, đó chính là Diêm Văn Ứng. Triệu Trinh nhìn giỏ hoa trên tay Diêm Văn Ứng, rồi lại nhìn Địch Thanh, từ từ bước tới nói:

-Địch Thanh, ngươi có biết vì sao ta muốn giữ ngươi lại kinh thành không?

Địch Thanh lắc lắc đầu. Triệu Trinh sụt sùi nó:

-Bởi vì ngươi và ta quen biết bao năm qua, chưa từng mưu toan gì với ta, ta thực sự rất cần người như ngươi.

Địch Thanh có đôi chút xúc động, nhưng vẫn chỉ nhẹ nhàng lắc đầu.

Phi Tuyết đứng bên nhìn Triệu Trinh và Địch Thanh, ánh mắt vẫn trong veo, ngây thơ, tựa như đang nhìn gì đó, đột nhiên nói:

- Ngươi có biết vì sao hắn nhất định muốn rời Biện Kinh không?

Triệu Trinh hơi giật mình, quay qua nhìn Phi Tuyết, hồi lâu mới nói:

-Ngươi…đang nói chuyện với ta?

Phi Tuyết nhìn đăm đăm vào Triệu Trinh với vẻ bình tĩnh trước sau như một:

-Không sai. Ta đúng là đang nói chuyện với ngươi. Địch Thanh không nợ ngươi gì chứ?

Diêm Văn Ứng quát lớn:

-To gan.

Triệu Trinh khoát khoát tay, cắt ngang tiếng quát của Diêm Văn Ứng, phiền muộn nói:

-Ngươi nói không sai, Địch Thanh quả là không nợ ta, là ta nợ hắn, bởi vậy ta mới muốn bù đắp cho hắn.

-Nếu ngươi là bạn anh ta thì không nên miễn cưỡng anh ta.

Ánh mắt Phi Tuyết lạnh lùng, bình thản nói:

-Chỉ cần ngươi không miễn cưỡng anh ta, anh ta sẽ rất cảm kích ngươi. Anh ta không phải là kẻ tham lam, chẳng qua... anh ta là một kẻ si mê. Rốt cuộc ngươi muốn anh ta cảm kích ngươi cả đời, hay là muốn anh ta ghét ngươi cả đời?

Địch Thanh rất ngạc nhiên, thầm nghĩ vì sao Phi Tuyết lại hiểu rõ chuyện trong lòng hắn như vậy? Những điều Phi Tuyết nói, chẳng lẽ giúp Địch Thanh giải quyết những khó khăn?

Ánh mắt Triệu Trinh lộ vẻ trầm tư, nhìn Phi Tuyết tràn đầy kinh ngạc.

Phi Tuyết lại nói với Triệu Trinh:

-Ngươi đương nhiên cũng là người có những sở thích, nếu ngươi có thể, liệu có giống được như Địch Thanh? Hãy đặt mình vào địa vị anh ta, ngươi không nên làm khó anh ta nữa.

Sắc mặt Triệu Trinh đã đổi, nhớ tới Vương mỹ nhân, đầu óc rộn ràng.

Chuyện cũ như cát làm mờ mắt, nhưng khó mà thôi lưu luyến.

Địch Thanh cảm kích nhìn Phi Tuyết, rồi lại nhìn Phượng Cầu Hoàng, hạ quyết tâm, bỗng nhiên tiến lên trước, nhìm chằm chằm Triệu Trinh nói:

-Thánh công tử, ta cầu xin công tử một chuyện. Năm đó ta và Vũ Thường gặp nhau ở chùa đại tướng quốc, đã lọt vào mắt xanh của nhau, cùng thề nguyện. Năm đó Địch Thanh chỉ tặng cho nàng một giỏ hoa, nàng đã tặng lại cho hắn một tấm chân tình. Địch Thanh đời này sẽ mãi không quên được Vũ Thường.

Hắn gọi là “Thánh công tử”, thứ nhất là biết Triệu Trinh không muốn tiết lộ thân phận, thứ hai còn là giống như đang đùa với Triệu Trinh.

Lúc Triệu Trinh nghe thấy ba từ “ Thánh công tử” thì sắc mặt lo lắng, lại nhìn thấy ánh mắt dứt khoát của Địch Thanh, than thở trong lòng, chỉ nghĩ: “Năm đó Trẫm… tại sao lại không có được sự kiên trì như của Địch Thanh. Trẫm không như hắn. Địch Thanh là kẻ có tình, cũng sẽ không vô nghĩa đối với Trẫm, Trẫm hà tất phải đau khổ làm khó hắn nữa?

-Năm đó, lúc đi huyện Củng, thần từng nói: “ Vũ Thường, khi ta trở về sẽ thưa chuyện với bá phụ, bá mẫu để cưới nàng. Địch Thanh vô tài, vô thế, chỉ có tấm lòng chân thành” Câu nói này, Vũ Thường ghi nhớ, ta ghi nhớ.

Địch Thanh nhắc lại những lời nói năm đó, cứ như Vũ Thường đang ở trước mặt.

Có lẽ thời gian trôi nhanh, nhưng lời hứa vẫn còn nguyên, và cũng sẽ không thay đổi.

-Ta không biết Vũ Thường liệu có tỉnh lại hay không, ta không biết còn có thể nhìn thấy nàng mở mắt hay không, ta càng không biết liệu có tìm được Hương Ba Lạp hay không.

Mi mắt Địch Thanh ướt ướt, một lúc nhìn Triệu Trinh nói:

-Nhưng ta biết một điều, trái tim này của Địch Thanh mãi mãi không thay đổi.

Hắn nói chắc như đinh đóng cột, cắt tuyết xẻ băng:

-Trong lòng ta, Vũ Thường đã là vợ của ta, bất luận là sống hay chết! Cuộc đời này Địch Thanh không cầu quan cao, không cầu hậu tước, Địch Thanh có thể không cần gì hết, nhưng ta không thể không có tấm lòng của Vũ Thường. Địch Thanh không cầu điều gì, chỉ cầu xin công tử cho ta xuất kinh, lại chiến đấu ở Tây Bắc. Địch Thanh sống cũng được, chết cũng xong, chiến đấu không phụ thiên hạ, lòng không phụ Vũ Thường. Cuộc đời này Địch Thanh không hối hận, không tiếc nuối.

Sau khi nói xong, hắn hành lễ, rồi lại không nói gì nữa. Thân thể cường tráng đó tựa như núi Trầm Ngư, trong hương hoa viết lên niềm vui, nỗi buồn. Hắn đã quyết định, bất luận thế nào cũng phải xuất kinh, không ai có thể ngăn cản được hắn.

Triệu Trinh lặng lẽ nhìn sự kiên trì của Địch Thanh, lâu sau mới nói:

-Lần này ta đến vốn là muốn cho ngươi xuất kinh.

Đột nhiên Địch Thanh ngẩng đầu, ánh mắt có chút bất ngờ, nhưng đầy ý cảm ơn.

Phi Tuyết lại nhìn vẻ mặt của Triệu Trinh, ít nhiều cũng có chút kinh ngạc. Trong đôi mắt trong suốt của nàng tựa như có màn sương mù bao phủ.

Triệu Trinh cầm lấy giỏ Phượng Cầu Hoàng từ tay Diêm Văn Ứng đưa cho Địch Thanh, than thở:

-Ta đã không tặng được cho ngươi cái gì, giỏ hoa này coi như một chút lòng thành của ta. Địch Thanh, Tây Bắc lạnh giá, ngươi phải bảo trọng.

Nói xong, vỗ vỗ vai Địch Thanh. Triệu Trinh có đôi chút rầu rĩ, vốn dĩ muốn nói thêm điều gì đó, cuối cùng lại quay người bước đi.

Bước đi trên phố, Triệu Trinh đột nhiên muốn khóc rống lên, chỉ là đang nghĩ: “Năm đó nếu ta ở trước mặt Thái Hậu, cũng kiên trì như vậy thì kết quả sẽ như thế nào?”

Đáng tiếc có một số chuyện mãi mãi sẽ không có đáp án.

Địch Thanh cầm giỏ hoa, nhìn Triệu Trinh đi xa, trong lúc nhất thời bị kích động không nói được gì, chờ cho tinh thần hồi phục lại, cảm kích nhìn về phía Phi Tuyết, muốn cảm ơn những câu nói ban nãy của cô thì phát hiện Phi Tuyết đã biến mất không thấy đâu nữa.

Nàng lặng lẽ đến, rồi lẳng lặng đi, tựa như khói mà không phải khói.

Phố dài, trăng hoa đẹp đẽ, người con trai cầm bó hoa đứng đó, nhưng lòng thì hướng về phía xa xa, không biết tiếng than thở ở đâu vọng đến phá vỡ ngày dài, bay tới tận quan ải.

Bầu trời rộng lớn, có con chim Ưng bay qua, quanh quẩn phía chân trời xa xa, nhìn xuống chúng sinh, làn sương dày đặc phủ trắng cây cối, những chiếc lá ngả vàng, vạn vật đã bắt đầu vào tiết trời mùa đông.

Vùng Khoan Châu cổ cách đông bắc Duyên Châu hơn hai trăm dặm thiếu đi sự yên lặng đầu đông, nhưng lại có nhiều hơn bầu không khí sục sôi.

Khoan Châu vốn là thành cổ bỏ hoang, trong quá trình tu sửa lại gần một năm nay, đã san mặt đất cao hơn, gọi là thành Thanh Giản.

Kể từ khi triều định hạ chỉ để cho Chủng Thế Hành làm phán quan Phu Châu, sau khi phụ trách việc tu sửa thành Thanh Giản, bách tính ở hai bên thành, bất luận là người Khương hay người Hán đều vui mừng nhảy múa, chủ động đến khiêng đá nâng cao mặt đất, đào hào lũy, mương rãnh.

Trước kia trại Kim Minh ở phía bắc, đa phần là người Khương và người Hán lẫn lộn, nhưng mỗi khi có chiến sự, Đại Tống lúc nào cũng trốn tránh không chịu xuất hiện, giữ vững trại Kim Minh. Từ đó đến nay, phía Bắc là nơi cư ngụ của những người dân không may mắn, liên tiếp bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, khổ không thể tả hết. Lần này xây thành ở phía bắc của trại Kim Minh, mọi người đều không khỏi cho rằng đây là nơi phúc lợi cho dân chúng, nên hăng hái đến giúp đỡ.

Hoàng hôn xuống, một đám quan sĩ đang xác cát vào thành, có một người dân đang đào thành hào kêu lên:

-Cát Đô đầu, mọi người mệt muốn chết rồi, lại đây nói chuyện về Địch chỉ huy giải lao chút đi.

Trời tuy lạnh, vị Cát Đô đầu đó vẫn cởi trần, để lộ ra thân thể cường tráng, trên trán vẫn đẫm mồ hôi. Nghe thấy vậy tháo cát rồi hỏi:

-Hôm qua ta kể đến đâu rồi nhỉ?

Một người đàn ông mặt đỏ bừng tiếp lời:

-Địch chỉ huy đại chiến Thiết Diều Tử, công ph trại Hậu Kiều, phẫn nộ với chuyện của La Hầu Vương, kể tới mười bảy lần rồi…tuy nhiên mỗi lần đều không giống nhau. Nhưng dù sao cũng nghe nhiều rồi, Đô đầu kể cái gì khác mới mẻ hơn đi.

 Chương 205 - 219: Điệt Mã

Cát Đô đầu cười ha hả nói:

-Phục vụ các ngươi thật khó quá, ta không kể nữa. Các ngươi không muốn nghe, nghe rồi vẫn không thể kể lại. Không kể lại được còn chê ta kể đi kể lại. Địch chỉ huy tuy nói lại trở về Tắc Hạ, nhưng lúc này không còn chiến tranh nữa. Chẳng lẽ ta phải tự bịa ra chuyện kể cho các ngươi nghe sao?

Có người nói:

-Sao lại không có? Tối qua ngoài đầu thành, tiếng trống còn vang hơn cả tiếng sấm. Lúc trời sáng thì thấy ngoài thành có thi thể của một người Khương, rốt cuộc là xảy ra chuyện gì? Ngươi thân là quân nhân viên quan trọng, nói qua qua một chút cho mọi người nghe đi.

Cát Đô đầu được người khác thổi phồng, sung sướng lấy tay vuốt vuốt mấy sợi râu, cười nói:

-Ta đoán thế nào các ngươi cũng sẽ hỏi chuyện này, được rồi, ta sẽ kể cho các ngươi nghe. Thực ra, thành này của chúng ta đã xây xong rồi, người vui không ít, người giận cũng không ít. Tộc Mễ Cầm liền chen chúc phá phách không vào nữa, lúc này mới dấyxâm phạm, không ngờ Địch chỉ huy đã tính toán được, biết chúng đêm qua sẽ đến nên đã sớm mai phục ở ngoài thành, chỉ cần một đao đã chém chết thủ lĩnh tộc Mễ Cầm là Mễ Cầm Đại Lãng.

Mọi người đều kêu lên:

-Địch chỉ huy đó không phải là rất giống thần tiên sao?

Cát Đô đầu cũng không đỏ mặt, đĩnh đạc nói:

-Ai nói là không phải chứ? Đám người đó thấy Địch chỉ huy đánh đến thì đều không dám tiếp chiến, bỏ lại hàng trăm thi thể mà chạy thoát thân. Thành Thanh Giản có Chủng lão trượng mới xây lên được, nhưng nếu như không có Địch chỉ huy thì e là sớm đã mất rồi.

Có người không hiểu hỏi lại:

-Tộc Mễ Cầm muốn vào thành thì cho họ vào đi.

Cát đô dầu đáp:

-Ngươi thì hiểu gì? Họ không trả tiền, Chủng lão trượng sao dám cho họ vào?

Mọi người cùng cười vang, từ xa một người bước tới nói:

-Cát Chấn Viễn, ngươi lại đang nói xấu ta.

Người đó tháo đôi giầy cỏ, giẫm giẫm chân bước tới, trán tỏa sáng, mặt xanh xao, đó chính là Chủng Thế Hành.

Cát Đô đầu đương nhiên chính là Cát Chấn Viễn. Thành Thanh Giản mới xây, Chủng Thế Hành chịu trách nhiệm chuyện của thành trì, Địch Thanh phụ trách canh phòng, còn đám người Cát Chấn Viễn, Liêu Phong, Tư Mã đều được điều từ Tân trại tới thành Thanh Giản.

Chủng Thế Hành thấy mọi người đang tạm nghỉ, bất mãn quát lên:

-Các ngươi sao lại đều dừng hết cả thế này? Làm việc nhanh lên. Ta nói cho các ngươi biết, có thể vào được thành này, thứ nhất là phải làm việc, thứ hai là phải nộp tiền. Người vừa không có tiền, vừa không chịu làm việc, nếu còn để ta nhìn thấy lần nữa, thì xéo hết cho ta. Nơi đây không nuôi đám người rãnh rỗi đó.

Cát Chấn Viễn nghe dọa thế vội nó:

-Tất cả đi làm việc đi, đi làm đi.

Mọi người lập tức giải tán, Cát Chấn Viễn cũng xắn tay áo định bước đi, Chủng Thế Hành kéo y lại hỏi:

-Địch Thanh đang ở đâu?

Cát Chấn Viễn đáp:

-Anh ta đang ở đình Chiết Liễu, cách phía bắc thành năm dặm

Chủng Thế Hành lẩm bẩm nói:

-Hắn chạy tới nới xa vậy làm gì nhỉ?

-Anh ta cách xa vậy, có thể là sợ lão đòi tiền.

Cát Chấn Viễn bỏ lại câu nói, rồi nhanh như chớp chạy biến đi mất.

Chủng Thế Hành lắc lắc đầu, với đôi giấy cỏ đi vào rồi đi về hướng bắc thành. Lúc chạy tới đình Chiết Liễu thì thở hổn hển. Địch Thanh đang ngồi trong đình, nhìn xa xăm về phía Tây bắc, nghe thấy có tiếng bước chân tới liền nhìn về phía Chủng Thế Hành, như đang chờ đợi điều gì, nói:

-Chủng lão đầu, có chuyện gì vậy?

Địch Thanh lại đến phía bắc biên ải.

Sau khi Địch Thanh rời Biện Kinh liền đi Diên Châu trước để báo tin. Phạm Ung thấy vô cùng đau đầu, thầm nghĩ tên tiểu tử này chắc mắc bệnh, những người khác đều phải hao tâm khổ tứ để được vào thành, còn tên tiểu từ này lại vội vàng chạy tới vùng Diên Biên, không biết triều đình có ý gì. Phạm Ung chỉ đơn giản báo cho Triều đình, đem quân hàm của Địch Thanh từ Vân kỵ úy nói thành Võ kỵ úy. Việc nâng cao này chỉ có tác dụng tăng bổng lộc, không tăng binh quyền. Sau khi triều đình phê chuẩn, Địch Thanh vẫn chỉ là thân phận Chỉ huy sứ Diên Biên, phối hợp cùng Chủng Thế Hành trấn thủ thành Thanh Giản.

Địch Thanh tạm thời được nhàn rỗi, dành toàn lực đi điều tra tung tích của Diệp Hỉ Tôn. Nhưng người này như chim nhạn bay mịtù, không còn xuất hiện nữa.

Chủng Thế Hành lau mồ hôi trên trán, thở dài nói:

-Không có chuyện gì thì không được tìm ngươi sao?

Địch Thanh cười cười:

-Ta chỉ e làm lỡ mất chuyện kiếm tiền của lão thôi. Đúng rồi, tối qua giết Mễ Cầm Đại Lãng, ngựa và các trang bị binh khí đều thu dọn lại rồi chứ?

Chủng Thế Hành đáp:

-Ngươi vẫn còn lo ta bỏ sót cái gì sao?

Địch Thanh lại cười, trong lòng thì thở dài. Thì ra sau khi Địch Thanh trấn thủ thành Thanh Giản, có người Khương tìm tới nhờ cậy, cũng có người Khương tới quấy rối. Những ngày qua Địch Thanh không nương tay chút nào, có người tới quấy rối là giết không tha. Sau mỗi trận chiến, Địch Thanh chỉ lo giết chứ kông phải lo việc chôn cất, giao việc thu dọn chiến lợi phẩm cho Chủng Thế Hành. Với Chủng Thế Hành xưa nay người chết đều phải lột da, làm những công việc này, tất nhiên là không còn gì tốt hơn.

Chủng Thế Hành liếc xéo Địch Thanh, bất chợt nói:

-Địch Thanh, ngươi có cảm giác có điều gì kỳ lạ không?

Địch Thanh nhíu mày, hỏi lại:

-Kỳ lạ ở chỗ nào?

Chủng Thế Hành đáp:

-Chúng ta xây dựng thành Thanh Giản này, người Đảng Hạng chắc chắn coi đây là cái đinh trong mắt chúng nên đến rây rối thì chẳng có gì là lạ. Nhưng chúng đều biết ngươi đang ở đây, thời gian này, người đến gây rối càng ngày càng ít. Nhưng tối qua, Tộc Mễ Cầm đến đều là những kẻ dũng mãnh, ít nhất cũng phải cả ngàn người.

-Điều này không phải là rất tốt sao? Đến nhiều thì giết nhiều, lão kiếm được cũng nhiều.

Địch Thanh thản nhiên nói tiếp:

-Ta không chủ động giết người, nhưng họ tự giao thân đến cửa cho ta giết, ta cũng không thể từ chối.

Chủng Thế Hành thở một hơi dài, nói:

-Tiểu tử ngươi gần đây chỉ nghĩ về Hương Ba Lạp, Diệp Hỉ Tôn gì gì đó. Ta đã nói rồi những chuyện này ta chỉ là tới hỏi thăm. Một mình ngươi dù có lợi hại, vẫn có thể linh nghiệm hơn so với tin tức của lão già ta sao? Tiểu tử ngươi có thiên chất trong lĩnh vực lãnh đạo quân sĩ, về phương diện đối địch thì dũng mãnh, không nên chà đạp lên tài năng như vậy.

Địch Thanh không nhịn nổi cười đáp:

-Vì vậy, nếu sau này lão có điều gì thì cứ trực tiếp nói với ta, ta chẳng thích lão cứ vòng vo mãi. Có phải lão muốn nói, người Đảng hạng gần đây gia tăng lực lượng tấn công thành Thanh Giản, là có ý muốn chiếm lại Tây Bắc?

Chủng Thế Hành lầm bầm nói:

-Ngươi cuối cùng cũng hiểu được câu nói của ta. Ta chính là lo sợ điều này. Địch Thanh, ngươi còn nhớ không, hồi đầu mùa Xuân, sứ giả của người Đảng Hạng từng đi cầu hòa Phạm Tri châu. Sau này, Tây Bắc yên ổn hơn rất nhiều, nhưng rất nhiều gia đình người Khương dồn dập tới muốn quy hàng. Phạm Tri châu bẩm báo triều đình, nhưng triều đình lệnh cho Phạm tri châu tự xử lý, kết quả là Phạm tri châu đã cho rất nhiều người Khương tới an cư ở phân trại ba mươi sáu của trại Kim Minh.

Địch Thanh gật đầu nói;

-Tất nhiên là ta còn nhớ. Phạm tri châu còn muốn cử một vài người tới thành Thanh Giản nữa, chẳng qua chúng ta khước từ nói là thành chưa xây xong, một mực không đồng ý.

Trong thần sắc hắn cũng có chút ưu tư, nói tiếp:

-Chủng lão đầu, lão sợ những người này có vấn đề sao?

Chủng Thế Hành lo lắng đáp:

-Đám người này có vấn đề hay không ta không rõ, nhưng mấy ngày nay ta luôn cảm thấy vô cùng lo sợ. Rất nhiều người Khương tràn vào trại Kim Minh, ngẫm kỹ lại thì thấy đều có vấn đề. Phạm tri châu một mực cho rằng người Khương không đủ làm ông ta lo lắng, nên không cho là đúng. Triều đình vì trấn an người Khương nên đã mở lại chợ Dác. Nhưng lúc này người Đảng Hạng liên tiếp tấn công thử thành Thanh Giản, chỉ e thật sự là sẽ lại tấn công Tây Bắc.

Địch Thanh cũng có chút cau mày, thầm nghĩ ta và ngươi hiểu rõ những điều này thì có tác dụng gì chứ? Có thể canh giữ thành Thanh Giản thì đã là ân huệ của Phạm Ưng rồi. Bất đắc dĩ hắn nói:

-Nhưng ta và lão kết hợp dâng tấu cho Phạm tri châu, nhắc ông ta chú ý, mặc dù ông ta không nói gì, nhưng chỉ e là chê chúng ta bắt chó đi cày, xen vào việc của người khác thôi.

Chủng Thế Hành trầm ngâm một hồi, hỏi lại:

-Dâng tấu cho Phạm tri châu xem ra không có tác dụng rồi, ông ta xưa nay không nghe kiến nghị của chúng ta. Địch Thanh, thời gian trước ta kêu ngươi lập tức dâng tấu lên Thiên Tử, có hồi âm gì chưa?

Địch Thanh lắc lắc đầu, cười khổ đáp:

-Lão quá xem trọng năng lực của ta rồi. Tấu chương ta đã gửi đi rồi, nhưng Lương phủ đều không có hồi âm. Việc dâng tấu vượt cấp này vốn là điều tối kỵ trong quan trường. Nếu như bị Phạm Ung biết được, ta lão chắc sẽ không ổn…Ta chỉ e…tấu chương đã bị Lưỡng phủ áp chế rồi.

Chủng Thế Hành xoa xoa tay, đi đi lại lại trong đình, đột nhiên dừng bước, vẻ mặt có chút thận trọng, hỏi lại:

-Địch Thanh, lão mạo muội hỏi một câu, quan hệ giữa ngươi và Thiên tử rốt cuộc thế nào rồi?

Địch Thanh nhớ lại tình hình ở Biện Kinh, hồi lâu sau mới nói:

-Điều này sao? Gần vua như gần cọp, lão chắc cũng biết, Người có lẽ có thể nghe lời ta, nhưng con người luôn luôn thay đổi, phải không?

Lần trước trở về Biện Kinh, Địch Thanh và Triệu Trinh tuy có xung đột, nhưng cuối cùng đã bắt tay làm hòa. Nhưng trong lòng Địch Thanh sớm biết rằng, Triệu Trinh sẽ mãi không còn là “Thánh công tử” nữa.

Một người ngồi ở chỗ cao hơn, tất nhiên nhìn khía cạnh vấn đề sẽ không giống nhau.

Chủng Thế Hành lộ vẻ chấp nhận, hối tiếc nói:

-Ta vốn muốn để ngươi tự hồi kinh, trực tiếp nói với thánh thượng về sự nghiêm trọng nơi đây. Ôi, xem ra con đường này không thể thực hiện được rồi.

Chủng Thế Hành nhìn như khôn khéo, kỳ thực có thể nói là đa mưu túc trí, càng vì thăng trầm chốn quan trường nên biết được lợi hại trong đó. Trong lòng ông ta thầm nghĩ: “Những ngày qua, trong Kinh thay đổi rất lớn, nghe nói Thiên tử không vội cho Tây Bắc chuẩn bị chiến tranh, mà trái lại bởi vì Quách Hoàng hậu điêu ngoa nên vẫn bận rộn với việc phế hậu. Lã Di Giản bị giáng chức xuất kinh không lâu thì lại được dùng lại, đưa vào Lưỡng phủ. Lúc trước đều nói Quách Hoàng Hậu và Lã Di Giản không hợp, Thiên tử muốn phế hậu, Lã tướng toàn lực ủng hộ. Còn đám người Phạm Trọng Yêm, Âu Dương Tu…mới được trọng dụng thì vì phản đối Thiên tử phế hậu, và lại bị giáng chức bắt xuất kinh. Việc này xem ra thì bình thường, nhưng từ việc này có thể thấy tính cách của Thiên Tử rất là lật lọng. Lão già ta vốn hy vọng Địch Thanh có thể nói trước mặt Thiên Tử về tình hình cấp bách của Diện Biên. Nhưng Thiên tử lật lọng, đường xá lại xa xôi, Địch Thanh xem ra cũng không còn hữu dụng. Nhưng nếu không trông cậy vào Địch Thanh, đại chiến ở Tây bắc ít ngày nữa sẽ nổ ra, Phạm Ung vô dụng, cả ngày an nhàn hưởng lạc. Với tình hình trước mắt, bách tính lại sắp phải chịu khổ cực rồi.”

Những lời này, Chủng Thế Hành không tiện nói với Địch Thanh. Đang lúc trầm ngâm thì nghe Địch Thanh hỏi:

-Chủng lão đầu, lão nói sẽ giúp ta tìm tin tức của Hương Ba Lạp và Diệp Hỉ Tôn, vậy đã có manh mối gì chưa?

Chủng Thế Hành lắc lắc đầu, lập tức nghĩ tới điều gì:

- Không tìm thấy Diệp Hỉ Tôn, nhưng tìm được lai lịch của người họ Tào kia rồi.

Tinh thần địch Thanh chấn động, lúc trước Bát Vương Gia không chịu nói ra lai lịch của người họ Tào kia. Địch Thanh vốn cho rằng người này rất thần bí, không ngờ Chủng Thế Hành rất biết mấy cách này, không ngờ có thể tìm được lai lịch của người này.

Nếu quả thật biết được lai lịch của người họ Tào kia, không chừng có thể giúp được cho việc tìm ra Hương Ba Lạp. Trong lòng Địch Thanh thầm nghĩ: “Chủng Thế Hành cho dù là một tay lừa đảo, nhưng là tay lừa đảo có năng lực.”

-Nguờ họ Tào kia tên gọi là Tào Hiền Anh. Y vốn là thế hệ sau của Tào Thị trong Quy Nghĩa quân.

Chủng Thế Hành đáp.

-Quy nghĩa quân? Đó là quân gì?

Địch Thanh không hiểu hỏi lại.

Chủng Thế Hành sờ sờ đầu, thở dài nói:

-Ngươi không cần cả ngày chỉ nghĩ đến việc giết người, không có việc gì thì đọc sách, đọc nhiều sách lịch sử thì sẽ biết Quy Nghĩa quân là người gì.

Địch Thanh thầm nghĩ: “Ta cũng đọc sách, nhưng chỉ thích đọc một cuốn “Kinh thi”.”

Trong lòng có chút chua xót, nhưng Địch Thanh vẫn cười được, nói:

-Biết lão có học vấn, nếu không làm sao ta dám mời lão tới làm việc chứ.

Chủng Thế Hành có chút đắc ý, lại sờ sờ vầng trán cao, nói sơ lược:

-Khi Đường An Sử loạn, Đường Đế không thể bình định, chỉ có thể triệu binh lực Lũng Hữu, Hà Tây tới viện trợ kinh thành. Kết quả binh lực Lũng Hữu, Hà Tây hư không, bị người Thổ Phiên thừa cơ ào tới, chiếm lĩnh Lũng Hữu. Từ sau đó, phần lớn biên giới Lũng Hữu, Hà tây và Sa Châu, Qua Châu đều rơi vào tay người Thổ Phiên. Nhưng sau đó người Hán Trương Nghị Triều đem người khởi nghĩa, đoạt lại mười một châu của Hà Tây. Đường thiên tử không thể báo đáp được, phong cho Trương Nghị Triều làm Quy Nghĩa Quân, đây cũng chính là nguồn gốc của Quy Nghĩa Quân. Ban đầu Quy Nghĩa Quân vốn họ Trương, nhưng sau đó Quy Nghĩa quân nội chiến, lực lượng suy yếu, lại bị người Thổ Phiên đánh bại. Sau này Quy Nghĩa quân mấy lần lặp lại, do vọng tộc Sa Châu là Tào Nhân Quý chấn hưng cờ trống, lại đánh bại Thổ Phiên, do đó mà Quy Nghĩa Quân trên thực tế cũng đã đổi thành họ Tào.

Địch Thanh thầm nghĩ:

-Việc xuất thân này cũng không có gì là ngạc nhiên, vì sao mà Bát Vương Gia lại giữ kín không nói?

Chủng Thế Hành lại nói:

-Chẳng qua sau khi Tào Thị nắm quyền, thế lực cũng dần dần suy bại, địa bàn không ngừng bị các nước Thổ Phiên, Hồi Hột, Cao Xương thâu tóm. Tới triều trước, con cháu Tào Thị là Tào Tông Thọ đã thống lĩnh Quy Nghĩa quân. Quy Nghĩa Quân chỉ tử thủ ở hai nơi là Qua Châu, Sa Châu. Do đó người dân bản địa lại gọi Tào Tông Thọ là Qua Châu Vương. Lúc triều này, con trai Tào Tông Thọ là Tào Hiền Thuận thống lĩnh Qua Châu, vẫn xưng thần với triều của ta, nhưng mấy năm trước, Nguyên Hạo đánh bại Cao Xương, Hồi Hột. Tào Hiền Thuận thấy người Đảng Hạng thế lực lớn mạnh, đã dâng châu đầu hàng Nguyên Hạo. Tào Hiền Anh là tộc đệ của Tào Hiền Thuận, đa số các ý kiến bất hòa với Tào Hiền Thuận, lúc này mới chạy tới vùng Diên Biện.

Đich Thanh nghe xong những điều này, thất vọng nói:

-Vậy Tào Hiền Anh vì sao lại có bản đồ của Hương Ba Lạp? Đáng tiếc y đã chết, nếu không…

Bỗng dưng nhớ ra chuyện gì đó, hắn phấn chấn nói:

-Tào Hiền Anh tuy đã chết, nhưng chúng ta có thể tìm Tào Hiền Thuận nghe ngóng tình hình.

Ánh mắt Chủng Thế Hành có vẻ tán thưởng, vỗ vỗ trán nói:

-Tiểu tử ngươi trong tình huống này vẫn đủ thông minh, không uổng công ta nói với ngươi nhữngnày. Tuy nhiên…ta lại có một cách khác.

Địch Thanh vội hỏi lại:

-Mời lão trượng nói.

Hắn một khi có việc cần thỉnh giáo thì Chủng lão đầu liền trở thành Chủng Lão trượng.

Chủng Thế Hành không giễu cợt, ngược lại ánh mắt lộ vẻ trầm tư, nói:

-Kể từ sau khi ngươi nói về cái nơi tồi tàn Hương Ba Lạp đó, ta cũng đã bắt đầu chú ý nhiều phương diện khác nhau. Ta nhớ ngươi nói Thiệu Ung có một lời tiên đoán, nói rằng Hương Ba lạp ở Tây bắc, do đó ngươi mới cố ý tới Tây Bắc.

Thì ra Địch Thanh biết rõ Chủng Thế Hành có năng lực, để dốc toàn lực tìm Hương Ba Lạp, hắn đã nói với Chủng Thế Hành những lời tiên tri của Thiệu Ung năm đó.

Địch Thanh gật đầu đáp:

-Đúng vậy, theo lời tiên tri, Hương Ba Lạp chắc là ở vùng Tây Bắc.

Đột nhiên ánh hào quang nhấp nháy, Địch Thanh thất thanh kêu lên:

-Địa bàn mà Quy Nghĩa quân từng thống lĩnh cũng ở vùng Tây Bắc này của chúng ta. Ta đã ở Duyên Châu tìm hiểu không được tin tức của Hương ba Lạp, chẳng lẽ…Hương Ba Lạp lại ở trong phạm vi thế lực của Tào gia sao?

Chủng Thế Hành vỗ vỗ đùi, gật đầu nói:

-Điều ngươi nói chính là điều ta đang nghĩ đến. Tào Hiền Anh vì sao có thể có bản đồ Hương Ba Lạp? liệu có phải là do tổ tiên lưu truyền lại? Nếu như đó là do tổ tiên lưu truyền lại, vậy thì dường như có thể khẳng định tấm bản đồ này và mười một châu của Hà Tây là có liên quan tới nhau.

Địch Thanh lần đầu tiên hiểu rõ một chút về phạm vi của Hương Ba Lạp, càng nghĩ càng thấy đáng tin cậy, ý nghĩ xoay như chong chóng, nói;

-Chẳng lẽ…Hương Ba Lạp ở Qua Châu hoặc Sa Châu? Vừa nãy lão cũng nói, Quy Nghĩa Quân tử thủ hai châu này, liệu có phải là vì hai châu này, bản thân nó có gì đó huyền ảo.

Hít một hơi thật sâu, Địch Thanh thấy cảm xúc mênh mang, nghĩ: “Liệu có phải Hương Ba Lạp ở hai châu này?”

Chủng Thế Hành vẫn đang trầm tư, một hồi sau mới nói:

-Có khả năng, ngược lại cũng có thể không phải ở hai châu Qua, Sa. Hai châu đó nếu quả thực có Hương Ba Lạp, Tào Hiền Anh không có năng lực đi tìm, nhưng Tào Hiền Thuận ắt cũng phải biết bí mật này, vậy thì không có lý gì mà bỏ qua không đi tìm cái gọi là tiên cảnh, để đi quy phục Nguyên Hạo được.

Địch Thanh mới có chút manh mối thì lại bị dội cho gáo nước lạnh, dù biết rằng những điều Chủng Thế Hành nói là rất có lý.

-Có thể Hương B ở những châu khác, do đó mà người nhà Tào gia tuy có bản đồ trong tay nhưng vẫn không thể tìm được.

Chủng Thế Hành lại đưa ra phán đoán.

Địch Thanh gật gật đầu, đứng dậy nhìn về phía Tây xa xa mà nói:

-Vậy bây giờ nên làm thế nào?

Thật ra hắn rất muốn lập tức chạy tới Qua Châu để tìm hiểu tin tức.

Chủng Thế Hành đáp:

-Làm thế nào? Ngươi tất nhiên là ở lại trấn thủ thành, không phải là tốt lắm sao? Ngươi yên tâm giữ thành, giúp ta đánh giặc kiếm tiền. Ta sẽ dốc toàn lực giúp ngươi tìm Hương Ba Lạp. Mọi người đều không thiếu nợ nhau, còn có thể giúp nhau phát huy thế mạnh một cách tốt nhất.

Địch Thanh lại ngồi xuống, cố gắng lặng yên.

Chủng Thế Hành thấy Địch Thanh phút chốc có thể trấn tĩnh lại, âm thầm gật đầu, trong lòng nghĩ Địch Thanh thay đổi càng ngày càng nhiều, cũng vững vàng hơn. Hắn nghe thấy tin này mà vẫn có thể trấn tĩnh được, vậy là đã có phong độ của một vị đại tướng.

Một người nếu ngay cả bản thân mình cũng không thể khống chế nổi thì sao có thể khống chế cả ngàn quân?

Mắt đảo đi đảo lại thăm dò, Chủng Thế Hành bỗng nhớ ra một chuyện, nói;

-Đúng rồi, Địch Thanh, chúng ta mấy ngày qua kiếm được không ít tiền. Ta đã nói rồi, có một phần cho ngươi.

Dứt lời ông ta cười với vẻ mệt mỏi.

Địch Thanh biết chỉ có hắn là không nghĩ ra cách, không có Chủng Thế Hành thì sẽ chẳng có đâu ra cửa để kiếm tiền.

Mấy ngày nay Chủng Thế Hành lựa chọn dân chúng vào ở, rút trước tiền thuê nhà để buôn muối mỏ cũng kiếm được không ít. Địch Thanh nghe nói cũng có một phần tiền, lắc lắc đầu nói:

-Lúc trước tuy nói rồita thật sự không cần, nếu lão đồng ý thì hãy đem số tiền đó của ta dùng vào việc xây thành đi.

Chủng Thế Hành vỗ tay, cười nói:

-Quân tử nhất ngôn, chớ có nuốt lời.

Địch Thanh cũng không nhiều lời, trong lòng lại nghĩ: “Chủng Thế Hành một năm nay thật sự quá vất vả rồi.”

Mấy ngày nay Địch Thanh và Chủng Thế Hành sớm tối ở cùng nhau, sớm đã biết Chủng Thế Hành chẳng qua là bề ngoài keo kiệt, con người này ngày thường hết ăn rồi lại uống, nhưng tiền bạc rất phân minh. Nếu như phải tiêu tiền của bản thân thì cả ngày thịt không đụng tới một miếng, chỉ ăn chút rau quả cho khỏi đói, vì vậy mà vẻ mặt lúc nào cũng xanh xao.

Triều đình tuy nói là đồng ý xây thành Thanh Giản, nhưng Phạm Ung chi tiền luôn không khéo léo, lại mượn cớ nói trại Kim Minh chi tiêu rất lớn, do đó những khoản tiền cần thiềt để xây dựng thành Thanh Giản đều không thể đến đúng lúc, đúng chỗ.

Nếu như không có Chủng Thế Hành liều mạng kiếm tiền, lại tiết kiệm từ trong kẽ răng, thì thành Thanh Giản là sao có thể xây dựng nhanh chóng như thế này được.

Địch Thanh không kìm được nhớ lại một trước hai tháng trước, trong lòng vẫn không nguôi xúc động.

Khi đó, vào lúc xây thành khẩn trương nhất, thành Thanh Giản đột nhiên xảy ra vấn đề nghiêm trọng, đó là trong thành đào không ra nguồn nước, cho đào giếng thì không ngờ đào trúng tầng nham thạch.

Việc này nếu ở vào lúc không có chiến tranh thì không thành vấn đề, bởi vì có thể lấy nước từ sông Diên ngoài thành. Nhưng nếu thật sự đang chiến tranh, bị người vây quanh thành, trong thành lại không có nước, không chiến cũng thất bại. Lúc đó nguời ở thành Thanh Giản lo lắng không yên, người có thể bình tĩnh chỉ có Địch Thanh và Chủng Thế Hành. Chủng Thế Hành qua một đêm mà đầu bạc trắng, tóc trên trán rụng mấy trăm sợi. Ngày hôm sau Chủng Thế Hành quyết định tiếp tục đào giếng, đào lên được một sọt đá thì thưởng một trăm đồng tiền đồng.

Binh lính trong thành đào ba ngày liên tục, còn gian khổ hơn so với ác chiến, cuối cùng đến ngày thứ ba thì đào được nguồn nước.

Toàn thành mừng vui.

Những sợi tóc bạc trắng của Chủng Thế Hành cuối cùng cũng có tác dụng, không hề kêu đau đầu, nhưng rớt nước mắt.

Tuy rằng Chủng Thế Hành vẫn luôn kêu lớn, muốn làm ăn buôn bán lớn thì phải đầu tư, nhưng bắt đầu từ ngày hôm đó Địch Thanh mới hiểu sâu sắc hơn con người của Chủng Thế Hành. Hắn mới thà bị Chủng Thế Hành lừa, có ai biết đâu, cái đầu trọc kia, đôi giầy mục nát và khuôn mặt xanh xao thì có loại tình cảm thế nào?

Chủng Thế Hành thấy Địch Thanh nhìn ông ta xuất thần, không kìm nổi sờ sờ lên mặt hỏi:

-Mặt ta nở hoa sao?

Địch Thanh phất áo đứng lên, cười nói:

-Đâu có, chẳng qua lão vì ta vất vả thế này đi tìm hiểu tin tức, ta nên mời lão ăn bữa cơm.

Chủng Thế Hành chảy nước miếng, cuống quít gật đầu nói:

-Tiểu tử ngươi cũng có lương tâm đấy.

Đi theo Địch Thanh về phía thành trì, Chủng Thế Hành nói:

-Địch Thanh, ta thực ra luôn có một kế hoạch…. Binh lính không phải ở việc nhiều, mà là ở việc tinh anh. Ta mấy năm nay thực ra quen biết rất nhiều binh sĩ có chí, hay là chúng ta sắp xếp bọn chúng vào đội quân để cho ngươi chỉ huy. Có một số người tính cách hơi kỳ quái một chút, nhưng ta nghĩ ngươi có thể trấn áp được bọn họ.

Nói chưa dứt thì có tiếng vó ngựa truyền tới.

Một kẻ cưỡi ngựa phi như bay tới, Địch Thanh vốn tưởng là việc quân có gì khẩn cấp, lại nhìn thấy người mới tới có khuôn mặt ngựa, vừa mừng vừa sợ, hỏi:

-Trương Ngọc, sao lại là ngươi?

Người mới tới là người bạn tốt của Địch Thanh ở trong kinh, tên Trương Ngọc.

Hai người Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh là những người mà Địch Thanh kết bạn đầu tiên ở trong kinh thành. Trương Ngọc còn cùng với Địch Thanh sánh vai hợp lực, có thể nói là những nguời bạn sinh tử.

Sau khi trong cung thay đổi, đám thị vệ từng trải qua sự việc năm đó đều tự xin đi trấn thủ biên cương. Võ Anh đến Nhu Viễn ở đường Hoàn Khánh, Vương Khuê thì đi Trấn Nhung quân của đường Kính Nguyên, còn hai người Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh đều bị phân làm chỉ huy sứ trong trại Kim Minh.

Mọi người đều ở Tây bắc, chỉ vì mỗi người một nhiệm vụ, ngoài Địch Thanh ra thì tất cả đều không được tự ý đi đâu.

Địch Thanh ở thành Thanh Giản đã lâu, ngoài việc thủ thành thì chính là tìm tung tích của Hương Ba lạp. Hôm nay gặp được Trương Ngọc, thật là niềm vui bất ngờ.

Nét mặt Trương Ngọc đầy vẻ vất vả, gặp được Địch Thanh cũng vô cùng vui mừng, liền xoay người nhảy xuống ngựa nói:

-Địch Thanh, ngươi vẫn khỏe chứ?

Một câu nói rất đỗi bình thường, nhưng không biết bao hàm bao nhiêu sự ân cần thăm hỏi.

Địch Thanh còn nhớ rõ Trương Ngọc từng cứu tính mạng hắn. Trương Ngọc làm sao mà không nhớ được rằng Địch Thanh vì hắn mà ngăn cản đao kiếm?

Địch Thanh gật gật đầu nói:

-Không chết được, còn ngươi, thế nào rồi?

Trương Ngọc thấy nét mặt Địch Thanh đầy vẻ phong sương, luyện rèn, mất đi vẻ non nớt năm đó, có phần cương nghị hơn, trong lòng thầm nghĩ: “Hắn đa phần đã có thể thoát khỏi bóng ma năm đó rồi”, rồi cười sang sảng đáp:

-Ta cũng rất khỏe. Tuy nói giao tranh bách tính thống khổ, nhưng ở trại Kim Minh vẫn luôn nhàn rỗi, tay chân thấy ngứngáy rồi. Nghe nói ngươi hai năm nay ở Tây Bắc rất có danh tiếng, ta thật sự không phục đâu. Đều là chỉ huy sứ mà sao sự chênh lệch lại lớn thế?

Anh ta nói xong lại cười không ngớt.

Địch Thanh biết Trương Ngọc đang đùa, trong lòng thấy thật ấm áp, không kìm được nói:

-Lần này ngươi đến thành Thanh Giản là có việc gì vậy?

Trương Ngọc nhớ ra cái gì đó, thò tay vào ngực lấy ra một phong thư, nói:

-Lần này ta đến là đưa ngươi bức thư này. Là của Quách Tuân - Quách đại nhân gửi cho ngươi.

Địch Thanh lấy làm ngạc nhiên nó:

-Vì sao Quách đại ca lại kêu ngươi đưa thư?

Nhận bức thư, cảm giác bức thư rất mỏng nhưng lại nặng trĩu trong tay.

Địch Thanh càng ngạc nhiên, thầm nghĩ liệu đây là thư sao? Đó chính là một thỏi bạc, cũng không thể nặng đến như vậy được.

Không đợi mở ra, Trương Ngọc đứng bên giải thích nói:

-Ban đầu Quách đại nhân định tự mình giao bức thư này cho ngươi, đại nhân đi ngang qua trại Kim Minh, lúc tìm Thiết Bích tướng công thì được biết người Đảng Hạng lại có dấu hiệu xuất binh, nên vội vàng quay về phòng bị, biết được mối quan hệ giữa ta và ngươi không tệ, mới bảo ta giao bức thư này cho ngươi.

Địch Thanh mở phong thư, rút bức thư ra, trước mặt là một vệt ánh sáng vàng chói…

Chủng Thế Hành trừng đôi mắt tròn xoe như hai quả trứng gà, kêu lên:

-Tổ tông ơi, đây là thư sao?

Địch Thah rút ra, đây là một tấm giấy viết thư mỏng bằng bạch kim, bên trên chữ được khảm bằng vàng. Một tờ giấy viết thư đơn giản như vậy, nhưng giá trị vô cùng.

Góc dưới cùng bên phải của bức thư dùng vàng khảm ra một cây tram. Còn mặt chính bức thư, trên nền bạch kim lồi lên một bức vẽ hình Phật.

Bức tượng Phật mặt mũi hiền lành, tuy có đôi chút giống Phật Di lặc, nhưng chỉ có bụng là không to như vậy.

Phong thư này, trong sự xa hoa lại mang vẻ kỳ quái. Cây kim, hình tượng phật đó là biểu thị ý nghĩa gì?

Mà Quách Tuân từ khi nào lại có bút tích xa xỉ như vậy?

Địch Thanh hết ngạc nhiên này lại đến ngạc nhiên khác khi thấy trên giấy viết bạch kim có mấy chữ được khảm bằng vàng thì chăm chú nhìn.

Mấy chữ đó là: “Muốn đi Hương Ba Lạp, phải tìm Điệt Mã”.

Địch Thanh kinh ngạc nhìn chín chữ đó, nhất thời cảm thấy thật sự lẫn lộn.

Điệt Mã, Điệt Mã là cái gì?

Quách Tuân nếu chỉ muốn nói chín chữ này thì bảo Trương Ngọc truyền đạt cho hắn là được rồi. Nhưng Quách Tuân cố ý đưa cho hắn bức thư này, rốt cuộc là có ý gì? Bức thư này…thật kỳ quái.

Không biết bao lâu, lúc này Địch Thanh mới nhìn về phía Trương Ngọc, không hiểu nói:

-Trương Ngọc, bức thư này rốt cuộc có ý gì? Quách đại ca muốn nói điều gì chứ?

Hắn tuy không hiểu, nhưng thấy Quách Tuân vẫn nhớ không quên vì hắn mà tìm Hương Ba Lạp, trong lòng Địch Thanh vô cùng cảm kích.

Trương Ngọc cũng bị sự xa hoa của bức thư kia làm cho vô cùng kinh ngạc, lẩm bẩm nói:

-Cha mẹ ơi! nếu sớm biết là loại thư này thì ta truyền tin miệng cũng được rồi. Tờ giấy viết thư này, nếu là đổi lấy rượu thì có thể đổi được bao nhhiêu rượu nhỉ?

Anh ta tất nhiên là đang nói đùa, định thần lại, Trương Ngọc nói:

-Quách đại nhân vội vã rời đi, chỉ bảo ta giao bức thư này cho ngươi. Đúng rồi, ngài còn nói mấy câu, ngài nói sự việc một lời không nói hết được, nhưng ngài ấy đã tìm được manh mối quan trọng liên quan tới Hương Ba Lạp ở Thổ Phiên. Đợi ngài xử lý xong việc quân, sẽ nói cụ thể với ngươi.

Trong lòng Địch Thanh chấn động, biết rằng Quách Tuân trước giờ không dễ mà nói ra. Quách Tuân nếu đã nói tìm ra manh mối quan trọng thì tuyệt đối sẽ không làm Địch Thanh thất vọng.

Trương Ngọc đã xoay người nhảy lên ngựa.

Địch Thanh ngạc nhiên hỏi:

-Ngươi… định đi luôn sao?

Trương Ngọc gật đầu đáp:

-Đúng vậy, Thiết Bích tướng công nể mặt Quách đại nhân nên mới để ta đi giao thư. Thư giao tới rồi, ta cũng phải nhanh chóng quay trở về. Dẫu sao nghe Quách đại nhân nói người Đảng Hạng có khả năng sẽ xuất binh vào mùa đông này. Ta cũng là chỉ huy sứ, phải nhanh chóng trở về trấn thủ trại. Ban đầu Vũ Hanh muốn đi đưa thư…nhưng vì ta rất muốn nhìn thấy ngươi nên đã cướp lấy chạy đi.

Trong lòng Địch Thanh cảm kích, thầm nghĩ quãng đường từ trại Kim Minh tới thành Thanh Giản cũng đến chừng hai trăm dặm. Trương Ngọc đã bôn ba như vậy, tình sâu nghĩa nặng, há lại liếc mắt nhìn đơn giản vậy sao?

Nhưng rốt cuộc Địch Thanh không nói lời cảm ơn, chỉ ân cần nói:

-Trời lạnh rồi, nhìn có vẻ như tuyết sắp rơi, ngươi đi đường cẩn thận.

Trương Ngọc cười ha hả, khoát khoát tay, quay ngựa rồi nghênh ngang rời đi.

Địch Thanh nhìn Trương Ngọc đi xa, nhìn xuyên qua màn sương thấy bóng người xa tận chân trời, rồi dần dần phai nhạt.

Cây cối bạc phơ, gió bắc lạnh, Địch Thanh thở, hà hơi thành sương, lúc này mới phát hiện thì ra thấm thoắt đã lại đến mùa đông giá rét. Đột nhiên cảm thấy mặt hơi lạnh, Địch Thanh ngẩng đầu lên nhìn, thấy trên trời không biết từ lúc nào tuyết đã bắt đầu rơi.

Cánh tuyết nhảy múa, như những chùm sao liên tục rơi xuống. Địch Thanh không kìm được nhìn Chủng Thế Hành, trong lòng bề bộn không thôi.

Hắn vừa mới có một chút niềm tin là Hương Ba Lạp ở mười một châu Hà Tây, vì sao Quách Tuân đột nhiên nói chắc chắn với hắn là muốn tìm Hương Ba Lạp thì phải tìm Điệt Mã.

Điệt Mã rốt cuộc là cái gì chứ? Hương Ba Lạp và Thổ Phiên có liên quan? Suy nghĩ của Địch Thanh dồn dập, nhất thời không thể tìm được manh mối.

Trương Ngọc nhanh chóng quay ngựa trở về, thấy tuyết rơi dầy, đêm đã khuya tìm một nơi kín gió để nghỉ ngơi, ngày mai trời sáng rồi lại chạy tiếp về trại Kim Minh.

Tuyết rơi nhiều như dồn cả đến, nhuộm trắng cả vạn dặm.

Núi non trùng điệp như rồng, sông Hoàng Hà một dải, bao la hùng vĩ.

Trương Ngọc không còn lòng dạ nào thưởng thức cảnh tuyết rơi, chỉ trắch ông trời gây rắc rối cho hắn. Đến gần buổi trưa, cuối cùng cũng về tới trại Kim Minh.

Dưới bầu trời, trại Kim Minh như rồng cuộn, hổ ngồi, coi thường trời đất. Phân trại ba mươi sáu của trại Kim Minh giống như Thương rồng vảy ngược, mỗi tấm vảy bất kỳ đều phát ra sự thần uy khiến người ta phát sợ.

Trương Ngọc hồi lệnh trước, đi về phía trại An Phong với vẻ u ám.

Trại Kim Minh có mười tám tuyến Khương Binh, ba mươi sáu doanh trại, uốn lượn trong núi tạo thành rào chắn quan trọng nhất cho vùng Duyên Châu Tây bắc. Lý Vũ Hanh canh gác trại Tiền Xuyên ở đầu phía nam, còn Trương Ngọc phụ trách trấn thủ trại An Phong ở tận bắc.

Phía bắc trại An Phong mười mấy dặm chính là vùng đất mà Khương Hán lẫn lộn.

Trương Ngọc đã không thấy được nụ cười khi gặp Địch Thanh, trong lòng chỉ nghĩ: “mấy ngày nay cũng không gặp được Vũ Hanh, không biết hắn thế nào rồi. Lúc gặp Địch Thanh, nhắc một câu tới Vũ Hanh, nhưng mà không ngờ Địch Thanh cũng lạnh lùng. Vũ Hanh cũng không biết mình đi đưa thư cho Địch Thanh, kể từ sau khi rời kinh, cũng kông biết thái độ của Vũ Hanh lạnh lùng trước, hay là ta xem thường hắn trước đây. Nếu có thời gian rảnh thì cũng muốn tìm hắn nói chuyện một chút. Sự việc trôi qua đã lâu vậy rồi, vì sao mình vẫn không thể bỏ qua được chứ?

Thì ra năm đó Tào phủ đánh một trận, Địch Thanh, Trương Ngọc kề vai sát cánh chiến đấu, còn Lý Vũ Hanh lại trốn ở một bên. Trương Ngọc mỗi lần nghĩ tới chuyện đó, trong lòng đều có chút thắc mắc. Sau này ở lăng Vĩnh Định, Lý Vũ Hanh vẫn nhát gan như trước, vẫn ỷ vào Địch Thanh cứu mạng y. Điều vô lý nhất là trong lúc cung biến, Lý Vũ Hanh trong cuộc loạn chiến lại không ra sức giết giặc, ngược lại lại giả chết để thoát thân.

Bởi vậy mà Trương Ngọc trở nên lạnh lùng với Lý Vũ Hanh, sau khi đến Tắc Hạ, mối quan hệ của hai người cũng không vì ở cùng điện mà thân thiết hơn, ngược lại còn trở nên bất hòa.

Mỗi lần nghĩ tới chuyện này, trong lòng Trương Ngọc cũng không biết là cảm giác của mình thế nào.

Lúc tới gần trại An Phong, bỗng nhiên nghe thấy những tiếng ồn ào ở phía bắc trại, Trương Ngọc hơi run, vội hỏi binh lính của trại:

-Có chuyện gì vậy?

Trại binh trả lời:

-Trương chỉ huy, ngài trở về rồi, có hơn ngàn người Khương đang khiêu chiến ngoài trại. Ngài không có mặt, Lý công tử và Hồ phó chỉ huy đã xuất trại nghênh chiến rồi.

Trong lòng Trương Ngọc kinh sợ, anh ta biết Lý công tử chính là Lý Hoài Bảo, cũng chính là con trai của Thiết Bích Tướng công Lý Sĩ Bân. Còn Hồ phó chỉ huy tên gọi là Hồ Chước, vốn là trợ thủ của Trương Ngọc, phò tá Trương Ngọc trấn thủ trại An Phong.

Lý Hoài Bảo xuất binh, thắng thì còn dễ ăn nói, nếu như có chuyện, chỉ e Trương Ngọc anh ta khó mà tránh khỏi liên can.

Nghĩ đến đây, Trương Trương Ngọc vội vàng tới phía bắc trại, chưa tới gần thì đã nghe thấy những tiếng hoang hô từng đợt. Trương Ngọc giương mắt nhìn, thấy phía trước có người thúc ngựa chạy tới. Người dẫn đầu đó cũng có vẻ tuấn tú, tuy chỉ hai mắt hơi bé, quầng mắt thâm đen, bộ dạng như thiếu ngủ.

Trương Ngọc nhận ra người đó chính là Lý Hoài Bảo, anh ta thở phào một cái, rồi nghênh đón nói:

-Lý công tử, công tử không sao chứ?

Lý Hoài Bảo liếc Trương Ngọc một cái, bỗng nhiên bật cười ha hả.

Trương Ngọc có chút khó hiểu, không kìm được hỏi lại:

-Vì sao Lý công tử lại cười như vậy?

Lý Hoài Bảo cười một hồi lâu rồi mới quay đầu sang một người đàn ông mặt xanh đứng bên cạnh nói:

-Ta thì có chuyện gì được chứ? Hồ Chước, ngươi hãy kể lại chuyện nực cười cho chỉ huy sứ của các ngươi nghe đi.

Hồ Chước vốn là trợ thủ của Trương Ngọc, nhưng nhìn ánh mắt Trương Ngọc mỉm cười thì châm biếm nói:

-Trương chỉ huy, sự việc thật sự buồn cười. Người Khương khiêu chiến bên ngoài trại, ban đầu vênh váo tự đắc. Lý công tử đang tuần tra nơi đây, thấy thế giận giữ, lệnh cho binh sĩ ra tay xuất kích. Không ngờ mới giương cờ khỏi doanh trại thì đám người Khương đó liền quay đầu bỏ chạy.

Nói dứt lời gã lại cười ha hả.

Trương Ngọc thầm nghĩ: “điều này thì có gì đáng cười chứ? Lý Hoài Bảo ngươi ở trước mặt ta thể hiện sự uy phong, người Khương thấy các ngươi giương cờ liền bỏ chạy, ở đây dường như có gì đó kỳ lạ.”

Trương Ngọc xử lý công việc khôn khéo, thấy mọi người đều đang cao hứng, không tiện nghi ngờ, chỉ thản nhiên nói:

-Lý công tử thật uy phong.

Hồ Chước nói theo:

-Uy phong nhất, buồn cười nhất không phải là người Khương tháo chạy, mà là Lý công tử đuổi theo, có người Khương ngã ngựa, thấy Lý công tử quát hỏi vì sao không đánh mà bỏ chạy, ngài đoán xem bọn chúng trả lời thế nào?

Trương Ngọc thấy vẻ mặt Hồ Chước ngạo mạn, trong lòng giận giữ, nhưng vẫn giữ sự bình tĩnh nói:

-Ta rất ngốc, không đoán được.

Hồ Chước giễu cợt nói:

-Người Khương đó nói chúng vốn cho rằng nơi đây chỉ có mình Trương chỉ huy nên mới dám đến, không ngờ Lý tướng quân cũng ở đây, bọn chúng nhìn thấy cờ của Thiết Bích tướng công thì sự dũng cảm đều tan biến hết, nào dám đánh lại?

Dứt lời gã lại cười lớn.

Mọi người cùng cười, Lý Hoài Bảo ngồi trên ngựa cũng cười ngặt nghẽo, chỉ vào Trương Ngọc nói:

-Trương chỉ huy à, ngươi…haha.

Y không nói gì nữa, nhưng tỏ ý kinh miệt mà không cần nói cũng biết. Y vung roi da, thúc ngựa bỏ đi.

Trương Ngọc đứng đó, trong lòng tức giận, nắm chặt hai bàn tay, móng tay gần như đâm vào da thịt anh ta.

Lý Hoài Bảo đâu thèm để tâm tới tâm trạng của Trương Ngọc. Y vốn là kẻ kiêu xa. Mấy năm gần đây ỷ vào danh tiếng của phụ thân nên làm mưu làm gió ở trại Kim Minh, kiêu ngạo thành quen. Sau khi làm nhục Trương Ngọc, Lý Hoài Bảo chẳng còn muốn đi tuần tra các trại khác nên chuẩn bị trở về nghỉ ngơi, không ngờ có thủ hạ tên gọi là Thượng Quan Nhạn vội vã chạy tới báo:

-Lý công tử, Hạ Tùy Hạ Bộ Thự đến đây, anh ta tìm ngài khắp nơi.

Lỳ Hoài Bảo khẽ giật mình, hỏi lại:

-Hạ Bộ Thự đến đây làm gì?

Cha con Lý Gia ở trại Kim Minh tuy là chúa đất, nhưng chức quan của Lý Hoài Bảo còn thua xa Hạ Tùy. Hơn nữa Hạ Tùy còn có người cha là Đô bộ thự, cho dù là Lý Sĩ Bân cũng kông dám chậm trễ. Lý Hoài Bảo cũng luôn luôn khách khí với Hạ Tùy.

Thượng Quan Nhạn đáp:

-Nghe nói người Đảng Hạng lại xuất binh rồi, lần này tấn công toàn diện Tây bắc. Không chỉ Hạ Bộ Thự đến, mà cha anh ta là Đô bộ thự cũng đến, lúc này đang bàn bạc với tướng công về chuyện làm thế nào đối phó người Đảng Hạng.

Lý Hoài Bảo hơi kinh sợ, sau đó cười lạnh lùng nói:

-Bất luận người Đảng Hạng đánh tới như thế nào, chẳng lẽ còn dám đánh tới trại Kim Minh sao?

Trại Kim Minh đã do ba đời Lý Gia xây dựng nhiều năm, được mệnh danh là tường đồng vách sắt của tây Bắc.

Mấy năm gần đây, biên thùy tuy có lúc chiến loạn, nhưng trại Kim Minh trước sau không bị tấn công quá lớn.

Thượng Quan Nhạn cười xòa nói:

-Đúng vậy, đúng vậy, nhưng…công tử vẫn muốn gặp Hạ bộ thự sao? Lúc này hạ bộ thự đang ở trong Khoan Tâm đường của trại Hoàng Đôi.

Trại Hoàng Đôi là một phân trại xa hoa nhất của trại Kim Minh, bên trong có tòa nhà vô cùng xa xỉ. Khoan Tâm đường là nơi tinh xảo nhất trong trại Hoàng Đôi, bên trong có ca múa vô cùng tuyệt vời, còn có rượu uống mãi không bao giờ hết.

Lý Hoài Bảo nghe nói Hạ Tùy đang ở trại Hoàng Đôi, bất giác khẽ cười nói;

-Ngươi làm rất tốt, đưa ta đi nào.

Lý Hoài Bảo luôn cảm thấy Hạ Tùy và y là cùng một loại người, đều là không nhịn tửu sắc, là những nhân vật phóng đãng. Lý Hoài Bảo cũng không muốn đi gặp Hạ Thủ Vân. Đô bộ đầu tất nhiên là do Thiết Bích tướng công tiếp đón, còn việc chiêu đãi Bộ thự mới là việc mà Lý Hoài Bảo y nên làm.

Lỳ Hoài Bảo chưa tới Khoan Tâm đường đã nghe thấy tiếng đàn vang lên du dương, khóe miệng bất giác nở nụ cười.

Hạ Tùy đang ngồi trong Khoan Tâm đường, mắt chăm chú xem múa hát ở trước đường.

Trong đại đường có một vũ nữ mặc chiếc váy màu trắng quay tròn xung quanh, nhảy múa như tuyết bay, để lộ hai bắp chân trắng nõn đẫy đà.

Ánh mắt Hạ Tùy dường như muốn rớt xuống thân thể vũ nữ kia.

Thượng Quan Nhạn vốn đang tiếp đãi, Lý Hoài Bảo lắc đầu dừng lại, lặng lẽ chờ màn múa hát dừng, Lý Hoài Bảo thầm nghĩ: “Cha con Hạ thị quyền cao chức trọng, cha t đang chiêu đãi Hạ Thủ Vân, mình nhất định phải khiến cho Hạ Tùy hài lòng mà quay về mới được.”

Đợi bài múa xong, vũ nữ cuộn tròn tại chỗ, chiếc váy chảy xuống như muốn rơi, tựa như bài ca đưa tiễn mặt trời lặn lúc hoàng hôn

Bên trong đường yên tĩnh, yên tĩnh như tuyết, tuyết là cô quạnh.

Tiếng vỗ tay vang lên, Lý Hoài Bảo vỗ tay bước vào, cười lớn nói:

-Hạ công tử, điệu múa này… có được không?

Hạ Tùy như là mới nhìn thấy bộ dạng của Lý Hoài Bảo, ngồi xuống mỉm cười đáp:

-Không ngờ trại Kim Minh cũng có màn ca múa này. Ta cho dù ở Biện Kinh cũng ít được thấy.

Lý Hoài Bảo đi tới chỗ thủ hạ của Hạ Tùy ngồi, cùng cười nói:

-Hạ công tử nếu thích có thể hàng ngày đến đây thưởng thức.

Ánh mắt Hạ Tùy chớp chớp, khẽ thở dài nói:

-Ta thì vẫn thích, nhưng cha ta không cho phép. Người Đảng Hạng lại xuất binh ra Hạ Lan Nguyên, xuôi xuống phía nam tấn công quân Bảo An, bao vây tấn công cửa bắc, tình hình quân sự Tây Bắc rất cấp bách rồi.

Lý Hoài Bảo cười lớn đáp:

-Người Đảng Hạng tấn công vội thì có ích gì? Có Đô bộ thự và Bộ thự điều binh khiển tướng, bày mưu tính kế, người Đảng Hạng còn không phải là sẽ giống năm trước, thất bại mà quay về sao?

Hạ Tùy cười khách khí, trong điệu cười giống như ẩn chứa điều gì,

- Lý công tử thật biết nói chuyện. Đô bộ thự cố nhiên có thể bày mưu tính kế, nhưng nếu trại Kim Minh phòng thủ kiên cố thì vẫn có thể thoải mái như vậy. Nhưng cẩn thận một chút vẫn hơn, do đó Đô bộ thự và ta đến đây là còn muốn xem trại Kim Minh chuẩn bị thế nào rồi.

Lý Hoài Bảo kiêu ngạo nói:

-Hạ công tử cứ yên tâm, cho dù người Đảng Hạng có cả trăm vạn hùng binh đánh tới cũng không thể làm được gì trại Kim Minh. Còn trại Kim Minh đây thì còn thành Duyên Châu. Hạ công tử chắc không biết chuyện hôm nay nhỉ.

Y không xưng hô theo cấp quan của Hạ Tùy, mà xưng hô theo quan hệ cá nhân, chính là muốn lôi kéo mối quan hệ này.

Hạ Tùy hơi có chút kinh ngạc, nói:

-Hôm nay đã xảy ra chuyện gì vậy?

Lý Hoài Bảo lại đem chuyện người Khương thấy cờ thì hồn bay phách lạc nói lại, rồi cười đắc ý. Tinh thần Hạ Tùy hơn rung lên, đập bàn nói:

-Không ngờ Thiết Bích tướng công uy danh như vậy, một khi đã như vậy, ta còn lo lắng gì nữa?

Lý Hoài Bảo cười nói:

-Đúng là như vậy. Hạ công tử ở đây, không cần lo lắng điều gì cả.

Hạ Tùy đột nhiên lắc đầu đáp:

-Haiz, ta chỉ lo một chuyện.

-Hạ công tử lo lắng chuyện vì vậy?

Lý Hoài Bảo có chút ngạc nhiên hỏi lại.

Nét mặt Hạ Tùy lộ vẻ đau khổ nói:

-Ta chỉ e ở đây rượu ngon quá nhiều, ta sẽ say chết ở đây mất.

Lý Hoài Bảo bừng tỉnh ngộ, biết là Hạ Tùy đùa, cười lớn nói:

-Hạ công tử thật biết cách nói chuyện. Thượng Quan Nhạn, đi lấy loại rượu ngon nhất tới đây, đêm nay ta và Hạ công tử không say không về.

Rượu chảy xuôi như nước, múa xoay tròn như gió.

Trong tửu sắc, thời gian lúc nào cũng trôi nhanhdòng nước chảy siết.

Màn đêm đã buông xuống, bóng đêm dần về khuya nhưng trước Khoan Tâm đường càng thêm náo nhiệt, vũ nữ uốn lượn như cuồng phong cuốn tuyết.

Hạ Tùy liếc nhìn ra ngoài trời, ánh mắt hiện lên vẻ kỳ dị, cuối cùng vươn vai, lẩm bẩm nói:

-Đến lúc rồi.

Xem ra gã uống rất nhiều, nhưng ánh mắt không hề có vẻ say.

Lý Hoài Bảo sớm đã tám phần say, không nghe rõ Hạ Tùy nói gì, nói lớn:

-Hạ công tử, ngài còn muốn gì nữa? Có gì thì cứ nói, ở đây có ta sẽ lấy cho ngài ngay.

Nét mặt bẽn lẽn, nhìn vũ nữ múa trước đường, Lý Hoài Bảo cười dâm tà nói:

-Ta thấy công tử hình như rất thích cô bé vũ nữ này, hay là đêm nay hãy để có bé đó phục vụ ngài?

Hạ Tùy không nhìn vũ nữ, đột nhiên nói:

-Lý công tử, cha ta đối với Lý gia ngươi thế nào?

Lý Hoài Bảo lại cười, mượn cớ say, vỗ thật mạnh vào ngực đáp:

-Ân trọng như núi.

Những lời này của Lý Hoài Bảo cũng không trái lương tâm, bởi vì không lâu trước, Nguyên Hạo từng gửi thư, cẩm bào và đai vàng ở Tống cảnh, hẹn với Lý Sĩ Bân phản Tống, nhưng bức thư này không biết vì sao lại rơi vào tay Hạ Tùy, sự việc này cũng bị Phạm Ung biết được.

Tạo phản vốn lạ tội danh lớn, nhưng Hạ Thủ Vân, Hạ Tùy đều cho rằng đây là kế phản gián của Nguyên Hạo, lại nói với Phạm Ung là cha con Lý gia và người Đảng Hạng có mối thùuyền kiếp, tuyết đối sẽ không làm việc này. Phạm Ung nghe đề nghị của Hạ Thủ Vân rằng đem chuyện này ra cũng không giải quyết được gì.

Chính vì chuyện này nên cha con Lý gia rất cảm kích cha con Hạ gia.

Hạ Tùy thở nhẹ nhàng, từ từ đứng dậy, đi tới trước mặt Lý Hoài Bảo, hỏi:

-Vậy bây giờ cha con ta có việc rất khó, không biết ngươi có bằng lòng giúp không?

Lý Hoài Bảo lảo đảo đứng dậy, cố sức gật đầu đáp:

-Được, ngài nói đi, Hạ..công tử, ngài… ngài… nếu như muốn lấy đầu ta, ta cũng xin dâng hai tay.

Dứt lời, y cười hì hì, dùng hai tay nắm lấy đầu rồi đưa về phía Hạ Tùy, xong lại cười ha hả.

Y đã say lắm rồi, đi đứng không còn vững nữa, đột nhiên nghe một tiếng “choang”.

Lý Hoài Bảo vẫn chưa tỉnh cơn say, chợt cảm thấy cổ lạnh lạnh, chỉ cảm thấy toàn thân như bay lên, nhìn xuống phía dưới, chỉ thấy tay trên Hạ Tùy cầm chiếc đao, trên đao có máu, đang đối diện với một cái xác không đầu.

Lý Hoài Bảo bỗng bừng tỉnh:

- Ta..

Không kịp nghĩ gì nhiều, y đã lại cảm thấy không còn cảm giác gì nữa.

Hạ Tùy chỉ một đao là chém bay đầu Lý Hoài Bảo, máu tươi tuôn chảy, nhuộm đỏ cả sắc xuân.

Tiếng đàn đột ngột dừng lại, Hạ Tùy liền quát lên:

-Tiếp tục gảy đàn đi.

Tiếng đàn lại cất lên, vũ nữ nhảy múa không ngừng, xoay tròn xung quanh.

Trong đường, Thượng Quan Nhạn không hề có chút bối rối, nhưng mặt thì xanh lên.

Hạ Tùy quay đầu nhìn Thượng Quan Nhạn nói:

-Đến lúc rồi. Ở đây còn một nhân vật nữa là Trương Ngọc. Sau khi ngươi thu dọn hắn, hãy làm việc theo như kế hoạch.

Thượng Quan Nhạn hành lễ rồi rút lui. Hạ Tùy chậm rãi đi ra ngoài Khoan Tâm đường.

Tuyết đang lạnh, trời đất trắng xóa.

Hạ Tùy với tay nắm một nắm tuyết lau vết máu trên thanh đao. Thân đao sáng quắc ánh lên khuôn mặt dữ tợn. Hạ Tùy lau xong thân đao, lại chờ một chút, lúc này mới thủng thỉnh lấy từ trong ngực ra một ống trúc, rồi đốt sợi đồng.

Một tiếng “bụp” vang lên, trong đêm tối mịt mùng đột nhiên xuất hiện một đóa hoa chói lọi, pháo hoa như đóa hoa với hàng ngàn cánh hoa nở rộ, rực rỡ lóa cả mắt, chiếu sáng trại Kim Minh.

Thời gian rất nhanh, xa xa có những ánh lửa bập bùng, chiếu sáng cả màn đêm.

Sau khi pháo hoa tan hết, bầu trời đêm lại vắng lặng, ánh lửa khắp bốn phía, tất thảy ba mươi sáu trại Kim Minh bỗng nhiên sôi sục lên.

Hạ Tùy nhìn ánh lửa không chút ngạc nhiên, chỉ cười rồi thì thào nói:

-Trại Kim Minh… tường đồng vách sắt? Hay cho một tường đồng vách sắt!

Bên trong tiếng cười lạnh lùng của gã còn mang cả vẻ đắc ý.

Bên trong đường, ca múa vẫn chưa ngừng, tiếng đàn gấp gáp, mọi việc dường như vừa mới xảy ra. Chẳng qua là trò khôi hài, nhưng cái váy trắng kia lúc lắc như tuyết hoa tung bay, tựa như là một khúc hát tiễn đưa Lý Hoài Bảo, lại giống như là kết cục của trại Kim Minh, mở ra khúc dạo đầu ảm đạm.

 Chương 220 - 226: Liên hoàn

Trương Ngọc vẫn không ngủ được, trong lòng gã tràn đầy oán khí.

Ở trước mặt Địch Thanh dù gã vẫn nói cười trước sau như một nhưng sau lưng lại không hề vui vẻ. Gã chỉ biết nên cùng chia sẻ niềm vui bằng hữu mà không biết cũng phải chia sẻ cả điều không vui nữa.

Xem ra Địch Thanh đã tốt lên rất nhiều. Trương Ngọc thật lòng vui mừng cho Địch Thanh, nhưng uất ức này của gã khi nào mới hết?

Trại Kim Minh tường đồng vách sắt! Nhưng đối với Trương Ngọc mà nói, trại Kim Minh chẳng khác gì lồng sắt, gã ở trong đó vô cùng sầu não.

- Cộc cộc cộc!

Có người gõ cửa.

Trương Ngọc hơi kinh ngạc, không biết muộn như này rồi ai tìm đến mình? Chẳng hiểu vì sao trong lòng gã lại có chút bất an. Trương Ngọc giữ bội đao, chậm rãi tới trước cửa mở cửa phòng ra.

Ánh đèn lờ mờ chiếu lên khuôn mặt trắng bệch của Lý Vũ Hanh.

- Vũ Hanh, là ngươi?

Trong sự kinh ngạc của Trương Ngọc còn có chút vui mừng. Dù sao gã và Lý Vũ Hanh cũng là bằng hữu, trong đêm tuyết trong trẻo nhưng lạnh lẽo này có thể có được bằng hữu tâm sự, thật sự không tệ. Từ sau khi gã theo Địch Thanh trở về thì vẫn muốn tìm Lý Vũ Hanh nói chuyện, bọn họ là bằng hữu, chẳng phải bằng hữu thì nên khoan dung chút sao?

Lý Vũ Hanh chỉ “ừ”môt tiếng, trong mắt tràn ngập hàm ý phức tạp.

Trương Ngọc không để ý tới sự khác thường của Lý Vũ Hanh, đợi y vào phòng rồi mới bất ngờ phát hiện đi theo sau Lý Vũ Hanh còn có hai người. Trong hai người một là An Phong, Phó Chỉ Huy Hồ Chước, người kia là Thượng Quan Nhạn, thủ hạ của Lý Hoài Bảo.

Trương Ngọc lùi bước, Lý Vũ Hanh, Hồ Chước và Thượng Quan Nhạn đã chen lấn tiến vào. Trương Ngọc nhíu mày, không kìm nổi lại lùi một bước, chẳng hiểu sao trong lòng gã lạnh run.

Năm xưa gặp nạn ở Tào phủ, gã cũng có loại cảm giác này.

Nhưng khi đó còn có Địch Thanh sóng vai, còn lúc này...Lý Vũ Hanh và gã đang đối mặt với nhau.

Trương Ngọc cố duy trì sự trấn tĩnh, hỏi:

- Vũ Hanh, có chuyện gì vậy?

Gã thấy Lý Vũ Hanh cầm theo túi da, bên trong tròn vobiết đựng gì.

- Hôm nay Lý Hoài Bảo làm nhục ngươi.

Vẻ mặt Lý Vũ Hanh không chút thay đổi, nói.

Trương Ngọc nhíu mày, sau một lúc lâu mới nói:

- Thì sao?

Cảm xúc Lý Vũ Hanh đột nhiên trở nên cuồng bạo, kêu lên:

- Ngươi là huynh đệ của ta, hắn làm nhục ngươi chính là không nể mặt mũi huynh đệ chúng ta.

Trong lòng Trương Ngọc bỗng dưng trào dâng niềm xúc động, gã thật sự không thể tin Lý Vũ Hanh còn có thể nói ra được những lời này. Nhưng lời nói tiếp theo sau đó của Lý Vũ Hanh khiến Trương Ngọc khiếp sợ.

- Ta đã giết Lý Hoài Bảo!

Sắc mặt Trương Ngọc biến đổi, không kìm nổi quay sang nhìn Hồ Chước, ThQuan Nhạn. Hai người kia đều thờ ơ như đang xem diễn. Trương Ngọc cảm giác có vấn đề nhưng trong nhất thời không biết vấn đề ở đâu.

Vì sao ba người này lại đi cùng nhau?

- Ngươi không tin?

Lý Vũ Hanh thấy Trương Ngọc trầm mặc, nhếch miệng chế giễu.

Tâm tư Trương Ngọc xoay tít, sau một lúc lâu mới nói:

- Ngươi cũng biết giết hắn có hậu quả gì?

Giọng nói của Lý Vũ Hanh hơi run rẩy, đột nhiên kích động nói:

- Ta mặc kệ hậu quả gì! Ta biết ngươi không tin, nhưng ta đã giết hắn!

Y ném túi da kia xuống đất.

Một đầu người từ trong túi da lăn ra, máu thịt lẫn lộn. Trương Ngọc không kìm nổi cúi đầu xuống nhìn, mơ hồ nhận ra đó là đầu của Lý Hoài Bảo, trong lòng run rẩy kinh sợ, lại có chút buồn nôn.

Mặc dù gã căm ghét Lý Hoài Bảo, nhưng dù thế nào cũng không ngờ Lý công tử ban ngày còn ngang ngược mà lại chết như vậy.

Trong lòng dù hơi mờ mịt nhưng Trương Ngọc cũng không tin Lý Vũ Hanh có dũng khí giết Lý Hoài Bảo, càng không tin rằng Lý Vũ Hanh giết Lý Hoài Bảo là vì mình.

Nhưng Lý Hoài Bảo thật sự đã chết, vì sao?

Đúng lúc này, Trương Ngọc nghe một tiếng “soạt”vang lên, sự cảnh giác trong lòng dâng cao, hét to một tiếng lật người tránh né. Mặc dù gã tránh nhanh nhưng đao này chém tới lại quá mức bất ngờ.

Máu tươi bắn ra!

Trương Ngọc không kịp tránh, cánh tay trái lập tức bị chém thương, liền giơ đao ngang trước ngực, khàn giọng nói:

- Lý Vũ Hanh, ngươi điên rồi sao?

Người chém ra đao kia chính là Lý Vũ Hanh!

Sau khi Trương Ngọc bị thương thì càng kinh hãi, thương tâm lẫn phẫn nộ. Tuy gã biết Lý Vũ Hanh yếu đuối, nhưng dù nằm mộng cũng không nghĩ tới có một ngày người huynh đệ năm xưa sẽ xuất đao với gã!

Máu tươi “tí tách’ từ mũi đao rơi xuống mặt đất phát ra tiếng vang rất nhẹ. Trong phòng sáng tối, ngọn đèn mờ mờ tràn ngập hơi lạnh. Lý Vũ Hanh còn muốn xuất đao nhưng thấy trên mặt Trương Ngọc tràn ngập sự chấn kinh khiếp đảm thì hơi do dự.

Trong phòng yên lặng chốc lát, đột nhiên Thượng Quan Nhạn cười nói:

- Hắn không điên, chỉ là quá thông minh mà thôi.

Trương Ngọc nhìn ba người đối diện, trong lòng trầm xuống, dù gã không biết nguyên do nhưng đã hiểu rõ ba người trước mắt này đều muốn lấy tính mạng gã.

Gã đã không còn đường lui.

- Vì sao?

Trương Ngọc nhả từng chữ từ trong kẽ răng. Mặc dù trong lòng mơ hồ đoán được, nhưng ý nghĩ này thật sự quá kinh người, gã thật không dám nghĩ đến.

Thượng Quan Nhạn khẽ thở dài, giọng điệu thoải mái nói:

- Chẳng lẽ ngươi còn không hiểu ư? Lần này không chỉ giết một mình ngươi, mà Chỉ huy sứ ba mươi sáu phân trại của Kim Minh trại cũng phải chết.

Trong Ngọc kinh sợ, run giọng nói:

- Các ngươi muốn lấy Kim Minh trại, mà chỉ dựa vào mấy người các ngươi?

Thượng Quan Nhạn thản nhiên cười:

- Nếu như ngươi thông minh thì không nên hỏi câu này. Một năm qua, Phạm lão phu tử các ngươi quá rộng lượng, nên bọn ta đã lừa gạt lén lút để mấy ngàn dũng sĩ của chúng ta lẫn vào trong trại, hơn vạn người Khương đều mang lòng gian dối. Huống chi, chẳng bao lâu nữa trại còn có...

Y đột nhiên câm bặt, chậm rãi nói:

- Trương Ngọc, nếu ba người chúng ta ra tay, ngươi không có nửa đường sống, ngươi có biết vì sao ta còn chưa ra tay không?

Trương Ngọc thầm nghĩ “Thượng Quan Nhạn muốn nói là không lâu nữa ngoài trại sẽ có đại quân người Đảng Hạng lui tới hay sao? Điều này sao có thể? Thượng Quan Nhạn này có lai lịch gì?”

Lúc trước gã chỉ biết người này đầu nhập vào Lý Hoài Bảo không lâu thì được Lý Hoài Bảo tín nhiệm. Hôm nay thấy hắn trầm lạnh như vậy, tuyệt đối không phải nhân vật tầm thường.

Gã không cam lòng bó tay, lắc đầu nói:

- Vì sao ngươi còn không ra tay?

- Người hữu dụng cũng không cần chết.

Thượng Quan Nhạn thản nhiên nói:

- Lý Vũ Hanh hữu dụng, cho nên chúng ta không giết hắn. Chúng ta biết quan hệ giữa ngươi và Địch Thanh không tệ, vốn cũng đã muốn giữ ngươi lại, tuy nhiên Lý Vũ Hanh nói, tính tình ngươi cứng rắn sẽ không đầu hàng, tốt nhất là giết ngươi.

Trương Ngọc nhìn chằm chằm Lý Vũ Hanh, cười lạnh nói:

- Lý Vũ Hanh, ngươi hiểu ta như vậy, thật đúng là huynh đệ tốt của ta!

Vẻ mặt Lý Vũ Hanh vốn đầy xấu hổ, nghe vậy đột nhiên nổi giận nói:

- Đúng vậy, ta muốn giết ngươi đó, thì sao? Ta biết ngươi khinh thường ta. Sau chuyện ở Tào Phủ lần đó, ngươi vẫn luôn coi thường ta, ta nhịn ngươi lâu rồi. Bọn họ nói ta giết ngươi mới có thể sống. Mạng chỉ có một, ngươi chết còn tốt hơn ta chết.

Ánh mắt Trương Ngọc sắc nhọn, lạnh lùng nói:

- Lý Vũ Hanh, ngươi có phải là người không, lời nói này mà cũng nói ra được? Ngươi sợ chết, đúng là ta xem thường ngươi, nhưng ta vẫn tha thứ cho ngươi. Nhưng hôm nay ngươi lại vì bản thân mà muốn giết ta? Giết huynh đệ của ngươi?

Trương Ngọc đột nhiên mỉm cười, nụ cười tràn ngập sự thê lương:

- Ta nói sai rồi, có lẽ ngay từ đầu ngươi đã không coi ta và Địch Thanh là huynh đệ!

Lý Vũ Hanh nắm chặt đơn đao, cả người run rẩy, trong mắt đầy sự bi ai sâu sắc.

Thượng Quan Nhạn giễu cợt:

- Có phải là huynh đệ hay không không quan trọng, quan trọng là có muốn sống hay không.

- Ta muốn sống thì phải đầu nhập vào các ngươi, giống như Lý Vũ Hanh đi đánh lén Địch Thanh đúng không?

Trương Ngọc đã hiểu ý của Thượng Quan Nhạn.

Thượng Quan Nhạn mỉm cười:

- Cuối cùng ngươi đã nói một câu thông minh. Ta nghĩ ngươi là người thông minh thì nên biết lựa chọn như nào.

Y tự tin đắc ý, như mèo vờn chuột nhìn Trương Ngọc.

Thượng Quan Nhạn vẫn giấu tài không lộ, tự tin dù mình đơn độc ra tay, Trương Ngọc cũng không phải là đối thủ của y. Bởi vậy y cho Trương Ngọc lựa chọn, y thích nắm vận mệnh người khác trong tay mình.

Y đã để cho Trương Ngọc lựa chọn.

Trương Ngọc cũng cười, nụ cười tươi sáng như ánh trăng:

- Ngươi sai rồi, ta là kẻ ngu dốt.

Nói xong, thân hình gã bật tung lên, một đao bổ tới Lý Vũ Hanh.

Phản kháng đầu hàng, thời khắc sinh tử.

Trương Ngọc lựa chọn xuất đao, làm việc nghĩa không được lùi bước.

Biết rõ sẽ chết cũng phải xuất đao, tính tình Trương Ngọc là vậy. Gã có thể chấp nhận được cái chết, nhưng không thể chấp nhận được sự phản bội, bởi vậy gã xuất đao với Lý Vũ Hanh.

Phải giết Lý Vũ Hanh!

Đau đớn của sinh tử, không bằng đau đớn của sự phản bội.

Trong mắt Trương Ngọc có đau đớn nhưng xuất đao không chút lưu tình. “Soạt soạt soạt” liên tiếp ba đao, đao nào cũng tàn nhẫn. Lý Vũ Hanh tránh gấp, thân hình chợt lóe lên đến bên cạnh Thượng Quan Nhạn, khàn giọng nói:

- Cứu ta! Ngươi phải cứu ta!

Lý Vũ Hanh nhát gan, người nhát gan dù võ công giỏi đến mấy thì khi gặp nguy hiểm khí thế liền giảm sút vài phần, huống chi võ công Lý Vũ Hanh vốn không bằng Trương Ngọc.

Hồ Chước đã chuẩn bị ra tay.

Gã vẫn bất mãn mình chỉ là phó chỉ huy, gã hy vọng mượn cơ hội lần này để xoay chuyển. Đương nhiên, để được như vậy gã phải dốc sức cho người Đảng Hạng. Gã biết Thượng Quan Nhạn là cao thủ trong người Đảng Hạng, bởi vậy gã vẫn nghe theo Thượng Quan Nhạn như Thiên Lôi sai đâu đánh đó.

Trương Ngọc rút đao, nhưng Thượng Quan Nhạn lại không hề hành động làm Hồ Chước cũng có chút do dự.

Trong giây lát, Lý Vũ Hanh đã thảm hại không chịu nổi, Hồ Chước mới chịu rút đao, “soẹt”một tiếng, Thượng Quan Nhạn cũng đã rút kiếm.

Một kiếm lạnh lẽo đâm sượt qua Lý Vũ Hanh đâm vào vai trái Trương Ngọc.

Cơ hội xuất kiếm của Thượng Quan Nhạn rất tốt, y đã nhận thấy Trương Ngọc đuổi giết Lý Vũ Hanh bằng toàn bộ sự bi phẫn, đợi đến khi đao pháp có sơ hở, Thượng Quan Nhạn liền nhắm ngay sơ hở này, một kiếm là trúng.

Hồ Chước lập tức canh giữ ở cửa đề phòng Trương Ngọc bị thương bỏ chạy, gã đã nhận ra cục diện cuộc chiến, Trương Ngọc không phải là đối thủ của Thượng Quan Nhạn.

Thượng Quan Nhạn vừa mới thu kiếm về.

Bất thình lình lại có hai tiếng “Soẹt”, “phập”, sắc mặt Hồ Chước biến đổi lớn.

Một đao đã đâm vào bụng Thượng Quan Nhạn, có một đao đã chém vào vai Lý Vũ Hanh.

Thượng Quan Nhạn hét to, trên mặt lộ ra vẻ khó tin, y giống lên giận giữ, một cùi trỏ thúc vào ngực Lý Vũ Hanh. “Rắc” một tiếng, xương ngực Lý Vũ Hanh đã gãy, trường kiếm Thượng Quan Nhạn quay về lật tay đâm một kiếm vào ngực phải Lý Vũ Hanh.

Dù thế nào Thượng Quan Nhạn cũng không ngờ Lý Vũ Hanh luôn hèn yếu lại đâm y một đao. Chẳng lẽ Lý Vũ Hanh thật sự điên rồi?

Thượng Quan Nhạn tức thì nổi giận phản kích lại.

Ngực Lý Vũ Hanh sụp xuống, trong tiếng rên rỉ, máu tươi phụt ra, nhưng thời khắc trường kiếm đâm vào cũng không hề né tránh mà bổ nhào tới ôm chặt lấy Thượng Quan Nhạn, cắn lấy cổ họng của y.

Trương Ngọc đã ngây người, một đao của gã đã chém trúng vai Lý Vũ Hanh, thậm chí còn có thể cảm giác được sự hả hê và chua xót khi lưỡi đao cọ vào xương cốt.

Nhưng tất cả cảm giác đó lập tức bị nỗi đau tận sâu trong nội tâm thay thế.

Lý Vũ Hanh vì đả thương Thượng Quan Nhạn mà đã trúng một đao của Trương Ngọc gã? Lý Vũ Hanh giả vờ đầu hàng? Trương Ngọc gã đã trách lầm huynh đệ?

Ý niệm đó xẹt qua trong đầu, tay Trương Ngọc run lên.

Đúng lúc này, Thượng Quan Nhạn rống to, khắp mặt Lý Vũ Hanh đầy máu, đã ngửa mặt lên trời ngã xuống. Trên cổ Thượng Quan Nhạn đầy máu, bụng đã bị xuyên thủng, y dùng hết toàn lực giãy ra khỏi Lý Vũ Hanh, đầu óc choáng váng, trước mắt chỉ toàn màu đen.

Chưa kịp tỉnh táo, vẻ mặt Thượng Quan Nhạn bỗng dưng trở nên cổ quái dị thường, thân hình giật giật rồi mềm oặt trên mặt đất.

Trước khi chết y còn không tin là y đã thua dưới tay Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh.

Trương Ngọc chém một đao vào cổ Thượng Quan Nhạn, kêu to:

- Vũ Hanh.

Gã đỡ Lý Vũ Hanh đang lảo đão ngã xuống, trong lòng đau đớn như kim châm, thanh âm tựa như sói tru.

Hồ Chước xoay người bỏ chạy, chốc lát đã không còn bóng dáng. Y đã sợ, y thật sự không dám động thủ với loại người như này lần nữa.

Trương Ngọc căn bản không để ý tới Hồ Chước, chỉ ôm chặt lấy Lý Vũ Hanh, hai tròng mắt đỏ ngầu, khàn giọng nói:

- Vì sao, vì sao ngươi lại làm vậy?

Cảm giác trên tay mình còn nhuốm đầy máu của Lý Vũ Hanh, nhớ ra vết thương trên vai Lý Vũ Hanh chính tay gã chém vào. Trong lòng Trương Ngọc vô cùng hối hận, vung đao chém vào cánh tay mình, nhưng Lý Vũ Hanh đã yếu ớt nói:

- Đừng...

Thanh âm kia dù yếu nhưng lại như sấm nổ vang bên tai Trương Ngọc.

Lý Vũ Hanh còn chưa chết.

Trương Ngọc vội la lên:

- Vũ Hanh, ngươi cố chịu, ta đi tìm người...cứu ngươi.

Đột nhiên gã thấy Lý Vũ Hanh ho không ngừng, từng ngụm máu tươi cuồn cuộn trào ra, gã không kìm nổi trào nước mắt, biết Lý Vũ Hanh đã không được rồi.

Lý Vũ Hanh cười chua chát, khẽ nói:

- Không...dùng..rồi...Trương Ngọc, Thượng Quan Nhạn...là...là ..Dạ Xoa.

Trương Ngọc kìm nén sự sợ hãi, thấy không ngăn được Lý Vũ Hanh chảy máu, đau buồn nói:

- Ta đã giết hắn.

Khóe miệng Lý Vũ Hanh hiện lên nụ cười mờ nhạt:

- Hắn...lợi hại...

Trong đầu Trương Ngọc lóe chớp, khàn giọng nói:

- Ngươi biết tính tình của ta, biết ta chắc chắn sẽ liều mạng, biết ta đánh không lại hắn, cho nên ngươi mới giả vờ đầu hàng để gạt sự tín nhiệm của hắn, sau đó giúp ta giết hắn? Ta thật ngu xuẩn, ngươi một lòng vì ta, còn ta lại chém ngươi một đao.

Giờ khắc này, gã hận mình không thể chết ngay lập tức.

Gã vẫn cảm thấy Lý Vũ Hanh không có nghĩa khí, vẫn hiểu lầm Lý Vũ Hanh. Tim gã như bị đao cắt, hối hận cũng đã muộn, cũng căm hận bản thân, nếu gã thật sự coi Lý Vũ Hanh là huynh đệ thì tuyệt đối sẽ không chém ra một đao đó.

- Không...trách ngươi.

Thần thái trong mắt Lý Vũ Hanh mất dần, lẩm bẩm:

- Ta cũng không tin...mình..có dũng khí, huống chi là ngươi? Kim Minh trại xong rồi...

Đột nhiên y nắm chặt tay Trương Ngọc, tỉnh táo nói:

- Trương Ngọc, đồng ý...với ta!

- Ngươi muốn ta làm gì, nói đi.

Trương Ngọc khóc.

- Đi Duyên Châu..báo tin. Tìm Địch Thanh..báo thù cho ta!

Lý Vũ Hanh lẩm bẩm:

- Ngươi sẽ làm đươc.

Trương Ngọc hiểu, Lý Vũ Hanh thật sự hiểu gã. Lý Vũ Hanh sợ gã thẹn trong lòng, thậm chí còn tìm đến cái chết nên mới muốn gã làm chút chuyện này.

Thấy hơi thở Lý Vũ Hanh ngày càng mỏng manh, Trương Ngọc lệ rơi đầy mặt, nhưng vẫn nói:

- Vũ Hanh, ta sẽ làm được, ngươi tin ta! Ngươi ..cố chịu đựng...

Đột nhiên gã phát hiện mình nói dối, nhưng lúc này đây gã có thể nói gì?

Môi Lý Vũ Hanh giật giật, yếu ớt nói:

- Chúng ta...chúng ta...

Thanh âm của y thật sự quá nhỏ, Trương Ngọc áp hẳn tai vào kêu lên:

- Ngươi muốn nói gì nữa? Trương Ngọc cho rằng Lý Vũ Hanh vẫn còn tâm nguyện chưa xong, nên sớm đã quyết tâm làm bằng được cho y.

Thanh âm của Lý Vũ Hanh rất khẽ:

- Chúng ta...vẫn là...huynh đệ...Đúng không?

- Đúng, phải!

Trương Ngọc không ngừng trả lời, hoàn toàn không để ý đến lửa hừng hực đã thổi sang bên người. Rồi đột nhiên thấy cánh tay trũng xuống, tim Trương Ngọc rét lạnh.

Đầu Lý Vũ Hanh đã rũ xuống nhưng vẫn còn nụ cười nơi khóe miệng.

Huynh đệ, chúng ta vẫn là huynh đệ!

Y cười mà chết, có phải cho rằng trước khi chết đã được chấp nhận nên không hối hận không oán trách?

Trương Ngọc khóc như mưa.

Gã muốn kêu gào, muốn sám hối, muốn nói lời xin lỗi với Lý Vũ Hanh, nhưng gã đã không còn cơ hội.

Nước mắt kia hòa trộn với vết máu trên mặt, thương tâm như tuyết, tràn đầy tĩnh mịch.

Giữa lúc đó, nóc nhà sụp đổ, một ngọn lửa lớn ập xuống bao vây lấy Trương Ngọc. Chẳng biết từ lúc nào, trại Kim Minh đã lâm vào biển lửa.

Ánh lửa sáng rực thiêu đốt tuyết trong không trung. Tuyết bị thiêu đốt rơi theo gió mà khóc, những giọt nước mắt thương tâm rơi xuống mặt đất.

Lửa uốn như xà nuốt lấy nước mắt và máu.

Tiếng chém giết tại trại Kim Minh rung trời, Trương Ngọc cũng đã chạy ra khỏi trại Kim Minh.

Gã bị hơn mười vết thương nhưng không có vết thương trí mạng, khắp nơi đều là tiếng chém giết náo động ồn ào trại Kim Minh vốn như tường đồng vách sắt kia đã trở nên vỡ nát.

Lý Hoài Bảo đã chết, Lý Sĩ Bân vẫn còn chưa xuất hiện.

Hai người Hạ Thủ Vân và Hà Tùy cũng không ra chỉ huy, ba mươi sáu phân trại của trại Kim Minh như rắn mất đầu trở nên hỗn loạn.

Trại Kim Minh xong rồi.

Sau khi trong đầu Trương Ngọc xẹt qua ý nghĩ này liền đoạt lấy một con ngựa nhằm thẳng hướng nam mà chạy. Gã không biết chạy tới Duyên Châu như nào, cũng không biết đã gặp được Phạm Ung như nào.

Thời khắc gặp Phạm Ung, Trương Ngọc đau lòng nói:

- Phạm Tri Châu, trại Kim Minh bị chiếm đóng rồi, Duyên Châu có hiểm.

Phạm Ung kinh hãi, trong lúc nhất thời cũng rối loạn. Người Đảng Hạng lại tấn công tây bắc khiến Phạm lão phu tử thật sự sợ hãi. Năm ngoái tây bắc bị tấn công, dưới sự phòng thủ của Hạ Thủ Vân nên cuối cùng đã đánh lui được quân Đảng Hạng. Năm nay biết quân Đảng Hạng lại xuất binh, trước tiên Phạm Ung đi tìm Hạ Thủ Vân.

Hạ Thủ Vân lại tiếp tục bố trí, lệnh cho Lưu Bình, Thạch Nguyên Tôn dẫn binh nhanh chóng đi cứu viện Thổ Môn, phòng ngừa người Hạng Đảng đánh từ nơi ấy vào, lại lệnh cho Quách Tuân canh phòng nghiêm ngặt tuyến phía tây, lệnh cho Thanh Giản Thành xuất binh viện trợ Tắc Môn, Bình Viễn. Hạ Thủ Vân sợ trại Kim Minh có chuyện nên đặc biệt cùng Hạ Tùy đi tới trại Kim Minh, trấn thủ Duyên Châu Bắc Cương.

Phạm Ung thấy H᠔hủ Vân dốc sức như thế, trong lòng cảm động, vốn tưởng rằng lần này tuyệt đối không sai sót nhầm lẫn nên yên tâm ở phủ Tri Châu thưởng thức ca múa, không ngờ trại Kim Minh lại bị công phá?

Trại Kim Minh bị mất, môn hộ phía bắc Duyên Châu bị mở rộng ra.

Trong thành Duyên Châu vẫn chưa tới hai ngàn quân coi giữ, nếu quân Đảng Hạng tấn công đến, Duyên Châu sao thủ được?

Rốt cuộc Hạ Thủ Vân, Lý Sĩ Bân đang làm cái gì? Sao nhiều quân Đảng Hạng xuất hiện tại nơi này vậy?

Phạm Ung cũng không nghĩ nhiều, lập tức truyền lệnh:

- Nhanh gọi các bộ của Lưu Bình, Thạch Nguyên Tôn quay về cứu viện Duyên Châu.

Phạm Ung không phải Đô Bộ Thự, nhưng Hạ Thủ Vân không ở đây nên cũng khó tránh khỏi phải làm việc của Đô Bộ Thự.

Ông đã chẳng quan tâm Thổ Môn, Bảo An Quân như nào, lúc này tử chiến bảo vệ Duyên Châu mới là điều quan trọng nhất tại tây bắc!

Trương Ngọc nghe Phạm Ung điều binh khiển tướng, thần sắc đờ đẫn, trong lòng chỉ nghĩ: “Vũ Hanh muốn ta báo tin Duyên Châu, phải tìm Địch Thanh, nhưng hiện giờ Địch Thanh ở đâu?

Địch Thanh đang ở trại Bình Viễn.

Vừa mới tiễn Trương Ngọc đi, Địch Thanh liền nhận được tin tức người Hạng Đảng lại xuất binh ra khỏi Hạ Lan, vượt qua Hoành Sơn, dẫn binh xâm nhập biên giới nước Tống.

Bảo An Quân báo nguy, Thổ Môn báo nguy! Tây bắc lại nổi lên chiến tranh, quân tình khẩn cấp!

Năm năm tháng tháng hoa vẫn thế, tháng tháng năm năm cuộc chiến khác biệt.

Lần này Địch Thanh không đi trợ giúp Bảo An Quân mà nhận nhiệm vụ đi trợ giúp bảo vệ các trại xung quanh Thổ Môn. Bởi vì Thanh Giản Thành rất gần Thổ Môn.

Đương nhiên, đây cũng chỉ là tương đối, từ Thanh Giản Thành đến Thổ Môn có ba trăm dặm lộ trình, còn từ Thanh Giản Thành đến Bảo An Quân chỉ xa hơn lộ trình ba trăm dặm.

Ngay lúc quân lệnh của Phạm Ung ban ra trong ngày, Địch Thanh để Liêu Phong, Lỗ Đại Hải ở lại cùng hỗ trợ đám người Chủng Thế Thành canh giữ ở Thanh Giản Thành, còn mình dẫn hai người Cát Chấn Viễn, Tư Mã Bất Quần cùng với mấy trăm binh sĩ đi tới cứu viện trại Bình Viễn. Trại Bình Viễn lưng dựa vào núi cùng trại Ải Môn làm lá chắn cho Thổ Môn, khống chế ngăn chặn người Đảng Hạng xâm nhập vào yếu đạo của biên giới nước Tống.

Khi Địch Thanh đuổi tới Bình Viễn thì sắc trời đã tối, trên đường đi mọi người hữu kinh vô hiểm (có kinh hãi mà không có nguy hiểm), nhanh chóng đã đến đông trại Bình Viễn.

Địch Thanh kinh ngạc, thầm nghĩ căn cứ theo quân tình mà nói, người Đảng Hạng tung hoành từ núi giết ra, ý đồ dũng mãnh tiến vào từ Thổ Môn, không cần nói cũng biết, Thổ môn rất quan trọng của hai trại Bình Viễn và Ải Môn, chắc chắn sẽ phải bị tấn công mới phải, nhưng lúc này trại Bình Viễn lại chìm lặng như chết, không hề có dấu hiệu của việc bị đại quân đến tấn công, lẽ nào nói quân Đảng Hạng đột kích chỉ là phô trương thanh thế thôi?

Cửa trại đóng chặt tràn đầy sát khí dưới tuyết đêm. Địch Thanh hoang mang, hét to trước cửa trại:

- Chỉ huy sứ Địch Thanh của Thanh Giản Thành phụng mệnh đến trợ giúp, xin được gặp Vương Đô Giám.

Tướng phòng giữ trại Bình Viễn là Vương Kế Nguyên, vốn là Binh Mã Đô Giám Duyên Châu, nếu luận về chức quan thì còn trên cả Địch Thanh.

Địch Thanh hô xong, bên trong trại yên lặng.

Chẳng biết tại sao trong lòng Địch Thanh cảm thấy bất an. Cát Chấn Viễn lại lớn tiếng hô một lần nữa, lần này trên đài cao trong cửa trại có người đáp to:

- Có tin được không?

Địch Thanh lập tức nói:

- Có quân lệnh của Phạm Tri Châu làm bằng chứng!

Hắn thấy đối phương cẩn thận là điều nên làm, lúc này quân giặc xâm phạm biên giới, cẩn thận một chút luôn tốt.

Trên đài cao dùng dây thừng thả một cái giỏ bằng trúc xuống, người đó hô:

- Xin hãy để quân lệnh vào giỏ, đợi chúng ta kiểm chứng là thật hay giả rồi mới cho các ngươi vào trại.

Địch Thanh đem quân lệnh để vào giỏ bằng trúc, Cát Chấn Viễn có chút bất mãn nói:

- Chúng ta không ngại cực khổ chạy tới nơi này, bọn họ không đề phòng cướp lại đi đề phòng chúng ta!

Địch Thanh hơi nhíu mày, nói:

- Bình Viễn là nơi mấu chốt, bọn họ cẩn thận là rất tốt.

Tiếp qua một lát, người trong trại nghiệm qua quân lệnh, cất giọng nói:

- Quả nhiên là Địch chỉ huy, mau mở cửa trại nghênh tiếp Chỉ huy sứ tiến vào.

Cửa trại “kẽo kẹt” mở ra, năm sáu binh sĩ ra đón, người cầm đầu ôm quyền nói:

- Địch chỉ huy, tại hạ là Tả Khâu, từ lâu đã nghe đại danh Địch chỉ huy, không ngờ hôm nay may mắn được gặp ngươi. Tại hạ cũng là Chỉ huy sư, tuy nhiên Chỉ huy sứ này của ta không thể lớn bằng Địch chỉ huy sứ rồi.

Dứt lời cười ha ha, thái độ có chút thân mật.

Địch Thanh mỉm cười nói:

- Tả Chỉ huy quá khiêm nhường rồi. Không biết Vương Đô Giám hiện giờ đang ở đâu?

Tả Khâu cười nói:

- Quân tình khẩn cấp, Vương Đô Giám vẫn luôn tuần tra lại tây trại. Phiá đông trại cũng khá yên bình nên giao cho Chỉ huy sứ không ra gì là ta đến trông giữ.

Rồi quay sang nói với binh lính đứng bên:

- Còn thất thần ra đấy làm gì, mau tới bái kiến Địch chỉ huy.

Thái độ của những người kia vẫn luôn lãnh đạm,nghe vậy đều nói:

- Địch chỉ huy...

Địch Thanh mỉm cười nói:

- Đều là huynh đệ nhà mình cả, khách khí làm gì? Đúng rồi, gần đây tình hình quân địch như nào?

Nhưng trong lòng nghĩ: “Nơi này đề phòng không nghiêm mật như ta nghĩ.”

Tả Khâu cau mày nói:

- Bà cô nó chứ, mấy ngày trước đám tặc Đảng Hạng kia tập kích hung hãn, tuy nhiên chúng ta cũng đánh trả rất mạnh, vài lần đã đánh lui bọn chúng. Mấy ngày nay...người Đảng Hạng đã không có động tĩnh gì, hơn phân nửa là sợ không dám đến đây nữa.

Ánh mắt Địch Thanh lóe lên, đột nhiên nói:

- Trước khi ta tới đã phái thủ hạ thông bẩm với Vương Đại nhân là có quân tình quan trọng muốn bẩm báo Vương Đô Giám, không biết phía bên Vương Đô Giám đã báo lại với Tả Chỉ huy hay chưa?

Tả Khâu kinh ngạc, hai tròng mắt đảo ngược, lập tức nói:

- Nói, đương nhiên là nói. Vương Đô Giám còn nói, chỉ cần Địch chỉ huy sứ đến cần phỉa báo cho hắn biết, hắn sẽ đến gặp ngươi ngay. Tuy nhiên giờ trời đã tối, mời Địch chỉ huy đi nghỉ ngơi trước, ta phái người đi tìm Vương Đô Giám.

- Vậy thì vất vả rồi.

Địch Thanh cảm tạ nói.

- Đều là huynh đệ nhà mình cả, khách khí làm gì?

Tả Khâu lại cười, lập tức chỉ bảo một thủ hạ đi tìm Vương Đô Giám, rồi lại bố trí nơi nghỉ ngơi tạm thời cho đám người Địch Thanh.

Địch Thanh nói với Tư Mã Bất Quần:

- Ngươi và Chấn Viễn dẫn theo các huynh đệ nghe theo sự phân phó của Tả chỉ huy, ta gặp Vương Đô Giám rồi sẽ nhanh chóng quay về tìm các ngươi.

Tư Mã Bất Quân vẫn luôn trầm mặc, thấy thế định nói gì đó, đột nhiên nhìn về phía đất tuyết, gật đầu:

- Thuộc hạ đã biết.

Địch Thanh dậm chân, hà hơi nói:

- Mùa đông ở đây thật lạnh. Lúc ta ở Sơn Tây cũng chưa gặp thời tiết lạnh như này.

Tả Khâu hòa theo:

- Đúng vậy, nơi này lạnh hơn chút. Địch chỉ huy, mời bên này.

Y đi vào trước, mấy thủ hạ dẫn Địch Thanh đi tới một gian phòng lớn.

Tường bảo vệ quanh trại phần lớn là đơn sơ, căn phòng kia tuy lớn nhưng chỉ được dựng bằng mấy tấm ván gỗ, vô cùng thô kệch. May là trong phòng có một lò sưởi được đốt lên nên không phải lo lắng cái lạnh như băng này. Tả Khâu lệnh cho thủ hạ chờ ở bên ngoài, mình và Địch Thanh ngồi đối diện, phân phó:

- Mau châm trà.

Địch Thanh vừa định nói vài câu khách khí thì nước trà đã được bưng lên. Tả Khâu rót đầy hai chén trà, đột nhiên chân mày Địch Thanh nhướn lên, nói:

- A, Vương Đô Giám đến thì phải?

Tả Khâu hơi giật mình quay đầu lại nhìn, chỉ thấy đêm đông lạnh lẽo, ánh lửa trong phòng xuyên qua cũng không phá được bóng đêm băng lạnh. Bông tuyết chầm chậm rơi nhẹ nhàng đậu trên mặt đất càng tăng thêm vẻ yên tĩnh lạnh lùng.

Không ai đến.

Tả Khâu chậm rãi nghiêng đầu lại, mỉm cười nói:

- Nghe nói Địch chỉ huy cực kỳ tỉnh táo, hình như không giống lắm thì phải?

Dường như Địch Thanh cũng có chút ngượng ngùng vì nhận lầm của mình, xấu hổ nói:

- A...chắc là mèo hoang đi qua?

Tả Khâu cười to nói:

- Địch chỉ huy có thể nghe được cả tiếng mèo hoang đi lại, quả là không đơn giản.

Y không ra ngoài xem xét, dường như đã tin lời của Địch Thanh nói, bưng chén trà tới trước mặt, nói:

- Địch chỉ huy, mời dùng trà. Vương đại nhân sẽ tới nhanh thôi.

Địch Thanh nâng chung trà lên, ngửi rồi đặt xuống nói:

- Đây là Tiên xuân trà bậc nhất của Kinh Hồ, hương vị dù hơi nhạt nhưng dư vị kéo dài, ấm áp như đầu xuân, rất có ý vị.

Hắn học trà đạo cùng với Dương Niệm Ân, miệng nói nhưng lòng lại nhớ Dương Vũ Thường, trong lòng lại mang chút buồn bã.

Trong mắt Tả Khâu có chút kinh ngạc:

- Không ngờ Địch chỉ huy lại hiểu biết về trà đạo như vậy, ta thật là kẻ quê mùa không hiểu về thứ đó. Nào, trước cạn sau kính.

Dứt lời uống trà một hơi cạn sạch.

Địch Thanh cười nhấp một ngụm trà, từ từ nuốt xuống, nói:

- Trà này...phải từ từ thưởng thức mới ngon.

Tả Khâu đặt chén trà xuống, đột nhiên hỏi:

- Không biết Địch chỉ huy muốn tìm Vương Đô Giám thảo luận chuyện gì?

Thấy Địch Thanh trầm mặc không nói gì, Tả Khâu tự tátX쮨, lắc đầu nói:

- Tại hạ thật sự lỗ mãng, phải biết rằng Vương Đô Giám và Địch chỉ huy thảo luận là chuyện quan trọng, một người ngoài cuộc như ta sao có thể tham gia được?

Địch Thanh cười cười, nói:

- Thực ra lúc trước ta cũng không phái người đến, cũng không có quân tình gì cần Vương Đô Giám chỉ bảo.

Sắc mặt Tả Khâu biến đổi:

- Vậy lời ngươi vừa rồi nói là có ý gì?

Trong mắt Địch Thanh xẹt qua tia lạnh, hỏi ngược lại:

- Thật ra những lời này ta nên hỏi Tả chỉ huy mới đúng. Nếu chuyện ta nói chỉ là giả, vậy vừa rồi Tả chỉ huy nói đã báo cho Vương Đô Giám biết việc này, thì giải thích thế nào đây?

Bỗng nhiên Tả Khâu đứng lên lui ra sau hai bước. Địch Thanh vẫn như không có việc gì ngồi đó mỉm cười nhìn y.

Tả Khâu thấy Địch Thanh vô cùng trấn tĩnh, đảo mắt mỉm cười nói:

- Người khác nói Địch chỉ huy có chút khôn vặt, hôm nay thấy quả đúng là khiến ta mở rộng tầm mắt. Ngươi bắt đầu nghi ngờ chúng ta từ lúc nào?

Địch Thanh nói:

- Theo lý mà nói...quân tình khẩn cấp đã có viện quân đuổi tới, hẳn là ngươi phải lập tức dẫn ta tới gặp Vương Đô Giám. Lại còn nói Vương Đô Giám bận rộn không thể tự mình đến gặp Chỉ huy sứ. Ngươi quá khách khí...khách khí khiến ta cảm thấy có chút không thực.

Tả Khâu khẽ hít một hơi, thái độ chuyển sang lạnh lẽo:

- Ngươi quả nhiên là rất thận trọng. Nhưng ngươi quá cẩn thận, còn thủ hạ của ngươi lại không có đề phòng. Ngươi để mấy trăm thủ hạ ở bên ngoài chỉ sợ toàn quân sớm đã bị diệt rồi.

Địch Thanh bình tĩnh nói:

- Nếu ta đã có đề phòng rồi, sao không để bọn họ đề phòng chứ?

Tả Khâu cười lạnh nói:

- Ngươi chớ nói những lời khinh người, ta vẫn luôn để ý ngươi, trước sau chưa hề thấy ngươi phân phó gì cho thủ hạ.

Địch Thanh khẽ dậm chân:

- Ngươi lại không chú ý tới chân của ta, ta đã viết hai chữ “cẩn thận” ở trên mặt đất, sau đó dậm chân oán giận trời lạnh, rồi hủy luôn hai chữ kia. Ngươi không nhìn thấy, nhưng thủ hạ của ta thì thấy.

Tả Khâu cả kinh, nhớ lại tình hình lúc trước mới phát hiện đúng là như thế. Y vốn muốn loạn tâm của Địch Thanh, nào ngờ Địch Thanh vẫn vững như Thái Sơn. Ý nghĩ xoay chuyển, y đột nhiên bật cười dài, ném chén trà xuống đất, phát ra âm thanh trong trẻo.

Bỗng nhiên ngoài phòng có mấy người nhảy vào, thủ ở trước cửa, Tả Khâu ra vẻ thở dài nói:

- Địch Thanh, ngươi thật sự thông minh, nhưng dù thông minh chỉ sợ cũng không nghĩ ra được một chuyện, là trong nước trà này có độc.

Sắc mặt Địch Thanh biến đổi:

- Ta chỉ uống một ngụm.

- Một ngụm trà cũng đã đủ.

Tả Khâu vô cùng đắc ý.

Đột nhiên Địch Thanh mỉm cười, nụ cười vô cùng mỉa mai:

- Một chén trà kia mà có thể lấy được mạng ta sao?

Tả Khâu vốn đang dương dương tự đắc, bỗng dưng sắc mặt biến đổi lớn, giơ tay giữ yết hầu, khàn giọng nói:

- Ngươi ...ngươi?

Sắc mặt y xanh mét đã phát hiện có chút khác thường, nhưng y nghĩ mãi cũng không hiểu vì sao Địch Thanh không bị sao, còn mình lại trúng độc.

Địch Thanh chậm rãi rút đao ra, nói:

- Ngươi rất kỳ lạ vì sao mình trúng độc đúng không? Vậy ta nói cho ngươi biết, vừa rồi ta cố ý nói Vương Đô Giám đến, thừa dịp ngươi quay đầu đi thì đã đổi chén trà. Nếu trà không có độc, thì không sao, nếu trà có độc, vậy cũng chỉ trách ngươi không may mà thôi.

Trường đao thắng tuyết, chiếu sáng hai tròng mắt, Địch Thanh nói từng chữ:

- Hiện tại...ngươi muốn hỏi gì nữa?

Địch Thanh cầm đao ở tay, dù bản thân nắm cục diện nhưng trong lòng rất bất an.

Trại Bình Viễn âm thầm gợn sóng, chứ không trầm tĩnh như vẻ bề ngoài.

Hiện tại Vương Đô Giám đang ở đâu? Tả Khâu này đã khống chế bao nhiêu binh mã của trại Bình Viễn?Nếu trại Bình Viễn sớm đã bị có gian tế xâm nhập, vậy vì sao bây giờ còn yên tĩnh?

Người Đảng Hạng không lấy trại Bình Viễn, mục đích là gì?

Trán Tả Khâu đổ mồ hôi, tay đưa lên muốn lần tìm gì đó trong ngực, không ngờ Địch Thanh nhanh như chớp bắt được tay y. Thủ hạ của Tả Khâu thấy thủ lĩnh bị bắt đều muốn tiến lên cứu.

Địch Thanh quét ngang đơn đao, đặt lên cổ Tả Khâu, quát:

- Nếu như ngươi muốn sống hãy bảo bọn chúng ngoan ngoãn ra ngoài trước.

Có một người kêu lên:

- Ngươi cho ngươi là ai chứ...

Còn chưa dứt lời, ánh sáng lóe lên, ngực người nọ đã trúng một đao, máu tươi bắn ra ngửa mặt lên trời ngã xuống.

Những người tài giỏi kia cũng muốn tiến lên nhưng thấy Địch Thanh ra đao nhanh như chớp liền giật mình lùi lại một bước. Địch Thanh cười lạnh, nói:

- Hiện tại các ngươi nên biết ta là ai? Tay hắn như sắt khống chế Tả Khâu. Sắc mặt Tả Khâu đã biến đổi thành màu đen, khàn giọng nói:

- Mau cho ta thuốc giải!

Địch Thanh cười lạnh, không nói, Tả Khâu không chống đỡ nổi, kêu lên:

- Vương Kế Nguyên đã bị chúng ta...dùng dược vật khống chế, chúng ta không giết hắn...mà nói với bên ngoài là hắn đang bị bệnh liệt giường.

Địch Thanh hỏi:

- Hắn ở đâu?

Tả Khâu kêu lên:

- Ngay gần đây, ngươi buông tay...

Địch Thanh thấy sắc mặt Tả Khâu tím lại, cũng không muốn y bị độc chết mới buông nhẹ tay ra, lại đợi y lấy chai thuốc trong ngực ra, bất chợt lúc đó trong hắn nảy sinh cảnh giác, vọt sang một bên.

Một luồng kình phong đột nhiên ập đến, Địch Thanh không chút do dự xuất đao phản kích, gọt sạch đầu người nọ. Nhưng thế đao của người nọ vẫn không dừng mà đâm vào ngực Tả Khâu. Tả Khâu kêu thảm một tiếng, đã cùng với người kia ngã lộn trên mặt đất.

Địch Thanh nhìn xéo qua biết người nọ chính là thủ hạ của Tả Khâu. Nói vậy người nọ không phải đánh lén mình mà là giết chết Tả Khâu. Thấy có người hành động, sáu người còn lại đều xông qua. Địch Thanh quyết định thật nhanh, đơn đao di chuyển bổ gọt chém đâm, giây lát đã giết chết bốn người.

Hai người còn lại sợ hãi quay đầu bỏ chạy, Địch Thanh phi thân vượt lên vì muốn người sống nên dùng chuôi đao đánh xỉu một người.

Người cuối cùng còn lại là một gã mập mạp, thấy Địch Thanh dũng mãnh như thế thì sợ tới mức buông binh khí rơi xuống đất, toàn thân béo mập run rẩy không ngừng, đột ngột quỳ xuống cầu xin:

- Ngươi đừng giết ta, ta biết Vương Kế Nguyên ở đâu.

Trong lòng Địch Thanh thầm vui mừng, quát khẽ:

- Được, nếu như ngươi dẫn ta đi gặp Vương Kế Nguyên, ta sẽ tha chết cho ngươi. Ngươi đừng nghĩ muốn đùa giỡn gì, ngươi đừng quên nơi này vẫn còn có người có thể dẫn đường đấy.

Người nọ run giọng nói:

- Tiểu nhân không dám đùa giỡn. Thật ra...tiểu nhân cũng bị bọn họ ức hiếp...

- Hãy bớt nói nhảm đi.

Địch Thanh nói:

- Dẫn đường trước, nhớ rõ đao của ta ở sau lưng ngươi.

Hai người đang định đi, ngoài cửa có tiếng bước chân, có người hô lớn:

- Địch chỉ huy...các huynh đệ đều đến đây.

Địch Thanh nghe giọng nói biết là Tư Mã Bất Quần, vui vẻ nói:

- Các ngươi không sao chứ?

Tư Mã Bất Quần và Cát Chấn Viễn sóng vai đi tới, thấy người chết khắp nơi thì chấn động. Cát Chấn Viễn thấy Địch Thanh không sao, vui vẻ nói:

- Mấy đồ con rùa muốn ám toán chúng ta, châm trà cho chúng ta uống, không ngờ chúng ta rất nhiệt tình đem rót trà cho bọn chúng. Bọn chúng uống vào thì đứt hơi luôn. Ta với Tư Mã lo lắng Địch chỉ huy nên sang đây xem trước.

Tư Mã Bất Quần lại thận trọng, nói:

- Địch chỉ huy, ta thấy tuy Tả Khâu tác quái nhưng vẫn chưa nắm được trại Bình Viễn trong tay, bằng không sẽ không phái vài người đối phó chúng ta.

Địch Thanh gật đầu nói:

- Ta cũng nghĩ như vậy. Mới vừa rồi Tả Khâu nói, bọn họ dùng thuốc khống chế Vương Đô Giám, chắc chắn là chưa phát động, chúng ta hãy cứu Vương Đô Giám trước rồi nói sau.

Lại quay sang tên mập mạp kia, hỏi:

- Các ngươi nhốt Vương Đô Giám ở đâu?

Tên mập mạp vội nói:

- Bên ngoài có hai người trông coi, ngoài ra không còn người khác.

Không đợi Địch Thanh chỉ bảo, tên mập mạp chủ động nói:

- Địch gia, ta dẫn ngươi đi cứu Vương Đô Giám, ngươi tha mạng chó này của ta được không?

Địch Thanh thấy tên mập mạp kia tội nghiệp, chỉ sợ để chậm thì sinh biến, lập tức nói:

- Không vấn đề.

Tên mập mạp mừng rỡ, đi trước. Trại Bình Viễn lưng dựa núi đối diện sông, địa thế ghập nghềnh, tên mập mạp dẫn Địch Thanh đi lên một gò đất, nơi đó có mấy gian nhà gỗ, có chút đơn sơ. Địch Thanh thấy xung quanh im lắng lạ thường, hỏi:

- Hộ vệ nơi này đâu?

Tên mập mạp cười xòa nói:

- Địch gia, Tả Khâu bị người Đảng Hạng mua chuộc lại lôi kéo vài tên đồng đảng theo...tiểu nhân không phải đồng đảng của y, nhưng cũng đành bất đắc dĩ.

Địch Thanh không kiên nhẫn nói:

- Ngươi nói ngắn gọn.

Tên mập mạp lúng túng nói:

- Lúc này Vương Đô Giám bị hạ thuốc, cả ngày hỗn loạn không cử động được. Tả Khâu sợ có người biết việc này nên mượn cớ điều hộ vệ xung quanh rút lui hết, nói Vương Đô Giám không muốn họ quản ông ta, mà hãy toàn lực trấn thủ trại, cho nên nơi này ngoại trừ hai thủ hạ của Tả Khâu ra thì không còn ai khác.

Đang lúc nói chuyện, trong nhà gỗ đi ra hai người, một người quát khẽ:

- Bồ mập, tới đây làm gì? Người đi theo ngươi là ai?

Tên mập mạp nhìn Địch Thanh, nhưng vẫn chủ động che giấu cho Địch Thanh, nói:

- Là thủ hạ mới thu nhận của Tả gia, lần này tới là muốn dẫn Vương Kế Nguyên đi.

Người nọ quát lên:

- Tả chỉ huy không đến, ai cũng không có thể mang Vương Kế Nguyên đi.

Địch Thanh tiến lên một bước, cười nói:

- Vậy ngươi nói sai rồi, tả chỉ huy không đến, ta cũng có thể mang Vương Đô Giám đi.

Người nọ giận dữ định rút đao ra, chợt thấy luồng sáng lạnh lóe lên trước mắt, máu tươi trong cổ đã trào ra. Một người khác thấy tình thế không hay lập tức quay người chạy về phòng, đơn đao của Địch Thanh đã bay ra, đâm vào lưng người nọ. Người nọ ngã trước cửa, giãy dụa hai cái rồi bất động.

Bồ mập mạp run rẩy, vừa sơ vừa hoảng nhìn Địch Thành, giơ tay chỉ vào trong phòng, run giọng nói:

- Vương Đô Giám đang ở bên trong.

Địch Thanh rút đao ra khỏi xác chết, cho đao vào vỏ, sải bước vào nhà gỗ. Thấy bên trong lạnh lẽo, một thanh trường thường treo trên vách t.

Trên bàn gỗ dựa vào giường đặt một bát thuốc thảo dược hương vị nồng nồng còn tỏa hơi nóng, đã được uống hơn nửa.

Một người đang nằm trên giường, trên người đắp một cái chăn quay lưng vào vách tường.

Địch Thanh bước nhanh về trước, khẽ nói:

- Vương Đô Giám, ta là Địch Thanh tại Tân Trại! Hiện tại ngươi thế nào rồi?

Vương Kế Nguyên như còn chút tri giác, gắng gượng quay người lại, yếu ớt nói:

- Ta...chuyện...quan trọng...

Y nói đứt quãng, Địch Thanh nghe không rõ cúi người đến gần hỏi:

- Ngươi...

Nhưng lúc cúi xuống thì đột nhiên thầm cảm thấy không đúng.

Uống thuốc hơn nửa bát nhưng trong miệng Vương Kế Nguyên không hề có mùi thuốc đông y.

Nếu Bồ mập mạp, Tả Khâu nói đúng sự thật thì đã nhiều ngày qua Vương Kế Nguyên bị giam giữ, trên người sẽ không sạch sẽ như thế.

Địch Thanh vừa phát hiện ra điều dị thường này thì biến cố đột nhiên xảy ra!

Vương Kế Nguyên vốn đang bệnh đột nhiên vùng lên đánh tới. Ánh nến trong phòng hơi tối lại, ngay sau đó một tiếng “soạt” vang lên, một đao đã xuất ra đâm vào ngực Địch Thanh.

Trong giây phút nguy hiểm, Địch Thanh bật lùi, cuộc đời hắn trải qua vô số nguy hiểm, lần này cũng nằm trong số đó. Người kia xuất đao cực nhanh, đầy biến hóa lại đánh lén, thậm chí khiến Địch Thanh không kịp rút đao.

Đó là một cái bẫy?

Đối phương thâm trầm kỳ quỷ đã tính đến việc Địch Thanh tới cứu Vương Kế Nguyên, bởi vậy đã sớm mai phục.

Địch Nghĩ nghĩ rất nhanh, trong đầu vẫn hiện lên một đao trí mạng kia, hắn mới rút đao định chém ra, đột nhên phía sau kinh phong ập tới, Địch Thanh tránh không kịp đã bị đánh một quyền thật mạnh vào sau lưng!

Phía sau có cao thủ? Là ai đánh lén?

Một quyền kia như chùy sắt rìu lớn đánh lên lưng Địch Thanh khiên tim Địch Thanh như muốn nổ tung, nhưng sống chết trước mắt, Địch Thanh chỉ có thể đảo cuốn một đao.

Ánh đao chợt lóe lướt qua nhanh như lưu tinh vụt qua chân trời, chân trời có ánh tà dương, tà dương như máu!

Người đánh lén không ngăn được một đao hoành hành, bật ngược trở lại.

Nhưng phía sau đánh lén vừa bị đẩy lùi thì đơn đao phía trước lại tới, chém vào ngực Địch Thanh.

Cả người Địch Thanh mệt mỏi, chỉ kịp vặn người tránh, đao như rắn độc cắn trúng cánh tay Địch Thanh. Người đánh lén phía sau Địch Thanh chợt lóe lên vẫy tay bắt lấy thanh trường thương trên vách tường đâm tới Địch Thanh.

Một thương đâm mạnh nhanh như lưu tinh lại như khói ảo.

Thân pháp người nọ cực nhanh, không hề thua kém khoái đao Vương Kế Nguyên.

Địch Thanh tránh cũng không thể tránh, đột nhiên cổ tay khẽ lật cuốn lấy chiếc chăn kia đem bao lấy Vương Kế Nguyên đang ở trong đó.

Vương Kế Nguyên kinh hãi, không ngờ chăn kia cũng sẽ cắn trả, y hét một tiếng chói tai, đơn đao tung bay loang loáng tứ phía như tơ liễu mênh mông.

Trong khoảnh khắc, Vương Kế Nguyên chợt cảm thấy bên hông lành lạnh, liền hét lên tiếng chói tai.

Một đao của Địch Thanh đâm thật sâu vào bên hông Vương Kế Nguyên, thuận thế xoay tròn đã cắm Vương Kế Nguyên vào phía sau. Hắn đã tiêu hao hết toàn bộ khí lực, chỉ hy vọng có thể kéo dài một lát để thở.

Một quyền kia quá hung mãnh đánh cho Địch Thanh gần như bị năng lực hoạt động. Địch Thanh không nghĩ một quyền của người kia có thể có lực đạo của thiết chùy ngàn cân.

Trường thương kinh diễm không chút nào ngừng đâm vào ngực Địch Thanh. “Phập” một tiếng đã không chút trở ngại đâm vào ngực Địch Thanh!

Địch Thanh cố thở dùng hết khí lực toàn thân lui về sau, trường thương kinh diễm kia vù vù rút từ trong ngực Địch Thanh ra, mang theo máu tươi bắn phụt ra.

Sắc mặt Địch Thanh trắng bệch, tay che ngực lảo đảo sắp ngã.

Giây phút nguy hiểm khiến Tư Mã Bất Quần và Cát Chấn Viễn không kịp phản ứng, đợi khi họ bừng tỉnh thì Vương Kế Nguyên đã chết, Địch Thanh bị thương nặng, mà người ra thương đang đứng ở trước ánh đèn, phóng khoáng xuất trần.

Đầu vai y có máu, mũi thương nhỏ máu.

Khóe miệng của hắn nở nụ cười, tuy hắn bị một đao của Địch Thanh làm tổn thương cánh tay, còn làm tổn thương đồng bọn nhưng dù sao cũng đã làm Địch Thanh bị thương nặng.

Chỉ cần giết được Địch Thanh, mọi cái giá phải trả đều rất đáng giá.

Run rẩy dưới ánh đèn, thân hình tên mập mạp kia không hề mập mạp mà ngược lại toát lên vẻ thoát tục xuất trần. Ai cũng không thể tưởng tượng được người này có thể đâm ra một thương kinh diễm như thế!

Bồ mập mạp giơ trường thương nhỏ máu lên, toàn thân không hề có chút gì hèn mọn, nhìn Địch Thanh mỉm cười nói:

- Địch Thanh, ngươi xong rồi!

Sắc mặt Địch Thanh trắng bệch không nói ra lời. Hắn cũng không ngờ Bồ mập mạp lại có thân thủ này.

Lúc này Tư Mã Bất Quần và Cát Chấn Viễn mới bừng tỉnh, chạy tới kêu lên:

- Địch chỉ huy!

Tư Mã Bất Quần xé vạt áo định băng bó vết thương cho Địch Thanh.

Nhưng máu kia làm sao ngăn được?

Bồ mập mạp cũng không ngăn cản, nụ cười nơi khóe miệng còn mang theo sự chế giễu. Miệng vết thương có thể băng bó, nhưng thương thế quá nặng, y đã nắm đại cục trong tay, lại càng không coi Tư Mã và Cát Chấn Viễn vào mắt.

- Ngươi...là...ai?

Địch Thanh yếu ớt hỏi lại một lần nữa cảm giác tử vong lại đến.

Bồ mập mạp khẽ cười, nói:

- Ta là Bồ Đề!

Thấy Địch Thanh tràn đầy khó hiểu, Bồ mập mạp lại bổ sung:

- Bồ đề vô thụ, minh diệc phi đài; bản lai vô vật, hà xử nhạ trần ai?

(Bồ- đề vốn chẳng cây,

gương sáng cũng chẳng phải là đài

Xưa nay không một vật,

Nơi nào dính bụi trần?)

Bài kệ này chắc ngươi đã từng nghe, ta dùng là Vô Trần thương, ta chính là Long Bộ Bồ Đề Vương trong tám bộ Tây Bắc.

Long Bộ Cửu Vương, Bát Bộ Chí Cường, Bồ Đề Vô Thụ, Vô Trần Chi Thương.

Đã từng nghe nói Vô Trần Nhất Thương của Bồ Đề Vương trong Cửu Vương, một thương khi đâm ra không hề mang theo khói lửa nhân gian, thần quỷ khó chắn. Địch Thanh cũng hiểu biết nhưng lại không ngờ hắn sẽ gặp được Bồ Đề Vương trong tình huống như này.

Vô Trần thương không có trần ai, chỉ có máu. Máu của Địch Thanh nhỏ giọt tí tách rơi xuống đất, tuy rất nhỏ nhưng kinh tâm động phách.

Bồ Đề Vương nhìn ra được Địch Thanh có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, mỉm cười nói:

- Ta tới đây chính là muốn giết ngươi. Bởi vì Đế Thích Thiên đã cảm thấy ngươi là sự uy hiếp, nếu không diệt trừ chỉ sợ hậu hoạn vô cùng.

Tim Địch Thanh đập càng lúc càng chậm, nhưng khi nghe đến ba chữ “Đế Thích Thiên” thì sự lạnh lẽo lại hiện lên trong mắt. Hắn không thể ngờ được Nguyên Hạo lại biết hắn, lại còn muốn giết hắn!

- Chỉ cần có người uy hiếp đến sự khuếch tương của chúng ta thì nhất định phải chết!

Bồ Đề Vương khoan thai nói, y đã nắm phần chắ trong tay nên không hề nóng vội ra tay:

- Địch Thanh, một năm nay ngươi đã làm náo động quá nhiều việc. Đế Thích Thiên nói nếu ngươi có cơ hội sẽ là một Tào Vĩ, hắn không muốn thấy loại chuyện này nảy sinh. Trại Bình Viễn này trong kế hoạch của chúng ta là chậm chạp không lấy chính là đợi ngươi tới.

Địch Thanh giật mình:

- Là...Thủ Vân?

Bản thân hắn bị trọng thương nhưng đầu óc lại vô cùng tỉnh táo.

Hạ Thủ Vân điều hắn đến trại Bình Viễn là muốn mượn tay Bồ Đề Vương diệt trừ hắn.

Ngoại trừ Hạ Thủ Vân, còn ai hiểu rõ hành tung của Địch Thanh như lòng bàn tay?

Bồ đề Vương gật đầu nói:

- Ngươi rất thông minh, đoán được là Hạ Thủ Vân trao tin tức cho chúng ta! Hạ Thủ Vân phái ngươi đến đây, còn ta thì ở đây chờ ngươi. Tả Khâu tự đại, chết chưa hết tội, ta biết hắn không được việc mà ngươi sẽ phải cứu Vương Kế Nguyên, cho nên phái Dạ Xoa mai phục trên giừng, sau đó cố ý dẫn ngươi tới đây để giết ngươi. Hiện giờ ngươi đã hiểu chưa?

Thấy Địch Thanh không nói gì, Bồ Đề Vương tiếc nuối nói:

- Ngươi là một người thông minh, ta vốn không muốn giết ngươi.

Cát Chấn Viễn giận dữ hét:

- Ngươi là cái thứ gì? Ngươi cho là có thể định sống chết của người khác sao?

Bồ đề Vương khẽ mỉm cười nói:

- Ta không phải thứ gì, là bồ đề.

Nói chưa xong đã xuất thủ, một thương kình đâm Địch Thanh. Y là Bồ Đề Vương, nên căn bản không để hai người Cát Chấn Viễn vào mắt, trong suy nghĩ của y, kẻ địch lớn vẫn là Địch Thanh.

Trường thương đâm ra, Cát Chấn Viễn, Tư Mã Bất Quần đột nhiên thoát ra, một trái một phải tấn công về phía Bồ Đề Vương, tuy bọn họ biết mình không địch lại nhưng không hề có chút sợ hãi.

Nếu bọn họ trốn, chắc sẽ không chết nhưng bọn họ không muốn trốn, nếu có thể tranh thủ cơ hội sống cho Địch Thanh, bọn họ chết cũng không uổng.

Bồ đề Vương cười lạnh, trường thương rung lên hóa thành hai đóa hoa mai đâm vào ngực hai người. Chiêu này của y biến hóa quả thực chính là diệu tuyệt thiên thành, không mang theo nửa phần bụi bặm, y cố ý thả chậm tốc độ, đoán chắc hai người sẽ trốn, thậm chí y đã ngưng tụ khí lực toàn thân, chuẩn bị một chiêu giết hết.

“Bách túc chi trùng, tử nhi bất cương” (rết trăm chân chết vẫn đứng vững”, y có thể coi khinh người ngoài nhưng tuyệt đối không thể coi thường Địch Thanh.

Nhưng y đột nhiên phát hiện, y không nên coi khinh bất cứ kẻ nào.

Cát Chấn Viễn thấy mũi thương kia đến theo bản năng liền tránh, Tư Mã Bất Quần vẫn trầm mặc, thậm chí còn như có chút khiếp đảm, nhưng khi thấy mũi thương kia đâm tới, đột nhiên tăng thêm tốc độ nghênh họng lao thẳng tới!

“Phập” một tiếng vang lên, trường thương đã đâm vào ngực, Tư Mã Bất Quần rên rĩ ôm lấy Bồ Đề Vương.

Tâm tư Tư Mã Bất Quần âm trầm, biết tình huống lúc này dù có né tránh cũng vô dụng, gã bỏ măt tính mạng chỉ cầu vây khốn được Bồ Đề Vương.

Bồ Đề Vương không ngờ lại có người dùng chiêu thức không muốn sống này, y bị khóa thương, khóa tay chân liền kêu gào, trong tiếng gào kia đã không còn chút ý thoát tục nữa. Y toàn lực giãy giụa, còn Tư mã Bất Quần ngũ quan đã tràn đầy máu, Bồ Đề Vương hất lên mới thoát ra được Tư mã Bất Quần, nhưng lại bị mỗ người khác ôm chặt lấy.

Cái ôm chặt của người kia giống như biển rộng xuyên núi, lực đạo vô cùng vô tận.

Thậm chí Bồ Đề Vương còn nghe tiếng gân cốt của mình đứt từng khúc, sau đó y nhìn thấy một đôi mắt hung ác như dã thú. Địch Thanh nói:

- Ta đã đồng ý với Vũ Thường là ta sẽ không được chết!

Hắn nói chưa xong liền hét lên một tiếng dài, lực đạo toàn thân trút hết trên người Bồ Đề Vương.

Tư Mã Bất Quần đã để Địch Thanh tranh thủ được một cơ hội.

Địch Thanh cũng bắt được cơ hội này.

Địch Thanh lúc này không còn sức để tiếp tục chiến đấu, chỉ có thể dùng bản năng của dã thú ôm chặt lấy Bồ Đề Vương, giống như hắn đã từng bóp chết Tăng Trưởng Thiên Vương.

Bồ Đề Vương rống lên một tiếng động trời, giãy giụa toàn thân nhưng không thể nào thoát ra được sự trói buộc của Địch Thanh. Đúng lúc này một tiếng “phập”vang lên, Bồ Đề Vương thấy tim lạnh ngắt, khí lực toàn thân như nước chảy ra ngoài, tròng mắt lồi ra như cá chết, tứ chi mềm nhũn.

Cát Chấn Viễn xuất đao, một đao đâm vào ngực Bồ Đề Vương, kết thục cuộc chiến sinh tử này!

Địch Thanh và Bồ Đề Vương cùng nhau ngã xuống, vẫn ôm chặt lấy nhau như đôi tình nhân.

Cát Chấn Viễn hét lớn: - - Địch chỉ huy? Tư Mã?

Không ai đáp lại, Tư Mã Bất Quần ngửa mặt lên ngã xuống đất, sớm đã chết rồi. Hai tròng mắt Địch Thanh đã khép chặt, hôn mê bất tỉnh.

Cát Chấn Viễn đặt mông ngồi phịch xuống đất, rồi lập tức lại leo lên người ĐịchThanh kêu lên:

- Địch chỉ huy, tỉnh lại đi!

Hai mắt Địch Thanh nhắm chặt, hơi thở mỏng manh, tim Cát Chấn Viễn cũng như muốn ngừng đập, lại nhìn về phía Tư Mã Bất Quần, đau đớn nói:

- Tư Mã...ngươi không thể chết được.

Gã bò qua ôm lấy Tư Mã Bất Quần, không ngờ nhìn người đàn ông ngày thường thâm trầm này cũng lặng lẽ mà chết như vậy.

Nước mặt từng giọt rơi xuống, Cát Chấn Viễn đau đớn lại bò qua bên Địch Thanh, thử xem Địch Thanh còn hơi thở nào không, nhưng lại không cảm nhận được hô hấp, trong lòng trầm xuống.

Địch chỉ huy chết như vậy sao? Ánh mắt Cát Chấn Viễn mờ mịt, trống rỗng.

Không biết qua bao lâu, đột nhiên gã chấn động phát hiện dưới gầm giường còn có một người vẫn đang mở to mắt nhìn gã, sao dưới gầm giường lại giấu người?

Cát Chấn Viễn cầm đao trên tay chằm chằm đi qua đó mới thấy người kia tay chân đều bị trói chặt, miệng bị đút giẻ, hai mắt trợn lên tràn ngập sự lo lắng.

Cát Chấn Viễn kéo người kia ra, rút miếng giẻ trong miệng ra, hỏi:

- Ngươi là ai?

Người kia lập tức nói:

- Ta là Vương Kế Nguyên, Đô Giám trại Bình Viễn bị bọn chúng đánh lén trói ở trong nay. Ngươi hãy mau cởi trói cho ta, Địch Thanh chưa chết.

Cát Chấn Viễn vội quay đầu nhìn lại, thấy Địch Thanh vẫn không nhúc nhích, căn bản không tin nhưng vẫn tháo dây thừng trói Vương Kế Nguyên ra. Vương Kế Nguyên đứng len ôm lấy Địch Thanh chạy ra ngoài, Cát Chấn Viễn vội gọi:

- Ngươi đi đâu vậy?

Gã dù bị thương nhưng cũng không bỏ thi thể Địch Thanh, vội đi đoạt lại.

Vương Kế Nguyên chạy cực nhanh, lại vô cùng quen thuộc đối với đường nhỏ trong trại nên rất nhanh đã xuống Sơn Khâu, vòng qua chân núi, có binh sĩ phía trước quát hỏi:

- Ai?

Nhưng khi nhìn thấy là Vương Kế Nguyên, đều kinh ngạc:

- Vương Đô Giám, ngươi khỏe nhanh là tốt rồi.

Hóa ra mấy ngày nay Tả Khâu vẫn nói Vương Kế Nguyên bị bệnh liệt giường, những binh sĩ này đều tin là thật.

Vương Kế Nguyên không kịp giải thích, quát:

- Mau đi tìm quân y đến, tìm tất cả quân y trong trại đến, nhanh lên!

Binh sĩ chưa bao giờ thấy Vương Kế Nguyên hung bạo như thế, liền cuống quýt đi tìm quân y. Vương Kế Nguyên tiến vào một căn phòng, lục tung lên, rất nhanh tìm được một thuốc bột màu trắng rắc lên ngực Địch Thanh. Thuốc kia cầm máu cực tốt, miệng vết thương của Địch Thanh rất nhanh đã cầm máu, Vương Kế Nguyên sờ vào mạch đập của Địch Thanh, cảm thấy như có như không thì lo lắng đi tới đi lui nói:

- Sao quân y còn chưa tới?

Lúc này Cát Chấn Viễn mới chạy tới, khàn giọng hỏi:

- Vẫn còn cứu được Địch chỉ huy sao?

Vương Kế Nguyên mắng:

- Ngươi chỉ biết kêu gào, nếu cứu hắn sớm một chút thì nói không chừng càng có hy vọng.

Ông bị Tả Khâu đánh lén, bị nhét vào gầm giường, vốn là hỗn loạn nhưng mới vừa rồi dược tính đã qua nên đã nhìn thấy hết những biến cố xảy ra trong phòng nên vô cùng cảm kích Địch Thanh, vừa rồi Cát Chấn Viễn không để ý, nhưng Vương Kế Nguyên lại nhìn thấy mí mắt Địch Thanh còn máy rất nhỏ, biết là Địch Thanh chưa chết.

Trong lòng Cát Chấn Viễn bất an, chỉ mong có kỳ tích xuất hiện, cầu khẩn:

- Vương Đô Giám, ngươi nhất định phải cứu hắn.

- Phí lời.

Vương Kế Nguyên lại mắng một câu, đột nhiên thần sắc thay đổi lao ra khỏi phòng, lát sau kéo một quân y tiến vào, nói:

- Trình đại phu, ngươi hãy mau mau cứu người này.

Vị đại phu kia thấy Vương Đô Giám cấp bách liền cầm cổ tay Địch Thanh lên rồi đặt xuống, lắc đầu nói:

- Chết rồi.

Vương Kế Nguyên vội la lên:

- Không chết, mạch hắn còn đập mà.

Đại phu kia lại chăm chú xem mạch một lúc lâu, cười khổ nói:

- Mặc dù hắn chưa chết nhưng bị thương quá nặng, tại hạ...thật sự không chữa được.

Một lúc sau, lại có một vài đại phu tiến vào phòng, sau khi xem thương thế cho Địch Thanh xong thì đều lắc đầu. Vương Kế Nguyên biết những người này là đại phu giỏi nhất của trại Bình Viễn, nhưng tất cả đều nói không cứu được, liền luống cuống:

- Vậy làm sao bây giờ? Các ngươi ra ngoài hết đi.

Đám đại phu kia ngượng ngùng lui đi, Vương Kế Nguyên nhìn Địch Thanh, thấy sắc mặt hắn nhợt nhạt, không có sức sống, nghiến răng nói:

- Ngươi đã cứu mạng ta, mà ta lại không cứu được ngươi.

Ông đã nghe tên Địch Thanh, nhưng xưa nay không phục, hôm nay gặp không ngờ lại nhận ân tình của hắn.

Tim Cát Chấn Viễn lại trầm xuống, nhưng đã hạ quyết tâm, nói:

- Vương Đô Giám, đại phu ở đây không chữa được, nhưng Thanh Giản Thành có nhiều đại phu giỏi, ngươi hãy cấp cho ta một xe ngựa, ta đưa Địch chỉ huy trở lại Thanh Giản Thành cầu y.

Vương Kế Nguyên thầm nghĩ: “Với thương thế nặng như này căn bản không thể bôn ba được đường dài, nhưng nơi này lại không có phương pháp chữa trị, cũng không thể ở đây chờ chết.

Nên đành bất đắc dĩ nói:

- Đáng nhẽ ta nên cùng đi với ngươi, nhưng...

Cát Chấn Viễn nói:

- Nhưng ngươi còn phải trấn thủ ở nơi nay! Ta hy vọng lần này ngươi có thể trấn thủ được trại Bình Viễn.

Lòng gã không vui khó tránh khỏi việc nói mà không lựa lời.

Vương Kế Nguyên cũng không trách cứ, trong lòng thầm nghĩ: “Nguyên Hạo trăm phương ngàn kế cho tay chân mai phục ở trại Bình Viễn, nhưng cũng không đoạt trại, chẳng lẽ là đơn giản là muốn giết Địch Thanh sao?

Nhưng lúc này cũng không nghĩ nhiều, căn dặn binh sĩ chuẩn bị một xe ngựa, bốn tuấn mã. Cát Chấn Viễn đích thân đánh xe, để những binh lính từ Thanh Giản Thành ở lại trấn thủ trại Bình Viễn, lại xin Vương Kế Nguyên giúp chôn cất thi thể Tư Mã Bất Quần.

Trước khi đi, Cát Chấn Viễn đột nhiên nói:

- Vương Đô Giám, có một câu ta biết ngươi chưa chắc đã tin, nhưng ta vẫn phải nói. Cha con Hạ Thủ Vân..có vấn đề lớn! Khả năng bọn họ đã đầu phục Nguyên Hạo rồi.

 Chương 227 - 232: Ác chiến

Lúc Vương Kế Nguyên ở dưới giường đã nghe Bồ Đề Vương nói nhưng vẫn luôn không tin, cha con Hạ gia được triều đình trọng dụng, vì sao phải làm vậy. Do dự một lúc nói:

- Ta sẽ cẩn thận, ngươi cũng để ý!

Cát Chấn Viễn gật gật đầu, ra khỏi Bình Viễn chạy như điên về hướng Thanh Giản Thành, chỉ hy vọng có thể sớm quay lại Thanh Giản Thành, nhưng tới được Thanh Giản Thành rồi có thể cứu được tính mạng Địch Thanh không? Trong lòng Cát Chấn Viễn không chắc.

Mới ra khỏi trại Bình Viễn hơn mười dặm, đột nhiên có một xe ngựa đối diện đi tới, xe ngựa kia có một con ngựa già lôi kéo đi lại trong tuyết.

Lúc này là sáng sớm chưa rõ hẳn.

Cát Chấn Viễn vô cùng kỳ lạ, thời tiết chết tiệt như này, lại vào lúc này sao có người lại cản đường mình thế. Có thể thấy người đánh xe ngựa kia là một trưởng giả nên cuối cùng vẫn phải giảm tốc độ, đường kia cũng không quá rộng, gã không muốn vì cứu ĐỊch Thanh mà đâm chết lão già kia.

Lão già kia thấy Cát Chấn Viễn nhường đường, nói lời cảm tạ rồi mới giục ngựa đi, không ngờ trong xe có một thanh âm lặng như băng:

- Địch Thanh bị thương?

Thanh âm kia tuy lạnh lùng nhưng rõ ràng là của nữ nhân.Cát Chất Viễn nghe được như sấm nổ bên tại đánh thẳng vào đỉnh đầu, không kìm nổi ghìm ngựa lại. Gã không biết sao đối phương lại đoán được Địch Thanh ở trong xe, càng không biết người kia sao đoán được Địch Thanh bị thương, chẳng lẽ người đó là cùng phe với Bồ Đề Vương?

Nhưng Bồ Đề Vương đã chết, xe ngựa này lại từ phía đông chạy tới, Cát Chấn Viễn đã liên tục giục ngựa chạy như bay, người trong xe ngựa kia tuyệt đối không biết sự việc xảy ra ở trại Bình Viễn, nhưng nếu là như vậy, nữ tử trong xe kia sao đoán được Địch Thanh bị thương?

Cát Chấn Viễn nghĩ mãi mà không ra, cho nên mới cứ chần chừ chưa đi.

Nữ tử kia khẽ thở dài, đột nhiên nói:

- Địch Thanh bị thương rất nặng, dù là chạy về kịp Thanh Giản Thành, chỉ e cũng không có ai chữa trị được.

Cát Chấn Viễn lạ lùng hỏi:

- Cô nương...sao ngươi biết?

Tiếng nữ tử trong xe hờ hững nói:

- Ta biết.

Trong xe yên lặng như tuyết, ngoài xe tuyết rơi không tiếng động. Trong thiên địa dường như tràn ngập sự quỷ dị khiến Cát Chấn Viễn lo sợ trong lòng.

Không biết qua bao lâu, trong đầu Cát Chấn Viễn chợt lóe lên, ha ha nói:

- Cô nương...vậy ngươi có thể cứu Chỉ huy sứ đúng không?

Dù Cát Chấn Viễn chưa nhìn thấy dung nhan nữ tử kia, nhưng trong trực giác tin rằng nữ tử kia có thần thông.

Nữ tử kia lãnh đạm nói:

- Có thể.

Cát Chấn Viễn đột ngột nhảy xuống, quỳ xuống đất dập đầu nói:

- Xin cô nương hãy cứu mạng Địch chỉ huy, Cát Chấn Viễn sẽ ghi nhớ đại ơn đại đức của cô nương.

Nữ tử kia nói:

- Ta cần ngươi ghi nhớ để làm gì?

Cát Chấn Viễn sửng sốt, cảm giác ý tứ của cô gái này vô cùng xa xôi, trong lúc nhất thời không biết làm như nào cho phải. Gã thấy Địch Thanh trọng thương bất cứ lúc nào cũng có thể mất mạng, hận không thể lấy thân thay thế, cái gì cũng có thể thử khi đã tuyệt vọng. Lúc này chưa chắc Địch Thanh đã chịu đựng được để quay về Thanh Giản Thành, bởi vậy gã sao chịu bỏ qua cơ hội trước mắt này? Cát Chấn Viễn còn đang định cầu xin thêm, thì nữ tử kia nói:

- Ta có thể cứu Địch Thanh, nhưng ngươi phải đồng ý một điều kiện với ta.

Cát Chấn Viễn mừng rỡ:

- Ngươi nói đi, ngàn vạn điều kiện ta cũng đồng ý với ngươi.

Nữ tử kia thản nhiên nói:

- Ngươi muốn ta cứu Địch Thanh, vậy hãy để ta đưa hắn đi. Còn đi đâu, ngươi không được hỏi. Ngươi có đồng ý điều kiện đó của ta không?

Cát Chấn Viễn ngơ ngẩn, không ngờ cô gái kia lại đề xuất ra điều kiện quái dị như này, trong lúc nhất thời không biết quyết định thế nào...

Đột nhiên một cánh tay trắng muốt vươn ra từ trong xe, cánh tay kia còn trắng hơn tuyết, Cát Chấn Viễn nhìn thấy thì tràn đầy đề phòng, nhưng cánh tay kia chỉ nhẹ nhàng mở ra, trong lòng bàn tay là một viên đá.

Trong viên đá trắng muốt kia tỏa ra quầng sáng xanh, giống như đom đóm lập lòe vào mùa hè tại ngoại thành, trong đêm tuyết càng lạnh lẽo quỷ dị.

Nữ tử kia khẽ nói:

- Cát Chấn Viễn, ngươi còn nhớ ta không?

Cát Chấn Viễn nhìn thấy viên đá kia, sắc mặt biến đổi lớn, khàn giọng nói:

- Là ngươi?

Trong mắt gã tràn đầy sự khó tin và kinh hãi, thân hình run lên.

Dù viên đá kia rất không tầm thương nhưng dù gì cũng chỉ là viên đá, Cát Chấn Viễn nhìn thấy nó sao lại kinh hãi như vậy?

***

Vó ngựa khẩn cấp, quân tình như hỏa, Quách Tuân đang trên đường chạy tới Duyên Châu.

Sáng sớm sương trắng ngập đầy, bầu trời u ám, trong thiên địa cũng tràn ngập mây đen mù sương khó có thể đuổi đi.

Lòng Quách Tuân còn lạnh hơn tuyết, trại Kim Minh bị phá, tất cả quân Tống ở dọc biên ải sau khi nhận được tin tức đều toàn lực đi cứu viện thành Duyên Châu.

Trong trại Kim Minh thành Duyên Châu có Phạm Ung!

Trại Kim Minh bị phá, thành Duyên Châu không thể mất được!

Quách Tuân nóng vội trên đường đi vẫn nghĩ đến một sự kiện, Hương Ba Lạp đã có manh mối, sau việc này cần phải đi tìm Địch Thanh để thảo luận việc tìm kiếm Hương Ba Lạp. Nhưng lúc này lấy việc cứu viện Duyên Châu là chính.

Phía trước có du kỵ bẩm báo:

-Quách đại nhân, Lưu Bình đại nhân đang lĩnh quân tạm nghỉ tại trấn Liễu Đại cách ba mươi dặm, biết Quách đại nhân đến liền mời đại nhân đến đó hội hợp.

Quách Tuân hơi nhíu mày, quay sang nhìn quân sĩ đang mệt mỏi, gật đầu. Trong lòng thầm nghĩ: “Lưu Bình cũng tới cứu viện Duyên Châu rồi, không biết nơi khác thế nào?”

Hóa ra Nguyên Hạo lại xâm phạm tây bắc khiến các quân dọc biên ải trước sau vẫn chung lòng trợ giúp.

Quách Tuân hiệp trợ bảo vệ tuyến phía tây Duyên Châu, đồng thời trợ giúp Bảo An Quân. Lưu Binh là Phó Đô Bộ Thự Khánh Châu cùng Phó Đô Bộ Thự Phu Châu Thạch Nguyên Tôn đi trợ giúp Thổ Môn.Các tướng đều có chức trách yêu cầu chặn quân Đảng Hạng ở biên giới nước Tống.

Nhưng các tướng đều ở tiền tuyến, trại Kim Minh ở hậu phương lại bị phá, Duyên Châu báo nguy, điều này khiến mọi người giật mình đồng thời không thể không quay lại cứu viện.

Vì sao trại Kim Minh bị phá? Trong lòng mọi ngời đều nghi hoặc suy đoán, Quách Tuân cũng không ngoại lệ.

Hành quân trên tuyết gian nan hơn so với ngày thường. Khi Quách Tuân mang binh đuổi tới trấn Đại Liễu thì lập tức cho toàn bộ thủ hạ nghỉ ngơi, còn mình đi gặp Lưu Bình trước.

Bên trong quân trướng, sắc mặt Lưu Bình nghiêm nghị, nhưng sau khi nhìn thấy Quách Tuân đến thì có chút vui mừng nói:

- Quách Tuân, ngươi đã đến rồi, tốt lắm.

Lưu Bình sớm biết Quách Tuân dũng mãnh, trước sau vẫn cho rằng không duyên để gặp, nên lúc này gặp Quách Tuân long hành hổ bộ, nước sâu núi cao, trong lòng thầm than: “ quả nhiên là một hảo hán.”

Sau khi Quách Tuân tiến vào trong trướng đã nhìn thấy không ít tướng lĩnh trong đó như Phó Đô Bộ Thự Phu Châu Thạch Nguyên Tôn, Tuần Kiểm Vạn Sĩ Chính Duyên Châu, Đô Giám Phu Châu Hoàng Đức Hòa. Quách Tuân ở biên thùy khá lâu nên cũng biết hết những người này.

Điều khiến Quách Tuân không ngờ chính là Vương Tín cũng ở đây. Vương Tín vốn là Tiền điện thị vệ, trước kia có quan hệ khá tốt với Quách Tuân, y vốn trấn thủ tại thành Khảo Lão tại Bảo An Quân, còn Quách Tuân thì trấn thủ tại phía tây. Nhưng hiện tại Vương Tín lại tới trấn Đại Liễu trước Quách Tuân cũng khiến Quách Tuân rất bất ngờ.

Quách Tuân hỏi:

-Vương Tín, sao ngươi lại tới sớm vậy?

Vương Tín thấy Quách Tuân cũng kinh ngạc:

- Hai ngày trước ta nhận được tin trại Kim Minh bị chiếm đóng, nên lập tức từ trong thành điều động ngàn người tới trợ giúp Duyên Châu. Quách huynh...ngươi...

Quách Tuân cau mày, sau một lúc lâu mới nói:

- Kỳ lạ, tại sao một ngày trước ta mới nhận được tin tức? Không có lý do gì ngươi lại nhận được tin sớm hơn ta?

Vương Tín đã suy nghĩ vấn đề này, thầm nghĩ Quách Tuân nói rất đúng, vì sao Quách Tuân ở gần Duyên Châu hơn mà lại nhận được tin tức muộn nhất?

Lưu Bình ở bên cạnh nói:

- Ranh giới giao binh rất nhiều biến cố. Chẳng phải ta với Thạch đại nhân biết tin tức sớm nhất sao? Nói không chừng...người truyền tin cho Quách đại nhân lúc trên đường đi đã gặp trắc trở rồi.

Quách Tuân lại càng thấy kỳ lạ, không đợi hắn nói, Lưu Bình đã nói tiếp:

- Quách Tuân, ngươi dẫn theo bao nhiêu binh mã tới đây?

Quách Tuân trả lời:

- Chưa tới hai ngàn.

Lưu Bình gật đầu nói:

- Hiện giờ chúng ta tụ tập năm lộ binh mã, đã có hơn vạn binh mã rồi, thanh thế rất lớn.

Các tướng lĩnh đang lo lắng đều lộ vẻ vui mừng. Chỉ có Quách Tuân nói:

- Lưu đại nhân, quân chỉ có hơn vạn binh mã, mà quân tình Duyên Châu lúc này như nào?

Thạch Tôn Nguyên cười nói:

- Tốc độ cứu viện của chúng ta cực nhanh, lúc này cũng không biết tình hình địch tại Duyên Châu. Mấy canh giờ trước, Phạm Tri Châu còn có thủ dụ đưa tới là hắn ở tại cửa Đông Duyên Châu chờ đợi chúng ta mỏi mòn con mắt. Tuy nhiên Phạm Tri Châu đề phòng gian tế nhân cơ hội đột nhập vào thành nên yêu cầu ta chia quân đi vào, năm mươi người một đội đi vào thành Duyên Châu, hiện giờ đã phái ra ba mươi đội rồi.

Quách Tuân kinh ngạc nói:

- Sao Phạm Tri châu lại có mệnh lệnh quái lạ này? Ai đã tới truyền lệnh? Người truyền lệnh đâu?

Hắn hỏi liên tiếp ba câu làm Thạch Nguyên Tôn có chút không vui:

- Quách Tuân, ngươi có ý gì? Đây là mệnh lệnh của Phạm Tri Châu và Hạ Đô Bộ Thư cùng liên hợp, ngươi nghi ngờ sao?

Quách Tuân thấy trên mặt Lưu Bình cũng lộ vẻ không vui, tuy biết mình chỉ là Tuần Kiểm nhưng nghi ngờ cấp trên là điều tối kỵ trong dụng binh triều Tống.

Đại Tống lấy văn chế võ, mệnh lệnh quan trên phải chấp hành vô điều kiện, không bằng và không giống tạo phản.

Thấy vẻ mặt mọi người khác nhau, Quách Tuân cũng không lùi bước, dứt khoát nói:

- Lưu đại nhân, Thạch đại nhân, tuy nói cứu binh như cứu hỏa, nhưng cũng không liều lĩnh lấy cớ khinh tiến.

Đô Giám Hoàng Đức Hòa đứng bên cười lạnh:

- Đô Tuần Kiểm, ngươi nói là hai vị đại nhân Lưu, thạch khinh tiến sao, hay là cho rằng Phạm Tri châu và Hạ Đô Bộ Thự liều lĩnh?

Quách Tuân ngang nhiên nói:

- Hoàng Đô Giám, chỉ là Quách mỗ thấy việc truyền lệnh có chút kỳ lạ, nghĩ rằng quân Đảng Hạng có thể phá trại Kim Minh thực lực không thể bỏ qua. Binh lực này trước mắt ẩn thân nơi nào, chúng ta còn chưa biết được nên thể không phòng! Tuy lúc này quân ta có hơn vạn binh lực, nhưng lặn lội đường xa, binh lực mỏi mệt, nếu tiếp tục phân tán hành quân, chẳng phải dễ dàng khiến người ta tiêu diệt từng bộ phận sao?

Mặc dù hắn không nói rõ, nhưng rõ ràng là nghi ngờ tính chính xác quân lệnh của Phạm Ung.

Lưu Bình như rơi vào trầm tư, Thạch Nguyên Tôn nói tiếp:

- Nhưng quân lệnh khẩn cấp, sao chúng ta không thể nghe theo? Nếu Phạm Tri châu có trách tội, chỉ sợ không ai đảm đương nổi.

Mặc Kỳ Chính, Hoàng Đức Hòa cùng tỏ ra thừa nhận.

Quách Tuân cả giận nói:

- Tình huống như vậy cần phải lấy tính mạng của binh sĩ làm trọng…

Hắn vốn định nói: “Nhưng Thạch Nguyên Tôn ngươi lúc này chỉ biết đùn đẩy trách nhiệm”. Nhưng nghĩ nghĩ, hiện giờ điều nên làm là đồng tâm hiệp lực, không nên tranh chấp, nên giọng điệu dịu đi:

- Lưu đại nhân, Thạch đại nhân, ta cho rằng không nên phân tán binh mã, không bằng toàn quân cùng đến Duyên Châu, nếu có trách tội, Quách mỗ một mình lãnh trách nhiệm.

Lưu Bình đang đắn đo, bên ngoài trướng vải có người xông vào nói:

- Phụ thân …không hay rồi.

Người nọ tuổi còn trẻ, tư thế oai hùng bừng bừng, là Lưu Nghi Tôn, con trai của Lưu Bình, lần này theo Lưu Bình hành quân đến đây.

Lưu Bình giận giữ nói với Lưu Nghi Tôn:

- Chuyện gì kinh hoảng? Phải gọi là đại nhân!

Lưu Nghi Tôn biết phụ thân nghiêm khắc, cuống quít sửa lời nói:

- Lưu đại nhân, người đưa tin kia không thấy. Hiện giờ chúng ta phái ra hơn ba mươi đội binh mã, nhưng vẫn chưa có tin trở về.

Mọi người đều kinh sợ, sắc mặt Lưu Bình cũng thay đổi, tay áo không gió mà bay, kích động.

Vương Tín vẫn trầm mặc, nghe vậy nói:

- Lưu đại nhân, chỉ sợ phía bên Duyên Châu kia thật sự có vấn đề!

Trong lòng Lưu Bình không phải là không nghĩ vậy. Phạm Ung truyền lệnh, lệnh cho ông đi trước, trong lòng Lưu Bình vốn cũng vô cùng nghi hoặc nhưng nghĩ dù sao chức quan Phạm Ung cũng lớn nhất ở Tây Bắc, lệnh của Phạm Ung, ai cũng phải nghe! Ông ngẫm nghĩ, lại phái vài binh sĩ sau khi tới Duyên Châu rồi lập tức phi ngựa nhanh trở về bẩm báo lại tình hình kia. Không ngờ gần hai ngàn người được phái đi lại như đá ném vào biển rộng không hề có tin tức gì. Hiện giờ người đưa tin kia cũng không thấy, việc này cũng rất kỳ lạ.

Phạm Tri châu tuyệt đối sẽ không hại người một nhà, chẳng lẽ..thủ dụ kia là ngụy tạo?

Lưu Bình khó mà tin được, cũng không có cách giải thích nào khác. Lúc trước ông đã cẩn thận kiểm tra thủ dụ rồi, thấy ám ký quân đội trên thủ dụ phù hợp thì mới tin tưởng người đưa tin.

Chẳng lẽ thủ dụ này là giả? Nhưng ai có thể trăm phương ngàn kế giả mạo ra công văn này?

Tim Lưu Binh nảy lên, cảm giác như sa vào tấm lưới lớn mà không nhìn ra nguy cơ là ở đâu. Thấy mọi người bàng hoàng, Quách Tuân nói:

- Chỉ sợ phía trước có mai phục...

Mặc Kỳ Chính run giọng nói:

- Chẳng lẽ nói.. những người phái ra trước đó đã…

Y không dám nói tiếp, trong mắt tràn đầy kinh hãi nhưng ai cũng hiểu được ngụ ý trong đó.

Gần hai ngàn người phái ra trước đó chỉ sợ toàn quân bị diệt rồi!

Lưu Bình hoảng loạn, một lúc lâu sau mới nói:

- Quách Tuân, có lẽ phía trước có địch, chúng ta phải lui bước sao?

Quách Tuân trầm mặc hồi lâu, mới hỏi:

- Lưu đại nhân, có từng phái người đi trước đến Duyên Châu xem tình huống đó không?

Sắc mặt Lưu Bình đỏ bừng, lắc đầu nói:

- Ta vẫn cho là lời nói Phạm Tri châu là thật, vốn không có phái người đi tìm hiểu.

Trong lòng của ông ta lại nghĩ: “Bất kể phía trước có địch hay không, cũng phải tiến đến Duyên Châu hội hợp. Ta chỉ muốn cho quân sĩ một tiếng trống làm tinh thần hăng hái thêm, chứ nào có thời gian phái người tìm hiểu?”

Quách Tuân thầm nhíu mày, thầm nghĩ: “Lưu Bình có nhiều chiến tích bình định di nhân ở tây nam, sao lần này xuất binh lại hồ đồ như thế? Hành quân như vậy chẳng phải lấy tính mạng binh lính ra đùa sao?

Thạch Nguyên Tôn nói:

- Phía trước có địch chứng minh quân tình Duyên Châu cấp bách, chúng ta không thể lùi bước.

Lưu Bình cũng gật đầu, kiên quyết nói:

- Không tồi, nghĩa sĩ trong lúc khẩn cấp không ngại vượt lửa qua sông, huống chi lúc này đất nước đang nguy nan! Lưu Nghi Tôn, truyền lệnh xuống, ba quân lập tức xuất phát toàn lực đi Duyên Châu.

Liếc Quách Tuân một cái nói:

- Quách Tuân, ngươi có gì dị nghị không?

Quách Tuân trầm ngâm một lát mới nói:

- Lưu đại nhân, xin hãy tạm hoãn xuất binh. Mạt tướng muốn xin tiên phong mang ngàn kỵ đi thăm dò trước xem tình hình thế nào, sau đó mới xin Lưu đại nhân dẫn binh, không biết ý Lưu đại nhân thế nào?

Hoàng Đức Hòa đứng bên cạnh nói:

- Duyên Châu gặp nạn không thể trì hoãn, sao lúc này còn phải dò trước tiến sau chứ?

Lưu Bình cũng nghiêng theo đề nghị của Hoàng Đức Hòa, không ngờ Lưu Nghi Tôn nói:

- Lưu đại nhân, ta cảm thấy lời Quách Tướng quân nói rất có lý. Chúng ta đã mạo hiểm một lần khiến gần hai ngàn binh lực không rõ tung tích, không nên giẫm lên vết xe đổ nữa, lúc này hãy thận trọng là việc chính.

Lưu Nghi Tôn sớm đã biết đại danh Quách Tuân, cũng biết người này dũng mãnh, nay thấy Quách Tuân không sợ gian hiểm, chủ động xin đi giết giặc trước thì trong lòng khâm phục, liền nói giúp cho Quách Tuân. Mặc dù gã cảm thấy phụ thân uy nghiêm nhưng vẫn cho rằng Quách Tuân mới thật sự là người có năng lực lĩnh binh.

Vương Tín cũng nói:

- Mạt tướng đồng ý với cách nhìn của Quách huynh và Nghi Tôn.

Trong lòng đám người Thạch Nguyên Tôn, Mặc Kỳ Chính và Hoàng Đức Hòa đều không đồng ý, đồng loạt nhìn sang Lưu Bình.

Lúc này trong quân Lưu Bình là lớn nhất, bất kể mọi người đồng ý hay không, thì chỉ có Lưu Bình mới có quyền quyết định.

Lưu Bình suy nghĩ rất lâu, cuối cùng nói:

- Vậy thì xin Quách tướng quân, Vương Tướng quân mang theo một ngàn khinh kỵ binh đi trước thăm dò tình hình địch, lấy ba mươi dặm làm ranh giới, chúng ta đặt khoảng cách ba mươi dặm để tiền hậu hô ứng, có được không?

Quách Tuân hơi an tâm, thi lễ nói:

- Mạt tướng tuân lệnh.

Sau khi Quách Tuân lĩnh mệnh thì lập tức cùng Vương Tín sóng vai rời khỏi trướng, điểm nhân mã nhanh chóng xuất phát về hướng đông nam.

Trời mưa lất phất, tuyết bay bay, tầm nhìn hữu hạn chỉ thấy nơi nơi um tùm rộng lớn, bầu trời âm u, sự lo lắng trong lòng Quách Tuân càng lúc càng lớn, mới đi được hơn mười dặm đã ghìm ngựa dừng lại.

Vương Tín khó hiểu, hỏi:

- Quách huynh, vì sao tạm nghỉ?

Quách Tuân trầm ngâm nói:

- Phía trước đi thêm hơn ba mươi dặm là ra khỏi Tam Xuyên Khẩu, không nguy hiểm có thể đi, nhưng qua Tam Xuyên Khẩu một chút là có thể nhìn thấy thành Duyên Châu...

Vương Tín hỏi:

- Vậy thì sao?

Quách Tuân nói:

- Chúng ta binh ít, cũng không biết phía trước như nào, không thể khinh suất tính mạng của hơn ngàn người này được.Triệu Luật đâu?

Triệu Luật bước ra khỏi hàng, thi lễ nói:

- Quách đại nhân, có thuộc hạ.

Quách Tuân nói:

- Ngươi lựa chọn trong quân mười người tinh thông cưỡi ngựa đi trước dò đường, lần lượt đi trước cách nhau mười dặm, nếu gặp tình huống thì bắn khói lửa làm hiệu.

Triệu Luật gật đầu mang mười người đi trước.Đơi sau gần nửa canh giờ, nhóm người thứ nhất trở về bẩm báo phía trước không có gì. Lúc này Quách Tuân mới hơi yên tâm, lệnh cho mọi người đi tiếp. Vương Tín thấy Quách Tuân cẩn thận như vậy thì hỏi:

- Xưa nay Quách huynh dũng mãnh, sao lần này lại cẩn trọng như vậy?

Quách Tuân lo lắng nói:

- Vương huynh, không hiểu vì sao ta cảm giác lần hành quân này cực kỳ hung hiểm. Quách Tuân không tiếc bản thân nhưng dưới tay còn các huynh đệ, cũng nên phụ trách bọn họ với đúng. Haizz, đi thôi.

Quách Tuân đã sớm nghi hoặc, thầm nghĩ: “binh lính trấn thủ tại trại Kim Minh rất nhiều, một đêm lại bị phá? Quân Đảng Hạng xảo trá như vậy, hành động lần này hẳn là có mưu đồ từ lâu, chỉ sợ binh lực vận dụng cũng không thiếu, mục đích của đại quân này là ở đâu? Tất cả tới trợ giúp quân Tống tề tụ tại trấn Đại Liễu, người truyền lệnh kia sao lại căn đúng thời gian chuẩn như vậy...”

Hết thảy đều là bức bọn họ mang quân Tống đi Duyên Châu, trong chuyện này có dụng ý hiểm ác gì?

Quách Tuân lo lắng nhưng biết lúc này tạm thời không còn cách lựa chọn nào khác, chỉ có thể tiếp tục đi về phía trước. Đi thêm gần canh giờ thì đến Tam Xuyên Khẩu.Quách Tuân thầm nghĩ: “Địa thế Tam Xuyên Khẩu rộng lớn, nếu có phục binh...

Mới nghĩ đến đây chợt nghe xa xa vọng đến một âm thanh cao ngất, một ngọn lửa tím cao ngất trời.

Mặc dù trời âm u nhưng ngọn lửa tím này rõ ràng đã được qua xử lý đặc biệt nên trong thời tiết như vậy mà vẫn tỏa sáng rực rỡ.

Sắc mặt Quách Tuân đã biến đổi.

Hắn biết Triệu Luật mang năm loại khói lửa báo hiệu, mà ngọn lửa màu tím hoàn toàn nói rõ quân tình cấp bách.

Triệu Luật đi theo Quách Tuân nhiều năm, sớm đã trải qua vô số sóng to gió lớn, tính cách trầm ổn, nếu không thật sự nhìn thấy tình huống đáng sợ thì tuyệt đối sẽ không thả khói lửa màu tím.

Phía trước có địch, có đại quân lui tới! Phía trước có hiểm, có hung hiểm thật lớn!

Nơi này là Tam Xuyên Khẩu, vùng đất bằng phẳng, vô hiểm có thể theo, thích hợp cho kỵ binh tác chiến. Nghĩ đến đây, Quác Tuân lập tức ra lệnh:

- Lập tức lui về mời Lưu đại nhân dẫn binh rút quân về hướng tây.

Vương Tín thấy Quách Tuân thận trọng như vậy, cũng không dám chậm trễ, lập tức nói:

- Được!

Mọi người thúc ngựa trở về, nhưng đi chưa được mười dặm, chợt nghe phía trước có tiếng vó ngựa ầm vang.

Sắc mặt Quách Tuân lại thay đổi, thấy du kỵ chạy vội tới thì quát:

- Là chuyện gì?

Du kỵ vội la lên:

- Quách Tướng quân, phía trước là binh mã của Lưu đại nhân.

Quách Tuân phẫn nộ giục ngựa tiến lên nghênh đón Lưu Bình, hô to:

- Lưu đại nhân, sao ngươi lại tới đây?

Lưu Bình thấy Quách Tuân quay lại cũng vội hỏi:

- Tại sao ngươi lại quay về?

Quách Tuân lo lắng nói:

- Tại Thủy Xuyên có dấu hiệu đại quân mai phục, ta đang định xin Lưu đại nhân dẫn binh tạm lui lên núi trấn Đại Liễu, đợi điều tra dấu hiệu xong rồi nói sau. Sao Lưu đại nhân không theo ước định mà lại đến đây?

Lưu Bình trầm xuống, im lặng. Hóa ra Quách Tuân vừa đi thì đám người Thạch Nguyên Tôn nói quân tình khẩn cấp, sao phải đợi Quách Tuân đi trước dẫn đến làm chậm thời gian, chẳng lẽ phía trước có địch thì cũng không đi cứu viện Duyên Châu sao?

Trong lòng Lưu Bình cũng nghĩ như vậy, ông đồng ý theo Quách Tuân cũng là để tiện cho hành quân, thấy mọi người nói như vậy thì lập tức lệnh cho quân Tống xuất phát theo sau. Dù Lưu Nghi Tôn phản đối nhưng một bàn tay vỗ không lên tiếng nên không thể ngăn cản được.

Không ngờ mới đến Tam Xuyên Khẩu, Quách Tuân nói phía trước có địch, Lưu Bình vừa sợ vừa hối hận, đang do dự thì lại có du kỵ chạy vội đếná nói:

- Bẩm đại nhân, hướng đông bắc, hướng đông có dấu hiệu đại quân thường lui tới.

Quách Tuân vội la lên:

- Lưu đại nhân, lúc này tình thế đã rõ, chắc rằng quân Đảng Hạng dựa vào khinh kỵ khoái mã bức chúng ta quyết chiến tại Tam Xuyên Khẩu. Kính xin Lưu đại nhân lập tức lệnh cho ba quân lui tạm về hướng tây, tìm địa thế mà thủ.

Thạch Nguyên Tôn ở bên nói:

- Quyết chiến thì quyết chiến, chẳng lẽ binh mã chúng ta lại sợ bọn chúng hay sao? Nghe nói Quách tướng quân dũng quan ba quân, sao lại nhu nhược không dám nghênh chiến như vậy?

Quách Tuân giận dữ, nhưng nghĩ lúc này không nên lãng phí thời gian, đành phải trông cậy vào sự quyết định của Lưu Bình.

Lưu Bình nói:

- Lui lại hướng tây, vậy chẳng phải khiến tòa cô thành Duyên Châu tự chiến đấu sao? Kế này không được, Quách Tuân, ta lệnh cho ngươi đi tiên phong dẫn theo kỵ binh vọt qua trước. Chỉ cần chúng ta vượt qua được Tam Xuyên Khẩu là có thể dựa vào sơn lĩnh để chống cự, còn có thể cứu viện được Duyên Châu.

Quách Tuân vội la lên:

- Lưu đại nhân...

Lưu Bình liếc xéo Quách Tuân, chậm rãi nói:

- Quách Tướng quân, ngươi sợ chết sao?

Quách Tuân ngẩn ra, thấy ánh mắt mọi người đều nhìn mình rất khác lạ, liền thở dài ngửa mặt lên trời cười nói:

- Được, được...

Trong tiếng cười của hắn bộc lộ sự bất đắc dĩ. Hắn chỉ là Tuần Kiểm, quan lớn một cấp đè chết người. Nếu Lưu Bình đã quyết định, Quách Tuân hắn không thể chống lại mệnh lệnh.

Tiếng cười vừa dứt, Quách Tuân biết tình hình quân sự khẩn cấp, nghiến răng nói:

- Được, mạt tướng tuân lệnh.

Lúc này Lưu Bình đã như tên cài trên cung, không phát không được. Thấy Quách Tuân lĩnh mệnh liền thở phào, chỉ có thể hy vọng quân Tống dựa vào nhuệ khí mà thắng, quát:

- Nếu đã vậy, Quách Tuân làm tiên phong, Vương Tín hiệp đồng. Ba quân toàn lực xông qua Tam Xuyên Khẩu, đến Duyên Châu hội hợp.

Chúng quân Tống theo quân lệnh cùng xuất phát thẳng hướng Tam Xuyên.

Tuyết rơi lúc đứt lúc nối, không bao lâu đã thấy phía trước sông băng ngưng kết,uốn lượn như trăn,mọi người đã đến một nơi vắng vẻ, Quách Tuân biết nơi đây tên là ngũ Long Xuyên!

Ánh mắt Quách Tuân như ưng, giục ngựa đi trước, đột nhiên thả người phi lên dừng ở trước một đống tuyết, ngay lập tức khiến mọi người như nghẹn thở.

Trong đống tuyết kia tràn đầy thi thể quân Tống.

Triệu Luật nằm trong đống thi thể đó, đã không thể bẩm báo quân tình với Quách Tuân được nữa, bàn tay gã đông cứng vẫn còn nắm ống trúc truyền tin! Gã còn mở to tròng mắt như muốn nói gì đó.

Nhưng cuối cùng gã đã không nói được bất cứ quân tình gì!

Quách Tuân giơ tay chạm vào ống trúc kia, trong lòng run rẩy kịch liệt.

Triệu Luật chết không đáng giá, mặc dù gã đã truyền tin báo động nhưng mọi người vẫn tới, Quách Tuân cảm thấy hổ thẹn trong lòng, cả người run lên.

Trong quân Tống đã vang lên những tiếng xôn xao, không phải vì binh Tống này chết, mà là vì con sông đối diện đột nhiên hiện lên một màu xám xịt.

Màu xám xịt kia dần thay đổi chiều rộng cũng không vội vã nhưng lại tựa như núi di chuyển.

- Là người Đảng Hạng.

- Quân Đảng Hạng.

- Chúng ta trúng mai phục rồi!

Tiếng kêu gào liên tiếp, Quách Tuân chậm rãi vuốt hai mắt Triệu Luật lại, từ từ ngẩng đầu lên nhìn, trên vẻ mặt cô độc kia đã khắc sâu sự bi phẫn.

Bông tuyết tung bay rơi đầy trên bờ vai rộng của người đàn ông này tràn ngập đau xót và bất đắc dĩ.

Bờ nam đóng băng là bóng dáng quân Đảng Hạng.

Kỵ binh mênh mông, vó ngựa dương dương tự đắc, không ngừng có quân Đảng Hạng xuất hiện từ phía chân trời, tuyết ảnh giữa ngọn núi hội tụ thành một đường thủy triều còn dũng mãnh hơn con sông Hà Xuyên cộng lại.

Đúng là người Đảng Hạng đã mai phục tại ngũ Long Xuyên.

Quân Tống biết rõ có mai phục nhưng vẫn đuổi tới, có lẽ đây là vận mệnh, không thể chống lại được vận mệnh.

Bãi cát hoang vắng kia trong truyền thuyết từng có Ngũ Long từ dưới nước bốc lên phía chân trời.Từ sau khi có truyền thuyết đó, Ngũ Long Xuyên vẫn yên lặng, nhưng hôm nay Ngũ Long Xuyên đã sôi trào, nói không chừng từ nay về sau cái tên này sẽ dùng máu tươi để khắc trên sử sách.

Người vẫn còn chuyển động, mấy ngàn...mấy vạn không ngừng hội tụ, mênh mông không có giới hạn, bát ngát vô cùng ....

Chỉ là nhìn đơn giản, thì quân Đảng Hạng có ít nhất mười vạn người.

Kỵ binh mãnh liệt tại Ngũ Long Xuyên hoang vu ngược lại ngưng tụ sự im ắng khiến lòng người kinh hãi. Quân Đảng Hạng chậm rãi đi tới đứng ở bờ sông băng bên kia cũng không vội tấn công.

Bọn họ không vội bởi kỵ binh quân Tống không nhiều lắm, bất kể như nào thì bộ binh cũng chạy không thắng được khoái mã của bọn họ.

Quân Đảng Hạng cuộn sóng phập phồng tụ tập lại lạnh lùng nhìn đám cô linh quân Tống bên bờ bên kia.

Quân Tống đã mệt mỏi, ý chí chiến đấu đã bị phá hủy.

Bông tuyết rơi lặng lẽ không chút tiếng động rơi xuống tại Bình Xuyên hoang dã, cũng rơi trên người, trên mặt quân sĩ. Có bông tuyết rất nhanh ngưng kết thành đống, có cô linh bị hà hơi hòa tan dừng ở trên xác chết đông cứng, ngưng tận xương lạnh...

Lưu Bình kinh hãi, ông vốn định dựa vào sự dũng cảm của Quách Tuân và nhuệ khí quân Tống để khích lệ tinh thần hăng hái tiến lên nào ngờ binh mã của quân Đảng Hạng, thậm chí trận doanh còn dày đặc hơn.

Trận chiến này phải tiến lên còn khó hơn lên trời.

Người Đảng Hạng nhiều binh mã như vậy, sao có thể chống lại?

Lưu Bình không còn thời gian suy nghĩ, quát:

- Bày trận.

Mặc dù Lưu Bình hoảng sợ nhưng biết lúc này có sợ cũng không làm gì được, quân Đảng Hạng đã không ngừng tụ tập bên bờ sông bên kia, quân Tống cũng cần phải bày trận.

Bộ binh dù mỏi mệt nhưng vẫn bày trận theo sự chỉ huy.

Tiếng tù và vang thẳng lên trời cao, quân Tống nghiêm mật có tiến có lui, thuẫn bài thủ xếp đằng trước, trường thương thủ yểm hộ, toàn bộ trận hình trung tâm lập tức nhô lên một đường cong giống hình trăng khuyết, cũng không khác gì kình cung.

Không ngờ quân Tống lại bố trì đại trận Uyển Nguyệt!

Đây vốn là trận pháp. tràn đầy sát khí, nhưng bởi vì cái gọi là cứng rất dễ gãy, nếu không thể phá địch, người chết chính là mình.

Một vạn quân mệt mỏi dùng đại trận Uyển Nguyệt có thể đối kháng được với hơn mười vạn quân Đảng Hạng không?

Mặc Kỳ Chính, Hoàng Đức Hòa đều khó hiểu, ngay cả Lưu Nghi Tôn, con trai của Lưu Bình cũng không hiểu ý phụ thân, nhưng quân lệnh như núi, mọi người không thể không theo.

Mặc dù số lượng quân Tống không nhiều nhưng trận thế vẫn bày ra, mà cuối cùng thế tới quân Đảng Hạng đã ngừng, nhưng vẫn nhiều người đứng ở bờ bên kia chờ đợi tiếp viện đến.

Không đến một lát, kỵ binh Đảng Hạng bên kia bờ đã dày đặc như kiến.

Cuối cùng Quách Tuân cũng đứng lên, trèo lên ngựa nói với Vương Tín vài câu, sau đó giục ngựa đến bên cạnh Lưu Bình:

- Lúc này chúng ta chỉ có một cơ hội cuối cùng.

Hắn rất bình tĩnh, trong mắt dấy lên ý chí chiến đấu cực hung mãnh.

Chuyện cho tới bây giờ, có oán trách hối hận cũng đã muộn.

Quách Tuân chỉ có thể chiến!

Vì cơ hội cuối cùng mà chiến!

Lòng Lưu Bình vốn đã lạnh, nay nhìn thấy ánh mắt đó của Quách Tuân thì nhiệt huyết lại sôi trào lên:

- Đúng vậy, trong ba quân hẳn là vẫn có người hiểu ta! Đường vẫn còn hai nhánh...

Người Đảng Hạng đã không kiên nhẫn được nữa, bắt đầu có kỵ binh vọt tới thử thăm dò bên kia bờ.

Quách Tuân lạnh lùng nói:

- Chỉ có một đường chết! Nếu chúng ta lui, vậy thì kỵ binh phía sau lại xung phong liều chết xông lên, chúng ta sẽ chết không có chỗ chôn.

- Nhưng chúng ta không lui, bọn họ không giáp công chúng ta sao?

- Ít nhất lúc này sẽ không, bọn họ dùng chiến thuật không chiến cũng khiến người khuất phục, bọn họ đang chờ chúng ta lui binh.

Quách Tuân nói:

- Hơn mười vạn binh mã của bọn họ nghiền ép đến đây chủ yếu là muốn dùng khí thế ép chúng ta sụp đổ, bỏ chạy, sau đó thừa dịp loạn mà đuổi giết. Chúng ta thân mệt mỏi, kỵ bộ binh hỗn loạn, bất kể thế nào cũng chạy không thoát bọn chúng.

- Vậy hiện tại chỉ còn một con đường tiến lên, nếu có thể may mắn vọt tới thành Duyên Châu, có lẽ còn có thể dựa vào thành Duyên Châu để chống cự.

Lưu Bình nhìn quân Đảng Hạng vô bờ vô tận bờ bên kia, thở dài, trong mắt tràn đầy áy náy:

- Quách Tuân, ta đã không nghe lời ngươi, có lỗi với tướng sĩ ba quân, hôm nay chỉ có lấy cái chết đền nợ nước!

Lưu Bình đã hối hận.

Nhưng hối hận thì có ích gì?

Kỵ binh Đảng Hạng đã xếp gần ngàn tới giữa sông băng.

Quách Tuân bi ai nói:

- Ta và ngươi đều có lỗi với sự tín nhiệm của tướng sĩ ba quân.

Nhìn quân Đảng Hạng xa xa đang đến gần, Quách Tuân đột nhiên nói nhỏ hai câu, ánh mắt Lưu Bình sáng ngời, vui mừng nói:

- Thật sao?

Quách Tuân nói từng chữ:

- Đây là cơ hội cuối cùng của chúng ta, chỉ trông mong vào Lưu Đại nhân...lần này...chúng ta thật sự có thể sóng vai cùng nhau!

Hắn cố ý nhấn mạnh hai chữ “thật sự”, tràn đầy nhiệt huyết.

Lưu Bình lập tức nói:

- Ta toàn lực đối phó,phối hợp với hành động của ngươi. Ngươi yên tâm, chỉ có Lưu Bình chết trận, chứ không có Lưu Bình chạy trốn!

Tinh thần Quách Tuân rung lên, hét:

- Hay!

Trong lúc nói chuyện, mấy trăm kỵ binh phía sau đã tề tựu. Vương Tín đã tranh thủ lúc Quách Tuân và Lưu bình nói chuyện mà dẫn nhân mã đợi lệnh.

Tất cả kỵ binh đều là thủ hạ của Quách Tuân hoặc Vương Tín, ánh mắt mọi người cũng kiên định, sắc mặt quyết tuyệt.

Bọn họ phụ trách xung phong, vốn chính là đi chịu chết. Nhưng cho dù chết, bọn họ cũng muốn chết có ý nghĩa, bất kể ai muốn tính mạng của bọn họ thì nhất định phải lấy tính mạng để đổi lại.

Quân Đảng Hạng đã đến bên bờ của bờ bắc!

Quân Đảng Hạng ở bờ nam thấy quân Tống vẫn không có hành động gì, cuối cùng đã không kiên nhẫn được. Quách Tuân không rõ người chỉ huy quân Đảng Hạng là ai, nếu biết có thể thử thăm dò một lần.

Quân Đảng Hạng tạm thời không nhìn ra lỗ hổng của trận hình quân Tống,cho nên đã dẫn dụ quân Tống xuất kích, sau đó tìm cơ hội đánh thắng. Tướng lĩnh Đảng Hạng đã nắm gọn quân Tống trong tay, đương nhiên sao chịu để quân Tống lọt lướt.

Tiếng trống nổi lên làmđất rung núi chuyển, long trời lở đất. Quân Tống đánh trống! Đích thân Lưu Bình đánh trống!

Quách Tuân vừa nghe tiếng trống liền dẫn đội xuất kích đầu tiên lao ra.

Cánh quân Tống vừa mở, một mũi tên nhọn lao ra, mũi tên nhọn kia chợt ẩn chợt hiện chính là Diên Biên Đô Tuần Kiểm Quách Tuân.

Kỵ binh Đảng Hạng ở bờ nam xôn xao, kỵ binh Đảng Hạng ở bờ bắc nghênh đón, bọn họ qua sông vốn chính là tìm kiếm một trận chiến này!

sĩ khí Người Đảng Hạng đang dâng cao, kỵ binh Tống thì đau buồn giảm sút.

Hai quân chạm vào nhau, gió tuyết cuồn cuộn nổi lên đầy trời. Gió cuốn sóng to, mang tiếng động tuyết gạn đục khơi trong ngút trời, hai quân lần lượt thay đổi, đất trời mênh mông, từng đường máu tươi bắn ra nhuộm đỏ cả tuyết bay, tuyết rơi và băng tuyết!

Trong nháy mắt mặt đất cũng nở rộ vô số đóa hoa hồng kiều diễm.

Từng trận tiếng sáo,tiếng trống trận, Quách Tuân cầm trong tay trường thương, đã giết đến giữa kỵ binh Đảng Hạng. Trường thương của hắn nhanh như chớp, đoạt mệnh, một đường đánh tới, đánh đâu thắng đó; không gì cản nổi.

Không ai có thể ngăn cản được thương đâm như chớp của Quách Tuân!

kỵ binh Đảng Hạng thay đổi sắc mặt, quân Tống vốn đang tuyệt vọngthấy Quách Tuân dũng mãnh như vậy thì ý chí chiến đấu lại dâng lên.

Nhưng vào lúc này, một ngọn núi đã ngăn ở trước mặt Quách Tuân, dù tên nhọn có sắc bén, nhưng sao có thể xuyên qua được núi cao.

Quân tâm kỵ binh Đảng Hạng rung lên, đã đem hy vọng ký thác vào ngọn núi có thể ngăn chặn được Quách Tuân.

Ngăn Quách Tuân lại không phải là núi, mà là người núi. Cánh tay người đó to bằng bắp đùi, ngựa mà y cưỡi cường tráng như trâu rừng, đây không phải là ngựa, ngựa thì không thể mang được người cường tráng như thế, tay y cầm chày sắt, gậy sắt tám trượng, ở trước gậy sắt này thô to như chiếc chùy sắt.

Đây vốn là lực sĩ đệ nhất của bộ phận Đảng Hạng tây bắc, gọi là Vạn Nhân Địch.

Tương truyền người này song chưởng nặng ngàn cân, có thể tay không kéo tuấn mã, vật lộn hổ giết báo.Y thấy Quách Tuân khí thế mãnh liệt, lập tức nảy sinh ý muốn tranh giành cao thấp. Hai ngựa giao nhau còn cách hơn trượng, Vạn Nhân Địch đã vung chày sắt, gậy sắt đánh ra.

Người mượn thế ngựa, ngựa mượn sức gió, Vạn Địch Nhân đánh ra một chiêu như mưa bão biến đổi.

Đất trời gào rít giận giữ, vó ngựa đạp máu, sát khí dày đặc bao phủ Quách Tuân. Quân Tống rơi vào hoảng sợ, không tin dưới trời còn có một kích uy mãnh như thế, lo lắng Quách Tuân không chịu được một kích kinh thiên đó.

Hoành thương của Quách Tuân bị gãy!

Chày sắt, gậy sắt đâm xuống, con ngựa đau đớn hí lên. Chiến mã của Quách Tuân đã bị chày sắt, gậy sắt chém ngang thành hai đoạn.

Tim mọi người nảy lên không ngừng, thấy một bóng người vot lên cao gần như là sượt qua chày sắt, gậy sắt.

Quách Tuân không phải ngựa, cú nhảy này của hắn như Thiên Long, Quách Tuân vứt bỏ ngựa, tay vỗ, đầu đoạn thương gãy kia đột ngột nhanh như chớp đâm vào cổ họng Vạn Địch Nhân.

Trong khoảnh khắc trong mắt Vạn Địch Nhân tràn ngập sự hoài nghi và không tin, đồng thời Quách Tuân đã bay lên một cước đá ăn Vạn Địch Nhân rơi xuống ngựa. “Phụp”một tiếng, bông tuyết bay khắp nơi, Vạn Địch Nhân nằm trên mặt đất méo mó, mất mạng.

Quách Tuân giết người lấy ngựa, thuận tay đoạt lấy chày sắt gậy sắt cầm trên tay vung lên đánh vào ngực một quân Đảng Hạng. Người đó không kịp kêu thảm một tiếng đã bị đánh bay lên không trung rồi mới ngã xuống, lại bị loạn mã giẫm đạp, nhưng gã đã sớm chết.

Một kích của Quách Tuân đã đánh lục phủ ngũ tạng của người kia nứt toác, lưng gãy.

Quách Tuân không phải là Vạn Địch Nhân, nhưng cầm chày sắt gậy sắt còn hung hãn hơn Vạn Địch Nhân!

Tuyết múa hát ca đầy hào khí. Quách Tuân quay cuồng chém giết, phân rẽ!

Quân Tống hô to, tiếng trống lay động nhân tâm, quân Đảng Hạng bờ bên kia kinh sợ, không thể tin có người lại làm được việc đó.

Quân Đảng Hạng bờ bắc cuối cùng đã sụp đổ, đều thúc ngựa trốn sang bờ bên kia, Quách Tuân vung tay lên, đám kỵ binh nốt gót bị giết theo, thiết kỵ ầm vang, đạp phá trên tuyết đọng lạnh lùng, đạp lên mặt băng trong suốt, lửa tinh bắn bốn phía.

Mặt sông rộng lớn, nước chảy không phải là sông mà là máu tươi.

Quách Tuân một đường đuổi giết lập tức tới bờ Nam, kỵ binh quân Đảng Hạng chạy trối chết xông đến bờ nam cũng khiến cho kỵ binh bờ Nam dao động. Quách Tuân giết nhập trong loạn quân, vừa vào vừa ra giết hơn mười người rồi hạ lệnh:

-Rút lui!

Hắn phát hiện mặc dù quân Đảng Hạng đã bại lui nhưng lui binh chỉ là chín trâu mất một sợi lông, không đáng kể gì, quân Đảng Hạng vẫn còn thiên quân vạn mã, tiếp tục tiến lên cũng chỉ có con đường chết.

Mệnh lệnh của hắn vừa đưa ra, quân Tống đều quay đầu ngựa trở về bờ bắc. Quân Đảng Hạng hô to, trận hình khựng lại rồi mới đuổi theo. Quách Tuân qua sông ghìm ngựa lạnh lùng nhìn.

Băng phong Tam Xuyên, tiếng gió hú tuyết ngạo,kỵ binh Đảng Hạng thấy Quách Tuân vượt qua sông băng thì lại không dám vọt tới.

Quách Tuân lẳng lặng đứng đó, cầm chày sắt gậy sắt chống xuống mặt băng đợi thủ hạ quay lại trong trận doanh mới thúc ngựa quay lại. Đầu tiên là quân Tống yên lặng, tiếp đó là những tiếng hoan hô rung trời. Quân Đảng Hạng lại rơi vào sự yên lặng chết chóc.

Lưu Bình hưng phấn hai mắt sáng rực, chào đón nói:

-Quách huynh đúng là thiên hạ đệ nhất dũng sĩ!

Bản thân ông chức quan cao hơn nên vẫn có phần kiêu căng đối với Quách Tuân, nhưng thời khắc này thấy Quách Tuân dũng mãnh như vậy thì nhiệt huyết trong lòng sôi trào, không kìm được liền sửa cách xưng hô.

Quách Tuân khẽ thở dài:

-Sao dám nhận thiên hạ đệ nhất? Trận chiến này...mới chỉ là bắt đầu thôi.

Lòng Lưu Bình đang nhiệt huyết sôi trào liền lạnh đi, đột nhiên nghe bờ bên kia vang lên những tiếng ồn ào, cho là người Đảng Hạng phát động tiến công thì vội quay đầu nhìn qua, không ngờ chỉ thấy kỵ binh bờ bên kia đột nhiên tách ra, rất nhiều người xuống ngựa, dắt ngựa mà đứng.

Một người giục ngựa từ trong đó đi ra.

Hóa ra quân Đảng Hạng này xuống ngựa chỉ vì vô cùng tôn kính một người đứng ra khỏi hàng.

Người nọ mặc y phục màu vàng mũ vàng, khuôn mặt trầm như nước, nhỏ bé và yếu ớt khác xa so với Vạn Địch Nhân. Y ở trên ngựa giữ một thanh khảm đao răng cưa, lẳng lặng giục ngựa đi tới giữa mặt sông băng, cao giọng nói:

-Long Thiên Hạo mời Đô Tuần Kiểm Quách Tuân đại Tống độc chiến!

Lời y nói ra như tuyết trắng bay lên đẩy ra xa, ba quân đều nghe thấy.

- Long Thiên Hạo mời Đô Tuần Kiểm Đại Tống Quách Tuân độc chiến!

Quân Tống nghe vậy trong lòng nghi hoặc, thầm nghĩ: “Mọi người đều thấy rõ vừa rồi Quách Tuân đã càn quét thiên quân, dũng lực không ai ngăn được, làm quân đich khiếp sợ, quân Tống thì mặc cảm tự ti, nhưng quân Đảng Hạng lại vẫn còn người ra khiêu chiến ư?

Người nọ điên rồi sao?

Quách Tuân nhìn người nọ ở đằng xa, sắc mặt như thường, nhưng hai đồng tử lại co rút, lẩm bẩm:

-Hóa ra là hắn?

Lưu Bình đứng bên kinh ngạc nói:

-Bọn họ muốn làm gì?

Rõ ràng ông cũng không tin trong quân Đảng Hạng lại có người không sợ chết này.

Lưu Tôn Nghi đứng bên nói:

-Người Đảng Hạng thượng võ, hơn phân nửa là thấy Tuần Kiểm uy mãnh, sĩ khí quân ta dâng cao nên trước tiên muốn loại trừ Tuần Kiểm trước, rồi mới tiếp tục quyết chiến với chúng ta.

Lưu Bình quay lại nhìn đứa con, thấy gã tràn ngập ẻ vẻ tôn sùng với Quách Tuân, thầm nghĩ: “Con mình đã trưởng thành, nếu tôi luyện vài năm nữa có thể trở thành tướng quân.”

Nhưng không biết tại sao trong lòng ông không vui mà chỉ có sự chua xót, ông hối hận cảm thấy không nên đưa con trai đi xuất chinh.

Anh hùng luôn cô đơn, chiến trường luôn thờ ở với sinh tử, vì sao năm xưa ông không cho con đi theo nghiệp văn? Nếu con trai theo nghiệp văn, cho dù không thể trúng Trạng Nguyên nhưng dựa vào xuất thân gia thế, chẳng phải ở kinh thành tự do tự tại sao?

Gió bắc lách tuyết, ngân hoa múa rơi....trong thiên địa tràn đầy vẻ tiêu điều.

Quách Tuân nhìn Long Hạo Thiên, không ói nhiều cầm chày giục ngựa tiến lên, khi còn cách Long Thiên Hạo chừng ba trượng thì ghìm ngựa, hắn không nói lời nào, cũng không cần nhiều lời.

Lúc này đây hắn không thể lùi bước! Bởi vì hắn là Quách Tuân! Dưới tình huống như này Quách Tuân chỉ có thể chết chứ không lui bước!

Gió tuyết điêu điều, lạnh băng, hai quân tịch mịch như chết. Bất kể là quân Đảng Hạng hay là quân Tống đều quên hết tình cảnh bản thân mà hồi hộp lặng yên nhìn hai người trên mặt băng.

Trận thắng bại này quan hệ đến khí thế của hai quân, sinh tử của hai người còn thể hiện ngạo khí thật sự ở bên trong con người họ. Quách Tuân mà chết, quân Tống lập tức sụp đổ, Quách Tuân không chết, sẽ tiếp tục nghênh đón sự khiêu chiến nào nữa?

Quách Tuân không nghĩ đến sinh tử, cũng không nghĩ sau đó sẽ như nào, hiện giờ trong đầu chỉ hiện lên tư liệu mà Diệp Tri Thu cấp cho hắn.

Tám bộ của Nguyên Hạo đều có chức trách, Long Bộ Cửu Vương cũng có vô cùng...Trong Cửu Vương quỷ dị nhất chính là La Hầu Vương, thần bí nhất chính là A Nan Vương, mưu mô nhất chính là Bồ Đề Vương, quyền thế lớn nhất là Dã Lợi Vương cùng Thiên Đô Vương...

Những người này đều có thần thông, nhưng trong đó cao ngạo nhất, võ công mạnh nhất chỉ có một người, chính là Long Dã Vương.

Long Bộ Cửu Vương, bát bộ chí cường. Long Chiến Vu Dã, Kỳ huyết Huyền Hoàng!

Long Hạo Thiên chính là Long Dã Vương!

Màn trời dày đặc, sông rộng dài.

Long Dã Vương nhìn về phía trước đợi Quách Tuân tới gần mới thu lại ánh mắt.

Quách Tuân lẳng lặng nhìn Long Dã Vương, để ý nhất cử nhất động của y, hắn là người tập võ, đương nhiên nhận ra mặc dù Long Dã Vương không cường tráng nhưng còn nguy hiểm gấp bội so với Vạn Địch Nhân.

Long Dã Vương ở trên ngựa chắp tay nói:

-Ngưỡng mộ đại danh Đô Tuần Kiểm đã lâu vẫn vô duyên gặp mặt, hôm nay được gặp, thật sự là may mắn.

Quách Tuân không ngờ Long Dã vương lại hào hoa phong nhã như thế, đáp lễ nói:

-Nhưng hôm nay vừa gặp đã phải phân rõ sinh tử, sao có thể gọi là may mắn?

Long Dã Vương nói:

-Sống có thể tận niềm vui, chết cũng không tiếc. Ntập võ có thể chết dưới tay cao thủ, xem như là chuyện may mắn.

Khóe miệng cười đơn độc:

-Cái chết này còn sung sướng hơn cái chết dưới quyền mưu.

Quách Tuân hỏi ngược lại:

-Vậy ngươi đã từng tận niềm vui chưa?

Trong mắt Long Dã Vương hiện lên tia buồn bã, một lúc lâu sau mới nói:

-Quách Tuân, tuy ngươi chỉ là một Đô Tuần Kiểm nhưng ở trong chúng ta lại vang dội sánh ngang hoàng đế Đại Tống, bởi vì ngươi giết Dạ Nguyệt Phi Thiên, Thác Bạt Hành Nhạc, Già Thiên Mãng...Những người này...ta đều biết. Hôm nay ta đến đây chính là đợi ngươi.

-Ngươi muốn báo thù cho bọn họ?

Quách Tuân bình tĩnh hỏi.

Long Dã Vương từ tốn trả lời:

-Mặc dù một năm ta cũng không nói chuyện với bọn họ đến ba câu, nhưng ta vẫn muốn ra tay vì bọn họ.

Y dùng hai chữ “ra tay” mà không dùng hai chữ “báo thù”, trong lời nói hàm nghĩa hiu quanh. Y là Long Dã Vương, là một trong Long Bộ Cửu Vương, là người có địa vị tốiao trong lòng người Đảng Hạng.

Quyết định của y chính là phải chiến.

Người Đảng Hạng vốn dũng mãnh, sùng võ khinh văn, lấy đánh nhau để đạt được sự tôn sùng trong thiên hạ, Vạn Địch Nhân đã chết, bọn họ cần một người ra khiêu chiến với Quách Tuân.

Giết Quách Tuân, quân Tống tự sụp đổ.

Sống có thể tận niềm vui, chết cũng không tiếc. Nhưng hôm nay hai người quyết chiến, thiên hạ vốn là trời nam đất bắc, không hề giống nhau. Hôm nay bọn họ vì đủ loại nguyên do mà quyết sinh tử, có đáng hay không?

Quách Tuân cười châm chọc, trong tiếng cười mang theo sự bất đắc dĩ lạnh lẽo:

-Nhưng cho dù ta không giết bọn chúng, hôm nay ngươi có ra tay không?

Trong mắt Long Dã Vương hiện lên sự buồn bã trống trải, gật đầu nói:

-Ngươi nói đúng, trong mệnh đã định, ta và ngươi nhất định phải giao thủ.

Khi nói đến chữ “Trong mệnh đã định”, trong ánh mắt bất đắc dĩ của Long Dã Vương hiện lên cuồng nhiệt, tôn kính nói:

-Một khi đã vậy, mời!

Quách Tuân không nói lời nào, một tay xách chày, nghiêm nghị nói:

-Mời!

Hai người đứng đối diện, trong thần sắc nghiêm nghị mang theo sự tôn kính lẫn nahu. Cao thủ chân chính, tôn kính đối thủ chân chính, giữa bọn họ chẳng phải đều là kỳ phùng địch thủ sao?

Gió lạnh cuồn cuộn cuốn qua, rít gào như cuồng ca, như tuyết ca!

Hai quân không nghĩ Quách Tuân và Long Dã Vương không vội giao thủ mà lại nói chuyện như đã từng quen biết nhau, mà hai quân cũng không ngờ khi hai người cùng ra tay, thì lập tức quyết định ra sinh tử.

Gần như cùng lúc Quách Tuân và Long Dã Vương cùng thúc ngựa, song phương cách nhau mấy trượng, nhưng tiếng chân chưa vang lên thì Long Dã Vương đã một đao bổ về phía không trung.

Tất cả mọi người sửng sốt, không biết Long Dã Vương có dụng ý ở đâu, chỗ nào, chém đao răng cưa lên không trung, bất kể thế nào cũng không làm tổn thương người. Một đao kia của Long Dã Vương chẳng phải gây nên hao thời hao lực đó sao?

Nhưng giây lát mọi người đã hiểu dụng ý của Long Dã Vương, một đao kia chém ra, ở giữa không trung đột nhiên xuất hiện một lưỡi đao răng cưa bắn ra về phía ngựa Quách Tuân!

Khảm đao kia vốn biến hóa vô cùng, tác dụng kỳ diệu. Nếu Long Dã Vương đã biết đám người Dạ Nguyệt Phi Thiên, Thác Bạt Hành Nhạc, thì binh khí của y cũng quỷ dị y như đám người đó sử dụng.

Lưỡi đao sắc bén như băng một nửa đánh vào Quách Tuân, một nửa đánh vào trên người con ngựa, con ngựa đau đớn hí lên lảo đảo, trường đao của Long Dã Vương lại giơ lên, phóng ra sát khí lạnh băng đông cứng.

Long Dã Vương không phải là Vạn Nhân Địch, y chỉ đợi khi Quách Tuân bay lên. Quách Tuân có thể không giết Long Dã Vương như giết Vạn Nhân Địch. Nhưng Long Dã Vương lại áp dụng đúng cách của Quách Tuân, đợi thừa dịp Quách Tuân bay lên thì một đao giết địch.

Long Chiến Vũ Dã, Kỳ Huyết Huyền Hoàng!

Long Dã Vương y cùng Quách Tuân quyết chiến Ngũ Long Xuyên, hiện tại sẽ dùng máu của Quách Tuân tế các huynh đệ đã chết, châm lên nhiệt huyết của tộc nhân.

Ngựa chết, ngã sụp xuống đất. Quách Tuân lại bay lên không trung, rồi đột nhiên lộn một vòng rơi xuống.

Lưỡi đao dù sắc bén nhưng dù gì cũng mạnh mẽ bằng chiêu đã đánh gục con ngựa. Quách Tuân cầm chày sắt trong tay, mượn con ngựa là tấm chắn đã tránh được một kích trí mạng của Long Dã Vương.

Quách Tuân đáp xuống đất, kéo theo chày sắt gậy sắt lùi xuống.

Long Dã Vương hơi kinh ngạc, cũng đã tính việc Quách Tuân né tránh. Y phóng ngựa không ngựa không ngừng, tốc độ đã đạt tới cảnh giới tối cao. Quách Tuân dù có nhanh nhưng cũng không nhanh bằng ngựa. Quách Tuân muốn trốn cũng không tránh khỏi được một đao toàn lực của y.

Long Dã Vương tính toán thận trọng và giành cơ hội tuyệt vời này. Khoảng cách hai người càng gần hơn, Long Dã Vương đã dự tính, gần ba thước thì xuất đao.

Một đao xuất ra lập tức quyết định sinh tử!

Không đợi Long Dã Vương xuất đao, Quách Tuân đột nhiên ra tay, gậy sắt chày sắt đập về phía mặt băng.

Long Dã Vương ngơ ngẩn, không hiểu dụng ý của Quách Tuân. Bất kể Quách Tuân phản kích thế nào cũng đã nằm trong kế hoạch của y, nhưng không ngờ Quách Tuân lại ra tay với mặt băng?

Long Dã Vương lập tức không hiểu, nhưng đao đã chém ra ngoài.

Nhưng mặt băng đã trầm xuống, con ngựa đột nhiên bị rùn xuống. Long Dã Vương ngàn tính vạn tính nhưng lại không đoán ra con ngựa kia đạp phải băng cứng đột nhiên vỡ tan, xuất hiện lỗ thủng lớn đủ để mười mấy người chết đuối.

Long Dã Vương bỗng nhiên bừng tỉnh, lần đầu tiên Quách Tuân quay lại, đã dùng chày sắt gậy sắt thử thăm dò mặt băng, chẳng lẽ hắn đã đoán được phải giao thủ với Long Dã Vương, nêu đã xem trước mặt băng vững chắc hay không?

Long Dã Vương không tin Quách Tuân có dự tính này, nhưng giờ phút này không còn thời gian cho y nghĩ nhiều. Con ngựa đột nhiên chìm xuống, một đao của y mất đi độ chính xác, y định đẩy Quách Tuân vào hiểm địa, nào ngờ bản thân mình lại rơi vào tuyệt cảnh. 

Long Dã Vương muốn phi thân lên như Huyền Long Phi Thiên, tiếp tục chiến đấu nơi miền quê hoang dã, nhưng trong không trung đột nhiên tối sầm, một cây gậy sắt chày sắt mang theo uy lực thiên địa nhanh như sấm sét ập xuống...

Quách Tuân ra tay toàn lực, một chiêu đánh ra, gió tuyết ngừng, thiên địa lạnh!

“Phập”một tiếng vang lớn, bọt nước bắn khắp nơi, Long Dã Vương cả người lẫn ngựa đều rơi vào trong làn nước sông lạnh băng đến tận xương!

Hai bờ sông đang hô to chợt ngừng.

Thắng bại đã quyết định, Long Dã vương đã bại, bại chính là chết!

Chỉ thấy trên mặt sông băng trong nháy mắt bị máu tươi nhuộm đỏ thẫm, từng làn khói trắng bốc hơi, gió thổi qua, mặt nước lại kết thành băng, mỏng manh, bao lấy bao nhiêu người chí khí hào hùng.

Quách Tuân xách chày đứng đó, quần áo bay phần phật nghe như tiếng sáo, cuối cùng ngẩng lên nhìn, thấy người Đảng Hạng đã xuất binh.

Lần này người Đảng Hạng không phát động tấn công nhanh, cũng không có ai khiêu chiến, mọi người cầm thuẫn, chậm rãi như núi kéo tới.

Tuy quân Tống đã vào tròng, nhưng quân Đảng Hạng không dám khinh thường quân Tống suy nhược mệt mỏi nữa, bởi vì quân Tống còn có Quách Tuân.

Quách Tuân còn đó, ý chí chiến đấu của quân Tống sẽ còn....

Gió lạnh hơn thổi qua trường thương thiết thuẫn lạnh băng, ai oán. Nó dường như đã đoán được trận chiến nay không có người thắng, chỉ có thi cốt thành núi, sông như máu, còn có thiếu phụ khuê xuân trong mộng kia, nhớ nhung vô tận!

 Chương 233 - 236: Mã tặc

Khi Địch Thanh tỉnh lại thì mồ hôi đầm đìa, không biết bản thân đang ở đâu.

Hắn còn nhớ rất nhiều những gì đã mộng. Trong giấc mộng có khóc, có cười, có máu, có lệ. Tuy nhiên có một giấc mộng ly kỳ khiến cho hắn nhớ rất rõ.

Trong giấc mộng đó, bản thân hắn ở trong một cái hang đá, xung quanh mờ mịt. Bốn bức tường xung quanh hang đá đều là những bức họa cổ vẽ tượng Phật trang nghiêm.

Chỉ có điều những pho tượng Phật đó đều lạnh lùng nhìn hắn.

Những pho tượng Phật đó hắn đã từng nhìn thấy khi ở trong huyền cung của lăng Vĩnh Định. Có điều những pho tượng Phật mà hắn nằm mơ lại không phải trong cung mà trong hang đá.

Đột nhiên hang đá bốc lửa. Không biết ngọn lửa bùng lên từ đâu nhưng bốc cháy hừng hực hòa tan tượng Phật. Pho tượng Phật đó từ từ thay đổi rồi chợt biến thành khuôn mặt Chân Tông.

Chân Tông đang nhắm mắt khi Địch Thanh đi tới liền chợt mở mắt ra mà nói:

- Tới đây.

Cho dù lúc đó Địch Thanh đang nằm mơ nhưng thấy Chân Tông mở mắt thì cũng phải kinh hãi.

Đến đây là đến đâu?

Ngay vào lúc Chân Tông mở mắt ra, Địch Thanh chợt bừng tỉnh. Đã hai lần ở trong mơ hắn nghe thấy cái âm thanh đó. Một lần là ở trong ngục còn một lần là bị trọng thương hôn mê.

Nghĩ tới đây, Địch Thanh mới cảm nhận toàn thân đau nhức liền rên lên một tiếng rồi mở mắt.

Một tia sáng xuyên thấu qua lớp lụa mỏng nơi cửa số chiếu lên khuôn mặt của Địch Thanh. Địch Thanh đột nhiên bị ánh sáng chiếu vào khiến cho hắn phải nhắm mắt lại.

Không khí hơi khô khiến cho ánh mắt trời ngày đông lại có chút nóng bức. Địch Thanh cảm nhận được điều đó cũng không cảm thấy thích thú mà suýt chút nữa nhảy dựng lên.

Hắn bỗng dưng cảm giác khó có thể tưởng tượng được, thậm chí còn có chút kinh hãi.

Tất cả mọi chuyện lập tức ùa vào trong đầu Địch Thanh. Hắn còn nhớ rõ lúc bị thương là do bị Bồ Đề vương đánh lén. Vào lúc cuối cùng, hắn dùng hết sức bóp cổ đối phương, nhìn nét mặt kinh hoàng của Bồ Đề vương, hắn cảm ấy hết sức khoái trá.

Lúc ấy, thậm chí hắn còn nghe thấy âm thanh xương Bồ Đề vương bị gãy. Khi đó Địch Thanh còn nghĩ để cho hai huynh đệ có thể bỏ chạy.

Mặc dù hắn không phải là đối thủ của Bồ Đề vương nhưng nghĩ tới Tư Mã Bất Quần đã chết, Địch Thanh cảm thấy đau đớn. Tư Mã vì hắn mà vong mạng.

Cũng vì cái chết của Tư Mã mới kích thích chút tiềm năng còn sót trong người hắn.

Hắn nhớ lại ngực bị một nhát thương trí mạng của Bồ Đề vương vậy mà hắn chưa chết hay sao? Không biết bây giờ ở cách trại bao xa, Cát Chấn viễn như thế nào rồi? Nhưng điều quan trọng nhất thì khi đó là mùa đông.

Khi đó tuyết trắng phủ khắp nơi. Mặc dù hơi lạnh nhưng còn không bằng cái thời tiết ấm áp lúc này lại khiến cho Địch Thanh cảm thấy lạnh.

Hắn nhìn xuyên qua cửa sổ chỉ thấy bầu trời trong vắt, cực cao. Ánh nắng chói chang khắp nơi. Hắn nhận ra điều đó mới giật mình kinh hãi. Chẳng lẽ giấc mộng của hắn đã diễn ra trong mấy tháng? Hay chẳng lẽ hiện tại hắn vẫn còn trong giấc mộng?

Liếc mắt nhìn sang bên cạnh có một chiếc gương đồng, Địch Thanh giật mình.

Trên chiếc gương hiện lên một gương mặt tiều tụy, làn da cực đen. Hình xăm trên mặt gần như biến mất. Gương mặt đó không phải là của hắn.

Địch Thanh biết rõ chiếc gương phản chiếu chính là bản thân mình. Tuy nhiên nhìn vào đó, hắn vẫn cảm thấy kinh hãi. Hắn là Địch Thanh sao? Tại sao hình dạng khuôn mặt ở trong gương lại không giống với gương mặt của hắn?

Trang Chu mộng điệp, không phải điệp cũng chẳng phải ta? (Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu. Trang Chu với bướm tất có chỗ khác nhau. Cái đó gọi là "vật hoá".)

Khi Địch Thanh nghĩ tới Trang Chu thì cảm giác thân mình rất đau, đồng thời cảm giác dưới thân hơi rung. Tới lúc này, hắn mới phát hiện ra thân thể hơi lay động hiểu rằng mình đang ở trên một chiếc xe ngựa.

Hắn cố gắng ngồi dậy thì thấy toàn thân cứng rắn như xác chết. Cố gắng nhìn xuống, Địch Thanh mới phát hiện ra mình bị băng toàn thân, đồng thời khắp người có mùi thuốc nồng nặc giống như một cái xác được ngâm thuốc trước khi mai táng.

Không biết tới giờ đang có chuyện gì?

Một làn gió thổi qua, chiếc xe cũng đi chậm rồi dừng lại. Màn cửa chiếc xe được vén lên rồi một bàn tay khô héo đưa vào sờ lên trán của Địch Thanh.

Cảnh tượng trước mặt khiến cho Địch Thanh có to gan đến mấy thì cũng phải toát mồ hôi. Tuy nhiên sau đó, Địch Thanh liền phát hiện ra bàn tay đó chỉ thử xem trán hắn nóng hay lạnh rồi từ từ co lại.

Địch Thanh nhìn vào gương đồng cuối cùng phát hiện ra là có một lão nhân cao tuổi vào trong xe. Hắn định lên tiếng thì cảm nhận được cổ họng nghẹn cứng, chỉ hừ được một tiếng. Lão già lưng còng bước xuống xe. Một lúc lâu sau, lão cầm lên một cái bát sứ bên trong đầy là nước thuốc. Địch Thanh còn chưa kịp mở miệng thì nước thuốc đã chảy vào khiến cho hắn chỉ biết uống. Sau khi uống xong, Địch Thanh vội vàng lên tiếng:

- Lão trượng! Là lão cứu ta?

Lão già thấy Địch Thanh có thể nói chuyện thì gương mặt gầy guộc không giấu được sự mừng rỡ. Nhưng lão lại lắc đầu mà chỉ "a...a" hai tiếng. Tiếng nói của lão hoàn toàn không phải là tiếng của Trung Nguyên nên Địch Thanh không biết lão nói cái gì. Hắn đang định hỏi lại thì lão già đã bước xuống xe.

Chiếc xe ngựa lại chuyển động. Có tiếng hát tang thương từ bên ngoài vọng vào trong thùng xe.

Tiếng ca đó tràn ngập một ý mênh mang, còn có chút sầu khổ.

Địch Thanh nghe kỹ thì nhận ra đó là âm thanh của lão già nhưng không hiểu lão đang hát cái gì. Tiếng ca xen lẫn với tiếng ngựa khiến cho Địch Thanh hiểu được lão nhân là một người đánh xe. Sau khi uống thuốc, tinh thần Địch Thanh cảm thấy tốt hơn rất nhiều. Mặc dù hắn vẫn còn hoang mang nhưng cơn buồn ngủ kéo tới khiến cho Địch Thanh chìm vào giấc ngủ.

Cứ như vậy trong mấy ngày này, sức khỏe của Địch Thanh mỗi ngày một khá hơn. Nhưng do không hiểu tiếng của lão nhân nên không biết chuyện diễn ra như thế nào. Tới một ngày, Địch Thanh có thể cố gắng cử động chân tay, nghe thấy tiếng động của màn xe, hắn liền thở dài nói:

- Đây là đâu?

Cả ngày hắn ở trong chiếc xe nên chỉ nhìn thấy phong cảnh qua cánh cửa nên cơ bản không biết mình đang ở chỗ nào. Điều duy nhất hắn có thể xác định rằng hiện tại đang là mùa hè và hắn đã hôn mê mấy tháng? Hắn cũng không trông mong lão nhân đó có thể trả lời. Không ngờ một âm thanh lạnh lùng chợt từ bên ngoài vọng vào:

- Nơi này là Địa Cân Trạch.

Địch Thanh vui vẻ ngẩng đầu lên nhìn để rồi lại lắp bắp kinh hãi.

Cách đó không xa có một gương mặt màu xanh dữ tợn.

Định Thanh tập trung tinh thần nhìn lại thì không thể cười nổi. Hóa ra người đó đeo chiếc mặt nạ bằng đồng xanh nên Địch Thanh không nhìn ra khuôn mặt của y.

"Người này là ai? Tại sao lại phải đeo mặt nạ?"

Địa Cân trạch? Địch Thanh thầm suy nghĩ. Hắn có nghe thương lái nói Địa Cân Trạch vốn là địa bàn của người Hạng Đảng cách Hạ châu về phía Bắc chừng ba trăm dặm. Có điều nơi này hiện nay cũng phồn hoa chẳng khác gì Hạ, là một nơi buôn bán rất tốt.

Tại sao hắn lại từ trại Bình Viễn mà tới tận nơi xa như thế này?

Địch Thanh vừa suy nghĩ vừa quan sát người đeo mặt nạ. Hắn thấy thân hình người đó mảnh mai, âm thanh mặc dù lạnh lùng như nghe giống giọng nữ.

Chẳng lẽ đây là một người con gái?

Nhìn người nàng không hề có một chút dấu hiệu nào chỉ rõ. Chỉ có một điểm đặc biệt duy nhất thì đó là nàng có buộc một sợi dây lưng màu lam.

Sợi dây lưng màu lam như nước biển, thanh tịnh giống như bầu trời.

Cái sợi dây đó làm gợi lại ký ức của Địch Thanh. Hắn chợt ngẩng đầu nhìn vào đôi mắt của người đó. Mặc dù khuôn mặt của đối phương dữ tợn nhưng đôi tròng mắt lại long lanh hữu tình.

Đó là đôi mắt mà cả kiếp này hắn không thể quên được.

- Ngươi là... Phi Tuyết?

Địch Thanh hơi chần chừ nhưng cũng giật mình. Có điều hắn chỉ cần dựa vào đôi mắt cũng đủ để nhận ra người trước mặt.

Thiếu nữ đeo mặt nã trầm mặc một lúc rồi từ từ tháo chiếc mặt nạ xuống để lộ dung nhan nghiêng nước nghiêng thành của mình. Nhưng đôi mắt của nàng vẫn thế. Nàng lẳng lặng nhìn Địch Thanh mà nói:

- Ngươi đã đoán đúng.

Nàng đúng là Phi Tuyết.

Nhưng tại sao lại là Phi Tuyết?

Tại sao Phi Tuyết lại cứu hắn? Phi Tuyết làm sao có khả năng để cứu hắn mà nhìn nàng lại có sự thần bí như vậy?

Lúc đầu trực tiếp, sau đó thần bí rồi....tới bây giờ lại cứu hắn..

Phi Tuyết giống hệt như bông tuyết mùa đông khiến cho người ta khó có thể nắm được suy nghĩ của nàng. Giữa nàng và Địch Thanh không hề có sự liên quan nhưng lại như có chút gì đó liên lụy.

Không biết mất bao lâu, Địch Thanh tỉnh táo lại. Chần chừ một lúc, hắn lên tiếng:

- Là ngươi cứu ta?

Phi Tuyết chẳng hề có chút sợ hãi, nói ngay:

- Ta gặp ngươi trên đường. Khi đó ngươi đang hấp hối có thể chết bất cứ lúc nào. Thủ hạ của ngươi là Cát Chấn Viễn nhờ ta cứu ngươi nên ta mới cứu.

Nàng nói hết sức đơn giản khiến cho Địch Thanh phải hỏi tiếp:

- Cát Chấn Viễn nhờ ngươi đưa ta đi? Bây giờ ngươi định đưa ta tới đâu?

Địch Thanh cảm thấy khó hiểu tại sao Cát Chấn Viễn lại yên tâm giao hắn cho Phi Tuyết? Cát Chấn Viễn biết Phi Tuyết hay sao? Đột nhiên, Địch Thanh nhớ ra Phi Tuyết có từng nói khi ở Biện Kinh rằng:" Nói ngươi cũng không đồng ý. Hiện tại ngươi có thể ra khỏi Biện Kinh tại sao không cùng ta đi du ngoạn khắp nơi?"

Hiện tại chẳng lẽ hắn và Phi Tuyết đi du ngoạn? Phi Tuyết muốn dẫn hắn tới đâu?

Phi Tuyết bình tĩnh lên tiếng:

- Cát Chấn Viễn không còn sự lựa chọn nào khác. Ta muốn đưa ngươi tới một nơi. Còn tới đâu thì ngươi không cần phải hỏi. Ngươi nợ ta. Ngươi lại là người biết báo ân. Bây giờ ngươi tạm thời không cần phải làm bất cứ chuyện gì. Bởi vì ta muốn gươi đồng ý với một cái điều kiện của ta có phải công bằng hay không?

Địch Thanh đành phải nói:

- Rất công bằng. Nhưng ngươi nên nhớ đừng bắt ta làm chuyện gì thẹn với lương tâm...

Hắn chỉ sợ Phi Tuyết buộc mình làm chuyện mình không muốn.

Phi Tuyết lạnh lùng nói:

- Ngươi cứ yên tâm. Ơ bản ta cũng không để ngươi làm bất cứ chuyện gì. Chỉ cần ngươi đi với ta tới một chỗ rồi sau đó chúng ta không còn gì liên quan nữa.

Địch Thanh cảm thấy ngạc nhiên, nghĩ nát óc mà cũng không biết được Phi Tuyết cuối cùng định làm gì. Đột nhiên nghĩ tới một việc, Địch Thanh vội vàng kêu lên:

- Hiện tại trại Bình Viễn như thế nào rồi? Nguyên Hạo đã triệt binh hay chưa?

Phi Tuyết nhanh chóng cho Địch Thanh một câu trả lời thuyết phục:

- Không biết.

Địch Thanh cũng chẳng thắc mắc. Vì có thắc mắc thì mặc dù ngực không còn đau nữa nhưng đầu lại đau. Hắn nghĩ tới một chuyện liền hỏi:

- Tai sao ta lại trở nên như thế này? - Ý hắn muốn nói tới khuôn mặt của mình.

Phi Tuyết lạnh nhạt nói:

- Ta sử dụng một thứ tên là "Niên hoa" giúp ngươi tẩy khuôn mặt. Làn da của ngươi trở nên đen đi và hình xăm biến mất cũng là vì vậy.

Địch Thanh thở phào một cái thầm nghĩ đây là địa bàn của người Hạng Đảng, cải trang là điều tốt nhất. Địch Thanh lại hỏi:

- Vậy tới lúc nào ta có thể trở lại như cũ?

Phi Tuyết trả lời:

- Tới lúc tự nhiên sẽ hồi phục. - Dứt lời, Phi Tuyết không để cho Địch Thanh nói gì nữa đã nhảy xuống xe.

Địch Thanh nhíu mày mà trong lòng đầy nghi hoặc.

Cứ như vậy qua vài ngày, Địch Thanh lại vất đi một ít băng vải nhưng cũng không xuống xe, cũng chẳng bỏ đi. Mỗi ngày hắn đều ở trên xe nghe lão nhân kia ca hát còn Phi Tuyết thì không biết đi đâu.

Hắn chỉ cảm nhận được chiếc xe di chuyển chậm rãi về hướng Tây.

Tới một ngày, khi tới một cái chợt đông đúc, Phi Tuyết lại đột nhiên xuất hiện, nói với Địch Thanh:

- Ta đã tìm được đội buôn để họ đưa chúng ta qua sa mạc

Địch Thanh ngẩn người thầm nghĩ không có việc gì thì đi qua sa mạc để làm gì? Nhưng hắn biết có hỏi Phi Tuyết cũng chẳng nói nên đành gật đầu.

Phi Tuyết đi tới trước mặt lão nhân nói nhỏ mấy câu.

Thân hình của lão nhân hơi run nhẹ, đôi mắt đục ngầu nhìn Phi Tuyết rồi rơi lệ.

Mặc dù Địch Thanh không hiểu ngôn ngữ của họ nhưng cũng biết lão già đó không muốn rời Phi Tuyết. Trong mấy ngày qua, hắn nhận được sự quan tâm của lão nên rất cảm kích. Phi Tuyết dứt lời liền ôm nhẹ lão nhân rồi xoay người rời đi, sắc mặt vẫn bình tĩnh như trước, dường như trên đời không có chuyện gì khiến cho nàng rung động.

Địch Thanh cảm thấy ngạc nhiên. Tuy nhiên chung quy hắn vẫn thi lễ với lão nhân rồi đi theo Phi Tuyết. Lão nhân nhìn theo hướng Phi Tuyết rồi lại hát lên khúc hát thê lương.

Chẳng biết tại sao, gương mặt già nua của lão ướt đẫm lệ.

Địch Thanh và Phi Tuyết đi tới một đội buôn. Trong đội buôn này có một người hiểu biết tên là Đổng Sự. Người này phụ trách tất cả công việc liên hệ của thương đội. Người đứng đầu đội buôn có họ Triệu. Y cầm một cây khảm đao, khí phách hiên ngang, dẫn theo một đám người bảo vệ đội buôn.

Trong đội buôn có nam có nữ, có già có trẻ. Điểm duy nhất giữa những người này là bọn họ vẫn giữ sự cảnh giác.

Sau khi Địch Thanh và Phi Tuyết tới đội buôn thì ngoại trừ Đổng sự ra cũng không một ai để ý tới họ.

Đổng Sự chuẩn bị vật phẩm cho hai người. Sau khi cả hai tới chưa được bao lâu thì đội buôn năm, sáu chục người cũng xuất phát thẳng tiến tới sa mạc rộng lớn.

Sau một ngày, đội buôn đã tiến vào sau mạc.

Địch Thanh nhanh chóng hiểu được người trong đội buôn muốn vượt qua sa mạc Mao Ô Tố để tới phủ Hưng Khánh. Trong đội, ngoại trừ Địch Thanh và Phi Tuyết ra thì mỗi người đều mang theo hàng lậu, chủ yếu là định trốn thuế.

Điều này khiến cho Địch Thanh cảm thấy ngạc nhiên. Hắn và Phi Tuyết không có hàng lậu, muốn tới phủ Hưng Khánh thì cơ bản không cần phải xuyên qua sa mạc... Chẳng lẽ mục đích của Phi Tuyết là ở sa mạc?

Địch Thanh chưa bao giờ tới sa mạc. Hắn chỉ nghe người ta nói đến. Nhưng hắn nhanh chóng nhận ra những gì người ta miêu tả mới chỉ đúng được một phần mười.

Sa mạc rộng lớn chẳng khác nào biển cả. Thời tiết trên sa mạc giống như trời đã vào tháng sáu, thay đổi thất thường. Địch Thanh vào sa mạc được một ngày cũng cảm nhận được sự khó chịu. Biên thùy lạnh lẽo nhưng sự gian khổ ở sa mạc hơn xa biên thùy.

Trải rộng trước mắt là cát vàng vô tận phản chiếu ánh nắng mặt trời rực rỡ. Vốn Địch Thanh đang suy nghĩ ý của Phi Tuyết nhưng thoáng cái hắn bị cái nóng làm cho không còn sức để suy nghĩ nữa.

Mồ hôi chảy ra lập tức bốc hơi. Nhưng Địch Thanh chợt phát hiện thứ thể lực kỳ dị trong người mình cũng bắt đầu sống lại. Địch Thanh cố gắng chịu đựng tới đêm cho thời tiết dễ chịu hơn một chút.

Nhưng đến tối, Địch Thanh lại cảm thấy đau đầu vì thời tuyết lạnh tới thấu xương. Cho dù đã quấn một đống chăn lông thật dày nhưng vẫn cảm nhận được gió rét.

Tới nửa đêm, Địch Thanh nghỉ ngơi gần chỗ Phi Tuyết thấy nàng cô đơn ngồi trước lều mà cất tiếng hát.

Bài hát đó chính là bài hát mà lão nhân vẫn hát. Tuy nhiên giữa sa mạc rộng lớn, ca từ qua miệng của Phi Tuyết lại càng thêm thê lương. Địch Thanh rất muốn biết ý nghĩ của bài ca đó nhưng chung quy vẫn không hỏi.

Hắn trùm kín chăn, ngồi sưởi mà thầm nghĩ:" Dụng ý của Phi Tuyết là ở đâu? Tình hình chiến đấu của Tây Bắc bây giờ thế nào? Thân thể của nàng yếu như vậy không biết có chịu nổi cơn lạnh trong sa mạc hay không?"

Tới sáng sớm, đội buôn tiếp tục di chuyển. Địch Thanh nhanh chóng nhận ra chuyện mình lo không có y nghĩa. Không ngờ Phi Tuyết còn tốt hơn hắn nhiều.

Sắc mặt của nàng vẫn không thay đổi, đôi mắt vẫn trong sáng như thế.

Mặt trời nhanh chóng lên cao thiêu đốt mọi vật khiến cho sa mạc như biến thành biển lửa. Trong hoàn cảnh này, tất cả mọi người giống như quỷ hồn trong luyện ngục mà chậm rãi bước đi.

Tất cả mọi người đều cảm thấy mệt mỏi, chỉ có đôi mắt Phi Tuyết là càng lúc càng sáng.

Đội hình đi trong sa mạc được ba ngày. Địch Thanh qua miệng Đổng Sự cũng biết được bọn họ đã tới giữa sa mạc.

Bôn ba trong sa mạc hết sức vất vả. Một dặm đường thường thường mất sức bằng đi mười dặm. Vì vậy mà từ Địa Cân Trạch tới Khánh Châu cho dù trải qua cả trăm dặm nhưng đối với người đi trong sa mạc thì như là cả ngàn dặm.

Tới một ngày, dưới ánh mắt trời thiêu đốt, Địch Thanh cảm thấy cổ họng khô khốc liền cẩn thận rót chút nước vào họng. Hắn biết lúc này, nước còn quý hơn cả vàng. Quay đầu sang nhìn Phi Tuyết thấy trán nàng chẳng có lấy một giọt mồ hôi, Địch Thanh cuối cùng cũng lên tiếng:

- Ngươi không thấy nóng hay sao?

Hắn phát hiện ra ánh nắng như không ảnh hưởng gì tới Phi Tuyết.

Phi Tuyết lạnh lùng nói:

- Ngươi không nghĩ tới nóng thì không cảm thấy nóng.

Địch Thanh không hiểu được ý của Phi Tuyết, đang định nói gì nữa thì đột nhiên ánh mắt của hắn chăm chú nhìn về phía một cái cồn cát. Ở nơi đó vọng tới tai hắn tiếng rên rỉ...

Cả thương đội dừng lại. Mọi người như không phát hiện ra người đó. Triệu lĩnh đội căn dặn:

- Nghỉ ngơi một lát rồi đi tiếp.

Mọi người liền bỏ những tấm bạt ra để che nắng. Địch Thanh cũng xuống khỏi lạc đà mà đi về phía phát ra tiếng rên. Hắn thấy một người đang hết sức ngồi tựa bên cồn cát, tròng mắt sâu hoắm, đôi môi khô nứt.

Người đó thấy Địch Thanh đi tới thì cố gắng nói:

- Nước...nước...

Cả đội buôn cũng chẳng có một ai đi tới đây. Địch Thanh chợt phát hiện ra không phải họ không nghe thấy mà làm như không biết.

Địch Thanh cũng chẳng nghĩ nhiều, lấy túi nước của mình đưa cho người đó. Hắn phát hiện ra người đó mặc dù gầy nhưng còn rát trẻ. Thấy người nọ uống lấy uống để, Địch Thanh cũng không đau lòng mà nhìn đôi giầy của người đó. Đôi giầy của y đã mục nát từ lâu nhưng Địch Thanh nhìn thấy rất quen bởi vì đó là giầy của quân Tống. Tuy nhiên trên mặt người đó lại không có vết xăm...

Chẳng lẽ người này là của quân Tống nhưng tại sao y lại đi qua sa mạc?

Người thanh niên uống nước xong liền cố gắng đứng dậy, níu tay áo Địch Thành mà cầu xin:

- Ân công! Ngài là ai? Ta muốn tới phủ Hưng Khánh! Cầu ngài...đưa tôi theo. Ta cầu van ngài.

Địch Thanh còn chưa kịp mở miệng, Triệu đầu lĩnh đã đi tới nói hết sức kiên quyết:

- Không được.

Địch Thanh quay đầu lại nhìn, hỏi:

- Tại sao không được?

Triệu đầu lĩnh lạnh lùng nói:

- Ta nói không được là không được. Đây là quy định của thương đôi.

Tay gã cầm vào cán đao mà liếc xéo Địch Thanh. Trong đoàn người thì địa vị của Triệu lĩnh đội là cao nhất.

Người thanh niên buông tay, thất vọng lùi lại hai bước. Ánh mắt y tóa lửa nhưng không hề cầu xin. Địch Thanh có thể nhận ra y là một người rất cao ngạo.

Địch Thanh liền nói:

- Hắn cũng chỉ có một mạng, xin đầu lĩnh rủ lòng thương...

Triệu lĩnh đội lạnh lùng cắt lời Địch Thanh:

- Ngươi có biết hàng năm có bao nhiêu người chết khác trong hoang mạc không? Nước của thương đội có hạn, nhiều người uống nước thì người khác sẽ khát, thậm chí chết khát. Ngươi có thể cứu hắn nhưng ngươi cùng hắn ra khỏi thương đội.

- Đây là quy định của thương đội? - Địch Thanh thở dài hỏi.

Triệu đầu lĩnh híp mắt nhìn Địch Thanh. Y phát hiện ra Địch Thanh hơi khác so với khi mới vào đội nhưng khác thế nào thì y không thể nói được.

- Đây là quy định của ta.

Địch Thanh nhìn về phía Phi Tuyết, định dùng nguyên tắc của mình để giải quyết sự việc nhưng hắn không muốn làm cho Phi Tuyết khó xử. Phi Tuyết vẫn bình tĩnh như trước quay sang nhìn Đổng Sự.

Đổng Sự đi tới cười nói:

- Triệu lĩnh đội! Lúc này đúng là không thích hợp cứu người nhưng cũng có thể thương lượng. Nói cho cùng thì cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp phù đồ. Nhưng muốn xây tháp thì phải mất rất nhiều tiền.

Nói xong, Đổng Sự quay sang nhìn Địch Thanh.

Ý của Đổng Sự hết sức rõ ràng đó là có thể dùng tiền.

Cái khó ở đây là trên người Địch Thanh không có lấy một đồng.

Mà người thanh niên thì quần áo tơi tả, mang theo cũng chỉ có một cái túi nước khô quắt thì rõ ràng là không có tiền.

Trong lúc Địch Thanh đang cảm thấy khó xử thì Phi Tuyết đã bỏ ra bốn miếng vàng mà nói:

- Đi thôi.

Miếng vàng sáng chói cho dù vất trên cát cũng có thể nhìn thấy.

Triệu đầu lĩnh hừ một tiếng giơ chân hất khiến cho bốn miếng vàng bay lên. Y vung đao chém một cái khiến cho vàng lá dính vào thân đao. Triệu lĩnh đội từ từ thu đao nhét vàng vào trong người.

Đao pháp của y khiến cho mọi người hoa mắt. Nhìn thấy ánh mắt sợ hãi của mọi người, Triệu lĩnh đội dương dương tự đắc. Y có ý khoe rằng bản thân không cần quan tâm tới lời nói của ai. Y dẫn đầu thực sự xứng đáng cho họ trả tiền.

- Người này có thể vào trong đội nhưng nước và thức ăn thì tự ngươi phải cung cấp. Hơn nữa, nếu ngươi thích cũng có thể để lạc đà cho y cưỡi. - Triệu lĩnh đội nói xong liền từ từ tránh ra, khóe miệng nở nụ cười trào phúng.

Thương đội lại xuất phát. Địch Thanh xuống lạc đà đang định lên tiếng thì người thanh niên đã nói:

- Ân công! Ta đi được.

Hai chân y đầy máu, mỗi bước đi lại đau tới phát run. Nhưng Địch Thanh có thể nhận ra người thanh niên sẽ không ngồi lạc đà của mình.

Địch Thanh thấy vậy cũng thôi. Đi được nửa ngày, hắn liền mở miệng hỏi:

- Ngươi từ Trung Nguyên tới đây?

Ngươi thanh niên hơi giật mình, một lúc lâu sau mới nói:

- Vâng! Ân công cũng tới từ Trung Nguyên?

Địch Thanh gật đầu rồi lại hỏi:

- Vậy ngươi có biết...mùa đông năm ngoái...Nguyên Hạo xâm phạm Duyên châu, tình hình chiến sự như thế nào?

Mặc dù hắn đi vào sâu trong sa mạc nhưng vẫn không thể quên được chuyện Duyên châu.

Thân hình người thanh niên đột nhiên run rẩy...

Địch Thanh cảm thấy ngạc nhiên không hiểu tại sao gã lại phản ứng mạnh như vậy. Tuy nhiên, hắn chợt cảm giác tim mình đập nhanh hơn một chút thì ngẩng đầu lên nhìn rồi biến sắc.

Phía xa xa có một cơn bão cát đang hình thành khiến cho cát vàng bay lên mù mịt. Không biết ở đâu đột nhiên có một đám người xông tới, thoáng cái đã vây lấy đội buôn.

Nhưng người đó đều mặc trang phục màu đen, cầm mã đao. Nhìn ánh đao sắc lạnh ở trong sa mạc khiến cho người ta ớn lạnh.

Những người vừa tới là mã tặc.

Bọn họ đã đụng phải một thứ khiến cho đội buôn đi lại trong sa mạc luôn đau đầu nhất.

Đám người của đội buôn thấy mã tặc xông tới thì đều xôn xao, tự giác xuống lạc đà mà quây thành một vòng tròn. Bọn họ ngồi xổm dưới chân lạc đà, hai tay ôm lấy đầu. Đây là nguyên tắc từ trước tới nay, chỉ cần bọn họ không phản kháng thì có thể giữ được tính mạng.

Mà chuyện phản kháng thì do đám Triệu lĩnh đội chịu trách nhiệm.

Triệu Lĩnh đội liếc mắt có thể nhận thấy bên đối phương có năm người cầm đầu mà người số một rất khó giải quyết. Gương mặt của người đó đầy những vết đao. Bốn người sau lưng y mặc dù nhìn hung dữ nhưng so với người nọ thì chỉ như mấy con chó giữ nhà khôn vặt mà thôi.

Triệu đầu lĩnh cảm thấy nặng nề nhưng y vẫn phải đứng ra, ôm quyền nói với tên mã tặc cầm đầu:

- Ở nhà dựa cha mẹ, ra ngoài dựa bằng hữu. Tại hạ và Thạch đà đại ca từng có gặp nhau không biết các vị có phải là bằng hữu của Thạch đại ca hay không?

Thạch Đà là một tên mã tặc có thủ đoạn vô cùng tàn nhất ở sa mạc Mao Ô Tố. Ít có người nào thấy được khuôn mặt của y. Triệu đầu lĩnh cũng chưa từng gặp Thạch Đà nhưng mỗi lần khi gặp mã tặc y đều lấy Thạch đà ra để dọa, đầy lùi rất nhiều mã tặc.

Triệu đầu lĩnh không sợ gặp phải Thạch Đà thật bởi vì y biết người đó không coi cái đội buôn nhỏ của mình vào đâu.

Ánh mắt của người cầm đầu mã tặc có chút khinh thường, mở miệng nói:

- Ngươi biết Thạch Đà?

Âm thanh của gã như có một lưỡi đao dính trên cổ.

Triệu đầu lĩnh cảm thấy ớn lạnh nhưng vẫn cố gắng nói:

- Đúng vậy.

Mọi người chỉ yên lặng một lúc rồi bốn người phía sau lưng tên mã tặc cầm đầu phá lên cười ha hả. Khi Triều đầu lĩnh đang có cảm giác bất an thì người cầm đầu bốn người kia đã lên tiếng:

- Ta...chính là Thạch Đà.

Cả đội buôn ồ lên. Bọn hò không ngờ mình gặp vận đen, chạm trán với một đám mã tặc hung dữ nhất trong sa mạc Mao Ô Tố.

Triệu đầu lĩnh run người nhưng vẫn cố gắng cười nói:

- Hóa ra ngài chính là Thạch...đại ca. Thật sự nghe danh không bằng gặp mặt...

Trong lòng gã thầm kêu khổ, không hiểu tại sao Thạch Đà lại ra tay với đội buôn nhỏ này?

Thạch Đà nói:

- Buông đao không được phản kháng.

Y nói từng chữ một hết sức lạnh lùng.

Phía sau Triệu lĩnh đội có một tên hậu sinh vốn kiêu ngạo có chút công phu. Gã thấy Thạch Đà kiêu ngạo như vậy thì kêu lên:

- Không bỏ đao thì sao?

Một ánh đao lóe lên rồi một đám máu tươi rưới lên trên cát. Mọi người chỉ thấy Thạch Đà từ từ thu đao vào vỏ còn tên hậu sinh kia đã úp mặt xuống cát, cổ họng chảy đầy máu.

Tới khi chết, tên hậu sinh kia vẫn còn chưa biết một đao đó như thế nào.

Thạch Đà không nói thêm tiếng nào nhưng nhát đao đã cho mọi người thấy hậu quả của việc phản kháng.

Mồ hôi của Triệu đầu lĩnh chảy ra đầm đìa. Tay y nắm chuôi đao nhưng vẫn không dám rút. Trong truyền thuyết, Thạch Đà là một người đángợ nhưng bây giờ so với truyền thuyết thì y còn đáng sợ hơn. Nhưng Triệu đầu lĩnh là người đứng đầu cũng không thể lui, nếu không sau này gã cũng không còn đường để làm ăn nữa.

Triệu đầu lĩnh chợt nghĩ ra một ý liền hơi mỉm cười nói:

- Đao pháp của Thạch đại ca quả nhiên cao minh. Có điều...nếu ta bỏ đao thì đôi khi có chút không cam lòng.

Nhìn ánh mắt của Thạch Đà, Triệu lĩnh đội đột nhiên tránh ra. Khi y trở lại trong tay đã có hai cây mộc côn. Y vung tay ném một cây côn lên cao rồi Triệu đầu lĩnh chợt rút đao.

Ánh đao lóe lên nhưng Thạch Đà vẫn không nhúc nhích.

Sau khi ánh đao biến mất, cây côn gỗ đã bị đứt thành năm đoạn. Có thể nói đao pháp của Triệu lĩnh đội rất nhanh khiến cho y hoàn toàn hài lòng. Thấy Thạch Đà không nói gì, Triệu lĩnh đội mới làm một dấu tay. Ý của y đó là chỉ cần Thạch Đà có thể xuất đao nhanh hơn mình thì y sẽ nghe theo.

Triệu lĩnh đội thầm phục mình nghĩ ra được một cách thông minh như vậy. Làm thế này, y có thể giữ được mạng mình sau đó dù thắng hay bại thì y cũng đều có đường lui.

Thạch Đà cầm cây mộc côn nhìn một lúc rồi đột nhiên vung tay ném cây gậy lên không trung. Tất cả mọi người không nhịn được đều ngẩng đầu lên, muốn xem một đao của Thạch Đà nhanh như thế nào. Cho dù là Triệu Lĩnh đội cũng phải ngẩng đầu. Nhưng chỉ thấy một ánh đao lóe lên đồng thời có máu tươi bắn ra.

Cây gậy gỗ cắm thẳng xuống cát vàng vẫn còn nguyên vẹn nhưng trên cổ của Triệu lĩnh đội lại xuất hiện một đường máu.

Thạch Đà ra đao thừa lúc Triệu lĩnh đội ngẩng đầu lên đã chém cổ y.

Triệu lĩnh đội ọc ọc nơi cổ, ánh mắt nhìn Thạch Đà như muốn hỏi tại sao gã lại không làm theo? Thạch Đà liếc nhìn đôi mắt của Triệu lĩnh đội mà cười lạnh rồi nói:

- Ta chỉ giết người chứ không chém đầu gỗ.

Không một ai dám lên tiếng.

Địch Thanh không nhịn được quay sang nhìn Phi Tuyết thì thấy nàng đang nhìn Thạch Đà có điều ánh mắt không sợ hãi mà như có chút phấn chấn khiến cho Địch Thanh cảm thấy ngạc nhiên.

Cảm nhận Địch Thanh đang nhìn mình, Phi Tuyết nói nhỏ:

- Ngươi không cần phải ra tay.

Địch Thanh hết sức kinh ngạc nhìn Thạch Đà cùng với đám thủ hạ đều xuống ngựa vung dao lên mở từng rương hàng hóa.

Bọn họ mở ra lần lượt là lụa Tô Châu, trà Lưỡng Hồ, nhân sâm Bắc Cương, dược liệu quý báu.

Địch Thanh đột nhiên phát hiện đám mã tặc dường như không có hứng thú đối với đồ vật. Bọn chúng mở đồ ra nhưng chẳng thèm ngó ngàng tới.

Đám thương nhân lo lắng, nét mặt như đang bị người ta lóc thịt mình. Khi thấy bọn mã tặc không để ý tới đồ vật của mình thì cảm thấy may mắn, thầm đoán bọn chúng đang lục soát thứ gì đó.

Đám mã tặc định tìm cái gì?

Từng cái rương một bị mở ra. Khi đám mã tặc mở tới những cái rương cuối cùng thì có một lão nhân kêu lên:

- Nhẹ tay chút, đừng để vỡ.

Lão không để ý tới tính mạng của mình mà cố gắng bảo vệ cái rương nọ:

- Cho dù các ngươi có muốn lấy đi thì cũng đừng làm vỡ chúng.

Đám mã tặc đang cảm thấy thất vọng, nhưng thấy lão nhân như vậy thì lại hứng thú. Sau lưng Thạch Đà có một tên mã tặc tiến tới vung đao quát:

- Cút ngay.

Lão nhân sợ hãi lui sang một bên nhưng vẫn nhìn cái thùng kia chăm chú.

Tên mã tặc vung đao bổ một góc thùng để lộ bên trong có bốn cái bình sứ với màu sắc khác nhau.

Bốn cái bình sứ kia cái thì hồng như hoa hải đường, cái thì tím , cái thì xanh biếc , lại có cái thì trắng muốt bóng loáng.

Trong hoang mạc đang nắng chói chang nhưng khi bốn cái bình sứ xuất hiện thì lại mang tới cho người ta một cái cảm giác mát mẻ. Điều kỳ lạ đó là khi ánh sáng chiếu lên bốn cái bình sứ làm cho màu sắc của chúng thay đổi, đan xen vào nhau khiến người ta như đang nằm trong mộng. Tên mã tặc mặc dù không biết lai lịch của bốn cái bình sứ nhưng cũng biết đó là đồ tốt, định đưa tay ra sờ.

Ánh mắt của Thạch Đà không giấu được sự thưởng thức, liền vội vàng đi tới. Tên mã tặc kia thấy Thạch Đà bước tới liền vội hỏi:

- Thạch lão đại! Ở đây có bốn cái bình, nhưng chúng ta có năm người thì không biết nên chia như thế nào?

Tên mã tặc đó trước đây bị một đao khiến cho mất một bên lông mi. Vì vậy mà y tự xưng là oạn Mi, gần đây mới đi theo Thạch Đà. Thân thủ của Đoạn Mi cũng khá, vẫn cảm thấy mình là một người không thể thiếu bên cạnh Thạch Đà cho nên mới thử nói vậy.

Nào ngờ sắc mặt của Thạch Đà đờ đẫn lên tiếng:

- Năm người có bốn cái bình, rất dễ chia.

Đoạn Mi đang định hỏi làm sao để chia thì một ánh đao lóe lên khiến cho y hét to, lảo đảo lui lại phía sau. Y giơ tay giữ lấy yết hầu, định nói cái gì đó nhưng chỉ có máu tươi ồng ộc chảy ra. Đoạn Mi lui được hai bước nữa thì sõng xoài trên cát.

Thạch Đà thu đao lại nói:

- Hiện tại còn có bốn người thì dễ chia đúng không?

Y nhìn Đoạn Mi nằm trên cát với ánh mắt trào phúng.

Ba tên thủ hạ còn lại đều sợ hãi, cười nói:

- Đại ca muốn thì cứ giữ. Trong sa mạc này đâu có ai dám chia đồ với đại ca?

Nhưng người còn lại thấy Thạch Đà chẳng biết thân quen, ngay cả đám thủ hạ nói không vừa tai là rút đao thì đều nơm nớp. Thậm chí có người còn đái cả ra quần.

Thạch Đà chẳng nhìn mấy cái bình sứ kia, sự nguội lạnh trong mắt càng nhiều, kèm thêm một chút thất vọng và tức giận. Đột nhiên ánh mắt y như sáng lên, rồi nhìn chăm chú vào người của cả đội buồn. Ánh mắt của y từ từ di chuyển hết người này sang người khác, quan sát một cách cẩn thận.

Địch Thanh phát hiện, Thạch Đà quan sát phụ nữ rất kỹ nhưng ánh mắt y cũng không hề có ý dâm ô. Địch Thanh thầm nghĩ:

- Thạch Đà định tìm gái hay sao?

Thạch Đà đi tới trước mặt Phi Tuyết thì đột nhiên ánh mắt sáng ngời, tiến lên hai bước.

Tất cả đều nín thở sợ rước họa vào thân. Chỉ có Địch Thanh là nhíu mày, định ra tay.

Thạch Đà nhìn Phi Tuyết, Phi Tuyết cũng nhìn lại Thạch Đà. Địch Thanh nhìn hai người nhưng chẳng biết tại sao hắn cảm giác ánh mắt của cả hai có chút gì đó như thất vọng. Điều này khiến cho Địch Thanh cảm thấy hoang mang. Thạch Đà thất vọng là vì muốn tìm gì đó nhưng Phi Tuyết thất vọng vì cái gì?

Rất lâu sau, ánh mắt của Thạch Đà mới từ khuôn mặt của Phi Tuyết nhìn xuống cái đai lưng màu lam, mà khóe miệng hơi giật giật.

Phi Tuyết nhìn sang hướng khác cũng thở dài.

Thạch Đà nhìn theo ánh mắt của Phi Tuyết thấy Địch Thanh và người thanh niên nhưng cũng không chú ý lâu lắm. Đột nhiên y ngẩng đầu lên nhìn trời.

Hóa ra chẳng biết từ lúc nào, từ góc Đông Nam có một đám mây ngưng tụ. Đám mây đó đùn lên rất nhanh, chẳng bao lâu đã bao phủ không trung. Thạch Đà biết được đám gió lốc này như thế nào, cho dù y tung hoành sa mạc nhưng cũng không dám chống lại ông trời. Thấy thế, y liền nhanh chóng ra lệnh:

- Mang hết nước đi.

Đám thương nhân mặc dù sợ hãi cây đao của Thạch Đà nhưng nghe thấy câu đó thì đều xôn xao. Có người tức giận, có người giật mình, có người kinh hãi gần như hôn mê.

Ai cũng đều biết rằng trong sa mạc này, nước có ý nghĩa như thế nào. Thạch Đà không giết họ nhưng lại mang nước đi thì có khác nào tuyên án tử hình cho họ?

Thấy đám mã tặc chạy tới lấy túi nước, cuối cùng có người không nhịn được đứng lên quát:

- Thạch Đà! Ngươi đừng có ép người quá đáng.

Người đó vốn là một tên thủ hạ của Triệu đầu lĩnh nhưng còn chưa dứt lời đã bị một tên mã tặc chém chết.

Tất cả mọi người đều kêu lên, ánh mắt tràn ngập sự tuyệt vọng.

Cuối cùng thì Địch Thanh cũng không nhịn được, đứng dậy quát:

- Thạch Đà! Ngươi đừng có ép người quá đáng.

Đúng lúc này, một ánh đáo chợt loáng lên. Có một tên mã tặc định xuống đao chặt đầu Địch Thanh. Nhưng tất cả mọi người chợt kêu lên khi thấy Địch Thanh duỗi tay đoạt lấy đơn đao. Hắn mới chỉ vung tay kia lên đã kết liễu người nọ.

Tiếng hô của mọi người vẫn còn chưa dứt. Bọn họ không thể ngờ được cái người ốm yếu kia lại có được thân thủ sắc bén như vậy.

Vốn Thạch Đà đang định thúc ngựa đi nhưng cảm nhận sự khác thường liền ghì cương lại. Y chậm rãi quay đầu, nhìn Địch Thanh.

Trên sa mạc, mây đen càng lúc càng dầy khiến cho cả sa mạc có cảm giác man mát.

Ngực Địch Thanh hơi đau nhưng hắn vẫn đứng thẳng như một cây thương. Mặc dù còn chưa hồi phục nhưng hắn vẫn phải đứng ra. Ánh mắt của Thạch Đà giống như con rắn độc khiến cho mọi người kinh hãi nhưng Địch Thanh vẫn hết sức bình tĩnh.

Một cơn gió chợt bốc lên khiến cho cát bụi ập vào mặt mọi người.

Trong một cái nháy mắt đó, Địch Thanh chợt phát hiện ra Thạch Đà chẳng những độc ác mà còn biết suy nghĩ. Chắc chắn y đã đoán trước hướng gió để chờ lấy cơ hội này.

Đột nhiên một ánh đao lóe lên giống như một tia chớp trong không trung lao thẳng vào cổ họng của Địch Thanh.

Thạch Đà ra tay đã nắm chắc thiên thời địa lợi.

Tia chớp đó đánh trung thân hình của Địch Thanh. Sau tiếng người kêu lên rồi đột nhiên tiếng kêu biến mất như không thể tin được vào chuyện vừa mới xảy ra.

Địch Thanh và Thạch Đà đã thay đổi vị trí cho nhau nhưng trên cát vàng không hề có lấy một giọt máu tươi.

Hóa ra một đao vừa rồi mặc dù nhanh nhưng cũng chỉ chém trúng được cái bóng của Địch Thanh mà thôi.

Ai thắng ai thua không một ai biết.

Gió ập tới cuốn cát bụi bay mù mịt, che phủ cả ánh mặt trời chói chang. Một lát sau, sau một tiếng động vang lên, Thạch Đà cho đao vào vỏ rồi quát:

- Để nước lại! Đi.

Y phi người lên ngựa rồi dẫn đám thủ hạ về phía Tây Bắc.

Cát vàng bay mù mịt khiến cho đám người Thạch Đà mới vòng qua cồn cát đã không còn thấy bóng dáng.

Tất cả như vừa trải qua một cơn ác mộng chỉ có điều trên cát vàng vẫn còn hàng hóa tán loạn, mấy cái thi thể để chứng minh cho chuyện vừa xảy ra.

Đám thương nhân nhìn nhau không hiểu tại sao Thạch Đà lại bỏ đi? Chẳng lẽ Địch Thanh có thể thắng được Thạch Đà?

Nhưng dù sao thì Thạch Đà cũng đã đi rồi khiến cho mọi người không nhịn được mà reo hò.

 Chương 237 - 241: Tin dữ.

Mãi cho tới khi Thạch Đà biến mất, Địch Thanh mới thở phào nhẹ nhõm. Vừa rồi hắn đã dốc toàn lực khiến cho ngực đau đớn.

Có thể đẩy lùi Thạch Đà đã là chuyện may mắn lắm rồi.

Đúng lúc này, có tiếng kêu sợ hãi vọng tới. Địch Thanh mới quay đầu đã thấy vô số bóng đen ập tới. Cuồng phong cuồn cuộn bốc lên những thứ trên mặt đất với khí thế kinh người.

Địch Thanh kinh hãi, theo bản năng lộn người, ôm lấy Phi Tuyết mà lăn hai vòng. Thoáng cái, hắn đã lăn xuống theo sườn cát.

Khi hắn cứu người, tất cả chỉ dựa vào phản ứng. Nhưng khi lăn xuống, Địch Thanh chợt phát hiện ra mình phạm phải một cái sai lầm trí mạng.

Địch Thanh không nên rời khỏi đội buôn.

Hắn và Phi Tuyết lăn theo cồn cát xuống dưới thì dễ nhưng muốn đi lên so với lên trời còn khó hơn.

Trận cuồng phong như bốc cả mặt đất lên cao, coi vạn vận như cỏ rác. Trong tình hình như vậy thì biện pháp cầu sinh tốt nhất đó là ở cùng một chỗ với đội buôn, yên lặng chờ bão cát qua đi.

Nếu không có đội buôn, chỉ dựa vào sức một mình mà đối đầu với ông trời quả thực là điều không thể.

Mây đen, cuồng phong, cát vàng quấn với nhau khiến như cả sa mạc như một cái chảo nóng đang rang đậu. Con người rơi vào đây thật sự là nhỏ bé và bất lực.

Cuồng phong không hề có dấu hiệu dừng lại nhưng Địch Thanh cũng đã kiệt sức. Hắn cũng chẳng còn cách nào để quay lại chỉ biết để cuốn theo cuồng phong. Sa mạc thể hiện sự uy nghiêm của nó so với sự tưởng tượng của hắn còn dữ dội hơn nhiều.

May mắn là trong lúc lăn xuống, hắn túm được một túi nước.

Đợi cho tới khi cơn bão cát giảm xuống, Địch Thanh rũ cát bụi trên người rồi quay đầu nhìn. Bàn tay còn lại của hắn vẫn nắm chặt lấy bàn tay nhỏ bé của Phi Tuyết.

Địch Thanh chỉ sợ Phi Tuyết không chịu nổi. Nhưng trong đám cát vàng mù mịt, hắn chỉ thấy được một đôi mắt trong suốt, hết sức bình tĩnh. Phi Tuyết ngậm miệng, ấy Địch Thanh quay sang thì nhìn về phía khác.

Địch Thanh cảm thấy kinh ngạc không hiểu cô gái này đã trải qua chuyện gì mà có thể bình tĩnh trong hoàn cảnh như vậy.

Cuồng phong liên tục quất tới ko theo cát chạy đá bay quật lên người hết sức đau đớn.

Hai người thuận gió bôn ba, chẳng biết bao lâu mới tìm được một cái vách đá để ngồi xuống. Nhờ có vách đá ngăn cản cuối cùng thì bọn họ có thể thở được một chút. Sắc trời tối sầm, lúc này đã là ban đêm nhưng cát vàng mù mịt khiến cho ban đêm vẫn có chút ánh sáng.

Địch Thanh thở hổn hển còn Phi Tuyết cũng bị cát dính đầy mặt. Tuy nhiên sợi dây lưng màu lam của nàng vẫn không dính một hạt bụi. Ánh mắt vẫn ngời sáng như trước.

Sau khi Địch Thanh ngồi xuống, liền suy nghĩ tiếp theo nên làm thế nào. Phi Tuyết hơi liếc nhìn cái túi nước trong tay Địch Thanh rồi nhìn cát vàng ngập trời mà nói:

- Hiện tại chúng ta đang ở giữa sa mạc Mao Ô Tố.

Địch Thanh hết sức nghiêm túc, hắn hiểu được ý của Phi Tuyết. Cho dù cả hai người qua được cơn bão này nhưng chắc chắn cũng không thể nhìn nước. Mà cả hai lại chỉ có một cái túi nước, nên cho dù thế nào cũng không đủ dùng. Thậm chí chỉ để một người dùng cũng không đủ.

Dưới vũ điệu của cơn bão cát khiến cho toàn bộ sa mạc tưởng như đều rung chuyển.

Địch Thanh cũng run theo cơn bão, mất một lúc lâu mới nói:

- Do ta hại ngươi.

Nếu hắn không nắm lấy Phi Tuyết thì nàng cũng không thể rơi xuống cồn cát. Phi Tuyết đi theo đội buồn khả năng sống sẽ lớn hơn nhiều.

Ánh mắt của Phi Tuyết đột nhiên có chút mờ mịt không hiểu nàng đang nghĩ gì.

Một lúc lâu sau, Phi Tuyết nhìn Địch Thanh một cách bình tĩnh:

- Tại sao ngươi không nói...do ta hại ngươi? Nếu ta không đưa ngươi đến đây thì ngươi cũng không gặp nạn.

Địch Thanh nở nụ cười chua xót:

- Con người ta trải qua bao nhiêu chuyện đâu có chuyện nào giống nhau.

Phi Tuyết đột nhiên hỏi:

- Ngươi có tin vào số mệnh không?

Địch Thanh nhớ tới lời tiên đoán của Thiệu Ung, nhớ tới Dương Vũ Thường mà thở dài không nói nhiều. Nếu không có Vũ Thường thì hắn có tin số mệnh hay không cũng có khác gì đâu?

Phi Tuyết nhìn gương mặt tiều tụy của hắn, một lúc sau mới nói:

- Nếu như ngươi tin vào số phận thì ngươi sẽ không chết. Ta đã xem và biết ngươi sống rất lâu.

Địch Thanh ngạc nhiên nhìn Phi Tuyết rồi lên tiếng hỏi:

- Vậy còn ngươi?

Phi Tuyết chợt nở nụ cười. Nét mặt của nàng vẫn hết sức bình tĩnh, khi nói chuyện không hề che đậy sự sợ hãi. Địch Thanh thấy Phi Tuyết cười chợt cảm nhận có một chút gì đó cô đơn trong nụ cười của nàng.

Phi Tuyết nở nụ cười thì đầu tiên là mắt cười rồi sau đó là tới đôi môi. Khi cười, đôi môi nàng cong lên khiến cho người ta ngơ ngẩn, bão cát cũng phải ghen tị.

Đường cong trên khuôn mặt nàng khiến cho sa mạc hoang vắn lại có một chút gì đó thân thiết, bi ai. Có điều nụ cười đó chỉ thoáng hiện lên trong giây lát rồi biến mất.

Nhất thời, Địch Thanh không hiểu tại sao Phi Tuyết lại cười? Trong lòng nàng chẳng lẽ cũng có chuyện buồn hay sao?

Phi Tuyết thôi không cười mà nói lại:

- Con người có ai là không chết đâu?

Địch Thanh chỉ biết cười khổ mà chẳng biết nói thế nào.

Trận gió dường như đã bớt đi một chút. Địch Thanh và Phi Tuyết nhân lúc áp lực gió giảm đi liền dựa vào vách đá rồi nhắm mắt lại. Bóng đêm buông xuống kéo theo cơn lạnh của sa mạc. Địch Thanh lại nghe thấy Phi Tuyết dùng thứ ngôn ngữ quái dị kia mà ngân nga bài hát buồn bã của mình.

Bài hát buồn bã vang lên khiến cho sa mạc hoang vu lại càng thêm lạnh lẽo, hiu quạnh.

Cuối cùng, Địch Thanh không nhịn được lên tiếng:

- Ta nghe ngươi và người đánh xe đều hát bài hát này. Rốt cuộc thì nó có ý nghĩa gì?

Vốn hắn cứ tưởng Phi Tuyết sẽ không trả lời, không ngờ nàng lại lên tiếng:

- Đây là một ca khúc ở quê nhà của ta.

Nàng lại thấp giọng hát nhưng lần này là tiếng Trung Nguyên nên Địch Thanh có thể hiểu được.

Tiếng ca vang lên khiến cho Địch Thanh không ngờ lời của nó cũng cô quạnh như vậy.

(Thảo thương thuthiền như lộ, mộ tuyết thần phong vô y trụ.)Cỏ cây vào thu sầu một bóng. Dãi tuyết dầm sương chẳng chỗ nhờ.

(Anh hùng tổng tự khổ, hồng nhan dịch trì mộ, giá nhất thân, nan đào mệnh sổ!)Anh hùng nan khó, hồng nhan trải bóng chiều. Thương thân khó qua mệnh.

Ngọc môn thiên sơn xử, hán tần quan nguyệt, chích chiếu trần sa lộ...(Thiên sơn trải Ngọc môn, Hán Tần vọng nguyệt, bụi đầy bước chân...)

Phi Tuyết hát xong, hai mắt nhắm nghiền không nói thêm lời nào.

Địch Thanh nghe hiểu được ý của bài hát mà ngây người. Lời bài hát rất đơn giản nhưng trong đó bao hàm không biết bao nhiêu cảm khái của đời người. Hắn quay đầu nhìn Phi Tuyết thấy nàng vẫn trầm tĩnh thì chỉ muốn hỏi xem Phi Tuyết có lai lịch thế nào? Tuổi của nàng còn nhỏ vậy mà tâm tư tại sao lại trầm lắng như thế?

Địch Thanh rất muốn hỏi nhưng cuối cùng quá mỏi mệt nên chìm vào giấc ngủ.

Trước khi ngủ, hắn thấy Phi Tuyết đã ngủ say liền đặt túi nước dưới chân nàng. Nếu như cả hai cùng phải chết thì tại sao lại không dồn hết sức để giữ một người?

Hắn hy vọng Phi Tuyết khi đi cũng mang theo túi nước. Ngay cả khi chìm vào giấc ngủ, hắn cũng mang theo cái suy nghĩ đó. Cho tới khi mở mắt, trống ngực Địch Thanh chợt đập nhanh.

Dường như ý thức được chuyện gì đó, Địch Thanh liền quay đầu thì thấy nàng đã không còn bên cạnh. Cái điều này thật ra cũng nằm trong dự đoán của Địch Thanh.

Hắn thiếu Phi Tuyết một cái mạng. Cho dù nàng có dẫn hắn vào hoang mạc nhưng Địch Thanh vẫn không hề oán giận, hắn hy vọng nàng có thể sống sót.

Điều khiến cho tim Địch Thanh đập thình thịch đó là Phi Tuyết không còn ở đó nhưng túi nước thì vẫn còn.

Địch Thanh chỉ thấy cứng người, run rẩy giơ tay ra nhấc túi nước thì thấy nước vẫn còn nguyên. Phi Tuyết đi rồi nhưng nàng không hề lấy một giọt nước. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế này, không có nước thì làm sao mà sống?

Địch Thanh mở túi nước, nhìn xung quanh thì đột nhiên gào lên:

- Phi Tuyết! Ngươi ở đâu? Phi Tuyết! Ngươi đi đâu rồi?

Âm thanh của hắn vọng lên cao, vang khắp hoang mạc. Tuy nhiên trời xanh vô tình, đáp lại chỉ có cát bay mà không có Phi Tuyết.

Địch Thanh từ từ quỳ xuống nhìn túi nước mà hai mắt đầy tơ mắt. Hắn không hiểu được tâm tư của con gái... Hóa ra cho tới tận bây giờ, hắn vẫn không hiểu.

Cuồng phong gào thét khiến cho trời đất mờ mịt. Đôi môi của Địch Thanh khô nứt biến thành màu đen, cổ họng cũng không nói được nữa. Trong mấy ngày qua, hắn vẫn tìm kiếm Phi Tuyết trong sa mạc.

Tuy nhiên gió to đã che kín toàn bộ dấu vết khiến cho hắn không hề thấy được lấy một dấu chân hay bóng người. Trận gió lốc đó so với việc giết hại còn đáng sợ hơn. Trong trời đất, dường như chỉ có một mình hắn bước đi trong sa mạc.

Khi hắn ngã xuống, nước trong túi vẫn còn nguyên chưa hề mất một giọt.

Địch Thanh mệt mỏi nằm trong hoang mạc, để mặc cho bão cát che phủ mình. Khi đó, hắn không hề cảm thấy cái chết buông xuống. Khi gió cát dừng lại, bầu trời trở nên xanh trong như cũ.

Trời xanh giống như sợi dây lưng mà Phi Tuyết buộc bên mình.

Hóa ra đã là sáng sớm. Mọi chuyện như chưa hề có gì xảy ra. Cứ như bão cát xuất hiện trên sa mạc cũng như một cái vuốt ve âu yếm vậy.

Lồng ngực Địch Thanh cảm thấy đau và nóng, cần có nước để làm dịu. Nhưng không ngờ hắn không hề có suy nghĩ uống nước.

Mặt trời lên cao. Bão cát trong mấy ngày qua đã cuốn sạch bụi đất trong trời đất chỉ còn lại cát vàng trải dài ngàn dặm hoang vắng. Địch Thanh nhắm mắt lại thì đột nhiên nghe thấy tiếng ưng kêu.

Địch Thanh từ từ mở mắt thì thấy trên trời cao đột nhiên xuất hiện một bóng đen. Bóng đen đó từ từ to dần trong giây lát kéo theo một cơn gió. Một con chim kền kền từ trên cao bổ xuống đầu Địch Thanh.

Kền kền ăn thịt thối để sống. Thứ sinh linh này có thể sống sót được trong biển cát của tự nhiên.

Con kền kền kia khó khăn lắm mới tới gần Địch Thanh.

Địch Thanh vẫn thản nhiên, xoay cổ tay rút đao chém tới.

Con chim cảm thấy nguy hiểm, vội vàng vỗ cánh bay lên cao nhưng ánh đao sắc lạnh đã bao phủ lấy nó.

Sau một tiếng kêu thê lương, máu tươi bắn tung tóe đồng thời con chim cũng bay ra tới mấy trượng. Tuy nhiên con chim còn chưa rơi xuống đất, Địch Thanh đã đón được nó mà uống ngay máu từ vết đao.

Địch Thanh cố gắng dùng sức hút lấy máu của con chim. Sau khi cảm thấy có một dòng nước ấm chui vào bụng khiến cho sức khỏe của hắn từ từ sống lại. Mặc dù tạm thời hắn giữ được mạng nhưng tiếp theo hắn không biết phải làm như thế nào.

Tiếp tục tìm kiếm Phi Tuyết hay là sao? Nàng không có một giọt nước, cũng chẳng có võ công cao thâm, đi trong hoang mạc chẳng khác nào một bông hoa nhỏ bé. Địch Thanh hắn có thể sống sót của Phi Tuyết thì sao?

Vốn Địch Thanh cảm thấy tuyệt vọng nhưng nghĩ tới đôi mắt trấn tĩnh của nàng, hắn cảm thấy nàng không thể chết được.

Trong lúc hoang mang, Địch Thanh chợt nghe ấy có tiếng rên rỉ. Tiếng rên đó tuy nhỏ nhưng khi lọt vào tai Địch Thanh lại chẳng khác nào tiếng sét ngang tai.

Phi Tuyết? Nàng ở gần đây sao?

Hắn quay đầu lại nhìn thì chỉ thấy cách đó mấy trượng có một đôi chân thò ra. Đôi chân thon nhỏ thực sự là đôi chân của con gái.

Địch Thanh kích động vội vàng chạy tới. Vừa chạy hắn vừa kêu to:

- Phi Tuyết! Ngươi cố gắng chịu đựng.

Địch Thanh cởi vỏ đao định gạt cát nhưng rồi hắn lại thò tay xuống để làm.

Hắn chỉ sợ làm cho Phi Tuyết bị thương.

Thoáng cái, Địch Thanh đã nhanh chóng thấy được vai của nàng nhưng hắn nhanh chóng thất vọng. Khuôn mặt của người thiếu nữ đó đầy cát nhưng không thể che khuất làn da trắng như tuyết của mình. Nàng đang nhắm mắt, hai hàng lông mi trong gió hơi run run...

Thiếu nữ đó không phải là Phi Tuyết! Nàng là ai? Tại sao lại bị lạc trong hoang mạc?

Đôi môi của nàng đã khô nứt không còn một chút máu. Có lẽ cảm nhận được có người bên cạnh liền cố gắng thốt lên:

- Nước...nước...

Địch Thanh nhìn túi nước rồi cuối cùng nhẹ nhàng nhỏ ít nước vào môi của thiếu nữ...

Cuối cùng thiếu nữ cũng mở mắt, thấy Địch Thanh thì theo bản năng liền giẫy dụa. Địch Thanh ôm lấy eo nàng rồi sau đó đặt nàng ngồi xuống. Hắn nhặt lấy con chim ưng, ngơ ngác nhìn như đang suy nghĩ điều gì đó.

Vốn thiếu nữ hơi sợ hãi nhưng thấy Địch Thanh như vậy thì nở nụ cười:

- Ngươi cứu ta?

Nàng có thể nhận ra Địch Thanh không có ác ý. Mà nụ cười của thiếu nữ có phần cao quý tuy nhiên cũng không phải do cố gắng thể hiện.

Địch Thanh nói đầy mất mát:

- Có lẽ ta không nên cứu ngươi.

Thiếu nữ nhíu mày:

- Tại sao?

Ánh mắt của nàng không giấu được sự kinh ngạc vì lần đầu tiên có một nam tử đối xử với mình theo thái độ như vậy.

Địch Thanh nói:

- Ta cứu ngươi nhưng ngươi lại phải chết một lần nữa thì chẳng phải là đau khổ hơn hay sao?

Thiếu nữ biến sắc nhìn quanh chỉ thấy toàn là cát vàng. Trầm lặng một lúc, nàng mới lên tiếng:

- Ngươi có còn nước không?

- Nước này cũng không phải để cho ngươi uống. - Địch Thanh thở dài:

- Nhưng vừa rồi...ta đành phải cho ngươi một chút nước.

Hắn chìa tay ra, đưa con ưng chết mà nói:

- Cái này cho ngươi...ta cũng chỉ có thể cho ngươi chừng đó.

Thiếu nữ nhìn con chim chảy đầy máu thì lắp bắp nhưng nàng nhanh chóng hiểu được ý của Địch Thanh liền nói:

- Ngươi có nước tại sao lại để cho ta uống máu chim? Ta...ngươi bán nước cho ta... Ta cho ngươi một trăm lượng vàng.

Thấy Địch Thanh nhìn mình, thiếu nữ ngạc nhiên nói:

- Ngươi nhìn cái gì?

Địch Thanh nói:

- Ta chỉ muốn nhìn xem ngươi giấu một trăm lượng vàng ở đâu?

Tới lúc này, thiếu nữ mới nhận ra quần áo tả tơi của mình liền theo bản năng rụt chân lại, nói:

- Ngươi bán cái áo ngoài cho ta, ta cho ngươi một trăm lượng vàng. Ta nói được thì làm được. Khi ra khỏi sa mạc, ta sẽ đưa vàng cho ngươi.

Địch Thanh nhìn nét mặt tự tin của nàng thì cảm nhận thiếu nữ này có khả năng xuất thân cao quý thì đột nhiên cảm thấy mệt mỏi. Địch Thanh ném một nửa con chim lên cát rồi không nói nhiều hút máu từ thịt của nó. Hắn còn phải sống sót nên hồi phục sức khỏe rồi nói tiếp. Hắn cố gắng kìm chế cảm giác ghê tởm khi cắn miếng thịt chim.

Thịt chim kền kền rất thô ráp, Địch Thanh cắn mãi mới được.

Thiếu nữ thấy thái độ của Địch Thanh như vậy thì đầu tiên là tức giận rồi sau đó là sợ hãi. Tuy nhiên khi nhìn thấy Địch Thanh ăn được mấy miếng, nàng mới phát hiện ra mấy ngày qua mình cũng chưa ăn gì.

Nghĩ tới đây, bụng thiếu nữ lập tức sôi lên sùng sục. Cho dù là người cao quý tới mấy thì cũng phải ăn cái gì đó.

Nửa con chim ưng dính đầy cát, lông còn chưa nhổ, nội tạng vẫn chưa vất khiến cho thiếu nữ cảm thấy ghê tởm. Tuy nhiên cuối cùng thì cơn đói cũng chiến thắng sự ghê tởm. Cho dù người có cao quý tới mấy thì vì sự sống cũng có đôi khi phải làm nhưng chuyện không thể ngờ được.

Thiếu nữ đưa con chim lên cắn một miếng. Mùi máu tanh xộc lên mũi khiến cho nàng suýt chút nữa thì nôn. Tuy nhiên đói bụng mấy ngày khiến cho nàng cố gắng nuốt xuống. Ăn được mười miếng, thiếu nữ hồi phục được một chút sức lực. Nàng dõi mắt ra xa chỉ thấy át vàng mênh mông thì hơi sợ hãi. Thiếu nữ quay sang Địch Thanh rồi dịch lại gần hắn một chút, đồng thời lên tiếng hỏi:

- Này! Ngươi...tên là gì?

Địch Thanh cũng chưa trả lời mà đang nghĩ:" Con chim này bay tới từ phía Tây. Nó cũng phải uống nước vậy chắc chắn phía đó có nước. Đi theo hướng đó hẳn là có đường sống."

Thiếu nữ đã hạ cái tôi xuống không ngờ Địch Thanh lại kiêu ngạo không trả lời mình thì cảm thấy rất tức giận. Nàng đang định quát to tuy nhiên nghĩ lại đành phải bỏ sự kiêu ngạo của mình xuống mà nói:

- Ta...chúng ta có thể sống ra khỏi sa mạc này không?

Địch Thanh lắc đầu đứng lên.

Thiếu nữ thấy Địch Thanh định đi thì cuống quít kêu lên:

- Này! Ngươi đưa ta ra khỏi sa mạc, ta...ta cho ngươi một ngàn lượng vàng.

Địch Thanh đã để ý thấy một chân của thiếu nữ để trần, chân kia vẫn còn có một cái ủng da. Cái ung đó được may bằng kim tuyến, giữa hơi lõm xuống như trước đây từng khảm một cái gì đó như là kim cương.

Chỉ cần một chiếc giầy như vậy, Địch Thanh có làm Chỉ huy sứ cả đời cũng không thể kiếm được.

Địch Thanh không biết thiếu nữ đó là ai nhưng hắn tin nàng có thể trả tiền.

Tuy nhiên bây giờ thì tiền có ý nghĩa gì? Hắn chưa bao giờ nghĩ tới nó.

Thiếu nữ thấy Địch Thanh không để ý thì sợ hắn bỏ mình lại. Trong cái sa mạc mênh mông này, thiếu nữ biết nếu không có Địch Thanh thì mình không sống được.

Đảo mắt một cái, thiếu nữ đột nhiên nói:

- Ngươi có biết Thạch Đà không?

Thấy nét mặt của Địch thanh khác lạ, thiếu nữ nghĩ tìm được điểm yếu của hắn liền nói:

- Ta chính là muội muội của Thạch Đà. Ngươi nhất định phải cứu tôi. Nếu không cho dù ngươi có ra khỏi sa mạc thì huynh ấy cũng không bỏ qua cho ngươi.

Địch Thanh nhíu mày rồi bước đi. Thiếu nữ vừa sợ vừa giận. Nàng từ nhỏ tới giờ chỉ quen sai khiến cơ bản không coi đàn ông trong thiên hạ ra cái gì. Lần đầu tiên vào sa mạc đã trải qua tất cả những chuyện như bão cát, ác mộng, tử vong. Khi nàng nhìn thấy Địch Thanh thì vẫn còn kiêu ngạo, thầm nghĩ lệnh cho người thanh niên này cứu mình. Nhưng thấy Địch Thanh không chịu uy hiếp, không bị dụ hoặc, thân phận của nàng không còn lấy một chút tác dụng thì vừa cuống vừa tức mà òkhóc.

Không biết bao lâu, cô gái thấy xung quanh yên tĩnh thì sợ hãi vội ngẩng đầu lên. Nhìn thấy Địch Thanh vẫn còn đứng đó nàng lại khóc to:

- Ta chỉ muốn sống mà không được hay sao?

- Tất nhiên là được. Nhưng ta cũng cần phải sống. Ta có chân để đi, ngươi có chân...cũng có thể đi.

Thiếu nữ kinh ngạc, suy nghĩ một lúc rồi hiểu được ý của Địch Thanh. Nàng cắn răng đứng dậy, khập khiễng bước tới bên cạnh hắn. Có điều mặt trời thiêu đốt khiến cho cát vàng nóng bỏng. Thiếu nữ bước trên cát vô cùng khó khăn. Địch Thanh đột nhiên giơ tay giật lấy một miếng váy của thiếu nữ.

Thiếu nữ sợ hãi lùi lại nói:

- Ngươi định làm gì?

Địch Thanh đặt miếng vải dưới chân thiếu nữ rồi nói:

- Nếu ngươi muốn đi thêm vài bước thì tốt nhất cuốn cái chân lại đi.

Thiếu nữ hiểu được liền dùng miếng váy bọc lấy chân. Trong lòng nàng mặc dù có chút hận Địch Thanh nhưng cũng có phần cảm kích. Có điều không biết tại sao, nước mắt của nàng lại rơi xuống.

Địch Thanh vừa suy nghĩ xuất thân của thiếu nữ vừa nhìn về phía vầng thái dương mà tính giờ sau đó bước về hướng Tây.

Vốn Địch Thanh có thể đi về phía Đông. Chỉ có đi theo hướng đó hắn mới có thể về lại Địa Cân trạch, vượt qua Hoành Sơn rồi tới Hạ châu. Nơi đó mới coi như là nhà của hắn. Tuy nhiên hắn lựa chọn đi về phía Tây là bởi vì hắn biết Phi Tuyết chắc chắn sẽ đi về phía đó. Cho dù thế nào, Địch Thanh cũng phải gặp lại Phi Tuyết một lần.

Mặc dù Phi Tuyết hết sức lạnh lùng nhưng Địch Thanh biết mình nợ nàng rất nhiều.

Thiếu nữ khiếp đảm đi theo sau lưng Địch Thanh, đồng thời cố gắng chịu đựng. Nàng hiểu được nếu không đi theo Địch Thanh thì chỉ sợ có thể chết bất cứ lúc nào.

Cát trải dài tới tận cuối chân trời. Trời đất vô tận, nếu chỉ một người đi lại giữa không gian này chắc chắn sẽ vô cùng cô đơn mà người ngoài cuộc không thể nào hiểu được.

Địch Thanh không muốn biết thân thế của thiếu nữ tuy nhiên nàng lại hứng thú đối với hắn. Mặc dù mệt thở không ra hơi nhưng thiếu nữ vẫn không quên hỏi:

- Này...rốt cuộc thì ngươi là ai? Ngươi có phải là thủ hạ của Thạch Đà hay không?

Dường như nàng rất quen thuộc với Thạch Đà cho nên thấy Địch Thanh như vậy làm cho nàng khẳng định hắn có chút quan hệ.

Địch Thanh không trả lời lại. Nàng đảo mắt một cái rồi lại nói:

- Này...

- Ngươi cứ gọi ta như vậy là được rồi... - Địch Thanh lên tiếng.

Thiếu nữ cười nói:

- Nhưng ngươi không thể gọi ta là này, như vậy rất dễ lẫn lộn...

Nàng chờ Địch Thanh hỏi tên mình. Bởi vì khi nàng ở phủ Tây Bình, không biết bao nhiêu người muốn được tới gần nhưng nàng vốn kiêu ngạo nên chẳng thèm ngó tới.

Còn bây giờ, Địch Thanh lại giống như một đám mây trắng ở ngay trên đỉnh ngọn núi nhìn thì tưởng như gần mà lại rất xa.

Nàng cắn răng, dậm châm rồi nói:

- Ta tên là Đan Đan! Không phải là Đan trong đan sa mà là Đan trong cô đơn. Đan Đan! Có điều hay chữ Đan đứng cạnh nhau thì lại không cô đơn nữa có đúng không?

Nàng cảm thấy thú vị nên nở nụ cười.

Địch Thanh không cười mà bước từng bước một.

Đan Đan nhanh chóng ngậm miệng. Nàng phát hiện ra nói chuyện thật sự khó chịu. Cái nóng của sa mạc thiêu đốt mồ hôi, năng lực và tình cảm. Váy của nàng vốn được làm từ lụa hạng nhất ở Giang Nam nhưng chỉ một lúc đã không còn dùng được...

Tơ lụa bị hỏng chỉ một chút sau đã để lộ đôi chân thẳng tắp của nàng. Nàng không sợ Địch Thanh nhìn thấy chân mình mà chỉ sợ hắn không nhìn. Nhưng Địch Thanh vẫn không quay đầu lại. Cả hai người đi tới trưa, cuối cùng Đan Đan không nhịn được ngã xuống đất, cầu xin:

- Ngươi còn nước...cho ta một ngụm được không?

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Đây không phải là nước...

- Thế là cái gì? - Đan Đan ngạc nhiên hỏi.

Địch Thanh trả lời:

- Là... Tuyết....

Đan Đan rùng mình. Nàng không hiểu rõ lời của Địch Thanh lắm nghe như là chữ "huyết..." Tuy nhiên nàng vẫn cố gắng nói:

- Cho dù là máu...cũng cho ta uống.

Nàng không ngờ được có lúc mình lại như vậy. Chưa bao giờ phải chịu tủi thế này khiến cho Đan Đan lại rơi lệ.

Địch Thanh cũng nằm xuống, mỏi mệt nói:

- Không được.

Đan Đan cắn răng thầm hận, không hiểu nổi Địch Thanh là người thế nào. Nàng định giật lấy túi nước nhưng sợ thanh đao trong tay Địch Thanh. Không biết bao lâu, Đan Đan cố gắng đứng dậy nói:

- Đi thôi.

Nàng loạng choạng sắp ngã nhưng biết nằm xuống đây thì chỉ có một con đường chết.

Địch Thanh thở phào nói:

- Chờ một chút.

Đan Đan tức giận nói:

- Chờ cái gì? Chờ chết sao? Ngươi không đi ta đi.

Nàng cố sức đi được hơn mười trượng nhưng không nghe thấy có tiếng động phía sau. Quay đầu lại, nàng thấy Địch Thanh nằm ngửa trên cát thì vừa cuống vừa giận cũng nằm lên cát mà khóc.

Tuy nhiên nàng muốn khóc mà không khóc được, chỉ thầm nghĩ:

- Cố gắng chịu đựng chẳng bằng chết đi cho xong.

Mặc dù nghĩ vậy nhưng mỗi lần nghĩ tới cái chết là nàng lại run rẩy. Đan Đan nằm trên cát hơi liếc về phía Địch Thanh thì thấy hắn vẫn nằm im không nhúc nhích như là đã chết. Đan Đan thầm rủa cho hắn chết đi nhưng lại sợ Địch Thanh chết thật.

Không biết trải qua bao lâu, Đan Đan đang mơ màng thì trong không trung đột nhiên vang lên tiếng chim kêu. Đan Đan cố gắng mở mắt thì thấy một con kền kền đang bổ xuống người mình liền vội vàng kêu to.

Tiếng kêu của nàng còn chưa dứt thì một ánh đao đã lóe lên chia con chim ra thành hai nửa. Máu tươi bắn cả lên người Đan Đan.

Cây đao cắt đứt đôi con chim vẫn tiếp tục xoay thêm mấy vòng trong không trung rồi cắm vào cồn cát.

Đan Đan sợ quá gần như ngất xỉu. Khi nàng ngẩng đầu lên thì thấy Địch Thanh đi tới nhặt một nửa con chim mà hút máu. Đan Đan mới hiểu ra liền cầm lấy một nửa con chim nữa, làm theo Địch Thanh.

Sau khi máu chim vào trong thân thể, Đan Đan tỉnh táo hơn rồi đột nhiên nói:

- Ta hiểu rồi.

Địch Thanh không để ý tới, cầm xác con chim mà đi tới nhặt trường đao.

Đan Đan đi theo sau Địch Thanh mà nói:

- Võ công của ngươi rất cao... Đám bằng hữu của ta ít người bằng ngươi. Không phải ngươi đang đợi chết mà là giả chết chờ kền kền tới để uống máu của nó mà ra khỏi sa mạc đúng không?

Địch Thanh không trả lời, Đan Đan lại nói:

- Đúng rồi! Ta hiểu rồi. Chim ưng mặc dù nhanh nhưng chúng cũng phải uống nước. Vì vậy mà hướng kền kền bay tới chắc chắn có nước. Kền kên bay tới từ phía Tây, ngươi đi về phía đó. Cho dù thế nào chỉ cần chúng ta cố gắng tới được chỗ đõ, tìm được nguồn nước là có thể sống sót.

Địch Thanh cũng không ngờ được Đan Đan cũng rất thông minh. Đan Đan hưng phấn tới mức mặt hồng lên:

- Chỉ cần ngươi có khả năng chém chim thì chúng ta tiếp tục đi là có thể sống được. Ta thật sự quá thông minh.

Nhìn gương mặt đen của địch Thanh, Đan Đan vội hỏi:

- Có điều ta chỉ là người thông minh thứ hai. Ngươi còn thông minh hơn ta.

Địch Thanh cũng chẳng buồn giải thích, bước tới một cồn cát. Hắn chợt nhìn thấy một cái gì đó liền vội vàng đi tới.

Cách đó không xa không ngờ có một bàn tay lộ ra.

Địch Thanh đi tới gần thì thất vọng. Cái bàn tay đó rất thô không phải bàn tay của Phi Tuyết. Đan Đan cũng đi tới, sợ hãi nhìn Địch Thanh.

Cảm nhận người đó vẫn còn sống, Địch Thanh liền bới cát lôi người đó ra. Khi nhìn thấy mặt người đó, Địch Thanh liền ngẩn người. Đan Đan không nhìn rõ khuôn mặt người đó liền hỏi:

- Hắn còn sống không?

Địch Thanh trả lời:

- Hắn còn sống. Ngươi hẳn là biết người này.

Đan Đan cảm thấy ngạc nhiên:

- Làm thế nào mà ta biết? Ngươi biết... Ta chắc chắn không biết.

Đột nhiên nghĩ tới một khả năng đáng sợ khiến đôi môi Đan Đan run run rồi toàn thân run theo...

Địch Thanh xoay khuôn mặt người đó về phía Đan Đan rồi nói:

- Đây chẳng phải là đại ca Thạch Đà của ngươi sao?

Người bị chôn trong cát chính là ác ma của sa mạc - Thạch Đà.

Địch Thanh không thể ngờ được Thạch Đà cũng bị vùi trong cát. Chuyện này cũng giống như một con cá lại bị chết đuối khiến cho người ta ngạc nhiên. Trước đây, mặc dù Địch Thanh chưa nghe thấy tên của Thạch Đà nhưng khi đi qua sa mạc cũng biết cái đạo lòng lang dạ sói. Càng là những người như Thạch Đà thì việc thích ứng với thời tiết còn hơn cả lạc đà. Nhưng người như vậy làm sao lại bị chôn ở trong cát?

Thạch Đà vẫn chưa chết. Địch Thanh bới y ra liền nhanh chóng phát hiện nguyên nhân y bị vùi ở đây.

Toàn thân Thạch Đà có ít nhất cả chục vết thương. Y bị vùi ở đây không phải vì sa mạc mà là do trọng thương. Lúc trước, Địch Thanh đối đầu với Thạch Đà cũng biết đao pháp của người này rất tốt, ở trong sa mạc ít người làm được cho y bị thương. Vậy ai làm cho Thạch Đà bị thương?

Địch Thanh suy nghĩ một lúc cũng không để ý tới việc Đan Đan sợ hãi.

Chẳng phải nàng cũng là muội muội của Thạch Đà hay sao? Tại sao thấy đại ca bị thương lại kinh hãi như vậy?

- Nước...nước...

Đôi môi Thạch Đà hơi động nhưng vẫn chưa mở mắt.

Địch Thanh do dự một chút nhưng cũng chuẩn bị cứu Thạch Đà. Hắn không phải là bồ tát nhưng cũng biết muốn tìm được Phi Tuyết thì nhất định phải có y.

- Không được cho y nước. - Đan Đan thấy Địch Thanh định cứu Thạch Đà liền hét to.

Địch Thanh nghiêng đầu sang chỗ khác:

- Hắn chẳng phải là đại ca của ngươi sao? Tại sao ngươi không cứu hắn?

Sắc mặt của Đan Đan hết sức quái dị:

- Hắn không phải là đại ca của ta. Hắn là ác quỷ. Chính hắn đã bắt ta vào sa mạc. Ta van ngươi...ngươi không nên cứu hắn.

Nàng liên tục lùi lại, định bỏ chạy nhưng rồi không dám. Rời khỏi Địch Thanh thì nàng chỉ có một con đường chết. Tuy nhiên đứng ở đây thì lại cảm thấy sợ hãi.

Địch Thanh nhíu mày, cuối cùng cũng nhỏ một giọt nước vào miệng Thạch Đà.

Nước mắt Đan Đan rơi xuống đồng thời lên tiếng:

- Ngươi sẽ phải hối hận. Hắn là một tên ác quỷ. Nếu ngươi giết hắn rồi đưa đầu hắn tới phủ Hưng Khánh thì ít nhất cũng phải được cả ngàn lượng vàng. Nhưng nếu ngươi cứu hắn thì sau này sớm hay muộn cũng bị hắn cắn lại.

- Thế những lời của ngươi vừa rồi...đều là nói dối đúng không? - Địch Thanh hỏi ngược lại.

Đan Đan cứng người, run rẩy nói:

- Ta...không muốn lừa ngươi. Ta chỉ không muốn ngươi bỏ tay lại. Ta...rất sợ...

Nước mắt nàng tuôn rơi lã chã, vô cùng đáng thương.

Địch Thanh quay đầu lại nhìn Thạch Đà chằm chằm, một lúc sau mới nói:

- Ta muốn hỏi hắn một chuyện.

Đan Đan vội vàng kêu lên:

- Chỉ cần ngươi đưa ta ra khỏi sa mạc thì ngươi có chuyện gì ta cũng có thể giúp ngươi. Thật sự, ngươi phải tin tưởng ta.

Nàng hết sức nôn nóng, âm thanh đầy sự lo sợ. Nhưng thấy mí mắt của Thạch Đà hơi động liền vội vàng im lặng, lùi về phía sau. Ánh mắt của nàng lúc này tràn ngập sự thù hận.

Thạch Đà mở mắt ra thấy người đứng bên cạnh là Địch Thanh thì kinh ngạc. Địch Thanh thu túi nước, đưa con chim ứng cho Thạch Đà. Thạch Đà lập tức hiểu ý của Địch Thanh liền cầm lấy cắn. Nhìn y ăn thịt chim ưng đầy dữ tợn. Sắc mặt Đan Đan tái nhợt trốn sau lưng Địch Thanh.

Thạch Đà bị thương nặng, vết thương trên đùi còn nhìn thấy cả xương. Bên hông cũng có một vết thương như nhìn thấy cả ruột. Tuy nhiên y giống như một tảng đá, bị thương như vậy mà vẫn không chết. Sau khi y tỉnh táo lại, ánh mắt lập tức trở nên lạnh lẽo.

Sau khi ăn hơn mười miếng, Thạch Đà mới dừng lại mà nói:

- Ngươi cứu ta nhưng ta không cảm ơn ngươi. Ta không cầu ngươi cứu ta.

Địch Thanh cũng không cảm thấy bất ngờ, chỉ nói:

- Ta cứu ngươi cũng là vì ngươi có thể nói cho ta một chuyện. Tất nhiên, nói hay không là quyền của ngươi.

- Chuyện gì?

- Đi cùng ta có một cô gái, mà ngươi đã gặp. Khi bão cát xuất hiện, ngươi có thấy cô ấy không?

Mi mắt của Thạch Đà hơi giật giật:

- Cô ấy là thế nào với ngươi?

Địch Thanh nói:

- Ta đang hỏi ngươi.

Thạch Đà cười lạnh:

- Thì sao?

Địch Thanh xoa xoa hai tay rồi nói:

- Chẳng sao cả. Được rồi! Cảm ơn.

Hắn bỏ Thạch Đà đó rồi xoay người rời đi. Đan Đan mừng rỡ vội vàng đi theo Địch Thanh nhưng vẫn không quên nói một câu:

- Nếu ngươi không ngại thì cứ đi theo chúng ta.

Nàng định dùng cách khích tướng. Nàng biết mạc dù Thạch Đà độc ác nhưng lại là người kêu ngạo. "Mặt ta dính đầy cát thế này, có thể Thạch Đà không nhận ra ta."

Thạch Đà thấy Địch Thanh đi xa thì sắc mặt thay đổi mấy lần. Địch Thanh không nói gì với y, chỉ cần bỏ mặc thì với những vết thương của mình nếu không ai giúp đỡ mà muốn sống thì khó hơn lên trời. Thấy Địch Thanh càng lúc đi càng xa, Thạch Đà không kìm được vội vàng nói:

- Sau đó ta chưa từng gặp lại cô ấy...nhưng nếu thương thế của ta tốt hơn, ta có thể giúp ngươi tìm được.

Đan Đan thầm kêu khổ. Địch Thanh xoay người, nói vọng lại:

- Ngươi đi được không?

Thạch Đà cắn răng nói:

- Có thể.

Mặc dù y là ác quỷ nhưng cũng là một con người cứng rắn. Cho dù bị trọng thương như vậy nhưng vẫn cố gắng đứng dậy, giật vạt áo mà băng qua vết thương. Cây đao của y đã mất, nhưng vỏ đao vẫn còn. Thạch Đà lấy vỏ đao làm gậy cố gắng đi theo Địch Thanh.

Thạch Đà đi theo Địch Thanh cũng đơn giản là để ý tới cái túi nước trong tay hắn.

Đan Đan lẩm bẩm nói:

- Nước này hai người miễn cưỡng sử dụng, ba người chỉ sợ không đủ.

Địch Thanh lẩm bẩm:

- Một người chẳng phải tốt hơn sao?

Đan Đan lập tức kêu lên một tiếng. Nàng vốn rất sợ hãi Thạch Đà. Thấy y không thèm để ý tới mình thì mặc dù tức giận nhưng vẫn cảm thấy thoải mái hơn. Nàng thầm nghĩ:" Hắn không nhận ra ta. Chờ khi ra khỏi sa mạc, ta sẽ nói với ca ca cho dù là Thạch Đà hay Mộc Đà thì cũng biến thành Tử Đà.

Tuy nhiên dù sao thì nàng cũng trải qua một số đau khổ nên cơ bản không dám hy vọng ánh mắt của Thạch Đà độc ác như vậy mà không nhận ra mình. Thạch Đà không nói gì tới nàng cũng là vì không đánh lại Địch Thanh mà thôi.

Mối quan hệ giữa ba người có một sự tinh tế. Mạc dù cả ba đi cùng nhau nhưng suy nghĩ lại khác nhau. Cả ba đi tới tận hoàng hôn nhưng vẫn không hề có một con kền kền nào xuất hiện.

Thạch Đà biết kền kền mượn khí bay lượn, sau khi mặt trời lặn sẽ không xuất hiện. Nhưng y cũng không lo lắng bởi vì biết Địch Thanh sẽ không để cho mình chết.

Địch Thanh chia con kền kền ra thành ba phần, chi cho Thạch Đà một ít. Thạch Đà cũng chẳng khách khí cố gắng nuốt vào bụng. Nếu bàn về năng lực sinh tồn trong sa mạc thì y còn mạnh hơn Địch Thanh mấy phần.

Đan Đan hy vọng Thạch Đà bị nghẹn chết nhưng đáng tiếc là không được.

Trong đêm, mây mù bao phủ bầu trời nên không nhìn thấy trắng sao. Mọi người không nhận rõ phương hướng nên nghỉ lại. Bọn họ phải tiết kiếm sức lực vì biết nếu đi vô định trong sa mạc thì thậm chí có khả năng mất mạng.

Cả ba người tìm một cồn cát tránh gió, tạm thời tránh rét. Trong sa mạc, ban ngày trời nắng chói chang nhưng tới đêm nhiệt tản đi rất nhanh khiến cho không khí lại trở nên lạnh thấu xương. Thạch Đà ngồi như một tảng đá, y đã quen với thời tiết của sa mạc. Thể chết của Địch Thanh cao lớn, mặc dù bôn ba mệt mỏi nhưng thương thế cũng trở nên tốt hơn, chịu rét không thành vấn đề. Chỉ có Đan Đan là co người lại, khi tới đêm khuya liền lặng lẽ dịch tới bên cạnh Địch Thanh.

Mặc dù nàng cũng sợ lạnh nhưng còn sợ Thạch Đà hơn. Mặc dù Địch Thanh lạnh lùng nhưng cũng là người. Còn Thạch Đà là một tảng đá, là ác ma, là quỷ dữ chứ không phải là người.

Đêm dài từ từ trôi qua, cuối cùng ánh nắng đầu tiên cũng xuất hiện.

Đan Đan mở mắt nhìn về phía chân trời, cảm nhận sự yên tĩnh của sa mạc rồi ưu tư nhìn Địch Thanh. Thấy Địch Thanh không còn bên cạnh thì giật nảy mình, suýt chút nữa nhảy vọt dậy. Nhưng khi Đan Đan nhìn thấy Địch Thanh ngồi trên cồn cát nhìn về phương xa thì nàng lại ngây người.

Xưa nay nàng quen được nịnh nọt, ở trong sa mạc nhiều ngày cũng sửa được chút tính tình. Vốn nàng chỉ cảm thấy Địch Thanh ương ngạnh nhưng khi thấy hắn cô đơn ngồi đó thì lại cảm thấy cho dù hắn có ngồi giữa cả vạn người, đứng trong một cái chợ đông đúc nhất thì cũng khó xóa đi nét cô độc trên gương mặt.

Đan Đan nhìn Địch Thanh, nhất thời quên mất mình đang ở sa mạc.

Địch Thanh thấy Đan Đan đứng dậy thì phủi bụi đất trên người chuẩn bị đi về phía Tây. Thạch Đà cũng đã đứng dậy, lạnh lùng liếc nhìn Đan Đan một cái rồi tập tênh đi theo Địch Thanh.

Đan Đan mới bước đi, đột nhiên đá phải một cái gì đó làm cho nàng lảo đảo. Cúi đầu xuống, Đan Đan chợt phát hiện dưới chân có một chiếc hài. Chiếc hài đó cũng không đẹp đẽ chỉ dùng dây khô và lôi chim bện lại rất đơn sơ nhưng thật sự là cần thiết đối với Đan Đan.

Đan Đan mừng rỡ xỏ nó vào chân, cảm giác lông chim mềm mại xoa chịu cơn đau thì hết sức kích động.

Từ nhỏ tới giờ nàng đã đi cả trăm ngàn cái giầy nhưng chưa có cái nào vừa ý như hôm nay.

Giầy đương nhiên không thể tự nhiên xuất hiện. Đan Đan thầm nghĩ:" Chắc chắn không phải cái loại người như Thạch Đà làm. Trong sa mạc chỉ có ba người, không phải mình làm vậy thì chỉ có cái tên đầu gỗ kia làm. Thực sự không ngờ hắn còn khéo tay đến vậy. "

Đan Đan vẫn chưa biết tên của Địch Thanh chỉ gọi bừa. Có thêm cái giầy khiến cho sự can đảm của nàng tăng lên, bước nhanh theo Địch Thanh.

Hoang mạc càng lúc càng nắng gắt. Ba người lặng lẽ từ từ bước đi. Vốn Địch Thanh cũng không khẳng định được đi theo hướng này có ra được khỏi sa mạc hay không nhưng thấy Thạch Đà không nói gì thì biết mình đi đúng hướng.

Cho dù Thạch Đà có tàn nhẫn đền mấy thì cũng sẽ không mang tính mạng của y ra để đùa.

Khi tới gần trưa, Địch Thanh lại làm trò cũ, giả chết chờ kền kền tới ăn thịt rồi phóng đao giết chết. Thạch Đà thấy vậy thì biến sắc.

Lúc trước, Thạch Đà và Địch Thanh giao thủ bị hắn cắt gẫy xương sườn, nhưng cũng chưa phục. Có điều thấy gió bão nổi lên đành phải lui bước. Trong lòng Thạch Đà nếu thật sự liều mạng y không nghĩ thua Địch Thanh. Tuy nhiên khi thấy phi đao của Địch Thanh sắc bén như vậy, Thạch Đà mới thực sự run sợ, thầm nghĩ tâm cơ của Địch Thanh rất sâu, còn che giấu thực lực.

Thạch Đà không biết Địch Thanh mới chỉ hồi phục thương thế, nhưng nghĩ Địch Thanh lạnh lùng như vậy nên lại càng thầm đề phòng. Y cảm thấy ảo não trong mấy ngày qua thật sự đen đủi. Y và Địch Thanh giao thủ cho dù có gió bão nhưng vẫn có thể tự tin trốn được. Có điều không ngờ trên đường y lại gặp phải kình địch. Hơn mười tên thủ hạ của y bị đối phương giết chết, bản thân bị trọng thương. Y liều mạng bỏ chạy mất đi con ngựa, lạc hướng. Qua mấy ngày, nếu không có Địch Thanh xuất hiện thì một tên ác ma lững lẫy trong sa mạc có thể đã chết.

Tuy nhiên cho dù có trở về thì trong nhà vẫn còn một tên Diêm Vương, y nên về đâu? Thạch Đà nghĩ tới đây thì liếc trộm Đan Đan mà nở nụ cười lạnh.

Cả ba người dựa vào con chim mà chống được một ngày. Đan Đan đói tới mức không chịu nổi. Khi tới buổi trưa ngày hôm sau, không để cho Địch Thanh ra hiệu đã nằm xuống.

Điều lạ lùng đó là Địch Thanh lại không nằm xuống. Đan Đan thấy vậy cảm thấy khó hiểu liền hỏi:

- Này...hôm nay ngươi không giả bộ chết hay sao?

Địch Thanh đứng trên cồn cát nhìn về phía cuối hoang mạc mà nét mặt có phần mừng rỡ. Thạch Đà thì lạnh lùng nói với Đan Đan:

- Ngươi không biết nhìn hay sao? Ngươi đúng là đồ con gái từ thanh lâu ra không có việc gì là chỉ biết nằm xuống.

Đan Đan đỏ mặt lên, giận quá nói:

- Thạch Đà! Rồi sẽ có một ngày ta sẽ bắt ngươi phải trả giá vì những gì hôm nay.

Thạch Đà đảo mắt một cái rồi mỉm cười:

- Ngươi có thể đợi tới được cái ngày đó không?

Trong lúc cả hai đang đấu khẩu thì Địch Thanh đột nhiên lên tiếng:

- Thạch Đà! Đã tới sào huyệt của ngươi?

Thạch Đà giật mình, nói một cách chậm rãi:

- Còn xa...

Địch Thanh vung đao một chút rồi nói:

- Ta cảm giác được trong gió có hơi nước. Phía kia có màu xanh đậm cứ tưởng là hoa mắt. Nhưng thấy ngươi có chút lo lắng thì chắc là cảm giác được gần về tới nhà rồi đúng không?

Thạch Đà không tin nổi cảm giác của Địch Thanh lại nhạy bén tới vậy. Tuy nhiên thấy hắn nói ra tâm sự của mình thì ánh mắt trở nên dữ tợn. Tuy nhiên nhìn thanh đao trong tay Địch Thanh cuối cùng y đành onis:

- Đúng không xa... Tới đó rồi, ta nhất định sẽ chiêu đãi ngươi.

Địch Thanh hạ đao xuống:

- Thạch Đà! Ngươi và ta không thể ăn tiệc. Ta cũng hy vọng gặp gỡ rồi chia tay tốt đẹp. Nếu ngươi có thể giúp ta tìm được bằng hữu thì ta cảm tạ ngươi.

Thạch Đà ừ một tiếng rồi quay sang nhìn Đan Đan mà nói:

- Đi thôi.

Cả ba người tiếp tục đi. Đi không xa lắm thì bọn họ bắt đầu thấy có những bụi gai trên sa mạc, mặc dù rất thưa nhưng cũng mang tới hy vọng cho con người. Đi tiếp về phía trước, màu xanh càng lúc càng nhiều thêm rồi sau đó bọn họ liền gặp được một cái ốc đảo.

Không khí tươi mát ập vào mặt khiến cho Địch Thanh và Đan Đan cảm thấy dễ chịu.

Những ngày qua khiến cho cảnh tượng xung quanh đối với họ có chút xa lạ. Tuy nhiên đối với một người vượt qua được cái chết uy hiếp, khó khăn lắm mới tìm được một cái ốc đảo trong sa mạc thì thật sự là vui sướng không bút nào kể xiết.

Màu xanh đậm nổi lên giữa sa mạc khiến cho lòng người êm dịu.

Màu xanh mang tới hy vọng của sự sống cho con người.

Địch Thanh hít lấy hít để bầu không khí tươi mát. Bất chợt có tiếng vó ngựa lao tới rất nhanh. Địch Thanh nghiêm nghị ngẩng đầu lên nhìn thì thấy có hơn mười người lao tới bao vây Địch Thanh và Đan Đan.

Vó ngựa, mã đao xuất hiện khiến cho ốc đảo chợt tràn ngập một bầu không khí tử vong của sa mạc.

Tới lúc này, Địch Thanh mới nhận ra chẳng biết từ lúc nào, Thạch Đà đã tụt lại vài bước, hiện giờ đang đứng giữa đám ngựa.

Biến hóa xảy ra nhưng Địch Thanh vẫn hết sức bình tĩnh, nói:

- Thạch Đà! Hóa ra ngươi tiếp đãi ta thật tốt là thế này đây?

Hắn nở nụ cười trào phúng nhưngk vẫn đảo mắt đánh giá tình hình.

Phía Tây ốc đảo có rất nhiều lều trại. Nơi này mới nhìn giống như thế ngoại đào nguyên tuy nhiên đào viên lại là của Thạch Đà. Y sẽ không cho người khác tới rồi lại đi.

Sắc mặt của Đan Đan trắng bệch, lẩm bẩm nói:

- Ta nói rồi...ngươi sẽ phải hối hận.

Địch Thanh chưa kịp trả lời, Thạch Đà đã lên tiếng:

- Ngươi nhầm rồi. Hắn sẽ không phải hối hận, chỉ cần hắn mặc kệ ngươi thì ta sẽ coi hắn là thượng khách. Sau này muốn đi hay hoàn toàn tự nhiên.

Tới giờ, Đan Đan mới hiểu được Thạch Đà đã nhận ra mình nhưng làm như không biết là vì chưa tới lúc. Đan Đan sợ hãi đứng yên bên cạnh Địch Thanh, túm chặt lấy áo của hắn. Mặc dù Đan Đan không nói gì thêm nhưng ánh mắt thể hiện rõ sự cầu khẩn.

Nàng chỉ có thể dựa vào Địch Thanh.

Địch Thanh nhíu mày, một lúc lâu sau mới nói:

- Ngươi chặn đánh các thương đội trong sa mạc là để tìm Đan Đan?

Hắn nghĩ tới lúc Thạch Đà cướp các đội buôn lục lọi vật phẩm thì ra là sợ Đan Đan ẩn nấp ở bên trong.

Thạch Đà nói một cách ngắn gọn:

- Đúng vậy.

Địch Thanh cảm thấy khó hiểu nói:

- Nhưng nàng dù sao cũng chỉ là một đứa nhỏ chưa hiểu chuyện. Tại sao ngươi phải làm khó cho nàng?

Đan Đan đột nhiên đỏ mặt kêu lên:

- Ta không phải là đứa nhỏ.

Nàng nhìn Thạch Đà đầy hung dữ:

- Thạch Đà! Ta biết ngươi không có can đảm bắt ta. Nhất định có người sai khiến ngươi. Ngươi có thể nói cho ta đó là ai. Ta sẽ nói ca ca ta phái người giết chết họ... Sau này coi như chưa có gì xảy ra.

Địch Thanh giật mình không hiểu tại sao Đan Đan lại nói vậy. Chẳng lẽ Thạch Đà cũng là tay sai của người khác?

Sắc mặt của Thạch Đà vẫn thản nhiên, chỉ nói gằn từng chữ:

- Ngươi nhầm rồi. Ta có đủ cái can đảm đó.

Y lập tức chỉ vào Địch Thanh quát:

- Ngươi...mời...tránh ra.

Thạch Đà nói xong liền tung người rút lấy một thanh đao trên cái yên ngựa rồi hoành đao mà đứng. Vết thương của y rất nặng nhưng chỉ cần vẫn còn hơi thở sẽ không bỏ qua cho Đan Đan.

Vốn cả ốc đảo đang dào dạt sức sống nhưng lúc này lại khiến cho người ta ngửi thấy mùi tử vong. Hơn mười người cưỡi ngựa đều lạnh lùng quan sát. Bọn chúng tới đây không ai lên tiếng nhưng có thể thấy được rằng chỉ cần Thạch Đà ra lệnh thì chúng sẽ liều lĩnh xông lên.

Địch Thanh sờ sờ mũi đao mà nói:

- Nếu ta không cho thì sao?

Sắc mặt Đan Đan đang tái nhợt nhưng ánh mắt chợt lóe lên tia sáng. Nàng thật sự không ngờ được cả thiên hạ lạnh lùng tối tăm này lại có người vì nàng.

Thạch Đà chớp mắt rồi nở nụ cười lạnh lùng:

- Tốt lắm.

Y cũng biết Địch Thanh sẽ không cho phép. Địch Thanh và y là hai loại người hoàn toàn khác nhau.

Thạch Đà biết Địch Thanh lợi hại cũng không muốn ra tay. Nhưng y lại phải ra tay. Bởi vì Đan Đan có ý nghĩa quá lớn đối với y. Y giơ cây trường đao lên, chuẩn bị ra lệnh tấn công.

Địch Thanh vẫn lạnh lùng đứng đó. Đan Đan không còn sợ hãi nữa mà ngây người nhìn Địch Thanh. Nàng thầm nhủ trong lòng:" Ta cứ nghĩ trên đời này ngoại trừ ca ca ra không còn có người đàn ông thứ hai nào đối xử tốt với ta như vậy. Không ngờ được mặc dù hắn không biết thân phận của ta nhưng lại dám đối đầu với Thạch Đà vì ta.

Đan Đan đột nhiên nở nụ cười mà chỉ nhìn Địch Thanh. Trong tích tắc, nàng như quên mất sự nguy hiểm của mình.

Có lẽ đối với nàng mà nói thì sống cũng được mà chết cũng thế. Một người con gái nếu có một người đàn ông nguyện chết vì mình thì còn có gì đáng sợ nữa?

Đám mã tặc bắt đầu bao vây lấy Địch Thạch. Đúng lúc Thạch Đà chuẩn bị vung đao thì đột nhiên có một người phi ngựa tới. Thạch Đà nhìn thấy vậy vội quát to:

- Khoan đã.

Đám mã tặc thu đao, dừng lại thế tấn công. Tên kỵ sĩ đang lao tới liền kêu lên:

- Thạch Đà! Phi Ưng tìm ngươi.

Đối với một tên ác ma sa mạc như Thạch Đà vậy mà âm thanh của y không hề có lấy một chút khách khí.

Khóe miệng Thạch Đà hơi giật giật rồi nói:

- Ta đang bắt người. Chờ chút nữa mới qua được chứ?

Địch Thanh ngạc nhiên không ngờ Thạch Đà cũng có thể thương lượng.

Tên kỵ sĩ kia nói đầy kiêu căng:

- Ngươi cùng với người kia tới đó.

Địch Thanh nhìn kỵ sĩ chằm chằm. Không hiểu tại sao nhưng hắn lại có cảm giác quen thuộc. Tên kỵ sĩ đó vẫn che mặt. Gương mặt đó hoàn toàn xa lạ đối với Địch thanh nhưng vì sao hắn lại cảm giác như đã từng gặp? Địch Thanh cảm thấy ngạc nhiên đồng thời hiếu kỳ không hiểu Phi Ưng là ai mà có thể ra lệnh cho Thạch Đà.

Thạch Đà lên tiếng:

- Phi Ưng có thể ra lệnh cho ta nhưng không chắc có thể ra lệnh cho người khác.

Viên kỵ sĩ kia mỉm cười:

- Phi Ưng tính toán biết ngươi và người kia nhất định sẽ tới.

Địch Thạch liền nở nụ cười trào phúng:

- Vậy thì chưa chắc.

Ánh mắt tên kỵ sĩ trở nên nghiêm túc, nhìn Địch Thanh mà nói:

- Ngươi chính là người trở về cùng với Thạch Đà hay sao?

Địch Thanh nghe thấy vậy thì cảm thấy nghi hoặc, thầm nghĩ nếu đã gặp qua thì tại sao người đó lại không biết hắn? Nghĩ đi nghĩ lại, Địch Thanh cười thầm vì bản thân đã thay đổi diện mạo cho nên y không nhận ra mình cũng chẳng có gì là lạ.

Thấy Địch Thanh gật đầu, viên kỵ sĩ nói:

- Chuyện tới nước này, ngươi phải tới gặp Phi Ưng.

 Chương 242 - 247: Phích lịch

Địch Thanh mỉm cười nói:

- Phải không? Vậy ngươi thử hỏi thanh đao trong tay ta xem nó có đồng ý hay không?

Viên kỵ sĩ trầm mặt xuống, lấy trong người ra một vật nói:

- Nếu ngươi muốn thấy chủ nhân của thứ này thì hãy ngoan ngoãn đi với ta.

Địch Thanh nhìn thấy vật đó thì biến sắc. Đan Đan cảm thấy khó hiểu bởi vì thứ mà viên kỵ sĩ kia cầm chỉ là một sợi dây lưng.

Sợi dây lưng màu lam như nước biển, giống hệt như bầu trời xanh trong...

Một cái dây lưng như vậy Đan Đan tiện tay có thể lấy ra cả vạn cái. Nhưng nàng không hiểu tại sao Địch Thanh lại biến sắc.

Địch Thanh thở hắt một cái rồi nói:

- Được! Ta đi theo ngươi. Nhưng Đan Đan phải đi cùng với ta.

Hắn nhận ra sợi dây lưng đó là của Phi Tuyết. Nói như vậy thì nàng đang ở trong tay của Phi Ưng?

Địch Thanh nghĩ tới đây thì nửa mừng nửa lo. Mừng là vì Phi Tuyết không chết. Buồn là vì cho dù Thạch Đà có sợ Phi Ưng, nhưng hắn tới đó có cứu được nàng hay không?

Viên kỵ sĩ thúc ngựa đi về phía Tây. Địch Thanh đành phải đi theo, còn Đan Đan thì bám theo hắn. Thạch Đà ra lệnh cho thủ hạ của mình lui. Chuyện đã tới mức này, Thạch Đà không hề cảm thấy vui sướng mà ánh mắt chứa đầy sự oán độc.

Mọi người xâm nhập vào trong ốc đảo. Địch Thanh thấy xung quanh cây cỏ xanh tốt, thậm chí còn có cả hồ nước thì cảm khái cho tạo hóa thần kỳ. Đi được một lát, tất cả tới trước một cái lều. Mặc dù cái lều đó không đẹp đẽ nhưng rộng lớn. Bên ngoài có mấy người đang đứng trang nghiêm, tay cầm trường thương đứng thẳng. Địch Thanh thấy vậy lại càng thêm đề phòng.

Viên kỵ sĩ kia tới trước trướng liền khách khí mời Địch Thanh:

- Ngươi và Thạch Đà... - Y liếc nhìn Đan Đan rồi nói:

- Thêm cả người này cùng nhau vào đi thôi. Phi Ưng đang ở bên trong.

Tấm màn trướng được vén lên. Địch Thanh liền bước vào bên trong mới phát hiện ra trong đó có hai người đang ngồi. Một người vóc dáng mảnh mai, nghe thấy tiếng động liền mở mắt ra nhìn.

Địch Thanh suýt chút nữa thì kêu lên khi thấy Phi Tuyết quả nhiên còn sống nhưng nhìn nàng không giống như bị cầm tù mà như một vị khách quý thì đúng hơn. Tại sao Phi Tuyết có thể đến được đây và làm thế nào mà quen biết Phi Ưng?

Địch Thanh cố gắng kiềm chế sự thắc mắc mà nhìn về phía Phi Ưng. Hắn bắt buộc phải chú ý tới một người có thể khiến cho Thạch Đà sợ hãi.

Phi Ưng quả nhiên có khí thế của chim ưng. Y chỉ ngồi đó nhìn mà Địch Thanh có cảm giác như bị kim đâm.

Địch Thanh chưa thấy ai có ánh mắt sắc bén như vậy.

Ánh mắt của Phi Ưng quả nhiên so với chim ưng còn sắc hơn. Gã đeo một cái mặt nạ che nửa gò má chỉ để lộ đôi môi và cái mũi như mũi ưng. Gã nhìn Địch Thanh rồi mở miệng nói:

- Ngươi chính là Địch Thanh?

Thái độ của gã mặc dù không lạnh lắm nhưng thực sự là kiêu ngạo. Y kiêu ngạo giống như một con chim ưng bay lượn trên cao, coi thường sinh linh trong trời đất.

Thạch Đà nghe thấy hai chữ "Địch Thanh" thì mí mắt giật giật. Rõ ràng là y đã nghe thấy cái tên đó nhưng y không thể ngờ được người luôn trầm mặc kia là chính là Địch Thanh.

Địch Thanh ở Tây Bắc có chức quan không cao nhưng danh tiếng lại hơn xa nhiều người. Nhất là người Khương thì biết chắc tại thành Thanh Giản có một Địch Thanh.

Chỉ cần nghe thấy hai chữ Địch Thanh, y liền cảm thấy lo lắng.

Địch Thanh về phía Phi Tuyết mà nói:

- Ngươi có khỏe không?

Hắn không thích Phi Ưng nhưng hắn hiểu Phi Ưng biết mình là Địch Thanh chắc chắn do Phi Tuyết nói.

Phi Tuyết nhìn Địch Thanh rồi dừng lại nơi tay trái của hắn. Tay phải Địch Thanh cầm đao, tay trái lại cầm cái túi nước. Túi nước vẫn còn đầy căng...khiến cho nàng cảm thấy ấm áp.

- Ta...tốt lắm. - Phi Tuyết nói nhẹ nhàng. Âm thanh của nàng mặc dù vẫn lạnh lùng như thế nhưng ánh mắt lại hơi ươn ướt.

Phi Ưng đột nhiên cất tiếng cười, cũng không vì Địch Thanh phớt lờ mình mà nổi giận:

- Ta hỏi thật vô nghĩa, ngươi không cần phải trả lời. Thật ra ngươi đã gặp ta mà ta cũng gặp ngươi. Nhưng ta thật sự không ngờ hai chúng ta lại gặp nhau trong cảnh này.

Địch Thanh cảm thấy hiếu kỳ. Trong trí nhớ của hắn thì dường như chưa gặp người này. Mặc dù Phi Ưng đeo mặt nạ nhưng chỉ cần gặp qua người nào thì không lý do gì mà Địch Thanh không nhớ.

Rốt cuộc thì Phi Ưng là ai?

Tại sao Phi Ưng lại nói từng gặp mà hắn hoàn toàn không có ấn tượng. Mà tại sao hắn lại có cảm giác quen biết đối với tên kỵ sĩ ở bên ngoài kia?

Phi Ưng lại nói tiếp:

- Chúng ta gặp mặt có thể nói là ý trời. Hai chúng ta gặp nhau cũng có cùng một mục tiêu.

Địch Thanh lắc đầu, mỉm cười nói:

- Ta không biết. Nhưng ta và ngươi không có mục tiêu giống nhau.

Ánh mắt lạnh lùng của Phi Ưng biến mất, đột nhiên xuất hiện chút gì đó thương cảm. Nàng mấp máy môi rồi đột nhiên nói:

- Quách Tuân đã chết.

Địch Thanh cảm thấy như bị sét đáng ngang tai, loạng chạng vài cái. Sắc mặt y tái mét, la lên:

- Ngươi nói cái gì?

Ánh mắt của Phi Ưng trở nên ảm đạm nói:

- Quách Tuân đã chết. Quách đại ca đã chết. Chúng ta có chung một mục tiêu là báo thù cho đại ca.

Quách Tuân đã chết?

Địch Thanh tin chắc mình không hề nghe nhầm. Hắn không muốn tin nhưng cũng chẳng còn cách nào khác. Phi Ưng có lý do gì để lừa hắn? Hắn có thể nhận ra được Phi Ưng không hề nói dối.

Quách Đại ca đã chết? Quách đại ca đối xử với hắn như cha như mẹ không ngờ đã chết?

Cha mẹ của Địch Thanh mất sớm, Quách Tuân đối xử với hắn một cách khoan dung và trân trọng. Làm sao mà Địch Thanh không nhớ? Trong suy nghĩ của Địch Thanh luôn coi Quách Tuân như là phụ thân, là huynh trưởng và bằng hữu.

Nhưng làm sao mà Quách Tuân lại chết?

Địch Thanh nghĩ tới đây thì lòng như dao cắt mà kêu lên:

- Tại sao đại ca lại chết? Đại ca chết như thế nào? Ai đánh lén đại ca?

Quách Tuân có võ công cái thế, nếu không bị đánh lén thì không thể chết được.

Trong khoảng khác đó, Địch Thanh không thể bình tĩnh. Trán hắn nổi gân xanh, cánh tay cầm đao cũng kêu lên canh cách.

Lúc này, trong đầu Địch Thanh chỉ có một cái suy nghĩ đó là lấy máu đổi máu. Ai giết Quách Tuân thì hắn nhất định phải giết người đó để báo thù.

Trong những năm qua, Địch Thanh đã thay đổi rất nhiều nhưng sự nhiệt huyết thì vĩnh viễn chưa bao giờ mất.

Địch Thanh đầy sát khí, cũng không để ý tới sự sợ hãi của Đan Đan. Lúc này, trong lòng nàngchỉ có sự sợ hãi mà còn có đầy sự buồn bã, giống như một con thuyền con bất lực trước sóng dữ.

Tại sao một thiếu nữ mềm yếu như nàng nhưng khi nghe tới Quách Tuân chết lại sợ hãi đến vậy?

Tuy là dưới cái nắng mùa hè, nhưng trong lều vải vẫn lạnh lẽo vô cùng. Địch Thanh mải suy nghĩ tại sao Quách Tuân lại chết, không để ý Phi Ưng nói một câu “Quách đại ca chết rồi”

Địch Thanh gọi Quách Tuân là đại ca là có lý do, nhưng tại sao Phi Ưng cũng gọi Quách Tuân là đại ca? Chẳng lẽ Phi Ưng cũng là bạn tốt với Quách Tuân sao?

Phi Ưng thấy hai tròng mắt đỏ ngầu xúc động của Địch Thanh, ngược lại tỉnh táo hẳn lên, lặng lẽ chờ đợi.

Địch Thanh giận dữ không thôi, đau xót trong lòng xông lên đầu, gọi:

- Phi Ưng, ngươi vẫn chưa nói cho ta biết, rốt cuộc ai là hung thủ?

Phi Ưng thở dài:

- Chuyện này một lời khó nói hết. Ta đang cảm thấy thế đơn lực cô. May mắn, ngươi đến rồi. Ta cũng tìm một binh sĩ ban đầu tác chiến ở Tam Xuyên Khẩu. Có lẽ ngươi có thể biết chi tiết từ miệng gã.

Địch Thanh lập tức hỏi:

- Gã ở đâu?

Phi Ưng nhìn về phía mảnh lều vải nói:

- Đang ở sau lưng ngươi.

Địch Thanh quay đầu lại nhìn, không khỏi sửng sốt. Lúc nãy hắn tâm tình xúc động, không để ý có một người đang đứng ở lối ra vào lều trại. Mà hắn cũng biết người đó, người đó chính là người trẻ tuổi mà Phi Ưng cứu từ trong sa mạc ra.

Người trẻ tuổi nắm chặt hai nắm tay, vẻ mặt xúc động và tràn đầy đau thương...

Địch Thanh sớm cảm thấy người đó là quân Tống, không ngờ gã lại biết chuyện của Quách Tuân. Hắn khàn giọng hỏi:

- Quách đại ca chết thật rồi?

Hắn rất hy vọng người trẻ tuổi đó có thể phản bác lại hắn. Nhưng thấy người trẻ tuổi đó đang rơi lệ, trái tim hắn như muốn đóng thành băng.

Người trẻ tuổi khóc hỏi ngược lại:

- Ngươi đúng là Địch Thanh ư? Không phải ngươi đã chết ở Bình Viễn rồi sao?

Địch Thanh ngẩng đầu nói:

- Đúng vậy, ta chính là Địch Thanh, nhưng ta chỉ bị thương, không chết.

Lúc nãy hắn khinh thường trả lời câu hỏi của Phi Ưng. Nhưng lúc này, hắn muốn người trong thiên hạ đều biết, Địch Thanh hắn không chết, Địch Thanh nhất định sẽ báo thù cho Quách Tuân.

Người trẻ tuổi nức nở nói:

- Ta biết, ngươi không chết, người như ngươi sao có thể chết chứ? Ngươi chết rồi, ai có thể dẫn dắt quân Tống chống cự Nguyên Hạo?

Địch Thanh lạnh lùng nói:

- Là Nguyên Hạo sao? Là Nguyên Hạo hại chết Quách đại ca?

Người kia nghe thấy tiếng quát hỏi, sắc mặt lộ vẻ sầu thảm, lùi lại một bước, cơ thể run lẩy bẩy. Không phải là gã sợ, mà là gã không thể đối diện vẻ bi ai thống khổ tột cùng trên gương mặt hắn.

Người trẻ tuổi đáp:

- Phải, chính là Nguyên Hạo hại chết Quách đại nhân!

Địch Thanh ngược lại trấn tĩnh hơn, chậm rãi nói:

- Ngươi kể lại tình huống lúc đó cho ta biết... được không?

Trong lòng hắn đang nghĩ, hắn đơn độc một mình, sao có thể giết chết Nguyên Hạo?

Nhưng chỉ cần hắn có chút sức lực, thì sẽ không tha cho Nguyên Hạo!

Người trẻ tuổi móng tay đã cắm chặt vào trong lòng bàn tay, cắn chặt môi, kiên định nói:

- Được.

Sau giọng nói của gã, trong doanh trướng không còn âm thanh khác.

Tất cả mọi người đều im lặng, im lặng nghe người trẻ tuổi kể lại câu chuyện một cách thảm thiết và bi tráng, huyết khí và bất khuất!

Lúc này Địch Thanh mới biết, thì ra lúc hắn xông vào trại Bình Viễn, trại Kim Minh đã thất thủ. Thì ra Trương Ngọc hảo huynh đệ của hắn liều chết xông ra vòng vây, ngược gió đạp tuyết đi Duyên Châu truyền tin. Thì ra Lý Vũ Hanh hảo huynh đệ của hắn vì cứu Trương Ngọc, sớm dâng tặng tính mạng trước một bước.

Địch Thanh không khóc, nhưng trong lòng hắn đang rỉ máu. Món nợ này, không thể dùng nước mắt, nhất định phải dùng máu để thanh toán!

Địch Thanh cũng biết. Trương Ngọc tuy truyền tin tức đến Duyên Châu, nhưng không đợi lúc Phạm Ưng truyền tin ra, đám người Lưu Bình đã thu binh. Có người biết trước, biết Duyên Châu nhất định có nguy.

Lưu Bình, Thạch Nguyên Tôn, Mặc Kỳ Chính, Quách Tuân và Hoàng Đức năm người hồi binh cứu viện, dẫn theo binh lực chỉ hơn mười ngàn, hơn nữa còn là kỵ bộ binh hỗn loạn, mỏi mệt không chịu nỏi. Quân của Lưu Bình từ Khánh Châu vội chạy tới quận Bảo An, giết Thượng Sĩ Môn, rồi trở về Tam Xuyên Khẩu, chạy một mạch năm ngày năm đêm.

Địch Thanh lẳng lặng nghe, lẳng lặng ngước nhìn đơn đao trong tay.

Đơn đao đã bị thủng, nhưng vẫn hiện ra ánh sáng sắc bén...

Người trẻ tuổi lại nói:

- Vốn Bình Viễn vẫn không sao. Không phải quân Đảng Hạng không thể đánh chiếm, mà là Nguyên Hạo lơ là sách lược của quân Tống. Lúc Nguyên Hạo phái binh tấn công hai chỗ Bình Viễn, Hàn Môn. thừa dịp quân Tống thò dầu rụt cổ không dám ra đánh, Nguyên Hạo sớm dẫn đại quân phá Thổ Môn, bằng sự hành quân thần tốc, lợi dụng mấy hàng trăm ngàn nội gian phá trại Kim Minh.

Lý Sĩ Bân tung tích không rõ. Lý Hoài Bảo bị giết. Trại Kim Minh tưởng như tường đồng vách sắt, thật ra sớm đã vỡ nát.

Mà Nguyên Hạo phá trại Kim Minh, không hề dừng lại chút nào. Y dẫn theo tám chục ngàn thiết kỵ, hàng trăm ngàn nội gian Đại Tống nuôi dưỡng, cộng thêm mấy trăm ngàn thương hộ. Tổng cộng có năm trăm ngà đại quân vây thành đánh viện binh, ngồi đợi đám người Lưu Bình vào tròng.

Mà quân Tống đến viện thành Duyên Châu chỉ cso mười ngàn nười!

Hai quân gặp nhau ở bãi cát Ngũ Long của Tam Xuyên Khẩu. Hoa tuyết thổi nhẹ. Quân Tống dùng trận Yển Nguyệt đối địch, lấy một chọi mười lăm, lấy mỏi mệt đấu với mưu tính sâu xa của quân Đảng Hạng.

Nhưng quân Tống không đầu hàng, không sợ hãi. Bọn họ vẫn chiến đấu ba ngày ba đêm, vì bọn họ có một dũng tướng, tên gọi Quách Tuân.

Quách Tuân kích phát toàn bộ dũng khí và tâm huyết của quân Tống, thế nhưng ngay ngày đầu tiên Quách Tuân đã ngã xuống rồi.

Địch Thanh nghe tới chỗ này, trong lòng ngực đau như kim đâm, đến mức tóc gần như đều dựng thẳng lên. Hắn hận lúc đó mình không có ở đó, hận không thể cùng Quách Tuân kề vai tác chiến. Nhưng hắn vẫn lẳng lặng nghe, hắn muốn ghi nhớ tất cả mọi chuyện, sau đó trả lại toàn bộ.

Không ai ngắt lời người trẻ tuổi. Trong đầu tất cả mọi người đều có cảm xác thảm thiết. Nhưng cũng có người đang nghĩ, người tuổi trẻ này này rốt cuộc là ai, tại sao hiểu rõ cuộc chiến Tam Xuyên Khẩu như vậy? Người này đối với toàn cục quen thuộc như vậy, tuyệt đối không phải là một quân Tống bình thường.

Người trẻ tuổi lại nói:

- Quách Tuân và quân Đảng Hạng tiến hành ba trận chiến. Trận chiến thứ nhất, Quách Tuân lấy kỵ binh phá kỵ binh, lấy tư thế càng nhanh nhẹn dũng mãnh đánh bại người Đảng Hạng., đánh chết mười ngàn người kẻ địch, đệ nhất lực sĩ người Đảng Hạng, vượt qua sông băng, ngàn quân không dám qua.

Cho dù là Phi Ưng nghe tới đây, ánh mắt cũng sáng lên, gã lẩm bẩm tên của Quách Tuân, đột nhiên buông tiếng thở dài:

- Sao ta không sớm gặp được huynh ấy chứ? Huynh ấy nhất định...

Quách Tuân nhất định cái gì, Phi Ưng không nói tiếp.

Không ai để ý tới lời nói thầm của Phi Ưng, ai cũng nóng lòng muốn biết sau đó thế nào... Kết cuộc đã định, nhưng chuyện của Quách Tuân, chẳng phải là chuyện mà tất cả mọi người muốn nghe sao?

- Quách Tuân lập tức cùng người Đảng Hạng tiến vào trận chiến thứ hai, một mình đấu với Long Dã Vương một trong chín Vương Long bộ Đảng Hạng.

Trong suy nghĩ của quân Đảng Hạng, Long Hạo Thiên giống như thiên thần. Không ai tin Quách Tuân có thể thắng Long Hạo Tiên. Cho dù Quách Tuân thắng Long Hạo Thiên, cũng nhất định trả cái giá đắt. Nhưng Quách Tuân chỉ cần một chiêu, thì đánh chết Long Dã Vương ở dưới mặt sông đã đóng băng.

Quách Tuân tìm đường sống trong cõi chết, phá băng giết địch, uy chấn tam quân.

Địch Thanh nhiệt huyết sôi trào, vội hỏi:

- Vậy... sao đó thì sao?

Người trẻ tuổi đau buồn nói:

- Sau đó người Đảng Hạng biết nếu có Quách đại nhân quân lính tuyệt đối sẽ không đầu hàng. Bọn họ phát động toàn quân, muốn đánh tan quân ta, bọn chúng qua mặt nước ác chiến với chúng tôi ở bờ bắc... Chúng tôi từ sáng sớm đánh đến hoàng hôn, chết và bị thương một nữa, nhưng không một ai lui bước.

Địch Thanh lệ nóng lưng tròng:

- Vậy còn Quách đại ca thì sao? Quách Tuân anh nhưng dù sao cũng là người, chẳng lẽ Quách Quân chết trận ở chiến trường như vậy?

Người trẻ tuổi bi phẫn nói:

- Vốn chúng tôi có cơ hội thắng. Cho dù không có cơ hội thắng, nhưng còn có hy vọng xông ra.

Mọi người kinh ngạc khó có thể tin.

Địch Thanh lẩm bẩm nói:

- Còn có cơ hội gì?

Người trẻ tuổi nói:

- Chúng tôi không thể lui, vì chúng tôi chạy không thoát những kỵ binh đó. Chúng tôi chỉ có thể liều, tiếp tục liều chết,tụ tập dưới thành Duyên Châu, mới có cơ hội phản công. Quách đại nhân sớm nghĩ tới điều này. Lưu... đại nhân cũng nghĩ tới rồi, cho nên bọn họ đều đang liều. Vì chúng tôi còn có một sát chiêu chưa sử dụng, chúng tôi còn có “phích lịch”!

Trong đầu Địch Thanh chợt lóe lên tia điện. Hắn từng nghe Quách Tuân nói qua, ““phích lịch”” không phải sấm sét trên trời, mà là một loại hỏa khí mới nhất do đại nội Vũ Kinh Đường của triều đình nghiên cứu chế tạo. Triệu Trinh luôn lo lắng thiết kỵ biên thùy thua xa người Đảng Hạng và người Khiết Đan. Do vậy sưu tầm các loại mét khối từ nhân gian, tập hợp tới Vũ Kinh Đường nghiên cứu hỏa khí, dùng để đối kháng Khiết Đan và thiết kỵ của người Đảng Hạng.

Mà ““phích lịch”” chính là một loại hỏa khí có uy lực nhất mấy năm nay, không ngờ Quách Tuân mang theo ““phích lịch””?

Người trẻ tuổi lớn tiếng nói:

- Quách đại nhân chỉ dẫn theo hơn một ngàn thủ hạ, nhưng mang theo hàng trăm quả “phích lịch”. Đến lúc hoàng hôn, chúng tôi đã mệt mỏi, người Đảng Hạng quả thật cũng mệt rồi. Bọn họ không ngờ chúng tôi lại dẻo dai như vậy. Ban đầu bọn họ còn chuẩn bị phát động thêm một vòng xung phong. Lúc này lỗ tai Lưu đại nhân bị tên bắn rớt rồi. Thạch đại nhân bị trọng thương. Vương Tín, Mặc Kỳ hai vị đại nhân cũng đã bỏ mạng…

Địch Thanh nghe tới câu Vương Tín đã chết, trong lòng lại đau xót. Hắn nhớ rõ người đàn ông đã chết trầm lặng ở sa trường đó. Nhưng nếu không có người đàn ông trầm lặng này, Đại Tống sao có thể gìn giữ an bình như ngày nay?

Người trẻ tuổi kích động nói:

- Cho dù Quách đại nhân cũng bị thương không dưới mười chỗ. Nhưng đại ca vẫn chỉnh sửa cờ trống lại, chuẩn bị một trận “phích lịch” cuối cùng. Có Quách đại nhân, chúng tôi sẽ không lui. Lúc đó người Đảng Hạng chen tới, Quách đại nhân xung ngựa lên trước, gậy sắt trên tay đại ca đã bị cong, lại đổi thương thiết, kết quả thương thiết lại gãy, đại ca lại cướp mã giáo, ra sức giết địch, vừa dẫn binh vừa dẫn người Đảng Hạng về tới trên mặt sông.

Phi Ưng im lặng lắng nghe, nghe tới đây, cũng không kìm được khen ngợi:

- Quách đại ca quả là anh hùng đệ nhất thiên hạ. Trong mắt y không còn ưu thương nữa, ngược lại ló lên ánh hàng quang cháy rực.

Địch Thanh đột nhiên nói:

- Dùng “phích lịch” phá băng, đây là cơ hội cuối cùng.

Hắn đã nghĩ tới cách Quách Tuân xuất chiêu, nhưng hắn lại không hiểu tại sao Quách Tuân thất thủ.

Người trẻ tuổi nói:

- Đúng vậy, lúc Quách đại nhân bức người Đảng Hạng tới mặt băng, thì dùng “phích lịch”. Pphích lịch” vừa dùng, mặt sông bùng nổ, nước sông văng lên. Quân Đảng Hạng không kịp đề phòng, đã hoảng loạn bu thành một bầy, chết và bị thương vô số. Lúc đó Quách đại nhân nhân hiệu lệnh tam quân phát động tổng tiến công, lao qua nước sông, xông vào vòng vây của quân Đảng Hạng. Người Đảng Hạng vừa hoảng loạn vừa mệt mỏi. Đây là cơ hội vây phá tốt nhất của chúng tôi. Gã nói tới đây trong mắt lộ ra ánh sáng oán độc, nghiến răng nói:

- Đây vốn là kế sách hay, nhưng vì chúng tôi vốn có hai ngàn quân sinh lực chưa sử dụng, đội người ngựa đó do Hoàng Đức Hòa suất lĩnh, chỉ cần y ra sức vọt lên trước, chúng tôi sẽ không thua.

Sắc mặt Địch Thanh thay đổi lớn, khàn giọng nói:

- Y... không có xông lên?

Người trẻ tuổi cười thảm nói:

- Y chẳng những không xông lên. Ngược lại lúc thời khắc quan trọng nhất, dẫn binh chạy trốn.

Lòng bàn tay Địch Thanh siết chặt, lại nắm rút ra cán đao, cắn răng nói:

- Y... y không hề có chút lương tâm?

- Y quả thật không có chút lương tâm, lương tâm của y bị chó ăn rồi.

Khóe miệng người trẻ tuổi tràn ra máu tươi:

- Y thoát lần này, tuy dẫn đi toàn bộ quân, nhưng lòng quân cũng loạn. Quân Tống sớm mệt mỏi, không có hậu viện, càng ngày càng có nhiều người bắt đầu từ bỏ tác chiến. Ta... Lưu Bình bảo Lưu Nghi Tôn con trai của y đuổi theo Hoàng Đức Hòa, khổ sở cầu xin Hoàng Đức Hòa đừng đi. Ngược lại bị Hoàng Đức Hòa đánh bị thương.

Địch Thanh lẩm bẩm nói:

- Tốt, Tốt! Trong danh sách ta phải giết, lại có thêm Hoàng Đức Hòa.

Người trẻ tuổi tiếp tục nói:

- Quách đại nhân tác chiến trong nước băng, vốn đã giết tam quân Đảng Hạng. Nhưng hậu quân rối loạn, tất cả khổ tâm của người đều trôi theo nước. Lúc này, bộ hạ của Lưu Bình cũng bắt đầu rối loạn. Lưu Bình ra sức chém giết, rút đao chém chết người rút lui, hô lớn vì nước mà chiến, rút lui là chết!

Vì nước mà chiến, rút lui là chết!

Lúc mọi người nghe tới câu nói này, trong lòng đã có chút ý bi thương. Một trận chiến Tam Xuyên Khẩu, chỉ là mấy người Quách Tuân, Vương Tín, Lưu Bình, làm Nguyên Hạo không dám xem thường quân Tống, mà trên chiến trường này cũng chỉ có mấy người này.

Địch Thanh lẩm bẩm nói:

- Vì nước mà chiến, rút lui là chết? Vậy Quách đại ca thì sao?

Người trẻ tuổi nắm chặc hai nắm tay nói:

- Nếu Quách đại nhân đi, không có ai cản được người. Nhưng người vẫn chiến đấu gian khổ trong nước băng, dành lấy cơ hội thoát mạng cho hơn ngàn người. Quân Đảng Hạng không biết phái bao nhiên cao thủ bao vây tấn công người. Cuối cùng người bị bị trúng mấy mũi tên, con ngựa chết thảm, người cũng vùi trong nước băng. Sau đó, người Đảng Hạng đều nói, Quách đại nhân chết rồi. Tình hình đó, làm sao người còn có thể sống?

Khóe miệng Địch Thanh co giật, thấp giọng hỏi:

- Sau đó thì sao?

Người trẻ tuổi buồn bã nói:

- Quách đại nhân chết rồi. Lưu Bình thấy tình thế không ổn, biết xông lên thêm cũng không phá được vòng vây tấn công của người Đảng Hạng, chỉ có thể rút lui. Sự tình sau này, ta vì hôn mê trên chiến trường, không tận mắt thấy. Chỉ nghe nói Lưu Bình tuy thua, nhưng kéo chùn bước tiến của người Đảng Hạng tiến công Duyên Châu, rồi chiến đấu tiếp hai ngày. Cuối cùng cùng với Thạch Nguyên Tôn toàn bộ đều chết trận.

Giọng gã càng ngày càng thấp, trong giọng điệu có vẻ có chút không tự tin. Chẳng lẽ nói gã là vì không có tận mắt thấy, cho nên không dám khẳng định kết cục của Lưu Bình, Thạch Nguyên Tôn.

Cảm giác nhạy cảm của Địch Thanh tới cực điểm, nhưng trong lúc nhất thời không biết nói thế nào. Phi Ưng thản nhiên nói:

- Ta lại nghe nói có chút không giống.

Người trẻ tuổi nhìn Phi Ưng giận dữ nói:

- Ngươi cho rằng ta nói dối sao? Ngươi có thể không tin ta, nhưng có thể nào không tin Quách đại nhân? Gã lạc trong sa mạc, được Phi Ưng cứu ra, vốn đối với Phi Ưng có chút cảm kích. Nhưng lúc này giận dựng tóc gáy, hận không để cùng Phi Ưng đánh một trận. Gã không biết Phi Ưng là ai, nhưng nghe Phi Ưng nói Địch Thanh đến rồi, gã cũng không nhịn nổi mà đến đây đem những gì biết kể qua một lượt.

Đây là khu vực của người Đảng Hạng, nhưng gã không sợ. Chuyện này nói ra cho dù là chết ngay lập tức, gã cũng không để ý.

Phi Ưng sắc sảo nói:

- Ta không dám nghi ngờ nửa đoạn trước của ngươi, nhưng phần sau ngươi nói có vấn đề.

Người trẻ tuổi tỏ vẻ thống khổ nói:

- Có vấn đề gì?

Phi Ưng trốn tránh không trả lời. Hoàng Đức Hòa tháo chạy, làm cho quân Tống bại trận. Nhưng quân Tống dù bại vẫn vinh quang. Bọn họ với mười ngàn người mệt mỏi, ngăn chặn hàng trăm ngàn người ngựa của Nguyên Hạo, đã làm Nguyên Hạo giật mình. Kết cục của quân Tống vốn là thất bại và diệt vong, nhưng bọn họ kéo dài ba ngày, các đường viện quân phía bắc cuối cùng đến kịp. Nguyên Hạo tuy thắng ở Ngũ Long Than Tam Xuyên Khẩu, nhưng là thắng thảm hại. Tổn thất không chỉ gần hai chục ngàn binh ngựa, mà còn niềm tin tất thắng nữa. Thử hỏi y lấy hàng trăm ngàn binh lực bao vây quân Tống, lại dành được chiến thắng khó khăn như vậy, làm sao thủ hạ có thể có thêm quyết tâm tác chiến? Nguyên Hạo nhìn ra điểm này. Đang vây giết Lưu Bình, thì không có định xuống phía nam, cũng không tiến công Duyên Châu, ngược lại lui về trại Kim Minh phòng ngự, lại thuận lấy hai chỗ Bình Viễn, Hàn Môn. Từ đó phía bắc thành Duyên Châu, ngoài thành Thanh Giản ra tất cả đều rơi vào tay của người Đảng Hạng,

Địch Thanh vội hỏi:

- Thành Thanh Giản bây giờ thế nào?

Phi Ưng nói:

- Thành Thanh Giản vẫn đang canh phòng nghiêm mật cố sống chết để giữ thành, Nguyên Hạo không thể phá. Thể diện triều Tống lần này mất hết, đương nhiên sẽ không bỏ chỗ này nữa, sẽ phái binh tiếp viện thành Thanh Giản. Trước mắt Đại Tống và Nguyên Hạo trong giai đoạn giằng co, nhưng biên cương Đại Tống đã đầy rẫy nguy cơ.

Địch Thanh thở phào nhẹ nhõm, thầm nghĩ Chủng Thế Thành có dự kiến trước, cuối cùng bảo vệ được vùng biên giới phụ cận Diên Biên.

Phi Ưng lại nói:

- Sau khi Hoàng Đức Hòa trở về Duyên Châu nói với Phạm Ung là Lưu Bình, Thạch Nguyên Tôn tác chiến bất lợi, tang sư nhục nước, đã đầu phục Nguyên Hạo. Phạm Ung tin lời của Hoàng Đức Hòa, vội vàng trốn tránh trách nhiệm, lại tấu chuyện này lên triều đình. Kết quả lúc đó Thánh Thượng nghe xong, vô cùng tức giận, lập tức phái binh bắt toàn bộ cả nhà của Thạch Nguyên Tôn và Lưu Bình, nhốt vào thiên lao, chuẩn bị sau mùa thu xử trảm. Người duy nhất không có bị trách phạt chính là Quách Tuân, tất cả mọi người đều biết tấm gương trung liệt của Quách Tuân, cũng biết Quách Tuân trung thành và tận tâm với Thánh Thượng. Cho dù là hạng bỉ ổi vô lương như Hoàng Đức Hòa e rằng cũng không dám vu oan huynh ấy.

Tất cả mọi người đều rất kinh ngạc, không ngờ chuyện lại có kết quả như thế.

Địch Thanh thất thanh nói:

- Thánh Thượng sẽ không hồ đồ như vậy chứ, sao đó thế nào?

Phi Ưng cười lạnh nói:

- Ngươi thật sự cho rằng Triệu Trinh thông minh? Nếu thông minh làm sao có thể phái Phạm Ung, Hạ Thủ Vân loại người ngu xuẩn như vậy canh giữ biên cương?

Y cao ngạo phi thường, thoạt nhìn ngay cả thiên tử Đại Tống cũng không để vào mắt, nói tiếp:

- Sau đó may mắn có Phạm Trọng Yêm bước lên lục vấn. Bàng Tịch Lực bảo vệ, cộng thêm Ngự sử Văn Ngạn Bác đi tới Duyên Châu, lúc này mới đều tra ra chân tướng sự thật, xử trảm Hoàng Đức Hoà ở dưới thành Duyên Châu. Tuy nhiên, Hoàng Đức Hòa cũng có chuyện không nói sai.

Người trẻ tuổi, trán nổi gân xanh lên, nắm chặt hai nắm tay tiến lên quát:

- Ngươi nói dối, một chữ cũng không tin được.

Phi Ưng thản nhiên nói:

- Y nói Lưu Bình đầu hàng Nguyên Hạo, điểm này ít nhất không có nói sai!

Người trẻ tuổi trừng mắt muốn nứt ra, kêu lên:

- Ngươi nói cái gì? Lưu Bình sao có thể đầu hàng người Đảng Hạng.

Hai mắt gã đỏ ửng, hẳn là vô cùng phẫn nộ.

Phi Ưng nói từng chữ:

- Quách Tuân chết rồi, nhưng Lưu Bình không chết, Thạch Nguyên Tôn cũng không chết. Thiết Bích tướng công Lý Sĩ Bân cũng không chết! Người nên chết không chết, không nên chết lại chết rồi. Lưu Bình bọn họ đều bị bắt ở phủ Hưng Khánh. Theo ta được biết, qua mấy tháng nữa, Nguyên Hạo muốn lập quốc, ngồi ngang với Đại Tống - Khiết Đang, ba phần thiên hạ. Còn những người này đã được phong thưởng, đến lúc đó đều phải quỳ lại xưng thần. Buồn cười Đại Tống còn không biết tin này.

- Ngươi nói láo!

Người trẻ tuổi kích động quát.

Phi Ưng nói:

- Nếu ta nói láo, vậy ngươi vì sao phải kích động?

Người trẻ tuổi lùi lại mấy bước, măt đỏ bừng. Phi Ưng lại nói:

- Ta kỳ thực luôn lấy làm lạ, trong trận chiến Tam Xuyên Khẩu, ngươi đóng vai trò gì?

Người trẻ tuổi sắc mặt trở nên trắng bệch, lui lại một bước.

Mọi người không kìm nổi ngạc nhiên. Nếu người trẻ tuổi này cũng chiến đấu ở Tam Xuyên Khẩu, lại không thẹn với lương tâm, sao phải sợ người khác nói ra thân phận của mình?

Khóe miệng Phi Ưng mang nụ cười tàn nhẫn nhìn chằm chăm người trẻ tuổi, tựa hồ muốn nhìn thấu tâm can gã:

- Ngươi vốn là quân Tống, nhưng trên mặt chưa có khắc chữ, cho thấy ngươi xuất thân không thấp. Ngươi vẫn còn trẻ, võ nghệ tầm thường, đương nhiên là cậy vào phụ công mới có địa vị như ngày hôm nay. Mỗi lúc ngươi nhắc tới Lưu Bình, đều có biểu lộ khác biệt, thái độ đối với y rõ ràng không giống người bên ngoài. Theo ta biết, lúc Lưu Bình xuất chinh, dẫn theo con là Lưu Nghi Tôn tham chiến. Sau đó theo lời triều định, Lưu Nghi Tôn chết trận rồi. Nhưng rõ ràng, Lưu Nghi Tôn không chết, ngươi chính là Lưu Nghi Tôn.

Người trẻ tuổi lui lại một bước, nét mặt tỏ ra hoảng loạn.

Trong lều vải giống như chết lặng. Không biết qua bao lâu, người trẻ tuổi mới nói:

- Không sai... Ta chính là Lưu Nghi Tôn, vậy thì sao?

Gã giơ tay vạch ngực áo ra, lộ ra vết thương chồng chất, kêu lên:

- Ta ở Tam Xuyên Khẩu, dựa vào lương tâm chiến đấu, may mắn không chết, đó không phải lỗi của ta.

Phi Ưng hai tròng mắt lóe sáng:

- Ngươi chính là có lương tâm, cho nên mới muốn đi ngang qua sa mạc tới phủ Hưng Khánh xem Lưu Bình rốt cuộc chết chưa, đúng không? Ngươi thà rằng phụ thân ngươi chết , cũng không muốn ông ta đầu hàng Nguyên Hạo, đúng không? Lần này nếu ngươi thấy Lưu Bình vẫn còn sống, nói không chừng sẽ ra tay giết hại ông ta, đúng không?

Phi Ưng liên tiếp hỏi ba câu, giống như lôi đình ập vào người Lưu Nghi Tôn. Lưu Nghi Tôn chấn động toàn thân, cười thảm nói:

- Ngươi nói đều đúng, nhưng sao ta có thể giết phụ thân của ta chứ? Rốt cuộc ngươi là ai, sao lại biết những chuyện này?

Phi Ưng cũng không trả lời câu hỏi của Lưu Nghi Tôn, nhìn qua bên Địch Thanh:

- Bây giờ tất cả mọi chuyện đều nói hết rồi. Tất cả mối họa đều là một mình Nguyên Hạo gây ra. Chỉ cần loại trừ Nguyên Hạo, mới có thể bảo vệ biên thùy an bình. Ngươi là Địch Thanh, ngươi cho rằng, chúng ta có nên giết Nguyên Hạo báo thù cho Quách đại ca không?

Địch Thanh chăm chú nhìn Phi Ưng nói:

- Đương nhiên là nên! Nếu dùng một mạng của ta đổi lấy mạng của Nguyên Hạo, ta không oán không hận!

Hắn không chú ý tới Đơn Đơn run rẩy như lá đung đưa trong gió, lại nói:

- Nhưng ta tới bây giờ vẫn không biết ngươi là ai, càng không hiểu tại sao ngươi muốn gánh vách gánh nặng này.

Phi Ưng lặng lẽ cười:

- Ta là ai quả thật quan trọng sao? Năm đó Quách đại ca cứu ta một mạng, ta nên trả cho huynh ấy! Lý do này không biết đã đủ không?

Địch Thanh thở dài:

- Đủ rồi... nhưng ngươi có dự tính gì không?

Có hay không có Phi Ưng, hắn cũng phải báo thù cho Quách Tuân. Lúc nghe được tin Quách Tuân chết, Địch Thanh nhất thời không có nghĩ tới Hương Ba Lạp nữa. Tràn đầy trong đầu hắn chỉ còn có một ý nghĩ làm sao có thể giết Nguyên Hạo.

Về phần thành bại hay không, hắn không bận tâm.

Phi Ưng chỉ một ngón tay nói:

- Mưu đồ của chúng ta, đều ở trên người này.

Địch Thanh nhìn qua, kinh ngạc nói:

- Tại sao?

Phi Ưng thở phào một cái nói:

- Ta biết Quách đại ca đã chết rồi, đang nghĩ làm thế nào đối phó Nguyên Hạo. Người này tên gọi Đơn Đơn, nhưng thân phận tuyệt không đơn giản...

Mỉm cười nhìn về phía Đơn Đơn, Phi Ưng nói:

- Đơn Đơn công chúa, nàng hy vọng ta nói hay là tự mình giới thiệu vậy?

Địch Thanh kinh ngạc, không biết thân phận của Đơn Đơn chính là công chúa, nàng là công chúa nước nào?

Đơn Đơn không run rẩy nữa, tiến lên trước một bước, nhìn Địch Thanh nói:

- Ta tên Đơn Đơn, họ Ngôi Danh, Ngôi Danh Đơn Đơn!

Địch Thanh hít vào một hơi, đã mơ hồ hiểu được cái gì, chưa kị nói gì, Đơn Đơn đã buồn bã:

- Nguyên Hạo vốn là đại ca ta, ta và huynh ấy là huynh muội ruột!

Địch Thanh ngơ ngẩn, hắn không ngờ rằng, Phi Ưng lại dám bắt muội muội của Nguyên Hạo. Càng không ngờ rằng, cô gái tinh quái này lại cùng ở Sất Sá tây bắc. Hắn đương nhiên cũng không ngờ, Nguyên Hạo giết Quách đại ca, còn hắn lại cứu muội muội của Nguyên Hạo.

Phi Ưng bên cạnh nói:

- Ta bắt cô ấy, không nghĩ cô ấy có thể thoát ra ngoài, cho nên ta lại bảo Thạch Đà đi bắt. May mắn là... ngươi dẫn cô ấy đến. Chẳng lẽ đây là ý trời, chủ ý của ông trời.

Y lạnh lùng nhìn Đơn Đơn nói:

- Ông trời cũng bảo chúng ta báo thù cho Quách đại ca, cho nên để cô chạy không thoát lòng bàn tay của ta.

Đơn Đơn ngược lại im lặng, thấp giọng nói với Địch Thanh:

- Nếu ông trời muốn ta chết, ta hy vọng có thể chết trong tay của ngài. Ngài cứu ta, lại giết ta, ta và ngài đời này không phải không nợ nhau nữa sao? Trong mắt nàng hiện lớp sương mù mông lung, lúc nhìn Địch Thanh, không cầu xin, không hận ý...

Trong mắt nàng tựa hồ cất dấu điều gì, nhưng tuyệt không phải sợ hãi.

Thạch Đà và Phi Tuyết sắc mặt đều hơi thay đổi, muốn nói lại thôi. Bọn họ dường như nghe ra điều gì từ trong lời nói của Đơn Đơn, nhưng không muốn nhiều lời.

Địch Thanh hiểu rõ từ đầu đến cuối câu chuyện, thầm nghĩ: “Thạch Đà xưng hùng sa mạc Mao Ô Tác, nhưng thấy Phi Ưng thần nhãn lợi hại, khí thế kinh người, hẳn là Phi Ưng dùng vũ lực khuất phục Thạch Đà. Nhưng Thạch Đà thầm bất mãn, là mối họa ngầm lớn. Phi Ưng làm chuyện không từ thủ đoạn, Quách đại ca sao có loại bạn này. Nhưng nếu Phi Ưng không phải bạn của Quách đại ca, sao muốn đối phó Nguyên Hạo chứ?”

Thấy ánh mắt thảm thiết của Đơn Đơn, Địch Thanh thật lâu sau mới quay đầu nhìn Phi Ưng nói:

- Chúng ta muốn giết chính là Nguyên Hạo, chuyện của Nguyên Hạo không liên quan với muội muội của y.

Đơn Đơn mi mắt ươn ướt. Nàng hoàn toàn không ngờ, Địch Thanh lại là người như vậy.

Trong danh trướng mọi người biểu hiện khác nhau. Phi Ưng tay đang vịn mấy chiếc bàn trà thấp, trên tay bỗng dưng nổi gân xanh.

Địch Thanh chỉ cảm thấy áp lực khó nói xông tới, vẫn bình tĩnh nói:

- Ta không biết ngươi vốn là ai. Nhưng ngươi là Phi Ưng, thì nên hét gào trên bầu trời xanh, chứ không phải học kềnh kềnh ăn thịt thối. Ta là Địch Thanh, cho nên ta cho rằng Ngôi Danh Đơn Đơn không nên chết. Nếu Quách đại ca trên trời có linh thiên, đại ca cũng không tán thành ngươi làm như vậy.

Phi Ưng cười lạnh nói:

- Nhưng ngươi biết điều đáng sợ của Nguyên Hạo không? Chúng ta tuy rất hận Nguyên Hạo, nhưng không thể không thừa nhận hùng tài vĩ lược của y. Người này thượng võ, xây dựng ngũ quân, tạo bát bộ, bản thân bản lĩnh khó lường, thuộc hạ là cao thủ như mây, phần nhiều là kỳ nhân dị sĩ, chí tại thiên hạ. Người như vậy, chúng ta tới gần cũng khó, đừng nói ám sát y.

Địch Thanh trả lời:

- Vây ngươi cho rằng người như vậy sẽ vì Ngôi Danh Đơn Đơn từ bỏ tính mạng của mình sao?

Phi Ưng bị kiềm hãm, phản bác:

- Ít nhất chúng ta có thể để y ném chuột sợ vỡ đồ.

Đơn Đơn cười nhạo nói:

- Thì ra tên ngươi là chim ưng, nhưng chỉ là con chuột khoác lác mà thôi.

Trong mắt Phi Ưng lóe lên chớp động, lại buông miệng nói:

- Ngươi dám nói thêm mấy câu... sau này, chỉ sợ không còn nói.

Đơn Đơn im lặng, trong lòng biết mình lưỡi hại thân, không nói điều gì tốt. Bọn họ muốn dùng mình uy hiếp đại ca Nguyên Hạo, tạm thời không giết mình, nhưng tra tấn không thể tránh được. Ở đây ngoại trừ Địch Thanh ra, chỉ sợ người xung quanh đều sẽ không đối xử tử tế với mình.

Phi Ưng thấy Đơn Đơn không nói, trong mắt lại lóe lên phần cổ quái, nói với Địch Thanh:

- Địch Thanh, cho dù ngươi không tán thành kế của ta. Nhưng bây giờ Ngôi Danh Đơn Đơn đã biết dụng ý của chúng ta, cũng tuyệt không thể để cho nàng ta đi.

Địch Thanh hỏi:

- Ngươi có mưu kế gì, chẳng lẽ bắt Ngôi Danh Đơn Đơn, thì có thể ép Nguyên Hạo vào khuôn khổ sao?

Phi Ưng đột nhiên thay đổi đề tài:

- Ngươi có biết bây giờ ai thế vị trí của Phạm Ung không? Trông coi quân Vĩnh Ưng?

Thấy Địch Thanh lắc đầu, Phi Ưng nói:

- Là Hạ Tủng?

Địch Thanh âm thầm t, thầm nghĩ Hạ Tủng cũng là một văn thần, tính chất so với Phạm Ung giống nhiều khác ít. Triều đình đây là đổi thang mà không đổi thuốc, chẳng lẽ Triệu Trinh còn không ý thức được nguy cơ của biên cương sao?

Phi Ưng châm chọc nói:

- Phạm Ung vô năng, hai người một chút ngoại binh cũng không biết. Hạ Tủng người này háo sắc hưởng lạc so với Phạm Ung mà nói hơn hẳn một chút. Việc đầu tiên y làm khi nhậm chức, ngươi biết chứ?

Địch Thanh lắc đầu, trong lòng càng kỳ quái. Thầm nghĩ tại sao Phi Ưng đối với triều đình quen thuộc như vậy. Hơn nữa còn mưu đồ chuyện lớn, sôi sục nhiệt tình.

Đây tuyệt không phải là chuyện mà một tên trộm sa mạc nghĩ tới.

Phi Ưng chậm rãi nói:

- Chuyện đầu tiên Hạ Tủng làm chính là phát ra bảng cáo thị, nói ai chém được đầu Nguyên Hạo, thưởng tiền năm trăm vạn quan.

Địch Thanh sau một hồi lâu mới nói:

- Cái đầu của Nguyên Hạo cũng đáng tiền.

Hắn thầm nghĩ có khi nào Phi Ưng muốn ám sát Nguyên Hạo là vì tiền thưởng không? Thấy Phi Ưng nhướn đôi mắt phấn chấn, Địch Thanh phủ nhận cách nghĩ của mình.

Phi Ưng nói:

- Địch Thanh, ngươi có biết phản ứng của Nguyên Hạo không?

Thấy Địch Thanh không nói, Phi Ưng cười ha hả nói:

- Nguyên Hạo phát một bảng cáo thị đáp lại, người có được đầu Hạ Tủng, tiền thưởng hai quan!

Địch Thanh không thể không khen ngợi nói:

- Nguyên Hạo là tài năng xuất thế. So sánh, ta ngược lại kém cỏi.

Hắn nghĩ, Nguyên Hạo chí tại thiên hạ, chỉ dựa vào hành động này, Hạ Tủng mãi xa không phải là đối thủ rồi. Mình ám sát Nguyên Hạo, so trí tuệ của Nguyên Hạo càng không địch lại. Nhưng chuyện đến nước này, lại không thể không ra tay.

Phi Ưng chậm rãi nói:

- Ngươi nói không sai. Nhưng Tam Xuyên Khẩu đại bại, tuyệt không chỉ mấy người. Muốn trách chỉ có thể trách triều đình tại sao để Phạm Ung lãnh quân. Ta muốn đi ám sát Nguyên Hạo, không phải trí tuệ không bằng, chỉ là sinh không gặp thời mà thôi.

Lúc y nói gấp bốn chữ “sinh không gặp thời”, lại thỏa thuê mãn nguyện

- Địch Thanh, ta ngươi nếu có thể nắm chắc tây bắc trong tay, dẫn quân đối kháng người Đảng Hạng, không cần thiết đánh lại Nguyên Hạo!

Địch Thanh nhìn Phi Ưng một hồi lâu:

- Ngươi có lẽ được, ta hơn nửa phần không được

Phi Ưng lắc đầu nói:

- Ngươi chớ kiêm tốn. Trước mắt Đại Tống không có Quách đại ca, người có thể chặn Nguyên Hạo chỉ có một người. Người đó chính là ngươi! Chỉ có điều đáng tiếc, ngươi chiến đấu hăng say hơn một năm, lập công không ít, không bị Nguyên Hạo kìm hãm, nhưng lại bị gia pháp tổ tông Đại Tống những thế hệ vô năng đó kiềm chế.

Địch Thanh im lặng không nói gì, nhưng trong lòng làm sao không cảm thấy được trước mắt không có sức lực, lại không có chỗ dựng võ?

Một tướng vô năng, giết chết ngàn quân. Nhưng triều đình vô năng, hắn dù có lòng vì nước, lại không có chỗ phát huy quyền cước.

Phi Ưng dường như cũng đang suy nghĩ cái gì, nhìn nhìn Phi Tuyết, cuối cùng cười nói:

- Lần này Nguyên Hạo đánh Hạ Tủng, thoạt chừng đã nuốt chửng Hạ Tủng rồi. Nhưng Nguyên Hạo rõ ràng cũng lộ ra nhược điểm.

Địch Thanh nhíu mày:

- Y có nhược điểm gì?

- Y đã kiêu, kiêu binh tất bại!

Phi Ưng tự tin nói.

- Y hoàn toàn không cho rằng vẫn có người dám ra tay với y, cho nên bây giờ là cơ hội chúng ta ra tay. Chỉ cần có thể đánh chết Nguyên Hạo, tây bắc có thể định, bách tính có thể an. Nếu Đại Tống tỉnh ngộ, thu dẹp chỗ cũ cũng là một trong hai ngày tới.

Địch Thanh nghe hào tình vạn trượng của Phi Ưng, cũng biết đã đánh trúng tâm tư của hắn. Nhưng hắn luôn cảm thấy có chút không an.

- Vậy trước mắt, chúng ta nên làm thế nào?

- Tới phủ Hưng Khánh, nhân lúc Nguyên Hạo xưng đế mà ra tay. Cho dù chuyện không thành, chúng ta có Ngôi Danh Đơn Đơn trong tay, cũng giữ được đường lui.

Phi Ưng thận trọng nói.

Ánh mắt Địch Thanh liếc qua Đơn Đơn, rồi nhìn Phi Ưng, lẩm bẩm nói:

- Phủ Hưng Khánh? Xem ra ta không đi không được rồi.

Phi Tuyết không nói, tựa hồ mọi người cũng nghĩ không liên quan đến mình. Nhưng đôi mắt trong suốt đột nhiên có chút gợn sóng, mang theo chút u sầu khó nói.

Bây giờ tây bắc Nguyên Hạo thế lực đã hùng mạnh, thấp thoáng có Khiết Đan, tư thế địa vị ngang bằng Đại Tống.

Địa bàn của Nguyên Hạo lúc này có các nước như bắc có Khiết Đan, đông có Đại Tống, tây có Cao Xương, Quy Tư, nam có Thổ Phiên, Đại Lý. Vì phủ Hưng Khánh tụ tập bách tính thiên hạ, lại chịu ảnh hưởng Đại Tống. Bố cục thành trì xây dựng giống như thành Trường An, Tống Biện Kinh. Chỗ này có Thái Bạch Cư, ở đây có rượu lúa mì. Chỉ cần Biện Kinh có, chỗ này lại cũng bắt chước mười phần.

Địch Thanh đang thầm nghĩ, thấy Phi Ưng hả hê mãn chí, tựa như đối với việc ám sát Nguyên Hạo có định liệu trước. Lúc y hẹn ta đợi ở đây, rốt cuộc là đã tính toán chuyện gì?

Địch Thanh, Phi Ưng định ra kế hoạch ám sát Nguyên Hạo. Địch Thanh và Phi Tuyết lo việc ở phủ Hưng Khánh. Phi Ưng phụ trách chuyện còn lại.

Về phần Đơn Đơn, cuối cùng vẫn nằm trong tay của Phi Ưng. Đơn Đơn ngay cả biểu lộ phản đối không cũng không có, nàng giống như đã nhận lệnh.

Phi Ưng cam đoan với Địch Thanh, không phải lúc bất đắc dĩ, sẽ không làm gì Đơn Đơn. Địch Thanh làm không được nhiều, chỉ hy vọng Phi Ưng thật có thể làm như lời đã nói.

Còn Địch Thanh tới phủ Hưng Khánh, bước tiếp theo làm thế nào, vẫn là một mảnh mờ mịt.

- Phi Ưng bảo ta ở đây đợi, nhưng... cuối cùng muốn dẫn ta đi đâu?

Địch Thanh nghi hoặc. Nếu không phải vì Phi Tuyết, hắn cũng không tới được sa mạc, càng sẽ không tới phủ Hưng Khánh. Đời người biển chuyển không theo chủ ý, có thể dấy lên sóng gió cuồn cuộn.

Phi Tuyết nói:

- Tới đó, ngài tự nhiên sẽ biết.

- Nhưng bây giờ ta không thể cùng cô tới phủ Hưng Khánh nữa.

Địch Thanh khó xử nói.

- Ta biết

- Hành động lần này của ta, kỳ thực ngay cả một chút nắm chắc thành công cũng không có. Nhưng ta nhất định phải ra tay.

Địch Thanh kiên định nói:

- Quách Tuân là đại ca ta, không cần thêm lý do khác, cái này thì đủ rồi.

- Ta biết.

- Ta rất có thể sẽ chết ở phủ Hưng Khánh.

Địch Thanh thần sắc lo lắng. Hắn đang nghĩ, nếu Vũ Thường biết chuyện của hắn, sẽ không phản đối.

- Ai rồi cũng phải chết, ta không quan tâm. Nhưng bất luận chuyện thành hay không thành, trong này hơn phân nửa sẽ loạn. Nếu cô có thể nói cho ta biết nơi phải đi. Chỉ cần ta không chết, ta bò cũng sẽ bò đi. Đời ta, nợ tình ba người. Một là cô, một là Quách đại ca...

Người thứ ba hắn nợ, đương nhiên là nợ Vũ Thường, nhưng hắn không cần nói ra. Chuyện này, hắn muốn dùng cả đời để trả.

Hai mắt tròng mắt Phi Tuyết nhìn Địch Thanh, không hỏi người thứ ba là ai:

- Ta chỉ có thể nói cho ngài biết, chỉ cần ngài không chết, ta sẽ tận lực dẫn ngài tới một nơi. Vì đây là chuyện chủ định trong tính mạng. Nhưng nếu ngài chết rồi, hà tất biết nhiều chuyện.

Ý của Phi Tuyết cũng rất rõ. Người chết như đèn tắt, không cần biết quá nhiều chuyện, rối loạn tâm ý.

Địch Thanh uống cạn một chén, không nói thêm.

Phi Tuyết ngược lại mở miệng nói tiếp:

- Ngài biết Phi Ưng là ai không?

- Ta không biết.

- Vậy ngài biết làm sao để xuống tay ám sát Nguyên Hạo không?

- Ta không biết.

Phi Tuyết châm chọc nói:

- Ngài cái gì cũng không biết, thế mà một mình tới phủ Hưng Khánh, nghe theo sự sắp đặt của Phi Ưng không?

Cô không nói tiếp, nhưng rõ ràng cảm thấy Địch Thanh quá lỗ mãng.

Địch Thanh đột nhiên cười:

- Ta chỉ biết, Phi Ưng và Nguyên Hạo là kẻ thù. Ta chỉ biết, cho dù không có Phi Ưng, ta cũng phải đi phủ Hưng Khánh. Ta chỉ biết, có khi, ta không có quá nhiều lựa chọn. Ta đương nhiên có thể không đi, nhưng sau này ta sẽ hối hận.

- Ngài chẳng khác nào đang đánh cuộc.

Địch Thanh nhìn bát rượu, rượu lúa mạch hơi vàng soi chiếu khuôn mặt hoàn toàn không giống, nhưng vẫn thấy phảng phất nét u buồn.

Tuổi tác có thể thay đổi dung mạo của một người, nhưng không thay đổi được bản tính của một người

- Cuộc đời không phải là đánh cuộc? Địch Thanh phiền muộn nói:

- Mỗi một lựa chọn của ta đều là đang đánh cuộc. Lựa chọn đúng thì đánh cuộc đúng, lựa chọn sai thì bồi thường ít đồ. Nhưng điều đáng buồn là, rất nhiều người không có lựa chọn nào khác.

Phi Tuyết ánh mắt tĩnh lặng lại gợn sóng, hồi lâu mới nói:

- Vậy ta chỉ có thể nói cho ngài biết mấy chuyện. Thứ nhất, tuy đều đánh cuộc, nhưng có người cả đời đều thắng, vì họ suy tính nhiều. Thứ hai, ta sẽ không đánh cuộc theo ngài.

- Còn thứ ba? Địch Thanh hỏi.

Phi Tuyết đứng lên, lạnh lùng nói:

- Điều thứ ba ta muốn nói cho ngài biết chính là Phi Ưng quả thật là kẻ thù của Nguyên Hạo. Nhưng kẻ thù của kẻ thù, chưa chắc là bạn của ngài. Cho nên lần này nếu ngài không chết, ta sẽ đến tìm ngài. Nhưng ngài vì Quách Tuân, ta không có lý do theo ngài đi chết.

Sau khi cô nói xong, xoay người bỏ đi, trong chốc lát, đã không thấy bóng dáng.

Địch Thanh lâm vào trầm tư, suy nghĩ dụng ý của Phi Tuyết, cũng suy nghĩ rốt cuộc Phi Ưng là người thế nào.

Đúng lúc này, tiếng bước chân vang lên, có mấy người đi lên tửu lầu, một người gọi:

- Hầu rượu, nhanh chuẩn bị rượu ngon...

Địch Thanh nghe giọng có chút quen tai, liếc xéo qua, giật mình, máu huyết xông lên, xém chút nữa bóp nát bát rượu.

Hắn không ngờ có thể gặp người quen ở đây. Hắn nhận ra người nói chuyện chính là Cao Đại Danh, vốn là thị vệ trong kinh. Còn người sau lưng y, mắt cao hơn trán, thần sắc kiêu căng, chính là Hạ Tùy con trai của Hạ Thủ Vân Đô bộ thự Duyên Châu.

Hạ Tùy sao có thể đến đây, hơn nữa không kiêng nể gì?

Hạ Tùy cũng không để ý Địch Thanh. Y hoàn toàn không ngờ Địch Thanh sẽ tới phủ Hưng Khánh. Nghe Cao Đại Danh hô lớn, Hạ Tùy chau mày nói:

- Đại Danh, nhỏ tiếng một chút, trong này là phủ Hưng Khánh...

Cao Đại Danh cười theo:

- Trong này tuy là phủ Hưng Khánh, nhưng Hạ đại ca không phải là còn oai phong hơn so với kinh thành à?

Mặt Hạ Tùy có chút màu, kéo cái ghế ngồi gần cửa sổ, đưa mắt nhìn ra con phố dài, trong mắt mang theo ý chờ đợi.

Để tránh phiền phức, lúc ra khoải nhà Địch Thanh không mang theo đao, hắn nhìn quanh quất, thấy bốn người Cao Đại Danh, Tống Thập Ngũ và Uông Minh bên cạnh Hạ Tùy, trong lòng cười lạnh. Mấy người Cao Đại Danh này năm đó đều là thề chết trung thành với Hạ Tùy, thậm chí từng định dẫn dụ Địch Thanh vào tròng. Lần này rõ ràng cùng Hạ Tùy đầu nhập dưới trướng Nguyên Hạo.

Hắn đã biết, cha con Hạ thị đầu phục Nguyên Hạo rồi!

Hắn cũng mơ hồ biết được, quân Tống thảm bại ở Tam Xuyên Khẩu, chính là cha con này ban cho!

Trong lòng Địch Thanh sát khí nổi lên, nhưng vẫn có thể giữ cho tỉnh táo. Mục tiêu của hắn chính là Nguyên Hạo, làm thế nào giết Hạ Tùy mà không rút dây động rừng là chuyện hắn cần phải suy xét tới.

Trong lúc Địch Thanh đang suy tư, Tống Thập Ngũ đã nịnh nọt nói:

- Hạ đại ca, lần này lệnh tôn và đại ca đều lập công lớn. Nhưng Nguyên soái tuy trọng thưởng lệnh tôn, nhưng chỉ cho Hạ đại ca một chức Chỉ huy sứ, có phần quá xem thường không?

Địch Thanh trong lòng thầm hận, tại sao Nguyên Hạo phải trọng thưởng Hạ Thủ Vân? Còn không phải vì năm đó nội gian lớn nhất Diên Biên chính là Hạ Thủ Vân!

Duyên Châu thảm bại, Quách Tuân đã chết, hơn mười ngàn oan hồn quân Tống đều là do Hạ Thủ Vân bố trí!

Địch Thanh đã chuẩn bị động thủ, đột nhiên nghe Uông Minh nói:

- Trò hay còn ở phía sau. Lần này Dã Lợi Vương muốn Hạ đại ca tới đây chờ, nói không chừng muốn đề bạt Hạ đại ca đấy.

Hạ Tùy quát lên:

- Đừng nói lung tung, nếu bị Dã Lợi Vương nghe thấy, sẽ không tốt.

Y tuy là trách cứ, nhưng trên mặt tràn đầy đắc ý, rõ ràng tin tức này không giả.

Địch Thanh rùng mình, biết Dã Đại Vương chính là Dã Lợi Vượng Vinh một trong chín vương Long Bộ, là trọng thần dưới tay Nguyên Hạo. Y muốn gặp Hạ Tùy? Tại sao y chọn gặp Hạ Tùy ở Thái Bạch Cư?

Địch Thanh kìm nén kích động, vì nghe thấy đầu bậc thang có tiếng bước chân truyền lại. Theo sau đó một người xuất hiện trên lầu. Hạ Tùy quay đầu trông thấy, cuống quít đứng lên nghênh đón:

- Hóa ra là Giám Quân Sử đại nhân, không biết... Vương gia khi nào sẽ tới?

Địch Thanh thấy người đó thân hình nhanh nhẹn dũng mãnh, hai tròng mắt khác hẳn, âm thầm suy nghĩ thân phận của người này. Hắn biết để thuận tiện cho quản lý và điều khiển ngũ quân, giống như thiết đặt quân Mái Hiên của Đại Tống, Nguyên Hạo lấy Hoàng Hà làm giới, chia toàn cảnh là hai bên chái nhà...

Lần này Dã Lợi Vượng Vinh dẫn theo bộ hạ trở về, hơn phân nữa là vì Nguyên Hạo sắp xưng đế, cho nên về thành đô hiệp lại phòng ngự?

Lúc Địch Thanh đang suy nghĩ, Giám Quân Sử đã nói:

- Vương gia đột nhiên bị phong hàn, không thể tới.

Hạ Tùy tràn đầy thất vọng, nhưng vẫn giả bộ ân cần:

- Vậy ty chức... muốn đi thăm Vương gia.

Y và phụ thân Hà Thủ Vân năm đó là thân tín của Thái hậu. Sau đó chuyện biến cung thất bại, tuy Thánh Thượng nói không truy cứu nữa, nhưng cha con Hạ gia bị Minh Thăng Âm hãm hại đưa tới biên thùy. Hạ Thủ Vân đa mưu túc trí, năm đó biết Thiên tử đang tính sổ, trong lòng thấp thỏm, chỉ sợ có một ngày Triệu Trinh sẽ phản bội. Cha con Hạ gia lòng dạ hung ác, lúc này đầu phục Nguyên Hạo. Năm đó bọn họ hô mưa gọi gió ở kinh thành, nhưng bây giờ đối với một Giám Quân Sử, vẫn không dám chậm trễ.

Giám Quân Sử nói:

- Không cần, nhưng Vương gia đã tiến cử ngươi vào Cảnh Vệ quân. Mấy ngày nay điều lệnh sẽ hạ xuống, ngươi chuẩn bị cho tốt đi.

Hạ Tùy mừng rỡ nói:

- Đa tạ Vương gia đề bạt, đa tạ Giám Quân Sử đại nhân. Y biết Cảnh Vệ quân chính là sáu trực ban trong Ngự Vi trong kinh, là một trong ngũ quân. Sáu trực ban trong Ngự Vi giống như trực ban Đại Tống, phải là thân tín của Nguyên Hạo mới có thể vào trong đảm nhiệm. Đãi ngộ tốt, địa vị cao, vẫn đều do người Đảng Hạng đảm nhiệm, không ngờ mình cũng có thể có chỗ đứng ở đó

Giám Quân Sử cười ha hả nói:

- Không cần khách khí, nhưng tới lúc đó... ngươi phải tạ ơn Vương gia.

Hạ Tùy liên miệng vâng dạ. Giám Quân Sứ khách sáo mấy câu với Hạ Tùy, rồi cáo từ xuống lầu.

Hạ Tùy cung kính tiễn người đó xuống lầu, sau đó quay lưng trở lại, trên mặt khó nén được vui mừng, Cao Đại Danh nói:

- Hạ đại ca, lần này đại ca phát đạt rồi, tới lúc đó... đừng quên đề bạt các huynh đệ.

Hạ Tùy cười không ngậm miệng được:

- Nhất định, nhất định.

Mấy người lúc này mới chịu ngồi xuống, lại nghe sau lưng tiếng bước chân vang lên, đều quay đầu lại thấy một người đàn ông đội nón tre đi tới. Hạ Tùy thấy người đó không phải là Giám Quân Sứ, cũng không để ý, mới bảo người hầu rượu mang thức ăn lên. Không ngờ người đàn ông đó lập tức tới trước người của đám người Hạ Tùy.

Hạ Tùy cảm thấy đối phương ý đồ không tốt, bỗng nhiên đứng lên quát:

- Ngươi làm gì?

Người đàn ông đó hé mở khuôn mặt che dưới nón rộng vành, chỉ lộ ra một nụ cười khẩy. Nụ cười ác nghiệt đó giống như chim diều ngạo nghễ, gã nói:

- Ngài là Hạ Tùy đại nhân phải không?

Địch Thanh nhìn thấy nụ cười lạnh của người đó, đã nhận ra đó là ai. Hắn không khỏi kinh hoàng, người này tại sao muốn tìm Hạ Tùy?

Hạ Tùy hơi ngạc nhiên nói:

- Ta là Hạ Tùy, ngươi là ai?

Người đàn ông đó thấp giọng nói:

- “Tu di thiện kiến trường sinh địa..."

Địch Thanh chấn động, Hạ Tùy cả kinh, Cao Đại Danh cũng thất thanh:

- Sao ngươi biết khẩu lệnh này...

Sau đó im lặng, khuôn mặt kinh ngạc nghi ngờ bất định.

Địch Thanh nghe nửa lời nói của Cao Đại Danh, trong đầu chợt lóe lên tia điện, trong nháy mắt đã hiểu rõ nhiều chuyện

Tu di thiện kiến trường sinh địa, ngũ suy lục dục thiên ngoại thiên

Địch Thanh cũng không biết ý tứ của câu nói này. Năm đó Đinh Chỉ huy chính là vì ép hỏi Tiền Ngộ Bản chuyện này mới bị giết. Sau đó Địch Thanh cải trang thành Quỷ Bản muốn tìm ra đáp án, nhưng bị Hạ Thủ Vân làm gián đoạn. Sau này Địch Thanh tuy vẫn còn nghi ngờ, nhưng bận bôn ba chinh chiến nên không rảnh truy cứu nữa. Bây giờ nghe Cao Đại Danh vừa nói, Địch Thanh đã rõ, đây chính là ám hiệu bọn Hạ Tùy dùng để liên lạc.

Diên Biên rất nhiều người đều bị người Đảng Hạng thu mua, Tiền Ngộ Bản cũng là một trong số đó.

Đinh chỉ huy chính là vì phát hiện chuyện Tiền Ngộ Bản cấu kết người Đảng Hạng mà bị giết. Còn Hạ Tùy giết người diệt khẩu, đương nhiên cũng chính là muốn che dấu chuyện Hạ gia cấu kết Nguyên Hạo.

Địch Thanh trong lòng thầm hận, hận mình đoán ra chuyện này quá muộn.

Hạ Tùy mặt cũng tràn đầy nghi ngờ, chậm rãi nói:

- Các hạ là ai?

Y nghe đối phương nói liếng lóng Diên Biên của mình, bụng đầy nghi ngờ, cho rằng đây cũng là người mà năm đó y liên lạc.

Người đàn ông đó kéo cái nón tre trên đầu xuống, cười:

- Ta là... Địch Thanh!

Hai từ này giống như tia sét đánh vào đầu óc Hạ Tùy. Hạ Tùy kinh ngạc thất thố, không khỏi lùi lại một bước. Cao Đại Danh phản ứng trước nhất, tiếng “loang choang” vang lên, rút ra đơn đao, quát:

- Ngươi dám tới...

Đơn đao vừa rút ra, máu tươi lóe lên.

Cao Đại Danh còn chưa nói xong, tay che cổ họng, đã ngã ngửa xuống sàn gác. Cổ họng y máu thịt lẫn lộn, tan nát không còn hình dạng, giống như bị mỏ chim ưng mổ vào.

Trên tửu lầu ồ lên một trận, những người khách uống rượu thấy xảy ra án mạng, lần lượt xuống lầu bỏ chạy. Địch Thanh tuy rất giật mình, nhưng vẫn trấn tĩnh. Lúc người khác bàng hoàng thất thố, hắn đã nhận ra tay áo người đàn ông đó đột nhiên rút ra một vật giống như thiết can, đầu nhọn hoắt, giống như mỏ chim ưng, như tia chớp mổ lên cổ họng của Cao Đại Danh.

Cao Đại Danh chết, Hạ Tùy cực kỳ sợ hãi, thả người lui lại phía sau, gọi:

- Ngươi không phải...

Năm đó y nhận ra Địch Thanh, biết người này không phải Địch Thanh, nhưng y tại sao muốn mạo tên Địch Thanh giết mình, Hạ Tùy nghĩ mãi không rõ.

Dù sao Hạ Tùy thân thủ không kém, hết sức lùi lại phía sau, rút đao ra khỏi vỏ. Nhưng đơn đao Hạ Tùy mới rút ra một nữa, thì cảm thấy lồng ngực đau buốt, khí lực toàn thân đột nhiên bị rút ra ngoài.

Địch Thanh thấy lưỡi đao mỏ chim ưng của người đó sắc bén đâm xuyên qua ngực, cũng khiếp sợ sự ra tay tàn nhẫn nhanh lẹ của người đó.

Nhìn thấy ngực mình máu chảy như suối, trong mắt Hạ Tùy tràn ngập vẻ khủng hoảng, y khàn giọng nói:

- Ngươi... tại sao..

Nhưng máu chảy rất nhanh, Hạ Tùy trước mắt biến thành màu đen, lay động mấy cái, té nhào xuống đất. Trước lúc chết, y đột nhiên trong thấy một đôi mắt, trong đôi mắt đó mang sự mỉa mai, chán ghét và oán hận. Y đột nhiên nhận ra, đó là ánh mắt của Địch Thanh.

Giết y không phải là Địch Thanh, nhưng Địch Thanh ở bên cạnh y. Hạ Tùy suy nghĩ hỗn loạn, không hiểu nguyên do, cuối cùng lăn ngã xuống đất, không còn hơi thở nữa.

Ba người Tống Ngũ Thập cũng ngã xuống. Người đàn ông đó chỉ dùng vũ khí trong tay áo mổ ngực hơn ba người, sắc bén như điện. Lúc năm người Tống Ngũ Thập mất mạng, người đó vỗ vỗ tay, trên tay sạch sẽ, không có nửa vết máu.

Khách uống rượu nhát gan đã bị dọa sợ đến mức đái cả quần. Người đàn ông đó sau khi giết người không vội bỏ đi, giơ tay xé vạt áo của Hạ Tùy làm bút, dùng máu tươi trên ngực của Hạ Tùy làm mực. Trên vách tường trắng tuyết, y viết mấy chữ lớn như rồng bay phượng múa.

- Phản bội người Tống, chết! Kẻ giết người: Địch Thanh!

Địch Thanh nhìn thấy thế không có kinh hãi, chỉ là nhíu mày. Người khác mạo dùng tên của hắn giết người, hắn cũng không hỏi. Sau khi người khác giết người để lại tên của hắn, hình như hắn cũng không phản đối.

Kẻ giết người đó để lại vết tích, ánh mắt liếc hữu ý vô ý liếc nhìn Địch Thanh, đột nhiên dúm môi lại thành cái còi thổi, âm thanh thê lương. Chỉ nghe dưới lầu có vó ngựa vang lên. Địch Thanh ló đầu nhìn qua, thấy một con ngựa khỏe mạnh chạy ra. Người đó đột nhiên nhảy lên, giống như con diều hâu từ trên tửu lầu bay ra, dừng lại trên lưng ngựa. Con ngựa chạy nhanh, trong nháy mắt đã đi xa.

Lúc này, tửu lầu đại loạn, tiếng chiêng nổi lên bốn phía, mới có binh lính xa xa chạy lại.

 Chương 248 - 252: Nguyên Hạo

Lúc Địch Thanh trở về nhà trọ với dáng vẻ chuyện không liên quan đến mình. Ai cũng nhìn thấy sát thủ đã đi rồi, binh lính vội tới chỉ là theo thường lệ mà hỏi một chút, rồi thả cho một nhóm khách rời đi.

Ai cũng cho rằng Địch Thanh đã đi rồi, ai cũng không biết Địch Thanh đang ở bên cạnh bọn họ.

Địch Thanh giết Hạ Tùy, tin tức này đã lan truyền ở phủ Hưng Khánh. Có người phấn chấn, có người hoảng sợ, có người nghiến răng nghiến lợi muốn tìm Địch Thanh so cao thấp, cũng có người lo lắng đề phòng Địch Thanh đến tính sổ.

Phản bội Đại Tống đương nhiên không chỉ một mình Hạ Tùy. Ai cũng không biết Địch Thanh sau khi giết Hạ Tùy, tiếp theo liệu sẽ ra tay lần nữa không?

Phủ Hưng Khánh vì cái tên của Địch Thanh, đã tạo nên sóng gió. Nhưng người có liên quan Địch Thanh, còn có chút mơ hồ. Hắn tuy không phải hung thủ giết người, nhưng hắn biết hung thủ là ai.

Giết người không phải là Địch Thanh, mà là Phi Ưng!

Phi Ưng quả nhiên có tài năng kiêu ngạo, dựa vào mình y nhanh như tia chớp giết chết năm người Hạ Tùy. Địch Thanh biết, ba Thạch Đà hiệp lại, cũng không phải là đối thủ của Phi Ưng.

Người như vậy, giết người ngang dọc, thu phục Thạch Đà, quen Địch Thanh hắn, còn lập chí báo thù cho Quách Tuân. Rốt cuộc y là ai? Địch Thanh nghĩ vỡ đầu cũng không nghĩ ra.

Nhưng càng làm Địch Thanh đau đầu là, Phi Ưng lại muốn liên thủ với hắn ám sát Nguyên Hạo. Tại sao phải gióng trống khua chiêng đánh chết Hạ Tùy? Kể từ đó phủ Hưng Khánh đã đề phòng cẩn trọng, hắn muốn vào cung ám sát Nguyên Hạo càng không dễ!

Làm Địch Thanh không hiểu là, Phi Ưng thân thủ như vậy, còn đạt tiêu chuẩn hơn cả sát thủ. Nếu y hiên ngang lẫm liệt báo thù cho Quách Tuân, tại sao không đích thân đi ám sát Nguyên Hạo. Lại nhớ tới Phi Tuyết nói “kẻ thù của kẻ thù, chưa chắc là bạn của huynh” Địch Thanh chỉ cảm thấy sự việc không đơn giản như tưởng tượng.

Địch Thanh trở về khách điếm thấy mọi người đều đang bàn bạc vụ án tàn bạo ở tửu lầu, nói đến mức nước miếng văng ra, giống như tận mắt thấy. Địch Thanh lười nghe, đợi sau khi trở về phòng, thấy căn phòng cách vách đã đổi người rồi, biết Phi Tuyết đã đi, không khỏi buồn bã một hồi.

Người con gái giống như tuyết đó, thật giống như tuyết bay, bồng bềnh thấp thoáng, làm người ta khó hiểu dụng ý sau sự giá lạnh.

Địch Thanh ngủ ở khách điếm một ngày, không có ra ngoài.

Đợi tới buổi tối ngày thứ hai Địch Thanh ra phòng khách đi tìm chút đồ ăn, thì nghe thấy bên ngoài tòa viện ồn ào huyên náo, có tiểu nhị nói:

- Quan gia, bên này mời.

Địch Thanh nghe thấy tiếng bước chân vang lên lại đi về hướng chỗ mình, trong lòng hơi rét.

Tiếng bước chân đó dừng trước cửa Địch Thanh, tiểu nhị đó nói:

- Quan gia, vị khách quan ngài muốn tìm chính là ở chỗ này.

Ngay sau đó có người gõ cửa:

- Hoắc Thập Tam có đây không?

Giọng nói đó bình thản, không thấy nửa phần địch ý. Địch Thanh tới phủ Hưng Khánh, đương nhiên sẽ không giống như Phi Ưng nghênh ngang lấy tên người khác dính máu viết lên tường. Nhưng hắn viết tên ở khách điếm cũng không phải tên của mình, hắn đăng ký tên là Hoắc Thập Tam.

Địch Thanh mở cửa phòng, thì thấy trước của đang đứng một người cao vừa vặn bằng khung cửa. Giống như khách điếm lúc mới xây dựng, y và khung cửa dính vào chỗ đó.

Thấy Địch Thanh mở cửa, người đó đột nhiên hỏi:

- Hôm qua lão vương gia chết một con chó.

Tiểu nhị thấy hai người giống như là quen biết, thức thời lùi lại. Tiểu nhị ở phủ Hưng Khánh lâu, đương nhiên biết vị quan gia này là người của lục ban trực trong Ngự Vi. Những người này xưa giờ chỉ thưởng cái tát tay, không thưởng tiền.

Lúc lui lại, tiểu nhị còn rất lấy làm lạ. Chó lão Vương gia chết rồi, lại là chuyện gì lớn nổi gì, phải người của ban trực nội phủ tới thông báo Hoắc Thập Tam biết?

Địch Thanh hỏi:

- Chó lão Vương gia chết rồi, chuyện liên quan gì ta?

Quân quan đó nói:

- Chuyện không liên quan ngươi, vậy chuyện liên quan ai?

Địch Thanh nói:

- Có lẽ ngươi nên đi hỏi thử con chó cái của lão Trương gia.

Nếu tiểu nhị đó nghe được đối thoại của hai người, chỉ sợ phải điên mất. Quân quan đó không có điên, giơ tay sờ vào ngực lấy ra nửa miếng tiền đồng đưa qua. Địch Thanh lấy ra môt nửa khác đối xuống, tiền đồng hợp thành một mảnh tròn hoàn chỉnh, vì đây vốn là một miếng tiền đồng tách ra.

Trong mắt quân quan đó lộ ra phần thư thái, thấp giọng nói:

- Đi theo ta.

Y xoay người liền đi. Địch Thanh chau mày, cuối cùng đi theo. Đối thoại của hai người vừa rồi không phải vô nghĩa, là ám hiệu Phi Ưng muốn liên lạc với Địch Thanh. Còn nửa miếng tiền đồng đó, cũng là bằng chứng liên lạc của bọn họ.

Địch Thanh nghĩ tới trăm ngàn người đến tìm hắn. Nhưng nằm mơ cũng không ngờ, người đến tìm hắn lại là Lục ban trực trong Ngự Vi.

Rốt cuộc Phi Ưng có thủ đoạn gì, lại có thể sai khiến những người này chứ? Hay đây hoàn toàn là cái bẫy, Phi Ưng muốn lợi dụng những người này loại trừ Địch Thanh?

Địch Thanh không có đường rút lui, hắn theo quân quan đó ra khách điếm. Ngoài khách điếm sớm đã có hai con ngựa, Địch Thanh và quân quan đó lên ngựa, chạy về thành nam. Hai người tới ngoài thành, quân quan đó không nói, Địch Thanh cũng giữ im lặng. Hai người càng đi càng xa, dần dần đến một ngọn đồi cao, trong đó bụi gai trải rộng, vạn cây rậm rạp.

Mùa thu phía bắc tường thành, luôn sớm hơn một chút so với Giang Nam.

Địch Thanh âm thầm đề phòng, khó hiểu người đó tại sao dẫn mình tới chỗ này. Chẳng lẽ Phi Ưng muốn ở đây đợi hắn? Quân quan đó lên đồi, tới trong rừng rậm. Lúc này Địch Thanh phát hiện quả nhiên có một người đang đợi, nhưng người đó tuyệt không phải là Phi Ưng.

Người đó mặt đầy râu quai nón, thần sắc chất phác, trong mắt còn ẩn chứa bi thương lạnh lẽo hơn đêm mùa thu. Sau khi nhìn thấy Địch Thanh đến, toàn thân lại kịch liệt run lên. Bên cạnh y còn có cái hố, chôn một người không thành vấn đề. Địch Thanh không hiểu người này nhìn thấy mình sao lại sợ hãi. Quân quan đó tại sao dẫn mình gặp người này?

Quân quan đó nói:

- Y tên Thượng La Đa Đa, người của Lục ban trực trong Ngự Vi. Lục ban trực trong Ngự Vi phân ba ban Túc vệ, phụ trách an toàn trong cung. Thượng La Đa Đa là tổ hổ, chức vụ lúc này là Tán đô đầu, mỗi tháng lãnh hai thạch gạo, năm lương bạc.

Địch Thanh xém chút nữa hỏi chuyện này liên quan gì ta? Nhưng thấy ánh mắt như tro tàn của Thượng La Đa Đa, lại không nói ra.

Quân quan đó lại nói:

- Ba ban phân ba tổ hổ, báo, gấu. Ban lãnh đạo tổ hổ là Mao Nô Lang Sinh, cũng chính là lãnh đạo trực tiếp của Thượng La Đa Đa.

Địch Thanh nhíu mày, vẫn có thể nhịn được, không hỏi. Quân quan đó đối với sự im lặng của Địch Thanh ngược lại có chút tán thưởng, nói với Thượng La Đa Đa:

- Ngươi có gì nói không?

Thương La Đa Đa lại cởi bỏ y phục, gấp lại đưa cho Địch Thanh nói:

- Đây là y phục của ta. Rồi cởi giày đưa cho Địch Thanh:

- Đây là giày của ta, người mặc chắc vừa.

Địch Thanh nhận lấy y phục và giày mà lòng tràn đầy hoang mang.

Thượng La Đa Đai lại tháo đao đưa tới:

- Đây là đao của ta, lúc ta đi đường, vai trái thấp, vai phải cao. Ta thích nhất ăn thịt dê hấp, không uống rượu, bình thường trầm mặc ít nói. Người thân đều chết rồi, ta không có nữ nhân. Tính cách keo kiệt, tiêu tiền tiết kiệm, ít nói chuyện.

Khóe miệng lộ ra nụ cười thê lương:

- Kỳ thực những cái này ta đều viết ra rồi, ngươi có thể xem bức thư này.

Y đưa một bức thư cho Địch Thanh.

Địch Thanh cảnh giác trong lòng, chậm rãi nhận thư, nhưng không mở ra. Càng không hiểu Thượng La Đa Đa tại sao muốn nói những cái này.

Thượng La Đa Đa ánh mắt nhìn về mây trắng phương xa, đột nhiên nói câu:

- Vào thu rồi, lạnh đấy. Cổ tay y vừa lật, đã sáng lên đoạn đao lóng lánh, cố sức vung qua.

Trong mắt Địch Thanh lộ vẻ kinh ngạc, nhưng không có biểu hiện ra. Vì đoạn đao đó không có đâm về phía hắn.

- Khì.

Sau một tiếng cười giễu cợt, đoạn đao đâm vào ngực. Nhát dao ngắn này của Thượng La Đa Đa, lại đâm vào ngực của chính mình.

Địch Thanh khiếp sợ vô cùng. Quân quan đó vẫn rất bình tĩnh, tựa hồ tất cả đều trong dự liệu, nói với Thượng La Đa Đa:

- Ngươi yên tâm đi!

Thượng La Đa Đa ngã xuống mềm nhũn, rơi vào cái hố tự mình đào, co giật, không còn động đậy nữa. Nhưng hai tròng mắt vẫn mở to, gắt gao nhìn lên bầu trời xanh.

Gió lạnh nổi lên, se se một mùa thu vàng lục.

Địch Thanh chỉ cảm thấy cả người rét run, quay đầu nhìn về quân quan đó, khàn giọng nói:

- Tại sao?

Trong mắt quân quan đó lóe lên phần bi ai, nói:

- Vì y rất giống ngươi..

Địch Thanh không rõ mình giống Thượng La Đa Đa ở chỗ nào. Nhìn thấy y phục, đao đeo và giày, rồi nhìn cái hố, cuối cùng hiểu được:

- Các ngươi muốn ta đóng giả y?

Quân quan gật đầu, từng chữ nói:

- Không sai, từ giờ trở đi, ngươi chính là Thượng La Đa Đa.

Trời thu mát mẻ như nước. Địch Thanh vào cung đảm nhiệm thị vệ đã hơn một tháng, không ai nhận ra sơ hở của Địch Thanh.

Thượng La Đa Đa vốn không nói nhiều. Dáng người giống như Địch Thanh, duy nhất không giống là Thượng La Đa Đa râu quai nón đầy mặt, còn Địch Thanh dung nhan tuấn lãng. Nhưng đây không phải là vấn đề, quân quan đó dẫn Địch Thanh vào cung đã cạo râu của Thượng La Đa Đa, dán từng sợi lên mặt Địch Thanh.

Địch Thanh thoắt một cái trở thành Thượng La Đa Đa trầm lặng ít nói.

Đây vốn là một hành động của kế hoạch tỉ mỉ, mỗi một bước đi, đều có sắp xếp chặt chẽ. Vì để Địch Thanh đột nhập vào cung ám sát Nguyên Hạo, không ngờ Phi Ưng có thể bảo Thượng La Đa Đa cam tâm chịu chết. Cũng có thể bảo thị vệ trong cung mạo hiểm mất đầu dẫn Địch Thanh vào cung.

Phi Ưng này, rốt cuộc lai lịch gì? Sao có bản lãnh như vậy?

Địch Thanh vẫn chưa có gặp Nguyên Hạo.

Đây là phủ Hưng Khánh, trong đây chính là hoàng cung của Nguyên Hạo. Nhưng Nguyên Hạo hình như rất ít tới chỗ này.

Địch Thanh cũng không vội. Hắn biết Nguyên Hạo tháng 10 sẽ đăng đàn xưng đế ở phía nam phủ Hưng Khánh. Nguyên Hạo luôn muốn cùng quần thần bàn chuyện ở điện Thiên Hòa. Lúc đó, có lẽ cũng là lúc hắn ra tay.

Từ sau khi Phi Ưng đưa Địch Thanh vào cung, không có hành động thêm bước gì. Có phải cũng đang đợi tiến hành hành động ám sát hôm đó không?

Địch Thanh vào cung hơn tháng, đã biết quân quan dẫn hắn vào cung tên Lãng Mai, vốn là một đội trưởng của tổ báo. Mao Nộ Lang Sinh của tổ hổ tính cách tàn nhẫn, lấy việc hành hạ con người làm thú vui. Cũng may Mao Nộ Lang Sinh hình như không có hứng thú gì với Địch Thanh. Hơn tháng nay, trong cung sóng im gió lặng.

Nhưng ngoài cung không có bình yên, nên nói là ngoài phủ Hưng Khánh không hề gió im sóng lặng. Sau khi Phi Ưng giết Hạ Tùy, ra khỏi phủ Hưng Khánh về hướng tây, dọc đường gây nên vô số sóng gió. Đương nhiên, những chuyện này đều đổ lên đầu Địch Thanh.

Địch Thanh còn không phải rất rõ ý của Phi Ưng. Nhưng rất nhẫn nhịn, đợi chờ tặng một đòn trí mạng cho Nguyên Hạo.

Chỉ cần giết Nguyên Hạo rồi, Địch Thanh chờ chết cũng được, chớ đừng nói những ngày này.

Hôm nay Địch Thanh sửa sang lại trang phục, chuẩn bị vào cung làm nhiệm vụ.

Lẻ loi đi trên con đường lớn đá xanh. Lúc này mùa thu mát lạnh, mây mênh mông, đột nhiên hắn nhớ tới những phong cảnh của Tắc Hạ, càng nhớ huynh đệ Tắc Hạ, lúc này thế nào?

Nguyên Hạo từ sau cuộc chiến Tam Xuyên Khẩu mượn chiến thắng ra oai, tích cực chuẩn bị để xưng vương. Bên phía nhà Tống không biết nên ứng phó thế nào?

Đang lúc trầm tư, Địch Thanh đã tới trước cửa cung. Các binh lính kiểm tra qua thẻ bài, cho Địch Thanh vào cung. Trước khi Nguyên Hạo xưng đế, tuy nói phát triển Phiên học, xây ngũ quân, tạo bát bộ. Nhưng lễ nghĩa trong cung và Đại Tống giống nhiều khác ít. Địch Thanh ở lâu trong cung ứng phó thành thạo.

Hôm nay nhiệm vụ của Địch Thanh đảm nhiệm là phụ trách tuần tra xung quanh Đan Phượng Các. Cùng đội với Địch Thanh còn có ba người, lần lượt tên Thượng Khất, Ca Cổ và Xương Lý. Thượng Khất là đội trưởng của bốn người.

Lục ban trực trong Ngự Vi phân ba tổ hổ, báo, gấu. Mỗi tổ lại phân hai mươi bốn đội. Mỗi đội lại có bốn người, tám người không bằng nhau, lần lượt tuần tra các nơi trọng yếu trong cung.

Đan Phượng Các vốn là chỗ của công chúa Đan Đan.

Sau khi Địch Thanh biết những tin tức này, không kìm được thở dài. Hắn biết công chúa Đan Đan nhất định không ở Đan Phượng Các. Nói như vậy canh giữ Đan Phượng Các, cũng chỉ là chuyện làm theo thông lệ.

Địch Thanh ở trong cung đã hơn tháng, nhưng chỉ có một lần đến cơ hội tới điện Nhân Hòa tuần tra. Trong đây vốn là chỗ quần thần nghị sự, Nguyên Hạo có lúc đi. Lễ nghi trong cung Nguyên Hạo tuy mô phỏng Biện Kinh, nhưng chỗ canh gác nghiêm mật hơn hẳn Biện Kinh. Địch Thanh tận mắt nhìn thấy qua, có một binh vệ vì xuất cung trễ một chút, đã bị chém đầu ngoài cửa cung.

Trong cung hộ vệ thay phiên canh gác nghiêm mật, như hoạt động theo kỳ, không chút rối loạn. Nếu Địch Thanh không phải dùng cách biến thành Thượng La Đa Đa, tuyệt không thể lẻn vào cung, chớ đừng nói ám sát Nguyên Hạo.

Từ phòng trực tới Đan Phượng Các, ở giữa phải qua điện Nhân Hòa. Lúc Địch Thanh qua điện Nhân Hòa, thấy một nhóm đại thần nhỏ tiếng thảo luận cái gì. Trong đó có một người giống như thư sinh đang đứng trước điện, ngẩng đầu nhìn lên trời, thần sắc phóng khoáng. Địch Thanh thấy thư sinh đó có chút môn đạo, sợ lộ ra sơ hở, không dám nhìn nhiều, nghe thấy sau lưng có tiếng bước chân đi tới, liếc mắt, chợt nghĩ ngợi.

Nguời phía sau đó đầu tóc bạc trắng, thần sắc uy nghiêm. Chính là Hạ Thủ Vân!

Địch Thanh kiềm chế kích động, không dừng bước đi tránh phần đường của Hạ Thủ Vân. Địch Thanh chỉ thấy được Hạ Thủ Vân vội vàng đi tới trước điện, hướng về thư sinh đó trước điện hành lễ:

- Trung thư lệnh đại nhân, hạ quan đến trễ, xin thứ tội.

Địch Thanh trong lòng hơi rét, ngầm hiểu thì ra thư sinh đó chính là Trung thư lệnh Trương Nguyên.

Hắn biết Trung thư lệnh của Đại Tống chỉ là vinh quang, không có quyền thực. Ví dụ nói Bác vương gia chính là Trung thư lệnh của triều Tống, nhưng không có quyền lợi gì. Nguyên Hạo xây dựng quan chế, không nặng phù hoa, Trung thư lệnh dưới tay lại là người cực kỳ quan trọng. Nguyên Hạo tuy đều dùng người Phiên, Hán, nhưng do người Đảng Hạng nắm giữ quân quyền. Trương Nguyên là người Hán, lại có thể chức cao quyền trọng, không thể không nói là khác thường.

Địch Thanh không tiện xem nhiều, tùy tiện đi ra xa, vẫn còn nghe Trương Nguyên cười nói:

- Cơm ngon không sợ muộn. Trận chiến Tam Xuyên Khẩu nhờ vào diệu kế của Hạ đại nhân, Ngột Tốt (tự xưng của Nguyên Hạo ở nước Tây Hạ, tiếng Hán có nghĩa là Thanh Thiên Tư) sẽ về, trước mắt phải nhờ Hạ đại nhân bày kế rồi.

Hạ Thủ Vân cười xòa:

- Nhất định, nhất định.

Địch Thanh nghe thấy bốn chữ “Ngột Tốt sẽ về” trong lòng khẽ động. Biết Nguyên Hạo vừa về, chính là lúc hắn động thủ.

Mọi người qua núi giả tới Đan Phượng Các, ngọc bính lưu ly khắp trên đường đi. Sự xa hoa ở chỗ này tuy không so với đại nội Biện Kinh. Nhưng cung điện khí thế khoáng đạt lại khí phách hơn người, ẩn chứa chí lớn của Nguyên Hạo.

Địch Thanh biết trên đường đi tuy là sóng yên gió lặng. Nhưng nếu đi nhầm chỗ, chỉ sợ trong nháy mắt có đao kiếm bổ tới. Bốn người đều buồn không ra tiếng. Địch Thanh lại để ý địa hình kiến trúc xung quanh. Hắn ở trong cung hơn tháng, duy nhất có thể làm chính là ghi nhớ vị trí hộ vệ và các nơi đi qua.

Chờ qua chỗ hoa viên, xa xa nhìn thấy nơi cây hoa bao phủ thấp thoáng hiện ra một lầu các mái cong. Địch Thanh chỉ biết, đã tới Đan Phượng Các.

Bốn người tới trước các. Thượng Khất và binh lính canh gác ở chỗ này trao đổi lệnh bài, liền dặn dò ba người phân đứng xung quanh lầu các. Mọi người giống như đóng cọc ở đó, im lặng không nói gì.

Lúc hoàng hôn, bình an vô sự. Thượng Khất thấy thời gian buông xuống không khỏi thở phào, chỉ chờ người đổi ca đến mọi người có thể xuất cung. Không ngờ tới lúc này, xa xa đột nhiên có tiếng bước chân vang lên, có bốn cô gái khiêng một cái kiệu nhỏ đi tới.

Thượng Khất tiến lên quát:

- Người đến là ai?

Cỗ kiệu đó dừng lại, từ kiệu truyền ra giọng nói:

- Ngay cả ta ngươi cũng không nhận ra sao?

Giọng nói đó như nước chảy gió mát, lại giống chim hót lạnh lẽo thác gềnh. Trong phong nhã có có phần cao ngạo.

Thượng Khất nghe thấy giọng nói đó, cuống quít quỳ xuống đất nói:

- Ty chức không biết Bộ chủ tới, xin thứ tội. Nhưng vẫn xin Bộ chủ đưa ra lệnh bài. Ty chức không dám phá quy củ.

Địch Thanh nghe được giọng nói trong kiệu, lại chấn động trong lòng, thầm nói: “Ta nghe qua giọng nói này chưa, sao quen thuộc thế này? Chẳng lẽ... ta biết cô gái này sao?”

Mặc cho hắn lục lọi lại ký ức, nhưng cuối cùng vẫn không có nghĩ được cô gái này là ai.

Phi Tuyết phải không? Không giống, Phi Tuyết tuyệt không có loại giọng điệu diệu dàng này. Công chúa Đan Đan, cũng không phải. Đan Đan không có sự xanh mơn mởn trong giọng nói. Nhưng nếu không phải hai người bọn họ, vậy có thể là ai? Bộ chủ? Chẳng lẽ người này là người trong bát bộ của Nguyên Hạo?

Cô gái đó nhẹ giọng nói:

- Ngươi không sai.

Tấm màn kiệu vén lên, chỉ một cánh tay giơ ra, trên tay đang cầm một lệnh bài. Địch Thanh xa xa nhìn thấy rõ, chỉ nhìn thấy lệnh bài vẽ một hình tiên nữ bay trên trời.

Thượng Khất nhìn thấy lệnh bài, lúc này nói:

- Không biết chủ bộ tới đây, có gì muốn làm sao?

Cô gái đó nói:

- Vì Ngột Tốt tìm ta có chuyện, giờ này mới trở về. Ta chỉ muốn tiện đường xem xem... công chúa trở về chưa?

Thượng Khất lắc đầu:

- Công chúa vẫn chưa trở về.

Cô gái đó thở dài xa xăm nói:

- Công chúa cũng không biết đã đi đâu, thật làm người ta lo lắng, khởi kiệu.

Bốn cung nữa đó nhấc kiệu lên, đi ra ngoài cung.

Địch Thanh nhìn cỗ kiệu đó đi xa, hận không thể vén màn kiệu lên nhìn một cái. Nhưng cũng biết tuyệt đối không thể, cái kiệu đó biếngười mất không thấy bóng dáng. Tổ báo đổi ca đã đến rồi, Địch Thanh ra khỏi nội cung, lại thêm một phần nghi hoặc.

Lục trực ban trong Ngự Vi ở ngoài cung đều có quân quan cung cấp tin tức. Nhưng những cấm quân trong cung này đều là con cháu quý tộc. Bình thường ngang ngược kiêu ngạo, hơn nữa võ nghệ không tầm thường. Trong cung tuy không dám thở mạnh, nhưng ra khỏi cung, ít chịu quản thúc, chưa tới đêm khuya sẽ không trở về quân doanh nghỉ ngơi.

Địch Thanh cũng không nghĩ những người này sớm về cung. Màn đêm đã buông xuống, hắn lững thững đầu đường và đang suy nghĩ cô gái trong kiệu là ai.

Nữ nhân hắn biết không nhiều, làm sao có thể là một người trong Bát bộ?

Đang lúc suy tư, nghe bên đường có tiếng tỳ bà từ trong quán rượu bất chấp truyền đến. Có bà lão đang ngân giọng hát:

- Làm việc vấn vả trăm tuổi, vinh quang mệt nhọc có nhau. Lợi và danh cứ dùng dằng qua đi, kể chi ngày tháng. Ngọc đi vàng bay, hồng nhan thành đầu bạc, cực phẩm để làm gì?

Địch Thanh không hiểu những từ này ai viết, lúc nghe thấy “dung nhan thành đầu bạc, cực phẩm để làm gì?” Trong lòng dâng lên một nỗi thê lương. Hắn tham gia quân ngũ hơn mười năm, tháng ngày thoi đưa, rất nhiều huynh đệ đã chết, người yêu thương không thể tương tụ, Quách Tuân cũng chết rồi, hắn người chưa già, lòng đã tang thương.

Tiếng tỳ bà dần thê lương. Địch Thanh đột nhiên chấn động trong lòng, ngây người tại chỗ, cuối cùng hắn nghĩ tới người trong kiệu là ai!

Là cô ấy, chắc là cô ấy. Nếu không phải cô ấy, ai có thể có loại ngữ điệu phong tình đó chứ?

Nhưng làm sao biết là cô ấy? Địch Thanh không dám tin, trong lòng nói cho mình. Trên đời nhiều người giọng nói giống vậy, không thể là cô ấy...

Địch Thanh tâm loạn như ma.

Tiếng tỳ bà dừng, ánh trăng sầu khổ, Địch Thanh ngây người hồi lâu, lúc này mới cười chua xót, đi qua con đường xuyên con hẻm, đi về phía quân doanh. Trong nụ cười của hắn tràn đầy ý bất đắc dĩ. Lúc này đã tới cửa con hẻm.

Hắn mới ra cửa hẻm, đột nhiên dừng chân. Hắn lòng tuy loạn, nhưng cảnh giác không mất, hắn đột nhiên cảm giác bước vào chỗ chết.

Sát khí bốn phía.

Có người muốn giết hắn, là ai giết hắn? Bọn họ muốn giết là Địch Thanh hay là muốn giết Thượng La Đa Đa? Địch Thanh không biết, nhưng chỉ nghe một tiếng quét qua, hai sườn tường cao đã xuất hiện ra mấy chục người, cầm trong tay liên hoàn nỏ. Vừa bóp cò, trong con hẻm tên bay như dệt, đã phong kín toàn bộ con đường sống.

Địch Thanh cho dù là phi điểu, lúc đó cũng không có con đường sống! Nếu Địch Thanh trong con hẻm, chắc chắn sẽ chết!

Nhưng Địch Thanh sớm có cảnh giác, lúc những người này xuất hiện đã lên tường cao. Lúc hắn đi đường, giống như con quỷ rượu một vai cao một vai thấp. Lúc trèo lên tường cao, lại như hổ mọc cánh.

Những người đó bấm nút cò, nhưng Địch Thanh đã tới bên cạnh những người đó, dùng sức đụng qua, chỉ nghe thấy mấy người kêu lên rồi té xuống. Tên nỏ trên tay bắn lệch ra, lại bắt chết người đối diện trên tường cao. Còn bọn họ rơi xuống trong con hẻm, đã bị tên nỏ ở tường cao đối diện bắn ra tạo thành cái sàng.

Sát thủ hai bên không ngờ, Địch Thanh còn chưa ra tay, bọn họ tự mình chém giết lẫn nhau.

Địch Thanh mồ hôi lạnh đầm đìa, không có thời gian đi kiểm tra sát thủ còn sống không. Vì hắn phải đối phó nguy cơ vô cùng cấp bách.

Một vệt xẹt qua bầu trời đêm, giống như sao băng, đã chém về phía đầu hắn.

Đao đó rất nhanh, rất mạnh, tựa như đã có từ trước, chỉ đợi Địch Thanh lên tường, sao đó lấy mạng hắn.

Địch Thanh không kịp rút đao, chỉ có thể lui. Nhưng hắn ở trên tường cao, vừa lui thì hết đường, đã bay xuống tường. Ánh sáng đao sáng như ánh trăng bay vút đầy trời, khó khăn chém tới cổ của Địch Thanh. Địch Thanh chỉ kịp giơ tay đỡ, cầm cung tên vừa cướp được cản lại.

Tiếng cười khuẩy vang lên, dây cung kéo căng. Nhưng trường đao cuối cùng dừng lại chốc lát, Địch Thanh đột nhiên rơi xuống, lùi lại bên cạnh tường.

Người đó trên liên tục ra hai đao, chỉ chém đứt dây cung, mới đợi người mượn thế cao, lại ra một đao nữa. Nhưng y thân hình đột nhiên ngừng lại, sau đó từ trên tường cao bay xuống.

Tiếng leng keng vang lên, trường đao rơi xuống đất, người đó té xuống đất, co giật, không còn động đậy nữa.

Nhưng trên cổ y lại có thêm một mũi tên, xuyên vào từ yết hầu.

Trước khi Địch Thanh rơi xuống đất, đã rút ra một mũi tên trên tường, làm phi tiêu ném ra, đánh chết người đó.

Lúc Địch Thanh rơi xuống đất, lưng hơi cong, hai lỗ tai dựng thẳng lên nghe động tĩnh, chuẩn bị nghênh đón một trận kế tiếp. Người này tuyệt không phải là muốn giết Thượng La Đa Đa. Thượng La Đa Đa còn không xứng. Nói như vậy, người đến muốn giết Địch Thanh hắn?

Bọn họ sao biết Địch Thanh là Thượng La Đa Đa?

Trái tim Địch Thanh trầm lại, chậm rãi xoay người lại nhìn về phía bên kia con hẻm. Không biết lúc này, có một cỗ kiệu đã lặng lẽ dừng lại.

Người đứng bên cạnh cỗ kiệu, ánh trăng sáng ngời chiếu lên tường con hẻm đó, quăng ra một cái bóng, úp gọn lên thân hình người đó.

Con ngươi Địch Thanh hơi co lại, quát khẽ:

- Lãng Mai?

Ánh mắt hắn nhạy bén, đã nhận ra người đó chính là Lãng Mai!

Lãng Mai dẫn hắn vào trong cung, tại sao lại muốn giết hắn? Bây giờ ám sát thất bại, Lãng Mai tại sao không đi, chẳng lẽ y vẫn còn một lá bài chưa lật trong tay?

Địch Thanh từng bước từng bước đi tới, nhìn chăm chăm hành động của Lãng Mai, càng lưu ý cỗ kiệu bên cạnh y.

Lãng Mai thấy Địch Thanh đi tới gần, đột nhiên nói:

- Những người này, là ta ta sắp xếp đến giết ngươi.

Địch Thanh thấy Lãng Mai thẳng thắn bộc trực, ngược lại có chút ngạc nhiên, không khỏi hỏi:

- Tại sao?

- Vì ta bảo y làm.

Một giọng nói từ trong kiệu truyền ra, đầy vẻ uy nghiêm.

Địch Thanh vừa nghe người đó nói, thì biết chắc là chưa gặp qua người đó. Mà người trong kiệu, chắc là người nắm giữ quyền cao. Vì chỉ có người đó, khẩu khí nói chuyện mới ra vẻ bề trên như vậy.

Địch Thanh không nói, chờ câu trả lời của đối phương. Rất lâu, người trong kiệu cuối cùng nói:

- Ngươi ta đều có mục tiêu chung, chính là giết Nguyên Hạo. Ta vốn hy vọng Phi Ưng đích thân ra tay, nhưng y kiến nghị để ngươi đến, ta không yên tâm.

Địch Thanh hỏi lại:

- Phi Ưng tại sao không đích thân ra tay?

Người trong kiệu nói:

- Vì y vẫn còn nhiều chuyện cần phải đi làm.

Địch Thanh giễu cợt nói:

- Ngươi không yên tâm, cho nên đi thử ta. Ngươi có nghĩ qua không, nếu ta vạch trần âm mưu của ngươi?

Người trong kiệu cười lạnh:

- Nếu ngươi vạch trần âm mưu của ta, chẳng khác nào lập tức đi chết. Trên thế giới này có hai loại người, hữu dụng, vô dụng. Vô dụng tốt nhất chết sớm một chút, tránh liên lụy người bên cạnh.

Địch Thanh trầm mặc, biết ý của người trong kiệu. Ám sát lần này, đã vạch ra tỉ mỉ, tình thế bắt buộc nếu không thành công không biết có bao nhiêu người phải chết. Cũng nói Nguyên Hạo tàn nhẫn hiếu sát, nếu y không chết, kẻ chết nhất định không chỉ một mình Địch Thanh.

Đối phương tuy tính toán cho hắn, nhưng Địch Thanh ngược lại không có chút yên lòng. Ngầm nghĩ những người này nếu không phải khổ tâm chuẩn bị kỹ đối phó Nguyên Hạo, thật sự không cần phải trắc trở như vậy. Nếu kẻ thù của kẻ thù, không nhất thiết là bạn của hắn, nhưng Địch Thanh hắn bây giờ chỉ có thể bắt tay với những người này.

Người trong kiệu giọng nói chậm rãi:

- Nhưng... ngươi quả nhiên không phụ kỳ vọng của ta. Nếu ngươi có thể thành công, sau này ngươi muốn gì, thì sẽ được cái đó.

Không đợi Địch Thanh nói thêm gì, kiệu đã được nâng lên, ra khỏi con hẻm. Trăng chiếu trên con đường dài, giống như lớp sương phủ.

Địch Thanh không có đuổi theo, chỉ là đang nghĩ... Người này tự phụ như vậy, có thể người nào? Cuối cùng hắn hiểu một điều, sắp xếp hắn vào cung không phải là Phi Ưng, mà là người trong kiệu đó. Nói như vậy, người này trong cung có quyền lực rất lớn.

Địch Thanh không nghĩ ngợi nữa, cũng không có đuổi theo, ra con hẻm, chọn một con đường khác. Về phần thi thể xử trí như vậy, hắn hoàn toàn không cần suy nghĩ. Hắn bây giờ duy nhất cần suy nghĩ là, hắn làm sao mới có thể giết Nguyên Hạo?

Cái kiệu đó lại qua mấy con đường, cuối cùng dừng lại. Lãng Mai bên cạnh nói:

- Vương gia, tại sao không đi?

Màn kiệu mở ra, trăng mùa thu cao lạnh, rắc xuống ánh sáng màu xanh nhạt, rơi vào mặt người trong kiệu đó.

Người đó vầng trán rất cao, sống mũi rất kiệt xuất, nhưng thái dương đã nhiễm sương trắng. Nếu lão trẻ lại hai mươi tuổi, chắc chắn là mỹ nam tử làm nữ nhân động lòng. Nhưng anh hùng mạt lộ, mỹ nữ xế chiều, đều là chuyện làm người ta không biết làm sao.

Ngước nhìn trăng sáng vằng vặc trên bầu trời, người trong kiệu đột nhiên nói:

- Rất lâu không thấy màu trăng sáng như vậy.

Lãng Mai nói:

- Vương gia... ngài chính là lo lắng không thể thành sự sao?

Người trong kiệu thở dài:

- Đây là lần ra tay không có nắm chắc nhất trong cuộc đời của ta. Nhưng ta phải ra tay...

Lãng Mai thăm dò:

- Ngài cảm thấy Địch Thanh võ công không đủ mạnh?

Người trong kiệu lắc đầu:

- Hắn là người võ công cao cường nhất chúng ta có thể thấy được. Cho dù Phi Ưng đích thân ra tay, chỉ sợ cũng không thể mạnh hơn hắn.

- Vậy Vương gia sợ cái gì?

Lãng Mai chau mày cũng lo lắng.

Người trong kiệu liếc nhìn Lãng Mai, trong mắt lóe lên phần cảm thán:

- Vì ngươi ta đều biết, người Địch Thanh muốn giết, chỉ có mạnh hơn!

Lão đột nhiên cười mỉa mai:

- Nhớ năm đó, Triệu Doãn Thăng không phải cũng liên hệ chúng ta đi giết vua Tống sao? Ngày nay phong thủy đổi rồi, trở thành chúng ta liên lạc Địch Thanh đi giết Nguyên Hạo, cũng nực cười.

Người trong kiệu tuy tức cười, nhưng trong mắt một chút ý cười cũng không có. Vì lão biết chuyện này một chút cũng không tức cười. Nguyên Hạo không phải là Triệu Trinh, chuyện này nếu không thành, hậu quả không thể tưởng.

Lãng Mai do dự nói:

- Thật ra, có câu không biết nên nói không?

Người trong kiệu nói:

- Ngươi nói đi, lúc này, ngươi ta còn phân bên này bên kia sao?

Lãng Mai đề nghị:

- Nếu Vương gia buông tay quy ẩn, nói không chừng có thể tránh được kiếp nạn này. Có khi... lui một bước mới là quân cờ tốt.

Người trong kiệu ánh mắt mãnh liệt, quát khẽ:

- Ngươi có ý lui sao?

Lãng Mai không tránh ánh mắt người trong kiệu, trầm giọng nói:

- Lãng Mai không sợ, nhưng chỉ vì cho lắng cho Vương gia. Chúng ta tuy bố trí, lại sắp xếp Địch Thanh. Nhưng muốn lấy mạng của Nguyên Hạo, vẫn không có nắm chắc lắm. Lãng Mai chết không tiếc, nhưng sợ Vương gia có chuyện. Lãng Mai cả gan, vẫn xin Vương gia suy xét.

Người trong kiệu dời ánh mắt đi, than thở:

- Cho dù ta buông tay, Ngột Tốt có buông tay không? Ngột Tốt không còn là Ngột Tốt của năm nào. Ta theo y đánh hạ giang sơn của Nặc Đại, không ngờ chỉ là một Chủng Thế Hành hèn mọn, đã khiến y có điều nghi kỵ với ta. Lần này bảo ta từ Minh Đường trở về phủ Hưng Khánh, rõ ràng là y sắp xưng đế, bảo ta đến chúc mừng. Nhưng... Y muốn là gì, ta không hề biết. Đương nhiên ta có thể bỏ tất cả, nhưng bỏ, và chết có gì khác biệt chứ?

Lãng Mai không khuyên bảo nữa. Vì y cũng biết, có khi con người đang sống, chính là vì bỏ không được.

Quyền lợi có thể làm người ta điên cuồng, quyền lợi đương nhiên cũng có thể làm người ta diệt vong.

Trong nháy mắt Địch Thanh đã làm thị vệ ba ngày, nhưng hắn ngược lại không vội, vì hắn biết có người còn vội hơn hắn.

Hôm nay vào cung, Địch Thanh thay phiên trực ban cả ngày, đi tới trước Dưỡng Tâm Đường canh gác. Ở đó bình thường không có ai đi, không tính là yếu địa. Địch Thanh không đợi xuất phát, thì gặp Lãng Mai.

Hai người tuy sớm quen biết, nhưng gặp nhau như vậy, không nói nhiều hơn một câu. Chỉ là lúc gặp thoáng qua rồi đi. Lãng Mai đột nhiên nói với Địch Thanh:

- Tiền ngươi nợ ta, có định trả không?

Mọi người đều ngẩng ra, Địch Thanh cười lạnh nói:

- Ta thiếu tiền ngươi khi nào?

Lúc trả lời hắn đã biết, thời điểm ra ta tới rồi.

Lãng Mai một quyền đánh tới, lại bị Địch Thanh xảo quyệt nắm cổ tay. Hai người đấu sức một hồi, Thượng Khất đã tới khuyên nói:

- Có chuyện ra ngoài nói!

Lãng Mai thu nắm tay, phẫn nộ nói:

- Ngươi đừng để ta thấy ngươi nữa.

Y đột nhiên xoay người bỏ đi. Thượng Khất tức giận nói:

- Sao ngươi chọc y chứ? Lúc ra ngoài, cẩn thận một chút... ai cũng không quản được những chuyện rắc rối này.

Đây vốn là tranh chấp thường thấy của cấm vệ trong cung. Nếu không có xảy ra chuyện, mọi người tự sẽ quên ngay.

Trên mặt Địch Thanh tràn đầy giận dữ nắm chặt tay theo sau Thượng Khất, lúc tới Dưỡng Tâm Đường, còn có chút tức giận. Lúc này Địch Thanh mở lòng bàn tay, nhìn thấy bên trong có viên thuốc lạp hoàn. Nhẹ nhàng bóp nát viên lạp hoàn đó, bên trong lộ ra một tờ giấy mỏng như cánh ve.

Địch Thanh nhìn qua, đã rõ hết tất cả, chà tờ giấy thành mảnh vụn, cẩn thận giấu đi.

Ngày sắp hoàng hôn, ánh tà dương chiếu tới, tường đỏ như máu. Địch Thanh nhìn ngọc lưu ly lấp lóe trên đỉnh đường, ánh mắt cũng có chút lênh đênh.

Trên giấy chỉ viết một câu “Ngày mai ra tay ở điện Thiên Hòa.”

Mệnh lệnh đơn giản rõ ràng. Nhưng vì một trận này, quả thật lãng phí công sức quá nhiều người.

Ngày mai ra tay, tối nay hắn nhất định phải trốn tới điện Thiên Hòa.

Địch Thanh có chút nhăn mày. Lục trực ban trong Ngự Vi chia làm ba tổ. Mỗi tổ hai mươi bốn đội. Thẻ bài của mỗi người trong đội đều ghi chép tỉ mỉ trong cung. Biện pháp này đề phòng thích khách không thể vào trong, cho dù đối với Vệ Thú quân cũng phòng bị như vậy.

Địch Thanh vẫn nghĩ không thông. Nếu hắn đột nhiên biến mất không thấy, đám người Lãng Mai làm sao lấp chỗ trống này.

Lúc Địch Thanh đang nghi ngờ, có một cung nhân đi vào, nhìn thấy Thượng Khất cười nói:

- Thượng Khất, Vương gia nói có chuyện căn dặn ngươi, bảo ta đến tìm ngươi, không biết là chuyện gì?

Trong cung bao nhiêu có thể tùy ý đi lại, cũng chính là cung nhân cung nữ. Đây là Dưỡng Tâm Đường, thấy phục sức của cung nhân đó, giống như là người của ngự thiện phòng.

Thượng Khất nhìn xung quanh, nói:

- Vương gia nói...

Y nói mấy câu rất nhỏ, giọng rất thấp. Cung nhân đó rất là kỳ lạ, hỏi:

- Ngươi nói gì. Nhưng không đợi hỏi tiếp, trong lúc đó hai tròng mắt đột nhiên lộ ra, vì một sợi dây thừng đã trói cổ y.

Đầu kia sợi dây thừng, chính là trên tay của Thượng Khất.

Địch Thanh xa xa nhìn thấy kinh ngạc, lập tức hiểu rõ cái gì.

Thượng Khất giết cung nhân đó rồi quay đầu nói với Địch Thanh:

- Cởi y phục, tháo đao đeo.

Y đổi y phục, đao đeo, thẻ bài của Địch Thanh lên người của cung nhân đó.

Địch Thanh nghĩ thông rồi. Thượng La Đa Đa đã chết. Còn trong cung thiếu một cung nhân tạm thời không vướng ngại. Thượng Khất giết cung nhân này, chẳng qua là thay làm thi thể của Thượng La Đa Đa, cũng chính là thêm chỗ trống cho Địch Thanh rời khỏi.

Thượng Khất cho cung nhân đó mặc y phục của Thượng La Đa Đa, còn dán râu cho cung nhân đó, lại thoa máu tươi lên mặt cung nhân đó. Cho dù là Địch Thanh, cũng cảm thấy người nằm trên đất chính là mình.

Ca Cổ đã từ chỗ núi giả đào ra một cái hố. Lấy y phục bên trong ra để Địch Thanh mặc vào.

Đó là một bộ đồ bó sát người. Ngoại trừ y phục ra, còn có một đôi giày, hai ống trúc, một thanh kiếm ngắn và một bao lương thực nhỏ.

Lúc Sát Cổ thay đồ cho Địch Thanh, nói:

- Ống trúc là độc thủy, tầm bắn bốn thước, chỉ có một lần cơ hội bắn. Nên lúc gần người hãy sử dụng, chỉ cần dính một chút tới đối thủ, thì vạn kiếp không phục nổi. Hai ám khí này đều chỉ có một cái nút, ấn một cái thì phát ra.

Ống trúc cấu tạo khéo léo, hiểm độc làm cho lòng người sinh ra cảm giác kinh sợ.

Địch Thanh nhận lấy ống trúc, cất ổn thỏa xong, ánh mắt lại nhìn lên thanh kiếm ngắn đó. Ngoài thanh kiếm ngắn đó có một vỏ ngắn, đen nhánh bình thường. Ca Cổ rút kiếm ra, kiếm đó cực ngắn chỉ có một tấc, nhưng lạnh thấu xương.

Địch Thanh nhịn không nổi nói:

- Kiếm tốt.

Thậm chí hắn không cần thử, thì có thể cảm nhận được kiếm đó có thể cắt đứt vàng ngọc, chém sắt như chém bùn.

Ca Cổ đột nhiên dùng ngón tay cái ấn lên chuôi kiếm đột nhiên hoa văn xuất hiện. Chỉ nghe tiếng “tang” nhỏ vang lên, kiếm quang tăng vọt, đột nhiên biến thành dài ba tấc.

Ánh mắt Địch Thanh lóe lên, thở dài nói:

- Kiếm tốt.

Hắn không thể không nói. Những người này vì muốn giết Nguyên Hạo, cái gì cũng nghĩ tới.

Ca Cổ ấn lên cái hoa văn đó, kiếm dài rút lại. Địch Thanh nhận lấy thanh kiếm ngắn cài vào bên hông. Cuối cùng hiểu thì ra cho tới bây giờ, không phải hắn cải trang tốt, mà là vì Thượng Khất, Dát Cổ và Xương Lý, vốn chính là ngươi một phe của hắn.

Nói như vậy, thị vệ trong cung đã có rất nhiều là thuộc hạ của người trong kiệu..

Địch Thanh không kịp nghĩ nhiều. Xương Lý đã đi tới nói:

- Chỗ núi giả kia, có một cái hang, đủ ngươi ẩn tới tối, chuyện còn lại, phải tự ngươi giải quyết.

Địch Thanh gật đầu, đã chui vào trong núi giả. Sau khi nghe tiếng báo động truyền ra, tiếng bước chân dồn dập, đã có người chạy về phía này.

Thượng La Đa Đa chết rồi. Vì không phục tùng mệnh lệnh tự tiện đi lại, bị Thượng Khất giết chết.

Ở trong cung, cấp bậc chế độ cực kỳ nghiêm khắc, không phục tùng mệnh lệnh thì tội chết. Về phần có người nghi ngờ, cũng là chuyện sau này. Sau khi ồn ào qua đi, dần dần im lặng lại. Dưỡng Tâm Đường chỉ giữ lại bốn người canh gác, giống như mấy người Thượng Khất đứng ngây ra ở đó. Địch Thanh ẩn trong hang núi giả, chờ mặt trời lặn về đằng tây, chờ màn đêm buông xuống.

Không trăng không sao, trong cung tuy có thắp đèn sáng. Nhưng Dưỡng Tâm Đường xung quanh tràn ngập là tối đen. Địch Thanh đã để ý tới thị vệ trông coi đó có chút ngủ gật. Thừa dịp lúc không phòng bị, lặng lẽ ra khỏi núi giả, đi về phía của điện Thiên Hòa. 

Mấy ngày nay, hắn đã vô cùng quen thuộc từng cọng cây ngọn cỏ trong cung, dễ dàng tránh được cảnh giới, tới bên cạnh điện Thiên Hòa.

Điện Thiên Hòa vốn là chỗ Nguyên Hạo và quần thân bàn chuyện quan trọng. Ban ngày tuy không có phòng bị nghiêm ngặt, nhưng tới đêm tối, vì cũng không ai ở, phòng bị cũng yếu rất nhiều.

Địch Thanh giống như con báo, leo lên cây cột, giẫm nhẹ lên mái ngói, tới chỗ bên trên của đại điện. Sau một hồi tìm kiếm, gở mấy tấm ngói ra, lắc mình để vào, ẩn trên xà ngang đại điện.

Từ chỗ đó quan sát phía dưới không sót chỗ nào. Nhưng vì trong này là góc chết, người phía dưới ngược lại không thấy động tĩnh phía trên. Địch Thanh có thể thấy được trên điện đài cao có một ghế rồng, phủ lên tấm gấm thêu rồng vàng, Trong đó chỉ có một cái ghế, chắc chắn cũng chỉ có một người ngồi ở đó.

Đó chính Nguyên Hạo độc nhất vô nhị tây bắc!

Điện Thiên Hòa so với đại điện hoàng cung của Biện Kinh ít hoa lệ hơn. Cung điện không người, lại thiếu không khí của sự nghiêm trang kính cẩn.

Địch Thanh nhìn cái ghế rồng đó hồi lâu. Sau khí hạ tay ước đoán, cuối cùng từ trong ngực lấy ra lương khô, chậm rãi nuốt. Thượng Khất chuẩn bị thức ăn cho hắn, hắn cái gì cũng không động tới.

Hắn chưa bao giờ tin tưởng Phi Ưng và người trong kiệu. Nhưng hắn tin bây giờ Nguyên Hạo không chết, thì hắn không còn giá trị lợi dụng.

Có khi, ai đang lợi dụng ai, không ai có thể phân biệt rõ.

Sự tình dường như rất phức tạp, sự việc dường như quá mức thuận lợi. Tới bây giờ, Địch Thanh đã không có đường lui.

Hắn đang ngồi trên xà ngang, nghĩ rất nhiều rất nhiều. Nghĩ nhiều nhất vẫn là bộ lông chim đầy màu sắc nhẹ nhàng nhảy múa trong mưa, dường như luôn có sợi dây lụa màu lam dựng lên theo gió.

Màu làm như nước biển, tinh khiết tựa bầu trời. Địch Thanh nhắm nghiền hai mắt, chầm chậm đợi bình minh.

Gà trống gáy lần thứ ba, phía đông hơi trắng. Địch Thanh sớm thức dậy, điều hơi vận khí, hoẠđộng gân cốt. Lúc hắn đang nghỉ ngơi, đã rất cẩn thận, ngay cả hạt tro cũng không rơi xuống. Giờ Nguyên Hạo lâm triều đã tới rồi.

Rất nhanh, hai cánh cửa dài nặng đó bị đẩy ra, một tia ánh sáng mặt trời từ bên ngoài chiếu đến, chỉ xé một góc tối trong điện.

Nắng sớm ngày thu, mang theo chút thê lương của chim nhạn bay về phía nam. Địch Thanh ngước nhìn nắng sớm, đột nhiên nghĩ tới, thì ra mỗi ngày đều thấy được nắng sớm, cũng không phải là chuyện dễ dàng.

Tiếng nhạc trống vang lên, có hai nhóm thị vệ cầm kích vào. Bọn họ không cần kiểm tra lại cái gì, vì bọn họ tin tưởng, với canh phòng nghiêm ngặt ở nơi đây, cho dù con chim cũng khó mà bay vào được.

Có quan Trị điện quát:

- Các quan nhập cung.

Hàng chục thần tử đi vào, Địch Thanh phần lớn không quen. Hắn tuy ở trong cung hơn tháng, nhưng những viên quan này lại ít gặp mặt. Hắn là thị vệ, càng không hỏi quá nhiều chuyện.

Người Địch Thanh có thể nhận ra chỉ có hai người, một người là Trung thư lệnh Trương Nguyên phong độ trí thức, một người khác đương nhiên là phản tướng Đại Tống Hạ Thủ Vân.

Nhưng Địch Thanh càng lưu ý chính là một người khác, người đó đang đứng sau lưng Nguyên Hạo, phía trước xa chỗ Hạ Thủ Vân. Người đó trán rất cao, mũi thẳng, thái dương hơi nhuộm sương trắng. Với vị trí người đó đứng mà nói, chắc là trọng thần thủ hạ của Nguyên Hạo.

Hành động ám sát lần này vô cùng kín đáo, nếu không phải là trọng thần, sao dễ dàng nắm trong tay bố cục?

Sau khi quần thần về chỗ của mình, tiếng nhạc lại vang lên, quần thần nghiêm trang chắp tay, cung kính chờ Nguyên Hạo tới. Địch Thanh liền nghe tiếng bước chân liên tục, thấy ở đó đi ra hai đội hộ vệ, mỗi bên tám người, đều mặc kim giáp, tay cầm trường kích, cực kỳ khí thế.

Địch Thanh trong lòng nặng nề, hắn đã nhận ra, mười sáu hộ vệ đó đều bước đi trầm lặng. Nước sâu núi cao, hiển nhiên đều là võ nghệ tài giỏi.

Mười sáu người đó được xem là kim giáp trường kích, khí thế phi phàm, nhưng không thể che lấp được phong thái của người đi ở giữa. Kỳ thực Địch Thanh nhìn đầu tiên là thấy được người đó.

Cái người đó bất luận đang ߠđâu, lần đầu thấy đều để ý, người không thể xem thường.

Người dó đang mặc áo trắng, đầu đội hắc quan. Áo trắng hơn tuyết, hắc quan như mực.

Toàn thân y có thể nói là không có nửa phần trang phục hoa mỹ. Vì y đã không cần long bào kim quan để giữ gìn cái gọi là tôn nghiêm. Nếu y là rồng, đi tới đâu cũng là rồng, hà tất phải gấm lụa rực rỡ.

Y bước đi chậm rãi tới ghế rồng, lẳng lặng ngồi xuống, ngón tay gảy nhẹ. Một bộ trường cung đặt lên trên bàn án, một bình mũi tên lông vũ đặt bên cạnh tay.

Trường cung mạnh mẽ, trong bình chỉ cắm năm mũi tên. Màu sắc bó tên khác nhau, một cây sáng rực như màu kim. Một cây trắng tinh như màu bạc. Một cây hiện ra màu đồng vàng nhạt. Hai cây còn lại một đen một sẫm tối, hiện ra ánh sáng lạnh lẽo dày đặc.

Địch Thanh trong lòng đang nghĩ, tại sao Nguyên Hạo chỉ cần năm mũi tên. Năm mũi tên đó nếu màu sắc giống như bó tên, thì hẳn là năm kim, ngân, đồng, thiết, tích.

Người cuồng ngạo như vậy, chẳng lẽ cho rằng trên đời này, chỉ cần năm mũi tên thì có thể giải quyết tất cả vấn đề sao?

Đột nhiên trong lòng chấn động, trong lòng Địch Thanh có chút kỳ quái, dường như nghĩ tới một chuyện cực kỳ quan trọng, mà một thời gian quên là chuyện gì.

Chuông khánh vừa vang lên, mọi âm thanh đều im lặng, cuối cùng Nguyên Hạo mở miệng:

- Trung thư lệnh. Ta chí tại thống trị thiên hạ, sau trận chiến Tam Xuyên Khẩu, đã qua nửa năm rất lâu, không biết ngươi có kế sách đoạt thiên hạ không?

Giọng nói đó không mang sự kiêu ngạo chút nào, thậm chí có thể nói là nhẹ nhàng, nhưng trong lời nói ẩn chứa dứt khoát, chân thật đáng tin.

Địch Thanh trong lòng chấn động, thầm hiểu Đại Tống cả ngày đang nghĩ tới việc nội bộ đánh đấu. Triệu Trinh còn trẻ thiếu quyết đoán, so với Nguyên Hạo cả ngày luôn nghĩ thống trị thiên hạ, lại kém rất nhiều.

Trung thư lệnh Trương Nguyên tiến lên, giọng cung kính nói:

- Khởi bẩm Ngột Tốt, kế định thiên hạ đã có, không phải là cố giành lấy vùng Quan Hữu. Theo Quan Trung địa thế thuận lợi, hướng đông là lấy Biện Kinh, nếu có thể kết thêm binh của Khế Đan, nhìn qua Hà Bắc, làm cho Trung Nguyên một thân hai tật, thế này khó chống đỡ được lâu.

Nguyên Hạo nghe xong, không có trả lời, chỉ là vuốt vuốt cái bàn, ngón trỏ khẽ chọc. Lúc này Địch Thanh mới để ý tới, bàn tay của Nguyên Hạo thanh tú, ngón tay thon dài. Nhưng nhẹ nhàng khuấy động, lại tỏ ra cực kỳ có lực.

Không biết tại sao. Địch Thanh từ trong động tác gõ của y, giống như nhìn thấy lực sĩ đánh trống, tùng tùng vang dội. Cái này không phải nói, trên mặt Nguyên Hạo tuy nho nhã bình tĩnh, nhưng trong lòng hừng hực ý chí chiến đấu.

Nhưng làm Địch Thanh lưu ý nhất chính là đầu ngón tay bên tay trái Nguyên Hạo có móng tay dài dài, mà móng tay đó chính là màu lam.

Màu lam như biển...

Địch Thanh trong lòng chấn động, không biết làm sao, đã nghĩ tới sợi dây lụa đó của Phi Tuyết. Hắn tuyệt không nên nghĩ như vậy, vì Phi Tuyết và Nguyên Hạo, vốn hoàn toàn không cùng loại người, càng không có bất cứ liên quan gì. Nhưng lúc đó trong lòng Địch Thanh lại có ý niệm cổ quái. Đó chính là Phi Tuyết và Nguyên Hạo, giữa họ tất có liên hệ.

Đại điện im lặng, im lặng không chút tiếng động. Nhưng trong lòng mỗi người đều có tiếng trống chiến thúc giục, tùng tùng không ngừng vang lên.

Tuy rằng Địch Thanh cảm thấy kì lạ về mối liên hệ của mình, nhưng nghe kế sách của Trương Nguyên, càng cảm thấy kinh hãi, tạm thời gạt bỏ tạp niệm sang một bên, thậm chí suýt chút nữa là hắn quên mất chuyện đi hành thích.

Tuy Trương Nguyên nói năng thì nhã nhặn, nhưng Địch Thanh nghe ra được. Kế sách mà Trương Nguyên nói vừa đơn giản lại có hiệu quả.

Người Đảng Hạng có ý đồ rất rõ ràng, đó chính là đoạt mảnh đất Lũng Hữu trước, rồi dùng vũ lực chiếm lấy Quan Trung, sau đó lấy Quan Trung làm bàn đạp, tiến công Trung Nguyên, đánh thẳng đến Biện Kinh, chinh chiến thiên hạ.

Từ xưa đã có nhiều kẻ có Quan Lũng là có thiên hạ, cho nên người Đảng Hạng đã sớm chấm Quan Lũng làm một miếng thị béo bở.

Do đó người Đảng Hạng nghĩ trăm phương ngàn kế, phát động trận chiến Tam Xuyên Khẩu, nhưng Nguyên Hạo đương nhiên chẳng thỏa mãn khi chỉ chiếm được mỗi trại Kim Minh này, gã hiển nhiên muốn căn cứ vào trại Kim Minh, gắng sức đánh chiếm mảnh đất Quan Trung của Đại Tống.

 Chương 253 - 257: Đánh cờ

Ngẫm nghĩ Đại Tống từ sau hiệp ước Thiền Uyên, đã hòa thuận với người Khiết Đan được mấy mươi năm, nhưng người Khiết Đan lòng muông dạ thú, nếu thật sự có cơ hội chia cắt Đại Tống, làm sao mà không tham gia vào cho được? Đến lúc đó, Đại Tống vốn dĩ suy nhược, lại đối mặt với hai bên là địch, tình thế có thể nói là nguy cơ trùng trùng.

Chỉ vài câu nói phác họa sơ sài của Trương Nguyên, vậy mà đã định hướng tư tưởng chủ đạo cho cuộc chinh chiến của người Đảng Hạng sau này, từ đây Tây Bắc sẽ phủ đầy khói lửa, khó mà yên bình.

Mưu kế của con người Trương Nguyên này, sao lại thâm độc đến thế?

Đám người trong điện ai nấy ngẫm nghĩ tâm tư riêng, Nguyên Hạo lại mở miệng lần nữa:

-Người Khiết Đan an nhàn đã lâu, đã chẳng còn lòng dạ lang sói, khó mà thuyết phục họ cùng xuất binh.

Trương Nguyên lập tức nói:

-Nhưng nếu ta tiếp tục thắng trận, bọn họ khó tránh khỏi có sẽ sự dao động.

Nguyên Hạo khẽ gật đầu, nói từng chữ một:

-Vì vậy điều quan trọng trước mắt không phải là xưng đế, mà là bước tiếp theo phải dùng binh như thế nào! Hạ đại nhân, trận chiến Tam Xuyên Khẩu, ta đây đã cậy vào sức ngươi khá nhiều, không biết tiếp theo đây, ngươi cảm thấy phải dùng binh ở đâu thì tốt hơn đây?

Hạ Thủ Vân được sủng ái mà bất ngờ, vội nói:

-Những ngày gần đây, thần đã dốc hết trí lực, phác thảo địa hình Quan Lũng, đã định ra được kế sách tác chiến cho bước tiếp theo, kính xin Ngột Tốt xem qua.

Gã rút ra tấu chương từ trong ống tay áo, trình lên bằng hai tay.

Có thị vệ nhận lấy tấu chương, Nguyên Hạo đón lấy rồi xem qua hồi lâu, tán thưởng nói:

-Hạ đại nhân vất vả rồi.

Lúc nào gã nói chuyện cũng đều ôn hòa vui vẻ, Địch Thanh trên xà nhà nghe thấy, khó mà tưởng tượng một Nguyên Hạo mưu ma chước quỷ, gian trá xảo huyệt lại là loại người như vậy.

Nhưng Địch Thanh không thể không khâm phục kế sách dùng người của Nguyên Hạo, chỉ cần là người hữu dụng, Nguyên Hạo chẳng tiếc lời ngon tiếng ngọt để lấy lòng, nhưng đối với người vô dụng thì….

Hạ Thủ Vân nghe Nguyên Hạo khen ngợi, gương mặt già nua rạng rỡ hẳn lên, vui không kể xiết.

Nguyên Hạo chuyển chủ đề nói:

-Dã Lợi Vương, ta nghe nói…đêm qua ngươi đã dẫn binh vào phủ đệ Lưu Bình, bắt giữ Lưu Bình, không biết nguyên cớ do đâu?

Người có tóc râu bạc phơ bước lên trước một bước, đáp lời rằng:

-Khởi bẩm Ngột Tốt, Lưu Bình muốn phản!

Trái tim Địch Thanh thót lên một cái, không phải vì nghe thấy tin tức Lưu Bình muốn tạo phản, mà là do nghe được giọng nói của người đó. Người đó chính là ở trong kiệu!

Dã Lợi Vương, đó chính là Dã Lợi Vượng Vinh, người quản lý Minh Đường Sương Quân, cũng chính là một trong Cửu Vương Long Bộ?

Chẳng trách Dã Lợi Vượng Vinh lại ngông cuồng như vậy, hứa hẹn nếu Địch Thanh làm được việc, muốn cái gì thì sẽ có cái đó; Chẳng trách người kiêu ngạo như Phi Ưng cũng phải hợp tác với Dã Lợi Vượng Vinh, bởi vì Dã Lợi Vượng Vinh đủ tư cách; Chẳng trách Địch Thanh vào được trong cung, tuy rằng việc vào cung như đi guốc trên băng, nhưng vẫn có thể vào được trong Thiên Hòa điện một cách dễ dàng và thuận lợi.

Chỉ bởi vì người chủ mưu của tất cả chuyện này chính là Dã Lợi Vượng Vinh!

Nhưng tại sao Dã Lợi Vượng Vinh lại muốn giết Nguyên Hạo, y chẳng phải là trợ thủ đắc lực của Nguyên Hạo sao? Địch Thanh nghĩ không thông, chỉ đành im lặng xem nốt màn kịch này.

Lúc Nguyên Hạo nghe thấy nghe thấy bốn chữ “Lưu Bình muốn phản”, ngón tay gõ lên bàn không hề dừng lại, gã ôn tồn nói:

-Gã không có tư cách gì để phản đâu?

Tuy rằng Địch Thanh ở tít trên cao, nhưng mãi vẫn chưa nhìn rõ mặt của Nguyên Hạo. Hắn chỉ thấy được sau lưng, y phục, cung tiễn của Nguyên Hạo. Nhưng hắn nghe ra được, tuy khẩu khí của Nguyên Hạo thanh đạm, nhưng tự có cốt cách, đây chẳng cần nghi ngờ gì là một gã vô cùng tự tin, Nguyên Hạo căn bản là chẳng hề lo lắng về Lưu Bình.

Lưu Bình phản cũng được, không phản cũng được, hà tất Nguyên Hạo gã phải ra tay chứ? Nhưng nếu đã là vậy, tại sao Nguyên Hạo lại không hỏi về chuyện của Lưu Bình? Địch Thanh nghĩ đến đây, ánh mắt dời lên người của Dã Lợi Vượng Vinh. Thần sắc của Dã Lợi Vượng Vinh thận trọng, chậm rãi nói:

-Ta chỉ sợ…y bị Địch Thanh đầu độc.

Khi nghe thấy hai chữ “ Địch Thanh”, ngón tay gõ như đánh trống của Nguyên Hạo cuối cùng cũng dừng lại giây lát, rồi lại nhanh chóng đánh nhịp như thường

-Địch Thanh giết Hạ Tùy, chạy khỏi phủ Hưng Khánh, lại giết vài tên Phó thống quân và Giám quân sứ của ta, chạy trốn thẳng theo hướng hướng tới Ngọc Môn quan, các ngươi vẫn chưa bắt được hắn ư?

Hạ Thủ Vân hận đến ngón tay đã bấm vào trong thịt, giọng run lên nói:

-Ngột Tốt, thần xin đích thân dẫn binh đi truy bắt Địch Thanh!

Địch Thanh giết chết con trai ruột của gã, Hạ Thủ Vân hận không thể lột da ăn thịt Địch Thanh, nhưng không được Ngột Tốt ra lệnh, ai cũng không thể tự ý lĩnh binh.

Nguyên Hạo thản nhiên nói:

-Ta không hỏi ngươi.

Gã nhìn Dã Lợi Vượng Vinh, người phụ trách truy bắt Địch Thanh là Dã Lợi Vương.

Địch Thanh nghe thấy Nguyên Hạo đang nói đến hắn, trong lòng hồi hộp lo sợ.

Dã Lợi Vượng Vinh thở dài nói:

-Địch Thanh quỷ kế đa đoan, thân thủ cao cường, sẽ có một ngày… trở thành đại họa của ta. Lão thần bất lực, đến nay vẫn chưa bắt được Địch Thanh, vẫn xin Ngột Tốt thứ tội.

Nguyên Hạo nói:

-Nếu người chạy về phía Ngọc Môn quan là Địch Thanh, trái lại cũng thật khiến ta thất vọng.

Địch Thanh giật mình trong lòng, Dã Lợi Vượng Vinh mặt không biến sắc nói:

-Ngột Tốt sao lại nói vậy?

Nguyên Hạo hạ giọng nói:

-Nghe về Địch Thanh mấy năm gần đây quả thực là không đơn giản, hắn ra sức chống lại Thiết Diều Tử, phá hỏng trại Hậu Kiều của ta, làm La Hầu Vương bị thương, lúc xây dựng thành Thanh Giản đã giết lùi không ít tộc trưởng đến quấy rối, thậm chí còn giết cả Bồ Đề Vương ở Bình Viễn….nếu đem so sánh thì hắn ngông cuồng hơn nhiều so với Thiết Bích Tướng Công, cũng xem như là một đối thủ của ta.

-Nhưng “thượng binh phạt mưu, kỳ thứ phạt giao, kỳ thứ phạt binh, kỳ hạ công thành” (Đánh giặc giỏi nhất là dùng mưu, thứ đến là dùng ngoại giao, thứ nữa là dùng binh, hạ sách là đánh phá thành lũy), hắn có tài lĩnh binh, lại đi hành nghề thích khách, thật khiến ta thất vọng. Nếu chỉ dám giết những hạng như Tthống quân, Giám quân sứ, càng là kẻ thất phu chi dũng (người vô học, kém mưu trí, dựa vào chút dũng khí mà làm bừa) . Loại người như vậy, hà tất chúng ta phải nhọc tâm?

Trương Nguyên nói:

-Địch Thanh tuyệt đối không phải chỉ là kẻ thất phu chi dũng, chẳng qua là đang thiếu Bá Nhạc (Bá Nhạc: người thời xuân thu, có tài xem tướng ngựa quý). Hắn gặp trở ngại bởi gia pháp tổ tông của Đại Tống, với thân phận một kẻ hành ngũ mà hắn có thể có được vị trí như ngày hôm nay, như vậy đã khiến người ta khó mà tưởng tượng nổi.

Liếc nhìn Hạ Thủ Vân một cái, Trương Nguyên nói:

-Phạm Ung vô năng, hơn nữa Hạ đại nhân lại nhìn ra thằng nhóc này sẽ có mối uy hiếp đối với ta, vẫn luôn áp chế hắn, như vậy mới hạn chế sự phát huy của hắn, người này chỉ cần có được sự đề bạt của năng thần nhà Tống, e rằng sớm muộn cũng sẽ có ngày thành rồng.

Nguyên Hạo không chút quan tâm mà nói:

-Thế ư? Triều đình nhà Tống có năng thần sao?

Trương Nguyên cẩn trọng nói:

-Sau trận chiến Tam Xuyên Khẩu, triều Tống đã phái Hạ Tủng trấn thủ biên cương…

-Người này háo sắc tham tài, không hiểu binh pháp, có gì phải lo lắng?

Nguyên Hạo nhạt nhẽo nói.

Địch Thanh nghe thấy Nguyên Hạo nắm rõ chuyện biên cương Đại Tống như vậy, ngay cả đối với Địch Thanh hắn cũng hiểu rõ mồn một, hắn không khỏi lạnh cả sống lưng.

Trương Nguyên nói:

-Hạ Tủng đích thật chẳng đáng sợ, nhưng trước mắt ngoài trừ Hạ Tủng ra, triều đình nhà Tống còn phái thêm đám người hỗ trợ phòng thủ biên cương như Phạm Trọng Yêm, Bàng Tịch, Hàn Kỳ vân vân, có ba người này trấn giữ phía Tây Bắc, quân ta nếu muốn giành thắng lợi như trận Tam Xuyên Khẩu, chỉ sợ không còn dễ dàng nữa.

Ngón tay của Nguyên Hạo lại lần nữa dừng lại giây lát, lúc này mới nói:

-Bàng Tịch vững vàng giỏi giang, Phạm Trọng Yêm…không ngờ cũng được đề bạt ư?

Y không đánh giá Phạm Trọng Yêm, dường như cũng cảm thấy con người Phạm Trọng Yêm này khó mà đánh giá một cách bình thường được.

Trương Nguyên thở dài nói:

-Không sai…người này lúc lên lúc xuống, không sợ quyền quý, đắc tội Thái hậu, đắc tội cả Triệu Trinh, đắc tội Lã Di Giản, chỉ cần là trọng thần trong triều, nếu gã cảm thấy không đúng, liền dám thẳng thắng nói ra, không chút kiêng dè….

Nguyên Hạo trầm ngâm nói:

-Tính cách của con người này, nếu qua bên chỗ ta, có thể giữ được chức quan tương đương chức Trung Thư Lệnh.

Ấy vậy mà Trương Nguyên lại không có ý đố kỵ, y chỉ nói là:

-Nếu Phạm Trọng Yêm có thể qua đây, đem vị trí của thần nhường cho y thì thần cũng cam tâm tình nguyện, bởi vì thần tự thấy mình không bằng y, chỉ đáng tiếc là, y sẽ không đến đây.

Từ phía xa Địch Thanh trông thấy thần sắc của Trương Nguyên nghiêm túc, nhưng cũng chẳng có ý giả vờ đóng kịch, trong lòng bỗng nhiên cảm thấy kỳ lạ. Hắn cũng thật sự không biết, phía Đại Tống có vị thần tử nào lại có tài cán sánh bằng Trương Nguyên?

Nguyên Hạo cuối cùng cũng thở dài nói:

-Đáng tiếc y ở triều Tống, mà đám văn thần trong triều kia suốt ngày đấu đá với nhau, không vì quyền lực của cải, thì là đấu khí. Phạm Trọng Yêm là một người khác biệt, nhưng tính cách của y đã định sẵn y khó lòng được những kẻ phàm phu bên triều Tống trọng dụng.Ta không ngờ lần này y lại được phái ra biên thùy. Người này lòng có chí lớn, kinh nghiệm từng trải, chỉ e rằng y là mối họa tâm phúc của ta.

Trương Nguyên tán đồng nói:

-Ngột Tốt nói không sai.

Địch Thanh ở trên xà nhà nghe được, không biết trong lòng có mùi vị thế nào. Xem ra người hiểu triều Tống nhất, ngược lại lại là người Đảng Hạng, người hiểu Phạm Trọng Yêm nhất, lại chính là Nguyên Hạo!

Nguyên Hạo chậm rãi gật đầu, chợt lên tiếng cười:

-Nhưng dù sao Phạm Trọng Yêm cũng chỉ là một người, nghĩ tới Lã Di Giản ghét hiền ghen tài, Hạ Tủng khó có tấm lòng bao dung, chúng ta cho dù không làm gì được Phạm Trọng Yêm, chỉ sợ Lã Di Giản và Hạ Tủng cũng không giữ y lại, huống hồ…ở Tây Bắc còn có một Hàn Kỳ, người này tính tình cứng cỏi, tuy có chí lớn, nhưng khó nghe lời khuyên răn. Thư sinh dùng binh, ắt có thiếu sót, lần này, có thể chọn gã làm điểm đột phá.

Trương Nguyên mỉm cười nói:

-Ý kiến của Ngột Tốt không ngờ với Hạ đại nhân không bàn mà hợp.

Trên mặt Hạ Thủ Vân có vẻ đắc ý, khiêm tốn nói:

-Ngột Tốt chí tại thiên hạ, tầm mắt cao rộng, thần sao dám sánh cùng?

Địch Thanh trên xà nhà nghe đến nổi cả người toát mồ hôi lạnh, thấy Nguyên Hạo phân tích tỉ mỉ, kiến thức độc đáo, không khỏi lại phiền não thay cho Tây Bắc. Thấy bộ dạng khúm núm của Hạ Thủ Vân, Địch Thanh lại hận mình không thể cho gã một đao.

Trong điện yên lặng giây lát, Nguyên Hạo quay trở lại chủ đề ban đầu,

-Dã Lợi Vương, ngươi nói Lưu Bình muốn tạo phản, nên mới bắt giữ gã, nói như vậy…hẳn là ngươi đã dẫn gã vào cung rồi.

Dã Lợi Vượng Vinh nghe mọi người nghị luận chính sự, y vẫn cứ trầm mặc mà đứng ở đó, nghe vậy liền nói:

-Không sai, lão thần tuy chưa có chứng cứ xác thực, nhưng cũng không thể tự tiện giết chóc, nên thần đã mang gã vào đây, xin Ngột Tốt minh đoán.

Nguyên Hạo hạ giọng nói:

-Thế thì…đưa gã lên đây hỏi xem.

Khi Lưu Bình bị áp giải lên, trông tệ hại vô cùng, bụi đất đầy mặt, lỗ tai của y bị mất đi một chiếc, do trong trận Tam Xuyên Khẩu đã bị cung tiễn bắn bay đi. Lưu Bình của ngày hôm nay vô cùng tiều tụy, hoàn toàn không còn ý chí sung mãn của năm nào.

Y bước vào trong điện, cứ luôn run rẩy không ngừng, hình như có vẻ đang sợ hãi.

Nguyên Hạo thấy Lưu Bình đi tới, hỏi :

-Lưu Bình, nghe Dã Lợi Vương nói, ngươi muốn phản à?

Lưu Bình run rẩy nói:

-Thần không dám.

Y không dám tạo phản, càng không dám nói Dã Lợi Vịnh Vương đổ oan cho y.

Nguyên Hạo nhìn về phía Dã Lợi Vượng Vinh

-Dã Lợi Vương, chứng cớ của ngươi đâu?

Dã Lợi Vượng Vinh chậm rãi nói:

-Lưu Bình âm thầm cấu kết với Địch Thanh, âm mưu tạo phản, còn bằng chứng thì…kỳ thật tìm một người đứng ra, là có thể biết rõ chân tướng.

-Là ai vậy?

Nguyên Hạo lười biếng nói. Xem ra gã căn bản là chẳng có chút hứng thú gì với chuyện này, gã còn hỏi được một câu, chẳng qua là vì còn chút tôn kính đối với Dã Lợi Vương. Người này dù sao cũng là đại ca của phu nhân gã.

Khóe miệng Dã Lợi Vượng Vinh nở nụ cười tàn nhẫn

-Người này…chính là con trai của Lưu Bình, Lưu Nghi Tôn! Y cũng đã đến phủ Hưng Khánh! Chính là y đã liên hệ với Địch Thanh, cấu kết với Thạch Đà của đại mạc, chuẩn bị tìm Lưu Bình để liên kết tạo phản!

Địch Thanh khẽ kinh hãi, đưa mắt nhìn qua, chỉ thấy Lưu Nghi Tôn bị áp giải lên điện, cả người toàn là máu, phẫn nộ mà nhìn phụ thân đang run rẩy.

Lưu Nghi Tôn sao lại đến, chẳng phải y đang đi cùng Phi Ưng sao?

Lưu Bình đã không dám ngẩng đầu lên, mất đi dũng khí nhìn thẳng vào con trai mình. Lưu Nghi Tôn vẫn nhìn chằm chằm phụ thân mình một phút cũng không dời, ánh mắt sắc như đao, nhưng trong cái sắc lạnh, lại ẩn chứa sự bi thương và phẫn nộ vô bờ.

Nguyên Hạo lẩm bẩm nói:

-Có chút thú vị.

Dường như gã cũng bắt đầu thấy hứng thú, không nói thêm điều gì. Rất hiển nhiên, có một số người trời sinh đã có tính tàn nhẫn, lấy việc xem người khác đau khổ làm niềm vui. Nguyên Hạo căn bản hỏi cũng chẳng cần hỏi, chẳng phải đã cảm thấy hơi hứng thú với mối quan hệ cha con này rồi sao?

Lưu Nghi Tôn cuối cùng cũng mở miệng nói:

-Ngươi không phải là phụ thân của ta!

Lưu Bình xấu hổ nghẹn ngào nói:

-Nghi Tôn…ta….

-Phụ thân ta sớm đã mất rồi!

Khóe miệng Lưu Nghi Tôn đầy máu

-Lúc ở Tam Xuyên Khẩu, ông ta đã chết rồi. Ông dốc cạn giọt máu cuối cùng của mình, hiên ngang mà chết! Ông tuyệt đối không đầu hàng Nguyên Hạo, cầu sống ô nhục!

Tay áo Lưu Bình không gió mà tự lay động, ông ta đã không thể nói nên lời.

Lưu Nghi Tôn thấy Lưu Bình không nói, bất thình lình y hét thấu cả tim gan:

-Ngươi là ai, tại sao ngươi phải giả mạo phụ thân ta?

Y bị hai tên binh sĩ giữ chặt tay, kích động muốn xông lên trước bóp cổ Lưu Bình, nhưng lại bị binh sĩ sau lưng kéo chặt cứng.

Lưu Bình cuối cùng cũng ngẩng đầu lên, hai mắt ngập tràn lệ

-Ta không xứng làm phụ thân của con. Nhưng con…sao lại ngốc như thế chứ?

Ông ta run rẩy như lá rơi trong gió thu, ai cũng nhìn ra, Lưu Bình không muốn con trai mình chết, nhưng chuyện đến nước này, cho dù hai cha con không chết, số phận chỉ có thể bi thảm hơn mà thôi.

Lưu Nghi Tôn thấy Lưu Bình như vậy, trái lại cất giọng cười dài, nhưng cười trong nước mắt, ngập tràn đau thương.

-Ta đúng là quá ngốc, ta ngốc mới đi tin rằng phụ thân ta vốn là một anh hùng đỉnh thiên lập địa, ta quả là quá ngốc mà, ngốc mới cho rằng cha ta chẳng thà chết, cũng sẽ không hàng! Bởi vì xưa nay ông thường bảo ta rằng, chỉ có tướng quân mất đầu, không có người cha đầu hàng! Ta quá ngốc, ngốc đến mức khi có người nói với ta, Lưu Bình----------cha của Lưu Nghi Tôn hàng binh, ta còn đi cắn xé đánh nhau với người ta, khiến cho thương tích đầy mình….

Trong điện chỉ còn tiếng gào thét thê lương như sói tru của Lưu Nghi Tôn, tất cả mọi người đều trầm mặc.

Ngón tay Nguyên Hạo vẫn gõ lên mặt bàn một cách nhẹ nhàng mà có lực, dường như tiếng kêu la bi thương khôn cùng này, cũng không tài nào đánh động được lòng dạ sắt đá của gã.

Lưu Nghi Tôn lại nói:

-Vì vậy ta nhất định phải đến phủ Hưng Khánh, lết cũng phải lết được tới phủ Hưng Khánh. Ta vốn dĩ muốn nói cho mọi người biết, cha ta không phải kẻ nhược phu!

Hai mắt y đỏ ao, gần như muốn nhỏ máu, nhìn chằm chằm vào Lưu Bình mà nói:

-Nhưng ta sai rồi, sai một cách thảm hại. Thì ra người lúc đầu nói với ta rằng “ nghĩa sĩ cứu nguy cho người, vượt lửa qua sông không từ nan, huống chi nước nhà nguy nan trước mắt! đã chết rồi. kể cả cái người nói “ vì nước tử chiến, kẻ lui phải chết’ cũng đã chết rồi. À không, ông ta chưa chết! Ông ta kêu gào để người khác đi chết, nhưng rốt cục bản thân ông ta thì đầu hàng nhục nhã mà sống, làm sao ông ta có thể đối mặt với Quách tướng quân người đã tử chiến ở Tam Xuyên Khẩu, làm sao ông ta có thể xứng đáng với vô số binh sĩ Đại Tống, những người đã vì nước hy sinh, dốc cạn giọt máu cuối cùng nước nhà hả? Ông nói…ông nói đi…..

Lưu Bình lùi sau một bước, đã khó đứng vững, hồn bay phách lạc mà nói:

-Ta…..ta….

Lưu Nghi Tôn thấy phụ thân vẫn nhu nhược như vậy, lớn tiếng hét lên:

-Ông đến giờ phút này, vẫn không dám nhìn ta một cái ư?

Y sức tàn lực kiệt, không chết ngay tại chỗ, cũng là vì muốn nhìn phụ thân một lần. Nhưng thấy biểu hiện của cha mình hèn nhát chưa từng thấy, thật sự lòng đau như cắt! Không biết sức mạnh từ đâu tới, Lưu Nghi Tôn dùng sức giãy dụa một cái, không ngờ lại thoát khỏi trói buộc của hai người kia, rút ra một thanh đơn đao từ thắt lưng bên cạnh.

Chúng thị vệ hét lên một tiếng, binh giáp leng keng, chuẩn bị xông lên.

Nguyên Hạo xua xua tay, các thị vệ dừng bước. Trong điện này, không nghi ngờ gì Nguyên Hạo chính là người có quyền lực tối cao nhất!

Lưu Nghi Tôn cầm đơn đao trong tay, vẻ mặt tái xanh, trong ánh đao lạnh lùng dường như cũng mang chút thê lương chua xót. Lưu Bình vội nói:

-Con…bỏ đao xuống đi.

Lưu Nghi Tôn bỗng nhiên mỉm cười, trong nụ cười mang cả sự giải thoát, nhạt nhẽo nói:

-Giờ…còn bỏ đao xuống được sao?

Y giơ đao lên, dùng sức đâm, máu tươi bắn tung tóe, thấm ướt cả người ả mặt của Lưu Bình.

Lưu Bình kêu lên thấu cả tim gan, ngay lúc Lưu Nghi Tôn vung đao, ông đã lao lên trước. Một đao đó của Lưu Nghi Tôn không phải đâm vào người khác, y cũng chẳng còn khả năng giết người khác nữa, người y đâm chính là bản thân mình!

Trường đao vào bụng, Lưu Nghi Tôn mềm nhũn ngã xuống, ngã vào lòng của Lưu Bình.

Lưu Bình đau xót như muốn chết đi, lệ rơi đầy mặt, vội ôm xiết lấy đứa con trai của mình, khàn giọng nói:

-Con….sao con lại…..

-Giờ ông..đã chịu nhìn tôi chưa?

Khóe miệng trào máu của Lưu Nghi Tôn mang theo chút chế giễu. Phi Ưng nói sai rồi, y đến đây, không phải để giết phụ thân, mà là muốn giết chết bản thân y.

Lưu Bình ôm cơ thể con trai vào lòng, khóc không ra tiếng:

-Ta…rất xin lỗi con.

Trong mắt Lưu Nghi Tôn có chút ánh sáng le lói, lẩm bẩm nói:

-Người thông minh…đều đang sống. Người ngu ngốc…phải…..chết đi, con là người ngu ngốc.

Cơ thể y run rẩy một cách dữ dội, hét lên nói:

-Con rất hận…

Y chẳng đợi nói hết là hận điều gì, cơ thể thẳng đơ, đầu đã rủ xuống.

Chỉ thấy hai mắt mở to, nhìn chằm chằm vào khoản không hư vô phía trước.

Lưu Nghi Tôn chết rồi, thi thể cũng lạnh đi, chỉ còn lại hai dòng lệ thuận theo khóe mắt mà lăn dài, không cam lòng mà rơi xuống…

Chẳng ai tiến lên trước, Thiên Hòa điện lại lần nữa trở nên trầm mặc. những thị vệ kia dù đã thấy qua quá nhiều cảnh sống chết, nhưng dường như cũng bị sự đau buồn thương cảm của Nghi Tôn làm cho cảm động, thẫn thờ không thể cử động đựơc.

Lưu Bình ôm lấy thi hài của con, cảm nhận được con trai đang lạnh dần trong lòng mình, ông ta cũng giống như đã chết, không ai nhìn ông ta, cũng chẳng ai tàn nhẫn đi xem ông ta, ai cũng đều biết, Lưu Bình còn sống, nhưng cũng chết rồi.

Nguyên Hạo nhìn Dã Lợi Vượng Vinh, đột nhiên lên tiếng:

-Có nhìn ông ta như thế nào đi nữa, cũng không giống là người muốn tạo phản.

Dã Lợi Vượng Vinh nói:

-Đám người Hán này đều lòng dạ khó lường, tên nào cũng đáng chết.

Nguyên Hạo chậm rãi nói:

-Lòng dạ khó lường thì không chỉ có người Hán rồi.

Thân người Dã Lợi Vượng Vinh khẽ co giật, ngẩng đầu nhìn chằm chằm vào Nguyên Hạo nói:

-Lão thần cúc cung tận tụy vì Ngột Tốt, chẳng lẽ Ngột Tốt nghi ngờ lão thần sao?

Ông ta thốt ra lời này, vô cùng đột ngột, cứ như một lời tuyên chiến với Nguyên Hạo, ai nấy đều kinh sợ.

Ngón tay như gõ trống của Nguyên Hạo dừng lại giây lát, lúc này mới nói:

-Dã Lợi Vương sao lại nói như vậy?

Dã Lợi Vượng Vinh nói:

-Nếu Ngột Tốt không hoài nghi lão thần, thế tại sao mấy hôm trước lại phái người đến phủ của lão thần lục soát? Chẳng lẽ trong nhà lão thần, có thứ gì khiến Ngột Tốt không yên tâm chăng?

Nguyên Hạo hạ giọng nói:

-Nếu không thẹn với lòng, để ta tìm kiếm một chút đã sao?

Gã nói như vậy, không nghi ngờ gì đã thừa nhận lời chỉ trích của Dã Lợi Vượng Vinh, mọi người đều kinh hãi, nhưng tất cả đều giữ im lặng.

Trương Nguyên thấy cục diện đang giương cung bạt kiếm, vốn dĩ muốn đứng ra điều đình, nhưng thấy ngón tay của Nguyên Hạo nhảy múa không ngừng, cuối cùng cũng từ bỏ ý định đó. Gã biết thói quen của Nguyên Hạo, biết rằng Nguyên Hạo của lúc này, không thể bị làm phiền.

Dã Lợi Vượng Vinh buông tiếng cười nói:

-Thế Ngột Tốt đã lục soát được gì từ trong nhà của lão thần? Ngột Tốt cho rằng, lão thần có phải muốn tạo phản hay không?

Địch Thanh chỉ thấy Nguyên Hạo phẩy tay, có gã thị vệ dâng một cái hộp gấm lên.

Hình dáng của hộp gấm đó vô cùng tầm thường, nhưng Dã Lợi Vượng Vinh trông thấy, mặt chợt biến sắc, dường như có chút bất an.

Nguyên Hạo chậm rãi nói:

-Cái hộp này vốn tìm được từ trong nhà của ngươi…

Gã chậm rãi mở hộp gấm ra, trong hộp có tia sáng dịu dàng chói ra, màu sắc rực rỡ (vàng, xanh, đỏ, trắng, đen) đan xen vào nhau, phủ một lớp hào quang sáng chói cho hộp gấm.

Địch Thanh từ trên nhìn xuống, rất là kinh ngạc, bởi vì vật trong hộp không ngờ hắn đã từng được thấy qua.

Trong hộp có chứa bốn chiếc bình sứ, bốn bình sứ với bốn màu sắc khác nhau.

Đỏ như hải đường, tím như hoa hồng, xanh như hoa Mai, trắng như sữa đặc.

Trên mặt bình chói lọi không ngừng, màu sắc trên đó không ngờ lại tùy ý biến đổi, giao thoa vào nhau, rực rỡ như áng mây bình minh.

Kia hiển nhiên là mấy chiếc bình sứ mà Địch Thanh đã trông thấy trên sa mạc, bình sứ đẹp vô cùng, Địch Thanh cũng thấy mà khó quên. Thật sự không thể tưởng tượng nổi lại có thể ở chỗ khác, đồng dạng cũng có loại bình sứ màu sắc như vậy, nói như vậy, bình sứ này đích thật là đến từ sa mạc ư?

Lúc Địch Thanh trông thấy mấy chiếc bình sứ kia, chỉ cảm thấy kinh ngạc, nhưng giờ trông thấy, lại cảm thấy quỷ khí dày đặc trên bình. Bình sứ xuất hiện trên sa mạc, sao bỗng nhiên lại nằm ở đây?

Gương mặt trầm mặc của Dã Lợi Vượng Vinh cũng mang theo sự kinh ngạc, hồi lâu mới nói:

-Bình sứ này là lão thần mua được từ tay lái buôn, cũng không biết Ngột Tốt cũng có hứng thú, Ngột Tốt muốn có, nói một tiếng là được, sao ta lại không tặng được chứ?

Nguyên Hạo cầm chiếc bình sứ xanh như hoa Mai lên, cảm thán mà nói:

-Xưa nay ta đều ưa thích văn hóa Trung Nguyên, ở Tây Bắc thì không tạo ra được loại bình sứ như này, ta nghe nói…bình sứ này vốn dĩ là do Long Tuyền Tiền Gia ở Trung Nguyên chế tạo, gọi là Mai Tử Thanh, một lần nung không quá mười chiếc, một năm cũng chỉ nung có một lần. Vì thế loại bình sứ nặng ký này, còn nặng và quý hơn gấp 3 lần so với vàng thật. Trong đám triều thần quyền quý nhà Tống, nếu có người có được một chiếc bình sứ này, chắc hẳn xem nó như báu vật. Lời ta nói có đúng không?

Địch Thanh thấy Dã Lợi Vượng Vinh chủ động nói lời khó dễ, nhưng từ sau khi Nguyên Hạo lấy chiếc bình ra, thần sắc không ngờ lại trở nên do dự, không khỏi cảm thấy kì lạ thay, không hiểu sao Dã Lợi Vượng Vinh đã có thế tên đã lên dây, vì sao lại trở nên yếu mềm đi?

Dã Lợi Vượng Vinh nghe Nguyên Hạo hỏi, một hồi lâu sau mới nói:

-Ngột Tốt nói đúng.

Nguyên Hạo buông chiếc Mai Tử Thanh xuống, tay như vuốt ve dây đàn, lướt qua sờ vào ba chiếc bình sứ còn lại, chạm vào chiếc bình sứ Hải Đường Đỏ kia, nói:

-Nghe nói chiếc bình sứ này mỗi khi trời tối, sẽ phai màu thành nhạt, đến lúc trời sáng, lại đỏ thẩm như máu, tựa như hoa nở hoa tàn, cho nên có cái nhã danh, gọi là Hoa Tự Lạc.

Địch Thanh càng thấy kinh ngạc, không hiểu sao Nguyên Hạo trong lúc cả điện đang căng thẳng, tại sao lại đi nói những lời phong hoa tuyết nguyệt. Mà nghe Nguyên Hạo giải thích, không ngờ vậy mà lại nắm rõ những thứ này như lòng bàn tay.

Nguyên Hạo lại chỉ vào bình hoa sứ có màu tím như hoa hồng, nói:

-Bình này gọi là Tử La Khinh, trông thì không có điểm nào đặc biệt, nhưng nghe nói nó còn cứng cáp hơn cả sắt thép, nhẹ hơn cả gấm lụa, cũng là một dị vật. Còn bình sứ màu trắng này, gọi là Băng Hỏa Thiên, vào mùa hè, lạnh lẽo như băng, nhưng mùa Đông hàn lạnh, thì lại ấm áp như mùa xuân.

Quần thần trong điện nghe Nguyên Hạo giới thiệu, tuy không hiểu dụng ý của Nguyên Hạo, nhưng trong mắt họ đều lộ vẻ ngưỡng mộ. Chỉ có phía Trương Nguyên là nghiêm nghị, trong mắt có vẻ kinh hãi.

Hạ Thủ Vân khen ngợi nói:

-Vật kỳ lạ như vậy, tuy thần đã từng nghe nói qua ở Trung Nguyên, nhưng lại chưa thể sưu tập được. Không ngờ Ngột Tốt lại có tất cả, có thể coi là báu vật trời ban.

Nguyên Hạo giọng nhạt nhẽo nói:

-Thế ngươi bắt Thiết Bích Tướng Công, giúp ta đại thắng trong trận Tam Xuyên Khẩu, dùng máu tươi của mấy mươi ngàn quân Tống để trải bằng con đường thăng tiến của ngươi, phải chăng cũng chỉ vì muốn có được những chiếc bình sứ này ?

Hạ Thủ Vân khựng lại, không thể nói được lời nào. Gã là bè cánh của Thái hậu, sau khi Thái hậu mất, gã suốt ngày thấp thỏm lo âu vì chuyện biến động trong cung. Nhưng đây chẳng qua là một trong những nguyên do khiến gã phản bội, nguyên nhân chủ yếu nhất chính là bởi Đại Tống Ức Vũ sùng văn (đây là phương pháp và chiến lược trị quốc quan trọng nhất của Đại Tống), gã tuy tự cho rằng mình có công lao, nhưng luôn bị những kẻ văn nhân kia đè đầu cưỡi cổ, loại bình sứ như này, đó giờ vẫn luôn là món đồ xa xỉ, gã căn bản là không có cơ hội có được nó.

Nguyên Hạo nói một cách sắc bén, cắt trúng vào tim đen của Hạ Thủ Vân, nhưng Hạ Thủ Vân phải trả lời thế nào đây?

Nguyên Hạo thấy Hạ Thủ Vân không trả lời, thở dài một tiếng,

-Giá trị của bốn chiếc bình sứ này cộng lại, trị giá nghìn vàng, thậm chí…nghìn vàng cũng không mua được!

Trên mặt mọi người lộ vẻ tán đồng, bất thình lình Nguyên Hạo đột nhiên làm ra một chuyện mà tất cả mọi người đều không thể ngờ đến. Tay áo gã phất lên một cái, đã phất bay hộp gấm xuống đất.

Tiếng vỡ nát của men sứ vang lên, tựa hồ tiếng kêu rên của báu vật.

Bốn chiếc bình sứ trị giá nghìn vàng kia, thoáng chốc đã biến thành một đống vụn vỡ, chẳng đáng một xu.

Trong đám đông có người không thể thở nổi, có người thở dốc như trâu, cho dù là Địch Thanh đang trên xà nhà cũng có chút giật mình kinh hãi và hơi tiếc nuối, không hiểu rốt cục Nguyên Hạo muốn làm gì.

Nguyên Hạo chẳng nhìn đống vỡ nát kia, chỉ nhìn các quần thần trong điện, nói rõ ràng từng chữ một:

-Một đời anh hùng,xưng vương xưng bá, nào thiết tha gấm vóc lụa là! Lại hà tất bị vật phàm tục lay chí anh hùng!

Địch Thanh giật mình trong lòng, chỉ đành cảm thán gã Nguyên Hạo này đích thật không phải người tầm thường.

Ý của Nguyên Hạo hết sức rõ ràng, quần thần Đại Tống tham luyến xa hoa, mê muội bất tỉnh, Nguyên Hạo gã tuyệt đối sẽ không giẫm chân lên vết xe đổ!

Trong điện yên lặng như tờ, mọi người nhìn đống mảnh vỡ mà ai nấy đều có suy nghĩ riêng.

Nguyên Hạo đột nhiên đứng dậy, ra khỏi ghế rồng, chậm rãi tiến gần đống sứ vỡ rồi ngồi xổm xuống. Ánh mắt mọi người đều toát lên vẻ hoài nghi, có người thậm chí còn cảm thấy Nguyên Hạo cũng có chút đau lòng đối với những bình sứ bị vỡ kia.

Đồ vật hoàn mỹ thế kia, vốn dĩ phải được thưởng thức chiêm ngưỡng, sao lại chỉ để nghe tiếng đổ bể chứ?

Nguyên Hạo đứng dậy, ngón tay thon dài đã gắp được một vật từ trong đống sứ vỡ kia, nhìn về phía Dã Lợi Vượng Vinh nói:

-Không biết ngươi có thể nói cho ta biết, đây là cái gì không?

Vẻ mặt Dã Lợi Vượng Vinh lại biến sắc, gã đã nhìn thấy rồi, trong tay Nguyên Hạo không ngờ lại có hạt sáp hoàn, bên trong vỏ sáp, đương nhiên có chứa đồ vật. (sáp hoàn :hình tròn, vỏ làm bằng sáp, bên trong chứa thuốc hoặc mật thư)

-Bên trong đồ sứ tinh tế như vậy sao lại có sáp hoàn nhỉ?

Dã Lợi Vượng Vinh cắn răng nói

Nguyên Hạo thản nhiên nói:

-Có lẽ chính bởi vì đồ sứ tỉnh xảo đẹp đẽ, cho nên chẳng ai nỡ lòng làm vỡ nó, đương nhiên cũng sẽ không thể nào ngờ tới, bên trong nó lại chứa bí mật không thể nói ra được. Hoặc giả…Dã Lợi Vương, ngươi có thể nói cho ta biết đây là bí mật gì không?

Dã Lợi Vượng Vinh khôi phục sự điềm tĩnh, đột nhiên nói:

-Trước mắt hãy xem các nhân vật ở Tây Bắc, ngoài trừ Phạm Trọng Yêm, Bàng Tịch, Hàn Kỳ ra, còn có gã Chủng Thế Hành.

Ông ta đột nhiên chuyển chủ đề, khiến mọi người có chút mơ hồ khó hiểu.

Nguyên Hạo cũng chẳng thấy lạ, chỉ đáp lại nói:

-Đúng.

Dã Lợi Vượng Vinh nói:

-Phạm Trọng Yêm có chí cứu thiên hạ, Bàng Tịch có thể độc chiến một phương, Hàn Kỳ chính khí tinh nhuệ, Chủng Thế Hành thì lại giống y như con cáo vậy.

Nguyên Hạo nói:

-Ngươi nói đúng một phần. Theo ta nhận thấy, Phạm Trọng Yêm chỉ có chí cứu triều Tống, không có chí cứu thiên hạ. Triều Tống không phải thiên hạ, người có thể cứu lấy thiên hạ, chính là ta!

Trong lòng Địch Thanh không biết mùi vị thế nào, cũng chẳng hiểu Nguyên Hạo rốt cục là tự đại, hay là tự kỷ, hoặc là tự tin nhỉ?

Nhưng trong Đại Tống, lại có ai tự tin được nhường này?

Dã Lợi Vượng Vinh gật gật đầu nói:

-Đúng, ngươi vẫn luôn muốn thống trị thiên hạ, ngươi cho rằng chỉ có như vậy, mới là biện pháp cơ bản để giải quyết các phân tranh trong thiên hạ, ta không nói với ngươi về Phạm Trọng Yêm, ta chỉ muốn nói đến Chủng Thế Hành.

-Ngươi nói đi.

Nguyên Hạo luôn dùng khẩu khí điềm tĩnh không nhanh không chậm.

Dã Lợi Vượng Vinh nói:

-Chủng Thế Hành tuy là người ham của, nhưng gã lại là một con chó trông nhà trung thành của Triều Tống. Để đối phó với kẻ địch của triều Tống, không từ thủ đoạn nào. Ta biết rằng, nửa năm gần đây, gã đã chiêu mộ không ít kỳ nhân dị sĩ, tốn không ít tiền để thuê người thích sát ta. Gã muốn giết chết ta và Ngộ Khất.

Nguyên Hạo nói:

-Gã quá là nhỏ mọn.

Dã Lợi Vượng Vinh nghiêm giọng nói:

-Gã không phải nhỏ mọn, mà là gã không còn cách nào khác. Nếu gã theo Ngột Tốt người, chắc có lẽ sẽ có biện pháp tốt hơn. Nhưng gã cũng giống như Địch Thanh vậy, đều là đeo theo gông xiềng mà hành sự, bọn chúng một mặt phải đối phó với chúng ta, mặt khác còn phải đối phó với những gọng kiềm trong triều Tống. Ngột Tốt ngươi không cần vật phàm tục trói buộc hùng tâm, nhưng trên đời này, có mấy người giống Ngột Tốt đây?

Khóe miệng Địch Thanh gượng cười, không ngờ người hiểu bọn họ nhất, lại là kẻ địch!

Sắc mặt của Hạ Thủ Vân có chút khó coi, tuy Dã Lợi Vượng Vinh không nói rõ, nhưng cũng đâm gã một cái thật mạnh.

Nguyên Hạo trầm mặc không lời, Dã Lợi Vượng Vinh nói tiếp:

-Tuy rằng trông Chủng Thế Hành rất lỗ mảng, nhưng làm người vững vàng đanh thép, dụng ý của chúng ta rất đơn giản, dốc sức đánh hạ Quan Trung, tiến công Trung Nguyên. Dụng ý của Chủng Thế Hành cũng rất đơn giản, gã muốn loại trừ người trấn giữ Hoành Sơn là ta và Ngộ Khất, giành chiếm Hoành Sơn trước, bước lên cao điểm tấn công chúng ta. Chủng Thế Hành biết rằng, có ta và Ngộ Khất ở đây, quân Tống không thể nào đánh hạ Hoành Sơn được. Do đó nửa năm nay, Chủng Thế Hành đã vắt cạn óc để nghĩ ra kế sách nhằm loại bỏ ta, gã dùng kế ly gián mối quan hệ của ta, tặng ta tài phú, hứa tặng hậu lễ.

Nguyên Hạo cuối cùng cũng lên tiếng:

-Kế sách này cũng tương tự cách mà năm xưa chúng ta đã đối phó với Lý Sĩ Bân, có chút khuôn khổ cũ rích.

Dã Lợi Vượng Vinh nói:

-Trên đời này, cách càng cũ càng khuôn sáo thì lại càng có hiệu quả, bởi vì chúng ta đều là người phàm tục, tuy rằng ngươi là thiên đế, nhưng ngươi cũng phải sống trong dục giới.

Nguyên Hạo gật đầu nói:

-Ngươi nói không sai, nhưng ta không hiểu, ngươi nói nhữngnày để làm gì?

Dã Lợi Vượng Vinh nói:

-Ta biết Chủng Thế Hành có dùng kế phản gián, do đó ta phái người đi giả vờ hàng thuận, nhưng đương nhiên gã cũng thừa biết ta sẽ không hàng, do đó cứ mãi dở chiêu lá mặt lá trái với ta. Mấy ngày gần đây, hai bên thăm dò lẫn nhau, thật thật giả giả, nhưng mục đích của Chủng Thế Hành đã đạt được rồi, gã đã thành công ly gián ta và ngươi. Nếu ta nói với ngươi, bình sứ này đích thật là vật của ta mua, đây có lẽ là cạm bẫy của Chủng Thế Hành, đã cố ý lừa ta mua những chiếc bình sứ này, sau đó để ta bị người phát hiện, người có tin hay không?

Nguyên Hạo thở phào, từ tốn nói:

-Ngươi có tin ta tin ngươi không?

Dã Lợi Vượng Vinh ngơ người, cả hồi lâu cũng không trả lời được.

Ngươi có tin ta tin ngươi không?

Câu hỏi này rất đơn giản, nhưng ý nghĩa thì lại quá thâm sâu. Những lời Dã Lợi Vượng Vinh vừa nói rốt cục là thật hay là giả? Bất luận thật giả, rốt cục thì Nguyên Hạo có tin những gì Dã Lợi Vượng Vi đã giải bày không? Cho dù Nguyên Hạo bảo tin, thế thì Dã Lợi Vượng Vinh có tin rằng Nguyên Hạo thật sự tin tưởng mình không?

Hạt giống nghi ngờ gieo xuống thì dễ, mọc rễ đâm chòi một cách nhanh chóng, nhưng muốn nhỏ bỏ nó triệt để, tuyệt đối không phải chuyện đơn giản đâu.

Không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, Dã Lợi Vượng Vinh mới lên tiếng:

-Ta tin!

Ông ta tin điều gì? Ai cũng không biết.

Nguyên Hạo nắm lấy hạt sáp hoàn, nhạt nhẽo nói:

-Ta lại không tin.

Sắc mặt của Dã Lợi Vượng Vinh biến đổi dữ dằn, cắn răng nhìn Nguyên Hạo nói:

-Những việc thế này, ta vốn đã cố gắng nói cho người biết rồi. Ta phái người giả vờ hàng thuận triều Tống, người cũng biết chuyện mà. Đến nay, người lại không tin ta ư?

Nguyên Hạo nhìn chằm chằm vào Dã Lợi Vượng Vinh nói:

-Những điều đó ta đều tin, nhưng có chuyện này, ta thật sự khó lòng mà tin tưởng được nữa. Địch Thanh chạy trốn về Ngọc Môn quan, phải vậy không?

Địch Thanh nghe thấy Nguyên Hạo lại nhắc đến tên mình, trong lòng giật mình. Đến giờ phút này hắn vẫn chưa thấy qua mặt của Nguyên Hạo, nhưng hắn biết rằng, người này không phải nghi ngờ gì là một người vô cùng đáng sợ, bởi vì chẳng ai biết được Nguyên Hạo đang nghĩ gì.

Dã Lợi Vượng Vinh không ngờ Nguyên Hạo lại nhắc đến chuyện cũ, nghĩ ngợi một hồi mới nói:

-Vâng.

-Người phụ trách truy bắt Địch Thanh là ngươi, có đúng không?

-Vâng!

-Ngươi vì truy bắt Địch Thanh, thậm chí còn điều động cả cảnh vệ quân, trong cung có không ít cao thủ bị ngươi điều đi truy bắt Địch Thanh. Đúng hay không?

-Đúng.

Dã Lợi Vượng Vinh rất là chần chừ. Rõ ràng ông ta đang suy ngẫm tại sao Nguyên Hạo lại hỏi như vậy.

Ngón tay Nguyên Hạo co duỗi, không nhìn Dã Lợi Vượng Vinh, chỉ nhìn tay phải của mình, chậm rãi nói:

-Trong mấy tháng ngươi truy đuổi Địch Thanh, các thị vệ trong cung đã bị ngươi mượn cớ điều động đi hết 3 phần, có phải vậy không?

Dã Lợi Vượng Vinh không trả lời nữa, nhưng đột nhiên xiết chặt hai đấm tay.

Nguyên Hạo lại nói:

-Ta tin ngươi, bởi thế mới mặc cho ngươi dày vò, nhưng ngươi thì sao…ngươi đã phụ lòng tin của ta.

Trong khẩu khí của gã ngập tràn tiếc nuối

-Từ khoảnh khắc Hạ Tùy chết đi, chỗ trống của y đã bị ngươi phái người lắp vào. Sau khi ngươi phụ trách điều hành trong cung, ngươi đã không ngừng chèn thủ hạ của ngươi vào. Hạ Tùy đến Thái Bạch Cư, cũng bởi ngươi đã hẹn y ra, nhưng gã thích khách đó cũng đến. Rõ ràng ngươi hẹn Hạ Tùy đến đó, chính là muốn thích khách giết chết y, tiếp đến nhiễu loạn phủ Hưng Khánh, đánh lạc hướng, tiện cho ngươi hành sự, phải vậy không?

Địch Thanh giật mình, bừng tỉnh hiểu ra mọi chuyện, hiểu rằng những điều Nguyên Hạo đoán là chính xác.

Nếu Phi Ưng có thể liên hệ với Dã Lợi Vượng Vinh, thế thì việc Phi Ưng giết chết Hạ Tùy ở Thái Bạch Cưu chắc chắn không phải điều ngẫu nhiên, Phi Ưng biết trước Hạ Tùy chắc chắn sẽ ở Thái Bạch Cư!

Tại sao Phi Ưng lại chắc chắn như vậy?Chẳng phải vì tất cả những chuyện này đều là do Dã Lợi Vượng Vinh an bài hay sao?

Khóe mắt Dã Lợi Vượng Vinh co giật, không ngờ còn có thể nhẫn nhịn không lên tiếng.

Hạ Thủ Vân nghiến răng nghiến lợi, nhưng vẫn chưa dám tiến lên trước. Ông ta có nằm mơ cũng không ngờ được, người giết con trai gã không phải là Địch Thanh, mà chính là Dã Lợi Vượng Vinh.

Nguyên Hạo nói tiếp:

-Bây giờ chuyện này rất đơn giản, ngươi bày ra một tên Địch Thanh, thu hút sự chú ý của mọi người. Dụng ý chẳng qua là muốn điều động nhân sự trong cung, sau đó thay vào những người trung thành đắc lực của ngươi. Mục đích của ngươi đương nhiên không phải vì sự an nguy trong cung, mà là để giết ta! Ngươi đã không tin tưởng ta, thử hỏi làm sao ta có thể tin vào ngươi nữa?

Thân thể của Dã Lợi Vượng Vinh đang run rẩy, nhưng vẫn chưa phát động công kích.

Ngón tay Nguyên Hạo búng nhẹ, viên sáp hoàn kia bay ra xa, mọi người lại giật mình lần nữa, không hiểu tại sao Nguyên Hạo nếu đã phát hiện ra bí mật, sao lại không thèm xem qua nội dung bên trong?

Nguyên Hạo hít một hơi, nói:

-Giờ ngươi còn chưa ra lệnh động thủ, phải chă đang cảm thấy Phi Ưng đã phản bội ngươi, vì thế mất đi tự tin à? Bình sứ này, vốn là lễ vật mà Phi Ưng đã tặng cho ngươi, ngươi cũng không biết trong đó không ngờ lại có sáp hoàn, ngươi cảm thấy Phi Ưng đã hãm hại ngươi phải không?

Khóe miệng Dã Lợi Vượng Vinh co giật, khàn giọng nói:

-Nếu không phải gã…sao ngươi có thể biết được những chuyện này?

Giọng điệu của Nguyên Hạo tràn đầy sự chế giễu

-Kỳ thật Phi Ưng không có bán đứng ngươi đâu. Trong bình sứ vốn dĩ chẳng có gì cả, sáp hoàn đó…chẳng qua là ta giấu sẵn trong tay từ trước. Ngươi quá khẩn trương rồi, chẳng lẽ không biết nghiêm túc mà suy ngẫm lại à, bình sứ một năm chỉ đúc một lần, cho dù bên trong có cất giấu thông tin, cũng đã sớm lỗi thời rồi? Huống hồ, sáp hoàn làm sao có thể an toàn tồn tại trong môi trường như vậy?

Dã Lợi Vượng Vinh như bị trúng phải một đao, lùi ngược về sau vài bước, mặt không còn chút máu.

Đầu óc Địch Thanh xoay như chong chóng, thầm nghĩ nếu không phải Phi Ưng bán đứng Dã Lợi Vượng Vinh, thế thì ai đã bán đứng bọn họ? Có rất nhiều chuyện, có lẽ Nguyên Hạo biết được, nhưng cũng có một số chuyện, Nguyên Hạo căn bản là không thể nào biết được.

Nguyên Hạo búng tay nhẹ một cái, lại nói:

-Kế hoạch của ngươi và Phi Ưng, cho đến tận thời điểm này, vẫn rất thành công. Ta biết trong điện hiện giờ, ít nhất cũng có một nửa là thủ hạ của ngươi. Ngươi muốn giết ta, thế được, ta cho ngươi cơ hội. Điều đáng tiếc là, không biết ngươi có dũng khí ra tay hay không?

Dường như Dã Lợi Vượng Vinh đã đánh mất dũng khí để ra tay.

Nguyên Hạo thở dài nói:

-Trước kia ta cứ nghĩ mãi, tại sao ngươi lại phản bội ta? Đương nhiên không phải vì Chủng Thế Hành, cũng không phải vì triều Tống. Bọn chúng không đủ tư cách…

Không đợi gã nói xong, Dã Lợi Vượng Vinh đã phá lên cười điên dại, ông ta cười một cách không kiêng nể, không còn giống Dã Lợi Vương trầm lặng ngày xưa nữa.

Mọi người giật nảy người nhìn Dã Lợi Vượng Vinh, sống lưng rùng cả mình.

Ai nấy đều hiểu, hôm nay Lưu Nghi Tôn là người đều tiên đổ máu tại Thiên Hòa điện này, nhưng tuyệt đối không phải kẻ cuối cùng.

Nguyên Hạo thấy Dã Lợi Vượng Vinh cười điên cuồng, vậy mà vẫn điềm tĩnh đứng đó. Dã Lợi Vượng Vinh rít lên nói:

-Ngươi sẽ không biết đâu, ngươi vĩnh viễn cũng không biết được đâu….

-Ta biết đấy.

Nguyên Hạo ôn tồn nói, tiếng nói tuy êm dịu, nhưng trong đó lại rắn chắc như sắt thép vậy

-Ngươi phản bội ta, có phải vì…Hương Ba Lạp không?

Ba chữ Hương Ba Lạp vừa phát ra, Dã Lợi Vượng Vinh đột nhiên trở nên lạnh đi, trong mắt phát ra hào quang nóng rực, trong điện Thiên Hòa cũng trở nên lạnh giá, không khí như bị ngưng đọng.

Trong đầu Địch Thanh bất thình lình vang lên ùng ùng, sao Nguyên Hạo lại biết đến Hương Ba Lạp? Tại sao Dã Lợi Vượng Vinh phải vì Hương Ba Lạp mà phản bội Nguyên Hạo?

Chẳng lẽ, cả hai người này đều biết bí mật của Hương Ba Lạp ư?

Máu Địch Thanh đã sôi sục, nhưng chẳng đợi hắn nghĩ ngợi thêm. Tức thì nghe thấy Dã Lợi Vượng Vinh phát ra hai chữ:

-Điệt Mã!

Lúc Dã Lợi Vượng Vinh phun ra hai chữ này, thần sắc lạnh lùng tựa hồ tuyết đọng trên đỉnh Hạ Lan Sơn.

Lúc Nguyên Hạo nghe thấy hai chữ “Điệt Mã”, năm ngón tay đang co duỗi bỗng dưng cứng đờ. Hai chữ đó rốt cục có ma lực gì, sao lại khiến cho một người điềm tĩnh như núi có thể khiếp sợ đến nhường này?

Đich Thanh lại ngẩn người lần nữa, kinh ngạc không hiểu nỗi.

Điệt Mã?

Điệt Mã là gì? Là người, là vật, là quái thú hồng hoang, hay là địa phủ tiên cảnh? Địch Thanh không hiểu Điệt Mã có nghĩa là gì, hắn đã từng hỏi Chủng Thế Hành, Chủng Thế Hành cũng không biết, lúc đó Chủng Thế Hành nói sẽ thăm dò hộ hắn, nhưng Địch Thanh chưa kịp đợi tin, đã phải chạy đến trại Bình Viễn.

Hắn không ngờ mình lại nghe được hai chữ này từ miệng của Dã Lợi Vượng Vinh. Quách Tuân từng nói:

-Muốn đi Hương Ba Lạp, cần tìm Điệt Mã!

Mà nay, Dã Lợi Vượng Vinh lại vì Hương Ba Lạp, cũng nói ra hai chữ Điệt Mã…

Địch Thanh không nghĩ thêm nữa, cũng chẳng còn thời gian để nghĩ ngợi nữa. Hắn lập tức bị chuyển xảy ra làm cho chấn động, bởi vì Dã Lợi Vượng Vinh cuối cùng cũng phát động tấn công.

Bất luận Điệt Mã là thứ gì, nhưng chắc chắn lần này nó chính là ám hiệu tấn công.

Ngay sau đó Địch Thanh đã hòa mình vào cuộc tàn sát vô cùng oanh liệt, một đời khó quyên.

Nhưng hắn không phải là người phát động đòn công kích đầu tiên đối với Nguyên Hạo.

Người đầu tiên ra tay với Nguyên Hạo không ngờ lại là một người chết!

Trong thoáng chốc, hàn quang phản chiếu, bảo kiếm bay ra, máu tươi la liệt.

Trong điện Thiên Hòa chỉ có một người chết, đó chính là Lưu Nghi Tôn.

Nhưng Lưu Nghi Tôn đích thật đã chết rồi không thể chết thêm lần nữa, người xuất kiếm chính là Lưu Bình.

Cách Nguyên Hạo gần nhất không phải là Dã Lợi Vượng Vinh, mà chính là Lưu Bình. Ai cũng cảm thấy Lưu Bình không chết nhưng còn thảm hơn là chết. Sau khi Lưu Nghi Tôn tự vẫn, ai cũng đều nhìn ra, Lưu Bình cho dù chưa chết, nhưng cũng chẳng khác nào người đã chết. Binh bại bị bắt, bị người hãm hại, con trai tự vẫn, đây là chuyện mà bất kỳ một người đàn ông có trái tim nào cũng đều khó lòng chấp nhận được, nhưng Lưu Bình không những có thể chịu đựng được, còn có thể xuất kiếm ra nữa.

Ông ta vốn dĩ bị áp giải lên, tay không tấc sắt, nhưng y vừa vươn tay, liền rút ra một thanh nhuyễn kiếm từ bên hông.

Nhuyễn kiếm uốn lượn như rắn, một kiếm xuất ra đâm thẳng vào Nguyên Hạo đang đứng bên cạnh.

Kiếm khí phát ra ánh sáng lạnh lùng, lạnh đến mức khắp đại điện tràn ngập sát khí, thanh kiếm vừa hay đâm vào Nguyên Hạo đang bên cạnh.

Gần như cùng lúc Lưu Bình ra tay, trước điện đã có hai thị vệ xông tới, tay vung trường kích chặt đứt đường lui của Nguyên Hạo.

Ba người liên thủ xuất kích, đã bao trùm tứ phương tám hướng của Nguyên Hạo.

Nguyên Hạo căn bản chẳng hề lưu ý đến Lưu Bình, gã chỉ quan tâm đến thiện hạ đại nghiệp, anh hùng phân tranh, căn bản gã chẳng thèm đếm xỉa đến một Lưu Bình hèn mọn nhu nhược.

Trong điện bất thình lình vang lên tiếng hây hây ha ha, kèm theo âm thanh đó là máu tươi, thậm chí khi nghe rồi khiến người ta cảm thấy buồn nôn.

Lúc Lưu Bình ra tay, thị vệ trước điện đã hòa mình vào trận hỗn chiến.

Nguyên Hạo biết, thị vệ trước điện đã bị Dã Lợi Vượng Vinh đổi đi không ít, nhưng thị vệ của gã thì căn bản không biết ai đã bị Dã Lợi Vượng Vinh mua chuộc.

Thị vệ phản bội đương nhiên phải ra tay, nếu bọn họ thua thì chỉ có một kết cục----chết! Những thị vệ không phản bội bị buộc phải ra tay, nếu bọn họ không ra tay, người chết sẽ là bọn họ, nhưng bọn họ không biết rốt cục ai là kẻ phản bội, bởi vậy cái chết đến cũng nhanh hơn một chút.

 Chương 258 - 261: Hai mũi tên

Trong trận hỗn chiến, thị vệ trước điện đột nhiên cứ như sóng cỏ bị gió thổi qua vậy, ngã xuống hết một nửa.

Nguyên Hạo mặc kệ, bứt người lùi ra sau thật nhanh. Gã không ngờ Lưu Bình lại ra tay, càng không ngờ kiếm pháp của Lưu Bình lại sắc bén như vậy, nhưng gã không sợ.

Gã rất nhanh liền ý thức được, không phải vô duyên vô cớ mà Dã Lợi Vượng Vinh dẫn theo Lưu Bình và Lưu Nghi Tôn lên điện, Dã Lợi Vượng Vinh chính vì muốn mai phục một sát thủ mà Nguyên Hạo không thể nào ngờ tới.

Lưu Bình giả vờ đầu hàng, nhưng thật chất lại muốn lấy mạng của Nguyên Hạo! Lưu Bình thực hiện kế Kinh Kha giết Tần, Lưu Bình không ngờ Lưu Nghi Tôn lại đến, không ngờ Dã Lợi Vượng Vinh lại tàn nhẫn như vậy, để hai cha con ông phải gặp lại nhau trong hoàn cảnh này, ông cũng không ngờ con trai của mình lại chết.

Ông đau sót vô bờ.

Một nỗi căm phẫn, dâng trào tạo thành ý chí chiến đấu vô biên, Lưu Bình xuất kiếm, kiếm không lưu tình.

Nguyên Hạo đã lùi đến trước trường kích. Gã đã trông rõ bảo kiếm chớp sáng, ẩn hiện lục quang, trên bảo kiếm, vốn đã được rắc chất kịch độc.

Nhưng trường kích kia vụt lên, đã gần tiến đến hông của Nguyên Hạo.

Nguyên Hạo uốn người một cách quái lạ, mũ đen không động đậy, áo trắng ngời ngời, thoáng chốc đã đứng trên thanh trường kích. Mũi chân của gã điểm một cái, lực sĩ cầm thanh trường kích chỉ cảm thấy hai tay mình bị một luồng sức mạnh lớn dẫn dắt, mũi nhọn trường kích đâm vào bụng một kẻ khác. Trong tiếng rên la đau đớn của kẻ đó, trường kích vụt ngang qua, vừa hay cắm vào hông của đồng bọn.

Động tác của Nguyên Hạo nhẹ nhàng như gió đưa cành liễu, căn bản chẳng màng nhìn hai lực sĩ tàn sát lẫn nhau, gã đã lùi về trước ghế rồng.

Tuy gã đi lùi, nhưng thân thủ nhanh như chớp. Lưu Bình cầm kiếm đuổi tới, không ngờ bị gã hất bay mấy trượng. Lưu Bình giận đùng đùng, mũi chân đạp đất, liền xông tới trước người Nguyên Hạo.

Bất thình lình liếc thấy Nguyên Hạo có trường cung trong tay, bình đựng tên ngay thắt lưng, trong lòng Lưu Bình khẽ kinh sợ, chẳng kịp phản ứng, chỉ cảm thấy một luồng gió sắc bén xuyên thấu cơ thể, mang theo cái rét buốt của mùa đông lạnh giá.

Lưu Bình vừa nhào tới giữa không trung, lồng ngực đã ôn thác máu, y như tảng đá vậy rơi tự do xuống đất.

Lúc sắp chết ông ta cũng chỉ nhìn thấy cung của Nguyên Hạo, thấy dây cung của Nguyên Hạo rung lên như dây đàn, nhưng trước sau ông ta vẫn chưa nhìn thấy mũi tên của Nguyên Hạo. Đến lúc chết ông ấy cũng không thấy Nguyên Hạo cài tên qua.

Tên dài xuyên thấu ngực, “đoạt” một tiếng ghim thẳng vào cột trụ của điện Thiên Hòa.

Đuôi mũi tên run bần bật, tâm như tro tàn, tro tàn khó cháy.

Địch Thanh trông thấy rõ rệt, mũi tên mà Nguyên Hạo dùng là tên sắt có lông vũ ngũ sắc, một mũi tên đã bắn chết Lưu Bình!

Mọi người ngay cả biểu hiện hoảng sợ cũng chẳng có, cũng chẳng ai màng đến chuyện kinh sợ. Hôm nay nếu đã tạo phản, không sống thì chết, bọn họ đã sớm biết Nguyên Hạo võ công cao cường, tiễn pháp sắc nhọn, nhưng bọn họ đã không còn cách nào khác.

Thị vệ trong điện đã chết hơn nửa, kẻ chết phần lớn đều là hộ vệ của Nguyên Hạo.

Không phải những kẻ đó võ công không đủ mạnh, mà là do bọn họ rơi vào tình trạng hỗn loạn, tứ phía là địch. Thậm chí hộ vệ bảo vệ Nguyên Hạo, cũng đang chém giết lẫn nhau, bởi lẽ bọn họ không phân định được địch hay ta.

Ít nhất có bảy tên thị vệ xông tới, cách long vị không xa.

Nhưng chính vào lúc này, đã có hai đội mỗi đội tám người đứng chắn trước bàn rồng. Đầu đội mũ vàng, giáp là giáp vàng, thậm chí những người đó, nhìn cứ như vàng.

Mười sáu người, đã lộp thành vách tường cao giáp vàng che chắn trước mặt Nguyên Hạo.

Bất kể Nguyên Hạo lâm triều, du hành, săn bắn hay là xuất chinh, bên cạnh luôn luôn dẫn theo mười sáu dũng sĩ giáp vàng. Những kẻ này chỉ trung thành với một người, đó chính là Nguyên Hạo. Cho dù Dã Lợi Vượng Vinh có mưu tính chuyện thích sát từ 10 năm trước, cũng không thể mua chuộc được những người này.

Nguyên Hạo biết trước Dã Lợi Vượng Vinh muốn tạo phản, nhưng gã lại phó mặc, phải chăng gã cũng muốn dựa vào những tên dũng sĩ này, giết sạch tất cả phản tướng đã phản bội gã?

Kế hoạch càng lâu, càng có nhiều người tham dự, thế thì lúc giết, chẳng phải sẽ được giết một cách sảng khoái hơn sao? Nguyên Hạo xưa nay không ngại giết người!.

Nguyên Hạo xuất tiễn, điện Thiên Hòa hỗn loạn, Lưu Bình chết, cả cục diện không thể khống chế nổi, nhưng Nguyên Hạo vẫn điềm tĩnh như lúc đầu. Chỉ có điều lúc gã xuất tiễn, đột nhiên cảm thấy lo sợ.

Nỗi lo sợ này đã lâu không gặp, năm xưa lúc gã mười tuổi đã từng bị qua một lần khi gã gặp phải hổ dữ ở vùng ngoại ô. Lúc Vệ Mộ Sơn Hỉ cấu kết mười mấy tên cao thủ vây đánh gã, gã cũng từng bị qua một lần.

Nhưng mối nguy đến một cách mãnh liệt hơn bất kỳ mối nguy nào khác.

Mối nguy này đến từ trên đỉnh đầu!

Trên đỉnh đầu là xà nhà, có người đã sớm mai phục trên xà nhà, chính là do Dã Lợi Vượng Vinh sắp đặt ư? Trong đầu Nguyên Hạo suy nghĩ nhanh như chớp, điều khiến gã hoảng sợ không phải vì âm mưu của Dã Lợi Vượng Vinh, mà là do sát khí sôi sục trên đỉnh đầu kia.

Nguyên Hạo cũng không ngẩng đầu lên, chuyển động mũi chân, bàn rồng lập tức bay lên, trực tiếp tấn công người đang bay giữa không trung. Mà ngay lúc bàn rồng bay lên, tay phải giơ ra một cái, đã chặt đứt tán che thanh la.

Gã là Ngột Tốt, cũng chính là Thanh thiên tử, tỏ ý có sự khác biệt với hoàng thiên tử Đại Tống, nhưng gã vẫn luôn muốn đổi tán che màu xanh thành màu vàng.

Chỉ là trước khi đổi ô, nhất định phải sống sót đã.

Chiếc ô bị gãy, tán ô màu xanh cứ như áng mây vậy trôi đi sang bên trái điện, còn Nguyên Hạo lắc người đi ra khỏi tán che của chiếc ô, đi về phía bên phải điện.

Gã đã sớm quen với cách hư hư thật thật, đoán chắc người thường thấy chiếc ô hướng về bên trái, phần lớn sẽ đuổi theo chém chiếc ô, như vậy sẽ tránh được đòn công của địch, trả đòn khi kẻ địch kiệt sức. Trước mắt chưa rõ thực lực của sát thủ, Nguyên Hạo cũng không vội đọ chiêu với hắn.

Nguyên Hạo trông ngông cuồng, nhưng tuyệt đối là một người kiên nhẫn, gã muốn ra tay, nhất định phải nắm chắc phần thắng.

Nhưng gã vừa tung ô dù, liền thấy một luồng kiếm quang chém tới. Một kiếm đó tựa hồ muốn xé toạt trần điện, dẫn vào ánh sáng từ trời xanh, uy lực đến thất kinh trời đất.

Trong điện chỉ thấy được ánh sáng của thanh kiếm.

Nguyên Hạo lập tức hiểu ra, người thích khách trên trần tuyệt đối không phải hạng như Lưu Bình, người này tâm cơ linh hoạt, không thua kém gì gã. Ít nhất thì người đó cũng không bị tán che thu hút, ít nhất người đó cũng có thể nhẫn nại được. Người đó cũng mưu tính được, đoán chắc Nguyên Hạo khi gặp thích khách, chắc chắn sẽ cầm cung tên trước, cho nên hắn nhảy từ trên trần nhà xuống, mục tiêu của hắn chính là ghế rồng.

Người này tính toán cũng tinh tế và chuẩn xác như Nguyên Hạo vậy.

Nguyên Hạo lùi đến không thể lùi được nữa, lùi không khỏi kiếm quang khiến mọi người trong điện đều kinh hãi, gã liền giơ cao giá cung.

Kiếm quang đuổi chém vào thiết cung.

“cheng” một tiếng vang lên, thanh kiếm thẳng tấp vừa hay trúng vào sống cung, âm thanh vang lên như tiếng rồng rống, hổ gầm. Kiếm và cung va vào nhau, cọ sát tạo thành hoa lửa lóe sáng còn hơn cả lửa tím.

Cuối cùng Địch Thanh cũng xuất kiếm rồi, kiếm sai đao khiến, đợi mấy tháng ròng, không ngờ một kiếm lại chém ngay vào sống cung.

Lưỡi kiếm sắc nhọn kia, không ngờ lại không thể chặt đứt thiết cung của Nguyên Hạo.

Tiễn là Định Đỉnh Tiễn, cung là Hiên Viên cung!

Mũi tên mà Nguyên Hạo bắn ra là mũi tên chỉ điểm giang sơn -ngũ sắc Định đỉnh tiễn, dùng là dùng Hiên viên kình thiên cung vô song thiên cổ.

Truyền thuyết nói rằng Hiên Viên cung là do Hiên Viên chế tạo, tuyển chọn gỗ quý từ Nam Ô Hào của Thái Sơn, sừng của yến ngưu, đuôi cung bằng sừng nai, keo dán từ cá sông, chế tạo mà thành. Nếu không phải thần cung như vậy, làm sao có thể đỡ được sự hoành hành đao của Địch Thanh?

Trong lòng Địch Thanh hơi trùng xuống, nhưng ý chí chiến đấu càng tăng lên. Cuối cùng hắn cũng trông rõ bộ mặt của Nguyên Hạo, trong tia lửa, hắn liếc thấy Nguyên Hạo có bờ trán rộng, sống mũi rất cao, hốc mắt lõm xuống, một khuôn mặt hết sức cá tính. Nhưng Địch Thanh chỉ nhìn chăm chú vào đôi mắt kia của Nguyên Hạo.

Tia lửa bùng cháy, chiếu rọi đôi mắt của Nguyên Hạo.

Đôi mắt đó rực cháy, chế giễu, toát nên một lý tưởng vĩ đại. Tuy đang né tránh, nhưng trong đôi mắt kia không một chút hoảng loạn, chỉ có sự điềm tĩnh.

Không đợi tia lửa lụi tàn, Địch Thanh đã mượn lực búng người bay lên, ngay giữa không trung lại là một kiếm bổ xuống.

Nguyên Hạo chưa từng nghĩ thích khách lại có thân thủ nhanh nhẹn như vậy, thuyên chuyển trên không, linh hoạt như bay. Gã vốn định mượn lực mà rút, nới rộng khoảng cách. Mượn sức chấn động của thiết cung, tuy gã đã bay ra, nhưng kiếm quang vẫn ở trước mặt gã.

"beng beng! Beng Bưng beng beng! Beng beng "

Trong phút chốc, cung và kiếm không biết giao phong bao nhiêu lần, mọi người chỉ cảm thấy tiếng va nhau đó giống y như tiếng sấm tranh trống vội, trên không trung hoa lửa tung tóe khắp nơi. Trường cung tách nhập, đoản kiếm hoành hành. Mặc dù Địch Thanh công kích mãnh liệt, nhưng Nguyên Hạo hầu như đều đỡ được tất.

Ngắn một phân, nguy một phân. Địch Thanh đã nhìn ra mình không thể để Nguyên Hạo xuất tiễn được, nếu không sống chết khó lường. Tay hắn cầm thanh đoản kiếm dài không quá một thước (3 thước = 1 mét), đánh nhanh thắng nhanh, áp sát giằng co, khiến Nguyên Hạo không bứt ra được khoảng trống để bắn tên.

Toàn bộ sát khí trong điện Thiên Hòa đều ngưng tụ trên hai người này, mọi người thấy long tranh hổ đấu, nghe tiếng kim khí gầm vang, tuy rằng có không ít người vây lại đây, nhưng lại không tiếp cận được thân hình lửng lờ trên không của hai người.

Mười sáu tên hộ vệ giáp vàng bị chết mất năm người, có không ít thị vệ trước điện cũng bị mất mạng, nhưng số lượng nhiều hơn nhiều so với thị vệ giáp vàng.

Thi thể khắp mọi nơi.

Đến cuối cùng người có thể sống sót liệu còn được mấy ai?

Địch Thanh tấn công lâu vậy vẫn không được, đột nhiên hắn quát lớn một tiếng, đoản kiếm ra sức đâm tới.

Nguyên Hạo mắt sáng như đuốc, trường cung đón đỡ. Gã lùi về bên trụ đại điện, tuy gã đang lùi, nhưng chẳng qua là muốn tìm cơ hội để phản công.

Gã xuất tiễn không nhẹ, một phát chí mạng!

Gã có ưu thế của trường cung, nhưng Địch Thanh không có. Lúc gã đỡ đòn bảo kiếm của Địch Thanh, đã nghĩ sẵn kế sách phản công. Nhưng “rách” một tiếng vang lên, sau đó bảo kiếm bùng phát, đột nhiên đâm thẳng vào giữa bụng của Nguyên Hạo.

Chiêu này biến hóa cực nhanh, cứ như được sắp đặt sẵn, mắt thấy Nguyên Hạo đã không tránh khỏi một kiếm chí mạng này rồi.

Không ngờ Nguyên Hạo tựa lưng vào cột, chỉ lướt một cái, vậy mà cứ như con rắn lướt lên phía trên cột trụ.

Trường kiếm đâm vội, đã cắm thẳng vào bắp chân của Nguyên Hạo. Địch Thanh đang định quơ kiếm chém ngang, mắt Nguyên Hạo đã lay động lóe sáng, trường cung chớp nháy, đuôi cung đã tấn công vào cổ tay của Địch Thanh.

Cơ hội để giết người, bao giờ cũng là cơ hội để bị giết.

Thời khắc Địch Thanh đâm Nguyên Hạo bị thương, thế tấn công như vũ bão của hắn cuối cùng cũng dừng lại giây lát. Nguyên Hạo có được cơ hội ra tay, một phát liền hất bay bảo kiếm của Địch Thanh. Cổ tay của Địch Thanh gần như muốn nứt lìa, nhưng ngay khoảnh khắc bị tấn công đó, hắn đã móc ra được một ống trúc.

Trong ống trúc là châm độc, cự li bắn trong bảy thước (1 thước=0.3333 mét).

Khoảng cách giữa hắn và Nguyên Hạo cũng xa nhường đấy, Địch Thanh đã tính toán sẵn, Nguyên Hạo sẽ phản công. Chỉ cần Nguyên Hạo tấn công một cái, cự ly của hai người sẽ thu hẹp lại, lúc đó chính là cơ hội để hắn phóng châm.

Trên châm có độc, kịch độc!

Địch Thanh tin rằng, trong châm độc này chỉ cần có một cây bắn trúng người Nguyên Hạo, tất sẽ khiến gã vạn kiếp bất phục.

Nếu Dã Lợi Vượng Vinh muốn giết Nguyên Hạo, trên châm đã có độc, thì chắc chắn sẽ rắc lên chắc độc lợi hại nhất.

Nguyên Hạo đánh bay bảo kiếm của Địch Thanh, trường cung lại cong lên lần nữa, đã điểm vào cột trụ. Trường cung cong hơn nữa, Nguyên Hạo đã gồng lực chuẩn bị sẵn tư thế, lấy Hiên viên cung là dây cung, lấy thân mình làm tiễn, chuẩn bị cho Địch Thanh một phát chí mạng.

Nhưng lúc gã trông thấy ống trúc trong tay Địch Thanh, Nguyên Hạo lập tức biến đổi sắc mặt.

Trở nên vô cùng kinh hãi.

Nguyên Hạo hiếm khi biến sắc như vậy, gã đã từng trải trăm trận chiến, cho dù ống trúc kia có châm độc, gã tuyệt đối cũng sẽ không kinh hãi như vậy, điều gã lo sợ là gì? Địch Thanh thấy Nguyên Hạo hoảng sợ, trong lòng đột nhiên cảm thấy bất an.

Nhưng tiễn trên dây cung, người ở trước cung, Nguyên Hạo không thể không bắn, gã chỉ kịp thay đổi góc độ bắn của thiết cung, gã bắn nghiêng ra ngoài.

Nguyên Hạo bắn nghiêng lên trời, cứ như sao băng vậy vẽ ra một đường dây mờ ảo hơi cong.

Địch Thanh ấn nút, hắn không còn cơ hội nào tốt hơn thế.

“Bụp” một tiếng vang lên, điện Thiên Hòa cũng theo tiếng vang đó, bất thình lình cứ như bị đóng băng vậy.

Địch Thanh cảm thấy đã lên đến cảnh giới đỉnh điểm, hắn cảm giác Nguyên Hạo đang bóc hơi từng phân một, cảm nhận được các binh sĩ xung quanh đang đẫm máu chiến đấu một cách hăng hái, cảm thấy trên mặt Nguyên Hạo đột nhiên có chút gì đó tối sầm lại.

Hắn cảm thấy tim mình đập điên cuồng, vậy mà không ngờ châm lại không được bắn ra.

Chỉ trong thoáng chốc, Địch Thanh ngay cả chớp mắt cũng chưa kịp, bất thình lình ống trúc kia ra sức bắn về phía Nguyên Hạo đang trên không trung. Ống trúc có vấn đề, sát khí đến từ trong ống trúc.

“Bùm” một tiếng nổ vang, ống trúc đã nổ tung trong không trung, bắn ra vô vàn châm độc.

Địch Thanh chẳng màng truy sát Nguyên Hạo nữa, gắng sức lăn ra sau. Hắn thật sự không ngờ tới, ống trúc mà Dã Lợi Vượng Vinh đưa cho hắn, không ngờ lại phát nổ!

Trong làn khói mịt mù, Địch Thanh cảm giác được vai trái hơi tê, đầu quay cuồng, nhưng hắn đã hiểu ra mọi chuyện.

Châm độc đó đích thật y như lời của Dát Cổ, ấn một cái liền bắn ra. Nhưng Dát Cổ không nói cho Địch Thanh biết một chuyện, đó chính là châm độc sẽ được bắn ra dưới sức bùng phát của thuốc nổ.

Đây rõ rang là mưu kế của Dã Lợi Vượng Vinh, ông ta muốn Địch Thanh và Nguyên Hạo cùng đến chỗ chết.

Lúc Địch Thanh nghĩ đến đây, chân lảo đảo một cái.

Nguyên Hạo không bị thương, Địch Thanh vốn không hay biết. Nhưng hắn biết rằng, hắn đã trúng châm độc. Tuy hắn tức giận, nhưng khóe miệng ngược lại lại cười khẩy, hắn chẳng trách được ai, chỉ có thể trách bản thân mình quá ư tin vào Dã Lợi Vượng Vinh mà thôi.

Bảo hổ lột da, nào phải chuyện dễ dàng như vậy?

Lúc này trong điện Thiên Hòa, tiếng rên la kinh hãi vang lên khắp nơi, không biết có bao nhiêu người ùa tới bị kim độc bắn trúng. Trong khói thuốc, Địch Thanh chỉ cảm thấy có một tên thị vệ giáp vàng xông tới, nhắm vào hắn liền là một kích.

Địch Thanh ra sức đánh tới, tránh được trường kích, giật lấy thanh đao ngay hông của gã đó, rồi một đao kết liễu tên đó tại chỗ. Sau đó hắn trở tay lại, một nhát đâm vào vài của mình, móc được miếng thịt có kèm kim châm ra.

Thịt đã bầm tím, thứ chảy ra là máu màu đen, thậm chí Địch Thanh còn không cảm thấy đau đớn.

Trong khói thuốc, chỉ nghe thấy có một người gào lên nói:

-Đừng để phản tặc bỏ chạy.

Âm thanh kia sao lại quen thuộc như vậy, Địch Thanh nghe xong, trong lòng lửa giận phần phật, gắng gượng vung tay một cái, đơn đao xuyên khói mà đi, bổ thẳng vào ngực của gã đó.

Gã đó xoay người ngã lăn xuống đất, trong mắt đầy ý không thể tin được.

Gã đó chính là Hạ Thủ Vân. Vốn dĩ gã không nên gào, nhưng gã thật sự quá đau lòng trước cái chết của con trai mình, gã đã sớm chuẩn bị sẵn tinh thần cùng liều chết với Dã Lợi Vượng Vinh, tiện thể trở thành trung thần hàng đầu dưới tay Nguyên Hạo.

Đây là một cơ hội, có câu “Gió mạnh mới biết cỏ cứng, hỗn loạn mới biết trung thần." Hạ Thủ Vân gã tuy đã đầu hàng, nhưng chung quy gã vẫn cảm thấy không được Nguyên Hạo tin tưởng, gã còn muốn vào lúc này đây, tỏ lòng trung thành với Nguyên Hạo.

Nhưng gã chưa liều mạng, đã biếu không tính mạng của mình trước rồi.

Địch Thanh sớm đã có ý muốn giết gã, vừa hay gã tự chui đầu vào rọ, sao lại không giết cho được? Lúc này trong điện Thiên Hòa là một đống hỗn loạn, Địch Thanh chỉ cảm thấy từng cơn say sẩm, chẳng màng thêm nữa, thân người quay một cái, đã xông ra từ phía hành lang.

Lúc ấy trong đầu hắn chỉ có một ý nghĩ, phải sống sót, hắn chưa thể chết được!

Địch Thanh trúng kim độc chạy nạn, Nguyên Hạo lại không bị trúng kim độc.

Không phải vì Nguyên Hạo tài trí hơn Địch Thanh, mà là do gã sớm tỉnh ngộ một bước. Địch Thanh vốn không biết sự sắc nhọn của ám khí trong tay, nhưng Nguyên Hạo lại biết thứ ám khí trong tay Địch Thanh gọi là “Bát Hỉ”

Trong năm đội quân của Nguyên Hạo, có một đội quân gọi là Bát hỉ quân. Trong đội quân Bát hỉ này có hai trăm người, chỉ có một tác dụng duy nhất, chính là sử dụng pháo lốc xoáy để tấn công địch. Thứ những người này ném đi chính là những viên đá nhỏ to tầm nắm đấm tay, uy lực của pháo lốc xoáy trong quân đội, còn mạnh hơn cả liên nỏ.

Nhưng Nguyên Hạo gã đã sớm không hài với uy lực chỉ thế này, gã sớm biết Vũ Kinh Đường của Đại Tống đang biên soạn quyển << Vũ Kinh Tổng Yếu>>. Mà trong <Vũ Kinh Tổng Yếu>, điều khiến Nguyên Hạo rung động nhất không phải binh pháp bên trong, mà là phích lịch!

Triều Tống đã nghiên cứu ra hỏa khí, muốn đối phó với người Khiết Đan và kỵ binh của người Đảng Hạng.

Trận chiến Tam Xuyên Khẩu, tuy quân Tống bại trận, nhưng đã bước đầu thấy được uy lực của phích lịch Đại Tống, mỗi lần Nguyên Hạo nghĩ đến điều này, trong lòng đều cảm thấy bất an. Do đó gã nghĩ trăm phương ngàn kế muốn đánh cắp cách chế tạo phích lịch, mặc dù chưa hoàn toàn thành công, nhưng đã mô phỏng được cách chế tạo sấm sét và tạo ra bát hỉ.

Vũ khí này vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm, nghiên cứu không dễ, chế tạo càng khó.

Nguyên Hạo xưa nay vẫn để Dã Lợi Vượng Vinh phụ trách việc này, nhưng gã chưa từng nghĩ rằng, Bát Hỉ vừa thành, lại áp dụng chính trên người gã.

Đây có lẽ cũng là sự mỉa mai.

Bát hỉ xuất hiện, vốn dĩ sẽ có người vui mừng, có người sầu não.

Chính bởi vì Nguyên Hạo biết được uy lực của Bát Hỉ, cho nên từ bỏ ý định đối phó với Địch Thanh, tránh trước một bước. Gã đã nhanh chân hơn, trên không trung đã thấy Địch Thanh bị trúng chiêu, chỉ đành thở dài.

Rất hiển nhiên, Địch Thanh vốn không biết uy lực của ám khí trong tay. Nhưng Dã Lợi Vượng Vinh làm như vậy, há chẳng phải đã tự phá trường thành của mình sao?

Nguyên Hạo đã đáp đất, thấy Địch Thanh bỏ chạy, nhưng lại không cài tên. Gã biết rằng việc trọng yếu nhất trước mắt, chính là trấn áp Dã Lợi Vượng Vinh tạo phản, việc còn lại, tạm thời không màng tới.

Nguyên Hạo vừa đáp đất, liền có hai người một trái một phải giết tới. Hai người đó vứt kích rút đao ra, chặn đường trái phải của Nguyên HạoÁnh đao cực lạnh cực sắc, tuy không bằng Địch Thanh, nhưng hơn hẳn những thị vệ bình thường.

Nhưng sai một ly, đi một dặm. Địch Thanh dùng kiếm như đao, chỉ dựa vào tung hoành đao pháp đã ép Nguyên Hạo chỉ còn thế phòng thủ, nhưng hai người này rõ ràng chưa đủ bản lĩnh. Nguyên Hạo ra tay, một đoạn trường cung đã cắm thẳng vào cổ họng của một tên, nắm tay đấm mạnh, không ngờ lại kích bay nốt tên còn lại.

Tốc độ chính là sức mạnh, nắm đấm của Nguyên Hạo, thẳng như rìu bổ khai sơn.

Chính lúc Nguyên Hạo dốc toàn lực tung ra một đấm, bỗng dưng cảm thấy nguy cơ lại đến, mối nguy lần này, đến từ phía một người đã chết!

Ba người Nguyên Hạo, Dã Lợi Vượng Vinh và Địch Thanh cuộn vào nhau, điện Thiên Hòa đã như trận Tu La (Tu La là nhân vật hiếu chiến trong thần thoại Ấn Độ, trận Tu La biểu thị trận chiến ác liệt vô cùng), mỗi một phút giây đều có người ngã xuống, điện Thiên Hòa đã sớm máu chảy thành sông, thi hài chồng chất.

Lúc Nguyên Hạo loại bỏ hai tên phản nghịch, vốn dĩ cảm thấy không còn mối nguy nào nữa, nhưng thật không ngờ sau lưng đột nhiên không nói không rằng có một người chết đứng bật dậy.

Người chết đó bắn lên từ dưới mặt đất, chớp mắt đã đến sau lưng Nguyên Hạo. Trong khói thuốc dày đặc, người thường căn bản không tài nào nhận biết được, nhưng Nguyên Hạo đã kịp thời phát hiện ra.

Nguyên Hạo có khả năng phát hiện mối nguy, chính khả năng đó đã giúp gã hóa dữ thành lành trong nhiều hoàn cảnh hiểm ác.

Nhưng lần này nguy cơ đến một cách quá ư đường đột, quá ư kì quái, Nguyên Hạo chỉ kịp quay đầu lại, liền nghe thấy một thanh âm truyền đến.

Lâm — binh — đấu — giả — giai — trận — liệt — tại — tiền!

(Đây là một trong những tư tưởng cổ đại Trung Quốc, thần đạo giáo Nhật Bản thường dùng. Mỗi thủ ấn ứng với một chữ.

Lâm: sức mạnh vũ trụ rót vào thân, trở thành Bất động bồ tát.

Binh: đại diện cho năng lượng trổi dậy, hàn phục kẻ thù xung quanh.

Đấu: dũng cảm quả đoán, càng khó khăn càng quyết tâm cao.

Giả: tự do thao túng nhục thể của mình và kẻ khác.

Giai: tự do thao túng tâm linh kẻ khác.

Trận: tâm linh cảm ứng hoặc ẩn thân.

Liệt: khống chế không gian thời gian.

Tại: khống chế năm nguyên tố (kim mộc thủy hỏa thổ).

Tiền: đại biểu cho ánh sáng.)

Chín chữ tưởng chừng chậm nhưng lại nhanh, chính vào lúc Nguyên Hạo quay đầu thì chín chữ đó đã được niệm xong. Giọng nói sâu thẳm, vừa như phật âm trên trời, lại giống lời nguyền địa ngục.

Đôi mắt Nguyên Hạo liếc xéo qua, chỉ thấy một đôi tay không ngừng chuyển động và biến đổi, kết thành những thủ ấn kỳ lạ. Ngay lúc Nguyên Hạo chưa kịp xoay người, một tay ấn ra, ánh sáng màu vàng nhạt, ấn thẳng vào lòng ngực của Nguyên Hạo.

Kim thủ chưởng đó trông có vẻ nhẹ tênh không chút sức lực.

Nhưng Nguyên Hạo cứ như bị búa tạ ngàn cân nện phải, một ngụm máu tươi được phun ra. Áo trắng của gã nhuốm máu, mũ đen rớt đất, toàn cơ thể đã bị một chưởng nhẹ tênh kia đánh bay đi!

Trước mắt Địch Thanh tối sầm lại, hắn xông vào điện kế bên, chỉ nghe từng đợt tiếng hô hào la hét, chẳng biết có bao nhiêu người đã ùa về phía này. Nhưng hổ dữ bị thương liều mạng, càng đáng sợ hơn nhiều so với con hổ liều mạng vì đói.

Không ngờ Địch Thanh lại phá được vòng vây dày đặc.

Tất cả thị vệ nghe thấy điện Thiên Hòa xảy ra chuyện, trong lòng đều cảm thấy hoang mang lo sợ, chạy đến hộ giá. Sau khi Địch Thanh thoát khỏi vòng vây, bèn nghe thấy một giọng nói uy nghiêm:

-Các người đuổi theo gã đó….bọn ta sẽ bảo vệ Ngột Tốt.

Ngay sau đó là tiếng bước chân dồn dập, ít nhất cũng có hơn mười mấy tên đuổi theo sau.

Mặt Địch Thanhtái xanh, mắt hoa cả lên. Tuy hắn đã cắt bỏ phần bị kim đâm, nhưng độc tính còn kịch liệt hơn hắn nghĩ. Địch Thanh chỉ dựa vào trực giác xông lên trước, dọc đường lại chém ngã hai tên cản đường, đột nhiên nhanh trí một cái, nhanh như bay cởi bỏ mũ giáp và giày của một trong số hai tên, mặc lên người mình.

Gã còn là Thượng La Đa Đa, tuy gã chết rồi. Nhưng nhiều người khác còn chưa hay tin này. Hắn đành phải thừa nước đục thả câu, tuy rằng cách này vô cùng mạo hiểm, nhưng hắn không còn cách nào khác ?

Địch Thanh mặc y phục của thị vệ, biến hóa mau lẹ, lại biến thành Thượng La Đa Đa, vòng qua một ngọn núi giả trong điện.

Nghe phía xa sau lưng có người kêu lên:

-Hắn chạy về phía bên kia, trên mặt đất có vết máu.

Địch Thanh gắng sức giữ lấy mạng sống, lại lần nữa nhanh trí, dốc hết sức lực còn lại chạy về phía trước, chỉ là chạy khoảng mười mấy trượng, lại vòng ngược trở về.

Trên mặt đất đã có vết máu loang lổ.

Ai cũng không hiểu rốt cục Địch Thanh muốn làm gì, chỉ có Địch Thanh mới hiểu rõ, hắn phải liều một phen, vùng thoát khỏi quân địch. Hắn chạy một vòng trở lại, đã thở không ra hơi, nghiêng ngã muốn đổ. Dùng đao cắt một đường lên vai mình, cắt rách cả áo giáp.

Chuyện như vậy, trước kia hắn làm, dễ như trở bàn tay, giờ làm việc này, chỉ mệt đến bở cả hơi tai, mồ hôi đầm đìa.

Hắn còn chưa ngã xuống, chỉ vì dựa vào nghị lực phi thường của mình.

Binh lính đuổi đến, có người hỏi:

-Thượng La Đa Đa, có thấy thích khách không?

Địch Thanh thở dốc nói:

-Chạy về phía bên kia rồi, hắn còn chém ta một đao.

Những binh lính đuổi theo đó thấy vết máu trên mặt đất, lần lượt kêu lên:

-Hắn ở ngay phía trước, đuổi theo mau.

Đám đông chen chúc nhau mà đi, không ngờ chẳng ai thèm nhìn Địch Thanh lấy một cái. Bọn chúng đương nhiên không thể ngờ, Thượng La Đa Đa lại chính là thích khách.

Địch Thanh thở phào nhẹ nhõm, nhưng biết chắc bọn chúng tìm không ra mình, sớm muộn cũng sẽ quay trở lại lục soát. Ngẩng đầu lên thấy có một gốc lầu các ở cách đây không xa, ra sức xông lên đó, dốc hết sức lực của chín trâu hai hổ mới lén bò được lên lầu hai, nhưng bỗng dưng trời đất nghiêng đảo, hắn liền ngã đùng xuống đất.

Vốn dĩ hắn định tìm một nơi để ẩn nấp, nhưng giờ đột nhiên ngất xỉu, binh lính sớm muộn cũng sẽ tìm đến, còn hắn đến cuối cùng vẫn chạy không khỏi số phận bị bắt.

Lúc này trong lầu các có tiếng bước chân vang lên, xem ra là do Địch Thanh bò lên trên, làm tỉnh giấc người trong lầu các kia.

Tiếng bước chân càng lúc càng gần, tiếng cọt kẹt vang lên, cửa nhà được mở ra. Địch Thanh nằm bất động, đã sớm mất đi tri giác.

---------------------------------

Lâm Binh Đấu Giả Giai Trận Liệt Tại Tiền!

Chín chữ này vừa thốt ra, người chết kia đột nhiên xuất bàn tay vàng, đánh Nguyên Hạo bị thương nặng.

Nguyên Hạo, Địch thanh, hai người này đấu sống đấu chết với nhau, xem ra đều đang ở ngưỡng cửa sống chết. Nhưng điều buồn cười là, người lấy mạng của bọn họ không phải là đối phương, mà lại là người bố cục.

Hiển nhiên Dã Lợi Vượng Vinh chính là người bố cục. Dã Lợi Vượng Vinh mãi vẫn không ra tay, trong lòng ông ta có điều băn khoăn, không dám lên trước. Tuy ông ta tạo phản, nhưng trong lòng vẫn có ý e sợ đối với Nguyên Hạo. Thế nhưng lúc thấy Nguyên Hạo trào máu, trong mắt Dã Lợi Vượng Vinh liền lộ vể vui mừng hớn hở!

Ông ta khéo léo sắp đặt cạm bẫy, ba thích khách liên hoàn, giờ cuối cùng cũng đánh được Nguyên Hạo bị trọng thương.

Chỉ cần Nguyên Hạo chết, kẻ thắng làm vua, ông ta sẽ có thể thay thế Nguyên Hạo, trở thành chủ nhân của Tây Bắc. Ngay khoảnh khắc ông ta trông thấy Địch Thanh đâm Nguyên Hạo bị thương, trong lòng cũng hối hận, ông ta đã đánh giá thấp Địch Thanh rồi.

Đương nhiên Dã Lợi Vượng Vinh sẽ không đem ván cờ to lớn này đặt cược trên người của Địch Thanh, mặc dù ông ta cũng biết rằng Địch Thanh nhất định sẽ không bỏ lỡ cơ hội giết chết Nguyên Hạo, nhưng ông ta là một người cẩn trọng. Người cẩn trọng vốn suy nghĩ nhiều, do đó ông ta đã đưa Bát Hỉ cho Địch Thanh, hy vọng rằng Địch Thanh cho dù không biết được Nguyên Hạo, cũng có thể cùng vào địa ngục với Nguyên Hạo.

Nhưng Bát Hỉ không làm Nguyên Hạo bị thương.

Nếu cái Địch Thanh cầm không phải là Bát Hỉ thì sao? Cùng liên thủ với người chết kia của Dã Lợi Vượng Vinh, chẳng phải phần thắng sẽ càng chắc chắn hơn ư|?

Dã Lợi Vượng Vinh không biết kết cục ra sao, chuyện trên đời cũng không thể có lần thứ hai. Điều duy nhất ông ta vui mừng là, Nguyên Hạo đã bị thương, hơn nữa còn bị thương nặng. Chỉ cần gã tay vàng kia đánh Nguyên Hạo thêm một chưởng nữa, chắc chắn sẽ lấy mạng của Nguyên Hạo.

Dã Lợi Vượng Vinh rất có lòng tin đối với gã kim thủ kia, cũng tin vào Cửu tự chân ngôn và đại thủ ấn sắc bén của gã. Trong truyền thuyết, cửu tự chân ngôn kia có thể trừ ma diệt quỷ, tăng cường thần lực, rất nhiều người cho rằng đó là lời nói vô căn cứ, nhưng Dã Lợi Vượng Vinh biết điều đó không đúng.

Trên thế gian này vốn dĩ có rất nhiều dấu vết thần thánh, cái gọi là thông minh như loài người, vĩnh viễn cũng không tài nào lý giải và tượng tượng ra được.

Nếu chẳng phải vì có thần thánh, Dã Lợi Vượng Vinh cũng không nghĩ trăm phương ngàn kế để tạo phản như vậy.

Tâm tư của Dã Lợi Vượng Vinh xoay như chong chóng, nhưng động tác của gã kim thủ còn nhanh hơn. Chính ngay lúc chưởng bay Nguyên Hạo, cơ thể gã đã bay lên thật cao, nhưng bất thình lình gã trông thấy Nguyên Hạo tay đang cầm cung, tiễn đã lên dây!

Thứ trên dây cung là ngân tiễn.

Nguyên Hạo ngay trước ngưỡng cửa sinh tử, vậy mà vẫn không muốn dùng kim tiễn. Nếu gã không nắm chắc phần thắng, sao gã lại đem tính mạng của mình ra đùa giỡn được?

Thời gian và không gian ngưng đọng, gã kim thủ lo sợ trong lòng, khàn giọng nói:

-Lâm…

Mười ngón tay của gã co duỗi đan vào nhau, miệng thốt chân ngôn, muốn mượn thần lực để chống đỡ mũi tên định đỉnh của Nguyên Hạo.

Cửu Vương Long Bộ, mạnh nhất tám bộ, định đỉnh vũ tiễn, vua trong vua!

Truyền thuyết noí rằng, cao thủ của bát bộ cửu vương, không ai có thể tự tin bắt được một tiễn của Đế Thích Thiên Nguyên Hạo.

Gã kim thủ cũng chẳng có tự tin để tiếp tiễn, nhưng gã không thể không tiếp. Gã biết rằng, một tiễn này bắn ra, ắt phải có một trong hai người phải chết đi một. Gã đã đọc xong hai chữ “ Tại Tiền”, chân ngôn đã thành, thủ ấn đã kết, người giữa không trung. 

Trong thoáng chốc tiễn đã không còn trên dây.

Ánh vàng kim trên tay gã kim thủ bỗng vụt tắt, người cũng theo đó rớt xuống từ trên không. Một luồng gió lạnh mang theo sức mạnh kích phá ma lực xuyên thấu bàn tay của kim thủ nhân, đâm xuyên lồng ngực của gã, thổi thẳng lên tường điện.

“xẹt” một tiếng vang lên, mũi tên sắc nhọn mất đi lông vũ, chỉ thấy còn để lại chút ánh sáng màu bạc trên không trung.

Nguyên Hạo đã bắn một trong năm mũi tên đó là mũi tên màu bạc.

Mũi tên xé trời, trong sự huyền diệu, lạnh lùng, vô tình, sắc nhọn còn mạng một chút gì đó tươi đẹp.

Mũi tên đó giống hệt như sao băng lướt ngang qua bầu trời, bắn tắt binh khí leng keng, vui buồn non nước….

Kim thủ nhân đã chết!

Cuối cùng điện Thiên Hòa đã yên tĩnh trở lại.

Mặc dù vẫn đang có người không ngừng ngã xuống đất, nhưng quân phản nghịch đã mất đi lòng tin. Dã Lợi Vượng Vinh vừa mới tỏ ý vui mừng, liền trở nên kinh hãi, tuy ông ta biết võ công của Nguyên Hạo vô cùng cao thâm, nhưng cũng không ngờ tới, có kim thủ nhân có thần linh yểm hộ, vậy mà không đỡ được một tiễn kinh trời của Nguyên Hạo.

Mũi tên của Nguyên Hạo, vốn dĩ chính là thần cản giết thần, ma chắn trừ ma!

Mũi tên mà Nguyên Hạo dùng để giết Lưu Bình là thiếc tiễn, cho dù là ngưỡng cửa sống chết, nhưng mũi tên dùng để giết kim thủ nhân cũng chỉ là ngân tiễn. Gã chưa từng đả động tới trường tiễn màu vàng, phải chăng gã cho rằng, cho dù là kim thủ nhân, cũng không đáng phải dùng trường tiễn màu vàng của gã?

Còn ba mũi tên trong bình tên, không ai dám xông lên nữa.

Dã Lợi Vượng Vinh đã thua, tuy rằng ông ta còn có một số hộ vệ đang chống cự, nhưng ai cũng đều nhìn ra, bọn chúng đã mất hết lòng tin. Nguyên Hạo bất khả chiến bại, mặc cho bọn họ thần cơ diệu toán, cũng không tài nào chiến thắng Nguyên Hạo được!

Dã Lợi Vượng Vinh không động đậy, Nguyên Hạo cũng không động đậy, chỉ là trong mắt Nguyên Hạo, đã toát ra ánh nhìn sắc như tên vậy, trong sự cuồng nhiệt còn xen lẫn sự lạnh lùng vô tình.

-Ngươi thua rồi.

Khóe miệng Nguyên Hạo vẫn đang chảy máu, nhưng giọng nói điềm tĩnh. Gã có quyền tuyệt đối, không cần phải đề cao giọng để duy trì uy tín.

Khóe mặt Dã Lợi Vượng Vinh co giật, nhìn đống hỗn độn trong điện Thiên Hòa, thần sắc lạc lõng.

-Chống đối ta, thua cũng đồng nghĩa với chết.

Nguyên Hạo lại nói:

-Nhưng điều ta luôn thắc mắc là, nếu ngươi đã là một trong Cửu Vương Long Bộ, thân thủ không tồi. Ngươi già rồi, nhưng vẫn có năng lực chiến đấu với ta. Có điều ngươi lại để mặc cho những thích khách ngươi cài vào ra tay, bản thân thì trước sau chẳng dám xông lên, sợ gì vậy? Sợ ta một mũi tên bắn chết ngươi à?

Từng câu từng chữ của Nguyên Hạo sắc như kim, đâm vào trong tim của Dã Lợi Vượng Vinh, Dã Lợi Vượng Vinh không ung dung nữa, toàn thân run rẫy, nắm chặt nắm đấm, đã không kìm nổi muốn ra tay.

Ngón tay Nguyên Hạo khẽ vuốt ve mũi tên, nhịp điệu như điệu nhạc.

-Ta đích thân giết người, xưa nay luôn chọn tiễn mà giết. Lưu Bình bị bắt giả vờ đầu hàng ta, hiển nhiên muốn đợi cơ hội để hành thích ta. Đáng tiếc…Lưu Nghi Tôn không hiểu dụng ý của Lưu Bình, hiểu lầm Lưu Bình. Lưu Bình tận mắt nhìn con trai mình chết thảm, trong lòng đau đớn không nói thành lời. Nhưng không ngờ gã lại có thể xuất kiếm, cũng xem như không tồi.

Khóe miệng Nguyên Hạo mang theo nụ cười tàn khốc, ánh mắt lướt qua xác chết của Lưu Bình.

-Lưu Bình đã chết, nhưng gã chết không nhắm mắt, mắt vẫn nhìn về hướng đứa con mình đã chết, khóe mắt có lệ….

Nguyên Hạo nói tiếp:

-Dã Lợi Vượng Vinh, ngươi có thể liên kết với Lưu Bình hành thích ta, kế sách khá tốt. Tuy nhiên mặc dù Lưu Bình có dũng khí hơn người, có điều thân thủ thật sự quá kém, ta chỉ để cho hắn mũi tên thiết mà thôi. Người trên xà nhà nhảy xuống, thân thủ cực cừ, nhưng lại bị thủ đoạn độc ác của ngươi hủy hoại, rõ ràng hắn không biết uy lực của Bát Hỉ, ta chỉ cảm thấy kì lạ là…hắn và ngươi rõ ràng không cùng một hạng người, sao lại chịu hợp tác với ngươi? Đáng tiếc rằng dùng người không nghi, nghi thì không dùng, chẳng đợi ta đối phó với hắn, không ngờ ngươi đã tự diệt đi hắn trước.

Mắt Dã Lợi Vượng Vinh lộ vẻ đau khổ, ông ta thật sự hối hận vì đã không phát huy triệt để uy lực của Địch Thanh. Bố cục này không phải thua ở thực lực, mà là thua vì không có sự tin tưởng lẫn nhau.

Nguyên Hạo lại nói:

-Kim thủ nhân đương nhiên là cao thủ Mật Tông…ta nghe nói Cốc Tư La vì Hương Ba Lạp, đã chuẩn bị điều động ba đại thần tăng để đối phó với ta, ba người đó chính là Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không. Tuy nhiên ta nghe nói Bất Không đã chết ở Biện Kinh, Sở trường giỏi nhất của Kim Cương Trí chính là Cửu tự chân ngôn, Kim thủ ấn. Người hành thích ta miệng thốt chân ngôn, tay màu vàng nhạt, khỏi phải hỏi, khẳng định là một trong ba cao thủ Mật Tông là Kim Cương Trí rồi? Gã ta đáng để ta dùng mũi tên bạc. 

Dã Lợi Vượng Vinh đã tuyệt vọng. Trên đời này, điều khó chịu hơn cái chết, chẳng phải nghi ngờ chính là sự tuyệt vọng.

Nguyên Hạo hạ giọng nói:

-Ngươi rất hiếu kỳ sao ta biết nhiều chuyện như thế phải không? Kì thật chuyện mà ta biết, nhiều hơn ngươi tưởng nhiều. Năm đó Dạ Nguyệt Phi Thiên cải trang thành Đa Văn Thiên Vương, phá hủy Phật Di Lặc Biện Kinh, tìm kiếm Ngũ Long, lúc đó ta đã biết có người căn dặn gã làm như vậy, bởi vì người đó cũng muốn có Hương Ba Lạp. Ta vẫn luôn nghi ngờ chính là ngươi đã đứng sau bức màn chỉ đạo, nhưng ta vẫn chọn lựa tin tưởng vào ngươi. Gút mắc của ngươi, Chủng Thế Hành và triều Tống, sao lại bị ta để tâm tới? Đương nhiên ngươi phải biết rằng đây không phải là nguyên do ta nghi ngờ ngươi, sở dĩ ngươi hành động, là vì ngươi sợ ta phát hiện ra ngươi cũng đang tìm Hương Ba Lạp, có phải vậy không?

 Chương 262 - 267: Đan Đan

Dã Lợi Vượng Vinh trái lại bình tâm trở lại, thở dài nói:

-Không sai, ta rất sợ ngươi, nhưng ta thật sự rất muốn tìm thấy Hương Ba Lạp, nhưng ngươi xưa nay không cho phép bọn ta tìm kiếm…do đó lúc Cốc Tư La phái người tìm đến ta, ta đã chọn đồng ý liên thủ với y. Ta biết rằng, chỉ có giết chết ngươi, mới có thể có được Hương Ba Lạp, nhưng ngươi thắng rồi, ta thua rồi.

Hai tay mở ra, nhìn thi thể phủ khắp điện nói:

-Thắng làm vua thua làm giặc, xưa nay cũng chẳng có gì để nói. Ở đây có rất nhiều người, đáng lẽ không phải chết.

Ánh mắt Nguyên Hạo như kim, nhìn chằm chằm vào Dã Lợi Vượng Vinh nói:

-Người không đáng chết đều chết cả, thế người đáng chết thì thế nào?

-Người đáng chết, cũng mau chóng chết thôi.

Dã Lợi Vượng Vinh trái lại điềm tĩnh hẳn đi

-Xưa nay ngươi giết người đều chọn tên, người không đáng giết, cho dù quỳ dưới chân cầu xin ngươi, ngươi cũng không dùng tên. Ngươi nói phải, ta mãi cứ không ra tay, bởi vì ta thật sự rất sợ chết, nhưng bây giờ…ta ngược lại thấy rất hiếu kỳ, ngươi sẽ chọn mũi tên nào để giết ta đây?

Vốn dĩ ông ta rất tò mò, kế hoạch tại sao lại thất bại, bởi vì bất luận nhìn theo góc độ nào, chuyện mà Nguyên Hạo biết được quá nhiều rồi.

Trong kế hoạch này chắc chắn có một móc xích đã bị trật ra, như vậy mới khiến ông ta phải kiếm củi ba năm thiêu trong một giờ, nhưng rốt cục là khâu nào đây? Dã Lợi Vượng Vinh không biết.

Nhưng Dã Lợi Vượng Vinh đã không còn quan tâm nữa, một người sắp chết, cần gì phải suy nghĩ nhiều như vậy? Mặc dù ông ta nham hiểm, xảo quyệt, nhưng dù sao cũng là một trong Cửu Vương Long Bộ, trước khi chết cũng không muốn quá ư hèn nhát.

Ngón tay của Nguyên Hạo dịu dàng lướt qua ba mũi tên, đột nhiên búng một cái, ngón tay đã rời khỏi các mũi tên.

Trong tay gã không có tên.

-Ta giết ngươi làm gì nhỉ? Nhiều khi sống lại còn khó chịu hơn cái chết. Trái lại vừa rồi ngươi còn đáng để ta dùng một mũi tên, nhưng bây giờ…ta còn nhất thiết phải xuất tên không?

Trong mắt Nguyên Hạo đầy vẻ nhạo bang, nói xong, xoay người bỏ đi, vung vẫy tay áo, chẳng mang theo nửa hạt bụi trần.

Ánh mặt trời chiếu rọi vào từ ngoài điện, không chiếu tới người của Dã Lợi Vượng Vinh.

Ông ta cứ đờ đẫn đứng ngay ra trong điện, chẳng ai thèm ngó ngàng. Mái tóc bạc nơi thái dương đã như nhuộm sương, nếp nhăn trên mặt ông càng như dao khắc. Nhẹ nhàng khom người xuống, nhìn một thi hài trên đất, Dã Lợi Vượng Vinh tự lẩm bẩm:

-Lúc đầu ngươi khuyên ta buông tay, khuyên ta lùi một bước, nhưng ta không nghe ngươi, thật sự là vì…ta đã không thể lui được nữa.

Thi thể đó mở to mắt, mũi bị cắt đi, mềm nhũn treo bên mặt, dữ tợn đáng sợ khó lòng tả xiết. Đó là thi thể của Lãng Mai, tuy gã đã dốc toàn lực, nhưng việc thích sát diễn ra không bao lâu, liền chết trên tay vệ sĩ giáp vàng của Nguyên Hạo.

Dã Lợi Vượng Vinh nhìn con mắt đơ như mắt cá của Lãng Mai, vất vả nhặt lên một thanh đao thép nhuốm máu, lẩm bẩm nói:

-Hương Ba Lạp? Có lẽ…

Bỗng nhiên cười một cái, trong mắt xẹt qua niềm vui khó tả. Sau đó ông ta một đao đâm vào bụng mình, chậm rãi ngã xuống đất…

Xem ra ông ta đã được giải thoát, cuối cùng cũng hiểu ra…..nhiều khi, chết không phải chuyện đau đớn nhất, sống mới đau khổ!

Lúc tỉnh lại, nhất thời Địch Thanh không biết mình đang ở chỗ nào.

Hắn nhiều lần sinh tử, nhưng đều có thể từ chỗ chết tìm được đường sống, đây chẳng phải là do ông trời còn chưa muốn hắn chết sao? Địch Thanh nghĩ đến đây, nội tâm cảm thấy chua xót, trong mắt lại hiện lên sự kinh ngạc. Thời điểm hắn tỉnh lại, vốn tưởng rằng không chết thì cũng đang ở trong nhà giam…

Nhưng hiển nhiên nơi này không phải là nhà giam.

Vách tường xanh nhạt mang theo phần lạnh lẽo, trên nóc nhà màu xanh da trời lại vẽ mấy đám mây trắng, tấm màn màu tím, sắc điệu có phần lạnh nhạt nhưng lại mang khí tức cao quý.

Hắn còn không ngờ là mình đang nằm trên một cái giường.

Địch Thanh cảm nhận được thân thể còn mệt mỏi, nhưng cảm giác choáng váng đã qua. Hắn trúng độc trâm, bị vây bắt chờ chết. Nhưng một khắc sau, hắn đã tốt rồi, còn được ngủ một giấc ngon lành. Địch Thanh không dám xác định đây là mộng cảnh hay hiện thực?

Cố gắng ngồi dậy, Địch Thanh đột nhiên chấn động, đưa mắt nhìn khắp phòng, mới phát hiện trong phòng còn có một người.

Người đó lẳng lặng ngồi ở góc phòng, lúc Địch Thanh cố gắng ngồi dậy, người đó mới xoay đầu lại, lẳng lặng nhìn Địch Thanh.

Địch Thanh thấy người kia bình tĩnh như thế, thiếu chút nữa cho rằng người đó là Phi Tuyết. Nhưng ngay lập tức hắn phát hiện, người đó không phải là Phi Tuyết. Nhưng hắn cảm giác được, người kia có chút quen thuộc, trong lúc nhất thời không thể nhớ được là đã gặp nhau ở đâu, hắn có quen biết người kia sao?

Người đó là một cô gái, đang mặc một cái quần thun màu tím, tóc búi như mây, một cây ngọc trâm cắm vào một khe hở nghiêng. Nàng giống với căn phòng này, giản dị, trong sáng, cao quý nhưng thanh lịch, thanh lịch nhưng lại lạnh lùng.

Nàng có màu da trắng như ngọc, lại thêm chiếc quần tím trợ giúp, giống như là một mỹ nhân được điêu khắc từ bạch ngọc. Nàng có hàng long mi dài, đôi mắt sáng, yên bình như nắng hè trong u cốc. Nhưng vào những lúc nàng bất động, lại lạnh lẽo như băng.

Địch Thanh nhìn nàng, nàng nhìn Địch Thanh. Cả hai đều im lặng.

Trong phòng, yên lặng, lạnh nhạt, còn tràn ngập màu tím huyền bí…

Địch Thanh chăm chú nhìn nàng một lúc lâu, cuối cùng cũng phá vỡ không khí im lặng, mở miệng nói:

-Công chúa Đơn Đơn?

Cuối cùng hắn cũng nghĩ ra người con gái này là ai, nhưng hắn không dám khẳng định. Ai có thể nghĩ nữ tử tinh quái, tính tình luôn biến đổi ở trong sa mạc kia và thiếu nữ cao quý, trầm mặc này là cùng một người?

Thiếu nữ không trả lời mà hỏi ngược lại:

-Ngươi là ai?

Nếu nàng là Công chúa Đơn Đơn, sao có thể thoát khỏi tay Phi Ưng? Sao lại không biết Địch Thanh? Chẳng lẽ bởi vì lúc này Địch Thanh vẫn còn hóa trang trên khuôn mặt nên nàng không nhận ra Địch Thanh?

Địch Thanh nghĩ đến đây, vốn không nên thừa nhận thân phận, bởi vì như vậy hắn mới có cơ hội sống sót, nhưng hắn vẫn nói:

-Ta là Địch Thanh.

Rốt cuộc thiếu nữ cũng mỉm cười, trong nụ cười hiện lên nét cô đơn:

-Ngươi đã là Địch Thanh, vậy ta chính là Công chúa Đơn Đơn rồi.

Ánh mắt Địch Thanh chớp động:

-Nếu ta không phải là Địch Thanh?

Công chúa Đơn Đơn lạnh lùng nói:

-Nếu ngươi không phải Địch Thanh, hiện tại ngươi đã bị ném ra ngoài.

Sau khi nói xong, nàng nghiêng đầu, ngơ ngác nhìn một cây nến đỏ ở trên bàn.

Nến đỏ rơi lệ, vốn không nhìn rõ, Công chúa Đơn Đơn lại rơi vào im lặng.

Địch Thanh cẩn thận cân nhắc tâm tư của cô gái này, thầm nghĩ, “Nàng là muội muội Nguyên Hạo, chắc cũng biết ta muốn ám sát đại ca nàng. Nhưng vì sao nàng không giao ta cho Nguyên Hạo?”

Địch Thanh nghĩ mãi không ra, nhịn không được bèn hỏi:

-Vì sao ngươi lại cứu ta?

Công chúa Đơn Đơn thản nhiên nói:

-Không tại sao.

Nàng lấy cái ngân trâm, đâm vào giữa ngọn nến, cây nến vỡ tung, ánh lửa văng bắn ra bốn phía, càng làm hồng thêm mái tóc và làm nổi bật khuôn mặt trắng muốt kia.

Địch Thanh ngồi thẳng dậy, ánh mắt nhìn vào màn đêm tối tăm, lại chuyển qua nóc nhà xanh thẳm. Loại cảm giác này thật là quái dị.

Một lúc sau, Đơn Đơn buông ngân trâm xuống, nghiêng đầu lại, thờ ơ nói:

-Cả đời này, ta đã hai lần mất giày.

Ngay lúc này, nàng đột nhiên nói đến giày. Nhất thời, Địch Thanh không biết trả lời như thế nào, chỉ có thể im lặng.

Đơn Đơn nhìn Địch Thanh, ánh mắt mông lung, dường như cất giấu một điều gì đó:

-Trong sa mạc, giày của ta rơi mất một lần, lần đó… ngươi giúp ta làm chỉ giày.

Thấy Địch Thanh không nói gì, Đơn Đơn lại nói:

-Lúc ta còn nhỏ, trốn tránh phản loạn trong tộc, cũng bị mất giày.

Địch Thanh thầm nghĩ, “Đơn Đơn này thoạt nhìn rất cô đơn, nhưng không đơn giản. Rốt cuộc bằng cách nào mà nàng ta có thể trốn thoát khỏi tay Phi Ưng? Chẳng lẽ… Phi Ưng thật sự bán rẻ Dã Lợi Vương?

Địch Thanh thầm nghĩ, Đơn Đơn lẩm bẩm nói:

-Lần đó quân đội của phụ vương bị đánh tan, đại ca mang theo ta trốn đi. Nếu không nhờ có đại ca bảo vệ, ta đã chết từ lâu

Địch Thanh biết đại ca mà Đơn Đơn nói chắc chắn là Nguyên Hạo, còn không rõ tâm tư của Đơn Đơn, có điều vẫn lẳng lặng lắng nghe.

-Sau đó chạy trối chết, trên đường ta bị rơi mất đôi giày. Đại ca không rảnh để đi tìm, liền cõng ta chạy đi. Khi đó huynh ấy đã gần kiệt sức, ta cầu xin huynh ấy bỏ ta lại, huynh ấy nhất định không chịu. Huynh ấy nói ta là muội muội thân thiết của huynh ấy, tuyệt đối sẽ không bỏ ta lại…

-Sau đó chúng ta rơi vào một mảnh cát chảy trũng, cùng nhau chìm xuống. Nếu không phải do ta làm huynh ấy mệt mỏi, chắc chắn huynh ấy chắc chắn có thể trốn thoát. Có thể do ông trời không tuyệt lòng người, cát chảy không cướp đi mạng sống của chúng ta, chúng ta xuyên qua dòng cát chảy, rơi vào không gian tối đen, ta đã thất lạc huynh ấy…

Khi Địch Thanh còn trầm tư suy nghĩ, Đơn Đơn đã rời khỏi phòng. Đan Phượng Các này thật lớn. Từ trong phòng muốn đến tiền sảnh phải đi qua hai lần cửa. Địch Thanh chỉ nghe thấy tiếng đóng cửa thật mạnh của Đơn Đơn, sau đó căn phòng liền trở nên yên tĩnh.

-Không gian kia tuyệt đối là hắc ám. Không nghe thấy bất kì âm thanh nào, không có một tia sáng nào. Có người nói, địa ngục rất đáng sợ, nhưng cô đơn còn đáng sợ hơn địa ngục. Có đôi khi… cô đơn, tĩnh lặng giống như bị ngàn vạn con kiến cắn nuốt thân thể của ngươi, nhưng ngươi lại không thể trốn tránh. Ngươi… sẽ không hiểu được cái loại cảm giác đó đâu.

Đột nhiên Địch Thanh lên tiếng:

-Ta hiểu.

Hắn nói rất thành khẩn. Thấy Đơn Đơn nhìn lại, ánh mắt đã khác đi. Hắn sợ cô đơn, nhưng không thể không đồng hành cùng cô đơn. Từ sau khi Dương Vũ Thường rời xa hắn, hắn vẫn luôn sống một cách cô độc. Hắn cũng không ngờ, Đơn Đơn cũng từng trải qua cảm giác này.

Thân thể mềm mại của Đơn Đơn run rẩy, nhìn Địch Thanh. Nàng biết Địch Thanh không nói dối. Nàng nhìn thấy được, dù là lúc điên cuồng hoan lạc giữa một đám người, Địch Thanh vẫn rất cô đơn.

Thật ra từ lúc ở đại mạc, nàng đã nhìn ra điều này.

Ánh sáng từ ngọn nến chiếu lên bốn vách tường, khói bay nhè nhẹ trong căn phòng, dường như cũng là màu xanh đấy…

Ánh mắt Địch Thanh rời đi, nhìn vào ánh sáng từ ngọn nến, đột nhiên nói:

-Cho nên sau khi ngươi thoát khỏi đó, liền sơn nóc nhà thành trời xanh mây trắng? Ngươi sợ ác mộng lại xuất hiện, ngươi muốn khẳng định, thời điểm mình mở mắt ra, không phải là trong cơn ác mộng kia?

Đơn Đơn nhìn bốn vách tường ở xung quanh, nhẹ nhàng gật đầu nói:

-Ngươi đoán đúng. Lúc còn ở đó, ta đã nghĩ, cả đời ta không muốn phải sống trong bóng tối. Nhưng khi ta bị bao phủ bởi bóng tối, lần mò tiến về phía trước, ta lớn tiếng gọi tên của ca ca, ta thà chết trong vòng tay của người thân, bởi vì chỗ chúng ta có một truyền thuyết, chết bên cạnh người thân, kiếp sau còn có thể gặp lại.

Nàng nói một cách nhẹ nhàng, nhưng đôi mắt như sáng lên, giống như ngọn nến phát ra đốm lửa nhỏ, đó là một loại nước mắt tình cảm.

Lần này Địch Thanh không nói gì, hắn chợt nghĩ đến lúc trước Đơn Đơn muốn chết, đã nói với hắn, “Nếu ông trời muốn ta phải chết, ta hi vọng… có thể chết trên tay ngươi. Ngươi đã cứu ta, lại giết ta. Đời này kiếp này chúng ta sẽ không thiếu nợ nhau?” Chẳng lẽ, khi đó, Đơn Đơn đã xem hắn là người thân?

Hắn thực sự không đoán được tâm tư của thiếu nữ áo tím này. Hắn cũng không muốn đoán nữa.

Rất lâu sau, Đơn Đơn nói tiếp:

-Trong hoàn cảnh đó, ta không ngừng sờ soạng, không ngừng khóc lóc gọi tên đại ca, gọi đến khi cổ họng khản đặc, nói không ra tiếng, nước mắt cũng cạn khô. Lúc đó, ta bỗng hận đại ca, hận huynh ấy không nên cứu ta, cứ để ta chết đi, chẳng phải mọi chuyện đều xong hết hay sao?

Địch Thanh thấp giọng nói:

-Khi đó ngươi vẫn còn là trẻ con, nghĩ như thế nào… Cũng không sai.

Đơn Đơn khẽ cắn vành môi đỏ mọng, cắn đến khi nó có chút trắng bệch, cứ như vậy nhìn Địch Thanh, hồi lâu sau mới nói:

-Sau đó ta nói chuyện này với đại ca, huynh ấy cũng nói giống ngươi.

Địch Thanh nhớ đến người mũ đen áo trắng, nhớ đến cây cung lớn và mũi tên bện lông vũ, lại nhìn Đơn Đơn, đột nhiên hắn có cảm giác chắc chắn là Nguyên Hạo này cũng rất phức tạp.

Người đứng đầu vùng Tây Bắc, giết người không chớp mắt, lại quan tâm đến muội muội như vậy?

Bốn bức tường màu xanh, ánh nến đỏ lạnh.

Đơn Đơn nhìn nến đỏ, buồn bã nói:

-Sau đó, lúc ta tuyệt vọng đến gần phát điên, đại ca của ta đột nhiên xuất hiện, đã mang tới thanh âm, mang tới ánh sáng… Ta cũng thoát khỏi cảm giác cô đơn này. Từ đó về sau, ta rất sợ cô đơn, cũng rất sợ chết. Sợ chết một mình ở một nơi xa lạ.

Địch Thanh cảm thấy chuyện xưa kể ra còn có chút không rõ ràng.

Đơn Đơn bị rơi vào dòng cát chảy ở nơi nào? Vì sao Nguyên Hạo lại không bị gì? Làm thế nào mà y có thể tìm được muội muội? Còn có một điểm rất quan trọng, tại sao Đơn Đơn lại kể những chuyện này với một người hoàn toàn xa lạ? Tất cả mọi việc, đều không rõ ràng, nhưng Đơn Đơn cũng không nói tiếp

Mặc dù muốn biết, nhưng Địch Thanh cũng không hỏi.

Đơn Đơn lại hỏi:

-Sao ngươi không hỏi ta, vì sao ta lại kể chuyện này cho ngươi nghe? Vì sao ta có thể trở về từ đại mạc? Hiện tại đại ca của ta thế nào? Chẳng lẽ ngươi không có chút hiếu kì nào sao?

Trống ngực Địch Thanh đập mạnh:

-Có một câu ta muốn hỏi nhất, Hương Ba Lạp đang ở đâu?

Nguyên Hạo, Dã Lợi Vượng Vinh đều biết Hương Ba Lạp, theo bản năng, hắn cho rằng Đơn Đơn cũng sẽ biết y.

Nhưng Địch Thanh không nghĩ tới, khi mà Đơn Đơn nghe được cái tên Hương Ba Lạp sẽ có phản ứng mạnh như vậy. Đơn Đơn đứng thẳng lên, gào lên thảm thiết:

-Sao ngươi lại biết Hương Ba Lạp? Ngươi tìm Hương Ba Lạp làm gì?

Trong lòng Địch Thanh sôi trào, hắn đã khẳng định chắc chắn Đơn Đơn cũng biết Hương Ba Lạp.

-Ngươi thật sự biết Hương Ba Lạp ở đâu?

Sắc mặt Đơn Đơn trắng như bạch ngọc, thấy Địch Thanh hỏi, lại tái nhợt như tuyết. Nàng run rẩy, chăm chú nhìn Địch Thanh, nói từng chữ:

-Ta biết.

Địch Thanh vui mừng, chưa kịp hỏi thì Đơn Đơn đã nói một cách dứt khoát:

-Nhưng ta sẽ không cho nói cho ngươi biết! Ta sẽ không nói cho ngươi nghe một chút gì!

Trong lòng Địch Thanh kinh ngạc, tràn đầy thất vọng, không tra hỏi nữa. Hắn có thể nhìn thấy sắc mặt tái nhợt của Đơn Đơn, ánh mắt nghi hoặc lo sợ. Chẳng hiểu tại sao, hắn chỉ cảm thấy trong lòng Đơn Đơn tràn ngập sự hoảng sợ. Địch Thanh cảm thấy buồn bã, bi thảm nói:

-Tốt! Vậy xem như ta chưa từng hỏi đi.

Đơn Đơn hơi thở dốc, dường như còn chưa thoát khỏi sự sợ hãi, nhìn thấy ánh mắt bi thương đến cực điểm của Địch Thanh, không kìm được liền hỏi:

-Vì sao ngươi lại tìm Hương Ba Lạp?

Địch Thanh trả lời:

-Ngươi không nói cho ta biết Hương Ba Lạp ở đâu, tại sao ta phải cho ngươi biết lý do?

Ánh mắt lo sợ và nghi hoặc của Đơn Đơn liền biến thành phẫn nộ, tiến lên vài bước, trừng mắt nói:

-Ngươi trúng kịch độc, tuy rằng đã được giải, nhưng trong bảy ngày không thể dùng sức. Bây giờ ngươi đang ở Đan Phượng lầu, chỉ cần ta hô một tiếng, sẽ có hộ vệ trong cung xông tới chặt ngươi thành thịt vụn, ngươi có tin không?

Địch Thanh nhìn Đơn Đơn một lúc, gật đầu nói:

-Ta tin!

-Vậy ngươi còn không nói?

Đơn Đơn đắc ý nói.

Địch Thanh lắc đầu:

-Ta không nói!

Đơn Đơn có chút ngạc nhiên, khuôn mặt tái nhợt như bạch ngọc trở nên đỏ ửng vì phẫn nộ. Địch Thanh yên lặng quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, bên ngoài có trăng, trăng sáng đêm dài.

Không biết trôi qua bao lâu, sự phẫn nộ trong mắt Đơn Đơn đã tan hết, đột nhiên nói:

-Ta biết ngươi định dùng phép khích tướng, ngươi muốn ta giao ngươi cho đại ca của ta. Ngươi muốn biết bí mật của Hương Ba Lạp? Hừ, ngươi muốn biết, ta càng không cho ngươi biết. Ngươi muốn gặp đại ca của ta, ta sẽ đem ngươi ra khỏi cung.

Nàng cố gắng tạo ra dáng vẻ hung ác nhưng thật sự không giống, Địch Thanh cũng đành thở dài.

Đơn Đơn nhìn thấy ánh mắt sâu thẳm của Địch Thanh, đột nhiên kìm lại, không nói nữa, sắc mặt trở nên lạnh lẽo:

-Ngươi có biết… vừa rồi ta phát lời thề gì?

Nàng bắt đầu hung dữ, lại giống với tiểu cô nương không hiểu chuyện, nhưng lúc tỉnh táo, lại giống với ngọn núi băng, tự đẩy người khác ra xa mình cả ngàn dặm.

Địch Thanh lắc đầu, cũng lười nói nhiều.

Đơn Đơn lẩm bẩm:

-Ta mới thề, nếu như ngươi gạt ta, không thừa nhận là Địch Thanh, ta sẽ giết ngươi. Nếu ngươi không gạt ta, ta sẽ nhớ kỹ ngươi đã từng cứu ta ở sa mạc, sẽ đưa ngươi ra khỏi cung, để ngươi tự sinh tự diệt.

-Không phải là ta không muốn lừa ngươi, chỉ có điều vừa rồi cảm thấy không thể lừa được ngươi.

Địch Thanh nói một cách thản nhiên.

-Ngươi không cần xem ta là một người vĩ đại, vì vậy ngươi không cần vì không cứu được ta mà canh cánh trong lòng.

Đơn Đơn trừng mắt nhìn Địch Thanh:

-Ngươi nghĩ ta không có bản lãnh đưa ngươi ra ngoài sao? Hừ! Hôm nay ta sẽ cho ngươi xem ta có bản lãnh này không.

Địch Thanh lại im lặng, hắn thấy được, Đơn Đơn cô đơn, cao quý, hay thay đổi, tùy hứng, nhưng vốn không muốn giết hắn.

Đúng lúc này, bức rèm che được mở ra, có tỳ nữ đi vào nói:

-Thưa Công chúa, Bộ chủ Càn Đạt Bà đã tới.

Tỳ nữ kia có đôi môi hồng, hàm răng trắng, khuôn mặt khá mĩ lệ.

Trong lòng Địch Thanh trở nên khẩn trương. Hắn nhớ rõ, trận chiến năm đó ở lăng Vĩnh Định, Vương Khuê từng nói:

-Trong tám Bộ mà Nguyên Hạo lập ra, mọi người ở trong bộ phận Càn Đạt Bà và Khẩn Na La đều tinh thông nhạc lý. Bộ phận Càn Đạt Bà đều là nữ, mỗi người đều giỏi ca múa…

Bộ chủ Bộ Càn Đạt Bà tới đây làm gì?

Địch Thanh cố gắng xuống giường, nhìn thấy khuôn mặt mình trong gương có chút xa lạ, đột nhiên phát hiện ra bộ râu trên mặt đã không còn, mà quần áo trên người cũng được đổi thành một bộ quần áo mềm mại như tơ. Địch Thanh giật mình kinh hãi, đưa tay sờ bụng, sờ ngực, không ngờ Ngũ Long đã không còn.

Mồ hôi Địch Thanh tuôn ra, thầm nghĩ Ngũ Long vẫn luôn ở bên người mình, sao giờ lại không thấy? Chẳng lẽ Đơn Đơn nhân lúc mình hôn mê, thay đổi quần áo của mình đã tiện tay cầm Ngũ Long đi?

Ngũ Long liên quan đến Hương Ba Lạp, hắn không thể đánh mất.

Tâm trạng hắn trở nên khẩn trương, không thua gì lúc đối địch với Nguyên Hạo. Địch Thanh không kìm nổi bước vài bước ra ngoài, muốn gặp Đơn Đơn để hỏi việc này. Mới đi tới bức rèm che, chợt nghe thấy tiếng một người con gái:

-Đơn Đơn, ngươi tìm đến tỷ tỷ có chuyện gì vậy?

Giọng nói kia như tiếng róc rách của dòng nước, mang theo một loại phong tình khó tả.

Giọng nói truyền qua cánh cửa, vốn rất nhỏ, nhưng thính lực của Địch Thanh rất nhạy bén nên nghe được khá rõ. Sau khi nghe được giọng nói kia, thân thể Địch Thanh chấn động, bước chân dừng lại, hắn nhận ra, người vừa nói chính là Bộ chủ lần trước ngồi kiệu đến Đan Phượng Các.

Giọng nói vô cùng quen thuộc càng làm cho Địch Thanh khẳng định hiểu lầm trong lòng. Hắn đứng thẳng lên, muốn bước đi, nhưng chân nặng như đeo tạ ngàn cân, khóe miệng lộ ra nụ cười chua xót.

Chỉ nghe thấy Đơn Đơn nói:

-Trương tỷ tỷ, muội có việc nhờ tỷ, tỷ nhất định phải giúp muội nha.

Địch Thanh thầm nghĩ;

-Trương tỷ tỷ? Ôi… Hóa ra nàng đúng là người của Nguyên Hạo.Nguyên Hạo dùng trăm phương ngàn kế đưa nàng đến kinh thành để làm gì? Ồ, những người nàng tiếp xúc đều là quan lại quyền quý, tất có thể dò hỏi một chút tin tức Đại Tống… Nguyên Hạo sớm đã có tâm đối địch với Đại Tống, mật thám được phái ra chắc không chỉ có mình nàng ta.

Đang suy nghĩ, Địch Thanh lại nghe Trương tỷ tỷ nói:

-Đơn Đơn, đại ca muội chính là Đế Thích Thiên, nơi này còn có việc mà hắn không thể giải quyết hay sao?

Đơn Đơn vội la lên:

-Không được, không được để huynh ấy biết chuyện này.

Nàng kia “Ồ” lên một tiếng, một lúc lâu sau mới nói:

-Đó là việc gì?

Địch Thanh nghe Đơn Đơn nói:

-Trương tỷ tỷ, muội thích một nam nhân, nhưng đại ca lại không thích hắn, còn cho người trừng phạt hắn. Lúc này người hắn mang trọng thương, muội đem hắn giấu ở trong phòng, nhưng làm sao để đưa hắn ra ngoài thì không có cách nào. Muội biết tỷ thông minh hơn muội gấp trăm lần, tỷ thay muội nghĩ ra một biện pháp nha.

Trong lòng Địch Thanh chấn động, thầm nhủ: “nàng ta đang nói ta sao? Nha đầu kia thường hay nói dối, không tin được.”

Trương tỷ tỷ trầm mặc thật lâu, sau đó nói:

-Đơn Đơn… Muội cũng rõ tính tình của đại ca muội. Nếu y biết muội gạt y tự ý làm việc… Chỉ sợ không tốt lắm.

Ngay lập tức, Đơn Đơn nói:

-Tỷ yên tâm, nếu chuyện này bại lộ, muội sẽ gánh mọi hậu quả, tuyệt đối không liên lụy đến tỷ. Trương tỷ tỷ, tỷ thương muội nhất, lần này nhất định phải giúp muội một chút.

Trương tỷ tỷ trêu chọc nói:

-Thì ra Đơn Đơn cũng đã lớn, cũng có nam nhân vừa ý. Không biết rốt cuộc người đó là ai, có thể để tỷ tỷ nhìn qua một chút hay không?

Đơn Đơn đùn đẩy:

-Người này đen thui, có gì tốt đâu mà xem.

Sau đó nói tránh đi:

-Tỷ tỷ, rốt cuộc tỷ có biện pháp nào không?

Trương tỷ tỷ thấp giọng nói:

-Biện pháp hả… thật ra rất đơn giản.

Nàng ra vẻ chần chừ, Đơn Đơn vui vẻ nói;

-Kìa, nói mau đi.

Địch Thanh ở trong phòng nghe được, trong lòng không biết nên cười hay khóc, thầm nghĩ, so với Trương tỷ tỷ kia, Đơn Đơn chỉ là một đứa trẻ khờ dại mà thôi. Nếu Trương tỷ tỷ kia biết người nàng cứu là Địch Thanh hắn, không biết có trở mặt vô tình hay không?

Trương tỷ tỷ cười nói;

-Nếu tỷ mạo hiểm giúp muội, muội sẽ cảm tạ tỷ thế nào đây?

Đơn Đơn nói:

-Thế nào cũng được. Nhưng tỷ là Bộ chủ bộ phận Càn Đạt Bà, đại ca cũng rất coi trọng tỷ, cần gì cũng có nha.

Đột nhiên Trương tỷ tỷ thở dài:

-Đơn Đơn muội tử đã có ý trung nhân, nhưng tỷ tỷ đã có đâu.

Đơn Đơn thẳng thắng nói:

-Lo liệu xong hết rồi, tỷ nhìn trúng người nào, nói với muội một tiếng. Muội sẽ bảo đại ca lập tức trói người đó đưa đến trước mặt tỷ.

Trương tỷ tỷ không nhịn được cười khúc khích:

-Hóa ra nam nhân mà Đơn Đơn muội vừa ý, hiện tại cũng bị trói lại, cho nên không dám để cho ta gặp mặt nha.

Đơn Đơn lại bﴠđầu trầm mặc, thật lâu sau mới buồn bã nói:

-Muội hận không thể trói hắn lại. Tỷ tỷ… nhưng… muội lại nhất định phải đưa hắn đi. Muội… không muốn để đại ca giết hắn. Tỷ tỷ… người mau nói ra biện pháp đi, nếu không muội sẽ đi tìm người khác.

Trương tỷ tỷ nói:

-Người khác? Đó là người nào?

Bên ngoài phòng đột nhiên im lặng, một lát sau, Trương tỷ tỷ cười nói:

- Được rồi, ta không đùa muội nữa. Sắp tới thời gian Ngột Tốt đăng cơ, phải ở giới đài tự trì trai lễ Phật, lệnh cho ta trọng chỉnh lễ nhạc, nói cái gì “Vương giả chế lễ mua vui, nói phải hợp với người dân”. Đại ca muội cảm thấy, âm nhạc lễ nghi Đại Tống rườm rà phức tạp, không thích hợp với vùng Tây Bắc mở rộng, muốn ta sửa Quốc nhạc lại cho đơn giản hơn một chút. Cứ cách vài ngày là tỷ lại phải đến giới đài tự gặp Ngột Tốt bẩm báo tiến trình. Ngày mai muội có thể lấy cớ cùng tỷ đến giới đài tự lễ Phật, đem ý trung nhân của muội đặt trong kiệu mang ra ngoài, thử hỏi không danh chính ngôn thuận sao?

Đơn Đơn vui vẻ nói:

-Quả nhiên tỷ tỷ rất thông minh.

Trương tỷ tỷ thở dài nói:

-Thật ra đương nhiên là muội đã nghĩ ra loại biện pháp này rồi, nếu muội mang hắn ra ngoài, ai dám ngăn cẳn chứ? Muội muốn kéo tỷ tỷ vào, là tại sao chứ?

Đơn Đơn buồn rầu nói:

-Ôi… Tỷ còn nói muội không nghĩ. Hiện giờ, mỗi lần muội ra ngoài có không ít thị vệ đi theo, muội có mắng chửi cũng không đi. Nếu muội xuất cung một mình, bọn họ sẽ nghi ngờ.

Trương tỷ tỷ nói:

-Bởi vậy muội mới kéo tỷ vào? Đơn Đơn… Ngột Tốt cũng là lo lắng cho an nguy của muội…

Không nói thêm nữa, nhẹ giọng cười nói:

-Tốt lắm, tỷ tỷ phải đi rồi. Ngày mai sáng sớm sẽ đi, không làm phiền muội và tình nhân nói lời tạm biệt nữa.

Địch Thanh nghe đến đó, xoay người quay về giường. Không bao lâu sau, nghe thấy tiếng cửa vang lên, Đơn Đơn đã đến. Thấy Địch Thanh ngồi ở giường, Đơn Đơn lạnh lùng nói:

-Ngươi đi đâu? Muốn bỏ trốn sao?

Địch Thanh nói tránh đi:

-Đồ đạc của ta ở đâu?

Đơn Đơn ra vẻ kinh ngạc hỏi:

-Cái gì vậy?

Địch Thanh lập tức nói:

-Là cái bi đen, mặt trên có khắc hai chữ Ngũ Long.

Đơn Đơn không chút để ý nói:

-Đó là cái gì?

Địch Thanh nhìn Đơn Đơn, thành khẩn nói:

-Nói thật, ta cũng không biết đó là cái gì. Nhưng đối với ta, đồ vật đó vô cùng quan trọng.

-Nhưng ngươi không biết vật này có tác dụng gì sao?

Đơn Đơn giơ tay ra, Ngũ Long đã nằm trong lòng bàn tay. Ngũ Long có màu đen nằm trên bàn tay nõn nà, đầy sâu kín.

Địch Thanh không giơ tay lấy lại, nhìn Ngũ Long, trong mắt hiện lên nét đau khổ, lắc đầu.

Trong mắt Đơn Đơn hiện nên hào quang kì dị, vứt Ngũ Long cho Địch Thanh:

-Đồ đạc của ngươi ta không them.

Địch Thanh nhận lấy, trong lòng hoang mang. Vì sao Đơn Đơn phải lấy đi Ngũ Long? Vì sao lại vui vẻ trả lại cho hắn?

Địch Thanh nhìn kĩ bi đen, nhận thấy không sai, chậm rãi cho bi đen vào trong ngực.

Đơn Đơn nhìn hắn đầy nghi ngờ, giọng mỉa mai hỏi:

-Không phải đồ giả sao? Ngươi xem như bảo bối, nhưng ở trong mắt người khác cũng chỉ là cây cỏ thôi.

Nói xong liền xoay người rời đi, đi được vài bước thì dừng bước nói:

-Ngày mai… ta sẽ đưa ngươi ra khỏi cung, cho ngươi thấy bản lĩnh của ta. Ngươi đừng nghĩ có thể trốn khỏi tay ta đi tìm ca ca ta. Hừ! Chỉ sợ ngươi vừa rời khỏi nơi này một bước, lập tức bị chém thành thịt vụn.

Nhưng sau khi nói xong, Đơn Đơn lại có chút hối hận. Thầm nghĩ Địch Thanh đen thui này thoạt nhìn rất quật cường, nếu không cho là thật, như thế nào có thể cho là phải?

Giờ có thể thay đổi khuôn mặt Địch Thanh, nhưng không thay đổi được khí phách cứng cỏi của hắn. Thời điểm ở sa mạc, Đơn Đơn cũng đã biết tính cách Địch Thanh. Nhưng đã nói ra, nàng không muốn thay đổi, sau khi ra khỏi phòng, khó tránh khỏi có chút lo sợ.

May mắn là Địch Thanh không có hành động gì.

Đơn Đơ đã không ngủ suốt một đêm, ôm chăn dựa vào bên giường, cũng không biết là đang suy nghĩ gì.

Đợi cho đến lúc bình minh, Đơn Đơn thấy nắng sớm chiếu vào mới hoảng hốt bừng tỉnh, không nghe thấy Địch Thanh ở bên trong có động tĩnh gì, có chút giật mình. Chân trần nhảy thẳng xuống giường, vội vàng chạy tới. Cửa phòng được đẩy ra, nhìn thấy Địch Thanh đang nhìn mình, trong tay hắn vẫn đang cầm Ngũ Long.

Đơn Đơn có chút ngượng ngùng, lại có chút đắc ý nói;

-Địch Thanh, hôm nay ta sẽ đưa ngươi xuất cung. Chẳng phải ngươi vẫn cho rằng ta không có năng lực cứu ngươi sao?

Địch Thanh thầm nghĩ:

-Ta nói lời đó lúc nào?

Vốn định hỏi lại chuyện Hương Ba Lạp, nhưng lại nghĩ đến vẻ mắt của Đơn Đơn tối qua, cuối cùng đành nhịn xuống không hỏi nữa. Mặc dù Đơn Đơn khi lạnh lùng, khi thì ra vẻ độc ác, nhưng Địch Thanh chỉ cảm thấy nàng còn là một đứa nhỏ không hiểu chuyện.

Hương Ba Lạp thần bí như thế, Đơn Đơn có thể biết được bao nhiêu?

Đơn Đơn thấy Địch Than him lặng, cho là hắn khinh miệt, không kìm nổi kêu lên:

-Ta đưa ngươi ra ngoài, tuy nhiên là bởi vì ở sa mạc ngươi đã cứu ta. Ngươi cho ta nước uống, ta giải độc cho ngươi. Ngươi đưa ta tới ốc đảo, ta liền mang ngươi xuất cung. Đời này kiếp này, ta không muốn thiếu nợ ân tình của ngươi, ngươi cũng đừng cho là ta thích ngươi rồi.

Nói xong câu sau cùng, sắc mặt nàng đỏ bừng, dường như trong mắt vẫn còn hung ý. Nhưng cả người run rẩy, không nói thêm được gì.

Hồi lâu sau Địch Thanh mới nói:

-Ta hiểu được.

Đơn Đơn bực bội dậm chân:

-Ngươi hiểu được cái gì? Cái gì ngươi cũng không hiểu! Ta ghét ngươi, cái tên tự cho là đúng, kiêu ngạo, ngông cuồng tự đại. Lần này ngươi ra khỏi cung, lăn đi thật xa, chớ có trở về, bằng không ta là người đầu tiên giết ngươi.

Không đợi Địch Thanh trả lời, một nha hoàn tiến vào, thấp giọng bẩm báo:

-Công chúa, nàng đến đây…

Trên mặt Đơn Đơn có toan tính, lập tức mang theo nha hoàn đi ra ngoài. Một lát sau, nha hoàn kia lại đến, nói:

-Vị này… Công tử, mời đi bên này.

Nha hoàn kia không giám nhìn thẳng vào Địch Thanh, nhưng trong khóe miệng hiện nên tiếu ý, hiển nhiên là cảm thấy quan hệ của Đơn Đơn và Địch Thanh có chút cổ quái và thú vị.

Địch Thanh không biết là phúc hay họa, suy nghĩ, đi ra khỏi phòng. Lúc đến phòng khách, nhìn thấy hai cỗ kiệu đang đỗ ở đây. Bên cạnh một cỗ kiệu là một cô gái có phong thái vô cùng tao nhã.

Nữ tử kia dùng lụa mỏng che mặt, nhưng càng tôn thêm vẻ phong tình.

Nàng cứ lẳng lặng nhìn Địch Thanh, mặc dù không nói câu nào, nhưng từ khi nhìn thấy Địch Thanh, đôi mắt liền tràn đầy mê hoặc và kinh ngạc.

Địch Thanh trấn định bước qua, chậm rãi đứng bên kiệu, không rên lên một tiếng. Mặc dù hắn đã thay đổi dung nhan, nhưng chỉ sợ vừa lên tiếng đã bị nàng kia nhận ra.

Hắn và nàng kia, vốn đã biết nhau.

Không ngờ nàng kia cũng không nói gì, chỉ dùng ngón tay như ngọc chỉ vào trong cỗ kiệu. Địch Thanh vén màn kiệu lên, định đi vào ngồi, thân hình liền khựng lại.

Người ngồi trong kiệu chính là Đơn Đơn.

Tuy Địch Thanh biết chắc chắn Đơn Đơn cũng sẽ xuất cung, nhưng thấy cỗ kiệu không rộng lắm, sau khi lên kiệu chỉ sợ phải ngồi lên đùi Đơn Đơn, sao có thể bước lên được?

Khuôn mặt Đơn Đơn đỏ ửng, thấy Địch Thanh do dự không lên, cười lạnh nói:

-Ngươi sợ?

Lách người sang một bên nói:

-Ngươi ngồi sau ta đi.

Lúc này Địch Thanh mới phát hiện ra cỗ kiệu thiết kế rất khéo léo, nhìn từ bên ngoài có vẻ hơi hẹp, nhưng ở phía sau vẫn còn có khoảng trống, một người có thể ngồi được. Nếu Đơn Đơ không lách sang một bên, Địch Thanh cũng không phát hiện ra chỗ huyền bí của cỗ kiệu.

Trong lòng Địch Thanh khẽ động, thầm nghĩ Trương Bộ chủ thật sự muốn giúp Đơn Đơn sao? Rốt cuộc nàng ta có ý định gì?

Không do dự nữa, Địch Thanh nghiêng người tới phía sau Đơn Đơn rồi ngồi xuống. Tuy cỗ kiệu thiết kế khá khéo léo, nhưng dù sao không gian cũng có hạn, hai người ngồi trước sau, mặc dù tai và tóc không chạm vào nhau, nhưng vẫn có thể nghe thấy tiếng thở.

Trong kiệu trở nên yên tĩnh.

Hai người đều im lặng để tránh xấu hổ. Nhưng mà, trong kiệu thực sự quá yên tĩnh, cho dù là nhịp tim đập cũng có thể nghe thấy.

Đời này, Địch Thanh chưa từng đối mặt với cục diện khó ứng đối như thế. Địch Thanh thở chậm lại, chỉ sợ hơi thở phun ra chạm vào chiếc gáy trắng như bạch ngọc của Đơn Đơn. Đột nhiên, hắn phát hiện mái tóc Đơn Đơn hơi run run, sau đó nhìn thấy gáy nàng ửng đỏ, hơi thở có chút dồn dập.

Địch Thanh cúi đầu xuống, không nhìn.Nhưng mùi thơm tinh tế vẫn truyền vào mũi hắn.

Cỗ kiệu được nâng lên, lắc qua lắc lại như ở trên mây.

Đơn Đơn ngồi ở phía trước, khuôn mặt đỏ rực như hoa trên núi, trái tim đập loạn như muốn bật ra khỏi lồng ngực. Mặc dù nàng cố làm ra vẻ không sợ trời không sợ đất, nhưng ở đời này, cũng chưa từng quá thân thiết với nam tử nào như vậy.

Nhưng chẳng biết tại sao, nước mắt lại chảy dọc theo hai má xuống dưới. Rốt cuộc nàng thương tâm điều gì, chỉ có mình nàng biết. May mắn, Địch Thanh không nhìn thấy nét mặt của nàng. Đơn Đơn thầm nghĩ, nhưng sâu trong nội tâm, không biết đây là hạnh phúc hay bất hạnh?

Đường xá bóng loáng như tơ lụa, như nước chảy đi. Không biết bao lâu sau, cỗ kiệu ngừng tạm, thế nhưng ngừng hẳn lại.

Trong lòng Địch Thanh rùng mình, nghe thấy phía ngoài có người hỏi:

-Trong kiệu là Trương Bộ chủ sao?

Có người quát:

-Mắt ngươi không mù, sao không nhận ra kiệu của Bộ chủ.

Người ở phía trước hiển nhiên là thị vệ trong cung, lại hỏi:

-Nhưng cỗ kiệu phía sau là ai?

Giọng của Trương Bộ chủ vang lên:

-Là Công chúa Đơn Đơn. Hôm nay Công chúa cùng ta tới giới đài tự thắp hương lễ tạ thần phật.

Thị vệ kia vội nói:

-Bộ chủ, ngài có thể xuất cung, nhưng Công chúa thì không được. Ngột Tốt đã có lệnh, vì bảo vệ an toàn của Công chúa, mấy ngày nay, không thể để Công chúa xuất cung.

Trong lòng Địch Thanh trầm xuống, phát hiện không ổn, chưa kịp nghĩ nhiều đã thấy Đơn Đơn ngồi phía trước bước ra ngoài.

Người ngăn Trương Bộ chủ và Đơn Đơn đúng là Ngự tiền thị vệ trong cung. Trong tâm của y, chỉ nghe lệnh của Ngột Tốt, còn đang suy nghĩ làm cách nào khuyên Đơn Đơn trở về, không nghĩ màn kiệu vừa vén lên, Đơn Đơn đã đứng trước mặt y.

Thị vệ kia giật nảy người, thấy công chúa Đơn Đơn đỏ bừng mặt, vội lùi ra phía sau hai bước, quỳ một chân nói:

-Điện trực Ngộ Hạo tham kiến Công chúa.

Mặt ngọc của Công chúa Đơn Đơn đang đỏ, cũng không biết là xấu hổ hay tức giận, đột nhiên nói:

-Ngươi thật sự rất nghe lời của đại ca ta nha.

Ngô Hạo cười nói:

-Ty chức được Ngột Tốt để ý, đương nhiên phải cúc cung tận tụy.

Khóe miệng Công chúa Đơn Đơn nở nụ cười, lại nói:

-Đao của ngươi không tồi nhà, cho ta xem được không?

Ngô Hạo sao dám từ chối, vội vàng cởi đao xuống, hai tay dâng lên:

-Công chúa muốn xem xin cứ việc cầm về xem. Nơi này gió lớn, kính xin Công chúa khởi giá hồi Các.

Y vẫn không quên chức trách của mình, không có đao, nhận lại là được rồi. Nếu có thể khuyên Đơn Đơn trở về, đó chính là công lớn.

Công chúa Đơn Đơn cười khanh khách:

-Hóa ra chẳng những ngươi rất nghe lời đại ca ta mà đối với ta cũng rất tốt…

Ngô Hạo vội hỏi:

-Ty chức trung thành và tận tâm, vì Ngột Tốt… và Công chúa muôn chết không từ.

Người này cũng có tài ăn nói, bộ dáng nịnh nọt.

Đơn Đơn chậm rãi rút đao ra nói:

-Tốt lắm, vậy người… đi chết đi!

Giọng nàng đột nhiên trở nên bén nhọn thê lương, nhưng lại chém một đao về hướng Ngô Hạo.

Ngô Hạo giật nảy người, vội vàng nhảy ra. Có điều, Đơn Đơn ra tay quá đột ngột, mặc dù thân thủ của y không tệ, vẫn bị một đao này chém vào tay, máu chảy đầm đìa.

Ngô Hạo vội hô to:

-Xin Công chúa dừng tay!

Đơn Đơn dùng hai tay cầm đao, “vù vù”, lại chém thêm mấy đao nữa. Ngô Hạo vội vàng trốn tránh, Đơn Đơn quát lên:

-Không phải ngươi nói vì ta muôn chết không từ sao? Còn không đứng lại để ta chém đầu? Ngươi là một tên lừa gạt! Ta nói cho đại ca, nói ngươi bất trung với chúng ta, sẽ chém ngươi thành ngàn mảnh!

Ngô Hạo vừa sợ vừa giận, thầm nghĩ Nguyên Hạo lạnh lùng vô tình, cho dù là vợ con cũng giết không sai, nhưng lại cực kỳ yêu thương cô muội muội này. Nếu thật sự Đơn Đơn muốn Nguyên Hạo giết y, cũng rất có khả năng. Nhưng giờ này khắc này, làm sao y có thể giơ cổ chịu chém?

Thị vệ bên cạnh đã sớm nhìn thấy, nhưng cũng không có ai dám tiến lên, sợ rước họa vào thân. Nếu chẳng may Công chúa điêu ngoa chuyển hướng, chém lên người bọn họ, chẳng phải là rất oan uổng sao?

Trương Bộ chủ cũng chỉ ngồi trong kiệu, không ra ngoài giải vây.

Ngô Hạo không kìm được hô to:

-Trương Bộ chủ cứu thuộc hạ.

Đơn Đơn cười lạnh nói:

-Cho dù là Thiên Vương lão tử đến đây, cũng không cứu được ngươi.

Lời còn chưa dứt, mũi đao đã bị một ngươi giữ lấy. Đơn Đơn tức giận, ấn mạnh hai tay, nhưng đơn đao kia như chém vào bên trong nham thạch, lại không chút sứt mẻ.

Một cánh tay khô gầy kẹp lấy đơn đao, những ngón tay cứng như sắt. Vẻ mặt chủ nhân của cánh tay này buồn tẻ, đôi tròng mắt toàn một màu trắng đục.

Người kẹp lấy đơn đao lại là một người mù.

Đơn Đơn nhìn thấy người đó. Không hề sợ hãi mà tức giận kêu lên:

-Dã Lợi Trảm Thiên, ngươi chớ xen vào việc của người khác, bằng không ta chém cả ngươi! Ngươi đừng tưởng rằng đã cứu ta về là ta phải nghe lời ngươi.

Trong lòng Địch Thanh run lên, thế mới biết, hóa ra La Hầu Vương Dã Lợi Trảm Thiên một trong Long Bộ Vương cũng đến nơi này.

Dã Lợi Trảm Thiên không chết!

Hóa ra Đơn Đơn có thể trở về từ đại mạc, là được Dã Lợi Trảm Thiên cứu về. Quả thật là Dã Lợi Trảm Thiên có năng lực này. Phi Ưng, Thạch Đà kia giờ này sao rồi?

Mặc dù Địch Thanh và Dã Lợi Trảm Thiên chỉ mới giao thủ có một lần, nhưng biết người này cực kì quỉ dị, chỉ bằng Công chúa Đơn Đơn, sợ rằng không thể làm khó y.

Dã Lợi Trảm Thiên không trả lời, nhưng lại buông năm ngón tay ra. Đơn Đơn lại vung đao chém tới. Một người ở bên cạnh lên tiếng làm hòa:

-Công chúa bớt giận, có chuyện gì mà phải nổi nóng như vậy? Nếu bọn chúng đắc tội với Công chúa, bản Thái sư làm chủ cho người.

Địch Thanh vừa nghe thấy âm thanh kia, trở lên nghiêm nghị. Người ở bên ngoài, chính là thủ hạ của Nguyên Hạo, Thái sư kiêm Trung thư lệnh Trương Nguyên.

Sao Trương Nguyên cũng đến đây vậy?

Khóe miệng Địch Thanh nở nụ cười tràn đầy chua xót. Dư độc vẫn còn trên người hắn, lúc này không thể phát lực, nếu bị những người này phát hiện hành tung, chỉ có thể ngồi chờ chết.

Nghe thấy Đơn Đơn ở bên ngoài nói:

-Tên cẩu thị vệ này không cho ta xuất cung, Trung thư lệnh, ngươi giúp ta chém hắn.

Trán Ngô Hạo đầy mồ hôi, vội hỏi:

-Thái sư, ty chức chỉ phụng lệnh làm việc thôi mà.

Trương Nguyên mỉm cười nói:

-Lệnh là chết, người là sống. Ngột Tốt không muốn Công chúa xuất cung, là lo lắng cho an nguy của nàng. Có Trương Bộ chủ ở đây, ngươi cần gì phải ngăn cản? Công chúa, mời lên kiệu, thần tiễn người xuất cung.

Y chậm rãi đi tới trước cỗ kiệu, chủ động xốc mà kiệu của Đơn Đơn lên.

Tim Đơn Đơn gần như ngừng đập.

Trong kiệu không có người!

Dường như Trương Nguyên có chút kinh ngạc, nhưng vẫn nhấc màn kiệu lên, trong lòng thầm nghĩ, thích khách ở Điện Thiên Hòa rốt cuộc giờ đang ở nơi nào? Hóa ra phản loạn Điện Thiên Hòa, Dã Lợi Vượng Vinh tự sát, tất cả dư đảng đã được bình định. Duy chỉ có người từ trên xà ngang của Điện lao xuống ám sát Nguyên Hạo là không có tung tích.

Căn cứ vào sự bảo vệ nghiêm ngặt của thị vệ trong cung, người đó muốn trốn ra ngoài cũng không phải chuyện dễ. Vừa rồi Trương Nguyên chỉ sợ thích khách trốn ở trong kiệu của Công chúa Đơn Đơn, uy hiếp Công chúa nên mới vén màn kiệu lên. Nhưng trong kiệu không có người, tuy khiến y thất vọng, nhưng cũng yên tâm.

Công chúa Đơn Đơn đợi một lát, lúc này mới vừa cười vừa bước lên kiệu:

-Có thể khiến Thái sư tự mình vén màn kiệu, loại vinh hạnh bậc này chỉ sợ đại ca ta cũng không được. Hôm nay ta nhận được mà vừa mừng vừa sợ.

Trương Nguyên lại cười nói:

-Nếu Công chúa thích, thần ngày ngày nhấc màn kiệu vì Công chúa thì có ngại gì? Chỉ sợ ít ngày nữa, dù cho thần có đồng ý thì cũng có người không chịu.

Mặt Đơn Đơn cũng hơi đỏ lên, thầm nghĩ tên này già mà không đứng đắn, cũng dám lấy bổn Công chúa ra nói giỡn? Nhìn thấy khuôn mặt cáo già của Trương Nguyên, Đơn Đơn có chút chột dạ, vội nói:

-Tốt! Ta xuất cung trước, cũng không phiền đến Thái sư đưa tiễn.

Cỗ kiệu được nâng lên, vội vàng rời đi. Trương Nguyên vẫn mỉm cười nhìn cỗ kiệu. Đợi cho cỗ kiệu đi xa, sắc mặt Trương Nguyên lại trở nên âm trầm.

Dã Lợi Trảm Thiên ở bên cạnh nói:

-Tại sao Thái sư lại lo âu như vậy?

Thiếu chút nữa Trương Nguyên muốn giơ tay lên trước mặt Dã Lợi Trảm Thiên, xem người này có mù thật không, vì sao còn sáng suốt hơn người tinh mắt?

Nhưng cuối cùng cũng nhịn được sự kích động này, Trương Nguyên lại mỉm cười nói:

-Lão phu ngồi qua cỗ kiệu.

Lời y nói thật vô nghĩa, nhưng Dã Lợi Trảm Thiên vẫn cô quạnh như trước, chỉ à lên một tiếng. Dường như Dã Lợi Trảm Thiên chưa bao giờ để bất cứ chuyện gì ở trong lòng, cho dù là lúc trước đệ đệ của y chết, y cũng không có quá mức bi thương.

Trương Nguyên giận dữ nói:

-Gần đây lão phu có hơi mập lên, bởi vì ít đi lại.

-Tuy Thái sư ít đi lại, nhưng ánh mắt càng tinh tế rồi.

Dã Lợi Trảm Thiên nói một câu không rõ ràng.

Trương Nguyên nhíu lông mày, có thể thấy được ánh mắt xám trắng như người chết của Dã Lợi Trảm Thiên, lại cười lớn nói:

-Đúng vậy! Bốn tên nâng kiệu kia thể cốt cũng không tệ, cho dù là nâng ta, bước chân cũng chưa chắc nặng nề như vậy. Huống chi… Công chúa Đơn Đơn cũng không mập.

-Thái sư muốn nói… Trong kiệu còn một người nữa sao?

Đột nhiên, Dã Lợi Trảm Thiên hỏi.

Trương Nguyên ho khan vài tiếng:

-Đúng là lão phu có nghi ngời này.

Dã Lợi Trảm Thiên hỏi:

-Tại hạ tuy là người mù, nhưng điều Thái sư nghi ngờ không đúng. Nếu trong kiệu còn có người, vậy vừa rồi ngài vén màn kiệu lên, sao lại không nhìn thấy?

Trương Nguyên cau mày nói:

-Lão phu cũng đang nghi ngờ điều này…

Dã Lợi Trảm Thiên thản nhiên nói:

-Ta nghe nói Biện Kinh phồn hoa, biết trong ngõa xá (khu vui chơi giải trí) có một loại ảo thuật, rõ ràng là trong rương có người nhưng lại có khả năng làm cho người khác không nhìn thấy. Cái loại ảo thuật này cũng gần giống với thủ thuật che mắt của các nước Tây Vực, có thể lợi dụng ánh sáng, màu sắc và thùng. Màu sắc và kết cấu thùng, khiến cho người ta tưởng là đã nhìn thấy toàn bộ thùng, nhưng thật ra chỉ thấy phân nửa. Mà không gian thừa ra này, cũng đủ cho một ngưởi ẩn thân rồi.

Ánh mắt Trương Nguyên sáng lên, vội nói:

-Chẳng lẽ nói… Cỗ kiệu kia cũng giống với chiếc thùng đó sao, bên trong có tường kép sao? Trong lúc này nếu thật có người ẩn giấu có thể là ai? Có thể gây bất lợi với Công chúa hay không?

Trong giọng nói của y tràn đầy vẻ lo lắng, nhưng đôi mắt nhìn chằm chằm Dã Lợi Trảm Thiên lại không có chút lo lắng nào.

Đợi lúc lâu sau, không thấy Dã Lợi Trảm Thiên lên tiếng trả lời, cũng không thấy chút biến hóa nào trên mặt Dã Lợi Trảm Thiên, rốt cuộc Trương Nguyên cũng không nhịn được hỏi:

-Chẳng lẽ lão phu nói không đúng sao?

Dã Lợi Trảm Thiên nói:

-Thái sư là người Hoa Âm đúng không?

Trương Nguyên không nghĩ đến việc Dã Lợi Trảm Thiên đột nhiên hỏi một câu như vậy, một lúc sau mới nói:

-Đúng vậy, vì sao La Hầu Vương lại hỏi vậy?

Y vốn là người ổn định vững chắc, nhưng khi nghe thấy hai chữ “Hoa Âm”, trong mắt c phiền muộn.

Dã Lợi Trảm Thiên nói:

-Ta nghe người ta nói, Thái sư vốn là người Trung Nguyên, lúc trước còn trẻ, khí thịnh, rất có tài hoa. khí phách lỗi lạc, tự xưng là có tài như Tô Tần, Trương Nghị, hơn nữa còn vung kiếm trượng nghĩa, hành hiệp trượng nghĩa khiến người ta ca tụng. Tuy nhiên vào kinh thành dự thi vài lần đều không đậu, nên quyết định vứt bút tòng quân, lại bị người bên cạnh Tống soái nghi ngờ mới phẫn nộ mà tiến đến Tây Bắc, sau khi gặp được Ngột Tốt, dựa vào một bụng kế sách, mới được Ngột Tốt trọng dụng?

Trương Nguyên chậm rãi nói:

-Những người có cảnh ngộ như lão phu mà đến vùng Tây Bắc, nhiều không đếm xuể. Ngột Tốt dùng người chỉ cần có tài, triều Tống chủ yếu là dùng người thân.

Trương Nguyên nói ra những lời này, bên trong chứa đầy cảm xúc. Do Nguyên Hạo xây dựng quan chế, ngoại trừ quân quyền, những chức vị còn lại cũng có đến phân nửa là người Hán đảm đương. Những người Hán đó, rất nhiều người là năm đó không thành công dưới triều Tống. Mà ở triều Tống, bây giờ hối lộ trở thành trào lưu, hiện tượng mua quan diễn ra nghiêm trọng, tuy có thể trúng cử bằng dự thi, trở thành người vượt Long Môn, nhưng cũng nhanh chóng bị nhuốm chàm, cuối cùng trở nên hủ bại.

Dã Lợi Trảm Thiên nói:

-Nếu Thái sư đã từng đi qua Biện Kinh, tâm tư lại tinh tế, đương nhiên sẽ không xa lạ với thùng ảo thuật giấu người, bằng không, vừa rồi cũng không cố ý đề cập với ta việc cỗ kiệu có sức nặng không bình thường. Nhưng nếu Thái sư đã phát hiện ra, vì sao không lập tức nói ra?

Sắc mặt Trương Nguyên biến hóa, phát hiện ra tuy rằng Dã Lợi Trảm Thiên bị mù, nhưng đầu óc thì vô cùng thông minh sắc bén.

Dã Lợi Trảm Thiên lại nói:

-Đương nhiên là Thái sư cũng biết trong kiệu còn một người, cũng sợ người nọ uy hiếp Công chúa Đơn Đơn, cho nên mới tự tay vén lên màn kiệu của Công chúa Đơn Đơn, mong đợi phục ma.

Trương Nguyên thở dài:

-Lúc này có La Hầu Vương, lão phu mới có can đảm này.

Dã Lợi Trảm Thiên thản nhiên nói:

-Nhưng Thái sư phát hiện trong kiệu không có người, lại có khoang ngầm, rất nhanh đã hiểu ra, không phải là Công chúa Đơn Đơn bị uy hiếp, mà là muốn giấu một người đưa ra ngoài. Căn cứ vào ý nghĩ của Thái sư, người này chắc chắn không phải là thích khách, bởi vì Công chúa Đơn Đơn không thể… bảo hộ một thích khách ám sát Ngột Tốt. Mà cỗ kiệu của Trương Bộ chủ ở đằng trước, hiển nhiên cũng hiểu đã được Trương Bộ chủ ngầm đồng ý. Công chúa đã lớn, nói không chừng là đang trong lúc riêng tư gặp gỡ tình lang. Nếu như ngươi vạch trần sự việc tại chỗ, chỉ sợ chọc giận Công chúa Đơn Đơn, sẽ liên lụy đến chức quan của ngươi. Bởi vậy ngươi ngươi dùng lời nói để ám chỉ, muốn xem chút phản ứng của Công chúa Đơn Đơn, nếu Công chúa đỏ mặt, vậy là Thái sư đã đoán trúng.

Trương Nguyên nói không ra lời, càng thêm nghi ngờ Dã Lợi Trảm Thiên này có thực sự bị mù không? Nếu y là người mù, sao có thể hiểu rõ biểu hiện của mọi người như vậy.

Dã Lợi Trảm Thiên nói tiếp:

-Ngươi không muốn đắc tội với Công chúa, nhưng lại không yên tâm về sự an ng của Công chúa, nên cố ý nói chuyện này cho ta biết, nghĩ ta cũng có chút đầu óc, không chừng có thể hiểu ý tứ của ngươi, xông ra bảo vệ Công chúa, nhìn xem trong kiệu là người nào, như vậy ngươi không cần gánh trách nhiệm, cũng không cần bảo vệ Công chúa. Nếu sau này có ai biết việc này, đều dựng thẳng ngón cái mà tán dương Trung thư lệnh một tiếng rồi.

Khuôn mặt nho nhã của Trương Nguyên như bị đấm một quyền, cười lớn nói:

-Không nghe La Hầu Vương nói, lão phu còn không biết ngài có suy nghĩ phức tạp như vậy nha.

Trong lời nói của y mang theo ý chê bai, ám chỉ Dã Lợi Trảm Thiên lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử.

-Vậy sao?

Dã Lợi Trảm Thiên không mặn không nhạt nói:

-Ta là người mù, cũng không thông minh, phụ sự mong đợi của Thái sư, không hiểu được trái tim của người quân tử như Thái sư. Một khi đã như vậy, kính xin Thái sư mang phần tâm tư này nói cho người khác nghe đi. Tại hạ xin được cáo lui trước.

Y lập tức xoay người rời đi, cũng không thi lễ.

Trương Nguyên nhìn chằm chằm bóng dáng Dã Lợi Trảm Thiên đến khi không thấy gì nữa, lúc này mới lẩm bẩm nói:

-Nếu ngươi đã không lo lắng, vậy cũng cho rằng người trong kiệu không phải thích khách, ta đây còn quan tâm làm gì?

Y vỗ vỗ vạt áo, giống như đem toàn bộ phiền não phủi đi hết, trên mặt lại xuất hiện nụ cười thản nhiên.

Lúc này có một binh sĩ vội vã chạy tới, thấp giọng nói:

- Thái sư, người kia đến.

Tinh thần Trương Nguyên rung lên, vội nói:

-Dẫn ta đi gặp!

Sắc mặt y trở nên ngưng trọng, mơ hồ còn có chút phấn chấn. Tên binh sĩ vội vàng bước đi.

Trương Nguyên vốn rất đa mưu túc trí, mặt không hiện vui buồn, lần này trả lời thận trọng như thế, binh sĩ bên cạnh nhìn thấy, cũng khó khăn suy đoán người đến là ai?

Hai cỗ kiệu xuất cung, ra khỏi thành, thẳng tới Giới Đài Tự ngoài thành nam.

Nếu nói Đại Tướng Quốc tự là quốc tự của Đại Tống, thì Giới Đài tự kia cũng là quốc tự trong lòng người Đảng Hạng.

Lúc này, phía đông người Đảng Hạng có Đại Tống, tây nam có Thổ Phiên, nam có Đại Lý, phía tây cũng có các nước dân tộc Hồi Hột. Các quốc gia này đều theo Phật giáo, người Đảng Hạng cũng không ngoại lệ.

Phật giáo của người Đảng Hạng vốn chia làm hai phái Thiền tông và Mật tông. Mặc dù Thiền tông được truyền bá rộng rãi và phổ biến, nhưng ảnh hưởng của Mật tông cũng không thể xem thường.

Bản thân Nguyên Hạo cũng là một phật tử.

Giống như một người có hùng tâm tráng chí bừng bừng, ở bên trong người Đảng Hạng, không những sùng bái Phật giáo, thậm chí còn tinh thông Phật lý.

Từ lúc Nguyên Hạo cầm quyền tới nay, vì để phát triển Phật giáo, không những rộng rãi tìm kiếm Xá Lợi rồi bố trí ổn thỏa, còn sửa chữa Phật động, Phật tháp và chùa chiền. Nhờ Nguyên Hạo phổ biến rộng rãi, không khí thờ tín Phật của người Đảng Hạng cực kỳ sâu nặng.

Giới Đài Tự là nơi mà Nguyên Hạo thường lui tới. Trải qua sự phát triển lớn mạnh suốt mấy năm qua, nếu nói về sự huy hoàng rực rỡ thì có kém hơn Đại Tướng Quốc Tự ở Biện Kinh, nhưng bàn về khí thế rộng rãi, bảo tướng trang nghiêm thì có thể đứng ngang với Đại Tướng Quốc Tự.

Ra khỏi thành nam, phía trước có dãy núi trùng điệp. Vòng qua chân núi, chỉ thấy bầu trời xanh ngát trải dài đến ngàn dặm.

Lầu đài, đình các chiếm cứ lưng chừng núi, Giới Đài Tự đã xuất hiện Phật tích.

Hai cỗ kiệu ngừng lại, Trương Bộ chủ xuống kiệu trước, thấp giọng nói:

-Đơn Đơn, đã đến lúc này rồi, chẳng lẽ muội còn muốn đen hắn tới Giới Đài Tự?

Màn kiệu được vén lên, Đơn Đơn ngồi trong kiệu, vẻ mặt nhăn nhó, lại xen lẫn vài phần thương cảm. Phía sau nàng, một vách ngăn được kéo ra, lộ ra một hốc tối, Địch Thanh ngồi ở bên trong.

Trương Nguyên đoán không sai, trong kiệu đúng là có hốc tối. Trước lúc Trương Nguyên vén màn kiệu lên, Địch Thanh ấn vào cái nút ở sườn dưới của kiệu, một tấm vách vô thanh vô tức xuất hiện, chắn trước mặt Địch Thanh.

Địch Thanh biết thiết kế của cỗ kiệu, đơn giản là nhờ lúc Đơn Đơn xuống kiệu, có nói một câu:

-Cỗ kiệu có hốc tối.

Địch Thanh thấy thời điểm Đơn Đơn ra ngoài, mặt đỏ như gấc. Cũng không ai biết, rốt cuộc là Đơn Đơn đỏ mặt vì phẫn nộ hay bởi vì một nguyên nhân nào khác.

Đơn Đơn đã biết cỗ kiệu có hốc tối, vì sao không cho Địch Thanh ẩn núp ngay từ đầu?

Địch Thanh không cần nghĩ nhiều, rất nhanh chóng tìm được cái nút kia.

Vách ngăn kia thiết kế rất khéo léo, màu sắc giống hệt với mặt sau của cỗ kiệu. Nếu nhìn thẳng, tuyệt đối không nhìn ra kiệu có thêm một ngăn nữa. Nhưng Địch Thanh vẫn rất lo lắng, hắn sớm nhận ra Trương Nguyên và Dã Lợi Trảm Thiên đều là loại người có tâm tư tinh tế. Nói về xảo trá, Đơn Đơn không phải là đối thủ của hai người này.

Nhưng điều làm Địch Thanh cảm thấy kì quái, Trương Nguyên và Dã Lợi Trảm Thiên lại giống như không phát hiện ra điều gì. Địch Thanh cảm thấy có chút kì quái, nhưng nếu hắn đã ra khỏi thành, cũng tạm thời đem nghi vấn đó bỏ sang một bên.

Ra khỏi cỗ kiệu, Địch Thanh nhìn thấy sương sớm cuối thu. Hoa cỏ đã tàn, nhưng cành lá của nhưng cây xanh ở ngọn núi xa xa vẫn còn um tùm. Trương Bộ chủ liếc mắt nhìn Địch Thanh, dường như trong mắt ẩn giấu tình ý nhàn sầu. Nhưng ánh mắt nàng nhanh chóng dời đi, xoay người đi ra xa. Dường như nàng muốn cho Đơn Đơn một chút không gian, lại giống như không muốn nhìn Địch Thanh.

Những phu kiệu đều im lặng. Những phu kiệu này đều là thủ hạ của Trương Bộ chủ, biết được cái gì nên hiểu, cái gì phải nhất định giả vờ như không biết.

Cuối cùng Đơn Đơn cũng ra khỏi kiệu, mặt đỏ ửng, lại trắng tựa sương thu. Nàng lẳng lặng đi về phía nam, được một lát, bỗng nghe thấy tiếng nhạn kêu, không kìm được bèn ngẩng đầu nhìn lên.

Đó là một con nhạn lạc đàn, quanh quẩn ở không trung, nhưng rồi vẫn phải bay về hướng nam.

-Chim nhạn bay về nam, vẫn còn ngày trở lại.

Đơn Đơn đột nhiên nói.

Địch Thanh ở ngay phía sau Đơn Đơn, nghe vậy liền ngẩng đầu nhìn lên trời, trời cao ở cực xa. Hắn không nói gì thêm, Đơn Đơn cũng giống như không nói chuyện với hắn. Hắn thầm nghĩ, sau đó xoay người lại, chào từ biệt với Đaqn Đan.

Bỗng nhiên Đơn Đơn quay người lại, trong mắt lộ ra hung ý:

-Nhưng ngươi đi rồi, nhất định là sẽ không trở lại. Ngươi cứu ta một lần, ta cứu ngươi một mạng. Ngươi dẫn ta ra khỏi hoang mạc, ta đã mang ngươi ra khỏi cung.Từ nay về sau vĩnh viễn không thiếu nợ nhau, không còn liên quan gì nữa!

Địch Thanh thầm nghĩ:

“Có lẽ ta sẽ trở lại, nhưng lúc đó… Chỉ sợ ta và ngươi còn có hoàn cảnh khó hơn hôm nay.”

Sắc mặt Đơn Đơn lại đỏ lên, môi bị hàm răng cắn đến trắng bệch, bàn tay nắm chặt, cả người có chút run rẩy:

-Ngươi là kẻ thù của đại ca ta. Cả đời này ta nợ ân tình của hai người, một là đại ca của ta, người còn lại chính là ngươi. Ta có tình với ngươi, nhưng lại có lỗi với đại ca ta. Bởi vậy, nếu ngươi còn dám đến, nói không chừng… ta sẽ là người đầu tiên giết chết ngươi.

Cuối cùng Địch Thanh cũng mở miệng nói:

-Ta hiểu!

-Thế nên, tốt nhất là ngươi chạy nhanh đi, đi càng xa càng tốt. Hiện giờ người ngươi vẫn còn dư độc, vài ngày nữa mới có thể dùng sức. Trong mấy ngày này, nếu ngươi bị người khác làm thịt thì không liên quan đến ta.

-Thanh âm của Đan Đan khẽ run run.

Địch Thanh mỉm cười nói:

-Nếu ngươi có thể trốn thoát khỏi tay Phi Ưng, đương nhiên ta cũng sẽ sống bằng sức mình. Trời giá rét… ngươi sớm trở về đi!

Đơn Đơn lạnh lùng nói:

-Ta không cần ngươi quan tâm.

Địch Thanh không còn lời nào để nói, xoay người định chạy đi, nhưng đột nhiên lại nói:

-Đơn Đơn, bất kể sau này thế nào, ta cũng sẽ luôn nhớ đến ơn cứu mạng của ngươi. Ngươi là cô nương tốt, ta rất cám ơn ngươi.

Trên khuôn mặt tái nhợt của Đơn Đơn hiện nên chút rạng rỡ, như sông hết sương mù, như người vừa tỉnh sau giấc mộng.

Địch Thanh cũng không để ý, xoay người bước đi, nhưng mới đi được vài bước, đột nhiên Đơn Đơn kêu lên:

-Này!

Địch Thanh dừng lại, nhưng không xoay người lại:

-Còn có chuyện gì sao?

Gió thu lạnh, gió thu ngưng.

Địch Thanh nhìn thu ý nồng đậm, gió thu rít gào, giống như hồng nhan tiều tụy, mộng vỡ hào hùng, trong lòng chỉ muốn “Vũ Thường, ta không có chết. Quách đại ca, ta không có báo thù cho ngươi.”

Đơn Đơn nhìn bóng lưng tiêu điều, sắc mặt lại trở nên trắng nõn, móng tay đều cắm vào da thịt nhưng không hề cảm thấy đau đớn.

 Chương 268 - 271: Phục Tạng

Tĩnh lặng một lúc, cảm giác gió thu đông lạnh đã ngưng, tim cũng ngừng đập, lúc này, Đơn Đơn dùng khí lực toàn thân nói:

- Địch Thanh, ta hỏi ngươi, trên đời này, nếu… có một người, có thể vì ngươi mà không lo đến cái gì Công chúa… cái gì cũng không cần, chỉ muốn theo ngươi, chết cũng tốt, sống cũng vui, đi đến chân trời góc bể… Ngươi có vì nàng mà bỏ qua tất cả không?

Gió thu tiêu điều, thổi bay những chiếc lá khô rách nát vương đầy mặt đất, bay lượn ngổn ngang. Có thể nói, cộng tất cả sự ngổn ngang lại, cũng không bằng tâm tư của người con gái.

Sau khi nói xong, thân thể mềm mại của Đan Đan giống như lá rụng trong gió, không ngừng run rẩy. Trong chốc lát đôi mắt đẹp của nàng không nhìn bóng lưng Địch Thanh, vừa nhìn liền giống như ngàn năm.

Thân hình Địch Thanh cứng ngắc một lúc lâu sau mới nói:

- Ta…

Trong mắt Đan Đan đột nhiên hiện lên nét đau thương và bừng tỉnh, không đợi câu trả lời của Địch Thanh, nàng cười to nói:

- Ngươi đừng tưởng rằng cái người kia là ta! Nam nhân trên đời này chết sạch, ta cũng không thích ngươi.

Ai cũng không tưởng tượng được Đan Đan sẽ cười không chút kiêng kỵ như vậy. Nhưng tiếng cười kia cũng như gió thu thổi múa, mang theo toàn bộ hương vị hiu quạnh.

Đan Đan không đợi đến lúc cười xong, đã xoay người chạy đi.

Địch Thanh quanh đầu, nhìn thấy thân hình màu tím giữa màn mưa lá vàng, rất nhanh chui vào trong kiệu. Cỗ kiệu di chuyển, vòng qua chân núi, dưới ánh mặt trời, giống như sương mù trong bình minh, đã biến mất không thấy gì nữa.

Địch Thanh kinh ngạc nhìn một lúc lâu, lắc đầu rồi đi về hướng nam.

Hắn biết chỉ cần vượt qua ngọn núi trước mặt, đi thêm vài dặm là đã ở rất gần Hoàng Hà. Nếu hắn chọn lộ trình đi phủ Tây Bình, vòng qua Hạ Châu sẽ có thể từ Hạ Châu vượt qua Hoành Sơn đi vào khu vựbiên giới Đại Tống.

Mặc dù đường xá xa xôi, nhưng Địch Thanh tự tin là không có người nhận ra hắn. Đi đường này, chắc cũng không có gì khó khăn.

Chủ ý đã định, Địch Thanh lập tức bước đi. Toàn thân hắn như nhũn ra, nhưng điều này không ngăn cản được quyết tâm trở về của hắn.

Đi qua triền núi, Địch Thanh đã thở hổn hển. Gặp được nơi có suối nước liền đến rửa mặt. Nhìn gương mình mặt phản chiếu dưới làn nước ngăm đen ủ dột thì cười khổ. Hiện giờ không có Phi Tuyết, gương mặt này rửa cũng không đi, chẳng lẽ cả đời này hắn đều phải mang gương mặt này sao?

Trước kia hắn cực kỳ anh tuấn, lần này biến thành da đen, lại càng trở nên kiên nghị. Hắn không ngại bộ dạng của mình dài ngắn thế nào, mà là sẽ giải thích với mọi người thế nào đây?

Địch Thanh đang nhìn suối nước, đột nhiên cảm thấy suối nước gợn sóng, trong lòng trở nên cảnh giác.

Tuy tạm thời hắn không thể động võ, nhưng vẫn còn tính cảnh giác. Không biết từ lúc nào, một người giống như bóng ma đã lặng lẽ đứng ở phía sau Địch Thanh.

Toàn thân Địch Thanh căng thẳng, chậm rãi ngồi thẳng lên, xoay đầu nhìn lại, nhìn người ở phía sau. Địch Thanh nhận ra người nọ không phải là âm hồn, mà là Tu La – Atula!

Người phía sau không ngờ lại là Dã Lợi Trảm Thiên.

Tại sao Dã Lợi Trảm Thiên lại có mặt ở nơi này, có phải đã phát hiện bí mật của Địch Thanh hay không, có phải cố ý tới lấy mạng Địch Thanh?

Địch Thanh không có vẻ kinh hoàng, lẳng lặng nhìn Dã Lợi Trảm Thiên. Đôi mắt Dã Lợi Trảm Thiên có màu xám trắng, cũng đang nhìn bầu trời. Y là người mù, nhưng không thể nghi ngờ, y còn sáng suốt hơn rất nhiều người bình thường.

Gió thổi, trên mặt nước có chút gợn sóng. Ánh mặt trời chiếu trên mặt nước, mặt nước liền giống như một tầng băng mỏng.

Thật lâu sau, Dã Lợi Trảm Thiên mở miệng nói:

- Địch Thanh?

Địch Thanh trầm mặc một lát, biết ở trước mặt con người nhạy bén này, nói dối cũng vô dụng, trầm giọng nói:

- Đúng.

Sắc mặt Dã Lợi Trảm Thiên buồn tẻ:

- Vừa rồi khi ngươi ở trong kiệu, ta biết ngay người ở bên trong là ngươi!

Địch Thanh nhíu mày, biết Dã Lợi Trảm Thiên không cần phải nói lời khoa trương, nhưng vì sao ánh mắt của người mù này còn chính xác hơn cả người bình thường? Bỗng nhiên nhớ đến thời điểm lúc trước hắn gặp Dã Lợi Trảm Thiên, từng nghe y nói qua:

- Rốt cuộc ngươi đã tới!

Không tránh khỏi một phen hồi hộp.

Lúc trước Địch Thanh nghĩ đến những lời này là nói dóc, nhưng bây giờ nghĩ lại, cảm thấy trong đó còn có ý nghĩa sâu sắc.

Mặc dù hắn và Dã Lợi Trảm Thiên người nam kẻ bắc, nhưng đều là những người có khí phách…

- Thật ra Trương Nguyên cũng biết trong kiệu có người, nhưng y không vạch trần, ngươi có biết vì sao không?

Dã Lợi Trảm Thiên đột ngột hỏi, không thể nghi ngờ lại khiến cho người ta càng khó hiểu.

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Không biết. Ngươi nói vì sao?

Hắn vốn nghĩ là Dã Lợi Trảm Thiên sẽ không trả lời, nhưng Dã Lợi Trảm Thiên đã lập tức đưa ra đáp án:

- Y biết trong kiệu còn có người, nhưng tuyệt đối không ngờ được chính là thích khách. Y vẫn còn muốn làm Trung thư lệnh, vì thế sẽ không không vì những chuyện nhỏ nhặt này mà đắc tội với Công chúa, cản trở tiền đồ. Trong suy nghĩ của Ngột Tốt, địa vị của Công chúa gần với giang sơn.

- Vì sao Trương Nguyên lại nghĩ trong kiệu không phải là thích khách?

Địch Thanh hỏi lại.

Dã Lợi Trảm Thiên nói:

- Bởi vì y không biết ngươi quen Công chúa. Y không cho rằng Công chúa sẽ bảo vệ một thích khách.

- Nhưng dĩ nhiên là ngươi đã biết.

Địch Thanh giễu cợt nói:

- Ngươi có thể cứu Đan Đan trên tay Phi Ưng, đương nhiên đã biết tất cả mọi chuyện. Nguyên Hạo có thể biết rất nhiều chuyện, cũng là do ngươi. Ngươi biết ta quen Đan Đan, nhưng vì sao lúc trước không nói gì? Chắc không phải là vì ngươi sợ đắc tội với Đan Đan, bởi vậy luôn đi theo chúng ta, đợi khi Đan Đan đi xa mới xuất hiện?

Khóe miệng Dã Lợi Trảm Thiên đột nhiên hiện ra nụ cười mỉm, gương mặt gầy yếu, sắc mặt xám tro của y trong gió thu, thoạt nhìn giống như được che bởi một một màn sương.

Địch Thanh cảm thấy hắn đã nhìn thấu người này, nhưng chẳng biết tại sao, luôn thấy y im lặng.

- Ta không sợ đắc tội với bất cứ kẻ nào! Nếu quả thật ta muốn giết ngươi như lời ngươi nói, bất cứ lúc nào ta cũng có thể lấy mạng ngươi, cho dù là Đế Thích Thiên không cho, ta cũng sẽ giết ngươi.

Dã Lợi Trảm Thiên thốt lên từng chữ, giọng điệu chân thật, đáng tin.

Địch Thanh không có chút kinh ngạc nào, trấn tĩnh nói:

- Vậy ngươi tới đây, đương nhiên không phải là để giết ta. Nếu ngươi muốn giết ta, đã không cần nói nhiều lời vô nghĩa như vậy.

Dã Lợi Trảm Thiên vẫn nhìnbầy trời, thản nhiên nói:

- Ngươi nói đúng! Ta tới nơi này, là muốn thay Phi Tuyết truyền đạt một câu.

Sắc mặt Địch Thanhbiến đổi lớn, thất thanh nói:

- Ngươi… bắt Phi Tuyết?

Đột nhiên, hắn cảm giác được điều gì đó, quay đầu nhìn lại, nhìn thấy ở chân núi có mấy người đang tiến đến, đều là những gương mặt xa lạ. Đầu óc Địch Thanh bị tung tích của Phi Tuyết thu hút, mặc kệ những người kia có lai lịch gì, quát lên:

- Hiện tại Phi Tuyết thế nào? Chuyện ám sát Nguyên Hạo không hề có chút liên quan gì đến nàng.

Dã Lợi Trảm Thiên chậm rãi nói:

- Làm sao ngươi biết không có quan hệ? Ngươi có biết nàng muốn đi đâu?

Địch Thanh hơi ngạc nhiên, cau mày nói:

- Chẳng lẽ ngươi biết?

Chỉ bằng một câu nói kia là hắn đã biết chính xác Phi Tuyết ở cùng một chỗ với Dã Lợi Trảm Thiên.

Dã Lợi Trảm Thiên lạnh nhạt nói:

- Đương nhiên là ta biết. Nơi nàng muốn đến chính là Hương… Ba… Lạp!

Trong lòng Địch Thanh chấn động, cảm thấy như có sấm nổ bên tai, thất thanh nói:

- Hương Ba Lạp? Nàng muốn mang ta đi Hương Ba Lạp? Làm sao ngươi biết?

Lúc này Địch Thanh vô cùng khiếp sợ. Hắn chỉ biết là Phi Tuyết kiên trì muốn dẫn hắn đến một nơi, không nghĩ tới chỗ đó chính là Hương Ba Lạp!

Rốt cuộc Phi Tuyết có lai lịch thế nào, tại sao lại biết Hương Ba Lạp? Lời Dã Lợi Trảm Thiên nói là thật hay giả? Vì sao Phi Tuyết có thể biết Dã Lợi Trảm Thiên và Phi Ưng? Lời của Phi Tuyết mà Dã Lợi Trảm Thiên muốn truyền đạt là gì?

Rất nhiều bí ấn. Mặc dù Địch Thanh đã hỏi liên tiếp ba câu hỏi, nhưng không thể hiện hết một phần mười nghi hoặc trong lòng.

Dã Lợi Trảm Thiên cũng nghe được có người đang đi tới nơi này, nhưng lại không lo ngại. Vấn đề Địch Thanh hỏi, y cũng không trả lời, chỉ lạnh lùng nói:

- Ngươi đi đi. Phi Tuyết nói, ngươi đã không cần cùng nàng đến Hương Ba Lạp nữa rồi.

- Vì sao?

Địch Thanh khổ sở nói. Hắn không ngờ được đã mất một cơ hội tốt để tiếp cận Hương Ba Lạp.

Dã Lợi Trảm Thiên thản nhiên nói:

- Bởi vì ngươi không xứng!

Con mắt xám trắng của y vẫn tĩnh mịch như cũ, nhưng khuôn mặt xám tro đột nhiên có phần phấn chấn và kích động. Không nghe thấy động tĩnh của Địch Thanh, Dã Lợi Trảm Thiên đùa cợt nói:

- Ngươi không tin Phi Tuyết đã nói những lời này sao?

Trong mắt Địch Thanh đột nhiên có phần cổ quái, nhìn chằm chằm Dã Lợi Trảm Thiên mà nói:

- Ta không tin một câu ngươi vừa nói.

- Câu nào?

Dã Lợi Trảm Thiên vẫn phát ra giọng điệu như bình thường. Chỉ vào thời điểm nói ra ba chữ “Hương Ba Lạp”, y mới có phần kích động. Trừ lần đó ra, y vĩnh viễn lãnh đạm như trời cao, không để bất cứ điều gì ở trong lòng.

- Ngươi nói có thể giết ta bất cứ lúc nào. Ta không tin.

Địch Thanh chậm rãi nói.

Rốt cuộc Dã Lợi Trảm Thiên không nhìn trời nữa, ánh mắt xám trắng nhìn chằm chằm vào Địch Thanh, giọng như mỉa mai, lại như tự hỏi:

- Ta biết ngươi không sợ chết, nhưng ngươi thực sự muốn dùng mạng của mình để kiểm nghiệm lời của ta sao?

Địch Thanh đứng thẳng sống lưng, thốt ra từng chữ một Nếu ngươi không tin lời ta nói… vì sao không thử một chút?

Dã Lợi Trảm Thiên cười lãnh đạm:

- Trước kia ta mong ngươi tới, là vì ngươi có chỗ hữu dụng. Giờ đã có Phi Tuyết, ta giết ngươi thì có làm sao…

Y còn chưa nói hết, sắc mặt đã thay đổi, đôi mắt xám trắng có phần cương cứng, đột nhiên không nói nhiều nữa, nhìn sang một bên. Có một người đang từ hướng đó đi nhanh tới.

Người nọ ăn mặc không khác gì một thương nhân tầm thường, khóe miệng có hai hàng râu làm cho người ta chán gét, nhưng thời điểm đi tới, lại giống như một thanh kiếm sắc được rút ra khỏi vỏ.

Thanh kiếm kia sắc bén lành lạnh, dù là Dã Lợi Trảm Thiên, một trong Cửu vương cũng không dám coi thường.

Người nọ đi tới, đứng sóng vai với Địch Thanh, lạnh lùng nói với Dã Lợi Trảm Thiên:

- Dã Lợi Trảm Thiên, ta không tin lời ngươi nói! Địch Thanh không chết một cách dễ dàng như vậy!

Địch Thanh nhìn thấy người nọ tiến đến, không kịp suy xét lời nói đầy ẩn ý của Dã Lợi Trảm Thiên, trong mắt hiện lên sự kích động, cùng mang theo một phần ấm áp, nhưng ở mũi lại có mùi chua xót.

Đương nhiên là hắn nhận ra người kia. Hắn không nghĩ tới, người này cũng tới phủ Hưng Khánh rồi. Nhưng khi thấy được người này, hắn liền nghĩ đến Quách Tuân, nghĩ tới thung lũng Phi Long, nghĩ tới rất nhiều thứ.

Chuyện cũ như sương khói cũng như đao.

Dã Lợi Trảm Thiên khôi phục sự bình tĩnh, chớp đôi mắt xám trắng, đột nhiên hỏi:

- Diệp Tri Thu?

Gió thu nổi lên, là thu vàng, thu Diệp Tri Thu! Hai tròng mắt của người mới tới hiện lên tia sắc bén, mãnh liệt như hai mũi kiếm, chỉ đáp một câu:

- Đúng!

Người tới chính là Diệp Tri Thu. Danh bộ Khai Phong – Diệp Tri Thu!

Diệp Tri Thu cũng có chút kì quái, thật sự không hiểu được vì sao người mù này lại nhận ra mình? Nhưng y không hề sợ hãi. Trong cuộc đời y, không có hai từ sợ hãi.

Dã Lợi Trảm Thiên ngẩng đầu nhìn trời, thở dài nói:

- Ngươi không phải là đối thủ của ta.

Diệp Tri Thu khẽ mỉm cười, thẳng thắn nói:

- Đúng vậy! Dù không phải là đối thủ, vẫn muốn ra tay!

Diệp Tri Thu không nói nhiều, nhưng Địch Thanh hiểu được, vì thế mà sôi trào nhiệt huyết.

Có người cả đời này chỉ ra tay với kẻ yếu, không tránh khỏi nhàm chán. Có người, cả đời nay, có một số việc nhất định phải ra tay.

Thần sắc của Dã Lợi Trảm Thiên vẫn bình tĩnh, nhưng tay áo phần phật. Thật lâu sau, y mới gật đầu nói;

- Tốt!

Sau khi nói xong, người khác vốn nghĩ y sẽ ra tay, không ngờ tới y lại xoay người chậm rãi bỏ đi.

Diệp Tri Thu cũng không ra tay, bởi vì mục đích của y không phải là Dã Lợi Trảm Thiên. Địch Thanh nhìn Dã Lợi Trảm Thiên đi xa, lúc này mới nhớ tới một chuyện, vội kêu lên:

- Hiện giờ Phi Tuyết đang ở đâu?

Dã Lợi Trảm Thiên đã không còn thấy người, nhưng dư âm theo gió truyền đến:

- Nàng không muốn gặp lại ngươi!

Gió rét. Địch Thanh đứng chôn chân ở đó, trong bụng đầy nghi ngờ. Một lúc sau, cảm giác Diệp Tri Thu vẫn còn đang nhìn hắn, Địch Thanh nghiêng đầu lại, thấp giọng nói:

- Diệp Bộ đầu, Quách đại ca đi rồi.

Hắn vốn định chuyển sang đề tài khác, nhưng khi vừa nhắc tới ba chữ Quách đại ca, điều gì cũng quên hết, kể cả Hương Ba Lạp.

Trong mắt Diệp Tri Thu đọng nước, cười nói:

- Ai mà không chết chứ? Chỉ cần sau này còn có người nhớ đến, đã không uổng cuộc đời này rồi. Địch Thanh, ngươi không nên thương tâm như vậy.

Tuy y an ủi Địch Thanh như vậy, nhưng chính mình cũng rơi lệ.

Địch Thanh xem Quách Tuấn như anh như cha, Diệp Tri Thu bình sinh cao ngạo, nhưng lại coi Quách Tuấn là tri kỷ cả đời.

Cả hai người đều nhìn thấy trong mắt nhau tình cảm thổn thức. Địch Thanh nặng nề gật đầu, buồn bã nói:

- Nhưng… Ta không thể báo thù cho Quách Đại ca.

Diệp Tri Thu vỗ vỗ bả vai Địch Thanh, trầm giọng nói:

- Ngươi cũng biết, hiện giờ có bao nhiêu người muốn cái đầu của Nguyên Hạo? Hạ Tủng hao phí năm triệu quan để lấy đầu Nguyên Hạo, số tiền này dễ lấy như vậy hay sao?

Vốn y chỉ định đùa một chút, nhưng trong lòng cảm thấy nặng nề. Diệp Tri Thu nói tránh đi:

- Rời khỏi nơi này rồi nói sau.

Diệp Tri Thu là người cẩn thận, lo lắng Dã Lợi Trảm Thiên sẽ dẫn người quay lại. Địch Thanh gật đầu, thấy cách đó không xa còn có vài người, một người trên mặt luôn mỉm cười, một người mặt xám như tro tàn, còn có một người đeo trường kiếm sau lưng.

Địch Thanh thấy ba người này đều là người xa lạ, không kìm được hỏi:

- Diệp Bộ đầu, đây là thuộc hạ của ngươi?

Diệp Tri Thu lắc đầu:

- Không phải. Phải... Chính là thủ hạ của Chủng Thế Hành... Có lẽ có thể nói... Là thủ hạ của ngươi.

Địch Thanh cảm thấy kỳ quái. Người mang khuôn mặt mỉm cười tiến lên, lại cười nói:

- Địch Tướng quân, tại hạ là Hàn Tiếu.

Lại chỉ vào người có sắc mặt như tro tàn giới thiệu:

- Y gọi là Lý Đinh… Cái tên đeo trường kiếm kia tên là Tố Qua Binh. Gần đây chúng ta được Chủng lão trượng chiêu vào trong quân, sau sự việc Địch Tướng quân đại náo phủ Hưng Khánh truyền đi, Chủng lão trượng lập tức hạ lệnh cho mấy người chúng ta tới tìm ngài… Không ngờ chúng ta vô dụng, tìm mãi vẫn không thấy Địch Tướng quân.

Địch Thanh nhớ đến việc năm ngoái Chủng Thế Hành từng nói qua:

“Những năm gần đây, ta quen biết rất nhiều chi sĩ có chí khí, chi bằng chúng ta hãy sắp xếp họ vào quân đội cho ngươi chỉ huy. Có một số người tính cách có hơi kỳ quái, nhưng ta nghĩ ngươi có thể trấn áp được bọn họ…”

Địch Thanh thầm nghĩ: “chớp mắt cái đã qua gần một năm, ta là kẻ vô tích sự, nhưng Chủng Thế Hành thì chưa bao giờ vứt bỏ ý tưởng của y.”

Thấy ba người Hàn Tiếu đều mang đầy vẻ phong trần, Địch Thanh áy náy nói:

- Ta vẫn trốn ở trong cung, đương nhiên là các ngươi không tìm được ta.

Hắn liền đem sự việc mấy tháng nay nói qua một cách sơ lược, chỉ không đề cập đến Đan Đan.

Mọi người nghe xong đều cảm thấy kinh ngạc, Hàn Tiếu ở bên cạnh nói:

- Chủng lão trượng vẫn muốn loại trừ Dã Lợi Vương và Thiên Đô Vương. Lần này người Đảng Hạng xảy ra nội chiến, ta nghe nói Dã Lợi Vượng Vinh đã chết, vốn tưởng rằng là kế ly gián của Chủng lão trượng đã có tác dụng, không nghĩ tới còn có nội tình này.

Địch Thanh nói:

- Thật ra kế ly gián của Chủng lão trượng vẫn có tác dụng, nếu không phải Nguyên Hạo và Dã Lợi Vượng Vinh nghi kỵ lẫn nhau, Dã Lợi Vượng Vinh cũng không vội vã bộc phát.

Mọi người đều gật đầu. Lúc nói chuyện, đoàn người đã rời khỏi núi, đi trên đường lớn. Mặc dù Hàn Tiếu khiêm tốn nói mình vô năng, nhưng lại chuẩn bị mọi việc rất thỏa đáng. Mấy người Địch Thanh vừa mới đi đến đường lớn, liền có người tiến đến tiếp đón, đưa ngựa và quần áo. Để tránh phiền phức, mấy người thay đổi trang phục của người Khương, sau đó một mạch tiến về phía đông.

Dọc theo đường đi, Địch Thanh nghe Hàn Tiếu giới thiệu, mới biết được đám người Hàn Tiếu mới đến phủ Hưng Khánh, không tìm được Địch Thanh, nhưng lại gặp Diệp Tri Thu. Bằng trực giác, Diệp Tri Thu cho rằng Địch Thanh không phải là hạng người khoa trương như vậy, càng cho rằng Địch Thanh đi tới Ngọc Môn Quan chẳng qua là để dương đông kích tây, bởi vậy mới đề nghị mọi người không cần đi tới Ngọc Môn Quan, vẫn nên ở lại phủ Hưng Khánh thăm dò tin tức, bởi vậy mà lúc nãy mới gặp được Địch Thanh.

Đối với phán đoán của Diệp Tri Thu, Địch Thanh rất khâm phục, không kìm nổi liền hỏi:

- Diệp Bộ đầu, ta đã dịch dung rồi, vì sao ngươi còn có thể nhận ra ta.

Dịch dung: hóa trang thay đổi khuôn mặt.

Diệp Tri Thu lấy từ trong bụng ra một cái ống đồng, đưa cho Địch Thanh, cười nói:

- Vật này gọi là thiên lý nhãn, là ta mua được từ trong tay của một thương nhân Tây Vực… Ta ở trên núi phía ngoài thành, thật trùng hợp nhìn thấy có cỗ kiệu của Bát Bộ chủ đi ra, cũng có chút để ý. Mặc dù sắc mặt ngươi có chút đen, nhưng thân hình không thay đổi. Ta từ xa nhìn thấy, cảm giác đó chính là ngươi nên mới dẫn mọi người tiến đến.

Địch Thanh cầm thiên lý nhãn giơ lên trước mắt, nhìn thấy cảnh vật ở xa liền trở nên gần lại, giật mình kinh hãi, cảm thán đời người có nhiều việc kỳ lạ, cũng hiểu được Diệp Tri Thu sớm đã nhìn thấy hắn và Đan Đan rồi. Y không hỏi Địch Thanh về Đan Đan, chính là bởi vì rất tin tưởng Địch Thanh.

Địch Thanh trả lại thiên lý nhãn rồi hỏi:

- Diệp Bộ đầu, vì sao ngươi lại đến phủ Hưng Khánh này?

Diệp Tri Thu thấy Địch Thanh có chút xấu hổ, cười nói:

- Quách Tuân nhờ ta đi Thổ Phiên, ta mới từ nơi đó trở về. Biết ngươi có khả năng ở gần đây, liền ở lại vài ngày.

Tim Địch Thanh run lên, nhớ lại chuyện cũ, trong lòng thấy khổ sở. Đương nhiên là hắn đoán được, Quách Tuân nhờ Diệp Tri Thu đi Thổ Phiên, nhất định là có liên quan đến Hương Ba Lạp.

Diệp Tri Thu ghìm ngựa, ngắm nhìn dãy núi ở xa xa, bầu trời rộng lớn, than thở nói:

- Ngươi cũng đã biết, cuộc đời Quách Tuân rất ít khi cầu người khác.

Một lúc lâu sau, Địch Thanh mới gật đầu nói:

- Xưa nay huynh ấy vẫn luôn lấy việc giúp người làm mục đích.

- Nhưng theo ta được biết, ít nhất y đã từng nhờ cậy người ta ba lần.

Diệp Tri Thu quay đầu nhìn Địch Thanh, mắt sáng như đuốc:

- Ba lần đều là vì ngươi!

Thân hình Địch Thanh run lên, thấp giọng nói:

- Là ba lần?

Diệp Tri Thu từ từ nói:

- Năm đó Dạ Nguyệt Phi Thiên phá hủy Phật Di Lặc ở Đại Tướng Quốc Tự, đánh rơi Ngũ Long. Thái hậu tức giận, lệnh ta truy bắt kẻ trộm Ngũ Long, giết không cần xử…

Địch Thanh bỗng nhiên hiểu ra, thất thanh nói:

- Ngươi sớm biết là ta cầm Ngũ Long, nhưng cũng không bắt ta, là vì Quách Đại ca cầu ngươi không bắt ta?

Quách Tuân vì hắn mà làm rất nhiều việc, nhưng không ngờ tới, ý của Thái hậu mà Quách Tuân cũng dám chống lại, mà Diệp Tri Thu cũng đáp ứng Quách Tuân.

Diệp Tri Thu gật đầu, cảm khái nói:

- Đúng vậy! Đây là lần thứ nhất y cầu ta. Y biết ngươi thích Ngũ Long, cũng cho rằng chỉ có Ngũ Long mới có thể khiến ngươi tỉnh lại. Nhưng…

Trong mắt y có chút khác thường, máy môi hai cái nhưng lại không nói gì.

Nhiệt huyết trong người Đich Thanh sôi trào, không để ý đến biểu hiện khác thường của Diệp Tri Thu, chỉ lẩm bẩm:

- Ta nợ Quách đại ca rất nhiều.

Diệp Tri Thu thở phào một cái, lẩm bẩm:

- Đúng là ngươi nợ y không ít. Y vẫn còn giúp ngươi tìm Hương Ba Lạp… Bất kể sinh tử. Y đi rồi, nhưng y biết ta nhất định sẽ còn giúp ngươi tìm kiếm.

Địch Thanh sớm đoán được lần thứ hai Quách Tuân cầu người là vì muốn giúp hắn tìm Hương Ba Lạp. Nhưng nghe chính mồm Diệp Tri Thu nói ra, vẫn không kìm được sự cảm động.

- Ngươi cũng tin vào Hương Ba Lạp?

Địch Thanh không kìm nổi lên tiếng hỏi.

Trong ánh mắt vốn rất sắc bén của Diệp Tri Thu xuất hiện vẻ thổn thức, nhưng trong lúc đó xuất hiện chút hoảng sợ và hoang mang. Y nhìn trời cao, thấp giọng nói:

- Trên đời này, có rất nhiều chuyện không giải thích được.

Vốn y có khuôn mặt rất cá tính, đột nhiên lại mang chút sợ hãi và thần bí. Thật lâu sau, y mới trở lại bình thường:

- Ngươi có biết cái gọi là Điệt Mã?

Sắc mặt Địch Thanh biến đổi lớn, kinh ngạc nói:

- Ngươi cũng biết Điệt Mã? Rốt cuộc Điệt Mã là cái gì?

Y vốn cho rằng Quách Tuân chết đi, sẽ không còn ai cho hắn biết tin tức về Điệt Mã, không ngờ tới Diệp Tri Thu lại nhắc đến hai chữ này.

- Muốn tìm Hương Ba Lạp, tất phải tìm Điệt Mã.

Diệp Tri Thu lẩm bẩm nói.

Địch Thanh chấn động, vội la lên:

- Diệp Bộ đầu, rốt cuộc Điệp Mã là cái gì?

- Điệp Mã giống với Hương Ba Lạp, vốn là Tạng ngữ.

Diệp Tri Thu thở hắt ra, ánh mắt rạng rỡ:

- Ý tứ chân chính của Điệp Mã chính là Phục Tạng! Mà ý nghĩa của Hương Ba Lạp, chính là vùng đất yên vui, cũng có thể nói là trong lòng nhật nguyệt.

- Phục Tạng? Vùng đất yên vui? Trong lòng nhật nguyệt?

Địch Thanh nghe giải thích, vẫn không hiểu.

Diệp Tri Thu nhìn dáng vẻ nghi hoặc của Địch Thanh, cười khổ nói:

- Lúc trước ta nghe những điều này, cũng cảm thấy mê hoặc. Nhưng ngươi có biết “Đào Hoa Nguyên ký” không?

Địch Thanh chậm rãi gật đầu. Mặc dù hắn đọc không nhiều sách lắm, nhưng cũng biết tác phẩm nổi tiếng này là do Đào Uyên Minh thời Đông Tấn viết.

-

“ Vào khoảng triều Thái Nguyên đời Tấn, có một người ở Vũ Lăng làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà đi, quên mất đường xa gần, bỗng gặp một rừng hoa đào mọc sát bờ mấy trăm bước, không xen loại cây nào khác, cỏ thơm tươi đẹp, hoa rụng rực rỡ...

Mấy lời ít ỏi đã phác họa ra thế ngoại đào nguyên trong suy nghĩ của rất nhiều người.

Trong suy nghĩ của mọi người, chẳng phải đều có chốn đào nguyên sao. Chỉ là có người đã quên, cũng có ít người nhớ lại trong mộng…

Tại sao Diệp Tri Thu lại nhắc tới “Đào Hoa Nguyên ký”?

Diệp Tri Thu im lặng, cuối cùng nói:

- Ẩn trong suy nghĩ của mọi người, Hương Ba Lạp chính là chốn đào nguyên. Tuy nhiên… Chốn đào nguyên cũng không đủ để hình dung một phần vạn của Hương Ba Lạp. Trong truyền thuyết, xung quanh Hương Ba Lạp là núi tuyết, bên trong ấm áp như mùa xuân, cây cao bóng cả. Nơi đó là thánh địa tu hành, cung điện huy hoàng bao la hùng vĩ, chẳng những có thể vô ưu vô lo, còn có thể đạt được mong ước.

Địch Thanh ở bên cạnh nói:

- Diệp Bộ đầu, lời ngươi và lời của Thái hậu không khác nhau lắm, nhưng làm thế nào mới có thể tìm được Hương Ba Lạp này? Chốn đào nguyên? Vùng đất yên vui? Trong lòng nhật nguyệt? Có phải muốn nói, tuy con người hướng đến vùng đất này, nhưng không ai tìm được?

Khóe miệng của hắn nở nụ cười chua xót, nghĩ những điều Diệp Tri Thu biết cũng có hạn.

Bỗng nhiên Diệp Tri Thu nhìn Địch Thanh, lắc đầu nói:

- Ngươi sai rồi. Đã có người tìm được Hương Ba Lạp.

Địch Thanh giật mình hỏi:

- Là ai?

Diệp Tri Thu thốt ra từng chữ:

- Phục Tạng có thể tìm được đường đến Hương Ba Lạp.

- Phục Tạng? Điệt Mã? Đó là loại người gì?

Ánh mắt Diệp Tri Thu sắc như lưỡi kiếm, bỗng như có sương mù bao phủ:

- Người đó rốt cuộc có phải là người không?

Y nói những điều kỳ quái, thấy Địch Thanh không hiểu, lại thấp giọng nói:

- Bên Tạng nhiễu loạn còn hơn xa Trung Nguyên, khiến cho rất nhiều đại điển Phật pháp và các loại chú văn không có cách nào truyền xuống được, Phật bèn đem những thứ này giấu ở một nơi… ở một nơi vô cùng kỳ lạ!

- Giấu ở nơi nào?

Tuy Địch Thanh không hiểu tại sao Diệp Tri Thu lại nói đến việc nhiễu loạn của xứ Tạng, nhưng vẫn không kìm được lên tiếng hỏi.

Diệp Tri Thu chỉ ngón tay vào đầu của mình, một lúc lâu sau mới nói:

- Phật đem những điển tự đó giấu ở sâu trong ý thức của một số người, thì ra là giấu ở trong đầu một số người, để tránh cho những điển tự đó bị thất truyền. Đến khi thời cơ chín muồi, thần linh sẽ mở ra ý thức của những người này, lấy điển tự ra lưu truyền lại cho hậu thế.

Gió thu từ cuối chân trời thổi tới, giọng nói của Diệp Tri Thu có chút mơ hồ. Núi xa, sương mù, lá rụng lả tả, giống như tinh linh đang nhảy lên.

Địch Thanh rùng mình một cái, ngạc nghiên không ít, không thể tưởng tượng được câu chuyện lại như vậy. Thật lâu sau mới cười lớn rồi nói:

- Điều này thật khó làm cho người ta tin được.

Dường như trong mắt Diệp Tri Thu ẩn giấu nguồn gốc:

- Vậy Long Ngũ thì sao, không phải cũng khiến cho người ta khó mà tin được sao?

Địch Thanh không nói gì hắn chỉ có thể thừa nhận, sự thần bí của Long Ngũ đúng là cũng không dễ tưởng tượng ra được.

Trên đời này, vốn có rất nhiều sự việc không thể giải thích được.

- Con người luôn không lưu tâm, cự tuyệt thừa nhận sự vật không thể hiểu, bởi vì bọn họ thấy kinh hãi, kinh hãi lực lượng thần bí không thể khống chế này. Con người vọng tưởng đem tất cả mọi việc nắm trong lòng bàn tay!

Diệp Tri Thu mỉm cười, trong nụ cười mang theo sự bất đắc dĩ.

- Nhưng có thể khống chế cái gì? Con người ngay cả tình cảm của bản thân cũng không thể khống chế! Lần đầu ta nghe mấy chuyện này, phản ứng cũng giống như ngươi.

Địch Thanh im lặng một lát, hỏi

- Cái gì đã cải biến quan niệm của ngươi?

Diệp Tri Thu từ từ hỏi lại:

- Ngươi từng nghe nói đến Cách Tát Nhĩ Vương?

Địch Thanh lắc đầu, chần chờ nói:

- Kiến thức của ta ít, chưa từng nghe qua người này.

Diệp Tri Thu thở dài nói

- Đây không phải là người, mà là một vị thần. Biên giới Tây Tạng vẫn lưu truyền thần thoại về ông ta. Rất lâu về trước, thiên tai nhân họa tràn ngập đất Tạng, yêu ma quỷ quái hoành hành, vì thế ông trời phổ độ chúng sinh ra khỏi bể khổ, liền phái Các Tát Nhĩ Vương xuống. Ông trời ban cho ông ta ba loại năng lực là: thần, long, niệm…

- Năng lực thần, long còn dễ giải thích, nhưng cái gì gọi là niệm?

Địch Thanh hỏi.

Diệp Tri Thu trầm ngâm một lát, nói:

- Niệm là một sức mạnh mãnh liệt của thần, so với Tu La còn hung hãn hơn. Một người muốn diệt trừ tà ác, chắc chắn phải có thần thông của Thần, năng lực của Long, và sự hung hãn của Niệm. Cát Tát Nhĩ Vương dựa vào ba loại thần thông này, đánh đông dẹp tây, nam chinh bắc chiến, đánh bại yêu ma xâm lấn quốc thổ, lại chiến thắng Bạch Trướng Vương của nước Hoắc Nhĩ, Tát Đan Vương của nước Khương, Tân Xích Vương của Môn Vực, Nặc Nhĩ Vương của Đại Thực… Sự tích về Cát Tát Nhĩ Vương, cho dù kể suốt mấy tháng cũng chưa chắc đã xong.

- Cách Tát Nhĩ Vương kia và Điệp Mã có quan hệ gì?

Địch Thanh không kìm được lên tiếng hỏi. Điều hắn quan tâm nhất không phải là Cách Tát Nhĩ Vương, mà là Điệp Mã và Hương Ba Lạp.

Diệp Tri Thu chậm rãi nói:

- Thần tích kinh thiên của Cách Tát Nhĩ Vương khó có thể nói hết, ở Tây Tạng vẫn luôn lưu truyền rộng rãi sự tích về ông ta. Thế nên có tín đӠbắt đầu viết truyện về Cách Tát Nhĩ Vương. Truyện kia có đến mấy triệu chữ, ít có người có thể nhớ hết, hơn nữa loạn lạc liên miên, truyền thuyết cũng sẽ mất mát. Nhưng lúc ta ở Tạng biên, gặp một đứa bé. Đứa bé này không đến mười tuổi, không biết chữ, lại có vẻ ngốc nghếch, cái gì cũng không biết, ta biết đây cũng không phải là giả vờ.

Đôi mắt Địch Thanh tin tưởng Diệp Tri Thu, nhưng vẫn khó hiểu lên tiếng hỏi:

- Đứa bé kia và Cách Tát Nhĩ Vương có quan hệ gì?

Diệp Tri Thu khẽ mỉm cười, nhưng trong nụ cười lại cất giấu sự khó tin vô cùng vô tận;

- Một ngày đứa bé kia sốt cao, hôm mê suốt ba ngày ba đêm. Và khi tỉnh lại, đột nhiên thay đổi, trở nên rất thông minh.

Địch Thanh cũng cười nói:

- Một người thay đổi trở nên thông minh một ngày.

Diệp Tri Thu thản nhiên nói:

- Có thể, nhưng ngươi có biết nó thông minh đến thế nào không? Nó liên tục dùng đàn tỳ bà hát lên, mang mấy triệu chữ trong truyện về Cách Tát Nhĩ Vương kể ra một lượt.

Địch Thanh ngơ ngẩn, mí mắt không kìm được giật giật mấy cái. Hắn biết Diệp Tri Thu sẽ không lừa hắn. Còn đứa bé kia... tất nhiên là cũng không có khả năng đã lừa gạt Diệp Tri Thu.

Diệp Tri Thu cảm khái nói:

- Sau ngày đó, ta theo đứa bé kia suốt mấy tháng, phát hiện nó đàn hát rất mượt mà, tuyệt đối không có nửa phần dấu vết học thuộc lòng. Thực chất đó là do bên trong trí nhớ của nó đã có, tùy tâm mà hát kể ra…

Trong đầu Địch Thanh như có tia chớp xẹt qua, rốt cuộc giật mình kêu lên:

- Đứa bé kia chính là Điệt Mã? Cũng chính là Phục Tạng?

Diệp Tri Thu gật đầu nói:

- Rốt cuộc ngươi đã hiểu, nhưng có điều cùng lắm nó cũng chỉ là một loại phục tạng mà thôi, trên đời này có rất nhiều loại phục tạng…

Địch Thanh xem ra đã hiểu ra sự liên hệ giữa rất nhiều chuyện, trầm tư nói:

- Nói như vậy, Phục Tạng nằm trong thần trí, chỉ chờ cơ hội đi ra? Có thể gọi người truyền truyện của Cách Tát Nhĩ Vương là Phục Tạng, người biết được Hương Ba Lạp ở nơi nào, cũng chính là Phục Tạng. Chỉ cần tìm được Phục Tạng riêng của bản thân, là có thể tìm đến Hương Ba Lạp?

Ánh mắt Diệp Tri Thu hiện lên sự tán thưởng;

- Ngươi nói rất đúng.

Địch Thanh cười cười, nụ cười tràn đầy chua xót, trong lòng có chút nghi ngờ:

“Nhưng loại phục tạng này, so với Hương Ba Lạp còn khó tìm hơn!”

Hắn nghi ngờ truyền thuyết màDiệp Tri Thu biết cũng chỉ là muốn an ủi Địch Thanh hắn.

Diệp Tri Thu thản nhiên nói:

- Trên đời này, phải là sự việc khó khăn, mới đáng giá để người đi tìm sao? Nếu như quá nhẹ nhàng và dễ dàng, ngược lại sẽ không được quý trọng. Hôm nay, ta nói những điều này với ngươi, chính là muốn nói với ngươi ba câu.

- Mời nói.

Địch Thanh thầm thở dài.

- Câu đầu tiên chính là Quách Tuân chưa từng lừa ngươi. Mỗi câu nói hắn nói với ngươi, đều là dùng máu và nước mắt mà kết lại, ngươi không nên hoài nghi!

Địch Thanh có chút áy náy, sau một lúc lâu mới nói:

- Diệp Bộ đầu, ta không nên nghi ngờ ngươi.

Diệp Tri Thu cười cười:

- Ta biết ngươi đã trải qua quá nhiều đau khổ và thất vọng, khó tránh khỏi có lòng nghi ngờ với rất nhiều chuyện, ta không trách ngươi.

Hai tròng mắt của y tỏa sáng, tràn đầy kiên quyết.

- Câu thứ hai ta muốn nói là... Quách Tuân không thể cứ chết như vậy được. Y làm cho chúng ta rất nhiều việc… Ngươi phải vì y mà tìm cách báo thù!

Địch Thanh trầm ngâm hồi lâu, gật đầu thật mạnh nói:

- Ta hiểu!

Quách Tuân chết trên chiến trường, Địch Thanh hắn sẽ ở trên chiến trường mà báo thù rửa hận cho Quách Tuân.

Trong mắt Diệp Tri Thu tràn đầy vui mừng:

- Câu thứ ba ta muốn nói chính là, Quách Tuân đã đi, nhưng ta còn sống! Bảo vệ biên cương ta không làm được, nhưng điều tra manh mối ngươi không bằng ta. Cho nên ta đi điều tra phục tạng cho ngươi tìm kiếm Hương Ba Lạp cho ngươi. Mà việc ngươi phải làm chính là vì Quách Tuân, vì ta, vì Đại Tống, vì dân chúng Tây Bắc mà đánh bại Nguyên Hạo!

Địch Thanh cúi đầu một lúc lâu, rốt cuộc cũng ngẩng đầu lên, trong mắt tràn đầy sự kiên định:

- Ta sẽ cố hết sức.

Hắn biết điều này rất khó, nhưng hắn không có lý do để lùi bước.

Có một số việc, chỉ cần là người, nhất định phải làm.

Lúc này Diệp Tri Thu mới thở phào nhẹ nhõm, thần sắc thoải mái hơn rất nhiều.

Địch Thanh còn đang suy nghĩ về Hương Ba Lạp, Phục Tạng, Điệt Mã, đột nhiên nghĩ đến Dã Lợi Vượng Vinh cũng từng đề cập đến hai chữ “Điệt Mã”. Lúc trước vì cung biến mà bỏ qua mọi tính toán, mũi tên lông vũ ngũ sắc, cự cung Hiên Viên, mũ đen áo trắng hiện ra ở trước mắt…

Những chuyện này hắn chôn giấu đã lâu, ở trong trí nhớ đã bị phủ bụi suốt mấy năm, chẳng biết tại sao, đột nhiên hắn lại nghĩ tới lăng Vĩnh Định. Vì sao từ điện Thiên Hòa hắn lại nghĩ tới lăng Vĩnh Định? Địch Thanh khó hiểu, đau đầu suy nghĩ, rồi đột nhiên chấn động, thất thanh nói:

- Ta nghĩ ra rồi.

Diệp Tri Thu hơi giật mình, nghi ngờ nói:

- Ngươi nghĩ ra điều gì?

Sắc mặt Địch Thanh kích động, vội la lên:

- Ngũ sắc, năm loại màu sắc, ngũ long? Hắc bạch, trong chuyện này có quan hệ gì? Khẳng định là có quan hệ đấy, nếu không bọn họ sẽ không có lựa chọn như vậy!

Diệp Tri Thu lại khó hiểu, quát khẽ nói:

- Địch Thanh, ngươi bình tĩnh một chút, rốt cuộc là làm sao?

Địch Thanh chấn động, trán túa mồ hôi, trong sự kích động còn có nét hoang mang:

- Diệp Bộ đầu, ngươi đi qua Huyền cung lăng Vĩnh Định, nhìn thấy bên trong Huyền cung Triều Thiên có bảy cánh cửa.

- Thì làm sao?

Diệp Tri Thu cau mày nói.

- Bảy cánh cửa vào kia là ngọc môn, muốn đến nơi đặt linh cữu Tiên đế phải đi qua Ngũ sắc môn. Hơn nữa đó còn là năm cửa năm màu là kim, bạch, hoàng, hắc, ô. Theo lời của Thái hậu, lăng Vĩnh Định chính là Hương Ba Lạp trong suy nghĩ của Chân Tông, là Chân Tông mô phỏng Hương Ba Lạp ở trong suy nghĩ mà xây dựng… Nói như vậy… Khẳng định là Hương Ba Lạp có liên quan đến năm màu sắc này.

Diệp Tri Thu thở dài nói:

- Chẳng qua đây chỉ là ý tưởng của Chân Tông…

Y định nói “xây dựng không được chuẩn lắm”, nhưng sợ sẽ làm Địch Thanh thất vọng.

Địch Thanh kêu lên:

- Không phải. Đây không phải chỉ là ý tưởng của mình Chân Tông, Nguyên Hạo cũng nghĩ như vậy.

Diệp Tri Thu chấn động, vội hỏi:

- Vì sao ngươi nói như vậy?

Địch Thanh kể lại sự kiện hắn nhìn thấy ở điện Thiên Hòa, thấy Diệp Tri Thu còn chút mê hoặc, hắn phân tích:

- Nguyên Hạo có ngũ tiễn do năm loại kim loại chế thành, là kim, ngân, đồng, thiết, thiếc…

Hóa ra vừa rồi tâm tư của hắn lẫn lộn, nhớ tới mũi tên có lông vũ ngũ sắc của Nguyên Hạo, từng có loại cảm giác kỳ quái. Thời khắc này nhớ ra màu sắc của năm mũi tên, đột nhiên hiểu được hắn hoang mang điều gì, trong lòng không tránh khỏi rung động.

Diệp Tri Thu gật đầu nói:

- Nghe nói mũi tên lông vũ ngũ sắc kia được dùng gọi là Định Đỉnh Tiễn, có ý lập giang sơn. Tay y cầm Hiên Viên Cung, sử dụng Định Đỉnh Tiễn, không cần nói cũng biết là trong tim có hùng tâm, muốn thống nhất thiên hạ…

Bỗng nhiên hiểu ra, Diệp Tri Thu thất thanh nói:

- Dựa theo lời nói của ngươi, Nguyên Hạo cũng biết Hương Ba Lạp. Màu sắc của Định Đỉnh Ngũ Tiễn và màu sắc của Triều Thiên cung Ngũ Môn giống nhau. Điều này nói ra, Hương Ba Lạp trong suy nghĩ của Nguyên Hạo và Chân Tông dường như giống nhau, ít nhất cũng có thể nói… Hương Ba Lạp và năm loại màu sắc kia có liên quan. Bởi vậy Tiên đế xây xong Ngũ Sắc môn, Nguyên Hạo giữ mũi tên lông vũ ngũ sắc.

Địch Thanh liên tục gật đầu, lại nói:

- Không chỉ như thế, Nguyên Hạo dùng mũ đen áo trắng, mà mặt đất của cung Triều Thiên cũng chỉ có hai màu đen trắng. Hai loại màu sắc không mưu mà hợp, dường như chứng minh, Nguyên Hạo và Chân Tông đều có nhận biết giống nhau về Hương Ba Lạp.

Trong lòng nghĩ đến:

“Trắng đen, ngũ sắc… Còn nói lên điều gì?”

Ánh mắt Diệp Tri Thu thể hiện sự đồng ý, nhưng lại lập tức thất vọng nói:

- Nhưng chuyện này cũng không có trợ giúp gì nhiều trong việc tìm Hương Ba Lạp.

Địch Thanh giống như bị dội một gáo nước lạnh, ngơ ngác nhìn về chân trời, đột nhiên nói:

- Diệp Bộ đầu, ngươi không phát hiện ra Nguyên Hạo rất giống một người sao?

- Giống ai?

Thần sắc Địch Thanh có chút cổ quái:

- Chẳng phải Nguyên Hạo có chút giống với Cách Tát Nhĩ Vương đấy sao?

 Chương 272 - 276: Đom đóm

Thấy Diệp Tri Thu có chút coi thường, Địch Thanh lại giải thích:

- Nguyên Hạo sáng chế ra tám bộ phận, hai bộ Thiên Long chính là lực lượng của Thần, Long, còn lại sáu bộ phận, chính là lực lượng của Niệm giúp y làm ác.

Đối với việc Nguyên Hạo, Diệp Tri Thu không phục, nhưng nghe đến đó, sắc mặt cũng thay đổi. Y cảm thấy lời nói của Địch Thanh, không giống như lời nói vô căn cứ.

Nguyên Hạo sáng tạo ra tám bộ phận, hóa ra cũng có thâm ý sâu sắc!

Địch Thanh lại nói:

- Cách Tát Nhĩ Vương đánh bại kẻ thù xâm lấn, lại không ngừng nam chinh bắc chiến, đánh đông dẹp bắc. Tổ tông Nguyên Hạo từ Tây Bắc cứng rắn đoạt một mảnh đất, mấy năm nay, Nguyên Hạo đánh dân tộc Hồi Hột, Cao Xương, chiến Thổ Phiên, chống đỡ với Đại Tống của chúng ta…

Diệp Tri Thu cắt ngang nói:

- Ta biết ngươi muốn nói cái gì, ngươi muốn nói những việc làm của Nguyên Hạo có phần giống với Cách Tát Nhĩ Vương. Nhưng ngươi đã sai ở điểm quan trọng nhất, Nguyên Hạo chính là mối họa của dân chúng, còn Cách Tát Nhĩ Vương thì công đức viên mãn, và mẫu thân, Vương phi trở về Thiên đình. Nói sau này y tự xưng là Đế Thích Thiên, xây dựng tám bộ phận, chỉ là ra vẻ thần bí, mê hoặc dân chúng.

Địch Thanh thầm nghĩ:

- Ngươi cho là như vậy nhưng Nguyên Hạo không cần thiết phải nghĩ như vậy.

Không muốn cãi cọ với Diệp Tri Thu, Địch Thanh nói:

- Hương Ba Lạp và Điệt Mã có liên quan, Điệt Mã lại có liên quan tới Cách Tát Nhĩ Vương, vậy Hương Ba Lạp và Cách Tát Nhĩ Vương có liên quan hay không đây?

Diệp Tri Thu cũng lâm vào trầm tư suy nghĩ, Địch Thanh càng cảm thấy tất cả hỗn loạn, nhưng hắn cảm giác được hình như hắn càng ngày càng đến gần Hương Ba Lạp.

Ít nhất cũng có thể xác định được, Hương Ba Lạp không phải là ảo tưởng.

Nghĩ đến đây, Địch Thanh phấn chấn nói:

- Lúc này ít nhất cũng có thể xác định được vài điểm, Hương Ba Lạp và ngũ sắc, còn có hai màu đen trắng có liên quan, Hương Ba Lạp không phải là ảo tưởng. Hương Ba Lạp trong suy nghĩ của Nguyên Hạo và Chân Tông tương tự nhau, nhưng hiển nhiên là so với Chân Tông, những điều Nguyên Hạo biết còn nhiều hơn. Thoạt nhìn, ít nhất là Nguyên Hạo cũng biết Hương Ba Lạp ở đâu. Chúng ta muốn tìm Hương Ba Lạp, đã có hai con đường. Một là đi tìm Phục Tạng, con đường còn lại, chính là tìm Nguyên Hạo.

Diệp Tri Thu gật đầu, thấy Địch Thanh nóng lòng muốn thử, thở dài nói:

- Nhưng hiện tại ngươi phải đi con đường thứ ba, mau trở về Duyên Châu!

Y không nói gì thêm. Địch Thanh sớm hiểu được, do dự một chút, chậm rãi nói:

- Ngươi nói rất đúng.

Tinh thần Diệp Tri Thu chấn động, cười nói:

- Ngươi hiểu được là tốt rồi. Một khi đã như vậy, ngươi về Duyên Châu, còn ta đi hai con đường kia. Địch Thanh, chúng ta từ biệt tại đây.

Địch Thanh biết hơn phân nửa là Diệp Tri Thu sẽ đích thân nhúng ta vào việc của Nguyên Hạo, vừa nghĩ tới võ công của Nguyên Hạo, Địch Thanh lo lắng nói:

- Vậy… Ngươi cẩn thận.

Diệp Tri Thủ hiểu lo lắng của Địch Thanh, khẽ mỉm cười:

- Trên đời này, không phải dùng võ công là có thể giải quyết được tất cả mọi việc. Ngươi cũng bảo trọng.

Dứt lời, y quay đầu ngựa, quay về hướng phủ Hưng Khánh chạy đi.

Tiếng chân đi xa, bão cát lại lên.

Địch Thanh nhìn bóng lưng Diệp Tri Thu, lẩm bẩm nói:

- Diệp Bộ đầu, đa tạ ngươi.

Hôm nay, sau khi biết sự việc về Hương Ba Lạp, thật sự là hắn muốn cấp tốc đi tìm. Nhưng Quách Tuân, Diệp Tri Thu, Chủng Thế Hành đều vì hắn mà không oán không hối, vì hắn mà bôn ba mệt nhọc, hắn đã gánh trên vai rất nhiều ân oán.

Việc tốt nhất mà hắn có thể làm vì ba người này chính là chinh chiến trên chiến trường, đánh bại Nguyên Hạo, không phụ kỳ vọng của mọi người.

Đột nhiên nhớ lại Diệp Tri Thu đã từng nói qua, Quách Tuân vì hắn mà ba lần cầu người, nhưng Diệp Tri Thu không nói lần thứ ba là gì.

Là Diệp Tri Thu quên, hay cố tình không nói đến?

Địch Thanh không nghĩ nhiều, hắn chỉ biết là Quách Tuân vì hắn làm rất nhiều việc, đã không đếm nổi nữa rồi! Hắn cũng quên không nói cho Diệp Tri Thu biết về sự việc của Phi Tuyết. Vừa nghĩ đến đây, Địch Thanh muốn đuổi theo, cuối cùng lại từ bỏ.

Cô gái kia giống như tuyết bay, không ngừng lay động, vô cùng thần bí. Muốn tìm Phi Tuyết, cũng không phải là chuyện dễ dàng gì!

Địch Thanh thúc ngựa, lao về hướng đông.

Ngựa hí núi xa, cát bụi thúc giục.

ua khỏi Hoành Sơn, Địch Thanh nhìn thấy trời rộng núi cao, trong lòng thầm nói:

- Quách Đại ca, huynh yên tâm, sẽ có một ngày, đệ sẽ dẫn binh đánh qua Hoành Sơn, sẽ không phụ sự khổ tâm của huynh.

Gió rét nổi lên, thổi cho mặt đất ngổn ngang, lá khô tung bay, giống như hình ảnh của gió. Một cái lá cây bay thẳng đến, mang theo một màu xanh biếc, nhưng trong mắt Địch Thanh, lá cây khô vàng kia có màu trắng, dường như cũng chính là mình, trên đầu đã có tóc bạc, không kìm nổi giơ tay lên bắt lấy.

Cảm giác mát mẻ. Hóa ra không phải là đầu bạc, mà là sương đông đọng lại.

Lúc này Địch Thanh mới phát hiện, cuộc đời này giống như chiếc lá, hoảng hốt mơ màng, cảm thấy sương lạnh. Dù con người chưa già, nhưng năm tháng đã khắc sâu.

Núi sông vắng vẻ, thổn thức buồn đau, vui mừng. Không biết nơi nào, Khương địch từ từ thổi bay, tạo ra luồng gió độc, như đầu bạc quấn quýt si mê, như nước năm xưa…

Địch Thanh đợi đám người xuyên Thanh Cương Hạp qua Hoành Sơn.

Qua Thanh Cương Hạp mọi người lại lên ngựa chạy nhanh một ngày đã vào Khánh Châu, gần trại Nhu Viễn.

Trại Nhu Viễn là trại quan trọng ở Khánh Châu của người Đảng Hạng, người giữ trại vẫn là Võ Anh. Địch Thanh nghĩ tới Võ Anh trong lòng có chút lo lắng, khi đang suy nghĩ là có nên vào trại Nhu Viễn gặp Võ Anh trước không, thì có một con ngựa từ xa chạy tới.

Hàn Tiếu nghênh đón, nói hai câu thì đi vòng vòng:

- Địch tướng quân, Chủng lão trượng ở trại Nhu Viễn chờ ngài. Ông ấy mời ngài tới trại Nhu Viễn một chuyến.

Trên đường đi, Địch Thanh đã biết ba người Lý Đinh, Qua Binh và Hàn Tiếu mỗi người đều có khả năng. Hàn Tiếu võ nghệ không ổn, nhưng bản lĩnh thăm dò, truyền tin tức là hạng nhất. Có Hàn Tiếu đi cùng, Địch Thanh đi trên đường, ngược lại hiểu rõ rất nhiều sự tình.

Địch Thanh lấy làm kỳ lạ, thầm nghĩ Chủng Thế Hành không ở Thanh Giản, đến trại Nhu Viễn làm gì?

Thấy Địch Thanh hoang mang, Hàn Tiếu mỉm cười nói:

- Địch tướng quân...

- Đừng gọi ta Địch tướng quân gì.

Địch Thanh xua tay nói:

- Ta chỉ là một Chỉ huy sứ bình thường, không đảm đương nổi hai chữ tướng quân.

Hàn Tiếu nụ cười không giảm, nhưng trong mắt tràn đầy thành khẩn, nói:

- Địch tướng quân, có lẽ ngài chỉ là một Chỉ huy sứ, nhưng mấy năm nay tất cả những gì ngài làm không thẹn với hai chữ tướng quân. Nói thực, Lý Đinh lãnh, Qua Binh cuồng, còn ta nữa... cảm thấy Tây Bắc cũng không có mấy người đáng được tôn kính. Nhưng ba người chúng tôi trước khi đi phủ Hưng Khánh tìm ngài, đều là thật lòng thật ý muốn theo ngài. Chủng lão trượng nói qua, Địch tướng quân là người duy nhất có thể chống lại Nguyên Hạo, chỉ là vẫn hiếm có cơ hội thể hiện tài năng. Chủng lão trượng tin ngài, chúng tôi tin ông ấy, chúng tôi cũng tin ngài.

Y đang cười nói ra những điều này, trong mắt tràn đầy ý nghiêm túc.

Địch Thanh nhìn nhìn Hàn Tiếu, lại nhìn Lý Đinh lạnh lùng, Qua Binh đeo kiếm. Lý Đinh chỉ là gật gật đầu, ý chỉ Hàn Tiếu nói đúng. Qua Binh trầm giọng nói:

- Địch tướng quân, đừng nhìn nữa, sau khi chúng tôi nghe chuyện của ngài, đều khâm phục ngài. Từ lúc ngài giải oan cho Đinh Thiện Bản của Tân trại. Từ lúc ngài một mình ngăn chặn Thiết Diều Tử. Từ lúc ngài phá trại Hậu Kiều, chiến đấu với Dã Lợi Trảm Thiên, giết Bồ Đề Vương. Chúng tôi đều phục ngài. Ở Tây Bắc, nếu ngài không gánh nổi danh hiệu tướng quân, ai có thể đảm đương?

Địch Thanh thấy vẻ mặt của ba người không giống, sự thành thực như nhau, thở dài nói:

- Địch Thanh may mắn gì, thoát mạng trong cái chết, lại có thể quen biết các ngươi. Được, các ngươi tin ta, Địch Thanh ta không thể phụ sự tin tưởng của các ngươi. Sẽ có một ngày Địch Thanh để người Đảng Hạng biết, có Địch Thanh, Hồ Mã không thể tàn sát bừa bãi Trung Nguyên nữa.

Câu nói này của hắn là nói với ba người bọn Hàn Tiếu, cũng là nói với Chủng Thế Hành, Diệp Tri Thu, Quách Tuân, càng là lời hứa hẹn với Dương Vũ Thường, hứa hẹn cuộc đời này không thay đổi.

Tần thì minh nguyệt Hán thì quan,

Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn.

Đãn sử long thành phi tương tại,

Bất giáo hồ mã độ âm sơn!

(Tần Hán đến nay, ánh trăng vẫn như thế chiếu sáng quan ải.

Xa nhà vạn dặm trường chinh, tướng sĩ đến nay vẫn chưa về.)

Chỉ cần Phi tướng trấn thủ Long thành còn đó,

thì sẽ không cho kỵ binh người Hồ vượt qua Âm Sơn.)

Địch Thanh không biết tại sao đột nhiên nghĩ tới bốn câu thơ này. Nhiệt huyết trong lòng lại dâng lên, quét sạch tinh thần suy sụp. Sống cũng vậy, chết cũng thế thôi, nếu ông trời không thu nhận Địch Thanh hắn, thế thì hắn vui vẻ đánh một trận.

Ba người Hàn Tiếu đều mang tinh thần phấn chấn, vẻ mặt hưng phấn, cùng kêu lên nói:

- Chúng tôi đợi ngày này của Địch tướng quân.

Lúc Địch Thanh giục ngựa đi về trại Nhu Viễn, không kìm được hỏi Hàn Tiếu:

- Chủng lão trượng tại sao tới trại Nhu Viễn?

Hàn Tiếu lắc đầu nói:

- Ty chức cũng không biết, Địch tướng quân rời khỏi gần một năm. Chủng lão trưởng luôn thở ngắn thở dài, nói ngài sẽ không chết. Nghe ngài lại xuất hiện ở phủ Hưng Khánh, ông ta vui hơn ai hết, lập tức lệnh chúng tôi đến tìm ngài... ông ấy vui mừng, giống như là...

Hàn Tiếu không nhịn nổi cười, không nói tiếp nữa.

Địch Thanh truy hỏi:

- Giống cái gì?

Hàn Tiếu thần sắc buồn cười, nói:

- Giống như là chủ nợ cuối cùng tìm được người thiếu nợ.

Địch Thanh cười ha hả, trước mắt lại hiện lên Chủng Thế Hành với khuôn mặt xanh xao, cái trán hơi trọc, xen lẫn đôi mắt ưu sầu.

Giữa hắn và Chủng Thế Hành hi hi ha ha giống như là không nghiêm chỉnh, nhưng tình nghĩa hai bên từ lâu đã như mưa xuân tưới lên vạn vật.

Đã gần tới trại Nhu Viễn, hai tròng mắt Địch Thanh đột nhiên ngưng tụ, giục ngựa chạy. Phía xa cũng có một con ngựa chạy tới như như phong hỏa, trên ngựa trán của người đó hơi trọc, cuối thu còn mang đôi giày rách nát, nhưng cũng có thể không phải là Chủng Thế Hành?

Hai người gần như đồng thời xoay người xuống ngựa, đi đến một chỗ, lại không khỏi dừng lại, nhận ra ý thổn thức trong đôi mắt mỗi bên.

Chủng Thế Hành đôi mắt đã đỏ, dùng ống tay áo chùi chùi khóe mi, lẩm bẩm nói:

- Tiểu tử nhà ngươi chưa chết, tốt thật.

Địch Thanh cười nói:

- Nếu ta chưa chết, lão vội khóc cái gì?

- Trở về thì tốt!

Người đó không hỏi nhiều, vì lão tin chắc nên đến cuối cùng sẽ đến!

Trong giọng nói tràn đầy vui mừng, giống như sớm đã ước định gặp lại người bạn tốt chí thành. Tuy bình thản như nước, lại tình nghĩa nặng sâu.

Lão và Địch Thanh chỉ gặp mặt một lần, nhưng kiếp này rõ ràng đã định, bọn họ nhất định gặp lại. Hai loại người không giống nhau, một đa tình một chung tình, một kinh nghiệm thăng trầm, một trăm qua đau khổ. Nếu là dắt tay, có thể chạm vào hào quang lộng lẫy nhất của thế gian.

Người đó chính là Phạm Trọng Yêm! Phạm Trọng Yêm đi tới Tây Bắc!

Trên mặt Địch Thanh cũng có ý tôn kính. Phạm Trọng Yêm đáng để hắn tôn kính.

Nhưng Địch Thanh vẫn có chút kỳ quái, trên mặt hắn đã hiện lên vết hằn của năm tháng, khuôn mặt sớm đã không giống như trước. Sao Phạm Trọng Yêm liếc nhìn một cái thì nhận ra hắn?

Trên đường Địch Thanh trở về, sớm nghe Hàn Tiếu nhắc tới tình hình lúc này của Tây Bắc.

Sau cuộc chiến Tam Xuyên Khẩu, thiên tử tức giận, chẳng những Phạm Ung khó chối được sai lầm này. Quan viên biên phòng Tây Bắc cũng gần như toàn bộ bị bãi bỏ thay mới. Lúc này Hạ Tủng làm Kinh lược An phủ sứ Thiểm Tây, toàn quyền phụ trách phòng ngự Tây Bắc. Hạ Tủng không biết binh, lại háo sắc. Nhưng y thông minh, y đem tất cả mọi chuyện giao cho Phạm Trọng Yêm và Hàn Kỳ xử lý.

Phạm Trọng Yêm và Hàn Kỳ lúc này cùng là Phó sứ Kinh lược An phủ Thiểm Tây. Phạm Trọng Yêm kiêm Tri Duyên Châu, Hàn Kỳ kiêm Tri Kính Châu. Địa vị của hai người này hôm nay giống như Phạm Ung.

Phạm Trọng Yêm thân là phó sứ An phủ, trước mắt là Tri Duyên Châu, tại sao lặng lẽ chạy tới trại Nhu Viễn?

Đang lúc Địch Thanh cân nhắc, Phạm Trọng Yêm chỉ chỉ vào cái ghế bên cạnh, ý chỉ mọi người ngồi xuống.

Phạm Trọng Yêm cũng không khách sáo, nhìn mấy bản đồ trên bàn, lập tức nói:

- Địch Thanh rời khỏi rất lâu rồi, rất nhiều chuyện không biết được, ta nói qua sơ lược với ngươi.

Lão giống như cùng Địch Thanh họp tác nhiều năm, không có nữa phần mới lạ, chỉ vào bản đồ nói:

- Ban đầu người Đảng Hạng lấy Hoành Sơn làm điểm cao, công kích triều đình ta. Còn chúng ta thì dựa theo ba châu Hoàn, Khánh, Diên tăng cường phòng ngự, các nơi như Thổ Môn hợp thành phòng ngự hình cung đối kháng người Đảng Hạng. Sau cuộc chiến Tam Xuyên Khẩu, chúng ta bị Nguyên Hạo lấy trại Kim Minh, phá Thổ Môn, lại bị bọn họ công chiếm Bình Viễn. Hơn nữa năm đó bọn họ can thiệp vào hai thành thành Bạch Báo và thành Kim Thang, phòng ngự gần Diên Châu, có thể nói là đổ nát tan hoang.

Địch Thanh thấy khu vực Diên Châu đã có hàng chục đầu mũi tên xuyên vào, lòng mang ưu tư.

Phạm Trọng Yêm quay đầu nhìn Địch Thanh nói:

- Ngươi đối với những cái này có ý kiến gì không?

Tất cả mọi người đều ngạc nhiên, không ngờ Phạm Trọng Yêm lại có thể hỏi ý kiến của một võ phu. Chỉ là câu vừa hỏi này, đã phá bỏ lệ thường của Đại Tống.

Nghĩ Đại Tống từ lập quốc tới nay, văn thần đã bắt đầu nghênh ngang ở trên. Mỗi lần gặp chiến, đều có thể cưỡi trên đầu võ tướng. Văn thần tuy không biết binh, không biết dụng binh. Nhưng tất cả mưu kế xưa nay đều là văn thần định ra.

Không ngờ Phạm Trọng Yêm lại có thể hỏi kế sách một Chỉ huy sứ?

Địch Thanh không có để ý đến sự kinh ngạc của mọi người, chỉ nhìn bản đồ trầm ngâm nói:

- Nguyên Hạo lấy một số nơi của Đại Tống, lấy trại Kim Minh, thành Kim Thang, thành Bạch Báo và một số nơi khác làm cánh cung, lấy toàn bộ Hoành Sơn làm cung, tên đã trên dây, cục diện Diên Châu đã bị bao vây toàn diện.

Bên cạnh Phạm Trọng Yêm có một người, khuôn mặt trắng ngần, nghe vậy hỏi:

- Vậy trước mắt làm thế nào?

Thấy Địch Thanh ánh mắt có chứa nghi ngờ, Phạm Trọng Yêm mỉm cười nói:

- Còn quên giới thiệu với ngươi. Đây là Kinh lược Phán quan Khánh Châu -Doãn Thù, Doãn đại nhân.

Địch Thanh cũng nghe qua tên của Doãn Thù, biết người này là bạn tốt của Phạm Trọng Yêm. Năm đó Phạm Trọng Yêm mấy lần bị giáng chức, Doãn Thù vẫn đứng bên cạnh Phạm Trọng Yêm và giáng chức theo, xem như là người chính trực.

Kinh lược Phán quan chủ yếu phụ trách phối hợp sự vụ các châu, cũng có tham dự chức trách quân cơ, chức cao hơn Địch Thanh rất nhiều.

Địch Thanh ôm quyền thi lễ, Doãn Thù nói:

- Đừng khách khí, tính tình của ta giống như Phạm công. Ngươi có bản lĩnh, đắc tội ta không sao, ngươi không có bản lĩnh còn chiếm một chỗ, ta khó tránh trị tội ngươi. Mau nói, chúng ta bây giờ phải làm thế nào?

Doãn Thù liếc xéo Địch Thanh, mơ hồ có ý dò xét.

Thì ra sau khi Phạm Trọng Yêm tới Tây Bắc, đã từng nói chuyện với Chủng Thế Hành. Chủng Thế Hành không chút do dự đề cử Địch Thanh, nói Địch Thanh hữu dũng hữu mưu, có thể đảm đương trọng dụng. Đang lúc gặp Địch Thanh quay lại, Chủng Thế Hành lập tức dẫn Địch Thanh đến gặp mặt.

Doãn Thù là người ngay thẳng, mặc dù không biết binh, nhưng luận binh hay. Nghe Chủng Thế Hành khích lệ Địch Thanh, khó tránh khỏi không phục, mới hỏi câu này.

Đại Tống xưa nay sùng văn khinh võ. Doãn Thù làm người tuy là không tệ, nhưng trong lòng đối với Địch Thanh còn có ý xem thường.

Địch Thanh thấy Doãn Thù như vậy, ngược lại có chút buồn cười, hơi trầm ngâm nói:

- Câu nói rất hay, biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Trước mắt phía chúng ta suy yếu đã lâu, đầu tiên phải hiểu Nguyên Hạo muốn làm gì, mới có thể nhắm vào dụng binh.

Trong mắt Phạm Trọng Yêm nhiều phần khen ngợi, lại hỏi:

- Ngươi cho rằng bước tiếp theo Nguyên Hạo làm như thế nào?

Địch Thanh không chút do dự nói:

- Kế của Nguyên Hạo, đơn giản cứ lấy đất của Lũng Hữu, theo Quan Trung, đông lấy Biện Kinh!

Lúc Địch Thanh nói những câu này, ngược lại dũng khí tràn trề, vì đây là hắn trên xà ngang nghe đích thân Trương Nguyên, Nguyên Hạo nói, không có sai.

Mọi người đều là vẻ sợ hãi, chỉ có khóe miệng Chủng Thế Hành nở nụ cười, nhìn Phạm Trọng Yêm có.

Trong mắt Phạm Trọng Yêm có phần kỳ dị, dường như khó nghĩ Địch Thanh có cách nghĩ này, chỉ có Doãn Thù lặng lẽ khâm phục nói:

- Nếu muốn lấy Quan Trung, y coi chúng ta là người chết sao?

Phạm Trọng Yêm khẽ thở dài, đột nhiên nói:

- Gần đây triều đình có lệnh muốn ta tích cực chuẩn bị chiến đấu, nhưng lại bố trí phòng vệ ở Đồng Quan...

Lão lại lại chuyển đề tài, Doãn Thù kinh ngạc nói:

- Đồng Quan rất xa, ở đó phòng bị cái gì?

Địch Thanh vẻ sợ hãi, tỉnh ngộ nói:

- Chẳng lẽ nói.. triều đình đã sợ người Đảng Hạng, muốn bỏ đất Quan Trung sao?

Doãn Thù ngạc nhiên, vốn xem thường Địch Thanh, thấy sắc mặt Phạm Trọng Yêm nghiêm trang, biết Địch Thanh đoán không sai, cũng biến sắc nói:

- Cái,... cái này sao có thể? Gần đây triều đình không phải bảo ta chiêu mộ binh sĩ, thua mua lừa ngựa, tu sửa lại trại sao? Triều đình tích cực chuẩn bị chiến tranh, sao có thể có ý tiêu cực này?

Phạm Trọng Yêm lo lắng nói:

- Tam Xuyên Khẩu quân ta thảm bại, vua dân khiếp sợ. Bọn họ đương nhiên cũng không muốn bỏ Quan Trung, nhưng trong triều im lặng quá lâu. Chiến tranh tây bắc lần này, chắc chắn tổn thất lớn, chúng ta bây giờ chỉ có thể thắng, không thể thua! Nếu ta thất bại nữa, triều đình đánh mất lòng tin, bỏ Quan Trung cũng là khả năng lớn.

Mọi người im lặng, lúc này mới phát hiện trên vai trọng trách quá nặng.

Thấy mọi người thần sắc nghiêm nghị, Phạm Trọng Yêm ngược lại cười nói:

- Nhưng Nguyên Hạo tuyệt đối không thể chiến thắng. Chỉ cần chúng ta cẩn thận hơn, để bọn họ không có cơ hội thừa dịp, tất nhiên không dám dễ dàng xuất binh. Y không có cơ hội, chính là cơ hội mà ta đợi.

Địch Thanh đang nhai nuốt lời nói của Phạm Trọng Yêm, cảm thấy có đạo lý lớn, hy vọng trong lòng đã tăng lên.

Doãn Thù lại lĩnh hội thành ý khác. Phấn chấn tinh thần, nói:

- Không sai, y là người, chúng ta cũng là người, không tin không đấu lại y.

Phạm Trọng Yêm lơ đãng nhíu mày, tựa hồ không tán thành lời nói của Doãn Thù, cuối cùng không có nói nhiều, chuyển ánh mắt nhìn Địch Thanh nói:

- Thường đọc sách không?

Địch Thanh không ngờ Phạm Trọng Yêm chợt hỏi câu này, mặt toát mồ hôi nói:

- Mạt tướng chinh chiến nhiều năm, ít đọc sách.

Trong ngực hắn kỳ thật có cuốn sách, là cuốn Kinh thi đã sắp bị hắn lật nát.

Phạm Trọng Yêm hạ giọng nói:

- Tướng không biết cổ kiêm, thất phu dũng nhĩ!

Hơi chút trầm ngâm, từ bên người lấy ra quyển sách đưa tới:

- Ta có quyển sách, nếu ngươi có rảnh, có thể đọc thử.

Phạm Trọng Yêm là khẩu khí thương lượng, tuyệt không nghĩ ép buộc người. Địch Thanh lập tức nhận lấy sách, trầm giọng nói:

- Tạ ơn đại nhân.

Hắn xem trang sách, thấy trên mặt viết bốn chữ “Tả Thị Xuân Thu”.

- Vậy mấy ngày này, ngươi ở lại đây trước nhé.

Phạm Trọng Yêm hạ giọng nói:

- Địch Thanh, ngươi dọc đường bôn ba, cũng rất cực khổ, tạm thời nghỉ ngơi, ngày mai ta cùng ngươi bàn một số chuyện. Chủng đại nhân, Doãn Thù, hai người ở lại, ta có chuyện cần nói.

Địch Thanh biết Phạm Trọng Yêm hơn phân nửa muốn cùng đám người Chủng Thế Hành bàn bạc việc quân cơ, cáo lui ra khỏi lều, mới tới ngoài lều, thấy sắc tời đã tối. Gió lạnh se se, trại Nhu Viễn đã nhóm lửa trại, bên cạnh đống lửa, đang đứng hai người, lại là hai người Cát Chấn Viễn và Liêu Phong.

Địch Thanh dụi dụi mắt, vui mừng nói:

- Sao các người có thể tới đây?

Cát Chấn Viễn râu ria tua tủa, cả người thoạt chừng gầy mấy chục cân. Hai mắt sâu hút, tiều tụy không nói ra lời. Thấy Địch Thanh, trong mắt Cát Chấn Viễn rơm rớm nước mắt, nhào về phía trước ôm lấy Địch Thanh, nói:

- Địch chỉ huy, ngài trở về rồi.

Y không kìm nổi rơi lệ, vừa mệt mỏi, vừa vui sướng. Liêu Phong ở bên cạnh, trong vui mừng có mang áy náy.

Địch Thanh thoáng nhìn Liêu Phong có chút bất an, kỳ quái nói:

- Liêu Phong, ngươi sao vậy?

Hắn vô cùng kinh ngạc, Cát Chấn Viễn kích động dị thường, cũng hiếu kỳ vẻ mặt của Liêu Phong, luôn cảm thấy giữa hai người này có một số chuyện xảy ra.

Liêu Phong mới mở miệng nói, Cát Chấn Viễn đã lau nước mắt, cười nói:

- Không có việc gì, Địch chỉ huy, ngài trở về thì tốt.

Y từ trong ngực lấy ra một bao thuốc bột nhỏ ném cho Địch Thanh:

- Địch chỉ huy, lúc trước cô ấy dẫn ngài đi, nói với ngài sau khi trở về, nhất định sẽ thay đổi hình dáng. Thuốc này gọi là bánh xe thời gian, có thể xóa đi tuổi tác, trả lại khuôn mặt vốn có của ngài.

Địch Thanh nhận lấy gói thuốc bột, kỳ quái nói:

- Bánh xe thời gian? Cô ấy là ai... là Phi Tuyết sao?

Trong ngọn lửa, sắc mặt Cát Chấn Viễn giống như biến đổi, lẩm bẩm nói:

- Ngài nói cô gái đó bên hông có mang cành Lam Ti phải không? Cô ấy tên Phi Tuyết, ty chức... không biết.

Địch Thanh lại càng kinh ngạc:

- Ngươi không quen Phi Tuyết, vậy sao ngươi có thể để Phi Tuyết dẫn ta đi chứ?

Hắn chỉ là tùy miệng hỏi, không nghĩ Cát Chất Viễn đột nhiên thay đổi sắc mặt, lùi lại sau một bước, nhìn chằm chằm Địch Thanh nói:

- Địch chỉ huy, ngài không tin ty chức?

Ánh mắt Cát Chất Viễn sáng quắc, trong mắt tràn đầy uất ức và mất mát.

Địch Thanh thấy thế, trong lòng khẽ run, thành khẩn nói:

- Chấn Viễn, chúng ta là huynh đệ, sao ta không tin ngươi. Nhưng ta biết ngươi là người làm việc ổn thỏa, ngươi nếu đem ta giao cho Phi Tuyết, nhất định có lý của ngươi. Ta chỉ cho rằng ngươi quen Phi Tuyết, do vậy hỏi một câu. Nếu ngươi không tiện nói, ta không hỏi nữa. Ta vẫn chưa cám ơn ngươi cứu ta! Nhưng Tư Mã y...

Địch Thanh sắc mặt ảm đạm, thầm nghĩ Tư Mã Bất Quần vì hắn mà chết, có thời gian đi bái tế mộ Tư Mã. Cát Chấn Viễn mấp máy môi, không nói gì. Liêu Phong bên cạnh lớn tiếng nói:

- Lão Cát, tất cả đều là lỗi của ta, hãy lượng thứ cho ta.

Địch Thanh cả kinh, vội hỏi:

- Liêu Phong, rốt cuộc chuyện gì?

Sắc mặt Liêu Phong đỏ lên, áy náy nói:

- Địch chỉ huy, ty chức nói thật với ngài. Ban đầu Tư Mã chết, lão Cát phụ trách dẫn ngài về thành Thanh Giản cầu cứu. Kết quả sau khi lão Cát về tới trong thành, nói ngài bị người ta mang đi rồi. Lão Cát nói không ra người đó rốt cuộc là ai, cũng không nói ngài đi đâu, chỉ nói người đó nhất định có thể cứu ngài, chúng tôi đều rất lo lắng. Hiển nhiên... hiển nhiên...

Địch Thanh thấy Liêu Phong ấp úng, cau mày nói:

- Dĩ nhiên các ngươi nghi ngờ y ấy bán đứng ta?

Liêu Phong thở dài, nói:

- Chính là như vậy, ty chức nhất thời tức giận, còn động thủ với lão Cát. Các huynh đệ thậm chí muốn giết lão Cát báo thù cho ngài... sau đó cũng may Chủng Thế Hành ra sức cam đoan, mới tạm tha cho lão Cát. Sau đó lại nghe nói ngài lại náo động phủ Hưng Khánh, biết ngài không sao, Chủng lão trượng phái người đi tìm ngài. Các huynh đệ biết hiểu lầm lão Cát, lúc này mới thả lão Cát từ trong lao ra...

Địch Thanh lệ nóng đã lưng tròng, mới biết được Cát Chấn Viễn vì sao tiều tụy như vậy. Hóa ra Cát Chấn Viễn vì Địch Thanh hắn lại ngồi trong tù hơn nửa năm.

Một tay nắm lấy Cát Chấn Viễn, Địch Thanh tự trách nói:

- Chấn Cát, ta xin lỗi ngươi.

Liêu Phong cũng nói:

- Bọn ta cũng xin lỗi, xin cứ đánh cứ mắng, cho dù do lão, nhưng...

- Nhưng chúng ta là huynh đệ.

Địch Thanh nắm chặt hai cánh tay Cát Chấn Viễn, nói tiếp:

- Lúc ngươi cứu ta, thì dự liệu được chuyện sau này, nhưng ngươi vẫn muốn như vậy, Chấn Viễn... ta...

- Nếu ngài thật xem ta là huynh đệ, thì đừng nói xin lỗi nữa.

Cát Chấn Viễn đột nhiên mở miệng nói, tuy góc mắt còn rưng rưng, nhưng khóe miệng là nụ cười chân thành:

- Làm huynh đệ... không những là có phúc cùng hưởng, còn phải bất cứ lúc nào chuẩn bị chia sẻ khó khăn, nếu không còn là huynh đệ gì chứ?

Y thấy Địch Thanh tin y, cảm thấy tất cả bỏ ra đều xứng đáng, y không sợ bị oan, nhưng chỉ sợ người khác không hiểu.

Có lúc, sự tín nhiệm của huynh đệ, y thấy còn quan trọng hơn mọi thứ.

Có lẽ bọn họ vốn là một loại người, lúc này mới có thể tụ tập cùng một chỗ, nói ra thật lòng, mới có thể chờ thật tâm hồi báo.

- Lão gia nhân ta từng nói. Đời này làm huynh đệ, không biết tu mấy đời mới có thể tu được, ai không có chút ấm ức! Lần này Địch chỉ huy không sao, ta cũng không chết, tất cả đều qua rồi, được không?

Lúc Cát Chấn Viễn hỏi, nhìn Liêu Phong.

Liêu Phong chân tay luống cuống, sờ sờ lên phía sau đầu, hồi lâu sau mới nói:

- Được, đương nhiên được!

- Nhưng người đã nghĩ oan cho ta, dù sao cũng có chút bồi thường mới đúng.

Cát Chấn Viễn ra vẻ nghiêm túc.

- Lão nói đi.

Liêu Phong vội nói. Gã thấy Cát Chấn Viễn bị oan khúc nhiều như vậy, lại chịu bỏ qua, đương nhiên cái gì đều chịu đi làm.

Cát Chấn Viễn nhìn Địch Thanh, lại nhìn Liêu Phong, trầm giọng nói:

- Ta muốn tối nay các người, uống rượu cùng ta, không say không về, các người có gan nhận lời không?

Liêu Phong không nghĩ tới Cát Chấn Viễn lại yêu cầu cái này, hồi lâu mới nói:

- Ai không uống, người đó là tôn tử!

Lúc nghiêng đầu qua, thiếu chút nữa rơi lệ.

Địch Thanh nhìn Cát Chấn Viễn, cũng xúc động thật lâu.

Có lẽ sống chung dễ dàng, nhưng hiểu được, luôn khó.

Ba người ở trại Nhu Viễn tìm quán rượu ngồi xuống. Trong đêm thu ở tửu quán đốt lên đống lửa lớn, ba người vây quanh đóng lửa thoải mái uống rượu. Cát Chấn Viễn uống rượu giống như uống nước, giống như là tẩy rửa tâm cảnh nhiều ngày.

Địch Thanh lòng đầy tâm sự vốn muốn hỏi chuyện của Phi Tuyết, thấy Cát Chấn Viễn uống sảng khoái, không muốn làm mất cảm hứng nên cũng đè ý niệm xuống.

Không ngờ sau khi Cát Chấn Viễn uống vài chén, nhìn đống lửa, đột nhiên lẩm bẩm nói:

- Ta thật không biết cô ấy tên Phi Tuyết, ta có thể nói quen cô ấy, nhưng chỉ là tình cờ gặp mặt, ta không ngờ cô ấy vẫn có thể nhớ ta.

Địch Thanh chấn động, không biết Cát Chấn Viễn là có lòng hay là vô ý nói chuyện cũ, để tâm lắng nghe.

Cát Chấn Viễn thấp giọng tự nói, giống như là nhớ lại cái gì:

- Lúc đó, cô ấy vẫn là đứa trẻ. Có một hôm Cát gia chúng tôi có một bà bà bị bệnh hấp hối, trong thôn đại phu có tiếng nhất đều lắc đầu nói không thể cứu nữa, bảo mọi người chuẩn bị hậu sự... Cô gái đó bỗng nhiên tới, cô ấy lúc đó là một tiểu cô nương, trước giường bệnh của bà bà, đột nhiên khóc rất thương tâm, giống như lão bà bà là người thân của cô ấy.

Y nói rất hoảng hốt, giống như là kể một giấc mộng, ánh lửa bừng lên, giống như tinh linh nhảy trong bóng đêm.

Cát Chấn Viễn thần sắc mê ly, làm người ta không phân biệt là tỉnh hay say, lại nói:

- Lúc ấy ta ở bên cạnh nhìn, không khỏi hỏi: “Tiểu cô nương, đây là người thân của cô sao?”. Tiểu cô nương đó liếc nhìn ta. Cái nhìn đó, làm người ta giống như rơi vào trong mộng...

Địch Thanh nhớ lại cảnh tượng gặp Phi Tuyết, cũng có chút thổn thức. Hắn có ấn tượng với Phi Tuyết, cũng là vì ánh mắt trong suốt đó của cô, giống như con ngươi không dính khói lửa nhân gian.

Cát Chấn Viễn vẻ mặt không tập trung, thấp giọng nói:

- Tiểu cô nương chỉ liếc nhìn ta, rồi quay đầu lại nói. “Các người đừng khóc, ta có thể cứu bà ấy.” Người thân của bà bà đó tất nhiên không dám tin, lại thấy tuổi cô ấy còn quá nhỏ, đều quát lớn. Ta ở bên nói: “Dù sao cũng đều là chết, để cô ấy thử xem có thể thế nào?” Lúc đó ta ở trong thôn có chút danh vọng, mọi người lúc này mới miễn cưỡng để tiểu cô nương đó thử. Tiểu cô nương đó lấy ra thứ giống viên đá. Viên đá đó vốn màu trắng nhạt, nhưng trong đó giống như có ánh sáng đom đóm chớp động, giống như đom đóm bồng bềnh trong thảo nguyên mịt mờ.

Y nói tới đây, khẽ run. Nhớ tới đêm tuyết đó, Phi Tuyết cũng lấy ra hòn đá đó, là để y tin là Phi Tuyết, để Phi Tuyết dẫn Địch Thanh đi.

Địch Thanh thầm nghĩ: “Loại đá đó, cũng là hiếm thấy, chẳng trách được Cát Chấn Viễn vừa thấy khó quên.”

Cát Chấn Viễn lại nói:

- Tiểu cô nương lấy bát nước giếng, đem hòn đá kia bỏ vào, đợi một hồi, lấy tảng đá lại, đem bát nước cho bà bà uống, không ngờ...

Trên mặt y lộ ra sắc mặt khó tin:

- Bà bà đó rất nhanh tỉnh lại, còn có thể động đậy.

Liêu Phong vẫn cố kìm chế không ra tiếng. Lúc này kinh ngạc vạn phần, thất thanh nói:

- Trên đời còn có chuyện thế này?

Cát Chấn Viễn cũng không để ý tới Liêu Phong, lại uống một ngụm rượu, lẩm bẩm nói:

- Nếu ta không phải tận mắt nhìn thấy, thật sự cũng không tin chuyện này. Ta cũng biết... sau khi nói ra, rất nhiều người cũng là không tin, ngược lại sẽ cảm thấy ta là đang nối dối.

Liêu Phong có chút hổ thẹn, nhất thời không nói.

Cát Chấn Viễn lặng lẽ cười, lẩm bẩm nói:

- Người nhà bà bà tất nhiên thiên ân vạn tạ đối với tiểu cô nương đó, nhưng tiểu cô nương đó ngược lại lạnh lùng nói: “Tự ta cứu bà ấy, không liên quan chuyện của các người.” Cô ấy nói xong thì đi, lại không liếc nhìn bà bà một cái. Mọi người đều rất kỳ lạ, nhưng không dám truy hỏi. Ta lại nhìn thấy trong thôn có hai người đàn ông chơi bời lêu lổng thầm nói hai câu đuổi theo tiểu cô nương đó.

Địch Thanh chau mày nói:

- Hai người này không có ý tốt, chỉ sợ nhìn thấy hòn đá trong ngực của tiểu cô nương.

Lại đang nghĩ: “Phi Tuyết mảnh mai, nhất định không địch lại hai thanh niên trai tráng, chẳng lẽ là Cát Chấn Viên ra tay cứu cô ấy sao?”

Cát Chấn Viễn gật đầu nói:

- Đúng vậy, ai thấy hòn đá đó thần kỳ như vậy nhất định có ý chiếm hữu. Ta thấy hai người đó lén lén lút lút, rồi đi theo sau bọn họ, mới ra khỏi thôn, thì mất hành tung của hai người đó. Ta không khỏi lo lắng, lớn tiếng hô: “Các ngươi chớ hồ đồ, tiểu cô nương, cô ở đâu?” Ta tìm khắp nơi, đợi tới lúc trời tối, tới trước bãi tha ma bên ngoài thôn Cát gia, ta đánh gan đi qua, lại phát hiện hai người đó chính là hai tên du côn đuổi theo tiểu cô nương, còn tiểu cô nương sớm đã không thấy.

Địch Thanh chấn động:

- Hai người đó... thế nào?

Trên mặt Cát Chấn Viễn đột nhiên hiện ra ý kinh hãi, tay cầm bát rượu kịch liệt run rẩy giống như gặp quỷ, câm nửa hồi sau mới nói:

- Lúc đó là mùa hè, đom đóm bay qua bay lại, giống là ma trơ của khu nghĩa địa. Hai người kia quỳ ở đó, giống như là xác chết. Trong lòng ta sợ hãi, quát: “Các ngươi làm gì vậy?” Không ngờ sau một tiếng quát, hai người đó đột nhiên nhảy lên, một người lớn tiếng khóc: “Ta đáng chết, ta đáng chết.” Nắm tay y đánh vào mặt, đánh đến da mặt vỡ tan ra, máu tươi vẩy tung tóe, mà như không có cảm giác. Một người khác lại cười lớn: “Ha ha, hòn đá, ha ha. Trên trời đầy là đá”, y chỉ lên những con đom đóm trên trời, không ngừng cười điên cuồng giống như là điên. Hai người đó ban ngày vẫn là người đàng hoàng, nhưng đột nhiên điên. Hơn nữa từ đó về sau, lại không có tỉnh táo nữa.

Gió thu thổi qua, lửa sáng tắt. Địch Thanh và Liêu Phong thấy Cát Chấn Viễn cũng thần sắc điên cuồng, không khỏi lạnh sống lưng.

Hai người đàn ông đó tại sao điên, chẳng lẽ là vì nguyên nhân của Phi Tuyết.

Đột nhiên một trận gió thổi qua, lay động một thanh củi trong đóng lửa, trong tiếng “đẹt đẹt” đốm lửa nhảy bay.

Cát Chấn Viễn bỗng nhiên nhảy lên, chỉ tay vào đốm lửa trên trời, nói:

- Là, chính là loại lửa này, đầy trời đều là loại lửa này.

Y vẻ mặt hoảng sợ, giống như phát cuồng, tình hình năm đó, rõ ràng đả kích cho y rất lớn.

Địch Thanh trong lòng kinh sợ, đột nhiên cầm tay Cát Chấn Viễn quát:

- Chấn Viễn, ngươi tỉnh lại.

Hắn quát to một tiếng. Cát Chấn Viễn thân hình chấn động, trán đầy mồ hôi, có chút mơ màng nhìn Địch Thanh nói:

- Địch chỉ huy, ty chức làm sao vậy?

Địch Thanh tràn đầy kinh hãi, thấy Cát Chấn Viễn thần sắc hoảng hốt, chỉ sợ y không kiểm soát được nữa, lắc đầu nói:

- Không có gì.

Hắn đưa một chén rượu, Cát Chấn Viễn uống một hớp, sau một hồi lâu mới tỉnh táo, nghĩ mà sợ nói:

- Lúc nãy ta có chút phát điên không.

Thấy vẻ mặt của Địch Thanh và Liêu Phong đầy kinh hãi, Cát Chấn Viễn toàn thân lại run lên, thấp giọng nói:

- Ta mỗi lần nhớ tới chuyện đó, không biết tại sao đều như vậy. Ta tìm các người uống rượu, là muốn dùng rượu thêm can đảm, ta mới dám nói những chuyện này.

Địch Thanh cực kỳ kinh hãi, không ngờ chuyện đó lại cho Cát Chấn Viễn ký ức kinh khủng như vậy.

Sau khi Cát Chấn Viễn uống hai bát rượu, lúc này mới trấn tĩnh lại, lẩm bẩm:

- Sau đó ta kinh hãi quá độ, bệnh nặng một trận. Còn hai gã du côn đó, cũng không có bình thường. Tới bây giờ, có khi trong mộng, ta còn có thể mơ thấy cảnh tưởng đó, luôn khủng khiếp. Sau đó ta trà trộn vào quân doanh, cũng không có gặp lại Phi Tuyết.

Địch Thanh chậm rãi nói:

- Sau đó Phi Tuyết tới Tân trại, là cháu gái ông rèn sắt. Chẳng lẽ ngươi chưa biết bao giờ?

Cát Chấn Viễn cả kinh:

- Tân trại chỉ có một lò rèn. Ngài nói lão Lâm đó phải không? Ông ấy quả thật có một cháu gái. Nhưng không giống tiểu cô nương ta gặp. Tiểu cô nương đó khuôn mặt trắng như tuyết. Cháu gái của lão Lâm, hình như sắc mặt vàng, thật là một người không?

Y chau mày, suy nghĩ khổ sở không hiểu.

Địch Thanh thấy Cát Chấn Viễn trần đầy buồn rầu, an ủi nói:

- Có phải cô ấy hay không đều không sao nữa rồi...

Cát Chấn Viễn không hề suy nghĩ, thở dài nói:

- Cô ấy luôn thần bí như vậy, làm người ta khó hiểu. Chỉ huy sứ, ngài bị thương ở Bình Viễn, trên đường ty chức dẫn ngài tới Thanh Gian, đụng phải tiểu cô nương đó. Đương nhiên, cô ấy đã lớn rồi. Ty chức bắt đầu không nhận ra cô ấy, cô ấy nói có thể cứu ngài, nhưng phải dẫn ngài đi. Ty chức quả thật rất khó khăn, nhưng sau đó cô ấy lấy ra hòn đá. Hòn đá đó...chính là hòn đá trắng hiện ra đom đóm năm đó. Ty chức nhớ lại câu chuyện, mới biết là cô ấy. Ta biết có lẽ còn có người có thể cứu ngài, nhưng lúc đó chỉ có cô ấy có thể cứu ngài. Ty chức chỉ có thể đánh cuộc một lần.

Liêu Phong xấu hổ nói:

- Nhưng lúc đó bọn ta hỏi ngươi, tại sao ngươi chết cũng không nói những chuyện này?

Cát Chấn Viễn nghiêm nghị nói:

- Ta nói, các ngươi tin không?

Liêu Phong ngơ ngẩn, không phản bác được. Lúc đó Địch Thanh mất tích, tất cả mọi người đều bắt đầu nghi ngờ Cát Chấn Viễn. Chuyện này lại í hiểm như vậy, Cát Chấn Viễn cho dù nói thật, Liêu Phong trong lòng tự hỏi, cũng là không tin.

Nghi ngờ bắt đầu, sự thật cũng là mờ nhạt vô lực.

Địch Thanh bên cạnh trấn an:

- Chấn Viễn, chuyện này... thật khổ ngươi.

Cát Chấn Viễn đột nhiên cười ha hả:

- Chỉ huy sứ, tất cả đều trôi qua, giống như uống rượu say vậy. Ngày thứ hai tuy đau đầu, nhưng sẽ không còn nữa. Ty chức không cần đảm đương trách nhiệm cho bọn họ. Ty chức cũng sẽ không trách cứ cái gì. Ban đầu Ty chức đánh cuộc một lần, ngài chết rồi, Ty chức cũng muốn chết. Ngài sống... ha ha, Ty chức đạt được ước nguyện, không thẹn với lương tâm. Được rồi, rượu tận hứng rồi, nên nghỉ ngơi.

Nói xong, y đứng lên, thất tha thất thểu bỏ đi, lại té ngã xuống đất.

Địch Thanh vội vàng đỡ Cát Chấn Viễn dậy. Thấy y đã say khướt bất tỉnh nhân sự, trên mặt đầynhững giọt nước, cũng không biết là rượu hay là nước mắt.

Địch Thanh cõng Cát Chấn Viễn về doanh trướng. Liêu Phong chủ động yêu cầu chăm sóc Cát Chấn Viễn. Địch Thanh không biết tại sao, nhớ tới Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh năm đó, trong lòng cảm thán. Sau khi để Liêu Phong ở lại bên cạnh Cát Chấn Viễn, ra khỏi doanh trướng, Địch Thanh nhớ tới sự cổ quái của Phi Tuyết, khó lòng ngủ được.

Hòn đá đó của Phi Tuyết sao có thể kỳ quái như vậy? Phi Tuyết làm sao khiến hai thanh niên trai tráng phát điên? Tại sao cảnh tượng năm đó, Cát Chấn Viễn qua nhiều năm thế này, nhớ lại còn kinh hãi như vậy?

Phi Tuyết rốt cuộc còn có bao nhiêu bí mật? Cô ấy thật sự biết Hương Ba Lạp ở đâu? Nếu cô ấy thật sự biết Hương Ba Lạp, ở đó là thánh địa Đào Nguyên, tại sao cô ấy không ở đó, ngược lại vẫn phiêu đãng khắp nơi?

Địch Thanh nghĩ mãi không hiểu, giơ tay vào ngực lấy bánh xe thời gian. Đó là thuốc của Phi Tuyết để lại, có thể xóa đi tuổi tác.

Bánh xe thời gian, cái tên rất kỳ quái. Địch Thanh âm thầm nghĩ tới.

Địch Thanh sờ tay vào ngực, không có lấy ra dược phẩm, lại đụng phải cuốn Tả Thị Xuân Thu của Phạm Trọng Yêm đưa cho. Địch Thanh tâm tư khẽ động, lấy cuốn sách đó ra, tùy tiện lật, thấy trang đầu viết “Thanh Bá mộng thiệp hoàn, hoặc dữ kỷ quỳnh côi, thực chi, khấp nhi vi quỳnh côi, doanh kỳ hoài... Hoàn tự trịnh, nhâm thân, chí vu ly thận nhi chiêm chi, viết: dư khủng tử, cố bất cảm chiêm dã. Kim chúng phồn nhi tòng dư tam niên hĩ, vô thương dã. Ngôn chi, chi mộ nhi tốt.”

Địch Thanh không giỏi văn, nhưng cũng xem hiểu những lời này, biết văn này là nói có một người tên Thanh Bá nằm mơ vượt qua Hoàn Thủy, có một người đem một loại châu báu tên là Hồn Quỳnh cho Thanh Bá ăn. Sau khi Thanh Bá ăn, nước mắt khóc ra đều trở thành hạt châu. Sau khi Thanh Bá tỉnh dậy, vẫn không dám xem bói, vì miệng ngậm ngọc châu vốn là tang lễ của người sau khi chết mới có. Hơn nữa phần là giấc mộng mang điềm xấu! Ba năm sau, Thanh Bá quay về nước Trịnh, nói với người bên cạnh, y sợ chết, cho nên không dám xem bói. Nhưng bây giờ đã ba năm rồi, chắc không sao. Không ngờ y nói ra chuyện này, đêm đó thì chết.

Địch Thanh thầm nghĩ:

- Không ngờ sách cổ cũng ghi chép lại câu chuyện hoang đường bất kham này. Nhưng... chuyện xảy ra bênh cạnh mình, chẳng phải nhiều đều rất quái đản? Ánh mắt lưu chuyển, thấy trang giấy đó lại viết mấy lời bình, trong nét chữ đoan trang thanh tú lại mang tâm trạng thanh nhàn.

Mấy chữ này là “không thẹn với trời, sợ gì chết?”

Địch Thanh không biết viết lời bình là ai, nhưng nghĩ tới đôi mắt đa tình đó. Nếu không phải người như vậy, cũng không viết ra lời bình cuồn cuộn oai hùng thế này.

Không thẹn với trời, sợ gì chết!

Địch Thanh nhìn bảy chữ này rất lâu, lúc này mới nhẹ nhàng thở dài, khép sách lại, nghĩ tới giấc mộng của Thanh Bá. Địch Thanh chỉ cảm thấy trong đầu mông lung có chút suy nghĩ, như là nghĩ tới chuyện gì quan trọng, nhất thời lại nghĩ không ra.

Lửa trại rừng rực, Địch Thanh cũng có chút ủ rũ, chậm rãi nhắm mắt lại.

Ánh lửa dần dần tối lại, ánh sao dần mờ, giữa trời đất chìm vào tĩnh mịch vô biên. Không biết qua bao lâu, Địch Thanh bỗng nhiên mở mắt ra, vươn người đứng dậy, trên trán đổ đầy mồ hôi.

Hắn nằm mơ.

Một giấc mơ làm tim hắn đập thình thịch!

Cảnh trong mơ là một hang đá, hang đá bốn vách tường treo đầy họa cổ. Hắn nhớ đi qua chỗ này rồi, trong mơ hắn qua chỗ này.Hắn còn nhớ, những họa cổ đó vốn hẳn là tượng Phật không mặt, nhưng lần này những bức họa cổ đó không phải tượng Phật không mặt, mà là vầng lửa!

Hào quang cực kỳ diễm lệ, lại có bảy màu, dưới ánh sáng, là vùng đất mênh mông.

Hắn thấy qua vầng lửa này, nhưng không phải trong mơ, là ở trên cửa đường đá ánh mây ngũ sắc lăng Vĩnh Định. Hắn vốn cho rằng đã quên rồi, nhưng trong mơ lại rõ ràng như vậy.

Vầng ánh sáng đó, là ý gì? Trong lúc Địch Thanh kinh ngạc trong mơ, đột nhiên thấy xung quanh bốn bức tường bùng lửa, có năm mũi tên bắn ra.

Tên phân năm màu, là thần tiễn ngũ sắc, tên lông vũ ngũ sắc xây dựng triều đình của Nguyên Hạo. Địch Thanh kinh hãi, đang định né tránh, bỗng nhiên bừng tỉnh. Chưa hết tỉnh táo, hắn nghe được một âm thanh giống như trên trời truyền xuống:

- Đến đây!

Địch Thanh bừng tỉnh, khóe mắt không ngừng nhảy lên, thậm chí cái lỗ tai cũng co giật.

- Đến đâu, đi đâu?

Lần thứ hai nghe được cái âm thanh này, trong lúc đó trong đầu bạch quan chớp động. Lòng ngực Địch Thanh đau buốt, chẳng biết tại sao, nhớ tới Diệp Tri Thu nói “Khi rất nhiều kinh điển Phật truyền hay văn chú không thể nào lưu truyền tiếp. Phật sẽ đem những kinh điển đó giấu ở một nơi... giấu ở một nơi rất kỳ bí!”

- Phật đem những kinh điểm này giấu ở chỗ sâu trong ý thức một số người, cũng chính là giấu ở trong lòng ngực một số người, để tránh thất truyền. Tới lúc thời cơ chín muồi, thần linh sẽ mở ý thức những người này, lấy ra những kinh điển này lưu truyền hậu thế.

Địch Thanh thân hình đã run rẩy, khó hiểu mình tại sao nằm m đều là có liên quan với lăng Vĩnh Định Nguyên Hạo.

Chẳng lẽ nói, những giấc mơ này chỉ là ngày suy nghĩ, đêm nằm mơ.

Trong lúc đó đột nhiên nghĩ tới câu nói của Chủng Thế Hành “nghe nói ẩn mình cũng không cần thiết biết mình là ẩn, cần dựa vào hoàn cảnh kích phát. Ta nghe nói, loại người này luôn là trong giấc mơ có được gợi ý...”

Đich Thanh thân hình run lên, trong đầu như tia điện màu tím xẹt qua. Trên trán mồ hôi tuôn ra như suối, trong lòng chỉ có một âm thanh đang hô quát:

- Tại sao ta luôn mơ giấc mơ kỳ quái này, chẳng lẽ... là dẫn đường ta đi Hương Ba Lạp sao?

Nghĩ tới đây, suy nghĩ phức tạp liên tục, không thể ngăn chặn lại.

Địch Thanh bỗng nhiên nghĩ tới cái gì, giơ tay từ trong ngực lấy ra ngũ long. Thấy ngũ long sâu thẳm nặng nề, hình như có hào quang lưu động, rồi đột nhiên ngẩng đầu, trời đã tờ mờ sáng, sương mù se lạnh, thì ra đã sáng rồi.

Trời đã sáng, sương lạnh trên lá cây, chinh y lạnh lẽo.

Địch Thanh vừa nghĩ đến rằng mình có thể đang là ẩn, kích động không ngừng, lại không thể khẳng định, không nghĩ nhiều. Đột nhiên có tiếng bước chân truyền đến, quay đầu nhìn qua, nhìn thấy Phạm Trọng Yêm đang nhìn hắn.

Địch Thanh nhớ Phạm Trọng Yêm nói muốn tìm hắn, không ngờ Phạm Trọng Yêm sớm như vậy đã đến tìm hắn, hơi chút chần chừ nhưng vẫn đi nghênh đón:

- Phạm đại nhân tìm mạt tướng có chuyện phải không?

Hắn ở bên cạnh Phạm Trọng Yêm, bỏ qua thân phận của Phạm Trọng Yêm, giống như chào đón bạn hữu.

Phạm Trọng Yêm nhìn Địch Thanh như thoáng có chút suy nghĩ, gật đầu nói:

- Ta muốn ra trại đi dạo, ngươi có thể đi với ta được không?

Địch Thanh gật đầu, Phạm Trọng Yêm trở mình lên ngựa, giục ngựa chạy ra phía tây Nhu Viễn.

Võ Anh biết Phạm Trọng Yêm ra trại, không tiện ngăn cản, lệnh thủ hạ mang binh theo sau Phạm Trọng Yêm.

Phía đông rạng sáng, phía tây xanh đen. Địch Thanh và Phạm Trọng Yêm đi ngang nhau, tuy tâm sự nặng nề, thấy Phạm Trọng Yêm đi về hướng Tây Bắc hàng chục dặm, vẫn không nhịn nổi nhắc nhở:

- Phạm đại nhân, phía trước không xa là gần trại Hậu Kiều rồi.

Năm đó sau khi đám người Địch Thanh, Võ Anh, Cao Kế Long đại phá trại Hậu Kiều, liền đốt trại. Bây giờ trại Hậu Kiều tuy đã hoang vu, nhưng người Đảng Hạng và người Tống đều ở đây. Phạm Trọng Yêm đơn độc tiến đến, rất nguy hiểm.

Phạm Trọng Yêm ghìm ngựa, ngóng nhìn Tây Bắc hỏi:

- Ngươi sợ?

Địch Thanh trầm mặc không nói gì, Phạm Trọng Yêm quay đầu nhìn Địch Thanh mỉm cười nói:

- Ngươi đương nhiên không sợ, ngay cả điện Thiên Hòa của Nguyên Hạo, ngươi dám một mình đi vào ám sát. Trên đời này không chừng cũng không có chuyện ngươi sợ, ngươi là sợ ta có chuyện rồi.

Địch Thanh biết những chuyện này hơn phân nửa là Chủng Thế Hành nói, trầm ngâm nói:

- Phạm đại nhân nếu thật sự muốn điều tra tình hình quân địch, để ty chức đi làm được rồi, không cần tự mình lao vào nguy hiểm.

Phạm Trọng Yêm nhìn núi xa xa, hồi lâu mới nói:

- Ta không đích thân đi xem, thì khó có thể hiểu được nổi khổ của các ngươi. Kỳ thực chút nguy hiểm này của ta có là gì. Các ngươi vào sinh ra tử, mới là hung hiểm thật sự.

Địch Thanh trong lòng cảm thán. Lần đầu tiên thấy văn thần Đại Tống đối đãi với võ tướng như vậy, trầm lặng không nói.

Phạm Trọng Yêm lại nói:

- Ngươi có lẽ không biết, Nguyên Hạo lại xuất binh rồi, xuất binh trấn Nhung Quân.

Địch Thanh thầm giật mình, nghe Phạm Trọng Yêm nói tiếp:

- Lần này là Thiên đô Vương Dã Lợi Ngộ Khất lãnh binh. Thực lực binh đội của người Đảng Hạng hung mãnh. Trước mắt đã phá lô cốt sư tử Cảnh Tống, các trại như Triệu Phúc, Càn Hà. Quay lại tiến công thành trấn Nhung Quân. Hàn Kỳ Hàn đại nhân, đích thân trấn thủ ở trấn Nhung Quân.

Địch Thanh đột nhiên nghĩ đến Nguyên Hạo từng nói:

- Tây Bắc còn có một Hàn Kỳ, người này tính cương định. Tuy có chí lớn, nhưng khó nghe lời. Thư sinh dụng binh, cuối cùng có khuyết điểm. Lần này thì chọn y làmٴ điểm đột phá.

Hắn không kìm nổi nhịp đập nhanh của tim, muốn nói chuyện này, nhưng cuối cùng không thể mở lời. Hắn chỉ là Chỉ huy sứ, có tư cách gì bình luận Hàn Kỳ chứ?

- Hôm qua ngươi nói rất đúng, Nguyên Hạo quả thật là muốn cố hết sức lấy Quan Trung. Chỗ Quan Trung, mưu đồ Trung Nguyên. Đáng tiếc triều đình chưa đủ xem trọng. Thần sắc Phạm Trọng Yêm buồn bã, mặc dù bất khuất nhưng có mỏi mệt, có chút trầm tư:

- Theo ý kiến của ngươi, làm sao có thể chống lại việc tiến đến của Nguyên Hạo?

Địch Thanh hơi trầm tư, trả lời:

- Không thể cứ luôn thủ, lúc thích hợp có thể tiến công.

Trong mắt Phạm Trọng Yêm xẹt qua sự chờ đợi, hỏi:

- Vậy cụ thể làm thế nào?

 Chương 277 - 281: Phá thành

Địch Thanh thấy trong mắt Địch Thanh tràn đầy khích lệ, trầm giọng nói:

- Xuất binh đánh úp, đánh bất ngờ người ta không kịp đề phòng. Nguyên Hạo vội tiến công trấn Nhung Quân, chính là muốn đánh không cho chúng ta nghỉ ngơi, mệt mỏi. Đây là cách y thường dùng, lợi dụng ưu thế ngựa người Đảng Hạng chạy nhanh. Mỗi lần y xuất binh, luôn không nằm ngoài dự đoán chúng ta là đi cứu viện, làm nhiều công ít. Lần này... nếu theo cách nghĩ của mạt tướng. Người Đảng Hạng tuy ngựa nhanh, nhưng không có sở trường công thành. Chi bằng để quân Tống của Kính Nguyên Lộ liều chết thủ trấn Nhung Quân, đóng cửa thành không chiến, lấy dài công ngắn. Nếu chúng ta có nhiều binh lực hơn, có thể tạm công thành Bạch Báo... Nếu hạ được thành Bạch Báo, chắc chắn làm người Đảng Hạng bị trọng thương, bức người Đảng Hạng thu rút binh lực. Có thể vây thành đánh viện binh, so với chạy cứu viện hiệu quả hơn nhiều.

Phạm Trọng Yêm thần sắc kinh ngạc, sau hồi lâu mới nói:

- Nhưng thành Bạch Báo là yếu địa của người Đảng Hạng, canh gác nghiêm mật.

- Trại Hậu Kiều không phải cũng canh gác nghiêm mật, vẫn không phải bị chúng ta đánh bại sao?

Địch Thanh đột nhiên cười, trại Hậu Kiều đã phế, thành Bạch Báo cao chót vót, hơn nữa yên ổn đã lâu. Người Đảng Hạng đã có ý lớn. Phạm đại nhân tới biên thùy lâu như vậy còn không có động tĩnh, lần này đột nhiên tới trại Nhu Viễn, chẳng lẽ không phải vì thành Bạch Báo sao?

Địch Thanh luôn suy nghĩ dụng ý của Phạm Trọng Yêm đến Nhu Viễn, tự lường trước Phạm Trọng Yêm tất có hành động.

Phạm Trọng Yêm vỗ tay cười to nói:

- Địch Thanh ngươi khá lắm, quả nhiên không tệ.

Lão cười thật tươi, hạ giọng nói:

- Chủng Thế Hành nói ngươi hữu dũng hữu mưu, ta còn có chút không tin. Nhưng ngươi liếc nhìn một cái thì nhận ra dụng ý của bọn ta, quả thật không đơn giản. Ta đến Tây Bắc lâu rồi, luôn cảm thấy thiếu khuyết người giống như ngươi. Ngươi đến rồi, rất tốt.

Địch Thanh nghe ra có lời trong lời nói của Phạm Trọng Yêm, trầm ngâm nói:

- Dụng ý của các ngài?

Lúc hỏi hắn đã hiểu, Phạm Trọng Yêm muốn đánh thành Bạch Báo, nhất định đã cùng vạch kế với một số người.

Phạm Trọng Yêm cũng không giấu diếm, gật đầu nói:

- Tấn công thành Bạch Báo, là kết quả ta cùng Hàn đại nhân thảo luận. Chúng ta quyết định thay đổi khiếm khuyết lâu nay tử thủ, lấy công làm thủ, đánh bất ngờ thành Bạch Báo, giảm bớt áp lực của Kính Nguyên Lộ. Nhưng có thể công hạ thành Bạch Báo, sau này nên làm thế nào chứ?

Lão giống như là trưng cầu, lại giống như xem xem Địch Thanh rốt cuộc có bản lĩnh gì.

Địch Thanh lập tức nói:

- Sau khi hạ thành Bạch Báo tuyệt không thể làm cách giống như sau khi phá trại Hậu Kiều. Đánh rắn phải đánh chết, chúng ta tuyệt không thể cho Nguyên Hạo cơ hội không ngừng quấy rầy chúng ta. Nếu muốn y không xuất binh phản phục. Chúng ta phải đánh tới, đánh Kim Thang, chiến Diệp Thị, xông qua Hoành Sơn. Đem chiến trường phóng tới địa bàn của người Đảng Hạng, buộc bọn họ không thể không thủ.

- Tiến công hàng loạt?

Phạm Trọng Yêm lơ đãng nhíu mày.

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Bây giờ tuyệt không phải là thời cơ tiến công hàng loạt, nhưng có thể gây rối quy mô nhỏ. Tây Bắc không thiếu binh, nhưng ít tinh binh. Với thế lực tác chiến của quân ta trước mắt, một trăm ngàn không bằng mười ngàn. Chỉ có thay đổi khiếm khuyết này, tăng cường nhuệ khí, tăng cường trang bị, mới có thể lấy một chọi mười, lấy ít thắng nhiều... chỉ có tinh binh mãnh tướng, mới có thể cắt giảm tiêu phí triều đình, cũng có thể tăng khả năng chiến đấu của Tây Bắc.

Phạm Trọng Yêm rất khen ngợi, vui vẻ nói:

- Địch Thanh, ngươi chỉ là một Chỉ huy sứ, lại có cách nghĩ như vậy, thật sự là phúc của Tây Bắc. Nếu người người đều như ngươi, lo gì Tây Bắc không yên?

Giây lát thở dài, nói:

- Đáng tiếc ngươi chinh chiến nhiều năm, khó thành tướng tài.

Hắn ánh mắt sâu xa, nhìn xa phía chân trời. Ở đó ý thu liền trời, khói lạnh ngưng tụ đen sì, giống như chân mày cong cong của nữ tử, lại giống như dũng khí của tráng sĩ ngút trời.

Địch Thanh cũng có chút cô đơn, giây lát nói:

- Nhưng có Phạm đại nhân ở đây, mạt tướng nghĩ cơ hội của tướng ngoài biên ải của chúng tôi cũng tới rồi. Phạm đại nhân, nếu công thành Bạch Báo, Địch Thanh xin làm tiên phong.

Phạm Trọng Yêm hơi do dự, sau hồi lâu mới nói:

- Địch Thanh, cơ hội có rất nhiều, không nhất thiết lần này.

Địch Thanh vừa nghe, đã biết nhiệm vụ tấn công thành Bạch Báo sớm có phân công. Phạm Trọng Yêm cũng không tiện thay đổi, hơi có thất vọng.

Phạm Trọng Yêm thấy Địch Thanh hơi có chút thất vọng, thay đổi đề tài nói:

- Cách nói của ngươi và Chủng Thế Hành ngược lại không mưu mà hợp. Đúng rồi, năm nay lão thật ra bắt đầu huấn luyện thập sĩ...

- Cái gì là thập sĩ?

Địch Thanh không hiểu nói.

Sắc mặt Phạm Trọng Yêm đột nhiên có phần chói rọi, trong mắt cũng đầy kỳ vọng:

- Thập sĩ là tinh binh...

Lời nói còn chưa dứt, ngoài xa có tiếng vó ngựa chạy vội tới. Địch Thanh quay đầu lại nhìn, thấy một con ngựa đang chạy như bay tới.

Người cưỡi ngựa đó xuống ngựa, quỳ xuống đất nói:

- Phạm đại nhân, Hoàn khánh Phó đô bộ thự - Nhâm Phúc đã lãnh binh đuổi tới, xin gặp Phạm đại nhân.

Phạm Trọng Yêm liếc mắt nhìn Địch Thanh một cái gật đầu, đã cùng du kỵ trở về trại Nhu Viễn. Mới vào doanh trại, thì thấy một người sải bước đi tới.

Người đó rất cao, so với Võ Anh bên cạnh cao hơn một cái đầu. Người đó cũng rất cường tráng. Mỗi bước đi, mặt đất giống như phải rung chuyển, làm người người ta chú ý nhất vẫn là thanh thiết giản đeo trên lưng.

Đó là một thanh thiết giản bốn lưỡi, giống như bốn thanh trường kiếm hiện ra hàn quang cực lạnh.

Người đó thấy Phạm Trọng Yêm, quỳ xuống nói:

- Hoàn Khánh Phó đô bộ thự Nhâm Phúc phụng lệnh của Hàn đại nhân, mang bộ tướng vội tới trại Nhu Viễn gặp đại nhân.

Phạm Trọng Yêm mỉm cười nói:

- Đều nói Nhâm Phúc là tướng môn hổ tử, hôm nay vừa gặp quả nhiên danh bất hư truyền.

Địch Thanh bên cạnh nghe được, đã hiểu hành động lần này là Nhâm Phúc phụ trách điều hành. Do đó Phạm Trọng Yêm không dễ phái hắn làm tiên phong.

Nhâm Phúc liếc nhìn Địch Thanh, thấp giọng nói:

- Kính xin Phạm đại nhân vào lều thảo luận một số chuyện.

Y thấy Địch Thanh chỉ là một chỉ huy sứ, tất nhiên không chịu tiết lộ quân tình.

Phạm Trọng Yêm gật đầu, có thâm ý nói với Địch Thanh:

- Ban ngày ngươi nghỉ ngơi cho tốt, buổi tối sẽ có chuyện.

Địch Thanh gật đầu lui xuống, trong lòng thầm nghĩ: “Phạm đại nhân nói buổi tối có chuyện, chẳng lẽ... tối nay phải tấn công thành Bạch Báo?” Đang lúc suy nghĩ Liêu Phong và Cát Chấn Viễn sóng vai đi tới. Cát Chấn Viễn vẫn rất tiều tụy, nhưng tinh thần tốt nhiều rồi, hai người thấy Địch Thanh đều nói:

- Địch chỉ huy, chúng ta khi nào mới về thành Thanh Giản?

Địch Thanh thấy hai người không có ngăn cách, trong lòng vui mừng nói:

- E rằng phải đợi hai ngày, hôm nay chúng ta đừng uống rượu, chỉ e sẽ có chuyện?

Cát Chấn Viễn hạ thấp giọng nói:

- Địch chỉ huy, ty chức cũng cảm giác sẽ có chuyện. Hôm nay không biết tại sao rất nhiều người Khương đều tới trại Nhu Viễn, bộ dạng giống như là tộc trưởng.

Liêu Phong nói:

- Đúng đấy, ta thấy trong trại làm thịt dê giết gà, lại chuẩn bị không ít rượu, giống như là muốn mời khách, không biết có phần của chúng ta không?

Cát Chấn Viễn cười ha hả,

- Đi thôi, ngươi đủ tư cách sao?

Địch Thanh thoáng có suy nghĩ, thầm nghĩ tấn công thành Bạch Báo sắp tới, tại sao Phạm Trọng Yêm mở tiệc chiêu đãi người Khương... Trong lúc này, chỉ sợ có chút vấn đề, nói với hai huynh đệ:

- Các người đừng có xen vào lắm chuyện, tối hãy nói.

Cát Chấn Viễn nói đúng. Địch Thanh để tâm quan sát, phát hiện thời gian không tới nửa ngày, trại Nhu Viễn đã tới hàng chục thủ lĩnh người Khương.

Ban ngày Tây Sơn lạnh lẽo, lửa trại hừng hừng. Trên mặt đất bằng phẳng trước lều trung quân, đã bày mấy chục cái bàn, nhưng Địch Thanh cũng không có để ý tới. Cùng lúc đó, trại Nhu Viễn cũng đến không ít lãnh tướng quân Tống, chỉ là vừa vào trại Nhu Viễn, thì tới lều trung quân.

Lúc trăng sáng đã lên cao, những thủ lĩnh người Khương đó đều ngồi trong bữa tiệc. Trong xáo động còn có phấn chấn, vì bọn họ đều là nhận được thiệp mời. Phạm đại nhân mời bọn họ đến uống rượu.

Những thủ lĩnh người Khương nhận thiệp mời đó, đều có chút vì được sủng ái mà kinh sợ. Ai cũng biết Phạm Trọng Yêm lúc này là phó sứ Kinh lược An phủ Thiểm Tây. Ở đây Phạm Trọng Yêm có tiếng, những người Khương đó sinh sống trong hạn hẹp, vẫn luôn thuận gió lái thuyền. Lần này vội đến, đương nhiên là thể hiện thiện ý với Phạm Trọng Yêm, cũng tin Phạm Trọng Yêm sẽ không gây bất lợi cho bọn họ.

Địch Thanh ngước nhìn xa xa, thấy khách mời đã đầy. Phạm Trọng Yêm ra khỏi lều trung quân, tới bữa tiệc, mỉm cười nâng chén nói:

- Phạm mỗ hôm nay mời các vị đến, chỉ uống rượu, không nói chuyện khác.

Đám người Khương sợ hãi vội vàng bưng chén lên, hùa theo:

- Phạm đại nhân nói rất đúng, uống rượu... uống rượu.

Sau khi Phạm Trạm Yêm uống chén rượu, mỉm cười nói:

- Phạm mỗ còn có chút chuyện xử lý, cáo lui trước một lát.

Dứt lời, không đợi đám người Khương phản ứng, trở lại lều trung quân.

Địch Thanh quay đầu nhìn một lần thấy mời khách thế này, hơi có kinh ngạc.

Đám người Khương cũng là ngơ ngác nhìn nhau trong lòng có chút bất mãn, nhìn thấy xung quanh không biết lúc nào đứng không ít binh sĩ. Mỗi người tay cầm trường thương, giáp hiện hàn quang, không kìm nổi sợ hãi, không dám nói nhiều, cuối đầu uống rượu.

Địch Thanh đang suy nghĩ, đột nhiên cảm thấy có người tới gần, bỗng nhiên xoay người, thì thấy được một cánh tay lớn vỗ lên vai của hắn. Địch Thanh vốn muốn tránh, nhưng thấy rõ người đó, kinh ngạc vui mừng:

- Cao đại ca, huynh đến rồi?

Người đến chính là nghĩa huynh của Địch Thanh Kiềm hạt Khánh Châu Cao Kế Long.

Địch Thanh thấy cố nhân, vui sướng quá độ giật mình.

Cao Kế Long vẫn hào phóng như trước, nhìn thấy huynh đệ, thần sắc vui mừng, hỏi:

- Trong này náo nhiệt như vậy, ta đương nhiên cũng phải đến tham gia.. huynh đệ, ngươi đang nghĩ gì vậy?

Địch Thanh liếc mâm rượu đó, thấp giọng nói:

- Lần này mời khách hình như có vấn đề.

Cao Kế Long cười ha hả:

- Rượu không phải rượu ngon, không phải yến tiệc tốt lành rồi. Đi thôi, Phạm đại nhân muốn ngươi vào lều bàn chuyện, có trò hay sắp diễn rồi.

Địch Thanh biết có cơ hội ra tay, trong lòng hơi vui mừng. Nghe Cao Kế Long nói như vậy, đột nhiên tỉnh ngộ, thấp giọng nói:

- Mỗi trận tác chiến, một số thục hộ này đều là biết tin tức trước nhất. Phạm đại nhân mời bọn họ đến, chính là không muốn để lộ tin tức tập kích thành Bạch Báo?

Cao Kế Long sờ sờ râu, gật đầu nói:

- Ta nghĩ ngươi nhất định có thể đoán được đấy. Lần này mời bọn họ đến, một là liên hệ tình cảm, hai là xem xem ai có thể hiện thiện ý với Đại Tống, ba là để bọn họ ném chuột sợ vỡ đồ, cảnh cáo nhân tộc bọn họ chớ xuất binh trợ giúp thành Bạch Báo, cuối cùng đương nhiên như ngươi nói. Chúng ta xuất binh phải qua địa bàn của bọn họ, không thể để cho bọn họ tiết lộ phong thanh trước.

Địch Thanh vui vẻ nói:

- Phạm đại nhân chiêu này thật ra hay lắm, một bữa cơm có thể bó buộc chân tay của những người này. Tây Bắc có Phạm đại nhân, sẽ không như trước kia nữa.

Lúc hai người nói chuyện đã vào lều trung quân. Chủ vị trong lều trung quân có một người đang ngồi ngay ngắn, chính là Phạm Trọng Yêm. Chỗ tay trái Phạm Trọng Yêm đang ngồi là phó đô bộ thự Hoàn Khánh - Nhâm Phúc, bên tay phải Kinh lược phán quan Doãn Thù.

Trong lều đã tụ tập hơn mười lãnh tướng, đều là xoa tay nóng lòng muốn đánh. Võ Anh cũng sớm đến chỗ này, thấy Địch Thanh đến trước. Phạm Trọng Yêm mừng nói:

- Người đều đến đông đủ. Nhậm đại nhân, chúng ta có thể bố trí kế hoạch tác chiến.

Nhâm Phúc thấy Địch Thanh vào lều, vốn có chút bất mãn và xem thường, nghe thấy những lời này của Phạm Trọng Yêm, đột nhiên nói:

- Phạm đại nhân, Địch Thanh chẳng qua chỉ là một Chỉ huy sứ, cho dù có thể tham gia trận này, nhưng không nên nghe những bí mật quân cơ như vậy.

Không khí trong lều có chút căng thẳng, sắc mặt Võ Anh cũng có chút bất mãn, mới tiến lên trước nói giúp Địch Thanh. Địch Thanh đã ôm quyền nói:

- Vậy mạt tướng cáo lui.

Hắn xoay người định đi, Phạm Trọng Yêm đột nhiên nói:

- Ai nói Địch Thanh vẫn là Chỉ huy sứ?

Nhâm Phúc ngẩn ra nói:

- Chẳng lẽ không đúng sao? Chẳng lẽ Địch Thanh thua ở trận Bình Viễn bị giáng chức vị?

Phạm Trọng Yêm lại cười nói:

- Nhậm đại nhân, ngài nói sai rồi. Địch Thanh trận chiến Bình Viễn, cứu được Đô giám Vương Kế Nguyên, gián tiếp cứu Bình Viễn, giết Bồ Đề Vương, lập nhiều chiến công hiển hách. Sau đó Bình Viễn tuy lại bị chiếm đóng, nhưng tuyệt không phải do Địch Thanh. Sau khi ta tới Diên Châu, đã kiểm tra rõ tất cả. Thượng thư bẩm báo những chuyện này cho triều đình. Triều đình có chỉ, đã thăng Địch Thanh là phó sứ Diêm Môn, nắm giữ chức Tây lộ tuần tra Diên Châu. Điều lệnh hôm nay đã đến, do đó rất nhiều người không biết. Lần này tấn công thành Bạch Báo, Địch Thanh có tư cách, cũng có thể tham dự đấy!

Nhâm Phúc ngơ ngẩn, thậm chí có chút khiếp sợ. Mọi người cũng là vẻ mặt khó tin, chỉ có trong mắt Cao Kế Long có ý vui mừng xẹt qua, lẩm bẩm nói:

- Tốt, thật sự rất tốt!

Địch Thanh có chút sững sờ, trong nhất thời không dám tin sự thật này.

Chỉ huy sứ so với Phó sứ Diêm Môn mà nói, chức vụ đó kém hơn không phải là một chút. Mấy năm nay hắn bất động ở chức vụ Chỉ huy sứ, không ngờ vừa thăng lên thì thăng bốn bậc. Quan trọng nhất là Chỉ huy sứ vẫn là cấp quan võ thấp, Phó sứ Diêm môn tuy cũng là hư chức, nhưng cho thấy Địch Thanh cũng là quan viên bậc cao trong quân. Nếu lập thêm công, thăng làm chính sứ, có thể miễn niên hạn Ma Khám, dựa vào lập công mà thăng chức.

Quan bậc cao võ tướng Đại Tống phân làm bốn loại sứ thần, hoành hành, diêu quận, chính nhâm. Với quan chính nhâm bậc cao nhất, quan sứ thần bậc thấp nhất, trong mỗi loại có cấp bậc khác nhau.

Diêu quận, chính nhâm xem là chức đẹp phẩm đắt trong cấp quan. Nhâm Phúc lúc này ngoài đảm nhiệm chức vụ phó Đô bộ thưt Hoàn Khánh, cũng kiêm chức Hãn Châu Đoàn Luyện Sứ, mà Đoàn luyện Hãn Châu vốn là quan cấp của loại diêu quận.

Ở Thiểm Tây, trừ Hạ Tủng, Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ ra, Nhâm Phúc xem là người thứ tư nắm thực quyền ở đây.

Nhâm Phúc vốn xem thường Địch Thanh, do tuy đều là người luyện võ, Nhâm Phúc xuất thân nhà tướng, Địch Thanh cũng theo binh nghiệp mà lên, mặt có hình xăm. Văn thần đại Tống xem thường võ tướng, võ tướng xem thường người trong binh nghiệp.

Huống hồ, Địch Thanh chưa bao giờ nhập hàng ngũ sứ thần, vẫn là một quan quân thấp hèn.

Có thể Phó sứ Diêm môn đã liệt vào hàng sứ thần, ý nghĩa Địch Thanh từ nay trở về sau có thể thoát ly thân phận thấp hèn binh nghiệp, có tư cách đánh đồng cùng Nhâm Phúc.

Qua nhậm lệnh này Địch Thanh tuy chức quan vẫn không cao, nhưng hắn đã có cơ hội rất lớn.

Phạm Trọng Yêm thấy thần sắc mọi người trong lều rất khác biệt, mỉm cười nói:

- Được rồi, đánh giặc ta vốn không được. Nhâm đại nhân, mọi người đều cho rằng ngài chuẩn bị đầy đủ hết rồi, tiếp theo phải xem ngài rồi.

Nhâm Phúc hơi xấu hổ, không liếc nhìn Địch Thanh nữa, trầm giọng nói:

- Mọi người đương nhiên đã biết Nguyên Hạo tấn công trấn Nhung Quân, chúng ta không thể để y ngang ngược. Hàn đại nhân, Phạm đại nhân có lệnh, mệnh tướng sĩ tập kết lực lượng gần trại Nhu Viễn, đánh hạ thành Bạch Báo!

Y xếp Hàn Kỳ trên hàng Phạm Trọng Yêm, mơ hồ đã có bất mãn. Phạm Trọng Yêm chỉ là cười nhạt một tiếng.

- Trận chiến này chỉ có thể thắng không thể thua.

Nhâm Ph nghiêm nghị nói:

- Thành Bạch báo do dũng tướng Đảng Hạng Trương Đoàn Luyện canh gác, đứng dựa vào núi, không phải cô thành. Thủ lĩnh người Khương phía nam thành Bạch Báo, lần này đều được Phạm đại nhân mời đến. Quân ta giống như binh nhẹ đi nhanh, bọn họ ném chuột sợ vỡ đồ, nhất định không dám làm lộ quấy nhiễu kế hoạch của chúng ta. Bởi vậy nếu chúng ta công thành Bạch Báo, chỉ có thể xuất binh hai thành trì phía tây và phía đông bộ lạc Khương. Lần này công thành, phải chặt đứt tất cả viện binh trước, mới có thể toàn lực công thành.

Địch Thanh không kìm nổi gật đầu, tôn trọng kế sách của Nhâm Phúc, dành thắng lợi từ trong ổn định, làm người ta không thể chê trách. Xem ra Phó đô bộ thự này, so với Hạ Thủ Vân cần phải dụng tâm rất nhiều.

Sau khi Nhâm Phúc căn dặn tình thế xong, quát:

- Đô giám Lưu Chính nghe lệnh.

Có một người vai hùm lưng gấu đứng ra nói:

- Có mạt tướng.

- Ta lệnh ngươi sẽ cùng bắt giữ Trương Lập, hợp binh một chỗ cùng với chủ trại trại Cốc Tây Triệu Phúc, nhân lúc đêm xuất phát. Trước bình minh giờ sửu phải đuổi tới phía tây thành Bạch Báo ba mươi dặm, đợi giờ sửu phát lệnh tiến công. Toàn lực khống chế việc xuất binh của người Đảng Hạng ở tây lộ thành Bạch Báo. Ngươi có thể làm được không?

Lưu Chính đáp lời:

- Mạt tướng lĩnh lệnh.

- Đô tuần kiểm Nhâm Chính nghe lệnh...

- Tuần kiểm Lưu Thế Khanh nghe lệnh...

Nhâm Phúc từng lời quân lệnh phát ra, đánh viện binh tiếp viện, nhiễu loạn binh địch, phân công gọn gàng ngăn nắp. Đợi an bài đại khái xong, lúc này lại nói:

- Trách nhiệm công thành, nặng thêm nặng. Ta làm trọng trách điều hành, nhưng trước mắt cần một hổ tướng phụ lãnh binh công thành...

Y muốn nói lại thôi, nhìn quét qua người Địch Thanh, không dừng lại.

Phạm Trọng Yêm vẫn trầm mặc, thấy trong ánh mắt có ý bùi ngùi.

Địch Thanh vốn chờ lệnh, nhưng thấy thái độ Nhâm Phúc như thế, biết y không muốn phái mình lên trước, ngược lại cũng không muốn nếm mùi thất bại.

Võ Anh tiến lên một bước nói:

- Võ Anh bất tài, nguyện lãnh trách nhiệm này.

Nhâm Phúc cười ha hả, vỗ án nói:

- Từ lâu đã nghe nói Võ đô giám đại phá trại Hậu Kiều, lần này chủ động xin đi giết giặc, đúng là đáng quý. Được, trước mắt để ngươi là chủ công, lập tức xuất phát. Từ trên phía bắc lòng chảo Nhu Viễn, qua núi vượt lĩnh, theo đường mòn mà đi, lại men theo Bạch Báo tiến về phía đông, giờ sửu tiến công!

Hóa ra Vũ Anh hơn nữa năm nay đã thăng chức, lúc này kiêm chức trại chủ.

Võ Anh ôm quyền nói:

- Mạt tướng lĩnh mệnh.

Lại liếc nhìn Phạm Trọng Yêm, trầm giọng nói:

- Mạt tướng nếu không thành công, nguyện đem đầu về gặp.

Phạm Trọng Yêm khẽ mỉm cười nói:

- Võ Anh, lần này không cần ngươi chết, chỉ cần ngươi thắng!

Võ Anh ra sức gật đầu, xoay người ra lều. Cao Kế Long nhịn không được nói:

- Nhâm đại nhân, người khác đều có nhiệm vụ, sao ta và Địch Thanh không có?

Nhâm Phúc cau mày nói:

- Chẳng lẽ Cao kiềm hạt không có phát hiện, cho đến bây giờ ta vẫn chưa có phái binh lực đi siết chặt viện binh thành Kim Thang?

Thành Kim Thang ở đông bắc thành Bạch Báo. Thành Bạch Báo bị công, thành Kim Thang biết được động tĩnh nhất định sẽ xuất binh cứu viện.

Cao Kế Long cười ha hả nói:

- Nói như vậy... ta chính là phụ trách ngăn chặn viện binh thành Kim Thang rồi à?

Nhâm Phúc gật đầu nói:

- Đúng vậy, nhưng không chỉ là ngươi có trách nhiệm, Địch Thanh cũng có trách nhiệm này. Huyện Hoa Trì là chỗ cần phải qua khi từ thành Kim Thang chạy tới thành Bạch Báo. Cao Kế Long, Địch Thanh, ta phái hai ngươi dẫn nhân mã bản bộ, lập tức xuất phát, thừa dịp lúc đêm đi huyện Hoa Trì. Đúng bình minh giờ sửu công kích tộc Cốt Mị ở đó. Đồng thời khống chế thành Kim Thang xuất binh, nếu để một viện quân của người Đảng Hạng qua, xử trí quân pháp.

Cuối cùng Nhâm Phúc liếc nhìn Địch Thanh, trong ánh mắt tràn đầy ý khiêu khích. Chỉ cần thành Kim Thang có viện binh tới thành Bạch Báo. Địch Thanh, Cao Kế Long sẽ có sơ xuất.

Cao Kế Long hơi rét, còn có thể cười to nói:

- Được!

Địch Thanh chỉ là chắp tay nói:

- Mạt tướng tuân lệnh.

Địch Thanh ra doanh lều, thấy Cao Kế Long vẻ mặt vẫn tươi cười, cũng có chút áy náy nói:

- Cao đại ca, đệ lần này vẫn không mang một binh một tốt...

Trong lòng Cao Kế Long thầm nghĩ. Nhâm Phúc người này tuy dũng, nhưng ghen ghét hiền tài. Lần này bất kể thế nào, cũng không thể để huynh đệ Địch Thanh uất ức, cười ha ha nói:

- Ngươi đến một mình là được rồi, bộ hạ của ta có thể tùy ngươi chỉ huy.

Nói vừa dứt lời, Chủng Thế Hành đã đi tới, ho khan nói:

- Địch Thanh, ngươi vẫn có thủ hạ, đi... ta dẫn ngươi đi xem.

Địch Thanh chỉ cho rằng Chủng Thế Hành nói là Cát Chấn Viễn và Liêu Phong, ra khỏi trại Nhu Viễn mới phát hiện, Qua Binh đã dẫn đến hai trăm binh mã đang ở ngoài tập kích chờ lệnh. Địch Thanh có chút kinh ngạc mà vui mừng, thấy những binh mã này không chỉ là lưng đeo trường cung, yên treo mũi tên lông vũ, thắt lưng cài đoản đao, trong tay cầm trường mâu, tất cả mọi người đều là nhuệ khí hăng say, hàn khí uy nghiêm đáng sợ.

Bất kể ai nhìn thấy những người này đều có thể nhận ra những người đó tràn đầy ý chí chiến đấu, tuyệt không phải quân Tống bình thường.

Cao Kế Long thấy những binh mã này, rất là kinh ngạc nói:

- Chủng Thế Hành, thật nhìn không ra ngài vô thanh vô tức làm ra những thủ hạ này....

Chủng Thế Hành, sờ sờ cái đầu hói, ho nhẹ nói:

- Những thuộc hạ này không phải là của ta.

Lão đang nhìn Địch Thanh, tràn đầy chờ đợi nói:

- Địch Thanh, những thủ hạ này là của ngươi! Bọn họ là thập sĩ, ngươi còn nhớ kế hoạch của chúng ta không? Nguyên Hạo có ngũ quân, bát bộ, chúng ta có thập sĩ đối nghịch với y. Người tuy không nhiều, nhưng ta nghĩ... rất nhanh sẽ nhiều hơn.

- Thập sĩ?

Địch Thanh nhìn một đoàn người ngựa của Qua Binh, thoáng có chút suy nghĩ. Nhớ rõ Phạm Trọng Yêm cũng đã nhắc tới cái tên này, không khỏi hỏi:

- Cái gì là thập sĩ?

- Thập sĩ chính là mười loại binh. Chủng Thế Hành thu lại nét cười đùa, nghiêm mặt nói:

- Là ta vất vả tốn tiền chọn ra cho các ngươi, cung cấp mười loại binh cho ngươi sử dụng, Mà Qua Binh dẫn chính là sĩ xông vào trận... một trong các thập sĩ.

Từng đội binh mã xuất phát từ trại Nhu Viễn, bay nhanh ra lòng chảo Nhu Viễn lên phía bắc trèo núi qua lĩnh. Vó ngựa tuy vội, nhưng tiếng động lại nhẹ, người tuy nhiều, như giống âm hồn.

Quân Tống ngựa bọc móng, người ngậm tăm, khí thế giống như thác lũ hướng về thành Bạch Báo giết tới.

Sau khi Phạm Trọng Yêm và quân Tống ra doanh, lại ra lều an ủi người Khương, đảm bảo nhân tộc bọn họ sẽ không sao. Người Khương cũng nhận ra quân Tống phải có hành động, câm như hến, rượu cũng không có lòng uống tiếp, lần lượt giải tán, nhưng vẫn không thể ra khỏi trại Nhu Viễn.

Phạm Trọng Yêm cam đoan, ngày mai mặt trời vừa lên, thì sẽ mời bọn họ trở về, hơn nữa giao dịch như cũ.

Người Khương giao hảo với Nguyên Hạo, là vì bị thế lực của Nguyên Hạo khuất phục. Người Khương giao hảo với Đại Tống là vì bị lợi ích của Đại Tống dụ dỗ.

Nếu Nguyên Hạo vẫn không đánh tới, Đại Tống vẫn làm ăn buôn bán với bọn họ. Người Khương tuy trong lòng thấp thỏm, vẫn vui vẻ tiếp tục đảm nhiệm vai trò dây leo đầu tường.

Người Khương đã trở về doanh trướng nghỉ ngơi. Phạm Trọng Yêm lại không ngủ, Doãn Thù cũng thế. Hai người không vào trong lều trung quân, chỉ ngồi ở ngoài lều, nhìn về hướng đông bắc.

Ở đó chính là chỗ thành Bạch Báo.

Trong thần sắc hưng phấn của Doãn Thù còn có sự hỗn loạn khẩn trương. Phạm Trọng Yêm vẫn còn bình thĩnh. Sớm đã về nghỉ ngơi, nhưng lão sao cũng không ngủ được?

Doãn Thù bưng chén rượu, sớm quên chén rượu đã hết, lẩm bẩm nói:

- Sắp tới giờ sửu rồi à?

Phạm Trọng Yêm nhìn trăng sáng trên bầu trời. Trăng sáng cũng đang nhìn lão. Lão trong tay có rượu, trong rượu có trăng, nhưng còn trong lòng... chỉ có vướng bận chiến sĩ xuất chinh.

Ánh trăng như bạc rải trên mặt đất, sáng như sương sáng sớm, đã gần đến giờ sửu.

Trong lúc đó ánh mắt Phạm Trọng Yêm ngưng tụ, tay nắm chén cũng có chút chặt hơn. Doãn Thù lây nhiễm mùi lưỡi mác của chiến tranh, bỗng nhiên ngẩng đầu.

Chỉ thấy một đường ánh sáng từ đông bắc xẹt vọt lên, xé rách đêm đen lạnh lẽo. Tuy chỉ là ngắn ngủi như sao chổi, nhưng đã mang đến hy vọng của bình minh.

- Bắt đầu rồi.

Doãn Thù đứng lên, mặt đầy hưng phấn, hận không thể đích thân tới chiến trường.

Phạm Trọng Yêm ngược lại gục đầu xuống, chậm rãi uống rượu, lẩm bẩm nói:

- Bắt đầu rồi.

Tất cả nên làm, lão đều đã làm được. Kết thúc thế nào, là nước chảy thành sông hay là kết thúc trong thất bại là lúc xem người khác.

Doãn Thù đi tới đi lui, đột nhiên ngồi xuống, nhìn chằm chằm Phạm Trọng Yêm nói:

- Phạm công, ngài đã thay đổi rất nhiều.

Phạm Trọng Yêm cười nhạt một tiếng:

- Vậy sao?

Doãn Thù nói:

- Ngài trước kia không phải thế này... Ngài trước kia, vì thiên tử thà đắc tội Thái hậu, vì chuyện phế Thái hậu thà đắc tội thiên tử, vì công chính thà đắc tội Lã Di Giản người đệ nhất trong triều. Người thà đắc tội thiên hạ, cũng muốn kiên trì chính mình. Bây giờ ngài thay đổi rồi, ngài thiếu quật cường, vòng vo hơn. Lần này ngài hồi kinh, thậm chí còn đi thăm Lã Di Giản. Nhâm Phúc có chút tự đại, nếu là ngài trước đây, nói không chừng đã triệt bỏ quyền lợi chỉ huy của y. Nhưng ngài hôm nay cái gì cũng không có...

Trong mắt gã mơ hồ có bi ai, có phải vì phát giác Phạm Trọng Yêm hôm nay không còn là Phạm công ngày trước không?

Phạm Trọng Yêm hỏi ngược lại:

- Bây giờ không tốt sao?

Doãn Thù thở dài, muốn uống rượu, mới phát hiện trong chén không có rượu, chỉ có phong trần đầy cõi lòng. Phạm Trọng Yêm cầm lấy bình rượu, rót đầy chén rượu cho Doãn Thù. Doãn Thù nhìn chén rượu giận dữ nói:

- Phạm công, ngài còn nhớ năm đó không... Mỗi lần ngài bị trục xuất kinh thành, rất nhiều người vì chính trực của ngài mà tiễn ngài, ngậm ngùi tiếc nuối. nâng chén nói ngài: “Việc này của Phạm quân, cực kỳ vinh quang.”

Phạm Trọng Yêm trên mặt vốn bình thản có phần trào dâng. Nhưng cuối cùng lão chỉ bưng chén rượu lên, cảm khái nói:

- Ta đương nhiên nhớ rõ. Ta còn nhớ rõ Dư Tĩnh, Thái Tương, ngươi còn có một nhóm đại thân Âu Dương Tu, vì ta mà kêu bất bình. Theo ta bị trục xuất kinh thành. Ta vẫn luôn nhớ rõ, vì có các ngươi, ta mới không cơ đơn!

- Lúc đó chúng tôi cam tâm tình nguyện!

Doãn Thù nói từng chữ:

- Nếu trở lại trước đây, ta vẫn muốn vì ngài kêu bất bình.

- Vậy bây giờ thì sao?

Phạm Trọng Yêm đột nhiên hỏi.

Ánh mắt Doãn Thù phức tạp cũng không trực tiếp trả lời, hồi lâu mới nói:

- Ngài còn nhớ ban đầu chúng ta chỉ điểm thiên hạ nói gì không?

Thấy Phạm Trọng Yêm không nói, Doãn Thù bỗng nhiên đứng lên, kích động nói:

- Ta liệt kê hàng chục bệnh Đại Tống, cũng nói thay đổi xu thế phải làm. Chỉ có nước giàu binh mạnh mới có thể hưng trị thái bình. Chỉ có diệt trừ đại họa tây bắc trước, mới có thể phồn thịnh Đại Tống!

Phạm Trọng Yêm gật đầu nói:

- Ngươi nói không sai, những lời nói này, ta chưa từng quên.

Lão nói vô cùng kiên định, hai tròng mắt có vẻ hưng phấn. Biểu lộ lúc này, giống như tuyết bay đêm đông năm đó.

Chết vinh còn hơn sống nhục!

Doãn Thù thấy thế, tinh thần rung lên, lập tức nói:

- Bây giờ Thánh Thượng bắt đầu dùng tài đức sáng suốt. Hàn công và ta ý nghĩ bình thường, lão cũng cực lực chủ trương sửa dây cung dễ căng, chấn hưng uy Tống. Lão quyết định đánh tây bắc trước, lại sửa Trầm Kha, là quyết định năm đường xuất binh tấn công Nguyên Hạo. Nhưng tại sao ngài nói Thượng thư không đồng ý?

Phạm Trọng Yêm trầm mặc hồi lâu, ngước nhìn một gốc cây đại thụ, đột nhiên nói:

- Thật sự đã vào đông rồi... đại thụ đó trụi lủi không có một chiếc lá, rất là thê lương.

- Lá trên cây không phải một đêm có thể rụng sạch, cũng không thể một đêm có thể mọc dài ra.

Phạm Trọng Yêm lại nói:

- Nếu chúng ta muốn thấy xanh biếc um tùm, nóng lòng tưới nước, thậm chí có thể tưới nước ấm... Nhưng cây này không thể tưới nhiều nước, rất có thể sẽ chết đông đấy, tây bắc giống như cây này.

Doãn Thù trầm mặc, Phạm Trọng Yêm nhìn Doãn Thù, chân thành nói:

- Ta cũng rất sốt ruột, nhưng chúng ta nhất định phải đợi, nhất định phải chuẩn bị, bồi thêm đất tưới nước, như vậy khi thời cơ tới, chúng ta mới có thể được kết quả như muốn. Doãn Thù, ta biết.... Hàn Kỳ, ngươi, rất nhiều rất nhiều người đều trông chờ Đại Tống cường thịnh, nhanh chóng muốn thay đổi. Nhưng chuyện này không thể vội. Ta hy vọng... ngươi có thể hiểu ta.

Doãn Thù thở dài, lắc đầu nói:

- Ta nói không lại ngài.

Gã bưng chén rượu uống, lại buông xuống, hỏi:

- Phạm công, trận chiến này có thể thành công chứ?

Trong lòng suy nghĩ: “Phạm công già rồi, thiếu sự quyết đoán của năm đó. Nguyên Hạo xem là cái gì, một kẻ vũ phu thôi. Phạm Ung là người vô dụng, mới dẫn đến Tam Xuyên Khẩu thảm bại. Chẳng lẽ Hàn công, Phạm công liên thủ, vẫn không đối phó nổi Nguyên Hạo sao? Chỉ có thể vừa mới bình định tây bắc, mặt rồng rất vui mừng, chính là lúc cải cách khai thác Đại Tống. Tới lúc đó ta chờ sinh bệnh trầm kha, sửa khuyết điểm, khai sáng một thế hệ đại Tống thịnh thế, chẳng phải là trông mong nhiều năm sao? Như thế này không phụ bình sinh. Phạm công làm việc gần như suy tính quá nhiều. Chỉ mong thành Bạch Báo một trận có thể thắng, cổ vũ lòng quân Tây Bắc. Tới lúc đó lại khuyên Phạm công ủng hộ Hàn Kỳ được rồi.”

Phạm Trọng Yêm thấy sắc mặt Doãn Thù âm tình bất định, vẫn bình tĩnh nói:

- Cố gắng việc đời, nghe thiên lệnh, ta ngươi nên làm đã làm rồi, nóng vội làm gì?

Doãn Thù cười ha hả nói:

- Vậy không nói chuyện quân tình, nói chuyện thơ từ tốt chứ? Lúc ta mới tới biên thùy,Đ đã từng làm một bài Thượng Khuyết, tuy không có đoạn kết.... ta vẫn đang đợi. Từ của Liễu Thất tuy tươi đẹp, vẫn không bằng dũng cảm của ngài.

Phạm Trọng Yêm mỉm cười nói:

- Ta đã quên rồi vậy mà ngươi còn nhớ rõ.

Doãn Thù nói:

- Làm sao ta không nhớ? Lời của ngài, mỗi từ ta đều nhớ. Vì văn chương, yêu cầu dùng phương pháp cổ, cứ khăng khăng cái gọi là những nhân văn đó của Biện Kinh. Ngoại từ lời tươi đẹp ra, cũng không làm thêm ra cái khác, làm người nghe tức giận!

Đứng lên, bưng chén rượu ngâm:

- Tắc hạ thu lai phong cảnh dị, hành dương nhạn khứ vô lưu ý. Tứ diện biên thanh liên giác khởi, thiên chướng lý, trường yên lạc nhật cô thành bế! (BTV dịch nghĩa: Trên biên cảnh mùa thu vừa tới vạn vật đều thay đổi, đàn nhạn bay về Hành Dương không chút lưu tình. Tiếng kèn lệnh trong quân doanh quân Tùy vang lên, bốn hướng truyền đến tiếng chiến mã hí vang. Những ngọn núi giống như những tấm chắn ngàn dặm song song nhau, sương mù phủ kín, chiều tà mông lung, chỉ thấy khắp nơi hoang vắng, một tòa cô thành đóng chặt cửa.)Lời hay, lời hay.

Thấy Phạm Trọng Yêm mỉm cười không nói, Doãn Thù chú tâm hỏi:

- Lời không hay sao? Ngài nghe thử, nếu không phải người thật sự tới biên thùy, làm gì có tầm mắt như vậy. Nếu không phải người thật sự khí phách, cũng khó có trái tim lo nước lo dân như vậy.

Phạm Trọng Yêm không kìm nổi cười nói:

- Ta tuy da mặt không tệ, nhưng bị ngươi nói như vậy, cũng phải đỏ.

Hóa ra những lời này lại là do ông ta làm.

Doãn Thù cười nói:

- Qua lâu như vậy, ngài dù sao cũng nên nghĩ ra một bài đi?

Phạm Trọng Yêm nâng chén trên tay, nhìn ánh trăng như sương, đột nhiên nói:

- Ngươi có nghe tiếng sáo của người Khương rồi chưa?

Doãn Thù nghiêng tai nghe, mơ hồ có nghe thấy. Đêm khuya thế này, tiếng sáo của người Khương đó chắc chắn tràn đầy u oán. Doãn Thù thở dài:

- Lúc này người thổi sáo hơn phân nửa là nhớ nhà. Chỉ có người ở biên thùy, mới hiểu nỗi khổ của người biên thùy. Chỉ có biên thùy, mới có tiếng sáo u đắng như vậy.

Hai chân mày Phạm Trọng Yêm khẽ nhếch, nhìn chén rượu nói:

- Nửa bài sau cũng đã có rồi.

Lão chậm rãi ngâm:

- Trọc tửu nhất bôi gia vạn lý... Yến Nhiên vị lặc quy vô kế. Khương quản du du sương mãn địa, nhân bất mị, tương quân bạch phát chinh phu lệ (BTV dịch nghĩa: Một mình nâng ly rượu sầu, xa nhà vạn dặm, trong lòng ngổn ngang trăm mối nghĩ suy, nghĩ tới bọn xâm phạm biên giới mà căm phẫn, công lao sự nghiệp chưa thành, không biết tới khi nào mới quay về cố hương. Tiếng sáo của người Khương du dương, sương lạnh trải kín mặt đất, chinh nhân không thể chìm vào giấc ngủ, tướng quân và anh em binh sĩ sầu trắng mái tóc, lệ xót xa tuôn.)

Phạm Trọng Yêm ngâm lời như nhạc, nhưng thần sắc tràn đầy tiêu điều cô quạnh.

Doãn Thù vỗ tay nhẹ theo tiết tấu, đợi Phạm Trọng Yêm ngâm xong, khẽ thở dài nói:

- Thơ hay đó, thơ hay, trong đoạn cuối này, ta thích nhất bốn chữ “Yến Nhiên vị lặc”. Năm đó Đậu Hiến Đông Hán đắc tội Thái hậu, vì lập công chuộc tội, chờ lệnh bắc phạt, kết quả đại phá Hung Nô, khắc đá ghi công ở núi Yến Nhiên rồi trở vỬ công lao sáng chói. Phạm công ngài cũng đắc tội Thái hậu, cũng muốn đại phá quân Đảng Hạng, noi theo hành động của Đậu Hiến. Chỉ có điều chỉ là bốn chữ, hiện rõ khát vọng trong lòng. Phạm Trọng Yêm vẫn là Phạm Trọng Yêm.

Phạm Trọng Yêm thở dài:

- Doãn Thù, ngươi xem như hiểu lời rồi.

Doãn Thù được một lời của Phạm Trọng Yêm, đảo mắt nói:

- Chỉ hiểu lời... chẳng lẽ không hiểu ngài sao? Ngài cho rằng ta thật không hiểu sao? Đậu Hiến vì quyền, ngài vì thiên hạ. Y có thể không từ thủ đoạn, nhưng ngài tuy muốn phá người Đảng Hạng, còn lo nỗi khổ binh sĩ. Nhưng luôn lo trước lo sau, làm sao thành sự chứ?

Phạm Trọng Yêm trầm lặng hồi lâu mới nói:

- Công của Phạm mỗ, không muốn dùng máu của binh sĩ nhuộm thành.

- Nhưng nếu không đánh, lại có cách khác không?

Doãn Thù hỏi ngược lại.

Phạm Trọng Yêm lo lắng thở dài, không nói thêm.

Ánh lửa nơi xa bừng lên trời, cháy rực, tiếng gió, tiếng sáo, tiếng chém giết đan vào chằng chịt với nhau. Đêm không ngủ, trời đã tảng sáng.

Lúc gần tảng sáng, trong mắt của Phạm Trọng Yêm đã có chỉ máu. Doãn Thù cũng là một đêm không ngủ, hai người cùng lo lắng chờ đợi tin tức của thành Bạch Báo. Lúc này phía bắc trại có người phi ngựa chạy tới, sau khi thấy Phạm Trọng Yêm, lập tức xoay người xuống ngựa, bảm báo:

- Khởi bẩm Phạm đại nhân. Thành Bạch Báo đã bị bao vây, quân ta đang tăng cường tấn công.

Doãn Thù vội hỏi:

- Vậy bây giờ tình hình thế nào?

Phi ngựa nói:

- Vẫn đang đợi tin.

Nói chưa xong, lại có một ngựa chạy tới, bẩm báo:

- Tới bây giờ xung quanh người Khương, chợ Diệp, thành Kim Thang, tạm thời không có viện binh đến cứu thành Bạch Báo.

Phạm Trọng Yêm lẩm bẩm nói:

- Nhâm Phúc nói với ta những cái này chỉ muốn ta buông lỏng tinh thần, công thành hiển nhiên không thuận lợi.

Phạm Trọng Yêm mặc dù nghe tin vui, nhưng đã lộ ra u buồn âm thầm.

Doãn Thù bóp cổ tay nói:

- Chẳng lẽ ta toàn lực đánh một trận, vẫn không hạ được thành Bạch Báo?

- Thành Bạch Báo sừng sững ở tây bắc nhiều năm, người Đảng Hạng cuồng ngạo còn đó, nhưng vẫn đang cảnh giác. Lần này ta xuất kỳ binh, nhưng ai đều không thể đảm bảo bọn họ không có đề phòng.

Phạm Trọng Yêm chậm rãi nói:

- Nhâm Phúc người này cuồng ngạo, chỉ mong y đừng khư khư cố chấp. Nếu thật sự công không nổi thành trì lại gặp viện binh đánh tới, có thể tạm thời lui về, bàn tính lại.

Doãn Thù nói:

- Vậy có thể làm thế nào? Một thành Bạch Báo nhỏ nhoi không công nổi, sau này nói gì đạp phá Hoành Sơn, bình định tây bắc?

Phạm Trọng Yêm khẽ nhíu mày, mới nói gì, lại có người phi ngựa chạy tới:

- Khởi bẩm Phạm đại nhân, Võ Anh đã giết vào thành Bạch Báo.

Doãn Thù cười ha hả, cuối cùng lộ ý vui mừng nói:

- Phạm công, ngài vẫn nói Võ Anh dũng mãnh thiếu thay đổi, nhưng lần này lại không phụ kỳ vọng của ngài.

Phạm Trọng Yêm cuối cùng thở phào nhẹ nhõm, nhưng vẫn nhìn về phía thành Bạch Báo.

Tin tức không ngừng truyền tới - thành nam thành Bạch Báo bị phá! Thành tây thành Bạch Báo bị phá! Quân Tống đã thiêu Thái úy Nha thự của thành Bạch Báo. Võ Anh bắt giữ Trương Đoàn Luyện thống lĩnh cao nhất của thành Bạch Báo, quân Đảng Hạng không có chỉ huy, tranh nhau chạy thoát mạng, Nhâm đại nhân tung binh chém giết, tàn sát thành Bạch Báo. Quân Tống giết bảy người thống soái quân Đảng Hạng, bắt năm người quan địch... lục soát lấy được gia súc, chiến mã nhiều vô số.

Quân Tống giành toàn thắng!

Lúc Phạm Trọng Yêm nghe tới đó, lúc này mới nhẹ lòng. Lệnh người đến thông báo Nhâm Phúc sau khi đốt thành nhanh chóng trở về, chớ tham công đề phòng quân viện binh Đảng Hạng tìm đến, vậy thì không bù nổi tổn thất.

Doãn Thù đã sắp xếp tiệc ăn mừng. Phạm Trọng Yêm đột nhiên phát hiện trong những tin tức này lại không có tin về Địch Thanh.

Mặt mũi Địch Thanh đó thế nào? Phạm Trọng Yêm có chút lo lắng. Lão chỉ nghe qua sự tích của Địch Thanh, lại không có tận mắt thấy qua Địch Thanh tác chiến. Nhưng vừa nghĩ tới khuôn mặt cương nghị đó của Địch Thanh, Phạm Trọng Yêm đã không còn lo lắng.

Phạm Trọng Yêm tin phán đoán của mình, cho rằng Địch Thanh sẽ không phụ lòng dày vọng của lão.

Lúc hoàng hôn, cuối cùng Nhâm Phúc dẫn người về. Vốn là một trại Nhu Viễn nghiêm nghị nhưng vì đại thắng mà sôi trào hẳn lên. Thành Bạch Báo là nơi cất nhiều thứ, quân Tống thu được vô số chiến lợi phẩm binh giáp, mang về bò dê ngựa hơn vạn con.

Nhâm Phúc lưng đeo thiết giản bốn lưỡi, quay lại vênh váo tự đắc, thấy Phạm Trọng Yêm thì nói:

- Hạ quan không phụ Phạm đại nhân giao phó!

Phạm Trọng Yêm vẻ mặt tươi cười nói:

- Tốt lắm, tốt lắm.

Nghe Nhâm Phúc không ngừng bẩm báo chiến tích, thoáng nhìn Võ Anh quanh người là máu, không nhịn được nói:

- Võ Anh bị thương rồi sao?

Võ Anh há hốc miệng nói:

- Một vết thương nhỏ, không trở ngại gì.

Nhâm Phúc vỗ thật mạnh vai của Võ Anh khen:

- Võ Anh bị thương không dưới bảy chỗ, nhưng vẫn bắt sống Trương Đoàn Luyện. Thành công lần này ghi công đầu.

- Vậy Địch Thanh bây giờ thế nào rồi?

Phạm Trọng Yêm hỏi.

Nhâm Phúc bĩu môi:

- Hắn à.... hắn và Cao Kế Long vẫn đang kiên thủ Hoa Trì, nhưng ta đã lui binh, cũng truyền lệnh bảo bọn họ trở về, không nghe thấy tin tức nhiều, nghĩ bọn họ nhặt được thuận lợi, không có giao thủ với người Đảng Hạng.

Phạm Trọng Yêm thấy Nhâm Phúc thân là người bố trí kế hoạch tác chiến lần này, nhưng lại đối với thủ hạ Địch Thanh, Cao Kế Long không quan tâm như vậy, trong lòng không hài lòng. Nhưng thấy mọi người cao hứng phấn chấn, không muốn làm cụt hứng chí của bọn họ, cuối cùng nói:

- Chư quân trận chiến này vất vả, ta đã bày rượu chúc mừng, mời vào chỗ.

Mọi người âm thầm trầm trồ khen ngợi, mừng chiến công ở ngoài trời. Rượu và thức ăn mang lên, Phạm Trọng Yêm uống cùng mọi người mấy ly, lại thỉnh thoảng nhìn phía bắc trại.

Rượu qua ba tuần cạn, cuối cùng có phi ngựa báo lại:

- Cao Kế Long, Địch Thanh đã dẫn binh trở về.

Phạm Trọng Yêm vui mừng, im lặng chờ Địch Thanh tiến lên. Thấy Địch Thanh bụi đầy mặt, máu nhuộm chinh y, thân thiết hỏi:

- Địch Thanh, có bị thương không?

Nhm Phúc bên cạnh nói:

- Hắn người này nghe nói bị thương nặng. Lúc Bình Viễn vừa bị thương thì hơn nửa năm.

Dứt lời cười to, các tướng bên cạnh cũng cười theo.

Địch Thanh chỉ trả lời:

- Lần này chưa từng bị thương.

Nhâm Phúc nói:

- Vậy thu hoạch thế nào? Không biết chém bao nhiêu binh địch?

Địch Thanh cau mày, lắc đầu nói:

- Mạt tướng không biết.

Nhâm Phúc vỗ bàn, quát:

- Địch Thanh, ngươi bất kể thế nào, đã là một tuần kiểm, sao ngay cả kết quả cuộc chiến thế nào cũng không biết?

Phạm Trọng Yêm không đợi nhiều lời, một mình đã cười ha ha:

- Hắn là không biết kết quả cuộc chiến thế nào, hắn không quan tâm con số.

Cao Kế Long từ phía sau Địch Thanh đi ra, thi lễ nói với Phạm Trọng Yêm:

- Phạm đại nhân, trận chiến Hoa Trì, Địch Thanh lập được công lao. Chờ tộc Cốt Mị ra tiếp viện, cố sức chém Cốt Mị tam hùng, đại phá binh tộc Cốt Mị.

Doãn Thù kinh ngạc nói:

- Cốt Mị tam hùng là đấu sĩ cực kỳ dũng mãnh của Cốt Mị, lại bị Địch Thanh chém?

Cao Kế Long nói:

- Bất kể chúng là gấu trắng, gấu đen hay là gấu xám, đều chịu một đao của Địch Thanh.

Trong lòng Nhâậm Phúc khẽ rung, thầm nghĩ từ lâu đã nghe qua Cố Mị tam hùng quả thật còn dũng mãnh hơn gấu. Lúc này y giao sự sống cho Địch Thanh, nhưng Địch Thanh hung ác như vậy, lại giết cả ba người?

Trong lòng tuy nghiêm nghị, Nhâm Phúc vẫn cố làm ra vẻ bình tỉnh nói:

- Chuyện giết gấu, chỉ là hữu dũng vô mưu mà thôi.

Cao Kế Long mỉm cười tràn đầy đắc ý:

- Chuyện phía sau, tuyệt không phải hữu dũng vô mưu rồi.

Trong hai tròng mắt của Phạm Trọng Yêm có ý tán thưởng, mỉm cười hỏi:

- Sau đó thế nào?

Cao Kế Long nói:

- Nếu là tướng lĩnh khác, sau khi đánh bại tộc Cốt Mị nên làm thế nào?

Gã giống như hỏi người bên ngoài, nhưng chỉ nhìn Nhâm Phúc. Gã từ lâu xem Địch Thanh là huynh đệ của gã. Địch Thanh có thể im lặng, nhưng gã không muốn cho dù Nhâm Phúc là cấp trên, gã cũng không sợ.

Cũng không phải mọi người đều xem trọng chức quan của mình.

Nhâm Phúc tâm ý xoay chuyển, ra vẻ khinh thường nói:

- Còn phải hỏi, đương nhiên là phục binh ở bên, gậy ông đập lưng ông.

Cao Kế Long sờ sờ râu, thở dài nói:

- Địch Thanh vốn không có thông minh như vậy, chuyện hắn làm rất nhiều người đều nghĩ không ra.

Doãn Thù nhịn không được nữa nói:

- Địch Thanh làm sao?

Gã ngước nhìn Địch Thanh, Địch Thanh vẫn trầm mặc im lặng, giống như đang nghe câu chuyện của người khác.

Cao Kế Long chậm rãi nói:

- Hắn biết nhất thời giết không hết nhân tộc Cốt Mị. Nếu đã như vậy, nếu ngồi đợi đối thủ đến, nói không chừng quân Đảng Hạng có phòng bị, trận chiến này, thắng bại khó lường. Do vậy hắn chủ động xin đi đánh giặc, thay y phục của người Cốt Mị, đi ngược lại thành Kim Thang.

Phạm Trọng Yêm mắt đã sáng, Doãn Thù vỗ án trầm trồ khen ngợi nói:

- Đánh bất ngờ không kịp trở tay, hành động trước để kiềm chế quân địch, kế hay.

Cao Kế Long cười ha hả:

- Quả nhiên thành Kim Thang xuất gần ngàn binh tốt đế giúp. Quân chủ lãnh binh lúc đó thấy người ngựa của Địch Thanh, chỉ cho là người mình, còn chào hỏi, thì bị Địch Thanh xông lên chém. Người Đảng Hạng đại loạn, bị giết lui hơn mười dặm, quăng mũ cởi giáp, cửa thành đóng chặt, đã không dám mở thành. Địch Thanh thì dẫn hơn hai trăm binh xông vào trận địa giữ trước cửa thành. Đáng tiếc thành đầy quân Đảng Hạng, không biết hư thật, ban ngày không dám ra chiến.

Mọi người máu huyết sôi trào, tưởng tượng ra cảnh Địch Thanh hoành đao tức tốc, đứng ngạo nghễ trước thành Kim Thang, nhưng cuối cùng lại để kẻ địch không dám ra đánh!

Doãn Thù rót đầy hai chén rượu, bưng một chén tới trước mặt Địch Thanh, chân thành nói:

- Hay cho một Địch Thanh, cuối cùng làm kẻ địch không dám đánh. Chỉ dựa vào điểm này ta kính ngươi một chén. Nhớ năm đó Quách Tuân Ngũ Long Xuyên hoành chử hiên ngang, cũng chỉ là như vậy.

Địch Thanh nghe thấy hai chữ “Quách Tuân” trong lòng đau xót, nhận lấy chén rượu, chán nản nói:

- Doãn đại nhân quá khen, mạt tướng làm sao có thể so sánh với Quách đại ca chứ?

Doãn Thù chuyển qua hỏi Cao Kế Long:

- Vậy sau đó thì sao? Các ngươi trở về bình an thế này hả?

Cao Kế Long cười nói:

- Làm gì đơn giản như vậy. Cuối cùng thành Kim Thang thấy hư thật của Địch Thanh, lại nghênh binh đấu với Địch Thanh, do đích thân Đoàn Luyện dẫn binh thủ thành, bao vây Địch Thanh.

Doãn Thù thất thanh nói:

- Vậy như thế nào cho là tốt?

Mọi người cũng là trên mặt biến sắc, thầm nghĩ Địch Thanh dẫn chỉ hai trăm kỵ binh, làm sao chống đỡ?

Cao Kế Long nói:

- Hắn có thể làm sao? Đương nhiên là chạy trốn rồi,

Nhâm Phúc lạnh lùng nói:

- Ta còn cho rằng hắn là thần, hóa ra cũng sẽ chạy trốn. Vậy thương vong bao nhiêu?

Gã không quan tâm chiến tích của Địch Thanh, chỉ quan tâm thiệt hại của Địch Thanh. Giống như có một nhân phụ ghen tị, không nhìn nổi nữ nhân khác tốt.

Phạm Trọng Yêm bên cạnh thấy không khỏi lo lắng, thầm nghĩ Nhâm Phúc này là người đệ nhất của Kính Nguyên Lộ, sao có thể tính khí hành sự như vậy?

Cao Kế Long thở dài nói:

- Hắn một đường chạy thoát mạng, người Đảng Hạng thì đuổi theo. Sau đó người Đảng Hạng chạy tới vách Vân Thiên của huyện Phượng Trì.

Phạm Trọng Yêm đột nhiên hỏi:

- Lúc đó Cao kiềm hạt đang làm gì?

Cao Kế Long cười ha hả, không thể gạt được Phạm Trọng Yêm, nói:

- Lúc đó lão phu ta đang dẫn hai ngàn người ngựa hớp gió ở vách Vân Thiên.

Doãn Thù bừng tỉnh ngộ ra nói:

- Thì ra Địch Thanh cố ý thua chạy trốn, dẫn địch vào chỗ mai phục.

Cao Kế Long vỗ tay, đâm Nhâm Phúc một câu, nói:

- Vẫn là Doãn đại nhân thông minh đấy. Lão phu thấy bọn chúng giết đến, thầm nghĩ dù sao có chút giao tình với Địch Thanh, nên giúp hắn một tay.

Lần đầu tiên Địch Thanh nở nụ cười, trong mắt lộ ra tình cảm ấp áp. Kế sách đó hắn và Cao Kế Long định ra.

- Hơn ngàn người đó vừa giết tới, lão phu dùng đá trước, sau đó dùng côn mộc đập. Địch Thanh giết trở lại, nếu không phải Đoàn Luyện đó chạy trốn, chỉ e cũng bị Địch Thanh chém đầu rồi.

Cao Kế Long vuốt chòm râu cười to nói:

- Đá tôn tử này, không ngờ coi thường chúng ta. Kết quả bị chúng ta chém hơn bốn trăm người, lại bắt hơn trăm người bọn họ. Còn bọn ta, bị thương mấy chục người, không chết một binh.

Mọi người rợn da gà, Doãn Thù khó có thể tin nói:

- Các ngươi giết Cốt Nhị tam hùng, tàn sát tộc Cốt Mị, trảm chủ quân, đánh bại viện quân Kim Thang, một ngày ba cuộc chiến, không ngờ không mất một binh?

Cao Kế Long lạnh nhạt nói:

- Đương nhiên rồi, Địch Thanh chỉ lo giết, lão phu chỉ lo cứu, bởi vậy hắn không biết chiến tích. Nhưng lão phu ta, vẫn là nhìn thấy tận mắt.

Mọi người im lặng, cho dù Nhâm Phúc luôn có lòng trách móc, nhất thời cũng không phản bác được.

Cuối cùng Phạm Trọng Yêm thở dài, nhưng không nói thêm gì, y đã không cần nói thêm gì. Võ Anh bên cạnh nghe được, bỗng nhiên đứng lên, kích động nói:

- Địch Thanh chính là đệ nhất anh hùng quân Tống tây bắc.

Mọi người cho dù không phục, trong lòng cũng sớm bị sự dũng cảm của Địch Thanh chấn động, trầm mặc không nói.

Chỉ có Địch Thanh vẫn vẻ mặt tĩnh mịch, đột nhiên cảm giác trên trời hơi lạnh, ngẩng đầu nhìn lên, hóa ra là tuyết đã rơi, ngước nhìn tuyết rơi nhẹ trên bầu trời, giống như có lời hứa hẹn mùa đông. Bên tai Địch Thanh như có một âm thanh:

- Địch Thanh, tiếp tục sống tốt, để ta biết, ta sẽ không nhìn lầm anh hùng của ta!

Địch Thanh nhìn tuyết rơi, khóe miệng nở nụ cười, nhưng không thể ngăn được tương tư trong lòng.

Tuyết vô thanh vô tức, rơi ở đầu cành, tầng tầng lớp lớp, giống như tưởng nhớ; rơi trên hai má, hòa tan thành nước, giống như nước mắt.

Nước mắt ngưng đọng trong tuyết nhẹ lay. Có mông lung, nơi tận cùng trắng phau phau. Có gió xoáy, tuyết xoáy khắp mặt đất. Giống như người học võ, tuyết đang múa, lên tận trời xa, tuyết đang rơi, sao rơi dòng sông đỏ thẫm.

Thì ra... tương tư giống như tuyết.

 Chương 282 - 285: Đại Thuận

Tuyết rơi không tiếng động, trời cao cùng màu. Nhưng tuyết dù có lạnh nữa, cũng có lúc tan rã. Tựa như mùa đông dù lạnh hơn nữa, cũng có lúc bị mùa xuân thay thế.

Tuyết trên mặt đất, từ từ mỏng dần.

Tiếng vó ngựa vang lên đạp nát con đường dài, lật tung tuyết đọng tạo ra phần màu xanh lục mới. Con ngựa đó chạy rất nhanh, trong nháy mắt tới cuối đường. Cuối đường có một phủ đệ, là phủ tri châu Khánh Châu.

Kỵ sĩ phóng xuống ngựa có binh linh tới ngăn lại, thấy kỵ sĩ đó bụi nhuộm áo quần, tóc mai đã vàng, bên ngoài tang thương không thể che hết gương mặt tuấn lãng, đều là không hẹn mà gặp cùng thi lễ:

- Địch tuần kiểm, Phạm đại nhân đang đợi ngài.

Người tới chính là Địch Thanh.

Địch Thanh gật đầu, sải bước vào tri phủ, hắn muốn gặp Phạm Trọng Yêm.

Phạm Trọng Yêm là phó sứ kinh lượcan phủ Thiểm Tây, tri Diên Châu, nhưng hình như lão ít ở Diên Châu. Phạm Trọng Yêm và Phạm Ung đều là họ Phạm, nhưng có khác biệt rất lớn.

Phạm Ung giống như chỉ biết ăn, Phạm Trong Yêm ngay cơm cũng không buồn ăn. Phạm Ung sau khi từ tri Diên Châu, thì rất ít rời khỏi Diên Châu, ai cũng nhận ra gã đang đợi hồi kinh. Phạm Trọng Yêm từ sau khi tri Diên Châu, thì rất ít ở Diên Châu, nhưng ai cũng đều cảm thấy Phạm Trọng Yêm hình như cắm rễ ở biên thùy.

Phạm Trọng Yêm lúc này không có ăn cơm, lão đang nhìn bình rượu, trong bình không có rượu. Nhìn thấy Địch Thanh tới, câu đầu tiên của Phạm Trọng Yêm chính là “Nguyên Hạo xưng đế rồi”

Tây bắc Nguyên Hạo cuối cùng lập quốc, quốc hiệu Hạ, kể từ đó cùng Khiết Đan, Đại Tống chia thiên hạ.

Địch Thanh kỳ thật đã biết tin tức này, nhưng nghe Phạm Trọng Yêm nhắc tới, mí mắt vẫn nhảy lên. Lúc này hắn không khỏi lóe ra bóng dáng của Nguyên Hạo, mũ đen áo xám, tay cầm cung lớn, trong bình năm tên.

Đôi mắt của Nguyên Hạo mang mấy phần sôi nhiệt, vài điểm giọng mỉa mai, tràn đầy chí khí hào hùng.

Địch Thanh biết Nguyên Hạo nhất định sẽ xưng đế. Từ sau khi hắn nhìn thấy cặp mắt của Nguyên Hạo, thì hắn biết, ai cũng không cản được bước chân tiến bước của Nguyên Hạo.

Tháng mười Nguyên Hạo xưng đế. Lúc đó Dã Lợi Ngộ Khất còn mang binh ác chiến trấn Nhung Quân với Hàn Kỳ. Lúc đó Phạm Trọng Yêm, Nhâm Phúc toàn lực tấn công thành Bạch Báo. Lúc đó Biện Kinh cảm thấy trận chiến Tam Xuyên Khẩu đã qua gần một năm, đã quên lãng bi thương thống khổ. Triệu Trinh đang chuẩn bị mừng lễ ngày đông, triều thần cũng đang chuẩn bị xưng công tụng đức, ca múa mừng cảnh thái bình.

Lúc đó chuyện rất nhiều rất nhiều, nhưng Nguyên Hạo chỉ làm một chuyện, chính là xưng đế.

Triều Tống tức giận lập tức tuyên bố toàn diện ngừng qua lại với người Đảng Hạng, tuyệt đối không thừa nhận địa vị của Nguyên Hạo.

Công văn qua lại hai nước nhiều nhất chỉ chấp nhận gọi nước Hạ là Tây Hạ. Đó chẳng qua chỉ là man di, sao có thể gọi Đại Hạ? Chỉ có Đại Tống mới chính là nhà nước chính thống Trung Nguyên.

Triều Tống tuy lừa mình dối người, nhưng sự thật đã thành. Triều Tống tức giận, suy nghĩ làm thế nào chế tài Nguyên Hạo... Đương nhiên loại chế tài đó, phải qua bàn bạc thảo luận của nhiều người, khả năng cuối cùng mới có thể đưa ra một kết quả.

Nguyên Hạo không có thời gian bàn bạc! Chuyện của y làm chính là tiến công không ngừng!

Địch Thanh nhớ tới tất cả tất cả chuyện xảy ra, cảm thấy mùa đông này quả nhiên náo nhiệt. Náo nhiệt nhìn tựa như tuyết bay múa, cũng tịch mịch giống như tuyết.

Phạm Trọng Yêm nhìn Địch Thanh, nhẹ nhàng thở dài nói:

- Triều đình có định liệu dụng binh với Tây Hạ, nhưng không phải là chiến, còn đang thương nghị... Bất luận kết quả thương nghị thế nào, chúng ta đều phải chuận bị cho tốt trước, thập sĩ bây giờ thế nào?

Thập sĩ là biên chế Sương quân, nhưng sức chiến đấu hơn xa Sương quân. Đội nhân mã này là Chủng Thế Hành lập ra, được Phạm Trọng Yêm ủng hộ, do Địch Thanh tự mình suất lĩnh.

Địch Thanh nói:

- Hiện giờ Chủng Thế Hành đã xây dựng ngũ quân, phân làm năm đội Hãm Trận, Tử Phẫn, Dũng Lực, Khấu Binh và Đãi Mệnh. Tổng cộng có hơn hai ngàn nhân mã, đã tới cực hạn thống binh của mạt tướng.

Địch Thanh trước mắt là Tuần kiểm tây lộ Diên Châu, lãnh binh không thể hơn ba ngàn.

Phạm Trọng Yêm mỉm cười:

- Ngươi sai rồi, vẫn chưa có tới cực hạn. Bây giờ ngươi là Binh Mã Đô Giám Phu Diên lộ, ít nhất có thể thống lĩnh năm ngàn binh mã.

Địch Thanh ngẩn ra, kinh ngạc nói:

- Mạt tướng là Binh mã Đô giám của Phu Diên Lộ? Phạm đại nhân, ngài nhớ nhầm hả?

Phạm Trọng Yêm khẽ mỉm cười, lắc đầu nói:

- Không sai, ngươi hiệp trợ Nhâm Phúc phá thành Bạch Báo, công lao không nhỏ. Tây bắc thiếu tướng, vì vậy ta tấu lên thiên tử xin phá lệ đề bạt quân tướng chống đối Nguyên Hạo. Thiên tử cho phép, chư tướng phá thành Bạch Báo đều có thăng chức. Thiên tử có chỉ, đặt biệt thăng ngươi là Binh mã Đô giám của Phu Diên Lộ, điều lệnh hôm trước mới tới tay ta.

Địch Thanh trong lòng không biết cảm thấy thế nào. Mấy tháng trước hắn chỉ là một Chỉ huy sứ, nào ngờ mới tới đầu mùa xuân đã thăng tới địa vị Binh Mã Đô giám hai châu. Tuy nói hắn có công lao, tuy nói hắn và Triệu Trinh có chút quan hệ. Nhưng nếu không có Phạm Trọng Yêm, hắn cũng sẽ không thăng chức nhanh chóng như vậy.

- Đúng rồi, thiên tử còn rất nhớ ngươi, lệnh ta bảo người vẽ hình của ngươi mang về.

Phạm Trọng Yêm cảm khái nói:

- Người còn nói ngươi lòng ở tây bắc, cũng không miễn cưỡng ngươi trở về. Người còn nói, bảo ngươi đừng quên lời hẹn của hai bên.

Trong mắt Phạm Trọng Yêm có phần khen ngợi, rõ ràng cũng biết quan hệ giữa Địch thanh và Triệu Trinh.

Địch Thanh thầm nghĩ, khó được Triệu Tirnh còn nhớ minh ước năm đó, nhưng ta đâu có khả năng như Lý Tĩnh, Hoắc Khứ Bệnh chứ?

Phạm Trọng Yêm thấy thần sắc Địch Thanh phiền muộn, cũng không vì thăng chức mà chúc mừng, biết hắn chí không phải quan chức, chuyển đề tài nói:

- Được rồi, xuất phát đi.

Địch Thanh cũng không hỏi nhiều, biết điều nên nói Phạm Trọng Yêm tự nhiên sẽ nói. Mấy ngày trước hắn được Phạm Trọng Yêm điều lệnh, lệnh hắn dẫn hai ngàn binh mã đến phủ Khánh Châu. Nghe lệnh, rốt cuộc Phạm Trọng Yêm muốn làm gì, hắn tạm thời không biết được.

Hai người ra phủ, dưới hộ tống của hơn trăm binh línhra thành Khánh Châu. Mới tới phía bắc thành, thì thấy trên khu đồng ruộng bát ngát hai ngàn kiêu kỵ đang đứng nghiêm nghị. Người như nước, ngựa như sắt, người không nói, ngựa không hí.

Thiết kỵ đó như rồng, qua lễ rửa tội ngày đông giá rét, đã phải kêu gào chín tầng mây.

Đang đứng phía bắc thành chính là thập sĩ của Địch Thanh thống lĩnh, vẫn là Phu Diên Lộ. Thậm chí toàn bộ tây bắc, là kiêu kỵ dũng mãnh nhất, có lực đánh nhất.

Người lãnh quân có bốn người, một người mặt xám như tro tàn, chính là Lý Đinh. Một người lưng đeo trường kiếm lại là Qua Binh, còn một người tay cầm trường chùy, nắm tay to như cái bát. Bốn người ngồi trên ngựa, nhẹ phiêu phiên không có phân lượng gì, dáng vẻ giống như là bất cứ lúc nào cũng có thể bị gió thổi bay.

Ánh mắt Phạm Trọng Yêm quét qua bốn người, mỉm cười nói:

- Ta biết Lý Đinh thống lĩnh sĩ Tử Phẫn. Binh Qua dẫn sĩ Hàm Trận. Cầm cái búa đó tên Bạo Chiến? Y hình như dẫn sĩ Dũng Lực?

Địch Thanh trả lời:

- Phạm công nói không sai, Bạo Chiến dẫn sĩ Dũng Lực, sĩ của Khấu Binh do Trương Dương dẫn.

- Vậy chỉ có bốn người.

Phạm Trọng Yêm chau mày, chợt nói:

- Đãi Lệnh là do Hàn Tiếu thống lĩnh hả?

Địch Thanh gật đầu nói:

- Không sai, nhưng Đãi Lệnh không nhập biên chế, chỉ phụ trách truyền tin tức.

Phạm Trọng Yêm thở phào một cái, lẩm bẩm nói:

- Tốt lắm

Dứt lời đã giục ngựa đi về hướng đông bắc.

Mọi người ra Châu Khánh chạy về đông bắc, phóng nước đại thời gian nửa ngày, đã chạy ra hơn trăm dặm. Nghỉ ngơi chút, tiếp tục chạy như bay. Hai ngàn thiết kỵ đó không nhanh không chậm theo phía sau Địch Thanh, giống như bầy sói tuyết - kiên nhẫn, trầm mặc, khát máu chờ đợi.

Lúc quay đầu về phía tây Phạm Trọng Yêm ghìm ngựa không đi nữa. Xa xa tận cùng bình nguyên, dãy núi kéo dài giống như con rồng màu xám. Tuyết đã tàn rồi, lộ ra tảng đá màu xanh trên núi, có cốt như con rồng màu xám, bùn đất màu nâu, giống như máu của con rồng xám chảy.

Phía trước đột nhiên có ngựa báo lại, Địch Thanh nghe mấy câu nói nhỏ bên tai. Địch Thanh có chút kinh ngạc, tới trước gần Phạm Trọng Yêm nói:

- Phạm đại nhân, trại Mã Phô gần phía đông bắc. Ngoài hai mươi dặm tây nam, lại có hơn một ngàn người Tống tụ tập về phía trại Mã Phô. Những người đó ít võ bị, xe ngựa nhiều, tạm thời không biết dụng ý của bọn họ.

Trại Mã Phô vốn doanh trại của người Tống, nhưng từ sau khi người Đảng Hạng xây dựng hai thành Bạch Báo và Kim Thang lân cận, trại Mã Phô vì nhiều năm không tu sửa, binh lực thưa thớt, chỉ có thể bỏ.

Phạm Trọng Yêm cười thần sắc có phần phấn chấn, nói:

- Địch tướng quân, đó là người của chúng ta. Ta bảo bọn họ đến, đi đi, đi trại Mã Phô.

Địch Thanh có chút kỳ quái, Phạm Trọng Yêm chạy tới trại Mã Phô hoang vu làm gì. Nhưng hắn nghe theo mệnh lệnh, vung đao lên, hướng tây bắc, đông bắc hạ lệnh. Hai ngàn kỵ binh trong gió rét giống như bị đao bổ ra, phân thành hai tổ, giống như nộ tiễn chờ phát.

Phạm Trọng Yêm thấy âm thầm gật đầu, lòng vui Địch Thanh tự có chủ trương. Nhưng không rõ chân tướng, vẫn là tích cực chuẩn bị, đề phòng bất trắc. Địch Thanh có cách làm như vậy, tuy đối với Phạm Trọng Yêm có chút không kính, nhưng Phạm Trọng Yêm lại khe ngợi.

Mọi người giục ngựa, đến lúc hoàng hôn, đã tới trại Mã Phô.

Lúc này người Tống hai hướng tây nam tây bắc đồng thời đuổi tới. Hơn hai ngàn người, đánh hàng trăm chiếc xe ngựa, trên xe đầy các loại tài liệu và công cụ, giống như muốn xây nhà.

Mỗi hướng đi ra một người, tới trước mặt Phạm Trọng Yêm, thi lễ nói:

- Phạm đại nhân, thuộc hạ tới đúng hẹn.

Đội trưởng bên phải vóc người tuấn tú lịch sự, tràn đầy khí chất thư sinh, làm người ta vừa nhìn thấy, thì có thiện cảm. Đội trưởng bên trái không có giống người, trên mặt cóvết đao, mũi bị mất một nữa, mù một mắt, bộ mặt dữ tợn, chân bị què, lúc hoàng hôn, thoạt nhìn giống như là quỷ, nếu là tới buổi tối, chỉ sợ sẽ dọa quỷ đến chết.

Người tàn tật đó hình như cũng biết dung mạo mình quá kinh khủng, luôn cuối đầu.

Phạm Trọng Yêm ngước nhìn người tàn tật đó trong mắt chỉ có thương hại, giới thiệu với hai người:

- Đây chính là Binh Mã Đô giám của Phu Diên Lộ, Địch Thanh tướng quân.

Hai người đó đều hướng về Địch Thanh thi lễ, Phạm Trọng Yêm kéo tay của người tàn tật đó nói:

- Địch Thanh, đây vốn là thống lĩnh của Phiên Bộ, tên là Triệu Minh. Lúc trước từng trấn thủ trại Mã Phô, người đó là khuyển tử Phạm Thuần hữu, bây giờ là Chủ bạc Diên Châu (chức quan chuyên quản lý công văn).

Địch Thanh thấy Phạm Thuần Hữu và Phạm Trọng Yêm ngược lại rất giống nhau, chỉ có điều tinh thần phấn chấn bồng bột, thiếu tang thương của Phạm Trọng Yêm. Có chút kỳ quái tại sao Phạm Trọng Yêm phải tìm hai người này đến đây.

Phạm Trọng Yêm nói:

- Triệu Minh, Thuần Hữu, các ngươi làm việc đi.

Hai người đó đáp lời, đã thét lệnh thủ hạ đánh xe vào núi, Triệu Minh lại khập khiễng thăm dò tình hình trong núi, chỉ huy đám người dỡ hàng lấy đồ đã chuẩn bị trước.

Địch Thanh thấy mọi người hành động như vậy, trong lòng nghĩ ngợi, hỏi:

- Phạm công, Ngài muốn xây dựng trại Mã Phô sao?

Phạm Trọng Yêm mỉm cười:

- Ta biết ngay ngươi có thể đoán trúng.

Đột nhiên hỏi:

- Chúng ta tuy phá thành Bạch Báo, sao không nhân cơ hội chiếm chỗ đó chứ?

Địch Thanh không ngờ Phạm Trọng Yêm lại hỏi như vậy, trầm ngâm nói:

- Tạm thời không có binh lực để giữ.

Hắn nói không phải không có lý. Trước mắt quân Tống bất luận là Thiểm Tây, Sơn Tây hay là Hà Bắc, đều không có nguy hiểm gì cần giữ. Điều này sẽ dẫn đến một hậu quả rất nghiêm trọng, Đại Tống chỗ nào cũng muốn giữ, rất nhiều chỗ đều không thể giữ nổi. Đại Tống xưng là nắm cả triệu binh, nhưng quá phân tán. Kết quả dẫn đến cuộc chiến Tam Xuyên Khẩu năm đó, hai phó đô bộ thự và cả Quách Tuân dẫn binh mã chỉ mười ngàn người. Khuyết điểm điều binh của Đại Tống, có thể thấy được rõ ràng.

Phạm Trọng Yêm khẽ mỉm cười:

- Nói có lý. Ở đó rất thuận lợi với người Tây Hạ, chúng ta có thể thừa dịp chặt đứt cành lá của bọn họ, lại không thể đào được rễ của bọn chúng. Nếu đã như vậy, chỉ có thể bỏ. Chúng ta đối kháng với quân Hạ ở Hoành Sơn vốn là nằm trong bất lợi. Sau cuộc chiến Tam Xuyên Khẩu mất đi Thổ Môn, thất trại Kim Minh, càng không địa lợi. Bên phía Diên Châu chúng ta chỉ có thể tử thủ Thanh Giản, Diên Châu chờ cơ hội.

Địch Thanh lập tức nói:

- Diên Châu tạm thời không có cơ hội, nhưng Khánh Châu có! Chúng ta phá trại Hậu Kiều, đốt thành Bạch Báo, lúc này thành Kim Thang chỉ là một tòa cô thành. Trại Mã Phô nếu trùng tu lên, thì giống như đao nhọn, cắm ở giữa thành Bạch Báo và thành Kim Thang. Chẳng những có thể trực tiếp bức chợ Diệp của người Hạ, mà còn có thể tùy thời cơ tấn công đánh thành Kim Thang.

Trong mắt Phạm Trọng Yêm tràn đầy vui mừng, gật đầu nói:

- Ngươi nói một chút cũng không sai. Chúng ta tiến công vẫn khó có thể tiếp tục, vì chúng ta thiếu cái rễ. Trại Mã Phô địa thế vô cùng tốt, có thể làm rễ của chúng ta. Sau này chúng ta dựa vào chỗ này mọc rễ phát triển mầm, không ngừng s�sang tiếp tục, luôn luôn bức tới Hoành Sơn. Cách này tuy chậm, nhưng trước mắt chỉ có cách này. Trước đây chúng ta không giữ nỗi trại Mã Phô, nhưng bây giờ không giống, bây giờ .... chúng ta có ngươi!

Phạm Trọng Yêm quay lại nhìn Địch Thanh, ngưng thanh nói:

- Người Hạ sau đó không lâu sẽ biết hành động của chúng ta. Bọn họ sẽ không dễ dàng cho một cây đao nào cắm ở đây, cũng rất nhanh sẽ phái binh tới đánh!

- Phạm đại nhân cứ việc xây trại.

Địch Thanh từng chữ nói:

- Có Địch Thanh ở đây, bọn họ không làm gì được chỗ này.

Hắn từng chữ giống như khắc lên tảng đá, không để cho sửa chữa nữa chừng.

Phạm Trọng Yêm thở phào một cái, vui mừng nói:

- Rất tốt. Đúng rồi, ta quyết định đổi tên trại Mã Phô.

Hơi chút trầm ngâm, Phạm Trọng Yêm chậm rãi nói:

- Sẽ gọi là Đại Thuận... thành Đại Thuận, được không?

Lại sắp hoàng hôn, tà dương chiều muộn.

Trong gió lạnh nắng ấm rắc xuống hào quang màu vàng kim, bay xéo ngàn đỉnh núi, cuối cùng dừng lại trên mặt Phạm Trọng Yêm. Trên gương mặt đó có nếp nhăn, thái dương sớm nhuộm hoa sương, nhưng trong hai mắt đó vẫn sáng ngời đa tình, tràn đầy hy vọng.

Địch Thanh ngước nhìn gương mặt đó, trong mắt tràn đầy hy vọng.

Hai người này giống như số phận trái ngược, cũng cùng là kiên cường bất khuất, vận mệnh an bài bất khuất, kiệt lực đấu tranh, trong lòng lại có hy vọng....

Hy vọng cuối cùng có một ngày nào đó làm được như ý.

Địch Thanh dời ánh mắt, nhìn mặt trời từng chút từng chút lặn về phía tây, lẩm bẩm nói:

- Thành Đại Thuận? Hay, cái tên hay!

Mặt trời lặn rồi mọc, mọc rồi lặn, thiên đạo tuần hoàn. Hơn hai ngàn năm nhân thủ ngày đêm không ngừng xây trại. Tuyết trên núi tan rồi, cỏ mọc xanh rồi, trên hạt cát đá đen bắt đầu lan trải một con rồng lớn mới.

Con rồng lớn tuy thô ráp, nhưng đã thành hình, chỉ đợi gió xuân mưa hạ, thì có thể bay vút lên.

Ngày này mặt trời đỏ mọc lên ở hướng Đông, Địch Thanh đang ngồi ở bên sườn núi nhìn xa về phía tây thoáng có chút suy nghĩ.

Trên chinh y của hắn nâu đen hỗn loạn đã không còn màu như trước. Đen là hạt bụi, nâu là máu, bụi cũng tốt, máu cũng thế, đều không thể che hết khuôn mặt kiên nghị ánh mắt buồn của hắn.

Ánh sáng vàng rực rỡ rơi xuống, cho thân hình cao lớn mang theo phần tang thương của lăng đạo nhà Hán.

Hắn nhìn về phía tây trong lòng đang nghĩ, tại sao mình không nằm mơ lại giấc mơ cổ quái đó nữa? Chẳng lẽ nơi, không phải Phục Tạng? Rốt cuộc Phục Tạng tình hình thế nào rồi?

Tương tư như ma, chinh chiến bần cùng, tháng ngày này hắn kiên thủ thành Đại Thuận, mệt mỏi nằm mơ cũng khó. Không mơ tương tư càng thêm, có chuyện cũ trước kia, nườm nượp hỗn loạn.

Phi Tuyết, Nguyên Hạo, Phi Ưng, Dã Lợi Trảm Thiên, còn Diệp Hỉ Tôn giống như thần long đó thấy đầu không thấy đuôi.

Những người này hình như có chút liên hệ với Hương Ba Lạp, trước mắt bọn họ thế nào rồi, có tìm được Hương Ba Lạp không?

Bọn họ cách Địch Thanh tuy xa. Nhưng Địch Thanh luôn cảm thấy, cuối cùng bọn họ còn có ngày đó gặp nhau.

Thu lại ánh mắt nhìn xa xăm, Địch Thanh nhìn về thành Đại Thuận xoắn giữa núi, khóe miệng mỉm cười. Hắn là đang nhìn thành Đại Thuận dựng lên sừng sững, một chút hùng vĩ lớn mạnh, hắn không có phụ lòng kỳ vọng của Phạm Trọng Yêm.

Mấy tháng mà năm trận chiến, chém tướng bảy người, giết địch hơn hai ngàn người, thậm chí hắn không để quân Hạ tiếp cận thành Đại Thuận.

Địch Thanh hắn đã bắt đầu tuyên chiến với Nguyên Hạo, Thành Đại Thuận chính là chiến thư của hắn. Cho tới nay đều là người Hạ từng bước xâm chiếm đất người Tống, chỉ có thành Đại Thuận này xây dựng trong địa bàn người Hạ.

Nhìn về hướng Hàn Tiếu từ xa đi tới, Địch Thanh phủi bụi trên người đứng dậy. Trong núi tuyết đọng đã tan từ lâu, một đóa hoa không biết tên lặng lẽ nở.

Đóa hoa như tuyết, trong gió núi gào thét run rẩy.

Địch Thanh ngồi xổm xuống ngước nhìn đóa hoa đó, lại nhớ tới đêm đó, đôi mắt réo rắt thảm thiết đó, âm thanh kinh hoàng mà lại thâm tình đó, “Ngài ở trong lòng ta, ... vốn là anh hùng cái thế… thiên hạ vô song.”

Hắn nhẹ nhàng giơ tay ra, nhưng không có bắt lấy đóa hoa đó, chỉ là dùng đầu ngón tay sờ nhẹ lên đóa hoa. Đóa hoa có sương, lóe sáng dưới ánh mặt trời, giống như nước mắt.

Cuối cùng đứng thẳng lưng lên, Địch Thanh quay lại nhìn Hàn Tiếu. Hàn Tiếu tới bên cạnh Địch Thanh hạ giọng nói mấy câu, Địch Thanh lơ đãng nhíu mày, Hàn Phi lại cười nói:

- Địch tướng quân, Phạm đại nhân tìm ngài có chuyện, mời ngài đi một chuyến.

Địch Thanh gật đầu, đi tới doanh trướng Phạm Trọng Yêm.

Vừa tới ngoài lều, thì nghe trong lều có người lạnh lùng nói:

- Phạm công, ngài thay đổi rồi!

Địch Thanh ngẩn ra, không rõ trong này có ai có thể đối vô lý với Phạm Trọng Yêm như vậy. Nghe giọng nói đó có chút quen thuộc, do dự một chút vẫn vén mạnh cửa lều đi vào trong.

Hai người trong lều một đứng một ngồi, là Doãn Thù đang đứng, Phạm Trọng Yêm đang ngồi. Doãn Thù đã đỏ mặt tía tai, Phạm Trọng Yêm thần sắc vẫn bình thản, nhưng trong hai mắt đã có mấy phần tiếc nuối.

Phạm Trọng Yêm thấy Địch Thanh đi đến trong mắt có phần lo lắng, liếc nhìn Doãn Thù thương lượng:

- Doãn Thù, ta và Địch Thanh có chuyện bàn bạc. Ngươi nghỉ ngơi trước, mấy ngày nữa hãy nói được không?

Doãn Thù nói:

- Không được. Ta vất vả vội tới trong kinh, lại từ kinh thành tới chỗ ngài, thì phải nghe ngài nói một câu.

Địch Thanh cảm thấy hai người này lại có chút mùi gươm tuốt khỏi vỏ, trong lòng kỳ quái đang muốn giảng hòa. Ngoài lều tiếng cảnh báo vang lên, người của thành Đại Thuận đều biết, có địch đột kích.

Doãn Thù sợ run lên, nhất thời quên tranh cãi. Phạm Trọng Yêm nhướn mày nhìn Địch Thanh, hỏi:

- Sao vậy?

Địch Thanh vẫn trấn tĩnh, mỉm cười nói:

- Đơn giản là quân Hạ lại đi vòng vòng, không chừngt chuyển hàng tới. Phạm đại nhân, mạt tướng đi xem thử.

Thấy Phạm Trọng Yêm gật đầu, Địch Thanh không chút hoang mang đi ra lều trung quân, biến mất không thấy bóng dáng.

Tiếng trống cấp bách, chiến ý ngang trời, ngoài thành Đại Thuận gió mưa cuồn cuộn đến.

Doãn Thù nghe tiếng trống đó liên hồi như gõ vào ngực, không kìm nổi hỏi:

- Quân Hạ thường đến quấy phá không?

Phạm Trọng Yêm khẽ thở dài, nói:

- Cũng không thường đến, một tháng mấy lần mà thôi.

Doãn Thù trố mắt nói:

- Một tháng mấy lần còn ít sao? Quân ta tổn thất nghiêm trọng không?

Gã hỏi cái câu này, thật ra rất có thâm ý.

Phạm Trọng Yêm lắc đầu:

- Không tổn thất gì, ngược lại gặt hái được không ít. Mỗi lần bọn họ tới, đều đưa tới không ít chiến mã, khôi giáp...

Khóe miệng cười vui vẻ:

- Có Địch Thanh ở đây không cần lo lắng, hắn đã chém bảy viên tướng người Đảng Hạng. Không ngờ quân Hạ còn dám tới.

Trong lòng không kìm nổi nghĩ:

- Người Hạ xem ra đã xem thành Đại Thuận là cái đinh trong mắt, không rút không vui rồi.

Doãn Thù hiểu rõ hàm ý của việc đưa hàng, con ngươi đưa quanh, tán thưởng:

- Địch Thanh thật anh hùng, Phạm công được hổ tướng này chính là ý trời.

Gã nói tinh tế, Phạm Trọng Yêm đã nghe ra Doãn Thù không có bỏ ý thuyết phục trong đầu gã, nói tránh đi:

- Trong kinh thành bây giờ ấm áp hơn một chút so với tây bắc chứ?

Phạm Trọng Yêm bên cạnh có một lò lửa, trên đó nước đang sôi. Phạm Trọng Yêm tự mình xách bình châm trà cho Doãn Thù, trong lòng lại nghĩ: “Làm sao mới có thể để Doãn Thù, Hàn Kỳ đánh mất ý niệm tiến công quy mô người Hạ? Bây giờ thời cơ chưa tới, quân tây bắc sớm bị hoang mang, binh lực suy nhược lâu ngày, lúc này xuất binh, hoàn toàn không có nửa phần nắm chắc phần thắng. Hơn nữa triều đình mất tinh thần, người triều đình chỉ hưởng an lạc, không biết khổ của tây bắc, tiền lương chuyển đến luôn trễ. Đại Tống không có quân tinh nhuệ, tiền phương phải đối phó với sư Hổ Lang, hậu phương có triều đình liên lụy, xuất binh như vậy còn không phải chịu chết?”

Thì ra mấy ngày trước Phó sứ an phủ Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm cùng tới tây bắc. Dựa vào quân Trấn Nhung đánh lui Dã Lợi Ngộ Khất, lại đại phá thành công thành Bạch Báo, lòng tin tăng cao, nghĩ một lần là xong, không ngờ kiến nghị triều Tống năm đường xuất binh tiến công nước Hạ. Phạm Trọng Yêm cũng không đồng ý, giảng giải phản đối. Hạ Tủng mặc dù thống lĩnh Thiểm Tây, thấy thủ hạ có phần khác biệt, do dự, lại không muốn gánh trách nghiệm, liền để Hàn Kỳ, Doãn Thù đích thân tới kinh thành, phân tích tình hình với Thánh Thượng, định đoạt tiếp.

Phạm Trọng Yêm dù chưa nghe Doãn Thù kể rõ tình hình chi tiết trong kinh, nhưng đoán qua sắc mặt và lời nói, cũng biết Doãn Thù việc này bất lợi. Doãn Thù vừa đến thành Đại Thuận, thì mong dùng tình cảm thuyết phục Phạm Trọng Yêm, bảo Phạm Trọng Yêm giảng giải ủng hộ Hàn Kỳ xuất binh. Phạm Trọng Yêm quả quyết cự tuyệt, Doãn Thù lúc này mới phẫn nộ, chỉ trích Phạm Trọng Yêm thay đổi rồi.

Doãn Thù bụng đầy tâm sự, biết Phạm Trọng Yêm cố ý nói sang chuyện khác, căm giận nói:

- Phạm công nhầm rồi, trong kinh chỉ lạnh hơn tây bắc, vì tây bắc còn có nhiệt huyết, nhưng Biện Kinh chỉ có lãnh huyết!

Phạm Trọng Yêm trầm mặc không nói gì, lão kinh nghiệm thăng trầm, sớm hiểu được tâm tư của triều đình. Biết những người như Lã Di Giản vì cầu yên ổn, cho dù thiên tử có lòng hưng binh, Lã Di Giản và người trong Lưỡng phủ cũng sẽ không đồng ý Hàn Kỳ xuất binh.

Chuyện muốn xuất binh, chắc chắn là người đó có thể định hạ, cho dù Triệu Trinh cũng không thể!

Doãn Thù thấy Phạm Trọng Yêm chỉ đang nhìn chén trà, hỏi:

- Phạm công tại sao không hỏi thử chuyến đi kinh thành của ta chứ?

Phạm Trọng Yêm hơi bất đắc dĩ nói:

- Không biết chuyến đi kinh thành của ngươi thế nào?

Doãn Thù nói:

- Việc này ngược lại vẫn thuận lợi, triều đình quyết định xuất binh rồi.

Phạm Trọng Yêm trong lòng căng thẳng, có chút kinh ngạc nói:

- Thật sao? Làm sao xuất binh chứ? Thật là muốn chia năm đường tiến công Tây Hạ sao?

Lão hỏi liền ba câu, trong lòng nặng nề.

Doãn Thù chăm chú nhìn vẻ mặt của Phạm Trọng Yêm, trả lời:

- Không phải năm đường, mà là hai đường xuất chinh. Triều đình đề nghị, do Kính Nguyên Lộ của Hàn đại nhân và Phu Diên Lộ của Phạm công liên hợp xuất binh, tùy thời cơ tiến công Tây Hạ.

Phạm Trọng Yêm sắc bén nói:

- Là đề nghị, không phải là quyết định?

Doãn Thù thấy ánh mắt Phạm Trọng Yêm sáng quắc, không muốn lừa dối lão, cuối cùng thở dài một tiếng:

- Không sai, là đề nghị Phạm công xem xét cùng Hàn đại nhân liên thủ xuất binh. Phạm công, Lã Di Giản độc tài quyền to, chỉ cầu quan lớn để được ngồi, khó có lòng tiến thủ. Lúc này tây bắc hoảng sợ, oai danh của nước không phấn chấn. Quốc sự đến tận đây, duy chỉ có chiến tranh mới có thể làm dịu cơn giận người dân, chấn oai danh nước. Nghĩ Phạm công định sẽ không bỏ cơ hội ngàn năm có một chứ?

Phạm Trọng Yêm cũng thở dài, lắc đầu nói:

- Ngươi sai rồi, đây tuyệt không phải là cơ hội.

Doãn Thù lại giận dữ:

- Phạm công, sao ngài có thể nói như vậy? Ngài và ta phí thời gian nhiều năm, còn có thể có bao nhiêu cơ hội? Ngài sớm biết Đại Tống nguy cơ trùng trùng, vẫn nói với ta, không tiếc thân này, cũng muốn cứu vớt Đại Tống khỏi nguy nan. Ngài bình sinh ý chí chiến đấu lớn nhất, đấu với Thái hậu, với Hoàng thượng, và cả Lưỡng phủ, chỉ vì ngài yêu nước yêu dân, vì dân vì nước. Lúc này Đại Tống bắc có Khiết Đan như hổ rình mồi, Tây Hạ lại như hổ nhìn trộm ở bên. Chúng ta một mặt yếu đuối, chỉ có thể ngồi chờ chết. Lòng yêu nước của Hàn Công, vô lễ với Phạm Công, chờ liên thủ với Phạm công, cùng tấn công Nguyên Hạo, tưởng người thiên hạ độc vứt bỏ Hàn đại nhân. Còn Phạm công sẽ không, không ngờ ngài phản đối đầu tiên. Chẳng lẽ, nhiều năm đau khổ, đã làm ngài mất nhuệ khí, thăng chức ở tây bắc làm ngài đánh mất hùng tâm? Chẳng lẽ... Phạm Trọng Yêm đã không còn là Phạm Trọng Yêm?

Doãn Thù trở nên phẫn nộ, Phạm Trọng Yêm ngược lại tỉnh táo, đợi Doãn Thù im miệng, lúc này mới nói:

- Nói xong rồi hả?

Doãn Thù nói:

- Không có! Nhưng ta muốn nghe ngài nói gì trước.

Phạm Trọng Yêm thần sắc bất đắc dĩ, nhưng vẫn kiên quyết nói:

- Doãn Thù, ta không phải muốn ngồi chờ chết. Ngươi cũng thấy rồi, thành Đại Thuận dựng lên, đã vào địa phận người Tây Hạ. Thành Thanh Giản phòng ngự thật tốt, tạm thời nên thay thế trại Kim Minh, chúng ta chỉ cần tiếp tục tu sửa dần dần, lấy thủ làm công, đóng vững đánh chắc, cuối cùng có một ngày sẽ xuống tới Hành Sơn.

- Cuối cùng có một ngày?

Doãn Thù cười lạnh nói:

- Không biết chúng ta còn có cơ hội thấy được không?

Phạm Trọng Yêm cau mày nói:

- Ta không biết ta và ngươi có cơ hội nhìn thấy được không, nhưng ngươi cố ý lập tức xuất binh, nhất định không có cơ hội thấy được rồi. Cuộc chiến Tam Xuyên Khẩu, đã cho thấy quân ta khiếm khuyết rất nhiều. Điều binh không linh, tướng sĩ thiếu dũng, tai họa ngầm có nhiều, võ bị không được. Với tình hình này, cho dù bảo Hàn Kỳ triệu tập đại quân, nhưng xa phạt tây bắc, lặn lội đường xa, đánh với quân Tây Hạ khỏe mạnh làm sao có thể thắng? Hàn Kỳ tuy có ý chí chiến đấu, nhưng lại biết dụng binh không?

Phạm Trọng Yêm nói rất sắc bén, thư sinh dụng binh, ba năm không thành. Hàn Kỳ tuy lòng cao hơn trời, nhưng vốn không có kinh nghiệm chinh chiến sa trường. Người như vậy lĩnh quân, Phạm Trọng Yêm rất lo lắng.

Doãn Thù biện bạch nói:

- Cho dù không biết dụng binh, cũng tốt hơn không dụng binh!

Phạm Trọng Yêm thở dài một tiếng:

- Xuất binh như vậy, phần thắng có không? Ngươi bảo ta làm sao có thể đồng ý? Đúng vậy, ta phí thời gian nhiều năm, thời gian không nhiều, không có hùng tâm, khó có sức mạnh lớn lao. Nếu dựa vào một trận thắng, ta và ngươi đều có thể tên lưu thiên cổ. Nhưng... nếu thua rồi thì sao? Ta và ngươi thân bại danh liệt cũng không sao, nhưng chiến trường khó tránh khỏi sẽ có vô vố oan hồn chết oan ức. Chúng ta làm sao xứng đáng với niềm tin binh lính của chúng ta.

Doãn Thù cũng ngửa mặt lên trời thở dài nói:

- Hàn công đã từng nói, dụng binh không để ý thắng bại. Phạm công hôm nay trước sợ sói sau sợ hổ, nếu cẩn thận như vậy thì gần như yếu đuối, xem ra thật không bằng Hàn công!

Phạm Trọng Yêm sắc mặt biến đổi, tức giận không vui nói:

- Doãn Thù, ngươi nói ta không bằng Hàn công, ta ngược lại không sao, nhưng nếu ngươi kích ta xuất binh, tuyệt đối không thể. Nghĩ đại quân vừa phát, vạn mệnh đều nguy hiểm, mạng của sĩ tốt, Đại Tống tồn vong, làm sao không để ý? Phạm mỗ cho dù không bằng Hàn công, cho dù là yếu đuối, cho dù bỏ qua cơ hội nổi danh thiên hạ. Nhưng cũng tuyệt đối không thể dùng vô số tính mạng của binh sĩ vật lộn mà không để ý.

Doãn Thù thấy thái độ Phạm Trọng Yêm kiên quyết, bực tức nói:

- Nếu đã nói như vậy nói nhiều cũng vô ích, ta đi về với Hàn đại nhân. Nghĩ Hàn đại nhân cho dù không có hiệp trợ của Phạm công, cũng sẽ nổi binh đánh về tây. Tới lúc đó, chỉ xin Phạm chớ hối hận.

Gã tuy giao hảo với Phạm Trọng Yêm, nhưng ý khí tới thì không ngờ lại trở mặt nhau, xoay người ra lều cũng không thi lễ.

Phạm Trọng Yêm mới chờ triệu tập, Doãn Thù chủ ý đã định không thể khuyên bảo, lại suy sụp ngồi xuống, lẩm bẩm nói:

- Ta sẽ hối hận? Ôi... Hàn Kỳ chỉ biết tiến thủ, xem thường Nguyên Hạo, tự thân trăm ngàn chỗ hở. Nếu Nguyên Hạo công đến, thế nào là tốt?

Dù là lão suy nghĩ kín đáo, giờ khắc này cũng không nghĩ ra kế lưỡng toàn.

Lúc đang ngồi ngây ra, cửa lều vén lên, Địch Thanh đi vào, thấy Phạm Trọng Yêm lo lắng, thấp giọng nói:

- Phạm đại nhân.... ngài... không sao chứ?

Phạm Trọng Yêm lúc này mới để ý tới tiếng trống quân trong thành Đại Thuận đã dừng, tạm thời gác chuyện phiền lòng một bên, hỏi:

- Địch Thanh, tình hình cuộc chiến thế nào?

Địch Thanh nói:

- Giết lùi địch rồi.

Hắn lại miêu tả sơ lược, nhưng trên người thêm không ít vết máu. Rõ ràng xung phong đi đầu, giết lùi địch. Phạm Trọng Yêm vừa sờ chén trà, thấy trà còn ấm, vui sướng trong lòng, thầm nghĩ Địch Thanh dũng mãnh như vậy, quả thật phúc của tây bắc.

Hơi chút trầm ngâm, Phạm Trọng Yêm đẩy chén trà cho Địch Thanh, nâng chén nói:

- Chúc ngươi lại lập chiến công, ta lấy trà thay rượu trước tiên kính ngươi một chén.

Địch Thanh nâng chén trà lên không uống trà, hỏi:

- Phạm công, Doãn đại nhân tại sao tranh cãi với ngài?

Hắn từ lâu xem Phạm Trọng Yêm là bằng hữu, do vậy mới hỏi.

Phạm Trọng Yêm mắt có chút ưu sầu, nói chuyện lúc nãy ra một lượt, hỏi ý:

- Địch Thanh, Hàn Kỳ kiêu ngạo có ý động binh, ngươi cảm thấy thế nào?

Địch Thanh cau mày nói:

- Phạm công, mạt tướng tác chiến với quân Hạ nhiều năm, biết quân ta không thích hợp đánh đuổi đường dài, cũng thiếu dũng mãnh nhanh nhẹn của người Hạ. Hơn nữa... biên thùy vì luân phiên phòng thủ làm tướng không biết binh, binh không biết tướng, năm đường tiến vào Tây Hạ? Chỉ sợ khó có thể điều hành, thắng bại khó liệu.

Phạm Trọng Yêm gật đầu, thầm nghĩ Địch Thanh đều rõ đạo lý này, tại sao Hàn Kỳ không biết chứ? Chẳng lẽ, chí khí hùng tâm có lúc thật có thể choáng váng đầu óc. Hay là nói một chút kinh nghiệm giáo huấn, nhất định phải dùng máu tươi mới có thể ghi khắc?

Lão thần sắc có chút mệt mỏi:

- Ngươi nói hay đó. Kỳ thật tây bắc có vấn đề này, cả Đại Tống trong mắt ta, cũng là bệnh khó chữa đã lâu. Năm đó Thái Tông có chí lớn, cấm quân vẫn là căn cơ của Thái tổ, cũng đã từng ba đường tiến công Yến Vân, năm đường bao vây Lý Kế Thiên, nhưng kết quả điều là không ổn. Từ sau hiệp ước Thiền Uyên, lại gặp tinh thần Chân Tông, Thái hậu đương quyền, trong triều vẫn uể oải không phấn chấn, thuế má ngày một nặng, dân chúng nghèo khổ, quan viên dư giả, võ bị không tu. Đại Tống nội lo trùng trùng, trước mắt tuyệt không phải cơ hội xuất binh quy mô lớn.

Trầm lặng một lát, Phạm Trọng Yêm đột nhiên nói:

- Nhưng nếu xuất binh nhỏ, ngược lại còn có thể. Địch Thanh... thành Đại Thuận lúc xây dựng, nhiều lần chịu quân Hạ tấn công, ngươi có thể có cách ứng phó?

Địch Thanh đặt chén trà xuống nói:

- Quân Hạ xuất binh, phần lớn là binh xuất Hạ Lan Nguyên của Hoành Sơn, qua chợ Diệp đến công thành Đại Thuận, nếu không để bọn chúng xuất binh, chi bằng chúng ta giết qua.

Phạm Trọng Yêm vui mừng cười thầm nghĩ Địch Thanh quả nhiên can đảm cẩn trọng, lúc này cũng có thể vội và không loạn:

- Cách nghĩ của ngươi không khác với ta bao nhiêu. Để bọn chúng luôn đánh chúng ta, chi bằng để bọn chúng hoàn toàn không thể xuất binh. Chỉ là nghe nói Dã Lợi Ngộ Khất đã đến Hạ Lan Nguyên... lúc ngươi chủ động xuất binh phải cẩn thận.

Mấy tháng nay, lão sớm biết Địch Thanh dụng binh cẩn thận, lĩnh binh lại có thiên phú, báo cáo chiến lợi nhiều, vẫn không kiêu không nóng nảy, đáng để lão trọng dụng.

Địch Thanh gật đầu nói:

- Đúng vậy, căn cứ tin tức của mạt tướng, Thiên Đô Vương Dã Lợi Ngộ Khất đã đến chợ Diệp, hơn phân nửa là tìm cách tấn công thành Đại Thuận. Nhưng... ra tay trước thì chiếm được lợi thế, bọn mạt tướng cũng đang chuẩn bị đối phó lão!

Phạm Trọng Yêm trong mắt lóe sáng lên, mỉm cười nói:

- Các ngươi? Ngươi và Chủng Thế Hành sao?

Thấy Địch Thanh gật đầu, Phạm Trọng Yêm hỏi:

- Cửu vương thủ hạ của Nguyên Hạo, với Dã Lợi Vương, Thiên Đô Vương quyền thế lớn nhất. Hai người này trấn thủ Hoành Sơn, vẫn luôn là đại họa tâm phúc của chúng ta. Ta nghe nói Chủng Thế Hành từng lấy kế ly gián loại trừ Dã Lợi Vượng Vinh, không biết lần này, ông ta sẽ dùng cách gì để đối phó Dã Lợi Ngộ Khất đây?

Trong mắt Địch Thanh có ánh sáng của giảo hoạt, thấp giọng nói:

- Lần này... chúng ta cần dùng một cây đao để đối phó lão.

- Đao gì, sắc bén thế nào?

Phạm Trọng Yêm có phần tò mò.

Địch Thanh cười, từng chữ nói:

- Đao là đao tốt, tên đao Vô Diệt.

Chợ Diệp chỗ thành Bạch Báo, phía tây thành Kim Thang, gần Hoành Sơn, bắc nhìn ra Bạch Vu Sơn. Người Hạ mỗi lần tiến công Diên Châu, là từ Hạ Lang Nguyên Bạch Vu Sơn mà xuất, qua chợ Diệp, hoặc phân binh lên phía bắc đi cướp Thổ Môn, hoặc trực tiếp phía đông công đến quân Bảo An của Đại Tống.

Nếu nói thành Bạch Báo, thành Kim Thang là lưỡi dao sắc bén của người Hạ tiến công Đại Tống, vậy chợ Diệp chắc chắn chính là cán dao của lưỡi dao sắc bén.

Chợ Diệp vì có thành Bạch Báo, thành Kim Thang ở trước, lại kinh doanh nhiều năm, cực kỳ yên ổn phồn vinh. Nếu bàn về quy mô giao dịch, sớm vượt xa các tràng (thị trường giao dịch do các nước láng giềng nơi biên thùy xây dựng vào thời Tống, Liêu, Kim, Nguyên) của Đại Tống. Là sau khi Tây Hạ và Đại Tống giao binh, tuy các cuộc giao dịch đoạn tuyệt, nhưng chỗ này vẫn phồn vinh như trước, thu hút thương khách bốn phương lui tới.

Một con phố phồn hoa nhất của chợ Diệp, tên Diệp Lạc.

Người có thể buôn bán ở đây, có thể nói là suốt ngày đầu đao liếm máu, dũng mãnh phi thường. Nguyên Hạo thích võ, cũng không cấm người động võ giao dịch ở đây. Với những người ở con phố dài này chết đi, giống như lá rụng rất bình thường.

Tiếng vó ngựa nhanh như mưa rào, đạp phá sự phồn thịnh của đường Diệp Lạc, chỉ thấy chỗ cuối con đường dài, đột nhiên phi ra một đội kỵ binh. Tuy chỉ hơn mười người, nhưng thanh thế của đám ngựa bay nhanh, giống như ngàn quân.

Người mua bán hai bên đường thấy thế lần lượt tránh qua hai bên, mua bán đều không dám làm. Thấy thần sắc của bọn họ, cho dù là ban gặp quỷ cũng không có kinh hãi như vậy.

Đến không phải là quỷ, mà là Đoàn luyện Bảo -Vượng La của chợ Diệp.

Ai cũng biết gần đây Bảo Vượng La không vui, mấy tháng trước, Cốt Mị tam hùng lại cùng lúc mất mạng, chợ Diệp mấy lần xuất binh tấn công thành Đại Thuận đều hao binh tổn tướng.

Tất cả những không thuận lợi ấy đều vì một người, người đó tên gọi Địch Thanh.

Bảo Vượng La không sợ Địch Thanh, y thầm nghĩ tìm được Địch Thanh, thoải mái đánh một trận, vừa giải oán khí. Nhưng y thân là Đoàn luyện chợ Diệp, không thể bỏ đi nhẹ nhàng, chỉ có thể đem phẫn nộ đổ lên người bên cạnh.

Hơn mười thủ hạ theo sao Bảo Vượng La, sau chiến mã mỗi người đều kéo một người Tống. Những người đó bị kéo trên đường, sớm đã bị kiết sức, có mấy người đã lảo đảo ngã quỵ, chỉ cần hơi ngã xuống, thì không thể đứng lên được.

Dân chúng nhìn thấy đã quá quen thuộc.

Người Đảng Hạng mỗi lần gặp chiến bại hay là tức giận, sẽ chơi trò chơi này. Hào viết: “Giết quỷ chiêu hồn”, trong truyền thuyết, cách này có thể ma luyện dũng khí, phù hộ lần sau tác chiến thuận lợi.

Bảo Vượng La đi tới giữa con phố dài, rồi đột nhiên ghìm ngựa, hơn mười thủ hạ của y cũng lần lượt ghìm ngựa. Có mấy người Tống vẫn đang cố gắng đi vội, thế mã dừng lại, lập tức bị vứt ra ngoài, ngã mạnh trên nền đá xanh trên đường, va xuống đầu óc vỡ tung tóe.

Nhưng trong những người Tống đó, lại có một người giãy dụa đứng lên, liền muốn chạy thoát mạng, không ngờ tên bay tới, đâm xuyên qua lưng y, đính y lên tường đất.

Một chút máu đỏ tươi, theo tường đất chảy xuôi xuống, nhìn thấy rợn người. Bảo Vượng La cầm trong tay cung tên, hai tròng mắt đỏ bừng, thoạt nhìn vẫn không có giết qua cơn nghiện. Ánh mắt mãnh liệt quét qua, người hai bên con phố lần lượt cuối đầu, khóe miệng Bảo Vượng La mang nụ cười độc ác, nói:

- Ai nói thằng Địch Thanh ở đâu ta thưởng người đó một trăm hai mươi lượng, ai dám giúp Địch Thanh ta sẽ lấy mạng người đó.

 Chương 286 - 290: Khuấy động

Không ai trả lời, Bảo Vượng La không gọi nữa. Đối diện con phố dài chạy đến một con khoái mã, thấy hành trang là cách ăn mặc của lính Hạ, người đó hô lớn:

- Đoàn luyện đại nhân, Vương gia bảo ngài lập tức tới lầu Thông Hóa.

Chỗ này chỉ có một Vương gia, đó chính là Thiên Đô Vương Dã Lợi Ngộ Khất một trong Long bộ cửu vương.

Long bộ cửu vương, bát bộ chí cường, trời cũng không giới, núi thủ biên cương!

Trong ngũ quân quân Hạ, Thiết Diều Tử trong kỵ binh và quân Sơn Ngoa của Hoành Sơn là lợi hại nhất. Thiên Đô Dã Lợi Ngộ Khất lãnh quân Sơn Ngoa trấn thủ Hoành Sơn nhiều năm, cho dù Nguyên Hạo thấy rồi, đều nể mặt mấy phần. Bảo Vượng La lại kiêu ngạo, nghe được Dã Lợi Ngộ Khất gọi đến, cũng không dám chậm trễ, vội nói:

- Được, ta lập tức đi.

Lầu Thông Hóa là một tửu lầu lớn nhất chợ Diệp. Bảo Vượng La thầm nghĩ Dã Lợi Ngộ Khất tìm y tới đó, hơn phân nữa là muốn bàn bạc chuyện tấn công thành Đại Thuận.

Ngựa đã tới trước mặt Bảo Vượng La.

Bảo Vượng La đột nhiên có loại tim đập nhanh, cảm nhận được có chút không ổn, quát lên:

- Ngươi là ai?

Y đột nhiên phát hiện, binh sĩ đó chỉ là ăn mặc của binh Hạ bình thường ở chợ Diệp, không phải thân binh bên cạnh Dã Lợi Ngộ Khất.

Nếu thân binh bên cạnh Dã Lợi Ngộ Khất, sao lại bị phái đưa tin?

Kỵ sĩ lập tức thấp giọng nói:

- Đây là... lệnh bài của...Vương gia...

Y nói đứt quãng, giơ tay ra, trên lòng bàn tay là mặt lệnh bài kim quang lóng lánh.

Bảo Vượng La chăm chú nhìn, không hiểu đó là cái gì.

Trong lúc đó, một đường hàn quang từ cổ tay áo người đó đánh ra, bay thẳng tới cổ họng của Bảo Vượng La.

Mọi người hô to, không ngờ kỵ sĩ đó lại là thích khách. Tai họa sát nách, Bảo Vượng La trong tiếng kiêu la, cố gắng tránh qua bên trái. Thích khách đó ngầm đánh vội, nhưng Bảo Vượng La thân thủ thoăn thoắt, không ngờ tránh được một đòn tất sát này.

Nhưng ám khí thích khách mới ra, người đã bay lên trời, cánh tay vội vung lên, chỉ dựa lệnh bài kim quang lóng lánh trong tay, thì phá vỡ cổ họng của Bảo Vượng La.

Bảo Vượng La ngã lăn xuống ngựa, mắt giống như cá chết, trừng mắt nhìn mặt của thích khách. Y cho đến bây giờ, vẫn không hiểu người đó tại sao muốn giết y. Bảo Vượng La chỉ thấy được đối thủ mặt xám như tro tàn.

Người đó xoay người trong không trung, đã lập tức cưỡi lên của ngựa Bảo Vượng La, hét to:

- Kẻ giết người_Địch Thanh.

Con phố dài mọi người nghe thấy hai chữ “Địch Thanh” sợ hãi kêu lên.

Người đó trong tiếng hét to giục người chạy về phía trước. Một con vật cưỡi tuyệt trần, hộ vệ của Bảo Vượng La lúc này mới tỉnh táo lại, thúc ngựa nhanh chóng đuổi theo. Không ngờ phía trước chỗ con phố dài hai bên lao ra hai người, vượt qua đoạn gỗ lớn đụng tới.

Gỗ lớn cỡ khoảng cái chén ăn cơm, dài đến mấy trượng, bắt ngang qua chặn con phố dài.

Trong tiếng cuồng hô, con ngựa kêu thảm, lại bị gỗ lớn đó đánh gãy bốn chân, những hộ vệ đó tránh không kịp, lần lượt ngã xuống ngựa.

Một hộ vệ thân thủ không tệ vẫn xoay người đứng lên, thì thấy có một nắm tay cỡ bằng cái bát đánh tới. “bốp” một tiếng lớn vang lên, hộ vệ đó trong tiếng kiêu gào lại bị đánh một quyền đánh bay ra ngoài.

Hộ vệ đó bay trong không trung, máu tươi cuồn cuộn phun ra, chỉ thấy được một người nắm tay dính máu, khóe miệng cười, hạ giọng nói:

- Ta... chính là Địch Thanh.

Phố Lạc Diệp đã loạn. Lúc hộ vệ đó ngất đi vẫn nghĩ không ra, tại sao lại xuất hiện một Địch Thanh?

Bốn người cầm gỗ lớn liền giết mấy người, đã ngừng truy kích, lần lượt nghiêng mình tiến vào cửa hiệu lân cận, không biết tung tích. Lúc này trên con phố dài cảnh báo ngân dài, náo loạn bốn phía.

Lúc Thác Bạt Ma Kha bước nhanh ra phủ, chỉ nghe được kèn ngân dài, không biết xảy ra chuyện gì. Gã vốn là Giám sứ quân của ti quân Gia Ninh, phụng lệnh từ Hựu Châu qua Hoành Sơn tiến đến chợ Diệp, bất cứ lúc nào chuẩn bị tiến công thành Đại Thuận.

Dã Lợi Ngộ Khất vừa mới bảo người truyền lệnh, lệnh gã nhanh chóng tới lầu Thông Hóa.

Thất Bạt Ma Kha nghe Vương gia cho gọi, không dám chậm trễ, sớm lệnh thủ hạ chuẩn bị xe ngựa. Gã tới ngoài phủ, mười hai dũng sĩ bên cạnh đã chuẩn bị chờ lệnh, thần sắc nghiêm nghị.

Mười hai dũng sĩ đó giống như có cài tiêu thương, chỗ nào cũng ác liệt, trấn tĩnh.

Thá Bạt Ma Kha rất hài lòng, biết mười hai dũng sĩ này tới đâu, đều có tư cách lãnh quân. Gã có hộ vệ của những người này, có thể nói là không lo không nghĩ, bất cứ kẻ nào đánh bại những dũng sĩ này, xông tới trước mặt gã, đều phải trả cái giả đau đớn thê thảm. Cho dù có người xông qua phòng vệ của những dũng sĩ đó, cũng không ngăn được cái lều lớn mở núi của Thác Bạt Ma Kha.

Thác Bạt Ma Kha thân là Giám sứ quân, dũng lực vô địch, một cây búa lớn, cũng không biết muốn bao nhiêu tính mạng con người.

Chỗ xa xa, tiếng vang dài không dứt, dường như có địch đột kích. Lúc Thác Bạt Ma Kha tới trước ngựa, chau mày, thầm nghĩ Bảo Vượng La tọa thủ ở đây, xảy ra chuyện, sao không vội tới thông báo một tiếng?

Thác Bạt Ma Kha không có nghĩ nhiều, cho rằng đây là chợ Diệp, cho dù có địch, người cũng không quá nhiều. Bảo Vượng La nhất định cũng có thể làm được. Thác Bạt Ma Kha lên ngựa, dưới vây quanh của mười hai dũng sĩ, men theo con phố dài đi về hướng lầu Thông Hóa.

Con ngựa hí nhẹ, lúc Thác Bạt Ma Kha đang suy nghĩ dụng ý của Thiên Đô Vương, cảm thấy được gió nhẹ luồn qua, ngẩng đầu nhìn qua, thấy được trên cây có mấy phần lục ý.

Thì ra mùa xuân đã tới rồi.

Thác Bạt Ma Kha không nghĩ nữa, thì thấy trên cây cao đột nhiên nhẹ nhàng rơi xuống một chiếc lá rụng, che mặt trời, bay qua gã. Thác Bạ Ma Kha cả kinh, lập tức phát hiện, đây không phải là lá rụng, mà là một người.

Một người đang mặc áo xám.

Áo người đó màu sắc giống như cây khô, vẫn bám trên tàng cây, nếu là không để ý, chỉ cho đó là cành cây khô. Người đó trong nháy mắt xẹt qua hộ vệ của Thát Bạc Ma Kha, đã đến đỉnh đầu của Thác Bạt Ma Kha.

Thác Bạt Ma Kha kinh hãi, quát:

- Bắt lấy nó.

Mười hai dũng sĩ hô quát liên tục, lần lượt dũng mãnh xông tới Thát Bạc Ma Kha. Nhưng người đó từ trên không mà bay tới, vượt qua hộ vệ, mười hai dũng sĩ nhất thời không kiểm soát được.

Thác Bạt Ma Kha thấy người đó đã tới đỉnh đầu, giận quát lên một tiếng, vung búa bổ. Búa lớn rất nặng, trọng lượng khoảng chừng hai ba chục cân, một đầu búa này xuống, cho dù tảng đá đều có thể bị gã chém thành hai nửa.

Nhưng đao khó chém nước, búa lớn khó khắc nhu. Trong không trung người đó mãnh như chiếc lá, chỉ là rung nhẹ, đã đánh tới búa lớn. Tay vừa giơ lên, một cái lưới lớn đột nhiên mở ra, che trùm Thác Bạt Ma Kha vào trong lưới.

Thác Bạt Ma Kha trải qua trăm trận chiến, nhưng chưa bao giờ trải qua loại chiêu này, trong tiếng kêu to, đã bị lưới lớn trói buộc không thể động đậy. Lúc này hàn quang chợt lóe, một con dao găm đã thấu qua lưới, cắm trong lòng ngực Thác Bạt Ma Kha.

Thác Bạt Ma Kha hai mắt lồi ra, giận hét:

- Ngươi là ai?

Người đó đá rơi Thác Bạt Ma Kha, đứng trên lưng ngựa, lãnh đạm nói:

- Ta chính là Địch Thanh.

Còn chưa dứt lời, cổ tay người đó lật chuyển, một sợi dây thừng bay ra, cắm trên đầu thành. Y mượn lực dây thừng, thân hình bắn lên, đã lên thành cao. Dây thừng trong tay lại bay cuốn lấy cành cây, bay dựng lên, lay động xa.

Mười hai dũng sĩ cả kinh trợn mắt há hốc mồn, không tin trên đời còn có loại thân thủ này.

Thác Bạt Ma Kha chết, mười hai dũng sĩ không thể miễn trách, vừa nghĩ tới đây, các dũng sĩ kiên trì đuổi theo. Vừa mới qua đầu phố, thì thấy chỗ rẽ con hẽm xông tới hơn mười người. Mỗi người tay cầm thương ngắn, sắc bén buộc tới.

Mười hai dũng sĩ đó vội vàng không kịp chuẩn bị, lại bị lật ra một nữa. Hơn mười người hô một tiếng, lần lượt lui lại. Tay cầm thương ngắn những người đó không có đuổi theo, thân hình chớp động, đã ẩn thân bên trong ngõ, biến mất không thấy gì.

Không biết bao lâu, mới có dũng sĩ cả gan nhìn, trong ngõ sớm không có vết chân. Trên tường trắng con ngõ đó, dính mấy chữ máu tươi_kẻ giết người, Địch Thanh!

Kẻ giết người Địch Thanh! Địch Thanh đi tới Chợ Diệp!

Tin tức này như gió truyền đi, lôi đình như sấm, chỉ thời gian nữa ngày, đã truyền khắp chợ Diệp.

Địch Thanh uy chấn tây bắc, đại náo Phủ Hưng Khánh, thậm chí giết Ngọc Môn Quan, người Hạ không thể làm gì được hắn.

Địch Thanh hiệp công thành Bạch Báo, giết Cốt Mị tam hùng, vung đao trước thành Kim Thang, nhưng không ai dám ra thành nghênh chiến.

Địch Thanh thủ thành Đại Thuận, mấy tháng đánh năm trận, chém bảy thướng, đại phá quân địch chợ Diệp.

Mấy ngày nay cái tên Địch Thanh sớm truyền khắp tây bắc, như mặt trời ban trưa.

Quân Hạ đại thắng Tam Xuyên Khẩu, cũng không thể che hết hào quang của hai chữ Địch Thanh.

Cái tên Địch Thanh này trong suy nghĩ người Tây Hạ, đã càng ngày càng nặng nề, càng ngày càng thần bí. Ai đều nghe nói qua Địch Thanh, nhưng thấy Địch Thanh lại càng thêm ít. Có người nói hắn cây ngọc đón gió, có người nói hắn mặt mũi hung tợn, có người nói thân thể hắn cao hơn một trượng... bản thể của mỗi người nói đều không giống nhau.

Mà bản thể Địch Thanh truyền đến trước mặt Dã Lợi Ngộ Khất, cũng có hơn bốn cái.

Đã hoàng hôn, Dã Lợi Ngộ Khất đang ở lầu Thông Hóa.

Dã Lợi Ngộ Khất quả thật truyền lệnh bảo các quân tướng chợ Diệp nhanh tới. Nhưng sau một hồi truyền lệnh, trong bảy người gọi tới, không ngờ chỉ có ba người chạy tới.

Không nghe hiệu lệnh của Thiên Đô Vương, hậu quả chỉ có một, đó chính là chết.

Nhưng bốn người không nghe hiệu lệnh đó rõ ràng đã không cần sợ hãi. Lại qua một canh giờ, bọn họ được khiêng vào, bốn người đã chết.

Trong mắt mỗi người đều là vẻ mặt sợ hãi khó có thể tin, đương nhiên là không tin có người giết bọn họ ở chợ Diệp.

Trong thi thể có Đoàn Luyện Bảo Vượng La, có Giám quân sứ Thác Bạt Ma Kha của quân ti Gia Ninh, hai người khác, quần áo sang trọng quý phái, hiển nhiên cũng là người của chợ Diệp.

Dã Lợi Ngộ Khất ngồi ở địa vị cao, lạnh lùng nhìn bốn thi thể đó hỏi:

- Giáo luyện sứ, ngươi có tra ra hung thủ là ai?

Dã Lợi Ngộ Khất cái trán c vút, hai tròng mắt hãm sâu, cái mũi xương gò má cao ngất lên, cả khuôn mặt đều như núi, có đỉnh có khe, rất là kỳ quái.

Nhưng không có ai dám cười lão, thậm chí không có ai dám liếc nhìn lão. Tất cả mọi người đều biết, Dã Lợi Ngộ Khất bản tính tàn bạo, từ sau khi Dã Lợi Vượng Vinh chết, lão càng âm u lạnh lẽo vô cùng. Nếu có ai dám chọc giận Dã Lợi Ngộ Khất, nói không chừng sẽ gặp phải họa sát thân.

Dã Lợi Ngộ Khất hỏi chính là một người Phiên bên tay trái lão. Người Phiên đó thân hình dũng mãnh, sắc mặt vàng như nến, nghe vậy vâng vâng dạ dạ nói:

- Ty chức đã tra ra, hung thủ... hình như là Địch Thanh.

- Hình như?

Dã Lợi Ngộ Khất mỉm cười, thản nhiên hỏi:

- Ngươi hình như cũng sắp chết rồi?

Trời đã lạnh, Giáo luyện sứ đó mồ hôi không ngừng chảy xuống, run giọng nói:

- Hung thủ chính là Địch Thanh!

Dã Lợi Khất thở dài nói:

- Ta nghe nói, bốn người này hình như cùng chết một thời gian, có phía đông, có phía tây chợ Diệp. Địch Thanh lợi hại như vậy, lại phân thân bốn chỗ giết người sao?

Giáo luyện sứ lau mồ hôi nói:

- Vậy thì không phải Địch Thanh rồi.

Dã Lợi Ngộ Khất giọng mỉa mai cười nói:

- Ta là bảo ngươi bắt trộm hay là bảo ngươi ở đây đóan mò? Ngươi mệt rồi, nên nghỉ ngơi một chút. Tô Cật Nẵng.... đem Giáo sứ luyện ra chém.

Lời nói vừa rơi xuống, một người từ sau lưng Dã Lợi Ngô Khất lách người ra, bắt trói Giáo luyện sứ.

Người đó đứng ra mặt như đao gọt, trên người mặc quần áo đen cực kỳ thích hợp, nổi bật trên người như trường thương thẳng lên. Mọi người đều nhận được, người này chính là Tô Cật Nẵng thị vệ thân cận của Dã Lợi Ngộ Khất.

Giáo luyện sứ cũng xem như khôi ngô, cũng không biết là sợ hãi, vẫn hoàn toàn không thể cản lại được. Nhưng lại bị Tô Cật Nẵng bắt trói như con gà.

Lúc Giáo luyện sứ bị bắt ra ngoài, kêu thảm thiết nói:

- Vương gia, ty chức oan uổng. Chỉ xin ngài cho thêm cơ hội.

Dã Lợi Nộ Khất không nói, không ai dám nói, chỉ sợ rước họa vào thân.

Một lát sau, Tô Cật Nẵng đã bưng cái khay vào hành lang nói:

- Vương gia, xin kiểm tra.

Trên bàn có một cái đầu người dính toàn máu, chính là đầu của Giáo luyện sứ.

Mọi người đang nghĩ, vừa lúc này là một người vẫn còn sống, trong nháy mắt chỉ còn một cái đầu, không khỏi trong dạ dày buồn nôn. Nhưng trước mặt Dã Lợi Ngộ Khất, bọn họ nào dám nôn ra?

Dã Lợi Ngộ Khất nhìn đầu người đó, đột nhiên chỉ vào một người cách đó không xa nói:

- Ngươi bây giờ chức quan gì?

Người bị chỉ đó giọng hơi run nói:

- Ty chức là Tùng cấm trong quân, chức vị Giáo luyện sứ dưới Giám sứ quân, Tùng cấm thấp bậc hơn Gio luyện sứ.

Dã Lợi Ngộ Khất thản nhiên nói:

- Bây giờ ngươi chính là Giáo luyện sứ chợ Diệp, phụ trách tập nã kẻ ác. Đi đi.

Thị cấm đó vừa mừng vừa sợ, mừng là bỗng dưng được đề bạt, sợ là nếu không tìm ra kẻ ác, kết cuộc có phải cũng sẽ giống như Giáo luyện sứ lúc nãy. Nhưng lúc này không có lựa chọn con đường sống. Thị cấm đó chạy như bay xuống lầu, hô quát người ngựa, bắt đầu dốc sức lục soát chợ Diệp.

Dã Lợi Ngộ Khất nâng chén rượu lên nói:

- Nào, uống rượu.

Chỗ lão hạ tay xuống, chỉ đang ngồi ba người, mỗi người vẻ mặt xám xịt, đều giơ chén rượu lên nói:

- Tạ Vương gia.

Sau khi Dã Lợi Ngộ Khất uống chén rượi xong, hỏi:

- Bên phía Pha siêu thứ sử, Quần mục ti có tin tức gì không?

Quần mục ti người Hạ chủ yếu phụ trách cung cấp ngựa. Pha diêu thứ sử thân ở Quần mục ti, bây giờ phụ trách chuyện điều phối chiến mã.

Pha diêu thứ sử dáng người hơi thấp, màu da ngăm đen, nghe vậy đứng lên nói:

- Vương gia, sau khi mặt trời lặn, sẽ có hai ngàn chiến mã đưa tới chợ Diệp.

Dã Lợi Ngộ Khất gật đầu, hỏi:

- Đô áp nha, binh lực của Các Lưu phân phái thế nào?

Đô áp nha nước Hạ và Đô giám binh mã của Đại Tống đều chức trách như nhau, chủ yếu phụ trách tụ tập binh.

Đô áp nha thần sắc lạnh lùng như băng, trầm giọng nói:

- Quân lệnh đã truyền, ngày mai phải tề tựu hơn mười ngàn binh mã.

Tây Hạ toàn dân giai binh, địa phương xuất binh, đều do thủ lĩnh bộ tộc của địa phương đến chỉ huy. Một binh sĩ của bộ tộc thì gọi là nhất Lưu. Quân lệnh vừa hạ, các bộ lạc phải hưởng ứng, nếu không theo, sẽ có trọng phạt.

Kể từ đó, người Hạ phụ trách tương đối nhẹ hơn so với triều Tống, tốc độ rối rắm binh lực càng hơn hẳn triều Tống.

Dã Lợi Ngộ Khất nghe Đô áp nha hồi báo lưu lóat, hài lòng gật đầu nói:

- Các ngươi cực khổ rồi.

Hai người đó cùng kêu lên:

- Bổn phận của ty chức.

Dã Lợi Ngộ Khất thản nhiên nói:

- Nhưng có những người ngay cả bổn phận cũng không làm được.

Lão liếc xéo thủ hạ thứ ba, nhẹ nhàng hỏi:

- Phiên lạc sử, ngựa đã chuyển đủ, người đã tề tụ. Không biết ngươi có chuẩn bị tất thắng không?

Phiên lạc sử kinh ngạc nói:

- Vương gia, lúc này Địch Thanh làm loạn chợ Diệp, chúng ta thật sự xuất binh tấn công thành Đại Thuận sao?

Phiên lạc sử lại là thủ lĩnh của các bộ lạc liên hợp. Người Khương nhiều bộ phận, thống lĩnh điều khiển khó khăn. Sau khi Nguyên Hạo lập quốc, các nơi yếu hại của biên giới nước Hạ thiết lập mười hai Giám quân ti, do Đô thống quân trấn thủ. Dưới Đô thống quân, lại có Phiên lạc sử, Đô áp nha phụ trách chỉ huy triệu tập quân mã các bộ, cung cấp người Hạ xuất binh nhanh nhất.

Trận chiến Tam Xuyên Khẩu năm đó, Nguyên Hạo có thể nhanh chóng tập kết một trăm năm mươi ngàn kỵ binh xâm lấn Đại Tống, chính là từ loại sách lược điều binh này.

Phiên lạc sử này vốn tên là Thác Bạt Thủ Hiện, đã là thống lĩnh cao nhất lân cận chợ Diệp.

Dã Lợi Ngộ Khất nói:

- Ngươi có biết Địch Thanh tại sao gây loạn ở chợ Diệp không?

Thác Bạt Thủ Hiện lắc đầu nói:

- Hạ quan không biết.

Dã Lợi Ngộ Khất cười lạnh nói:

- Phạm Trọng Yêm dựng lên thành Đại Thuận, đã cắm đao tới cảnh Hạ. Biên phòng tây bắc triều Tống hỗn độn, khó có thể tụ tập đại quân. Do vậy thành Đại Thuận nhiều nhất cũng chỉ hai ngàn người đang thủ. Phạm Trọng Yêm biết ta tuyệt đối không thể dễ dàng cho một tòa thành như vậy lập lên ở trước mặt, cũng biết ta nhất định muốn xuất binh quy mô lớn. Lão biết rõ thành Đại Thuận kiên thủ khó khăn, lúc này mới bảo Địch Thanh qua quấy loạn, mục đích của bọn chúng chính là không muốn chúng ta xuất binh. Nếu đã như vậy, chúng ta phải lập tức xuất binh.

Thác Bạt Thủ Hiện vừa sợ vừa khâm phục nói:

- Vương gia tâm trí phi phàm, nghĩ Phạm Trọng Yêm đó là tuyệt đối kém xa. Hạ quan... tuy không có nắm chắc phần thắng, nhưng tuyệt sẽ không phụ lòng dầy vọng của Vương gia.

Dã Lợi Ngộ Khất hừ lạnh, nhìn chén rượu trầm ngâm không nói, trong lòng thầm nghĩ:

- Đại ca chiến loạn bị giết, nguyên soái gần đây đối với ta rất lạnh nhạt, chỉ sợ có lòng nghi ngờ ta. Lần này ta mang binh tấn công thành Đại Thuận, nhất định phải thành công, bằng không....

Bằng không thế nào, lão đã không dám nói ra.

Dã Lợi Ngộ Khất không nói, mọi người càng không dám nói nhiều.

Đêm đã tới, tửu hàn phong lạnh.

Đèn hoa thắp lên. Từ trên lầu Thông Hóa nhìn qua, chỉ thấy con phố dài ngọn đèn như sao. Nhưng dưới ánh sáng này, lại là yên lặng như chết.

Hôm nay chợ Diệp giết người nổi lên bốn phía, cho dù thương nhân muốn mua bán, đều sớm đã về trong tòa nhà đóng cửa không ra ngoài.

Thác Bạt Thủ Hiện sau khi tới lầu Thông Hóa, hơi thở cũng không dám thở nhiều, chỉ uống mấy chén rượu lạnh, vừa lạnh vừa đói, cẩn thận nói:

- Vương gia, đêm đã khuya rồi, chuyện bắt Địch Thanh, tự có bọn họ phụ trách. Vương gia vất vả cả ngày, cũng nên sớm nghỉ ngơi một chút. Chẳng may...

Y thấy Dã Lợi Ngộ Khất sắc mặt không tốt, cuối cùng không dám nói tiếp.

Dã Lợi Ngộ Khất hai mắt liếc xéo:

- Chẳng may thì sao?

Thác Bạt Thủ Hiện cả gan nói:

- Địch Thanh tiến đến ám sát, Vương gia thân thể ngàn vàng, làm sao không cẩn thận đề phòng?

- To gan!

Tô Cật Nẵng quát:

- Vương gia sao sợ Địch Thanh? Vương gia lúc này, chính là muốn để người của chợ Diệp thấy Địch Thanh chỉ là con chuột nhát gan.

Thát Bạt Thủ Hiện trong lòng bất mãn, thầm nghĩ:

- Ngươi chẳng qua chỉ là cận vệ bên cạnh Vương gia, sao có thể to tiếng hô hào với ta?

Thấy Dã Lợi Ngộ Khất không nói gì, Thác Bạt Thủ Hiện trong lòng sợ hãi, cười trừ nói:

- Hạ quan hiểu rồi, thì ra Vương gia bây giờ chính là muốn đợi Địch Thanh đến! Nếu hắn không đến, chỉ là một con chuột nhát gan. Nếu hắn đến còn có thể thoát khỏi lòng bàn tay của Vương gia sao?

Y càng nghĩ càng đúng, chính mình cũng có chút khâm phục mình.

Dã Lợi Ngộ Khất đột nhiên nói:

- Ta đói rồi...

Thác Bạt Thủ Hiện bỗng sửng sốt, nửa hồi sau cũng không biết trả lời thế nào. Dạ Lợi Ngộ Khất nói:

- Ngươi thông minh như vậy, chẳng lẽ không biết đói bụng thì phải ăn cơm sao?

Thác Bạt Thủ Hiện cuối cùng tỉnh ngộ lại, vội hô:

- Mau đem rượu thức ăn đến, Vương gia đói rồi.

Còn chưa dứt lời, trên bậc thang đã có tiếng bước chân vang lên, Thác Bạt Thủ Hiện thầm nghĩ:

- Sao thức ăn làm xong nhanh như vậy.

Tô Cật Nẵng sắc mặt thay đổi, đã lắc mình tới trước người của Dã Lợi Ngộ Khất, thần sắc đề phòng, có người chưa thông bẩm đã lên lầu.

Nghe tiếng bước chân người đến, chậm từ từ, tuyệt không phải là thị vệ, thị vệ sao dám thất lễ như vậy. Nhưng nếu không phải là thị vệ, vào chẳng lẽ là thích khách?

Nhưng nếu là thích khách, sao có thể đi không chút hoang mang?

Tô Cật Nẵng nghĩ mãi không rõ, tay ấn chuôi kiếm, mặt lộ sát khí. Bất kể người đến là ai, gã đều bảo vệ Thiên Đô Vương là quan trọng.

Mọi người thấy Tô Cật Nẵng khẩn trương, không khỏi biến sắc hoảng sợ, đều đứng lên.

Chỉ có Dã Lợi Ngộ Khất thần sắc không thay đổi, chậm rãi nói:

- Lui ra.

Tô Cật Nẵng hơi ngạc nhiên, nhưng không dám phạm ý của Thiên Đô Vương, lắc mình tới một bên, vẫn toàn thân quán lực, như hổ rình mồi.

Đầu bậc thang, cuối cùng hiện ra một người.

Người đó dáng người không cao không lùn, không mập không gầy, quần áo đơn giản không đến nỗi keo kiệt. Hàn xuân se lạnh, người đó lại chỉ mặc chiếc áo dài, sắc mặt y hồng hào, khóe miệng cười như không. Làm người ta kỳ quái nhất là, gương mặt của y rất trẻ, nhưng đôi mắt đã rất tang thương. Người này đang đứng ở đó, nhưng không ai có thể nhận ra tuổi của y.

Tô Cật Nẵng tay buông kiếm thủ, lui lại nửa bước, trong mắt lại lộ ra phần ý hoảng sợ. Vừa lúc nãy gã giết người lấy thủ cấp, mí mắt cũng không nháy một chút, nhưng thấy người bình thản này, không biết tại sao, tay đều có chút run.

Người bình thản đó liếc xéo Tô Cật Nẵng, khóe miệng vẫn nở nụ cười, nhìn về Dã Lợi Ngộ Khất nói:

- Ta đến rồi.

Dã Lợi Ngộ Khất nắm chén rượu, cau mày nói:

- Ngươi đến làm gì?

Người đó mỉm cười nói:

- Ta đến nói cho ngài biết mấy chuyện.

Dã Lợi Ngộ Khất mặt giống như núi non, bắt đầu biến ảo lưu động, giống như bị tầng mây bao trùm, làm cho người ta nhìn không ra tâm ý.

Người đó vẫn mỉm cười, đang lẳng lặng chờ Dã Lợi Ngộ Khất đáp lời.

Dã Lợi Ngộ Khất trong mắt mang phần cảnh giác, mở miệng nói:

- Mời ngồi.

Lão ở trong lầu Thông Hóa, cuối cùng nói từ “mời” nhưng nhìn biểu hiện của lão, cảm giác không tự nhiên, người này đáng được lão dùng từ mời.

Người đó cũng không nhún nhường, mỉm cười ngồi xuống nói:

- Có rượu không có đồ ăn, không tính là chủ nhân tốt.

Dã Lợi Ngộ Khất vỗ bàn, quát:

- Đồ ăn đâu rồi, sao còn không mang lên?

Rượu và thức ăn đều nhanh chóng mang lên, lại không có ai động đũa. Người đó nhìn rượu và thức ăn, đột nhiên quay đầu nói với Tô Cật Nẵng:

- Sao ngươi sợ ta?

Tô Cật Nẵng sắc mặt tái nhợt, cười lớn nói:

- Bàn Nhược Vương nói đùa rồi, ty chức không phải sợ ngài, chỉ là kính ngài.

Người đó mỉm cười, không nói nữa. Phiên diệu thứ sử và Đô áp nha đều giật mình, không ngờ người mang nụ cười bình thản đó lại cũng là một trong Long bộ cửu vương.

Người đến chính là Bàn Nhược Vương!

Long bộ cửu vương, bát bộ chí cường, Bàn Nhược ngộ đạo, trí tuệ vô song!

Bàn Nhược vốn tiếng Phạm, ý là trí tuệ.

Mọi người đương nhiên đều nghe qua đại danh Bàn Nhược Vương, nhưng rất ít người thấy Bàn Nhược Vương, người này vốn ít hoạt động ở biên thùy. Nghe nói Bàn Nhược Vương luôn không ra khỏi học viện Phiên, lần này sao cũng tới chợ Diệp?

Cái này cũng khó trách Dã Lợi Ngộ Khất nói từ mời.

Tô Cật Nẵng thấy Bàn Nhược Vương không nói, dường như cũng nhẹ nhàng thở ra.

Dã Lợi Ngộ Khất biết gần đây trong Long bộ cửu vương, Bồ Đề Vương bị Địch Thanh giết chết, Dã Lợi Vương tự sát, Long Dã Vương chết ở trận Tam Xuyên Khẩu. Nếu nói là trước kia, gần nhất với Nguyên Hạo đương nhiên là hai huynh đệ Dã Lợi. Từ sau khi Dã Lợi Vượng Vinh chết, Dã Lợi Ngộ Khất biết Nguyên Hạo không thể khăng khít thân mật với Dã Lợi gia nữa.

Lúc này đi gần nhất với Nguyên Hạo lại là Bàn Nhược Vương này.

Dã Lợi Ngộ Khất mỗi lần nghĩ đến đây, trong lòng đều không thoải mái. Thấy Bàn Nhược Vương giống như ngồi thiền, Dã Lợi Ngộ Khất cuối cùng không kìm được hỏi:

- Ngươi nói tới đây, muốn nói cho ta biết mấy chuyện?

Bàn Nhược Vương nụ cười không giảm:

- Địch Thanh đại náo Chợ Diệp, giết mấy người lãnh quân chúng ta. Thiên Đô Vương đương nhiên phẫn nộ, đã nghĩ ôm cây đợi thỏ, xem xem Địch Thanh có gan tới giết ngài không. Vương gia hùng phong không giảm, thật đáng mừng.

Dã Lợi Ngộ Khất mặt trầm như nước:

- Vậy theo ngươi nghĩ, Địch Thanh dám đến không?

Bàn Nhược Vương mỉm cưới:

- Hắn hình như trước giờ không có chuyện không dám. Theo bọn ta đoán, lúc trước thích khách từ xà ngang điện Thiên Hòa nhảy xuống đó chính là Địch Thanh. Ngài nghĩ hắn ngay cả Đế Thích Thiên cũng dám ám sát, trên đời này còn có chuyện y không dám không?

Đây vốn là câu nói bình thường, Dã Lợi Ngộ Khất nghe vậy, ánh mắt bắt đầu híp lại, suy nghĩ thâm ý trong đó. Phản loạn điện Thiên Hòa lúc trước, người cầm đầu chính là huynh trưởng của Dã Lợi Ngộ Khất. Bàn Nhược Vương nhắc lại chuyện cũ, là tại sao?

Dã Lợi Ngộ Khất tâm tư bay lộn, vẫn có thể bình tĩnh nói:

- Nếu hắn dám đến, không biết lúc khi nào đến?

Bàn Nhược Vương híp mí liếc tròng mắt, đột nhiên nhìn qua tiểu nhị bưng thức ăn đến, từng chữ nói:

- Bây giờ!

Dã Lợi Ngộ Khất đã thay đổi sắc mặt.

Lầu Thông Hóa sát khí nổi lên.

Mọi người bị đối thoại của hai Vương gia thu hút, đều hiểu rõ Bàn Nhược Vương tới chỗ này, tuyệt không phải để tán ngẫu. Nhưng ai cũng không ngờ, còn có người dám ra tay trước mặt hai Long bộ nhị vương.

Xuất thủ là tiểu nhị bưng thức ăn đó.

Tiểu nhị bưng một cái khay, trên mặt thủ sẵn một cái nắp bằng bạc sáng loáng, bên trong cũng không biết là cá chưng hay là gà luộc. Thiên Đô Vương muốn dọn thức ăn lên, ông chủ lầu Thông Hóa đương nhiên không ngừng dọn lên, có những món hoàn toàn cũng chưa động đũa, đã nguyên thế bưng xuống.

Đồ của Vương gia ăn, đương nhiên không thể lạnh, bởi vì có tiểu nhị lặng lẽ đổi thức ăn, dường như cũng là chuyện bình thường.

Nhưng chínhh là tiểu nhị bình thường này, bỗng nhiên xốc cái khay đậy, lấy ra đoản đao. Ánh đao lóe sáng, đã áp tới bốn vách tường ánh sáng biến màu.

Tiểu nhị đó nhất định là Địch Thanh.

Tất cả mọi người đều cho là như vậy, chỉ có Địch Thanh mới có gan lẫn vào chỗ này, chỉ có Địch Thanh mới dám cầm đao lúc này. Tất cả mọi người đều cho rằng Địch Thanh muốn giết chính là Thiên Đô Vương Dã Lợi Ngộ Khất.

Nhưng trong nháy mắt, mọi người chấn động, thích khách ra tay một đao lại đâm về hướng cổ họng Bàn Nhược Vương.

Đoản đao độc vũ, đao ý ngang dọc.

Thích khách muốn giết Bàn Nhược Vương!

Ánh đao làm Dã Lợi Ngộ Khất trên mặt biến sắc, trong ánh mắt lão có ý hoảng sợ. Người đó không giết lão, lão nên vui mừng mới phải, lão hoảng sợ là vì cái gì?

Bàn Nhược Vương vẫn tươi cười, chỗ cổ y đột nhiên có thêm một ly rượu, ly rượu đó vốn ở trên bàn, y vừa giơ tay lấy ly rượu chặn giữa chỗ cổ họng.

Đoản đao đâm lên chén rượu, “đinh” một tiếng vang lên, chén rượu nứt ra làm bốn. Thế đao hơi đột ngột, mảnh sứ vỡ vụn không đợi rơi xuống. Đột nhiên tia chớp hiện ra, thẳng tới giữa cổ thích khách. Thích khách đó ra tay bất thình lình, nhưng Bàn Nhược Vương phản đòn lại sắc bén.

Trong giây lát, thích khách đó đã lẩn trong đám đông hỗn loạn. Nếu y lui, bốn phía bao vây, lúc đó thị vệ trên lầu xuất thủ với thích khách, đột nhiên xông lại. Nếu y vào, phải trúng mảnh vỡ đó trước, mảnh vỡ như đao, sắc bén vô cùng.

Thích khách đột nhiên ngã ngửa, một cước đá lên bàn, bàn đột nhiên dựng lên, không những chặn mảnh sứ vỡ, còn nện tới đầu Bàn Nhược Vương. Bát đũa trên bàn đều bay lên, gào thét, không thua gì lưỡi phi đao sắc bén.

Dã Lợi Ngộ Khất thân hình vừa tung, đã lên không trung. Lão người trong không trung, chỉ nghe thấy “chát” một tiếng vang lên, thì thấy đoản đao bay xuyên mặt bàn, vẫn là lấy cổ họng của Bàn Nhược Vương.

Lúc thích khách đá bay cái bàn, đoản đao rơi khỏi tay bay ra, đâm rách mặt bàn, vẫn muốn chặn giết Bàn Nhược Vương.

Bàn Nhược Vương nụ cười cứng đờ, đột nhiên lộn một vòng ra ngoài. Đoản đao đó gần như mài sát khuôn mặt của y, đâm vào trụ xà của tửu lầu. Mũi đao lạnh lùng nghiêm nghị, đã thổi trúng khắp cả người y phát lạnh.

Trên lầu động tác mau lẹ, tất cả chỉ trong chớp mắt.

Dã Lợi Ngộ Khất thấy Bàn Nhược Vương tránh một đao đó, quát:

- Bắt lấy nó.

Lão đã thoáng nhìn thấy thích khách vội xông ra, thì muốn chạy xuống lầu. Trong không trung lão xoay một cái bay xuống dưới.

Một kích không trúng, lúc cầu toàn thân để lui, thích khách đó quả quyết bỏ đi, không tiếp tục ở lại nữa.

Pha diêu thứ sử đang thủ ở hướng thích khách chạy trốn, rút đao ra quát:

- Đi…

Gã chưa nói từ “đâu”, đơn đao đã tới tay thích khách. Ánh đao lóe lên, hơi vượt qua v ngã xuống đất. Anh đao lại lóe lên, bay khỏi tay, hướng ra không trung chém tới Dã Lợi Ngộ Khất.

Dã Lợi Ngộ Khất rùng mình, lắc mình tránh né, không đợi đuổi nữa, thì nghe thấy một tiếng “ầm” lớn ở tửu lầu vang lên. Ánh lửa nổi lên bốn phía, khói đặc cuồn cuộn, mọi người đều kinh sợ, đã phát hiện lầu Thông Hóa lung lay sắp đổ.

Lại một tiếng vang lên, mãnh vỡ bay tứ tung, lầu Thông Hóa không ngờ đổ xuống.

Mọi người hô to gọi nhỏ, đã không quan tâm tới bắt thích khách nữa, đều ùa nhau xuống lầu. Tên Đô áp nha và mấy thị vệ trốn không kịp, kêu gào thê thảm, lại bị chôn trong lầu.

Lúc Dã Lợi Ngộ Khất rơi xuống lầu, khóe mắt nhảy lên, chóp mũi đã có mồ hôi lạnh.

Trận ám sát này tới đột ngột, đi đột ngột trong cát bụi cuồn cuộn. Thị vệ canh giữ ngoài lầu nháo nhào bao vây, trong nhất thời cây đuốc như rừng, chiếu sáng khiến ngoài lầu giống như ban ngày.

Trong lúc mọi người kinh hãi thấy Vương gia không sao, đều thở phào một cái. Có một người xông lại hỏi:

- Vương gia không việc gì chứ?

Người đó cũng là thị vệ bên cạnh của Dã Lợi Ngộ Khất, chỉ muốn lấy lòng Dã Lợi Ngộ Khất, không ngờ Dã Lợi Ngộ Khất bỗng nhiên rút đao ở thắt lưng của y.

Người đó ngẩn ra, không đợi nói thêm, chỉ thấy ánh đao lóe lên sáng ngời, thì đã ngã xuống. Người đó lúc sắp chết cũng không hiểu sao chọc giận Vương gia.

Đơn đao dính máu, trời không trăng, đêm đen gió lớn.

Sau khi Dã Lợi Ngộ Khất giết một người, trong mắt hoảng sợ càng tăng. Ai cũng nhận ra trong ánh mắt lão có hoảng sợ, thích khách đã đi lão sợ cái gì?

Mọi người sợ hãi, một người mỉm cười nói:

- Chiêu là chiêu nhanh, đao là đao tốt, nhưng vẫn không bằng Vô Diệt đao của nguyên soái ban tặng.

Người lúc này còn có thể bật cười chỉ có một người, chính là Bàn Nhược Vương bình phàm. Bàn Nhược Vương trong tay đang cầm cây đao, ánh đao bất diệt, trong ánh lửa sáng đêm tối, rạng rỡ sáng lên.

Đao là bảo đao, cũng là đao của thích khách sử dụng.

Bàn Nhược Vương vẫn đang cười, hình như thích khách muốn giết không phải là y, mà là người bên cạnh. Ở đây y không nên cười, nhưng y dường như y cười vui vẻ nhất.

Dã Lợi Ngộ Khất mí mắt có chút nhảy lên, nhìn chằm chằm cây đao trong tay Bàn Nhược Vương, lại bắt đầu im lặng.

Bàn Nhược Vương chậm rãi nói:

- A Na Luật, bản ý bất diệt, A Na Luật, cũng là đệ tử của Thích Già Ma Ni. Người này vốn là họ hàng tôn thích, sau khi theo Phật, gác đêm cho Phật, đến nỗi hai mắt mù, lại được thích tôn coi trọng, tu tới thiên nhãn thần thông.

Y lúc đó, đột nhiên nhắc đến một đoạn điển cổ của Phật Giáo, người bên ngoài có chút kỳ quái. Dã Lợi Ngộ Khất sắc mặt từ từ bình tĩnh, chỉ nhìn chuôi đao trên tay mình. Trên thân đao máu tuôi đã nhỏ giọt, thân đao ánh sáng màu ảm đạm, đây chỉ là khoái đao, không phải đao tốt.

Đao tốt giết người không để lại máu...

- Thiên Đô Vương trấn thủ Hoành Sơn nhiều năm, cẩn trọng. Nếu bàn về vất vả cần cù có thể so với A Na Luật. Là bảo đao Vô Diệt nguyên soái tặng Thiên Đô Vương, bảo đao chém sắt như chém bùn. Lại là nguyên soái ban tặng, Thiên Đô Vương xưa nay đều yêu quý giữ gìn, người bên cạnh không dễ dàng nhìn thấy...

Bàn Nhược Vương chậm rãi nói, mọi người đều là nghe lấy làm lạ. Không hiểu tại sao Bàn Nhược Vương không quan tâm thích khách chỉ quan tâm cây bảo đao. Bàn Nhược Vương vẫn đang cười, nhưng nụ cười trong bóng đêm dày đặc, ít nhiều mang mấy phần lạnh của đầu xuân:

- Ta rất lấy làm lạ, một thanh đao Vô Diệt quý giá như vậy, sao có thể trong tay của thích khách?

Mọi người sắc mặt đều thay đổi, lại nhìn đao của Bàn Nhược Vương, vẻ mặt mỗi người không giống nhau.

Hóa ra thích khách cầm chính là đao Vô Diệt.

Thích khách cầm đao Vô Diệt của Dã Lợi Ngộ Khất tới lầu Thông Hóa, muốn giết lại là Bàn Nhược Vương, thâm ý trong này làm người ta nghe đều kinh hãi.

Bàn Nhược Vương tiếp tục nói:

- Từ sau khi Dã Lợi Vương chết, Thiên Đô Vương hình như ít trở về phủ Hưng Khánh, hàng năm thường lui tới cảnh Tống, rất lâu không về. Người biết đều hiểu rõ Thiên Đô Vương là tận trung vì nước, nhưng không biết nhìn thấy rồi, khó tránh khỏi sẽ nhớ. Thiên Đô Vương liệu có bất mãn chuyện Ngột Tốt ban chết cho huynh đệ của ngài ấy không, muốn liên hệ người Tống tạo phản?

Dã Lợi Ngộ Khất vẫn không nói, mọi người thấy rồi, đều là trong lòng nghiêm nghị. Thầm nghĩ Thiên Đô Vương tính tình độc ác, tính cách táo bạo mãnh liệt, bây giờ trầm lặng như vậy, chẳng lẽ nói thích khách đó chính là lão phái tới?

Bàn Nhược Vương lại cười nói:

- Theo lý mà nói, hôm nay chợ Diệp sát khí nổi lên khắp nơi, mục tiêu kế tiếp của Địch Thanh rất đơn giản. Đó chính là ám sát Thiên Đô Vương, hoàn toàn cắt đứt ý định quân Hạ xuất binh tấn công thành Đại Thuận. Nhưng kỳ lạ là... người y muốn giết không phải là Thiên Đô Vương, mà là ta.

Dã Lợi Ngộ Khất mở miệng nói:

- Y không nhất định là Địch Thanh, y cho dù là ra tay với ta, cũng không thể giết được ta.

Bàn Nhược vương hỏi:

- Ta chỉ là nghi ngờ một chút. Ta đến đây, là lệnh của Ngột Tốt. Trước đây, chỉ có Vương gia mới biết tin tức, tại sao thích khách đó đối phó ta? Chẳng lẽ... có người biết ta đối với y không có lợi, cho nên sắp xếp người xuống tay diệt trừ ta trước. Lúc nãy lầu Thông Hóa bỗng nhiên bị sụp, làm chúng ta đuổi không kịp thích khách, nếu không có kế hoạch tỉ mỉ, sao có thể như vậy? Sau sự việc, có người lại đem tất cả đổ lên người Địch Thanh.

Tất cả mọi người đều biết rõ ngụ ý của Bàn Nhược Vương, lầu Thông Hóa bỗng dưng bị hủy, e là cũng chỉ có Dã Lợi Ngộ Khất có bản lĩnh này.

Nói như mũi đao, phong cuốn hỏa sầu, ngoài lầu Thông Hóa, đã yên lặng đến hơi thở cũng có thể nghe thấy được.

Tất cả mọi người đang nhìn Dã Lợi Ngộ Khất, chờ đợi bày mưu đặt kế của lão.

Ở đây dù sao cũng là thiên hạ của Dã Lợi Ngộ Khất, người theo lão số lượng cũng không ít, chỉ cần lão bảo một tiếng, Bàn Nhược Vương cho dù là trí tuệ hơn, e rằng cũng sẽ bị loạn đao phân thân.

Dã Lợi Ngộ Khất chỉ là đang nhìn đao trên tay, tay áo run rẩy, cũng không biết là gió thổi, hay là tâm động...

Chợ Diệp tuy phồn hoa, nhưng cũng là đất hoang, giống như ánh mặt trời dù rực rỡ, cũng có thể chiếu ra cái bóng. Rời khỏi ngoài mấy dặm con đường lá rơi, có một vườn hoang, năm đó đã từng cực kỳ phồn hoa, nhưng từ khi chủ nhân nhà đó đắc tội Bảo Vượng La, bị chém hết không chừa ai, cái vườn đó trở thành vườn quỷ.

Gió thổi lạnh, như âm hồn nghẹn ngào, lá rơi trên con đường thường xuyên có người chết. Rất nhiều người đều nói, những oan hồn chết oan đều tụ tập ở vườn hoang, cho dù là ban ngày, cũng không ai dám vào vườn.

Lúc đêm khuya, vườn hoang gió lạnh gào thét, lá khô bay tứ tung, giống như vô số âm hồn cả đêm cuồng hoan.

Trong vườn dưới một cây đại thụ, đứng lặng lẽ cái bóng đen. Lá khô trong gió lạnh, ngưng đọng và bất động. Cho dù hàng nghìn hàng vạn âm hồn cuồng hoan, bóng đen đó cũng cô tịch.

Cuồng hoan là một đám người cô tịch, nhưng cô tịch cũng không phải là cuồng hoan của một người?

Cái bóng đó tuy cô tịch, nhưng ánh mắt lại sáng như tuyết mà nóng rực.

Ngoài vườn đột nhiên truyền đến mấy tiếng mèo kêu, thật là thê lương bi ai. Theo như lời đồn, mèo cũng là vật thông linh, thậm chí có thể nhìn thấy âm hồn lui tới. Mèo đó không rên rỉ, chẳng lẽ là vì thấy được quỷ quái?

Cái bóng đó nghe tiếng mèo kêu, chỉ là đánh ra một chưởng.

Một bóng đen leo lên tường cao, như u linh thoáng hiện. Bóng đen dưới tàn cây không nhúc nhích, chỉ là lạnh lùng nhìn chằm chằm người đi đến đó.

Bóng đen từ tường cao xuống, không kìm nổi nhìn xung quanh.

Dưới tàng cây người đó nói:

- Ở đây ngoài ta ra, không có người khác.

Người đó tiến đến cười:

- Đều nói Địch Thanh gan to bằng trời, hôm nay vừa gặp, quả nhiên danh bất hư truyền.

Dưới tàn cây người đó chính là Địch Thanh. Đôi mắt Địch Thanh lóe sáng, nhìn chăm chăm người đó. Đêm tối gió mạnh, người đó bịt kín mặt, để người ta không nhận ra khuôn mặt.

Địch Thanh chỉ thấy người đó thân hình giống như trường thương, người mặc quần áo không tệ.

Người đó ho nhẹ nói:

- Chuyện hôm nay, rất thành công.

Địch Thanh “ồ” một tiếng, trả lời:

- Ngươi yên tâm, chuyện mà Chủng Thế Hành hứa với ngươi, nhất định sẽ làm được, bây giờ Dã Lợi Ngộ Khất thế nào rồi?

Người đó thở phào một cái, thấp giọng nói:

- Bàn Nhược Vương trúng kế, y bất đầu nghi ngời Dã Lợi Ngộ Khất. Lần này Dã Lợi Ngộ Khất dù có mười cái miệng, chỉ sợ cũng không giải thích được. Lại nói khoảng thời gian trước. Dã Lợi Vượng Vinh phản nghịch, Ngột Tốt cũng có cảnh giác với Dã Lợi Ngộ Khất, chỉ sợ cũng sẽ không nghe giải thích của lão. Lúc này Bàn Nhược Vương và Dã Lợi Ngộ Khất trở về phủ Hưng Khánh, nói hết tất cả cho Ngột Tốt. Chỉ cần ông ta đi, chính là các cơ hội ngươi công đánh Hoành Sơn.

Trong giọng nói người đó mơ hồ có phần đắc ý, nhưng nghe y nói, rõ ràng không phải cùng một bọn với Địch Thanh.

Địch Thanh gật đầu, ánh mắt có phần cổ quái, đột nhiên trầm giọng nói:

- Ngươi giỏi lắm... Bọn ta tấn công Hoành Sơn, lại thêm một trận đánh Hựu Châu.

Người đó không có cảm giác được khác thường của Địch Thanh, giọng vội vàng nói:

- Dã Lợi Ngộ Khất đi rồi, ta nhất định cũng phải theo ông ấy đi. Chuyện tấn công Hoành Sơn không liên quan với ta. Ta đến đây chỉ là muốn nói cho ngươi, đây là chuyện cuối cùng ta làm cho các ngươi, các ngươi chớ quên lời hứa của mình.

Địch Thanh hít sâu một hơi, ánh mắt đột nhiên trở nên sắc bén như kim châm:

- Ngươi không cần đi theo y nữa.

Người đó cả kinh, thất thanh nói:

- Ngươi muốn là gì? Chẳng lẽ... các ngươi nói không giữ lời?

- Ngươi không cần đi theo Thiên Đô Vương, bởi vì ngươi ở đâu cũng không cần đi

Một giọng nói từ xa vọng tới.

Người đó đột nhiên kinh sợ, thân hình như trường thương kịch liệt run lên.

Trong bóng tối đi ra một người, trên mặt nở nụ cười, lững thững nhàn nhạ đi tới trước mặt Địch Thanh cách đó không xa, dừng lại nói:

- Vị này... chính là Địch Thanh Địch tướng quân tiếng tăm lừng lẫy sao?

Con ngươi Địch Thanh co mạnh lại, vẫn có thể bình tĩnh nói:

- Bàn Nhược Vương.

Người đến chính là Bàn Nhược Vương một trong Long bộ cửu vương.

Bàn Nhược Vương gật đầu, mỉm cười nói:

- Địch Thanh, ta từ lâu nghe nói qua tên của ngươi, vẫn luôn muốn gặp ngươi, Nhưng muốn gặp ngươi, không phải chyện dễ dàng như vậy.

Ánh mắt Địch Thanh từ Bàn Nhược Vương chuyển qua người của người bịt mặt, người bịt mặt run rẩy như lá rụng trong gió, chậm rãi nói:

- Bây giờ ngươi không phải thấy được rồi?

Y bên ngoài bình tĩnh, nhưng sớm nghe ra xung quanh vườn bỏ hoang có tiếng bước chân đi tới nhẹ nhàng.

Tiếng bước chân tuy nhẹ, nhưng không thoát khỏi lỗ tay của y, trong nháy mắt xuất hiện bên cạnh Bàn Nhược Vương.

Địch Thanh bắt đầu cảm thấy là mật thám bán đứng hắn, nhưng thấy cử chỉ của mật thám, thì biết là không phải. Đương nhiên, Bàn Nhược Vương không có trúng kế, trúng kế là Địch Thanh hắn.

- Gặp mặt ngươi, quả thật tốt không ít công phu.

Bàn Nhược Vương vẫn đang cười, nhưng ánh mắt như kim châm, trừng trừng nhìn cử động của Địch Thanh.

Địch Thanh thấy qua võ công của Bàn Nhược Vương, biết ngang tay giao chiến, mình không phải không thắng được y, nhưng lúc này hắn xung quanh là kẻ địch, đã mất địa thế. Càng huống hồ... Bàn Nhược Vương nếu không mắc mưu, Thiên Đô Vương đương nhiên cũng đến rồi.

Hắn lấy sức một mình, làm sao chống đỡ được Long bộ nhị vương, cộng thêm sự bao vây của trăm cao thủ?

Quan trọng nhất là, ngũ sĩ của hắn đã chia ra rút khỏi Chợ Diệp. Hắn giữ lại một người cuối cùng ở đây, hắn vốn đã quyết định, bất luận thành sự hay không, hắn đều phải đi.

Hắn dùng đao Vô Diệt đánh lén Bàn Nhược Vương, vốn là một kế, giá họa cho Dã Lợi Ngộ Khất là một kế. Chủng Thế Hành mua chuộc mật thám trộm đao Vô Diệt của Dã Lợi Ngộ Khất. Nếu hắn có thể dùng đao Vô Diệt giết Bàn Nhược Vương, Dã Lợi Ngột Khất hết đường chối cãi. Cho dù không thể đạt được, Bàn Nhược Vương sao có thể buông tha cho Dã Lợi Ngộ Khất. Hắn có thể thuận lợi chạy trốn, nhờ sợ giúp đỡ phích lịch, lúc bọn Lý Đinh đang chờ Địch Thanh phát động công kích, thì sử dụng phích lịch, phá hủy lầu Thông Hóa. 

Kế hoạch rất là chu đáo, nhưng đáng tiếc là, Bàn Nhược Vương còn thông minh hơn nhiều so với trong tưởng tượng của Địch Thanh.

Bàn Nhược Vương thấy Địch Thanh không nói, lại nói:

- Gần đây tin tức các ngươi nhận được quá nhanh, bọn ta mấy lần công kích thành Đại Thuận, đều được ngươi nhận được tin tức trước tiên. Bọn ta có nghi ngờ, nghi ngờ trong người Đảng Hạng bọn ta có nội gián!

Y vô ý hữu ý liếc nhìn người bịt mặt, người bị mặt trán đã đổ mồ hôi. Bàn Nhược Vương tiếp tục nói:

- Lần này ngươi vừa ra tay, thì giết bốn người quan trọng nhất quân Đảng Hạng, cản trở bọn ta xuất binh công kích thành Đại Thuận, đương nhiên là biết tin tức trước. Ta vừa tới đây, ngươi liền chuyển sang muốn giết ta, ngươi tâm cơ rất khéo léo.

Không đợi Bàn Nhược Vương nói tiếp, Địch Thanh đã nói:

- Ngươi đến Chợ Diệp, không phải vì Dã Lợi Ngộ Khất, mà là vì ta. Ngươi sớm biết ta sẽ xuống tay với Chợ Diệp, đúng không?

Bàn Nhược Vương vỗ tay mỉm cười nói:

- Đúng vậy.

Địch Thanh lạnh lùng nói:

- Ngươi muốn giết ta, nhưng vẫn không bắt được ta, vì vậy ngươi làm ra vẻ trúng kế. Ngươi đương nhiên biết, trong các ngươi đã có mật thám! Ngươi chỉ cần diễn trò bức Thiên Đô Vương trở về phủ Hưng Khánh, mật thám đó nhất định sẽ nói rõ tình hình cho ta. Lầu Thông Hóa sập, ta mặc dù chạy thoát, nhưng ngươi không vội bắt ta, ngươi chỉ cần nhìn chằm chằm mật thám, biết y nhất định sẽ dẫn ngươi đến. Vì vậy các ngươi có thể tương kế tựu kế bao vây bọn ta, đúng không?

Một người vỗ tay nói:

- Thông minh, Địch Thanh, ngươi quả nhiên là người thông minh. Người đó đi tới, một bước một dấu chân, từng bước như núi, người đến chính là Thiên Đô Vương Dã Lợi Ngộ Khất.

Người bịt mặt lại run lên kịch liệt, hận không thể hóa thành chiếc lá khô thổi đi.

Dã Lội Ngộ Khất hoàn toàn không nhìn người bịt mặt, vì kẻ thù lớn của lão là Địch Thanh. Một trăm người bịt mặt, cũng không bù được một Địch Thanh. Càng huống hồ, lão sớm đã biết người bịt mặt là ai.

- Mấy ngày trước, có người trộm bảo đao của ta. Ta vẫn đang nghĩ, rốt cuộc y có mục đích gì? Bây giờ chuyện đơn giản rồi, thì ra các ngươi muốn dùng bảo đao vu cáo ám hại ta. May mắn là... chuyện này ta đã nói cho Ngột Tốt biết trước. Địch Thanh, ngươi rất thông minh, ngươi biết cho dù tự lực một đòn, cũng không thể giết được ta. Do vậy khi biết Bàn Nhược Vương đến, ngược lại công kích y. Ngươi muốn để Bàn Nhược Vương cho rằng, ta có lòng phản, ngươi muốn châm ngòi chúng ta tự giết lẫn nhau.

Địch Thanh đứng trong gió lạnh, sau một hồi lâu mới nói:

- Bây giờ ngươi không muốn giết Bàn Nhược Vương, không có nghĩa sau này sẽ không.

Dã Lợi Ngộ Khất sắc mặt hơi biến sắc. Bàn Nhược Vương đã cười nói:

- Địch Thanh, ngươi tới bây giờ còn không buông bỏ lòng khiêu khích sao? Lúc nãy ngươi đoán rất nhiều chuyện đều đúng, chỉ nói sai một câu.

- Là câu nào.

Địch Thanh hỏi.

Bàn Nhược Vương nói:

- Ngươi cho rằng bọn ta muốn giết ngươi, vậy là sai lầm, sai lầm.

Địch Thanh giễu cợt nói:

- Các ngươi không muốn giết ta, bố trí hơn trăm người tới chỗ này bắt quỷ sao?

Bàn Nhược Vương nói:

- Bọn ta không muốn giết ngươi, nhưng cũng không muốn tha cho ngươi. Ngươi là kẻ địch bọn ta phải nghiêm túc đối phó.

Y vẫn đang cười, giọng điệu chân thành nói:

- Ngột Tốt đã cảm thấy, ngươi là sự uy hiếp đáng sợ nhất của Đại Hạ, sau này rất có thể ngươi trở thành Tào Vĩ, một Tống tướng có uy hiếp lớn nhất đối với nước Hạ. Nhưng ngươi chịu chế quản tài trí như vậy, không thể thi triển hết khả năng, mang xiềng xích tác chiến, vô cùng thống khổ?

Địch Thanh trầm mặc không nói gì, trong lòng thở dài.

Bàn Nhược Vương để ý vẻ mặt của Địch Thanh, trong mắt lóe lên ánh sáng:

- Ngột Tốt hùng tài vĩ lược, mặc ai duy có thể, chí tại thiên hạ, thành vương đồ bá nghiệp. Địch Thanh, nếu ngươi đầu hàng Ngột Tốt, ta lấy đầu đảm bảo, ngươi có thể thăng làm Long bộ cửu vương, nắm trong tay thiên quận vạn mã Đảng Hạng, mở ra khát vọng cuộc đời, dữ dội sảng khoái? Bây giờ ngươi tuy có Phạm Trọng Yêm khen ngợi, nhưng triều Tống đã hủ bại, Phạm Trọng Yêm tự thân khó bảo toàn. Phạm Trọng Yêm nếu ngược lại, ngươi còn có thể tìm Phạm Trọng Yêm nữa không?

Địch Thanh khẽ thở dài:

- Đại Tống chỉ có một Phạm Trọng Yêm.

Bàn Nhược Vương cười ha hả:

- Nói rất hay, nếu ngươi hiểu rõ điều này, thì nên đến giúp Ngột Tốt... Bằng không... cho dù võ công cái thế, kết cục cũng giống như Quách Tuân.

Địch Thanh nghe được tên của Quách Tuân, bỗng nhiên ngẩng đầu, trong mắt có màu giống như lửa giận.

Bàn Nhược Vương tự hối hận nói lỡ lời, thầm nghĩ nghe nói Quách Tuân và Địch Thanh có quan hệ vô cùng tốt. Mình vốn định nêu ví dụ, bây giờ ngược lại có chút chữa lợn lành thành lợn què. Không đợi nói thêm, Địch Thanh đã từng chữ nói:

- Đại Tống chỉ có một Phạm Trọng Yêm, nhưng Đại Tống cũng chỉ có một Địch Thanh.

Bàn Nhược Vương nụ cười rất nhạt, y nghe được ý của Địch Thanh, chậm rãi nói:

- Ở đây người giỏi nhiều như mây, Dạ Xoa bộ tài giỏi hơn phân nửa ở đây. Ngươi phải biết rõ, bọn ta tuy không muốn giết ngươi, nhưng tuyệt sẽ không thể ngươi về.

Địch Thanh mỉm cười:

- Ta hà tất trở về?

Hắn nói xong, đã rút đơn đao.

Gió xuân lạnh, tương tư nồng, ánh đao giơ lên, chém không đứt tình ý trong gió, lại chém đứt đầu. Tiếng đao réo rắc, tiếng đao như hát, đơn đao đơn độc, trong đêm tối thê lương bài ca vang lên như ngọn lửa.

 Chương 291 - 294: Cao thủ

Phạm Trọng Yêm thấy Địch Thanh đi đến trong mắt có phần lo lắng, liếc nhìn Doãn Thù thương lượng:

- Doãn Thù, ta và Địch Thanh có chuyện bàn. Ngươi nghỉ ngơi trước, mấy ngày nữa hãy nói được không?

Doãn Thù nói:

- Không được. Ta vất vả vội tới trong kinh, lại từ kinh thành tới chỗ ngài, thì phải nghe ngài nói một câu.

Địch Thanh cảm thấy hai người này lại có chút mùi gươm tuốt khỏi vỏ, trong lòng kỳ quái đang muốn giảng hòa. Ngoài lều tiếng cảnh báo vang lên, người của thành Đại Thuận đều biết, có địch đột kích.

Doãn Thù sợ run lên, nhất thời quên tranh cãi. Phạm Trọng Yêm nhướn mày nhìn Địch Thanh, hỏi:

- Sao vậy?

Địch Thanh vẫn trấn tĩnh, mỉm cười nói:

- Đơn giản là quân Hạ lại đi vòng vòng, không chừng chuyển hàng tới. Phạm đại nhân, mạt tướng đi xem thử.

Thấy Phạm Trọng Yêm gật đầu, Địch Thanh không chút hoang mang đi ra lều trung quân, biến mất không thấy bóng dáng.

Địch Thanh đã bắt đầu tấn công lần thứ nhất.

Hắn không trốn mà hắn cũng không hề có ý định sẽ chạy trốn, hơn nữa hắn cũng không thể trốn thoát. Địch Thanh đã tính sai một lần rồi nên hắn không muốn mình lại phạm sai lầm lần thứ hai.

Bàn Nhược Vương rất giảo hoạt nên lời của y nói không thể tin tưởng được nhưng có một điểm khẳng định Bàn Nhược Vương nói không sai, làbên ngoài khu vườn bỏ hoang đã bố trí rất nhiều cao thủ. Địch Thanh tuy ngạc nhiên về khả năng huy động của Bàn Nhược Vương nhưng hắn cũng không sợ.

Nếu như liều lĩnh phá vòng vây thì chỉ sợ sẽ lại rơi vào vòng vây, nên Địch Thanh tấn công, nơi đánh chiếm đầu tiên của hắn là Thiên Đô Vương.

Dã Lợi Ngộ Khất tuy mạnh nhưng đã già. Chính trong lúc hành thích ở lầu Thông Hóa, Địch Thanh nhận ra sự yếu đuối bên trong vẻ bề ngoài hung hãn của Dã Lợi Ngộ Khất.

Chuyện này vốn đã không còn cách nào khác.

Người trẻ tuổi sở dĩ gặp phải thất bại là vì chưa biết nỗi đau của thất bại, nhưng tới khi già, vết thương chồng chất, trong kí ức lúc đó chỉ có thể nhớ lại những nỗi đau của sự thất bại chứ không hề có những trải nghiệm về sức mạnh. Dã Lợi Vượng Vinh bị giết vậy mà Dã Lợi Ngộ Khất vẫn bình thản chịu đựng nỗi đau, thậm chí là còn muốn tranh thủ sự thông cảm của Nguyên Hạo. Tại lầu Thông Hóa, trong khi Địch Thanh ra đao thì Dã Lợi Ngộ Khất lại bảo vệ mình trước tiên, điều này có thể nhận thấy Dã Lợi Ngộ Khất không hề có dũng khí muốn liều mạng.

Nhưng Địch Thanh lại có quyết tâm liều mạng.

Hắn nhất định phải liều mạng nếu không thì sẽ phải chết, chết cũng cần liều mạng.

Dã Lợi Ngộ Khất thân là một trong cửu Vương, võ nghệ cao cường nên phản ứng rất nhanh, thấy Địch Thanh rút đao thì đã nóng lòng muốn tỉ thí nhưng khi thấy Địch Thanh ra đao thì nét mặt lại biến đổi ngay lập tức.

Bởi cái y nhìn thấy không phải là đao của Địch Thanh mà là một tia chớp, tia chớp ngang dọc, sau tia chớp đó là một quang cảnh sấm rền làm chói mắt.

Đao pháp của Địch Thanh rất lợi hại, khí thế lại càng hơn hẳn, sát khí đầy trời. Đao pháp mà hắn sử dụng vốn là đao pháp hoành hành ngạo nghễ giữa nghìn quân bách chiến. Năm ấy cuối thời nhà Đường thập tam thái bảo Lý Tồn Hiếu cũng chính là lấy việc dùng đao pháp này để đứng trên đời, đánh khắp thiên hạ chưa gặp địch thủ. Đao pháp này cố nhiên là rất sắc bén nhưng muốn diễn tả cho ra đao ý, ngược lại cần dựa và sự tàn bạo của mình để tung hoành trong thiên hạ.

Địch Thanh thiếu ngang ngược, nhưng lại có ý bi quan, có tâm huyết.

Khi ở lầu Thông Hóa, Dã Lợi Ngộ Khất thấy Địch Thanh một kích không trúng liền bỏ chạy, chỉ cho rằng bản lĩnh của Địch Thanh chẳng qua cũng chỉ có vậy, nên cho rằng y ít nhất cũng có thể tiếp được mấy chiêu của Địch Thanh.

Nhưng ngay lập tức y phát hiện ra là mình đã sai, mười phần sai. Dưới đao hoành hành, y không thể tiếp được dù chỉ một chiêu. Địch Thanh có thể không cần cái mạng của hắn nhưng y thì có thể sao?

Dã Lợi Ngộ Khất lui lại, đem hết sức lùi lại, trong giây lát đã chạy tới dưới chân tường cao.

Ánh đao đuổi chém như ngọn đuốc soi sáng trong đêm, soi tới cả con đường trước mắt của Dã Lợi Ngộ Khất.

Mặt Dã Lợi Ngộ Khất trắng bạch, lui cũng không lui được, chỉ đành gào thét giương đao ra sức chém, nhưng khí thế của y lúc này đã giảm, ánh đao dưới ánh trăng như lửa bó đuốc sao mà nhợt nhạt, thiếu sức sống.

Trong ánh lửa lại xuất hiện thêm một ánh hồng chói mắt.

Máu tươi phun ra.

Một cánh tay của Dã Lợi Ngộ Khất bay lên, trơ trọi giữa không trung.

Rơi vào tình thế không lối thoát, Địch Thanh phản công, chỉ một đao chặt đứt cánh tay của Dã Lợi Ngộ Khất.

Ánh đao cuối cùng cũng dịu xuống, đao dài khát máu, chỉ có máu mới có thể áp chế nó được, giống như bảo kiếm khó thành, cuối cùng phải lấy máu người để luyện. Nhưng đúng lúc người và kiếm hợp nhất, thì bảo kiếm cũng là lúc suy yếu nhất.

“Vèo” một tiếng, có một vật đâm thẳng vào sau lưng Địch Thanh. Trước khi vật này đâm vào lưng Địch Thanh, lại nghe thấy tiếng gào chát chúa đủ thấy người này ra chiêu rất mạnh.

Hơn nữa, ra chiêu cũng rất đúng lúc, gặp đúng thời điểm Địch Thanh đang rơi vào thế yếu nhất. Người ra tay chính là Bàn Nhược Vương.

Bàn Nhược Vương bố trí đâu đấy nhưng vẫn không quên Địch Thanh có dũng khí. Y nghĩ Địch Thanh sẽ chạy trốn nên khi ở ngoài khu vườn hoang y đã bố trí sẵn sát thủ xung quanh, một khi Địch Thanh chạy thì sẽ rơi ngay vào bẫy mà y đã bày ra. Xong xuôi y đợi cho tới khi Địch Thanh khí lực suy kiệt mới ra tay.

Nhưng Bàn Nhược Vương không thể ngờ rằng, Địch Thanh giành được thế tiến công, hơn nữa còn một đao chặt đứt cánh tay của Dã Lợi Ngộ Khất.

Bàn Nhược Vương vẫn luôn truy đuổi, thân thủ của y tuy nhanh nhẹn nhưngvẫn không thể bì kịp tốc độ chạy trốn của Dã Lợi Ngộ Khất. Một người đang chạy trốn chẳng phải có thể phát huy hết thể lực của mình sao?

Chỉ là trong lúc mà Dã Lợi Ngộ Khất bị chặt đứt cánh tay thì Bàn Nhược Vương mới rút ngắn được khoảng cách với Địch Thanh, lúc ấy y quyết định ra tay. Vũ khí mà y sử dụng là phi chùy, sau chùy có xích, một khi cánh tay rung lên thì xích chùy sẽ bay thẳng tới giữa lưng của Địch Thanh.

Địch Thanh nghiêng mình tránh, một đường máu bay ra, dây xích chùy bay thẳng đính trên tường cao.

Bàn Nhược Vương rùng mình, không ngờ Địch Thanh lại có phản ứng nhanh như vậy.

Phi chùy bay đến từ phía sau nhưng gió táp sớm đã tới. Cảm giác của Địch Thanh rất nhạy bén đạt đến cảnh giới cao nhất nên hắn dựa vào cảm giác của mình nghe thấy tiếng gió thổi nên đã nghiêng mình tránh được.

Việc hắn tránh lại gây hại nên vẫn bị thương dưới xương sườn.

Địch Thanh bị thương nên nụ cười trên khóe miệng Bàn Nhược Vương bây giờ đã biến thành nụ cười khẩy dữ tợn. Bóng trên tường lắc lư, cho thấy đám người phục kích bên ngoài không thể đợi được nữa nên cũng chuẩn bị tiến công vào bên trong.

Nếu như Địch Thanh không trốn thì việc rất đơn giản chỉ cần diệt hắn ngay tại đây. Cánh tay Bàn Nhược Vương rung lên, “xuy” một tiếng, sợi xích chùy từ trên tường cao bay trở lại với tốc độ như gió. Nụ cười trên khuôn mặt y chưa kịp tắt thì đã ngưng lại mặt y nghiêm lại.

Có một thứ còn nhanh hơn gió là ánh đao, đao một khi sáng lên thì như ánh lửa bốc cháy, sáng cả một vùng trời.

Bóng đêm lặng lẽ, tiếng đao lại cộng thêm tiếng hát khẳng khái của Yến Triệu vang lên, hoành hành hát vang!

Trường đao đã nhuốm máu lại càng đẹp càng sắc, sắc bén một cách rõ ràng.

Bàn Nhược Vương nhanh chóng lui ra, không dám ngăn cản.

Vừa rồi Bàn Nhược Vương còn đang trách Dã Lợi Ngộ Khất nhu nhược, y cho rằng chỉ cần Dã Lợi Ngộ Khất chống cự lại một chút là có thể áp chế được Địch Thanh, sau đó hai người liên thủ thì Dã Lợi Ngộ Khất sẽ không bị thương, nói không chừng còn có thể giết được Địch Thanh.

Nhưng khi y đặt mình trong cuộc thì y mới hiểu, có thể là Dã Lợi Ngộ Khất nhu nhược nhưng y thật sự không thể đỡ nổi một đao sắc bén như thế này, ánh đao như ma, đao lia ngang dọc, Bàn Nhược Vương cũng không dám tiến lên trước.

Từ khu vườn hoang tràn vào không biết bao nhiêu tên quỷ dạ xoa nhưng cũng không thể theo kịp ánh đao như chớp ấy.

Trong nháy mắt, Bàn Nhược Vương đã tránh tới dưới chân một bức tường cao khác, bên kia cuối cùng cũng có vài tên dạ xoa đến, muốn ngắm bắn Địch Thanh nhưng ánh đao lại sáng lên, mọi người ai nấy đều tránh.

Bàn Nhược Vương cuối cùng cũng có được một cơ hội nghỉ lấy hơi, trong tiếng quát tháo chói tai, “vù” một tiếng, xích chùy lại phát ra.

Bất kể là làm như thế nào y cũng không thể khiến cho giảm sát khí trong con người Địch Thanh lúc này. Hơn nữa còn khiến cho mình bị thương nên y cũng rất muốn có thể xoay chuyển tình thế suy tàn này.

Bàn Nhược Vương xuất chiêu, Địch Thanh thu đao, thoắt một cái xoay người, đã lên trên đầu tường. Chiêu này của y có sự biến đổi liên tục, chuyển từ thế tấn công mạnh mẽ sang lui giữ một cách nhẹ nhàng linh động, thành thạo.

Bàn Nhược Vương bất ngờ tỉnh ngộ, Địch Thanh lấy công để thủ, lấy tiến để lui, đã huy động được tất cả những sát thủ bên ngoài khu vườn. Lúc này Địch Thanh đã rõ thực hư nên đương nhiên là đang muốn chạy trốn.

Hiện nay không còn ai có thể ngăn cản Địch Thanh trốn thoát nữa.

Ngoại trừ một mũi tên- mũi tên bằng đồng vàng bay ra.

“Loong coong” một tiếng, âm thanh của d ây cung vang từ nghìn dặm trong chốc lát, mũi tên đã hiện ra ngay trước mặt, đâm thẳng vào ngực của Địch Thanh. Mũi tên bằng vàng như sao băng vụt trên bầu trời, mang theo không khí chết chóc, lạnh như băng.

Có điều mũi tên bắn không chuẩn, hơn nữa nắm giữ thời cơ cũng không thật tốt. Một khi tên được bắn ra thì nhất định phải chắc chắn trúng.

Chẳng phải mũi tên Định đỉnh lông vũ vốn không có tiếng động, một phát là trúng sao?

Tất cả mọi người đều bị chấn động, trong đầu vụt lên một tia ý niệm, mũi tên này là tên của Nguyên Hạo. Không ngờ Nguyên Hạo cũng tới Diệp Thành. Địch Thanh không kịp xoay người, lúc nghe tiếng dây cung vang lên, trong đầu cũng hiện lên người mũ đen áo trắng tay cầm cung lớn kia.

Trừ Nguyên Hạo ra thì không một ai có thể bắn ra mũi tên như thế.

Lúc này Địch Thanh đã rơi vào đường cùng nhưng cứ coi là Địch Thanh thì hắn cũng cho rằng bản thân mình cũng không thể tránh được mũi tên này. Lực cũ vừa phát ra, lực mới chưa kịp hình thành, nên chỉ là miễn cưỡng di chuyển hi vọng là có thể tránh được chỗ hiểm yếu.

Nhưng một mũi tên như thế, chẳng phải là chỉ có xích chùy của Bàn Nhược Vương mới so sánh được hay sao? Cứ coi như Địch Thanh có thể tránh được việc bị thương ở chỗ hiểm yếu nhưng chỉ sợ mũi tên xuyên qua thì một người bị trọng thương như hắn có thể thoát khỏi sự đuổi giết của hơn một trăm người ở phía sau không?

Địch Thanh có thể cảm nhận được không khí lạnh lẽo của sự chết chóc.

Trong lúc đó một vật đột nhiên bay đến khoảng không giữa mũi tên và Địch Thanh. Vật đó bất ngờ mà đến, nhẹ như lông, nhanh như tên!

“Đinh” một tiếng, mũi tên cắm vào vật kia, vật kia liền đánh thẳng vào ngực của Địch Thanh. Địch Thanh phi thân lên, nhảy ra từ bước tường, biến mất trong bóng đêm.

Ngoài xa vẫn truyền lại tiếng kêu thất thanh, đêm tối huyết thấu, tiếng gào thét liên miên, thanh âm truyền đi rất xa.

Ngay sau tiếng “đương” mũi tên bị chặn lại rơi ngay xuống đất, phát ra tiếng kim loại. Vật này là mặt tấm khiên, đã bị mũi tên lông vũ xuyên qua, trên mũi tên có nhuốm máu.

Mũi tên xuyên qua tấm khiên vẫn làm Địch Thanh bị thương!

Bàn Nhược Vương không hề đuổi theo, Dã Lợi Ngộ Khất băng bó lại cánh tay bị thương vẫn còn bất động. Hai người chăm chú nhìn người đứng trên tường cao. Người này mặc áo trắng đội mũ quan đen, đứng bất động trên tường cao, gió nhẹ thổi, muốn theo gió mà đi.

Người này cầm trường cung trong tay, cung tên trong bầu.

Trong bầu chỉ còn lại bốn mũi tên, vàng bạc thiết thiếc, chỉ còn thiếu một mũi tên lông vũ bằng vàng.

Người đứng trên tường cao chính là Nguyên Hạo, y nhìn theo tấm khiên rơi trên mặt đất, trong đôi mắt tràn đầy chí lớn đột nhiên có sự cuồng nhiệt.

Là ai ra tay cứu Địch Thanh?

Trong thời điểm này, ai có thể ra tay ném tấm khiên giúp Địch Thanh chặn được mũi tên trí mạng này?

Người này chắc chắn là một cao thủ hơn nữa y làm thế nào để có thể nấp trong đám Dạ Xoa này? Hơn nữa trong Diệp Thành này làm sao có thể xuất hiện một cao thủ như vậy? Người này đoán được Nguyên Hạo sẽ bắn tên mà ra tay sau nhưng lại tới trước để ngăn chặn mũi tên của Nguyên Hạo. Người này rốt cuộc là ai?

Nguyên Hạo cầm cung tên trong tay, khuôn mặt lộ vẻ trầm tư, chăm chú nhìn vào bóng tối ấy, tay đặt tại bình đựng tên, nhẹ nhàng gõ.

Trong đêm tối tĩnh mịch, Nguyên Hạo nhất thời quên mất việc truy đuổi Địch Thanh, nhưng cho dù Nguyên Hạo không hạ lệnh thì đám Dạ Xoa bên ngoài ấy vẫn một mực đuổi theo.

Lúc này Địch Thanh mới phát hiện ra, đám Dạ Xoa giữa đêm khuya có trực giác như của loài chó.

Cho dù hắn đã bị thương nhưng so với lần trước mà nói thì lần này vết thương nhẹ hơn rất nhiều.

Một chùy của Bàn Nhược Vương tuy có sắc bén nhưng cũng không thể bì kịp với một tên của Nguyên Hạo. Mũi tên đó của Nguyên Hạo đã đâm xuyên qua tấm khiên nên lực của tênđã bị giảm mất bảy tám phần.

Đầu mũi tên đâm vào sau lưng của Địch Thanh nhưng vẫn chưa đâm sâu. Địch Thanh mượn lực công kích này bay lên phía tường cao ngược lại dễ dàng thoát ra khỏi vòng vây của đám Dạ Xoa kia.

Máu vẫn chảy. Trên đường trốn chạy Địch Thanh cùng suy nghĩ về một vấn đề giống Nguyên Hạo, ai đã cứu hắn? Người cứu hắn có cùng một phe với Nguyên Hạo hay không?

Nghĩ tới đây, Địch Thanh đột nhiên dừng bước, quay trở lại. Lúc đi qua giao lộ, thân hình lóe lên ẩn vào trong một góc tối.

Hai mặt đông tây xuất hiện mấy bóng người, một người nói:

- Bàn Nhược.

Một người khác nói:

- Tam vị.

Hai người này đột nhiên dừng lại, cùng lắc đầu rồi lại gật đầu một lần nữa, rồi chạy về hướng nam bắc.

Địch Thanh thầm nghĩ: “Bàn Nhược... Tam vị? Lẽ nào lại là khẩu lệnh bọn chúng dùng để nhận biết nhau trong bóng đêm?” Trông thấy đám người này chạy về hướng bắc đi qua ngay bên cạnh mình mà không hề phát hiện ra thì lúc này Địch Thanh mới đứng dậy, lập tức trông thấy đám người này dừng lại, cánh mũi khẽ nhúc nhích.

Đám Dạ Xoa a này có khứu giác cực kì nhạy bén nhưng có một điều mà bọn chúng không hề biết là nếu luận về nhãn lực và thính lực thì Địch Thanh giỏi hơn nhiều.

Trong bóng đêm, Địch Thanh nhận thấy trong ánh mắt bọn chúng có chút hồ nghi, dường như đã phát giác ra sự tồn tại của hắn, chỉ là trong phút chốc chưa thể khẳng định. Địch Thanh khẽ lắc người xuất hiện ra, quát khẽ nói:

- Bàn Nhược.

Người kia thất kinh, quay người nói:

- Tam vị.

Địch Thanh đã đoán đúng, đây chính là ám hiệu nhận biết lẫn nhau của bọn chúng. Người kia nghe được ám ngữ của đồng bạn, thả lỏng người nói:

- Ngươi làm gì ở đây? Ngươi có ngửi thấy mùi máu tanh không?

Địch Thanh hạ giọng nói:

- Mới vừa rồi...

Giọng nói của Địch Thanh cực kì nhỏ khiến người này phải đến gần mà nghe. Quả nhiên, người kia kìm không nổi tiến lên phía trước mấy bước. Địch Thanh vọt ra, chỉ cần đưa tay ra đã có thể tóm lấy cổ họng của người kia, hai tay đan chéo nhau là đã vặn gãy cổ người kia.

Động tác của hắn rất gọn gàng, mau lẹ, chỉ là chỉ là phát huy tính nhanh nhẹn và sức mạnh của mình tới đỉnh điểm mà thôi.

Không hiểu tại sao hắn lại đột nhiên nghĩ tới năm đó ở thung lũng Phi Long, Quách Tuân cũng dùng thủ đoạn này để giết người.

Chuyện cũ vẫn như nguyên nhưng cảnh còn mà người thì đã mất, trong lòng Địch Thanh có chút cảm giác thương cảm. Sau đó liền lấy thẻ bài của người này, nhanh chóng cởi quần áo của người này mặc lên người mình, lại lấy ra từ trong lòng ngực thứ thuốc bột bôi lên mặt, tạm thời che được hình xăm. Đến khi cảm thấy không còn gì sơ suất nữa hắn mới kéo theo thi thể của người kia, tìm lấy miệng giếng cạn ném y xuống.

Trong phút chốc hắn từ một người bị người giết mà biến thành Dạ Xoa giết người. Sau đó xác định đúng phương hướng, chạy thẳng về phía khu vườn hoang.

Lúc này nếu như hắn giả đuổi bắt chính mình, là có thể dễ dàng rời khỏi Diệp Thành nhưng hắn lại không cam tâm.

Địch Thanh âm thầm quan sát nên cũng hiểu được chút ít cử động của đám Dạ Xoa và cũng có thể giả bộ hình dáng của bọn chúng, khom người lấp la lấp lém đi về phía khi vườn hoang. Trên đường đi, cũng gặp phải vài tên Dạ Xoa đang đi dò xét, Địch Thanh đã thuộc khẩu lệnh, nên dễ dàng trà trộn vào bên trong.

Đám Dạ Xoa cũng nghĩ là Địch Thanh đã sớm trốn thoát, nhưng bọn chúng có nằm mơ cũng không thể ngờ rằng, Địch Thanh vẫn có gan quay trở lại.

Gần đến bên ngoài khu vườn hoang, Địch Thanh dừng lại. Hắn không biết đám người Nguyên Hạo có còn ở đó không, cũng không biết người cứu hắn về sau có ra tay lần nữa không. Đang lúc do dự thì bên trong tường có người lạnh lùng nói:

- Tô Cật Nẵng, ta đối với ngươi không bạc, sao ngươi phản bội lại ta?

Một giọng nói run rẩy nói:

- Vương gia... ta...

Chỉ nghe thấy tiếng động của hai hàm răng “ken két”, chắc hẳn người này đang rất sợ hãi.

Địch Thanh thầm than, đó chính là tiếng của Dã Lợi Ngộ Khất, người bịt mặt nhưng lại không có gan chạy trốn, xem ra chỉ còn nước ngồi chờ chết thôi.

Người mà mật báo cho Địch Thanh không phải ai khác chính là thị vệ thân cận của Dã Lợi Ngộ Khất – Tô Cật Nẵng.

Dã Lợi Ngộ Khất đoán không sai, Địch Thanh phái năm binh sĩ thâm nhập vào Diệp thành, ám sát người thủ lĩnh trong Diệp thành, chính là để ngăn chặn người Hạ xuất binh tấn công thành Đại Thuận.

Thêm một ngày chuẩn bị thì thành Đại Thuận cũng sẽ kiên cố hơn một phần. Người Hạ còn muốn trừ sạch thành Đại Thuận thì cũng phải tốn thêm mười phần khí lực.

Ngoài việc Đãi Mệnh không ngừng cung cấp thông tin cho Địch Thanh ra thì việc hắn có thể nhanh chóng nắm được thông tin của kẻ địch còn phải dựa vào mật báo của Tô Cật Nẵng. Chủng Thế Hành cho rằng, người Hạ có thể mua chuộc người Tống làm nội ứng thì người Tống cũng giống như vậy có thể mua chuộc người Hạ làm gian tế.

Trên đời này, có rất ít thứ mà có tiền không mua được.

Chủng Thế Hành dùng một số tiền lớn để mua chuộc Tô Cật Nẵng, bảo Tô Cật Nẵng lấy trộm bảo đao của Dã Lợi Ngộ Khất. Chính là do Tô Cật Nẵng nên Địch Thanh mới nắm được hành tung của Dã Lợi Ngộ Khất. Bây giờ, Tô Cật Nẵng đang gặp nạn, hắn có nên cứu y?

Trong bóng tối chỉ nghe thấy tiếng thở dốc nặng nề của Dã Lợi Ngộ Khất. Lúc lâu sau, Dã Lợi Ngộ Khất đột nhiên nói:

- Ta có thể tha mạng cho ngươi.

Tô Cật Nẵng mừng rỡ nói:

- Vương gia, chỉ cần người chịu tha cho tôi cái mạng này, tôi có thể đến thành Thanh Giản thăm dò tin tức cho người. Tôi sẽ liều mạng thoát ra ngoài, cầu xin Chủng Thế Hành thu nhận và giúp đỡ, y nhất định sẠkhông nghi ngờ. Vương gia vốn có ý định phá thành Thanh Giản đến lúc đó, tôi làm nội ứng, việc phá thành nắm chắc thành công.

Địch Thanh vốn đang do dự nghe Tô Cật Nẵng xin tha mạng nên cũng định bụng làm thịt Tô Cật Nẵng.

Dã Lợi Ngộ Khất chậm rãi nói:

- Kế hay! Kế hay!

Tô Cật Nẵng cũng cười theo:

- Chỉ cần vương gia chịu...

Y còn chưa dứt lời thì đột nhiên hét lên một tiếng thảm thiết.

Địch Thanh thất kinh, lại nghe thấy tiếng của Tô Cật Nẵng từ bên trong tường truyền ra:

- Ngươi... ngươi...

“Bịch” một tiếng, dường như có người ngã xuống đất, bên trong tường không có tiếng động nào nữa. Địch thanh lấy làm kinh hãi, thầm nghĩ lẽ nào Dã Lợi Ngộ Khất đã giết Tô Cật Nẵng? kế của Tô Cật Nẵng mặc dù đê tiện nhưng đối với người Hạ đó lại là kế hay, vậy cớ gì mà Dã Lợi Ngộ Khất lại giết Tô Cật Nẵng.

Khu vườn hoang im lìm vắng lặng, không biết là bao nhiêu lâu mới có người nói:

- Thiên Đô vương, Tô Cật Nẵng còn sống rõ ràng có ích hơn nếu Tô Cật Nẵng chết đi.

Địch Thanh nhíu mày, nghe ra đó là giọng nói của Bàn Nhược Vương.

Thì ra Bàn Nhược Vương vẫn chưa rời đi, vậy còn Nguyên Hạo? Còn ở đây hay không? Nghĩ đến đây, Địch Thanh nín thở, đối diện với hai người Bàn Nhược và Thiên Đô hắn đều không chút sợ hãi nhưng đối với Nguyên Hạo, thực không có cớ nửa phần sơ suất.

Dã Lợi Ngộ Khất cười lạnh nói:

- Nếu như ta không giết y, làm sao có thể hả nỗi giận trong lòng ta?

Bàn Nhược Vương nói:

- Vương gia giết y, không phải chỉ là để trút cơn giận chứ?

Dã Lợi Ngộ Khất đột nhiên tĩnh lại, Địch Thanh đang ở bên ngoài cũng có thể cảm nhận được trong cái yên lặng ấy có một nỗi tức giận khác thường.

- Vậy ngươi nói, ta là vì cái gì?

Dã lợi Ngộ Khất nói từng chữ một.

Bàn Nhược Vương chậm rãi trả lời:

- Cánh tay của vương gia bị chặt đứt, mà cũng đã mệt, hơn nữa nắm trong tay Hoành Sơn vốn đã là một việc hao tâm tổn sức... vương gia đương nhiên hiểu rõ, Ngột Tốt lần này tới là muốn vương gia nghỉ ngơi. Vương gia tất nhiên hiểu rõ điểm này, có chút công lao thì cũng không muốn người khác nhận được.

Dã Lợi Ngộ Khất bỗng bột phát, khàn giọng nói:

- Không Tàng Ngộ Đạo. Ngươi thật sự cho rằng bản thân mình không gì là không biết sao?

Bàn Nhược Vương được gọi là Không Tàng Ngộ Đạo. Đến lúc này Địch Thanh đã hiểu rõ vì sao Dã Lợi Ngộ Khất lại muốn giết Tô Cật Nẵng. Nếu như Dã Lợi Ngộ Khất không thể trấn thủ Hoành Sơn thì cũng không muốn đem công lai phá thành Thanh Giản của mình tặng không cho người khác.

Nội bộ người Đảng Hạng không hề hòa thuận như vẻ bề ngoài của họ. Ở đây không có việc lục đục đấu tranh như Tống Đình nhưng nếu luận về độ tàn nhẫn và khát máu thì lại hơn hẳn.

Bàn Nhược Vương thản nhiên cười nói:

- Ta đúng là không phải việc gì cũng biết nhưng có việc này ta lại biết một chút. Ngột Tố sẽ không hề trách cứ Vương gia, thậm chí hắn còn muốn phái vương gia đi Sa Châu nữa.

Dã Lợi Ngộ Khất thất thanh nói:

- Việc này có thật sao?

Bàn Nhược Vương nói:

- Đương nhiên không phải là giả.

Địch Thanh có thể nghe thấy trong giọng điệu của Dã Lợi Ngộ Khất mang đầy sự kích động, thậm chí còn có chút vui mừng nên không khỏi thấy kì quái. Sa Châu nằm ở rất xa Ngọc Môn quan, đầu phía tây biên giới Tây Hạ, đất đai cằn cỗi, nghèo nàn. Nếu Dã Lợi Ngộ Khất đến đó thì có thể nói là bị đưa đi đày, vậy tại sao Dã Lợi Ngộ Khất lại tỏ ra cao hứng như vậy.

Hơi thở của Dã Lợi Ngộ Khất dần trở nên nặng nề, cuối cùng cũng thở dài mà nói:

- Được! Được!

Y không nói thêm gì nữa chỉ thấy tiếng bước chân, nghe tiếng bước chân có thể thấy y đã đi ra khỏi khu vườn.

Địch Thanh nghĩ thầm, Nguyên Hạo có nhiều khả năng là không còn ở đây nữa, nhưng việc Nguyên Hạo đến Diệp Thành trước tuyệt đối không phải không có nguyên nhân, y rốt cuộc là đang nung nấu suy nghĩ gì? Tấn công thành Đại Thuận, hoặc là chiếm lấy Thanh Giản hoặc là tấn công Diên Châu một lần nữa?

Ở một nơi cách đó không xa đột nhiên nghe thấy tiếng gió, có một vài người đang chạy đến chỗ mà Địch Thanh đang ẩn nấp.

Địch Thanh thất kinh, hình như cho rằng phía Dã Lợi Ngộ Khất và Bàn Nhược Vương liên thủ với nhau tác chiến, nhân cơ hội hắn không chuẩn bị mà đi vòng tới đánh giết. Đợi đến khi thấy tên cầm đầu cũng có cách trang điểm như bọn Dạ Xoa, Địch Thanh mới biết là mình đã đoán sai.

Người này mặc bộ đồ đen, ánh mắt lạnh lùng, nhìn thấy Địch Thanh nói:

- Đi theo ta!

Dứt lời liền đi về hướng tây. Đi theo người này còn có mấy tên Dạ Xoa, tất cả đều im lặng không nói.

Địch Thanh biết người này không hề nhận ta hình dáng thực của mình, mà chỉ đoán dựa trên trang phục hắn đang mặc. Do dự một lúc rồi hắn cũng chạy theo mấy người kia. Dã Lợi Ngộ Khất và Bàn Nhược Vương vẫn còn ở quanh đây nên Địch Thanh không muốn rút dây động rừng.

Trênđường đi, tên thủ lĩnh này lại triệu tập được vài tên Dạ Xoa nữa. Đi đến trước một tòa nhà ở phía tây Diệp Thành, y phân phó nói:

- Các người canh giữ ở đây, không để cho người ngoài tới gần. Người tự ý rời đi, giết không tha! Người tiếp cận được chỗ này, giết không tha! Các ngươi nếu để cho người bên trong phát hiện được hành tung cũng giết không tha!

Người này nói liền ba câu giết không tha, vẻ mặt rất nghiêm túc, trong số thủ hạ không ai dám phản đối, đám Dạ Xoa lần lượt ẩn vào chỗ tối. Địch Thanh thấy vậy cũng tìm một nơi tối để ẩn nấp. Tên thủ lĩnh gật đầu hài lòng, quay người bỏ đi.

Địch Thanh chẳng biết tại sao lại tới đây, trong lòng thấy rất kì lạ. Có một điều rất hiển nhiên là tên thủ lĩnh này triệu tập mọi người ở đây là để bảo vệ người trong nội viện nhưng tại sao lại phải bảo vệ họ, hơn nữa lại không cho họ biết? Người trong nội viện này là ai? Nghĩ đến đây, bàn tay nóng rực, ánh mắt thì lại sáng lên.

Bất luận thế nào, người bảo vệ quan trọng của người Hạ, hắn giết cũng là không sai. Lần này hắn tới Diệp Thành chẳng phải là muốn quấy nhiễu người Hạ làm cho họ thần hồn nát thần tính, nhìn gà hóa cuốc đó sao?

Nghĩ đến đây, Địch Thanh chuẩn bị hành động nên ngẩng đầu nhìn ra xa, trông thấy một góc của nội viện.

Mái hiên trong các đều bị xiêu vẹo, trong các đột nhiên có ánh đèn, ánh đèn chiếu trong đêm tàn, gió làm cho bóng đèn nghiên ngả.

Đến lúc trông thấy ánh đèn thì trong chốc lát, Địch Thanh đã xóa bỏ đi ý định ám sát.

Ngoài một chiếc đèn trơ trọi chỉ có không khí tĩnh mịch ban đêm. Địch Thanh nhìn về phía ánh đèn rất lâu, không hề có ý định ra tay mà ngược lại đã có suy nghĩ rời bỏ.

Đúng lúc này thì bên ngoài các có tiếng bước chân người, đi đến giữa sân thì dừng lại. Không lâu sau, trong sân có tiếng người truyền lại:

- Công chúa, người cuối cùng cũng phải ăn một thứ gì đó.

Đó là giọng của một người con gái.

Địch Thanh hơi giật mình, công chúa? Công chúa nào, là Đan Đan? Tại sao Đan Đan cũng tới Diệp thành này? Trong đầu hắn đột nhiên hiện lên hình ảnh của người con gái với tính cách dễ thay đổi, Địch Thanh có chút hoảng hốt.

Một lúc lâu sau, mới có một âm thanh, nói:

- Ta không muốn ăn gì hết.

Đầu mùa xuân mà giọng nói này lại mang theo cả cái lạnh lẽo của mùa đông, nhưng cũng có một chút xuân buồn. Địch Thanh đã nghe ra, quả nhiên là giọng của Đan Đan.

Cô gái lúc trước khuyên nói:

- Công chúa, nếu người không ăn chút gì, Ngột Tốt sẽ giết ta mất, ta xin người đó, ăn chút gì đi?

Đan Đan giận nói:

- Giết ngươi thì cứ việc giết, không can gì tới ta.

Địch Thanh nhíu mày, lại nghe thấy giọng của Đan Đan nói:

- Ta muốn ăn ma khôi đậu phụ, ngươi làm cho ta một mâm mang lên đây.

Cô gái ban nãy vui mừng nói:

- Tạ công chúa.

Địch Thanh thấy Đan Đan thay đổi chủ ý rất nhanh, liền nghĩ:

- Đan Đan này, ngoài miệng cứng rắn nhưng lại mềm lòng, chỉ là một cô gái không hiểu chuyện.

Đúng lúc đó thì có một thanh âm truyền đến:

- Đan Đan, muộn như vậy rồi sao muội còn làm gì ngoài sân này. Ở đây lạnh, coi chừng bị cảm lạnh.

Giọng nói này rất bình tĩnh nhưng bên trong nó lại có sự uy nghiêm. Địch Thanh nghe được giọng nói này thì rùng mình, đó là giọng của Nguyên Hạo.

Sau một hồi lâu, Đan Đan mới nói:

- Đại ca… Muội không ngủ được.

Nguyên Hạo hỏi:

- Sao muội lại không ngủ được?

Địch Thanh nghe thấy Nguyên Hạo hỏi Đan Đan qua bức vách ngăn, giọng điệu vẫn rất điềm tĩnh nhưng ít nhiều cũng có chút thương cảm khiến Địch Thanh không khỏi hoang mang.

Mặc dù Địch Thanh có gặp qua Nguyên Hạo hai lần nhưng đã nghe không ít chuyện có liên quan tới y. Con người này có chí khí mạnh mẽ nhưng cũng lại là người hết sức tàn nhẫn, độc ác. Con người này không có chút tình cảm nào hết.

Năm đó đám người Vệ Mộ Sơn Phong phải trốn đến biên giới nước Tống phía Đông Hoành Sơn, là vì tộc trưởng Vệ Mộ Sơn Hỉ âm mưu làm phản nhưng thất bại. Vệ Mộ Sơn Hỉ vốn là cậu ruột của Nguyên Hạo nhưng sau khi Nguyên Hạo bình định được phản lọan gia tộc Vệ Mộ, y không chỉ giết cậu ruột của mình mà còn giết hết cả người vợ Vệ Mộ thị và đứa con trai vừa mới sinh. Bởi vì mẹ của y cũng là người tộc Vệ Mộ thị nên sau này Nguyên Hạo đem hại độc mẹ của mình.

Việc Nguyên Hạo giết vợ, giết con, giết mẹ được truyền ra bên ngoài, người ta nghe thấy đều chấn động, bởi thật khó có thể tin được trên đời lại có con người tàn nhẫn như vậy.

Một người như vậy thì tại sao lại có thể có thái độ ân cần chăm sóc với em gái như vậy chứ?

Giữa lúc Địch Thanh đang suy nghĩ thì có tiếng Đan Đan nói:

- Cứ mỗi lần đến một nơi xa lạ là muội không thể ngủ được.

Hắn không trông thấy bộ dạng của Đan Đan nhưng nghe giọng nói thì quả thật rất buồn khổ.

Trong nội viện, Nguyên Hạo không hề đeo cung lớn mà cũng ko mang theo ngũ tiễn nhưng y vẫn đội mũ quan đen, áo trắng, ánh mắt đã bớt chí lớn và giọng châm biếm, nhìn chăm chú vào muội muội nói:

- Muội vốn biết mình lúc nào cũng có bệnh này rồi mà tại sao vẫn còn muốn tới Diệp Thành?

Đan Đan ở trong đình viện mặc bộ đồ tím, giống như tử đinh hương nở rộ vào ban đêm. Đinh hương đa sầu bao nhiêu thì đôi mi thanh tú của Đan Đan cũng giống như hoa đinh hương vậy.

Dường như ánh sao này không phải đêm qua,

Vì ai hứng gió phơi sương một mình?Đan Đan đứng giữa sương gió là vì ai?

Đan Đan không trả lời câu hỏi của Nguyên Hạo mà đột nhiên nói:

- Mấy ngày nay, người trong Diệp Thành bàng hoàng, là do duyên cớ gì?

Nguyên Hạo nhíu mày, không đáp mà hỏi ngược lại:

- Muội đến đây có phải là vì Địch Thanh?

Địch Thanh giật mình, trong vườn bây giờ chỉ còn sự im lặng. Một lúc lâu sau, Đan Đan mới nói:

- Đúng!

Câu trả lời của nàng chỉ có một chữ, giống như chém băng cắt tuyết. Địch Thanh trong phút chốc ngỡ ngàng.

Hồi lâu, Nguyên Hạo mới nói:

- Hôm nay ta không hề muốn giết hắn mà chỉ muốn tóm hắn, nhưng tiếc là... có người ra tay chắn mũi tên của ta.

Đan Đan giật mình nói:

- Vậy huynh ấy có bị thương không?

Giọng nói của nàng mặc dù lãnh đạm nhưng cũng có thể coi là tường cao hậu thổ, đều khó có thể ngăn được sự ân cần trong đó.

Trong lòng Địch Thanh nghĩ:

“Nàng... tại sao lại quan tâm ta như vậy? Nguyên Hạo có biết ai là người ra tay không?”

Nguyên Hạo im lặng hổi lâu mới nói:

- Hắn nhất định sẽ không thể chết được, nếu hắn có thể chết một cách dễ dàng như vậy thì không phải là Địch Thanh nữa!

Ngừng lại một lát, Nguyên Hạo lại hỏi:

- Đan Đan, dũng sĩ người Hạng Đảng vô số, tại sao muội lại chỉ thích một tên Địch Thanh người Hán?

Gió ngừng, đêm ngưng, Địch Thanh ở bên tường ngoài nghe thấy câu hỏi của Nguyên Hạo thì có chút chấn động không biết là cảm giác gì nữa.

Đan Đan thích hắn! Sao có thể như vậy được? Hai người họ mới gặp nhau có vài lần thôi!

Nhưng câu nói này lại do chính miệng Nguyên Hạo nói ra, nên không giống như là giả.

Bỗng dưng nhớ lại lần đầu chia tay bên ngoài phủ Hưng Khánh, Đan Đan từng hỏi hắn:

- Nếu như trên đời này có một người vì ngươi mà không cần bất cứ thứ gì hết, chết cũng được, sống cũng vậy, đi hoang mạc, đến tận chân trời...ngươicó vì nàng ấy mà từ bỏ tất cả không?

Lúc nghe thấy câu hỏi đó, Địch Thanh thật sự không hề có một ý nghĩ nào khác. Đến hôm nay nghĩ lại mới thấy nó mang rất nhiều hàm ý.

Từ sau khi Dương Vũ Thường vì hắn mà nhảy thành thì trong lòng Địch Thanh không còn động lòng với người con gái thứ hai. Trong lòng Địch Thanh, Đan Đan chỉ là một cô gái nhỏ bốc đồng, và hắn cũng chỉ ngẫu nhiên cứu mạng Đan Đan trên sa mạc mà cũng chưa hề cứu đến cùng, vậy thì vì saoĐan Đan lại thích hắn?

Trong tường ngoài tường đều im lặng như nhau, nhưng không bao lâu sau, Đan Đan nói:

- Muội thích hắn!

Thích thì thích, yêu thì yêu, nhiều lúc không cần nói lý do.

Lại một lúc lâu sau, Nguyên Hạo mới nói:

- Muội thích người không nên thích, Địch Thanh không phải là người cho ta dùng mà là người ta giết!

Địch Thanh nghe thấy thất kinh, biết lời của Nguyên Hạo không phải là giả dối, đến lúc này thì hắn và Nguyên Hạo vốn không thể cùng tồn tại. Lại nghe thấy Nguyên Hạo nói:

- Đan Đan, toàn bộ người Đảng Hạng vùng tây bắc này đều là thuộc hạ dưới chân ta, bất luận là địa vị cao thấp, bất luận xuất thân, muội thích ai thì chỉ cần nói cho ta biết một tiếng...

Đan Đan ngắt lời Nguyên Hạo:

- Huynh có đại quyền trong tay, có thể nắm bắt được sống chết của người trong thiên hạ nhưng làm sao có thể nắm bắt được tình cảm của mọi người trong thiên hạ chứ? Huynh có thể làm cho muội rời xa Địch Thanh nhưng huynh làm sao có thể ngăn được muội nhớ huynh ấy?

Lời Đan Đan nói rất nhẹ nhàng nhưng hàm ý bên trong thì lại rất kiên quyết, làm cho Địch Thanh ở bên ngoài cũng phải rung động.

Hai hàng lông mày của Nguyên Hạo dựng cả lên, còn biết nói gì nữa thì Đan Đan lại nói tiếp:

- Đại ca...

Nguyên Hạo nghe thấy hai tiếng “đại ca”, lại thấy nét mặt buồn thảm của em gái liềm mềm lòng, nhẹ nhàng nói:

- Muội muốn nói gì?

Đan Đan nhìn Nguyên Hạo, ánh mắt buồn bã, hạ giọng nói:

- Muội biết... muội với huynh ấy không thể ở bên nhau nhưng muội cầu xin huynh... cho muội giữ lại chút nhớ mong về huynh ấy, được không?

Nguyên Hạo ngẩn người ra, thấy sắc mặt Đan Đan trắng như tuyết, ánh mắt trong như nước, liền thở dài, không nói thêm gì nữa.

Trong sân lại yên ắng, tĩnh mịch.

Không biết là phải bao lâu sau, Địch Thanh lại nghe thấy tiếng bước chân vang lên, Đan Đan đi lên lầu, không khỏi ngẩng đầu lên nhìn , thấy đêm đen đèn xanh, có một bóng hình cô độc trên tấm màn cửa sổ bằng lụa, vô cùng tiêu điều lạnh lẽo.

Địch Thanh nhìn bóng người dưới ánh đèn bên cửa sổ, trong phút chốc có những suy nghĩ rất rắc rối.

Mùa xuân về thời tiết đã trở nên ấm áp nhưng không khí ở bên trong lẫn bên ngoài bức tường cao dường như đang kết thành băng.

Đúng lúc này thì trong sân lại có tiếng bước chân, Địch Thanh cảm thấy hơi lạnh, thu lại dòng suy nghĩ, ngưng lại nghe ngóng, liền nghe thấy Nguyên Hạo nói:

- Đã tìm ra ai là người ra tay cứu Địch Thanh hay chưa?

Tinh thần Địch Thanh lại bị chấn động nhưng tai vẫn chăm chu nghe ngóng tình hình.

Giọng nói của Bàn Nhược Vương vang lên:

- Ngột Tốt, người này võ công cực cao ... hơn nữa nhất định là có quan hệ với Địch Thanh...

- Ta không muốn nghe những lời vô nghĩa.

Nguyên Hạo lạnh lùng nói:

- Ngươi nói như vậy có phải là muốn nói với ta ngươi chưa tìm ra người đó là ai?

Bàn Nhược Vương im lặng một hồi lâu, cuối cùng cũng nói:

- Vâng.

Nguyên Hạo ngược lại không hề tức giận, chỉ lẩm bẩm nói:

- Dưới gầm trời này người có thể ngăn được mũi tên của ta đếm trên đầu ngón tay. Nhưng lại là người có quan hệ với Địch Thanh thì chỉ có hai người là Diệp Tri Thu và Phi Ưng với võ nghệ không tồi... ngoài ra đều không đáng nói đến.

Địch Thanh hơi lạnh người, không ngờ rằng Nguyên Hạo lại có thể tường tận về hắn như thế.

Bàn Nhược Vương cẩn trọng nói:

- Diệp Trí Thu mặc dù không tồi nhưng nếu có thể dễ dàng chặn mũi tên của Ngột Tốt như vậy thì không thể. Còn Phi Ưng thì thâm sâu khó lường, nên khả năng người ra tay rất có thể là y. Nhưng đến bây giờ, chúng ta vẫn chưa dò la được lai lịch của y. Con người này tựa như xuất hiện một cách vô danh. Phi Ưng chế ngự Thạch Đà, liên lạc với Dã Lợi Vượng Vinh tạo phản, bắt công chúa, thủ đoạn quái dị độc ác, dụng ý không rõ ràng...

Khóe miệng Nguyên Hạo có nụ cười, y không có ý kiến.

Thấy vậy Bàn Nhược Vương liền chuyển đề tài, đột nhiên nói:

- Nhưng việc tìm ra vị cao thủ ấy là ai không phải là việc quan trọng trước mắt... theo ý của thần thì việc tiếp theo phải xử lý Địch Thanh như thế nào mới là điều mà chúng ta cần lưu tâm. Địch Thanh đã từng nhắc đền Tô Cật Nẵng là muốn tiến công qua Hoành Sơn, chiếm lấy Hựu Châu...

Nguyên Hạo không đợi cho Bàn Nhược Vương nói hết liền ngắt lời:

- Tô Cật Nẵng không là cái gì hết, Địch Thanh sao có thể đem dụng ý thật sự của mình nói cho y biết?

Địch Thanh sợ hãi, nghĩ ánh mắt Nguyên Hạo quả là sắc bén? Thì ra lúc Địch Thanh bị bao vây, hắn cố ý nói cho Tô Cật Nẵng biết việc muốn chiếm Hựu Châu, chẳng qua chỉ là để tung hỏa mù cho Bàn Nhược Vương, không ngờ Nguyên Hạo chỉ cần thoáng qua là có thể thấy được tâm ý của hắn.

Bàn Nhược Vương trầm ngâm nói:

- Ngột Tốt cho rằng, câu nói đó của Địch Thanh là nói với chúng ta sao? Như thế thì hắn tuyệt đối sẽ không tấn công Hựu Châu? Nhưng chỗ thần vừa nhận được tin tức, xung quang Hựu Châu đã có người quân Tống lui tới.

Nguyên Hạo vẫn bình tĩnh như thường:

- Trước mắt, việc của Hoành Sơn do khanh phụ trách, tự khanh biết làm chủ, nên ứng phó như thế nào, không cần phải nói nhiều lời với ta.

Tay y gảy nhẹ, khóe miệng đột nhiên nở một nụ cười, hỏi:

- Phía A Nan Vương có tin tức gì hay không?

 Chương 295 - 299: Kim Thang

Địch thanh nhíu mày, chăm chú lắng nghe.

Long Bộ Cửu Vương chính là thủ hạ dưới quyền của Nguyên Hạo, là chín người Thiên Đô, Dã Lợi, La Hầu, Long Dã, Bồ Đề, Bàn Nhược, A Nan, Già Diệp và Mục Liên.

Chín người trong Long bộ không phân cao thấp, mà chỉ có chức vụ khác nhau mà thôi.

Lúc này Thiên Đô Vương Dã Lợi Ngộ Khất bị chặt đứt một cánh tay đã được phái đi Sa châu; Dã Lợi Vương Dã Lợi Vượng Vinh làm phản đã tự vẫn; La Hầu Vương Dã Lợi Trảm Thiên vẫn mơ hồ kì quái; Long Dã Vương Long Hạo Thiên thì bị Quách Tuân đánh chết ở ngũ Long Xuyên; Bồ Đề Vương ngược lại bị Địch Thanh bắn chết ở trại Bình Viễn. Theo như những gì mà Chủng Thế Hành biết thì ba người Bàn Nhược Vương, Già Diệp Vương và Mục Liên Vương vốn vẫn thường xuyên lui tới học viện này. Từ sau khi Dã Lợi Vương chết thì Bàn Nhược Vương cũng bắt đầu dần tiếp nhận chức vụ của Dã Lợi Vương. Còn về Già Diệp Vương và Mục Liên Vương thì hẳn là vẫn thường qua lại học viện, dường như làm việc phiên dịch Kinh Phật. Trong Long Bộ Cửu Vương thì chỉ có duy nhất một người có thể khiến cho Chủng Thế Hành phải hao tâm tổn sức nhưng lại cũng không tìm ra một nửa số tin tức về người này.

Đó chính là A Nan Vương!

Long Bộ Cửu Vương, Bát Bộ chí cường. Long Vương có dấu vết còn A Nan thì vô phương.

Đây chính là câu nói duy nhất mà Chủng Thế Hành điều tra được có liên quan tới A Nan Vương. Ngoài ra, đám người Địch Thanh hoàn toàn không hề biết gì về A Nan Vương.

Vì thế nên khi nghe thấy Nguyên Hạo nhắc đến A Nan Vương thì Địch Thanh muôn phần hứng thú.

Bàn Nhược Vương chậm rãi nói:

- Theo như lời của A Nan Vương thì Thổ Phiền Vương Cốc Tư Lã chưa bao giờ từ bỏ ý định đoạt lại Sa Châu.

Nguyên Hạo điềm tĩnh nói:

- Cứ cho là Cố Tư La không đến tìm gây phiền phức cho ta thì ta cũng phải tìm y. Năm đó, y phái Bất Không đi Biện Kinh mưu đồ liên kết với Lưu thái hậu cùng tấn công Đại Hạ. Sau sự việc này khi mà Đại Hạ bị phân thành hai châu Qua Châu và Sa châu thì ta đã biết y vẫn còn có dã tâm, y vẫn muốn đoạt lại Sa Châu. Sau này y phái Kim Cương Ấn đi hành thích ta, chính là muốn sau việc này thành công thì mới chiếm lĩnh Sa Châu.

Địch Thanh nghe thấy Nguyên Hạo nhắc đến Sa Châu thì dường như mơ hồ nghĩ đến một cái gì đó.

Trong phút chốc cả người như rung động, sắc mặt biến đổi, hắn nghe thấy Nguyên Hạo rõ ràng nói:

- Cốc Tư La muốn cướp Sa châu chính là muốn đến Hương Ba Lạp, khà khà... nhưng ta sẽ không cho y thực hiện ý đồ, ta muốn xem y có thể làm gì được ta?

Đầu óc Địch Thanh choáng váng, ngay lập tức tim đập liên hồi khó mà khống chế. Nơi mà hắn tìm kiếm suốt bao nhiêu năm nay cuối cùng cũng có kết quả.

Thì ra Hương Ba Lạp nằm ở Sa Châu.

Hương Ba Lạp ở Sa châu!

Địch Thanh đột nhiên nghĩ đến một chuyện mà trước kia hắn cùng với Chủng Thế Thành có thảo luận qua, đó là Tào Hiền Anh làm thế nào mà có được tấm bản đồ Hương Ba Lạp? Sau này hai người còn quả quyết một điểm là nếu như tấm bản đồ đó là thật thì Hương Ba Lạp hẳn là nằm trong mười một châu của Hà Tây. Thậm chí Địch Thanh còn cả gan suy đoán rằng, Quy Nghĩa quân tử thủ tại Qua Châu và Sa Châu, vậy có khả năng Hương Ba Lạp ở hai nơi này.

Không ngờ hôm nay Nguyên Hạo đã giúp hắn chứng thực, Hương Ba Lạp quả nhiên nằm ở Sa Châu!

Có rất nhiều nghi hoặc hiện ra trong đầu hắn, Địch Thanh cảm thấy trong sự thần bí của Hương Ba Lạp có một cái gì đó rất kỳ quái. Nếu Hương Ba Lạp nằm ở Sa Châu thì tại sao người họ Tào kia không đích thân tìm đến mà lại cho truyền tấm bản đồ ra? Theo như lời của Nguyên Hạo thì Cốc Tư La vẫn luôn muốn tìm kiếm Hương Ba Lạp, nhưng nếu Hương Ba Lạp thật sự huyền bí như những gì truyền thuyết nói, thì đúng như ước muốn Nguyên Hạo đã khống chế được Sa Châu vậy tại sao lại không đến Hương Ba Lạp cầu nguyện chứ? 

Địch Thanh rất muốn Nguyên Hạo tiếp tục nói về chuyện này nhưng Nguyên Hạo lại chuyển đề tài nói:

- Ta sắp xuất binh, khanh lệnh cho tháiúy hai châu Hồng Châu và Linh Châu chuẩn bị điều động binh mã. Nếu như ta xuất quân thì nội trong vòng ba ngày mỗi châu năm mươi nghìn quân phải tập hợp ở Hạ Lan Nguyên.

Địch Thanh có chút lạnh người, thầm nghĩ Nguyên Hạo mỗi lần xuất quân đều điều động nhân mã từ các châu Hồng, Linh, Hạ, lần này xuất quân, mục tiêu tấn công tiếp theo sẽ là vùng nào của Đại Tống đây?

Toàn cảnh nước Hạ hiện nay chưa tới năm trăm nghìn binh mã, trong khi đó đại Tống được mệnh danh là triệu cấm quân. Nếu luận về số binh thì đại Tống tất nhiên vượt xa nước Hạ, nhưng nếu luận về tốc độ tập hợp quân đội, quân lực mạnh mẽ thì nước Hạ vượt xa đại Tống. Ưu khuyết trong đó chỉ cần dựa vào một trận Tam Xuyên Khẩu là có thể nhận thấy được. Nguyên Hạo có thể dễ dàng tập hợp được một trăm năm mươi nghìn thiết kỵ, mà quân Tống tây bắc triệu tập toàn bộ binh lực cũng không vượt quá hơn mười nghìn quân...

Quân Hạ lấy nhanh đánh chậm, lấy đông đánh ít, quân Tống làm sao có thể không thua?

Vốn tưởng rằng Nguyên Hạo sẽ nói xuất quân đánh nơi nào không ngờ sau khi Bàn Nhược Vương nhận lệnh, Nguyên Hạo chỉ nói:

- Ngươi lui xuống đi.

Tiếng bước chân lại vang lên, Bàn Nhược vương đã lui xuống, trong sân lại không có lấy một tiếng động. Không một ai biết rốt cuộc Nguyên Hạo đang đứng trong sân suy nghĩ điều gì?

Địch Thanh tâm tư rối bời, chỉ nghĩ tới hai vấn đề. Một là, quân Hạ xuất binh xâm lược biên giới một lần nữa, vậy thì mục tiêu là ở đâu? Vần đề thứ hai chính là, Sa Châu nói lớn thì cũng không phải lớn, nói nhỏ cũng không phải là nhỏ, vậy rốt cuộc Hương Ba Lạp thuộc chỗ nào của Sa Châu?

Hắn ngẩng đầu lên nhìn, trời đêm không trăng, ngọn đèn dầu trong lầu các giống như sao.

Chỉ một ánh sao, chiếu khắp nơi đều yên tĩnh, không biết tiếng sáo ương ở đâu nổi lên. Trong tiếng du dương trầm bổng ấy mang theo chút gì đó thê lương, dường như là nói về thời buổi loạn lạc chiến tranh.

Thái úy Hồng Châu... lúc Địch Thanh nghĩ đến bốn chữ này thì trong đầu đã có chủ ý.

Hắn lặng lẽ đến mà cũng lặng lẽ rời đi, ngược lại không hề trông thấy Đan Đan ở trên lầu các đang nhìn về phía hắn, tay cầm đôi giầy mây đơn sơ, nước mắt lã chã tuôn rơi...

Hựu châu có quân Tống thường lui tới, nên khi tin tức được truyền tới thành Kim Thang thì Tuế Hương Giáp Nô có phần không dám tin.

Tuế Hương Giáp Nô vốn là đoàn luyện của thành Kim Thang, bây giờ cũng vẫn là tướng quân tiên phong trong việc tấn công Diên Biên của người Hạ. Y luôn nóng lòng muốn thử, đợi tới khi Nguyên Hạo xuất quân lần thứ hai mà chưa từng nghĩ qua quân Tống sẽ đại náo Diệp Thành.

Điều càng khiến cho người ta ngạc nhiên chính là, sau khi quân Tống đại náo Diệp Thành lại không quay trở về mà lặng lẽ xuyên qua Hoành sơn, ngựa giẫm đạp trường thành, giết đến Hựu Châu!

Hựu châu đã nhập vào biên giới nước Hạ, nhìn ra xa Linh Châu trong khi Linh Châu lại là vùng đất quan trọng của nước Hạ.

Quân Tống giết cả bộ tộc Tuế Hương, giết người vô số, quân Tống làm loạn Hựu Châu, lòng người hoang mang, quân Tống làm loạn Diệp Thành tấn công Hựu Châu, giết người Khương. Nghe nói Thiên Đô Vương bị thương dưới đao của Địch Thanh.

Dã Lợi Ngộ Khất bị thương vì không may giết quân Tống nên đã được điều đi Hoành Sơn. Bàn Nhược Vương tiếp nhận Sơn Ngoa quân, trấn thủ một tuyến đường, từ bỏ ý định tấn công thành Đại Thuận.

Những tin tức này là thật hay giả rất khó phân biệt đã làm cho Tuế Hương Giáp Nô mất hết lý trí. Y trấn thủ tuyến đầu, lại nghe người trong tộc bị giết thì làm sao có thể kìm nén tính khí được chứ?

Tuế Hương Giáp Nô muốn đánh nhưng Bàn Nhược Vương nhiều lần lệnh cho toàn bộ Hựu Châu bao vây giết Địch Thanh, lại lệnh cho Tuế Hương Giáp Nô của thành Kim Thang đóng cửa không được ra ngoài, lưu ý động tĩnh của quân Tống thành Đại Thuận.

Sau khi Tuế Hương Giáp Nô đóng cửa thành được vài ngày thì nghe được tin tức chính xác là huynh đệ gia nhân của y đã bị quân Tống giết không còn một người.

Tuế Hương Giáp Nô phát điên, hận không thể ngay lập tức đánh một trận với quân Tống, nhưng bên ngoài thành không hề có quân Tống, lại cũng không có quân địch. Y tức giận nhưng lạikhông thể phát tác.

Ngày hôm đó, Tuế Hương Giáp Nô đứng trên thành, hai con mắt phát hỏa, thấy mặt trời đã lên cao, đột nhiên nói:

- Mở cửa thành, ta muốn ra ngoài săn thú!

Mọi người ai cũng hiểu hàm ý của việc săn thú, mỗi lần Đoàn Luyện Tuế Hương tức giận thì đều đi săn mồi cho hả giận, con mồi không phải là động vật mà là quân Tống.

Nếu Địch Thanh giết tộc Tuế Hương thì Tuế Hương Giáp Nô sẽ ăn miếng trả miếng, giết người Tống cho hả giận.

Tuy nói rằng biên thùy hay có chiến tranh nhưng nhiều người lại đến nơi như thế này để sinh sống, hoặc là vì không muốn rời quê hương hoặc là muốn trốn tránh thuế má hà khắc...

Tuế Hương Giáp Nô chính là muốn tìm những người này, lấy máu để giội sạch những phẫn nộ trong lòng.

Một vị tướng lĩnh trong thành Kim Thang có thiện ý bước lên trước nói:

- Đoàn Luyện đại nhân, Bàn Nhược Vương phân phó, bảo chúng ta đóng cửa thành là tốt, mấy ngày này...

Nói chưa dứt lời đã kêu thảm thiết ôm bụng, nét mặt tái nhợt.

Tuế Hương Giáp Nô chậm rãi rút thanh đao từ bụng của người này ra, máu văng đầy đất, nói:

- Ở đây ai chủ sự?

Tất cả mọi người đều nói:

- Là Đoàn Luyện đại nhân.

Tuế Hương Giáp Nô ra lệnh:

- Mở cửa thành, đợi ta trở về.

Không có ai dám phản đối nữa, cửa thành mở ra, Tuế Hương Giáp Nô mang theo khoảng trăm kỵ binh ra khỏi thành Kim Thang. Thời tiết mùa xuân, núi vắng vẻ, Tuế Hương Giáp Nô ra khỏi thành được vài dặm thì đến một người sống cũng không thấy.

Binh lính thấy nét mặt Tuế Hương Giáp Nô lạnh như băng, ai nấy đề thấp thỏm lo lắng. Tuế Hương Giáp Nô lạnh lùng ra lệnh:

- Đi tìm thú săn, ai không tìm thấy thì tự cắt cổ mình đi.

Trăm người cũng hô to, đã có hơn một nửa lao đi, lục soát khắp bốn phía.

Có thể trong mấy năm liên tục chinh chiến, cộng thêm mấy ngày trước, Địch Thanh đã từng tung đao ngang dọc trước thành Kim Thang. Hiện nay cứ coi như là người Khương đều sợ tay bay vạ gió nên lần lượt di chuyển xuống Diệp Thành và Hoành Sơn. Người Khương bên cạnh thành Kim Thang cũng đều không đóng quân, thì càng không muốn nói là người Hán.

Mặc dù đã có không ít người chạy đi lục soát tìm kiếm con mồi nhưng sau khi sau thời gian một nén hương cũng không thấy có thú săn được mang tới.

Trong lúc Tuế Hương Giáp Nô nóng nảy không thôi thì có một một người cưỡi ngựa tới, vui mừng nói:

- Đoàn Luyện đại nhân, phía nam có vài chỗ có người.

Mọi người đều đồng thanh hoan hô, hai mắt Tuế Hương Giáp Nô sáng bừng lên, thúc ngựa đi. Binh sĩ hò reo theo sau, bụi cuốn bay mù mịt. Lời của tên binh sĩ báo lại quả không sai, tiến về phía nam vài dặm, chỗ cây cối sum suê, có vài hộ gia đình, khói bếp mù mịt.

Nghe thấy tiếng thiết kỵ, trong mấy nhà này có bóng người xuất hiện. Trông thấy là quân Hạng Đảng xông tới, biết là không hay, không hỏi gì hết liền chạy dọc theo cánh rừng vào trong núi.

Tuế Hương Giáp Nô làm sao có thể tha cho được, liền thúc ngựa đuổi theo. Chỉ có điều là mấy hộ gia đình này phần lớn đều đã quen với những trận chiến kiểu này, nên chạy rất nhanh, vòng quanh chân núi là đã vào đến trường lĩnh.

Có binh sĩ thấy địa hình nơi đây gập ghềnh hiểm trở, cây cối um tùm, muốn nhắc nhở Tuế Hương Giáp Nô cẩn thận nhưng lại nghĩ đến kết cục đằng sau nó thì lại không nhắc đến nữa.

Mọi người vòng qua chân núi, Tuế Hương Giáp Nô không thấy dấu vết con người, trong lúc đang thảng thốt thì nghe loáng thoáng có tiếng hoan hô ở đằng xa:

- Tống heo ở đây. Có rất nhiều người.

Tuế Hương Giáp Nô nghe thấy có tiếng nói thì mừng rỡ, thúc ngựa chạy qua một khe núi thì chỉ thấy trước mắt không xa có một cái hang ở sườn núi, có hơn mười người ngồi trong đó. Tất cả bọn họ đều có cách trang điểm ăn mặc của người Trung Nguyên.

Những người này nhìn thấy có kỵ binh tới thì nhất loạt vỗ áo đứng dậy.

Hai con mắt Tuế Hương Giáp Nô sáng hẳn lên, dã tâm giết người lại trỗi dậy. Nhưng nhìn thoáng qua thấy trên khuôn mặt những người này không hề có vẻ gì là hoảng hốt thì trong lòng có chút trùng xuống. Sau đó mới giương cung, lắp tên, liền cảm thấy bầu không khí ở đây rất lạ.

Tiếng chiêng vang lên. Tuế Hương Giáp Nô ngừng không bắn tên, đưa mắt nhìn ra xa, thì thấy trên sườn núi quân mai phục từ đâu xuất hiện, bao vây bốn phía.

Xung quanh dây cung như trăng rằm, mũi tên lóe lên ánh hào quang như hàn tinh, chỉ cần một tiếng ra lệnh thì có thể khiến cho mười mấy kỵ binh trong cốc giống như những con nhím gai vậy. Người Đảng Hạng cực kỳ sợ hãi, không dám nhúc nhích.

Quân mai phục cất giọng nói:

- Xuống ngựa, bỏ vũ khí, người đầu hàng không bị giết.

Người Đảng Hạng có chút do dự, Tuế Hương Giáp Nô liền quát lớn:

- Ai dám xuống ngựa ta sẽ giết ngay người đó!

Người Đảng Hạng đang chần chừ thì trong đám quân Tống bên kia có một người bước ra, mỉm cười nói:

- Người tới có phải là Tuế Hương Đoàn Luyện của thành Kim Thang?

Tuế Hương Giáp Nô thấy trên mặt người này có hình xăm, hẳn là tên lính thấp nhất trong quân đội Tống, nhưng nhìn thấy người này trong số đám quân mai phục có cái gì đó uy nghiêm không diễn tả được, trong lòng bỗng nhiên nghĩ đến một cái tên, cắn răng hỏi: 

- Địch Thanh?

Người này gật đầu nói:

- Chính là ta. Tộc Tuế Hương là do ta phái người đi giết nên ta biết nhất định ngươi sẽ tới.

Địch Thanh không ở Hựu Châu, thì ra là đã đến vùng xung quanh thành Kim Thang. Hắn một mình lẻn vào quân Tống ở Hựu Châu giết tộc Tuế Hương của người Khương chính là muốn Tuế Hương Giáp Nô phải nổi giận. Chỉ cần Tuế Hương Giáp Nô nổi giận ra khỏi thành thì Địch Thanh sẽ có cơ hội.

Địch Thanh mặc dù rất mạnh nhưng hắn vẫn một mực chờ đợi.

Tuế Hương Giáp Nô gầm lên một tiếng giận dữ, thúc ngựa tiến lên phía trước, vung đao liền chém. Có thể vượt qua Hoành Sơn để thống ngự quân Đảng Hạng thì đều là người có võ nghệ siêu phàm và Tuế Hương Giáp Nô cũng không ngoại lệ.

Đao chém xuống có oai của người phá núi.

Mũi tên chưa bắn thì Địch Thanh vẫn chưa hành động.

Địch Thanh đứng đó, nhìn khảm đao rơi xuống, quân Tống không một tiếng động. Tim người Đảng Hạng đều nảy lên. Tuế Hương Giáp Nô vui mừng cảm thấy khảm đao của mình đã chém đôi Địch Thanh.

Đột nhiên không trông thấy Địch Thanh nữa.

Tuế Hương Giáp Nô thấy hoa mắt mới phát hiện ra là mình chém vào ảo ảnh. Ngay sau đó thấy ngực đau nhói, ngã ngựa rơi xuống đất, chưa kịp đứng dậy thì có người dẫm chân lên cổ.

Địch Thanh lạnh lùng nói:

- Bộ y phục này của ngươi còn đáng tiền hơn cái mạng này của ngươi.

Hắn chỉ cần dùng lực mạnh một chút ở chân là lại nghe thấy tiếng “răng rắc” vang lên, con ngươi Tuế Hương Giáp Nô đã lồi ra.

Trong hang một lần nữa không một tiếng động, quân Đảng Hạng trên ngựa run rẩy như lá rụng trong gió. Bọn chúng trông thấy Tuế Hương Giáp Nô vung đao, ngay sau đó lại thấy Địch Thanh xuất hiện sau lưng Tuế Hương Giáp Nô như chớp, phi thân đá y xuống ngựa, sau lại chỉ với một cú giẫm đã chặt đứt cổ Tuế Hương Giáp Nô.

Tuế Hương Giáp Nô tuy mạnh nhưng trước mặt Địch Thanh thì lại chỉ vụng về như một con rối gỗ.

Sau khi giết chết Tuế Hương Giáp Nô, Địch Thanh quay đầu lại nói với số quân Đảng Hạng còn lại:

- Xuống ngựa bỏ hết vũ khí, người đầu hàng không giết.

Vẫn là một câu nói đó nhưng đối với những chấn động mà ĐịchThanh đã tạo ra trong lòng quân Đảng Hạng thì không thể sánh nổi.

“Leng keng”, tiếng trường thương rơi xuống đất, một người xoay người xuống ngưa, một người chịu khuất phục, hơn mười người sau đó cũng lần lượt làm theo vứt bỏ binh khí, không dám chống cự nữa.

Địch Thanh khoát tay, tức thì có quân Tống tiến lên trước ngăn người Đảng Hạng lại, lục soát quần áo.

Những người Đảng Hạng kia đều nhốn nháo la lên:

- Địch tướng quân, chúng ta đã đầu hàng các người cũng nói rồi, không giết.

Trong lòng bọn họ lúc này rất lo sợ nghi hoặc. Chỉ thấy quân Tống lột y phục của họ, sau đó lại bắt họ trói lại, trong chốc lát không rõ quân Tống đang muốn làm gì.

Mười mấy người trong cốc ban nãy lúc này cũng đã thay xong y phục của người Đảng Hạng. Địch Thanh quay sang nói với một người:

- Lý Đinh, chuyện còn lại ở đây, nhờ cả vào ngươi.

Lý Đinh chính là người dẫn đầu binh sĩ Tử Phẫn, sắc mặt tro tàn, ánh mắt cũng mang màu tro tàn nguội lạnh, nghe vậy y chỉ gật đầu không nói. Y đã nhanh chóng lột bộ khôi giáp trên người Tuế Hương Giáp Nô mặc lên mình sau đó đội mũ sắt.

Thoạt nhìn, Lý Đinh dường như đã biến thành Tuế Hương Giáp Nô.

Địch Thanh nghe ngóng một hồi lâu thấy không có gì sơ suất, liền hạ giọng nói:

- Lý Đinh, ta muốn ngươi kiên trì cản đại quân đến.

Lý Đinh nói một cách ngắn gọn:

- Ty chức tuyệt đối không phụ sự phó thác của đại nhân.

Nói xong y quay người lên ngựa, đem theo hơn mười thủ hạ xuống núi, chạy về hướng thành Kim Thang.

Cửa thành Kim Thang đóng chặt, quân coi giữ thành mòn mỏi chờ Tuế Hương Giáp Nô trở về. Mặt trời đã lặn về tây, ánh chiều tà chiếu bóng cờ trên đầu thành, tinh kỳ phần phật, thấp thoáng gươm giáo sắc bén trên đầu thành.

Quân Đảng Hạng nói thế nào thì cũng có nhiều kinh nghiệm chiến đấu nên lúc này vẫn không dám khinh suất.

Đột nhiên, trên tường thành có binh sĩ hô lớn:

- Đoàn Luyện đại nhân trở về rồi.

Mọi người đưa mắt nhìn ra xa, chỉ thấy cuối chân trời nơi mặt trời chiều lặn xuống, một đoàn binh mã đã trở về. Nhìn người cầm đầu mặc khôi giáp thì đích thị là Tuế Hương Đoàn Luyện.

Quân coi giữ thành ai nấy thở phào, nói:

- Mở cửa thành.

Mọi người đều hiểu tính khí của Tuế Hương Giáp Nô, biết khi y trở về, nếu cửa thành vẫn đóng, nói không chừng y sẽ đem sự tức giận trút hết lên người xung quanh.

Cửa thành “kẽo kẹt” chậm rãi mở ra. Tuế Hương Đoàn Luyện đã tới trước cửa thành, y hơi hạ mũ sắt xuống để che đi một nửa bên mặt. Lúc y tiến vào thành, có binh sĩ chào đón, nói:

- Đoàn Luyện đại nhân, Thái Uy triệu người...

Chưa dứt lời thì người binh sĩ này liền trông thấy sắc mặt Tuế Hương Doàn luyện như tro tàn, liền hoảng sợ nói:

- Ngươi là ai?

Cùng lúc đó, ở cổng thành có tiếng hô của quân giữ thành truyền đến:

- Mau đóng cửa thành, có quân địch đột kích!

Sau tiếng hô đó thì ở phía chân trời, tiếng bước chân như sấm dậy, cuồn cuộn tới. Quân giữ thành nhô lên sau tường thành, chỉ trông thấy đám bụi mù mịt xông thẳng lên bầu trời trong khi trời đang trong xanh, bỗng dưng ở đâu mây đen kéo đến, mưa gió thổi tới.

Trên thành tinh kỳ lắc lư, kiếm khích đều tối.

Quân Đảng Hạng thấy khí thế quân địch mạnh mẽ, một lòng bị ép tới mức khó mà nhảy lên, hoảng sợ nghĩ đến:

- Quân Tống làm sao có thể có một đội kỵ binh khí thế ngút trời như vậy?

Tiếng gió, tiếng chân ngựa, tiếng gào thét hòa vào với nhau, người trên thành không thể nghe được tiếng thét chói tai dưới thành và binh sĩ dưới thành cũng khó mà biết được tình hình phía trên thành.

Lý Đinh đã xuất chiêu và đã xuất chiêu là thấy máu. Chỉ một chiêu đã lấy đi mạng của tên binh sĩ kia.

Mọi người chỉ trông thấy một đường sáng màu bạc nhanh như chớp từ trong cổ tay áo y đi ra, đâm trúng vào yết hầu người binh sĩ nọ. Khi rút đao ra thì máu cũng phun ra. Những binh sĩ phía sau Lý Đinh đã xuống ngựa hoặc là đã rút đao ra hoặc đỉnh thương. Chỉ trong khoảnh khắc rất ngắn giết hết quân coi giữ bên trong thành không sót một tên.

Trên lầu thành đã có người chạy xuống hô lớn:

- Mau đóng cửa thành.

Lại trông thấy trong thành máu chảy lênh láng thì không khỏi ngây người.

“Xẹt” một tiếng, ánh sáng màu bạc đã đâm vào cổ họng người kia, rồi rút về giống như rắn độc vậy.

Quân Đảng Hạng bao vây bên ngoài lúc này mới cảm thấy bất thường, liền hô lớn:

- Có gián điệp.

Quân Đảng Hạng lúc này mới lũ lượt xông tới, đao thương đồng thời, bức đám người Lý Đinh ra khỏi thành.

Sớm đã có người mở cửa thành, lấy ra những vật như cái búa cái chêm, kẹp chặt cửa thành lại trong tiếng “binh binh”. Dòng người mãnh liệt, Lý Đinh chặn ngay phía trước, trong giây lát liền trúng một đao bên bả vai, máu bắn lên mặt. Trong khi đó lại có vài người Đảng Hạng ngã xuống.

Tiếng bước chân càng mau thì người Đảng Hạng càng vội, nhưng chục binh sĩ tiến vào thành trước đó giống như những vách đá sừng sững bên bờ biển, cho dù có người ngã xuống thì sau đó có người bổ sung ngay.

Máu chảy thành sông, nhưng cũng không sao lật đổ được bức tường người phòng ngự.

Cửa thành không rộng, mặc dù quân Đảng Hạng có binh lực nhưng lại gặp phải hạn chế về địa thế, mấy lần tiến công không có kết quả. Trước mắt thấy quân địch hung hãn không sợ chết, lòng quân Đảng Hạng có chút hoảng sợ.

Bọn họ không hề biết, những người trước mặt họ tuy ít nhưng đều là binh sĩ Tử Phẫn thuộc hạ của Địch Thanh. Bọn họ cũng không hề biết, chính con người mặt như tro tàn này đã giết Đoàn luyện Bảo Vượng La của Diệp Thành.

Những binh sĩ Tử Phẫn này, vốn là con cháu trong quân đội, nhưng lại có điểm khác so với con cháu trong quân đội bình thường. Người thân huynh đệ của những binh sĩ Tử Phẫn này phần nhiều đều đã chết trên chiến trường, chết trong tay người Đảng Hạng. Bọn họ gia nhập hàng ngũ Tử Phẫn mục đích không phải vì công danh, lợi lộc mà cũng không phải vì tài lợi mà chỉ vì muốn báo thù cho người thân mà thôi.

Bọn họ chỉ muốn một trận! Một trận rửa hết mọi hận thù.

Quân Hạ mấy năm gần đây gây oán thù chồng chất, nên cũng chính từ nơi này mà những binh sĩ Tử Phẩn đã phản kích trở lại.

Tiếng vó ngựa đã đến trước thành trì.

Quân Hạ bất chấp không hô nữa, chỉ nghe theo hiệu lệnh của quân chủ, lần lượt bắn tên dài xuống. Tuy nhiên lần này quân Tống quả là đến quá nhanh quá đột ngột, binh lực quân Hạ lại không được triệu tập từ xa, nên chỗ mũi tên như mưa kia, tí tách, đã thiếu đi một phần dũng mãnh sắc bén.

Thiết kỵ quân Tống cuối cùng cũng tới chân thành, lãnh binh xông vào trước tiên là người mang mặt nạ bằng đồng xanh.

Mặt nạ dữ tợn kia, Hình Thiên bất khuất kia...

Lòng quân Hạ chấn động, kinh sợ. Người đến tấn công thành chính là Địch Thanh. Địch Thanh có thể không đợi tới khi trời tối, không dùng biện pháp vây thành đánh viện binh lại cũng không cần tới sự ủng hộ của các trại cứ như vậy mang theo mấy nghìn binh mã, chính là muốn phá thành Kim Thang?

Địch Thanh đã đến trước thành, bay người lên, thoạt nhìn thì thấy như sắp đụng phải tường thành nhưng không ngờ mũi chân di chuyển, men theo tường thành chạy lên mấy bước.

Quân Hạ trên thành trừng mắt nhìn, không ngờ trên đời này lại vẫn còn loại người như vậy. Địch Thanh chạy hết đường hết tốc lực khi còn cách tường thành khoảng hơm một trượng thì bỗng rút vỏ đao ra, cắm lên tường thành.

Địch Thanh mượn lực tiến lên, cầm lấy bao kiếm, rút đao ra, đâm liền hai cái, tận dụng lực ở giữa đã đứng trên đầu thành.

Quân Hạ kinh hãi, trong phút chốc đã quên cả việc bắn tên. Quân chủ trên thành bước lên trước, vung roi đánh, với ý đồ bức Địch Thanh rơi xuống thành.

Lúc này ánh trời chiều đơn độc.

Giữa không trung thình lình hiện ra một vệt sáng, ngưng lại trên bầu trời chiều, nghìn quân sát khí đằng đằng, trong sự linh hoạt nhạy bén còn mang theo chút sầu não. Trong ý chí quyết tâm giết chóc còn mang theo cả màu sắc tang thương.

Giết là vì không giết, lấy máu trả máu, ăn miếng trả miếng.

Vệt sáng này thậm chí còn làm lu mờ cả chút ánh sáng cuối cùng của mặt tời chiều, vạn kiếm nghìn đao trên một người, độc tấu, hoành hành không sợ ai hết.

Địch Thanh xuất đao, một đao hoành hành.

Một đao chém giết tên quân chủ đang vọt tới.

Máu tươi phọt ra, giống như vẩy mực trên tường thành vậy. Quân Hạ vốn vẫn muốn chen lên phía trước nhưng bất ngờ vì uy thế của một đao này mà bị chấn động, đưa mắt nhìn chiếc mặt nạ màu xanh dưới ánh trời chiều, không khỏi bất giác lùi lại phía sau.

Sau đó mấy chục quân Tống lại lên được trên thành.

Mấy người này không có bản lĩnh như Địch Thanh nhưng cũng nhanh nhẹn như vượn và khỉ vậy. Trong khi Địch Thanh dựa vào sự nhanh nhẹn đỉnh điểm thì bọn họ ngược lại dựa và bay bắt, bay bắt rồi tung ra, nắm chắc lỗ châu mai trên tường thành. Bọn họ nhân lúc Địch Thanh đánh lạc hướng mọi người thì không nói không rằng leo lên tường thành.

Những người này đều là binh sĩ Khấu Binh thuộc hạ của Địch Thanh.

Người Khấu- binh lính thường thì trong bị coi là loạn, ngoài thì cũng bị coi là giặc.

Khấu Binh cũng quấy nhiễu giống như binh sĩ của giặc. Những người này vốn là tội phạm cướp giật trong ngục tù nhưng được Chủng Thế Hành lựa chọn, dốc lòng khuyên bảo, nên được miễn tội chết, cho phép bọn họ ra chiến trường lập công chuộc tội, họ đều là những người có khả năng hơn người.

Trước đó cũng chính mấy người này đã giết Thác Bạt Ma Kha.

Những người này lên được trên đầu thành, không chút do dự xông thẳng vào quân Hạ bức quân Hạ khiến bọn chúng phải liên tiếp lui về phía sau. Bọn họ lấy công để thủ, lấy sự công kích sắc bén nhất để giành được cơ hội cho càng nhiều người lên trên thành hơn.

Thang mây nhẹ nhàng bay nhanh chóng khoát lên bên sườn của thành Kim Thang, có vô số người ra sức trèo lên bên trên, cũng có vô số người xông qua cửa lầu thành.

Đây vốn là mưu kế được vạch ra từ rất lâu rồi, muốn dựa vào một đòn sấm sét để quân Tống tràn vào nhiều nhất có thể, sau đó nhân cơ hội quân giữ thành Kim Thang đứng chưa ổn định thì ra sức tấn công một trận vào quân Hạ bên trong thành Kim Thang.

Dòng người như nước thủy triều, thế tiến công như làn sóng, quân Hạ từ trước tới nay luôn thấy quân Tống trong tình trạng yếu đuối nhu nhược chứ không hề biết quân Tống lại có thế lực mạnh như vậy. Bị quân Tống liên tục đánh làm loạn tuyến đầu. Khi mặt trời còn chưa lặn xuống thì quân Tống tiến về từ hai hướng đã tập hợp lại với nhau, cuồn cuộn như nước lũ tiến vào trong thành.

Thế tiến công như tên bắn và Địch Thanh chính là mũi tên bay trong số tên bắn ấy. Hắn hạ xuống lầu cổng thành đoạt lấy con khoái mã, ra sức thúc ngựa phóng về phía thành Kim Thang.

Ngoài ra vẫn còn hơn chục quân Tống đi cùng Địch Thanh. Những người này chắc hẳn là người vác trường cung, lắp kiếm sắc, nhuệ khí say sưa, theo sát phía sau Địch Thanh chính là Qua binh. Người dẫn đầu chính là binh sĩ Hãm Trận trong Thập sĩ.

Những người này đều có khả năng xung trận, vốn là những người lợi hại như tên.

Địch Thanh cưỡi ngựa dẫn đầu, phía trước cũng có một vài quân Hạ chặn đường nhưng đều không có ai có thể chặn lại một đao của hắn.

Khói bụi cuồn cuộn, tới trước cửa nha môn Thái úy thì đột nhiên dừng lại.

Thành Bạch Báo, thành kim Thang vẫn là những trấn quan trọng của quân Hạ, chịu sự quản lý của Hồng Châu nước Hạ. Nước Hạ vốn đã lập nên một nha thự Thái úy ở thành Bạch Báo nhưng lúc đầu thành Bạch Báo bị phá, mà Thái úy Hồng châu lại đang chỉ huy tác chiến ở trấn Nhung Quân nên đã tránh được việc bị bắt.

Sau đó nước Hạ đã đem nha thự Thái úy đặt tại thành Kim Thang.

Lần này Địch Thanh đã nhận được thông tin chính xác là Thái úy Hồng châu Khánh Đa Khắc Dụng đang ở trong thành Kim Thang. Mặc dù Địch Thanh đã giết được Đoàn luyện của thành Kim Thang, chém quân chủ coi giữ thành, phá được thành Kim Thang nhưng hắn vẫn chưa thấy thỏa mãn, hắn nhất định muốn bắt lấy Khánh Đa Khăc Dụng.

Chỉ có Khánh Đa Khắc Dụng mới biết được ý đồ dụng quân tiếp theo của Nguyên Hạo là gì!

Trước cửa phủ Thái úy có mấy tên binh sĩ tiến lên trước định quát lớn, Qua binh liền vung thương lên, binh sĩ Hãm trận phía sau Địch Thanh cũng nhất tề bắn tên.

Cung mạnh tên bắn lợi hại khiến cho mấy tên binh sĩ tiến lên ban nãy chỉ trong chốc lát đã biến thành những chú nhím. Có người hoảng sợ muốn bỏ chạy thì binh sĩ sau lưng Địch Thanh liền đâm trường mâu, sừng sững lẫm liệt, đã kết thúc sinh mạng của những người này.

Lát sau, mười mấy sinh mạng đã bị cướp đi, Địch Thanh quay người một cái đã tiến vào bên trong phủ, quát:

- Lục soát!

Quân coi giữ trước cửa phủ Thái úy không phải quá kém cỏi nhưng đứng trước thế tấn công mạnh mẽ của những binh sĩ của Hãm Trận thì đến một kích cũng không chịu nổi.

Địch Thanh đã ở trong phủ Thái úy, xoay mình lướt nhanh, chỉ trông thấy trong phủ một mớ hỗn loạn, rất nhiều nữ nhân hô to gọi nhỏ, tóc tai bù xù, ngơ ngác chưa biết chuyện gì đang diễn ra. Ngay lúc này trong đầu Địch Thanh hiện ra tấm bản đồ mà Chủng Thế Hành đã đưa cho hắn, nên rất nhanh chóng xông vào được chính sự đường của phủ Thái úy.

Khánh Đa Khắc Dụng không ở trong chính sự đường.

Địch Thanh lập tức chạy đến nơi ở của Khánh Đa Khắc Dụng. Lần này hắn đánh úp bất ngờ, nhìn thì nghĩ là bất thình lình nhưng việc này sớm đã có chuẩn bị từ rất lâu. Mấy năm trước Chủng Thế Hành đã nắm rõ như lòng bàn tay cách bố trí trong thành Kim Thang. 

Có thể Chủng Thế Hành biết, đó chỉ là những nghe ngóng từ rất xa mà vẫn chưa đủ, y cần một người thực hiện nó. Chủng Thế Hành đã đợi mấy năm nay cuối cùng cũng đợi được Địch Thanh.

Địch Thanh quả là đã không phụ sự kì vọng của Chủng Thế Hành, chỉ một lần hành động đã phá được thành Kim Thang nhưng điều đó vẫn là chưa đủ, hắn nhất định phải bắt sống Khánh Đa Khắc Dụng.

Vọt tới trước nơi ở của Khánh Đa Khắc Dụng, chỉ nghe thấy tiếng bước chân vang lên đám binh sĩ liền lao ra nói:

- Là ai....

Lời nói còn chưa dứt thì tên binh sĩ kia đã bị Địch Thanh một cước đá bay, rơi xuống đất ở mãi phía xa, xem ra là không thể sống được.

Địch Thanh xông vào phòng ngủ chỉ trông thấy một người thất kinh kêu lên và ngay sau đó là tiếng “leng keng” vang lên, một cái khay rơi xuống đất, chén sứ men xanh cũng theo đó mà rơi vỡ trên mặt đất, nước canh văng khắp nơi.

Đứng trước cái khay này là một tên béo, tên này rất mập mạp, mắt thì nhỏ, mặc y phục của người làm. Khi trông thấy Địch Thanh xông vào thì chỉ kêu lên:

- Chớ có giết ta!

Địch Thanh quát lớn:

- Thái úy ở đâu?

Tên béo này đảo mắt một lượt, rồi lập tức nói:

- Ta cũng không biết, ta chỉ là người bếp, đến đây mang canh tổ yến cho Thái úy, nhưng khi ta đến thì Thái úy đã không có ở bên trong rồi.

Giọng run run nói:

- Thái úy hẳn là đang ở chỗ nữ nhân mà thái úy sủng ái nhất, chính là phòng thứ ba sau khi ra khỏi vườn này.

Lời còn chưa nói hết thì Địch Thanh đã không trông thấy đâu nữa.

Tên béo kia kịp thở phào, vội vàng chạy đến trước bàn án, lấy tập thư từ, miệng lầm bầm “người này là ai?”. Lúc này y không thể nghĩ được nhiều nữa, liền vén tấm vạc giường lên. Y biết dưới cái giường hẹp này có mật đạo là lối thoát ra khỏi phủ Thái úy.

Không ngờ tay mới vừa thò ra thì đã thấy một cây đao gác trên cổ.

Tên mập cả người cừng đờ, giọng run run nói:

- Hảo hán tha mạng, ta chỉ là một tên đầu bếp.

Địch Thanh thản nhiên nói:

- Khánh Đa Khắc Dụng, tại sao ngươi lại không cho mình một thân phận tốt đẹp hơn nhỉ? Trên người ngươi không hề có mùi vị bếp núc, ban nãy ta giả vờ bị ngươi lừa để xem ngươi sẽ lấy gì bỏ trốn theo

Đầu bếp thì luôn luôn phải ở trong bếp nên trên người khó tránh khỏi có mùi khói, dầu. Mũi Địch Thanh rất nhạy bén chỉ cần ngửi một cái có thể nhận ra ngay. Huống chi Địch Thanh hắn đã xem qua bức họa Khánh Đa Khắc Dụng, giả bộ bị lừa chính là đã biết Khánh Đa Khắc Dụng tất sẽ mang theo văn kiện quan trọng mà bỏ đi.

Địch Thanh chính là vì văn kiện này nên mới tới. Tại thành Kim Thang khi hắn nghe được tin Nguyên Hạo muốn tấn công biên giới Tống, liền nghĩ làm thế nào để thêm một bước nghe ngóng tin tức của quân Hạ.

Đối với Địch Thanh mà nói thì công hạ thành Kim Thang chỉ là việc sau đó, còn việc lấy được tin tức của đối thủ mới là vô cùng cấp bách.

Tên mập nọ cả người chấn động, bất thình lình quỳ xuống đất nói:

- Ta...

Y mới nói một chữ thì đột nhiên lăn ra ngoài, tay đã kịp rút đao ra.

Người có thể làm tới chức Thái úy trong triều đình nhà Tống thì thi từ ca phủ có thể sẽ không tồi chút nào.

Người có thể làm tới chức Thái úy nước Hạ thì thân thủ nhất định không tồi.

Tên mập đó chính là Khánh Đa Khắc Dụng. Y biết tình hình lúc này hết sức cấp bách nên vội lột y phục của tên đầu bếp mặc lên người, vốn định lừa trốn khỏi phủ, không ngờ vẫn không thể qua được mắt Địch Thanh.

Mấy năm nay Khánh Đa Khắc Dụng dù làm Thái úy địa vị cao quý, sống an nhàn hưởng lạc ở trong phủ , nhưng sự nhanh nhẹn dũng mãnh ngày trước vẫn còn lại một chút. Y vẫn muốn liều mạng thử xem, suy cho cùng thì sự việc này vô cùng trọng đại, nếu như y thất thủ thì ảnh hưởng cực lớn.

Có điều y tuy có dũng khí liều mạng nhưng lại không có thực lực liều mạng.

Khánh Đa Khắc Dụng mới giơ đao lên, chỉ trông thấy một vệt sáng. Địch Thanh rút đao, thu đao nhưng không ai trông thấy hắn xuất đao.

Âm thanh “leng keng” vang lên, đao của Khánh Đa Khắc Dụng đã rơi xuống đất, trên cổ tay máu tươi đầm đìa. Vẻ mặt lúc đó của y nực cười không thể tả.

Địch Thanh chỉ một đao chém vào cánh tay của Khánh Đa Khắc Dụng. Hắn mỉm cười nói:

- Ngươi vẫn có thể đấu chứ.

Khánh Đa Khắc DỮg đặt mông ngồi xuống đất, dũng khí khi nãy giờ đã biến mất giống như máu chảy ra từ cánh tay y.

Địch Thanh nói:

- Ngươi có thể không cần phải chết. Ta biết... sắp tới Nguyên Hạo nhất định sẽ xuất quân, ngươi thân là Thái úy Hồng Châu nhất định biết phương hướng xuất quân của y!

Dụng ý của Địch Thanh rất đơn giản, Khánh Đa Khắc Dụng có thể đem tin tức để đổi lấy sinh mạng của mình. Thấy Khánh Đa Khắc Dụng vẫn còn đang im lặng, hắn thở dài nói:

- Xem ra ngươi xem mạng sống của mình rất rẻ rúng, được vậy ta có thể cho ngươi thỏa mãn. Dù sao thì tập hồ sơ trên tay ngươi cũng đủ tin tức cần thiết cho ta. Mặc dù ngươi không có chút giá trị nào hết nhưng thịt trên người ngươi vẫn có chút giá trị, có thể cắt ra nướng ăn, mùi vị chắc cũng không tồi.

Lúc này thì Qua binh cũng đã dẫn quân tới, Địch Thanh khoát tay phân phó, nói:

- Mang y ra ngoài...

Quân Tống vừa mới tiến lên phía trước thì Khánh Đa Khắc Dụng cắn răng nói:

- Ngột Tốt lần này muốn tấn công vào... Kính Nguyên lộ.

Địch Thanh liền im lặng, nghĩ đến lời nói của Nguyên Hạo trước đó:

“Huống chi... Tây Bắc vẫn còn có một Hàn Kỳ, người này tính tình cương trực, mặc dù có chí lớn nhưng ít nghe lời người khác nói. Thư sinh dùng binh, cuối cùng cũng có điểm yếu. Lần này, có thể chọn y làm chỗ để đột phá.

Quả nhiên Nguyên Hạo muốn tuyên chiến với Hàn Kỳ. Nguyên Hạo một khi đã quyết định thì khó lòng thay đổi!

Chẳng phải Hàn Kỳ vẫn muốn đánh dẹp Nguyên Hạo sao?

Lần này giao chiến, ai thắng người đó làm chủ?

Địch Thanh ngơ ngẩn một hồi lâu mới nói:

- Áp tải Khánh Đa Khắc Dụng về, đốt thành Kim Thang.

Ánh lửa nổi lên bốn phía, quân Hạ như rắn mất đầu, mất hết khả năng tác chiến, lần lượt bỏ trốn. Địch Thanh dẫn thiết kỵ chỉ có hai nghìn người, mang theo những gì có thể mang theo được sau đó một mồi lửa đốt thành Kim Thang.

Thành Kim Thang đã phế.

Địch Thanh không có nhiều binh lực đến vậy để có thể trấn thủ địa bàn mà mình giành được nên chỉ có cách đốt nó đi. Lúc này mặt trời đã lặn, trước khi quay lại thành Đại Thuận Địch Thanh không kìm nổi quay lại nhìn thành Kim Thang một lượt.

Ánh lửa rừng rực, nhuộm đỏ cả nửa góc trời, ánh lửa như máu...

Địch Thanh nhân lúc đêm khuya nhanh chóng trở về thành Đại Thuận. Được tin Địch Thanh phá được thành Kim Thang, giam giữ Thái úy Hồng Châu, trong thành tiếng hoan hô như sấm động.

Mấy ngày này, quân Tống vẫn không ngừng chiến đấu, thành Đại Thuận ngày càng mở rộng men theo trường lĩnh, quy mô ngày một tăng lên. Trước mắt mặc dù chưa thành thành nhưng cảnh giới uy nghiêm nên quân Hạ cũng không dám dễ dàng khiêu khích.

Quân Tống hai châu Khánh, Diên dưới sự chỉ huy của Phạm Trọng Yêm, cuối cùng cũng đã thay đổi tư thế đóng cửa không chiến đấu trước đây mà xâm nhập vào biên giới nước Hạ. Càng do Địch Thanh cầm đao thì nước Hạ càng yếu đi một đao.

Tuy không nguy hiểm tới tính mạng nhưng tinh thần quân sĩ vẫn dâng cao.

Địch Thanh trở về thành Đại Thuận, gặp Phạm Trọng Yêm, giao cho y tập hồ sơ. Phạm Trọng Yêm lập tức lệnh Phạm Thuần Hữu khao thưởng ba quân, ấn công ban thưởng. Còn y thì đích thân thẩm vấn Khánh Đa Khắc Dụng. Sau khi thẩm vấn xong lại cầm lấy tập hồ sơ mà Địch Thanh lấy được ra tra cứu tỉ mỉ.

Địch Thanh cũng không muốn làm phiền Phạm Trọng Yêm suy nghĩ nên đi vào trong trướng chủ soái thì thấy Chủng Thế Hành thân ra nghênh tiếp. Địch Thanh có chút vui mừng, hỏi:

- Lão Chủng, người làm sao tới đây?

Mấy ngày nay, Địch Thanh và Chủng Thế Hành một tiên phong, một mạc hậu, hợp tác vô cùng khăng khít nên cách xưng hô của Địch Thanh với Chủng Thế Hành cũng đã thân thiết hơn rất nhiều.

Chủng Thế Hành bụng to, mặt thì lại gầy hơn rất nhiều, khi thấy Địch Thanh thì nét mặt già nua sáng lên, giơ ngón tay cái lên nói:

- Địch Thanh, tên tiểu tử ngươi làm tốt lắm. Nhâm Phúc bỏ ra biết bao tâm lực, sau khi đánh được thành Bạch Báo thì dương dương tự đắc. Ngươi chỉ mang theo chưa đến hai nghìn người, liền một mồi lửa đốt cháy thành Kim thang, thật không uổng ta tống nhiều tiền như vậy.

Địch Thanh cười nói:

- Đó cũng là do huynh tìm được binh tốt. Số binh sĩ tuy ít nhưng khôn khéo, dũng mãnh, hoàn toàn có thể đánh úp bất ngờ.

Địch Thanh tuyệt đối không nói lời trái với lương tâm, bởi cho dù hắn mạnh nhưng nếu không có sự ủng hộ của binh sĩ thì khó có thể tấn công được quân Hạ. Chủng Thế Hành biết cách dùng người, khéo chọn binh sĩ, mười binh sĩ mỗi người đều có một sở trường riêng, được sử dụng phối hợp với nhau từ đó phát huy được tính hiệu quả của việc đánh úp bất ngờ. Trong chiến địch công kích thành Kim Thang thì công lao của Chủng Thế Hành là không nhỏ.

Chủng Thế Hành sờ trán, nói:

- Được rồi, ta với ngươi tán dương nhau tới đây thôi, chính sự gấp gáp. Đúng rồi, ta lại nghe ngóng được chút thông tin về Hương Ba Lạp.

Trong lòng Địch Thanh có chút lay động, chỉ còn lại chút thất vọng.

Hắn biết Chủng Thế Hành rất tốt với hắn, cũng biết Chủng Thế Hành tin Địch Thanh, và cũng tin sự tồn tại của Hương Ba Lạp, y vì Địch Thanh mà dò la tin tức có thể nói là đã dốc toàn bộ sức lực. Chỉ có điều Hương Ba Lạp quá thần bí, Chủng Thế Hành từ đầu tới giờ cũng chưa tìm ra địa điểm đích xác của Hương Ba Lạp. Hắn chỉ sợ... lần này cũng vẫn công dã tràng.

Nhưng trong lòng hắn đột nhiên thấy có chút kì lạ. Nếu có tin tức thì Chủng Thế Hành cho người tới báo là được, không cần đích thân mình đến. Nhưng lần này Chủng Thế Hành đích thân đến thành Đại Thuận lẽ nào là có chuyện khác nữa?

Chủng Thế Hành lúc này vẫn đang hào hứng nói:

- Truyền thuyết về Hương Ba Lạp là từ phía Tây Tạng truyền sang, điều này chắc ngươi cũng biết?

Địch Thanh nói:

- Chỗ nào truyền đến không quan trọng, quan trọng là tới đâu mà tìm... Đúng rồi, ta nhờ huynh cho người đi nghe ngóng tin tức về nó, kết quả thế nào rồi?

Hắn sớm đã nói qua với Chủng Thế Hành về những lời của Nguyên Hạo nói.

Chủng Thế Hành lắc đầu, nói:

- Ngươi sai rồi... nguồn gốc ngược lại rất quan trọng. Bằng không... trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Địch Thanh cau mày nói:

- Vậy huynh tìm được gì từ nguồn gốc của Hương Ba Lạp rồi?

Chủng Thế Hành đưa mắt nhìn bốn xung quanh, bộ dạng hết sức thần bí. Địch Thanh trông thấy cười nói:

- Đến bây giờ rồi thì huynh không cần phải giả bộ ma quỷ với ta đâu?

Chủng Thế Hành lắc đầu, kéo Địch Thanh tới chỗ không người chú ý.

Địch Thanh mặc dù thấy rất lạ nhưng biết Chủng Thế Hành làm vậy tất không thể không có nguyên nhân. Đến lúc này, Chủng Thế Hành mới nói:

- Rất nhiều người cho rằng Hương Ba Lạp là chuyện vô căn cứ. Nhưng theo như nghe ngóng của ta từ Tây Tạng thì, đại sĩ Liên Hoa Sinh khi từ bắc Ấn Độ du nhập vào Tây Tạng trong lúc truyền thụ Mật tông đã lập ra Hương Ba Lạp.

Địch Thanh run lên, nhịn không được nói:

- Đại sĩ Liên Hoa Sinh?

Chủng Thế Hành giải thích nói:

- Trong truyền thuyết của người Tây Tạng thì Liên Hoa Sinh đại sĩ là do phật Thích Ca đầu thai mà thành. Sau khi phật Thích ca Mâu Ni niết bàn, thấy người đời thống khổ, vì hoàn thành tâm nguyện độ thế nên đã mượn Liên Hoa đầu thai sang kiếp khác, vì thế mới có Liên Hoa Sinh đại sĩ. Truyền thuyết không biết là thật hay giả nhưng Liên Hoa Sinh đại sĩ thì thật sự có người này. Ban đầu Liên Hoa Sinh đại sĩ đến Tây Tạng truyền bá, mở rộng Phật pháp nhưng sau này phát hiện ra người nơi đây không hiểu được cái tinh yếu của Phật pháp hơn nữa cơ duyên cũng không đủ nên đã rời khỏi Tây Tạng và lập ra một căn cứ địa bí mật của Phật giáo là Hương Ba Lạp tạo điều kiện cho những người có duyên tiến vào. Còn về những loại Phục Tạng nào đó thì có trách nhiệm hướng dẫn người có duyên vào Hương Ba Lạp.

Địch Thanh lần đầu tiên nghe thấy chuyện này nên không khỏi nói:

- Vậy... cái nơi bí mật ấy đã có người vào chưa?

Đây mới là điều mà hắn quân tâm nhất từ đầu tới giờ.

Chủng Thế Hành gật đầu nói:

- Có, chính là Thiện Vô Úy, Kim Cương Ấn và Bất Không!

Địch Thanh kinh ngạc nói:

- Là ba vị thần tăng thủ hạ của Cốc Tư La sao?

Chủng Thế Hành lắc đầu, nói:

- Không phải, ba người Thiện Vô Úy này vốn là cao tăng Mật tông từ Ấn Độ tới vào thời thịnh Đường. Có thể nói ba người này là người sáng lập nên phái Mật tông, nghe nói ba người này thường xuyên lui tới Hương Ba Lạp, sau khi nhận được bí quyết Mật tông thì làm nên sự nghiệp lớn. Ba thủ hạ của Cốc Tư La cùng tên với ba vị cao tăng thịnh Đường kia ,chắc hẳn là đang ôm lấy suy nghĩ tìm Hương Ba Lạp.

Địch Thanh liền nhớ lại lời của Nguyên Hạo, gật đầu, nói:

- Không sai, Cốc Tư La cũng đang tìm kiếm Hương Ba Lạp. Nhưng có một điều rõ ràng là bọn chúng chưa tìm ra Hương Ba Lạp... trên đời này e là ngoài ba vị cao tăng thời thịnh Đường ra thì không còn ai khác có thể tìm ra Hương Ba Lạp.

Giữa lúc Địch Thanh đang thất vọng thì Chủng Thế Hành làm ra vẻ hết sức cổ quái, hạ giọng nói:

- Ngươi sai rồi, vẫn còn có một người rất có khả năng đã đi qua Hương Ba Lạp. Hơn nữa người đó lại ở ngay bên cạnh người!

Địch Thanh kinh ngạc, không thể tin nổi, hỏi:

- Là ai, ai đã đi qua Hương Ba Lạp?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro