Sáp Huyết 4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sáp Huyết

Tác giả: Mặc Vũ

Thể loại: Lịch Sử Quân Sự

Nhóm Dịch: Tàng Thư Viện + Đọc Truyện Đêm Khuya

Nguồn: Tàng Thư Viện + Mê Truyện

Ebook by: Kiếm Giới

Creator by: Thủy Hỏa Thần

-------o0o-------

 Chương 300 - 302: Vùng đất quỷ

Địch Thanh băn khoăn suy nghĩ, nhất thời cũng không đoán được là ai đã đến Hương Ba Lạp. Chủng Thế Hành không có thừa nước đục thả câu, lập tức nói ra đáp án:

- Người kia tên là Triệu Minh.

Địch Thanh sợ run lên, đột nhiên nhớ tới một người, liền la lên:

- Là người tàn tật từng trấn thủ trại Mã Phô, Triệu Minh?

Trong đầu hắn hiện lên một người vì tàn phế mà tự ti. Lúc xây dựng cải tạo thành Đại Thuận, người này chính là phụ trách điều tra địa thế.

Chủng Thế Hành gật đầu nói:

- Đúng vậy, ngươi cũng nhớ rõ y sao? Ta đã tìm hiểu khắp nơi, biết rằng y đã từng tìm ra Hương Ba Lạp, hơn nữa còn đi vào trong đó. Nhưng tính cách người này cổ quái, Hàn Tiếu có lần tiếp cận người này hỏi han, suýt chút nữa cùng y đánh nhau…Vừa rồi ta sợ y nhìn thấy chúng ta nói thầm, đối với ngươi có đề phòng, mới kéo ngươi đến chỗ không có ai này. Ta thấy ngươi nên đi hỏi Triệu Minh, nói không chừng sẽ có hiệu quả.

Địch Thanh thầm nghĩ đến tính cách của Hàn Tiếu, Triệu Minh có thể cùng Hàn Tiếu đánh nhau, đủ thấy Triệu Minh người này rất khó thân cận. Địch Thanh khó hiểu hỏi:

- Ta cũng không quen biết Triệu Minh a. Lúc ta tác chiến, y chỉ một mực im lặng sửa chữa thành. Đúng rồi, làm sao y lại trở thành bộ dáng như bây giờ?

Chủng Thế Hành khẽ thở dài nói:

- Người này kỳ thật cũng rất thảm. Y từng bị đày ngục, sau là được Phạm công phóng ra…

- Y phạm vào tội gì?

Địch Thanh giật mình hỏi.

Chủng Thế Hành nói:

- Nghe nói lúc y ở trại Mã Phô, bởi vì chân què nên người Tống coi thường y. Lại bị quân Tống đoạt lấy vợ, liền giận dữ đi tìm kẻ thù giết. Vết đao trên mặt y chính là do bị người ta chém phải.

Địch Thanh nhớ tới chân của Triệu Minh hơi thót, không khỏi nghĩ tới đại ca Địch Vân.

Những năm gần đây, Địch Thanh với đại ca chỉ gửi thư qua lại. Trong thư, đại ca nói rằng anh ấy sống vẫn tốt, lại còn mới có hai đứa con trai. Nhưng chân của Địch Vân vẫn không thể chữa khỏi. Chuyện này đối với Địch Thanh mà nói, luôn có chút hối tiếc.

Nghe đến Triệu Minh có hoàn cảnh thê thảm như vậy, Địch Thanh cũng có chút rầu rĩ, sau một lúc lâu mới nói:

- Lão làm sao có thể xác định y từng đi qua Hương Ba Lạp?

Chủng Thế Hành nói nhỏ vào tai của Địch Thanh vài câu, sắc mặt của Địch Thanh liền trở nên âm trầm. Một lúc lâu sau mới nói:

- Được rồi, ta biết rồi. Chuyện này ta đi xử lý là tốt rồi. Lão Chủng, đa tạ lão đã giúp đỡ. Đúng rồi, còn việc huấn luyện ngũ sĩ thì sao?

Chủng Thế Hành mặt mày nhăn nhó nói:

- Huấn luyện ngũ sĩ cho ngươi, là công việc rất tốn kém. Nói thực—a cũng chỉ làm hết sức thôi. Được rồi, ngươi đi đường bảo trọng.

Dứt lời xoay người rời đi.

Địch Thanh nhìn thân hình hơi chút gầy yếu của Chủng Thế Hành, đột nhiên nói:

- Lão Chủng...

Chủng Thế Hành ngừng bước chân, nhìn lại hỏi:

- Có chuyện gì?

- Trời lạnh, nhớ mặc thêm áo.

Địch Thanh chân thành nói:

- Tây Bắc không thể thiếu lão.

Trên mặt Chủng Thế Hành lộ ra vẻ tươi cười, nhìn Địch Thanh một lúc lâu mới nói:

- Ừ, ta đã biết. Ngươi cũng thế. Đến lúc liều mạng thì cẩn thận một chút. Tây Bắc cũng không thể thiếu ngươi.

Trong mắt hai người đều lộ ra vẻ quan tâm. Sau đó, Chủng Thế Hành gật gật đầu, chậm rãi rời đi. Địch Thanh vẫn đứng đó trầm tư, rồi mới đi đến hướng Triệu Minh.

Trời đã tối, Triệu Minh ở trong lều, không có thắp đèn. Địch Thanh dựa vào cây đại thụ một lúc. Nghe thấy tiếng bước chân truyền đến, hắn quay đầu lại nhìn, liền thấy Triệu Minh khập khiễng đi tới.

Triệu Minh không nhìn thấy Địch Thanh, chỉ đến cái ghế gỗ ngồi xuống. Lấy bánh mỳ trong lòng chậm rãi ăn. Địch Thanh nhìn sang y, chỉ thấy một bóng hình cô đơn lạc lõng. Nhớ tới những lời của Chủng Thế Hành, nói rằng người này sau khi đi Hương Ba Lạp thì bị gãy chân, nên rất kiêng kị những người khác nói đến ba chữ Hương Ba Lạp…

Địch Thanh nhìn y, không có lên tiếng.

Triệu Minh ăn xong bánh mỳ, sờ soạng trong áo, lấy ra một cái vòng tay, ngơ ngác nhìn. Chẳng biết tại sao, trong mắt đã có giọt lệ…

Ánh trăng trong trẻo nhưng lạnh lùng chiếu tới vòng tay kia, hiện lên ánh sáng thê lương, chiếu tới khuôn mặt bi thương của Triệu Minh.

Địch Thanh yên lặng nhìn Triệu Minh hồi lâu, rốt cục vẫn là ngừng ý niệm hỏi han, xoay người rời đi.

Đến bình minh, Địch Thanh mới dậy, liền có binh sĩ đi vào nói:

- Địch tướng quân, Phạm đại nhân mời ngài tới.

Địch Thanh lập tức đi tới lều của Phạm Trọng Yêm, nhìn thấy trong mắt ông ta toàn là tơ máu, còn đang trầm ngâm nhìn hồ sơ. Hắn biết Phạm Trọng Yêm đã cả đêm không ngủ, thấp giọng nói:

- Phạm công, ngài lại một đêm không ngủ, việc gì phải vất vả như vậy? Đại nhân tìm hạ quan có việc gì không?

Hắn biết Phạm Trọng Yêm bận về việc xử lý chính sự ở Tây Bắc. Nhiều khi đều là suốt đêm làm việc. Hắn có chút lo lắng sức khỏe của Phạm Trọng Yêm.

Phạm Trọng Yêm duỗi cái lưng mỏi, mỉm cười nói:

- Vất vả của ta so với các ngươi có là cái gì. Hôm qua ngươi mới ác chiến một trận, ta lại sáng sớm đã gọi ngươi, cũng là bất đắc dĩ.

Ông ta và Địch Thanh cũng không nhiều khách sáo, nói ngay vào điểm chính:

- Ta đã nhìn kỹ những quân văn mà ngươi lục soát được từ Khánh Đa Khắc Dụng. Ta cho rằng, Nguyên Hạo đã làm rất nhiều chuẩn bị. Việc xuất binh là không tránh khỏi. Hơn nữa, mục tiêu lần này của quân Hạ, cũng rất rõ ràng. Chính là muốn tấn công đường Kính Nguyên! Địch Thanh, ngươi có ý kiến gì không?

Địch Thanh hơi chút trầm ngâm, liền nói:

- Nguyên Hạo người này mặc dù tàn bạo, nhưng làm việc rất kiên nhẫn. Lúc trước y đánh Bảo An Quân là thử. Năm trước tấn công quân Trấn Nhung cũng k có thể là thử. Mục tiêu của y là ở Lũng Hữu, Quan Trung. Trận chiến ở Tam Xuyên Khẩu, y đã chiếm được một khu vực lớn của Diên Châu. Lần này, y muốn tấn công đường Kính Nguyên, đơn giản là tạo áp lực cho chúng ta. Chuẩn bị cho việc tiến vào Quan Trung sau này! Chúng ta nhất định phải phá hủy mưu kế này của y.

Phạm Trọng Yêm tán thưởng gật đầu, trong lòng thầm nghĩ: “Chủng Thế Hành đề cử vô cùng tốt. Địch Thanh có dũng có mưu, khó có được chính là suy nghĩ cẩn thận, chu đáo, có cái nhìn đại cục của một đại soái. Qua mấy trận chiến ở thành Bạch Báo, chợ Diệp, thành Kim Thang, có thể thấy phẩm chất đại tướng của hắn. Nên để hắn có thể thi triển hết tài hoa, thiên hạ mới có thể thái bình.

Nghĩ đến đây, Phạm Trọng Yêm nói:

- Địch Thanh, ngươi phân tích vô cùng tốt, có cùng cách nhìn với ta và Chủng Thế Hành. Quân Hạ mặc dù mạnh mẽ, nhưng bọn họ không giỏi công thành. Bởi vậy, bọn họ vẫn hy vọng dụ dỗ chúng ta đến bình nguyên đánh nhau. Chỉ cần chúng ta ứng đối cẩn thận, thì không có gì đáng ngại. Lúc này ở Phu Diên Lộ có Chuyển Vận Sứ - Bàng Tịch Bàng đại nhân cùng Chủng Thế Hành, Chu Mỹ cố thủ, quân Hạ không có cơ hội. Ta phòng ngự ở đường Hoàn Khánh, có sự giúp đỡ của ngươi, chí khí quân đội đang tăng, quân Hạ nhất thời không làm gì được. Các châu cách xa chúng ta như Hi Châu, Hà Châu, lại có Lưu Hỗ liên minh với Thổ Phiên phòng thủ. Nguyên Hạo sẽ không dám chủ động khai chiến với bọn họ. Bởi vậy, bất kể Nguyên Hạo xuất binh đến đâu, ta chỉ lo lắng nhất là đường Kinh Nguyên.

Phạm Trọng Yêm nhăn lông mày lại. Trong lòng ông ta nghĩ, trấn thủ đường Kinh Nguyên - Hàn Kỳ là người tâm cao khí ngạo, Doãn Thù thì chỉ biết lý luận suông. Sau trận thắng ở thành Bạch Báo, Nhâm Phúc cũng có chút kiêu căng, ngạo mạn. Ba người này có tiếng mà không có miếng, nếu giao phong với Nguyên Hạo, chỉ sợ…Ông ta biết Doãn Thù và Hàn Kỳ sẽ không nghe lời của ông ta. Hiện giờ, tình hình chiến trận ở Tây Bắc đang căng thẳng, nói với triều đình chuyện này chắc cũng không ai nghe, thực sự lo chết người.

Địch Thanh biết, sau khi thảm bại ở Tam Xuyên Khẩu, triều đình liền chia hai đường Vĩnh Hưng Quân, Tần Phượng thành bốn đường Phu Diên, Hoàn Khánh, Kính Nguyên, Tần Phượng. Dụng ý của triều đình là, địa bàn của ai thì người đó làm chủ, không đụng chạm đến ai. Thấy Phạm Trọng Yêm khó xử, Địch Thanh hiểu suy nghĩ của ông ta, liền hỏi:

- Phạm công, nếu chúng ta biết dụng ý của Nguyên Hạo, sao không hướng Hàn công bày tỏ. Phạm công tới tìm hạ quan, là muốn hạ quan tự mình đem tin tức này nói cho Hàn công?

Phạm Trọng Yêm khẽ thở dài một cái, chậm rãi nói:

- Địch Thanh, ta vốn biết ngươi không phải là người làm việc theo tình cảm. Ngươi am hiểu về chiến sự, nên những chuyện này ngươi nói là tốt nhất. Đương nhiên rồi, ta cũng có một b. Ngươi đem bức thư này, lập tức khởi hành đi gặp Hàn Kỳ, giao cho gã, đem chuyện hôm nay nói khó với gã, thể hiện rõ chúng ta đã cố hết sức

Trong lòng y lại nghĩ

“Địch Thanh là người điềm tĩnh, Hàn Kì với hắn lại chưa quen biết nhau, chỉ cần Địch Thanh nói chuyện này cho Hàn Kì thì Hàn Kỳ có lẽ phải đề phòng với Nguyên Hạo. Còn về bức thư không biết Hàn Kì có xem hay không?”

Địch Thanh nhận lệnh sau khi suy nghĩ một chút liền nói:

- Phạm công! Lần này ta đi, ngoài việc đem theo một vài thập sĩ đi, còn muốn đem theo một người.

Phạm Trọng Yêm nói:

- Là ai?

Địch Thanh nói:

- Ta muốn đem theo Triệu Minh

Phạm Trọng Yêm có chút kinh ngạc, không hiểu vì sao Địch Thanh lại muốn đem Triệu Minh đi cùng, nhưng gã cũng không hỏi nhiều, chỉ nói:

- Được! Thành Đại Thuận xây cũng sắp xong rồi, Triệu Minh có thể nghỉ ngơi mấy ngày. Ngươi mang theo y đi. Đi sớm về sớm.

Địch Thanh ra khỏi doanh trại, lệnh cho Hàn Tiếu, Qua Binh dẫn một số binh sĩ đi theo đường Kính Nguyên.

Giống như Bát bộ của Nguyên Hạo, binh sĩ của Địch Thanh cũng là những người có khả năng. Tử Phẫn đa phần dùng trong tử chiến, Dũng Lực cho những trận ác chiến, Khấu Binh dùng để chiến đấu khéo léo, Hãm Trận dùng trong xung chiến.

Đãi Mệnh cũng có liên quan tới Hòa Chiến, đều dùng trong bổ chiến. Bộ phận Đãi Mệnh của Hàn Tiếu đa phần đều là người nhanh nhẹn linh hoạt, chuyên khai thác tin tức của người khác.

Hai người Hàn, Qua nhận được lệnh của Địch Thanh, liền nhanh chóng thu xếp. Khi Triệu Minh khập khiễng đi tới, trong mắt khó giấu được sự kinh ngạc như không hiểu tại sao Địch Thanh lại đưa gã đi cùng, gã và Địch Thanh vốn chẳng có mối kết giao gì với nhau.

Địch Thanh chắp tay:

- Triệu huynh, vất vả rồi

Triệu Minh đáp lễ lại, giọng khàn khàn nói:

- Không dám. Nếu Địch Tướng quân muốn thì cứ gọi ta là lão Triệu.

Hàn Tiếu đứng bên cảm giác khẩu khí của Triệu Minh mặc dù lãnh đạm nhưng đối với Địch Thanh cũng có vẻ khách khí. Nếu biết lúc đầu Hàn Tiếu còn cười cợt hỏi Triệu Minh về chuyện Hương Ba Lạp, nhưng suýt chút nữa bị ăn một đấm của Triệu Minh, thì đủ biết tính tình của Triệu Minh cũng không dễ chịu cho lắm.

Địch Thanh gật đầu nói:

- Vậy cũng được, xuất phát thôi.

Hàn Tiếu rời đi trước, Qua Binh xuất phát theo sau, bọn họ đều biết, cái Địch Thanh yêu cầu không phải là bảo vệ, mà là yêu cầu tin tức các loại, để có thể ra những quyết định chính xác.

Hàn Tiếu, Qua Binh phụ trách tin tức, phụ trách tình hình quân sự nhằm đảm bảo cho Địch Thanh không đi nhầm đường, nhanh chóng gặp được Hàn Kì.

Tin tức có được từ Phạm Trọng Yêm là Hàn Kì đang ở Vị Châu. Nhưng đó là tin tức từ mười ngày trước rồi.

Phạm Trọng Yêm đang xây dựng và mở rộng thành Đại Thuận, tích cực phòng bị địch từ hai con đường Hoàn Khánh và Phu Diên, Hàn Kì chỉ có một mục tiêu.

Đó chính là tiến công!

Hàn Kì tuy là một văn nhân, nhưng còn giỏi hơn cả võ tướng. Những ngày vừa qua, Hàn Kì không ngừng chiêu binh mãi mã. Cho dù là Địch Thanh cũng biết được Hàn Kì không bao giờ từ bỏ suy nghĩ sẽ tiến công vào Tây Hạ

Người như Hàn Kì, sao có thể ngồi yên ở Vị Châu này?

Địch Thanh xuất phát từ thành Đại Thuận, nhằm theo hướng Tây Nam của Vị Châu, quả nhiên mới đến nửa đường, Qua Binh đã nhận được tin tức từ Hàn Tiếu rằng Hàn Kì không ở Vị Châu nữa, cụ thể đã đi đâu thì còn đang thăm dò.

Địch Thanh cười khổ, thầm nghĩ công việc truyền tin cũng không dễ làm chút nào. Trên đường Địch Thanh và Triệu Minh cùng đồng hành với nhau, Triệu Minh dường như đang có nhiều tâm sự, luôn cúi đầu, trầm mặc không nói gì.

Lúc này xuân về, trăm hoa đua nở, khắp biên thùy đã sống dậy trở lại. trên đường, trông xa thấy núi trùng điệp, sông chảy dài một dải, trong lòng Địch Thanh chỉ nghĩ, “Phong cảnh đẹp thế này, chỉ sợ chả mấy chốc sẽ lại bị binh đao khói lửa tàn phá. Ta phải hỏi thế nào mới không khiến Triệu Minh phản cảm đây?”

Tuy Địch Thanh dũng mãnh, nhưng suy nghĩ lại sâu sắc. Hắn biết chân của Triệu Minh là do từ sau khi đi Hương Ba Lạp trở về mới bị thương, hơn nữa tất cả những điều không may sau này của Triệu Minh đều liên quan đến cái chân bị thương kia. Hôm qua thấy Triệu Minh đầy vẻ cô đơn, Địch Thanh không đành lòng nhắc lại chuyện cũ, tránh đụng vào vết thương lòng của Triệu Minh.

Không ngờ Triệu Minh bỗng dưng nói:

- Địch tướng quân, ngươi tìm ta có chuyện gì sao? -

Đây là câu nói đầu tiên của Triệu Minh trên đường đi.

Địch Thanh có chút kinh ngạc, không ngờ Triệu Minh lại có thể nhìn ra dụng ý của mình. Hắn liền xoay người xuống ngựa nói:

- Bôn ba lâu như thế, nghỉ ngơi chút đi.

Triệu Minh chần chừ một lúc, rồi mới xuống ngựa, chân khập khiễng bước đi. Thấy Địch Thanh nhìn chân của gã, Triệu Minh cúi đầu nói:

- Ta đi đường không được nhanh nhẹn, làm chậm trễ hành trình của đại nhân.

Địch Thanh thở dài nói:

- Nhìn thấy ngươi, ta lại nhớ tới đại ca của ta. Đại ca của ta cũng bị khập khiếng một chân, nhưng cả đời này, chỉ có huynh ấy chăm sóc ta, chứ chưa bao giờ liên lụy đến ta

Trong mắt Triệu Minh ánh lên sự lo lắng, rồi giây lát vẻ mặt lại trở nên âm thầm. Gã quay đầu đi nhìn về phía xa, khẽ nói:

- Địch tướng quân, ngươi tìm ta, có phải muốn hỏi chuyện Hương Ba Lạp?

Địch Thanh hơi ngạc nhiên, không ngờ Triệu Minh lại nhạy bén đến như thế, nên hồi lâu mới nói:

- Ta vẫn luôn đi tìm Hương Ba Lạp. Nếu ngươi biết chuyện gì, không biết…có thể nói cho ta nghe không?

Địch Thanh lo lắng, cũng không ôm nhiều hi vọng. hắn thầm nghĩ Chủng Thế Hành nói Triệu Minh không muốn nhắc tới những chuyện trong quá khứ, để Triệu Minh mở miệng rất khó, không ngờ Triệu Minh lại nói:

- Được.

Địch Thanh nửa mừng nửa lo, thấy Triệu Minh thần sắc mơ hồ, chỉ có thể nói:

- Vậy đa tạ ngươi

Triệu Minh cười nói:

- Nhưng ta nói cũng chưa chắc đã giúp được cho ngài.

Địch Thanh cảm thấy lòng nặng trĩu. Chỉ thấy ánh mắt Triệu Minh sáng lên chút rồi chậm rãi nói:

- Địch tướng quân chắc cũng không biết, ta sinh ra ở khu giáp Tây Tạng, nên cũng có thể tính là một nửa dòng máu người Tạng. Mẹ ta là người Tạng, cha ta là người Trung Nguyên.

Khuôn mặt xấu xí của Triệu Minh, lộ ra chút hoài niệm.

Địch Thanh tuy rất muốn biết chuyện về Hương Ba Lạp, nhưng thấy Triệu Minh như thế, chỉ lẳng lặng lắng nghe.

- Thực ra khu Tây Tạng lưu truyền rất nhiều chuyện thần thoại, Hương Ba Lạp cũng là một trong nhưng chuyện thần thoại đó, nhưng chưa có ai tìm được nó. Hay có thể nói là….người đi tìm nó không bao giờ trở về nữa! – Cuối cùng thì Triệu Minh cũng vào đề. Nhưng không biết vì sao, khi nhắc tới Hương Ba Lạp, cơ thể hắn cứ run lên, trong mắt lại có chút kinh hãi.

Địch Thanh nghe đến đây, thấy vẻ mặt của Triệu Minh, trong lòng mơ hồ có chút bất an.

- Năm đó, ta thành thân. Người con gái ta cưới xinh đẹp lung linh. Ai nhìn thấy ta, cũng đều tán dương một câu, nói là ta thật may mắn. Ta cũng thấy như vậy. Ta sống vô ưu vô lo qua ngày, vốn cũng không tham vọng điều gì, nhưng có một ngày…một thương nhân trong tộc tới, nói mình họ Lịch, họ này….khá kì quái…người đó đúng là kì quái, nói là thương nhân, nhưng ta luôn có cảm giác gã khỏe mạnh thật sự, cứ như một cây thiết chùy vậy.

Địch Thanh nghe Triệu Minh tự nhiên nói đến mấy chuyện phiếm, biết rằng chắc hẳn phải liên quan tới Hương Ba Lạp nên nhẫn nại ngồi nghe. Hắn cũng chưa từng biết tới người họ Lịch này, nhưng nghe qua sự miêu tả của Triệu Minh, cũng cảm thấy có chút kì quái.

Một người, sao lại giống cái chùy được nhỉ?

Triệu Minh tiếp tục nói:

- người đó khá hào phóng, đưa cho Vạn Sự Thông trong tộc một thỏi vàng, bảo gã đi tìm mười tên tiểu tử đi làm, mỗi người mỗi ngày được hai lạng bạc. Hai lạng bạc cũng đủ để người như ta sống thoải mái trong một tháng nên huynh đệ trong tộc, đều hăng hái tham gia. Ta cũng “may mắn” được lựa chọn.

Địch Thanh thấy Triệu Minh nói đến “ may mắn”, trong mắt tràn ngập sự hối hận, thì biết rằng hai lạng bạc không dễ kiếm như thế.

- Bọn ta xuất phát từ Tây Tạng, thẳng tới Sa châu.

Lúc nói đến đây Triệu Minh thấy sắc mặt của Địch Thanh thay đổi, không nhịn được nói:

- Địch tướng quân! Ngài làm sao thế?

Địch Thanh lắc lắc đầu, trong lòng có chút phấn chấn. Sa Châu! Hương Ba Lạp chính là ở Sa Châu! Nhưng vì sao khi Triệu Minh nói tới chuyện này, trong mắt gã ngoài sự sợ hãi còn mang một nỗi buồn sâu xa.

Triệu Minh không truy hỏi, tiếp tục nói:

- Rất nhiều người vốn không muốn rời khỏi gia tộc, nhưng người họ Lịch kia mỗi ngày trả hai lượng bạc, không hề nuốt lời. Vì số bạc đó, bọn ta đều phải cố gắng, Sa Châu vốn thuộc sở hữu của Quy Nghĩa quân, sau đó bị Tào thị chiếm cứ.

Địch Thanh có nghe Chủng Thế Hành nhắc tới Quy Nghĩa quân, nghe Triệu Minh đặc biệt nhắc tới Tào thị, lại nhớ tới bản đồ Hương Ba Lạp có liên quan tới của Tào thị thì cảm giác như mọi việc đang được xâu chuỗi với nhau.

Sa Châu hoang vu, chuyện cũ kia cũng như cát bụi, không biết che dấu bao nhiêu những nỗi đau xót trong lòng.

Địch Thanh biết, Sa Châu bị người Hán và người Thổ Phiền tranh giành, sau đó mới bị Nguyên Hạo chiếm lĩnh. Có thể nói vùng đất này đã bị quét sạch.

Điều Địch Thanh nghi ngờ chính là , nếu Hương Ba Lạp đúng là ở Sa Châu, trong khi Dã Lợi Vượng Vinh cũng vì nó mà chết, thì tại sao Nguyên Hạo lại phái Dã Lợi Ngộ Khất đi trấn thủ Sa Châu? Bao nhiêu những bí ẩn giằng co không rõ. Triệu Minh tiếp tục nói:

- Bọn ta đến Sa Châu, liền đi về phía núi Tam Nguy. Không lâu sau, chúng ta tới được Đôn Hoàng!

Địch Thanh hơi run, lẩm bẩm nói:

- Đôn Hoàng? Hương Ba Lạp chẳng lẽ lại ở Đôn Hoàng?

Đôn----lớn; Hoàng---Vượng

Đôn Hoàng huy hoàng thịnh vượng có lịch sử lâu đời. Bao nhiêu đời ở Trung Nguyên đã để lại nơi đây những dấu ấn huy hoàng cùng với huyết lệ và truyền thuyết.

- Hương Ba Lạp ở Đôn Hoàng ư? Cũng có thể? - Triệu Minh lẩm bẩm nói.

Địch Thanh cảm thấy thắc mắc, không hiểu Triệu Minh rút cuộc định nói gì

- Sau khi đến Đôn Hoàng, tiến vào trong loạn sơn, nơi đó dường như gần với núi Tam Nguy.

-

Thần sắc Triệu Minh có chút hoảng hốt.

- Tên thương nhân họ Lịch đó cực kì thông thuộc đối với khu rừng núi đó. Gã đưa bọn ta đi xuyên núi vượt rừng, chẳng mấy chốc đã tới vách Tuyệt Bích,ta vẫn còn nhớ đi qua đông Tuyệt Bích, đúng là một sa mạc toàn màu xám. Đỉnh Tuyệt Bích đó, có một thác nước chảy xuống thật sự là bao la hùng vĩ. Bọn ta tới trước một cái bụi cỏ, thương nhân họ Lịch gạt cái bụi có đó ra để lộ một cái hang động ở đó.

Trống ngực Địch Thanh đập thình thịch, vốn định hỏi Triệu Minh nếu tới đó có tìm lại được địa điểm kia không . Nhưng nhìn sắc mặt của Triệu Minh như đang hoảng hốt, hắn đành nén ý nghĩ đó lại.

- Bọn ta thấy một hang động tối tăm, tất cả đều sợ. Không ngờ…tên thương nhân họ Lịch đi vào trước, còn dặn dò bọn ta đi theo sau. Bọn ta thấy gã to gan như thế, nên mới nghĩ động huyệt đó chắc cũng không có gì nguy hiểm, đểu đi vào. Cùng lúc đó bọn ta cũng cân nhắc xem tên thương nhân họ Lịch đưa bọn ta tới đây, rút cuộc có mục đích gì?

Địch Thanh cảm thấy khó iểu nói:

- Lúc đó các ngươi có biết…là sẽ đi đâu không?

Triệu Minh lắc lắc đầu

- Lúc đó không biết, mãi sau đó mới biết. Nhưng dẫu có biết, cũng không thực sự tỏ tường.

Thần sắc Triệu Minh hoảng hốt, câu trước không ăn nhập gì với câu sau, khiến Địch Thanh chỉ biết cười gượng. Nhưng hắn sợ Triệu Minh không nói, nên không dám hỏi.

- Bọn ta cứ theo hang động đó đi, chưa được bao lâu, phía trước bỗng nhiên sáng tỏ, hóa ra là một hang đá rất lớn. Đối diện hang đá, là một huyệt động. Cái hang đá đó chắc hẳn là tự nhiên tạo ra, trên đỉnh lại có một khe nên ánh mặt trời có thể xuyên qua vì vậy mà trong hang đá cũng không tối lắm. Chúng ta mới bước chân vào trong hang đá thì chợt nghe có tiếng người nói:

“Ngươi tới muộn rồi.”

Giọng nói của Triệu Minh thay đổi, khiến cho Địch Thanh giật mình, thầm tưởng tượng ra tình cảnh lúc ấy, đột nhiên có người nói, đúng là khiến người ta kinh sợ.

- Thương nhân họ Lịch không hề thấy sợ hãi, chỉ nói “ đến muộn còn hơn không đến”. Tới lúc này ta mới nhìn thấy bên hang đối diện có một người mặc đồ đen, che mặt cũng bằng khăn đen, chỉ lộ ra hai con mắt sáng quắc đang đứng. Người đó nói’ không ngờ ngươi còn đem theo đám người này.’ Thương nhận họ Lịch nói’ bọn họ không phải là trợ thủ của ta, ta thì cần gì trợ thủ? “ Người kia nhìn bọn ta một lượt với ánh mắt như rắn độc, một lúc sau mới nói ‘ việc ta cần làm, đã làm xong. Việc ngươi phải làm, đã làm tốt chưa?”

Địch Thanh nghe đến đây, trong lòng đã khái quát được tình hình. Thương nhân họ Lịch nhất định phải liên thủ với người trong hang đó để hành động, mới hẹn gặp nhau ở đó, nếu chiếc hang đó có mối liên hệ tới Hương Ba Lạp, việc của hai người này cần phải làm, đương nhiên có liên quan tới Hương Ba Lạp? nhưng thương nhân họ Lịch đưa theo đám người Triệu Minh tới đó để làm gì chứ?

Triệu Minh nhớ lại, cứ như là nói mộng vậy. Giọng nói của y hết sức nhỏ:

- Thương nhận họ Lịch nói’ ta đã kiểm tra kĩ rồi, nhưng không tìm thấy tung tích của Ngũ Long.”

Địch Thanh thất thanh nói

- Ngũ Long?

Triệu Minh hơi kinh sợ, định thần lại, thấy sắc mặt Địch Thanh có vẻ kì lạ, hỏi:

- Địch đại nhân, ngươi sao thế?

Địch Thanh lắc lắc đầu nói:

- Không có gì, ngươi…cứ tiếp tục nói đi.

Trong lòng hắn thầm nghĩ:”Vì sao Địch thương nhân lại đi tìm Ngũ Long? Xem ra Ngũ Long chắc hẳn phải có mối liên hệ gì đó với Hương Ba Lạp”

Triệu Minh nhìn Địch Thanh một lúc lâu sau, lại hỏi:

- Người che mặt lạnh lùng nói ‘ không có Ngũ Long, ngươi tới làm gì? Không có Ngũ Long, vào được Hương Ba Lạp cũng không giải quyết được vấn đề gì

Bây giờ Địch Thanh nghe từng câu nói của Triệu Minh mà như sấm rền cuồn, giọng khàn hỏi:

- Tại sao?

Triệu Minh lắc đầu,

- Ta vốn không biết bọn họ nói cái gì, nhưng cuối cùng rồi cũng hiểu, hóa ra nơi đó là Hương Ba Lạp…

Khóe miệng gã lộ rõ ý giễu cợt

- Mọi người đếu nói Hương Ba Lạp đẹp hoàn mĩ, là chốn tiên cảnh trên trần gian, từ trước tới nay ta chưa từng tới nơi nào như thế. Vốn tưởng người che mặt đó nói trêu đùa, nhưng nhìn thấy bộ dạng nghiêm túc của người đó, cảm giác như không phải họ đang đóng kịch. Thương nhân họ Lịch nói: “Nhưng các ngươi cũng phải thử đã chứ.”Gã đi tới nói thì thầm bên tai người che mặt mấy câu, người che mặt nhìn bọn ta một lúc lâu rồi nói ‘ cho dù thế nào, ta cũng đợi lâu lắm rồi, thể nào cũng phải thử”, gã quát vào mặt bọn ta như vậy.

- Đây là lối vào của Hương Ba Lạp, các ngươi đều đã nghe tới tên này rồi đúng không, chỉ cần vào được nơi này, nguyện vọng của các ngươi sẽ thành sự thật

Gã từ trong người rút ra một túi tiền, vung tay lên, bên trong rơi ra mười viên bảo thạch, nói “ đây chính là đồ lấy từ Hương Ba Lạp, các ngươi mỗi người một viên. Một khi đã vào được Hương Ba Lạp, còn có nhiều bảo thạch cho các ngươi lấy, bảo thạch đó đều là trứng của thiên nga, lúc đó mắt ta đều hoa hết cả lên, từ trước tới nay chưa từng thấy cảnh tượng đó bao giờ.

Địch Thanh cau mày nói:

- Người này tự dưng lấy số tiền lớn dụ dỗ các ngươi, không cần phải hỏi, bên trong nhất định có nguyên do.

Triệu Minh cười gượng, thở dài nói:

- Địch tướng quân, ngươi nói đúng, nhưng lúc đó ta nhìn thấy châu báu sao có thể nghĩ được nhiều đến thế? Nghe nói trong hang động có nhiều châu báu, rất nhiều người mắt cứ sáng lên, không đợi dặn dò, đã lần lượt vào trong hang. Thương nhân họ Lịch sớm đã chuẩn bị đuốc, đưa cho bọn ta mỗi người một cây, nói ‘ ai tìm được lối vào Hương Ba Lạp trước, có thể nhận được nửa số tài sản.

Địch Thanh khó hiểu nói:

- Huyệt động kia vẫn chưa phải là lối vào của Hương Ba Lạp sao? Lẽ nào nói….bên trong còn có động khác?

Triệu Minh gật đầu nói:

- Không sai, cái động đó đúng là thông bốn phương tám hướng, hình như đâm xuyên toàn bộ ngọn núi. Nếu bỗng dưng tiến vào, chỉ e bị lạc đường. Chỉ có điều bên trong lại có công nhân đánh dấu vết, bên tường đá có khắc mũi tên, chỉ phương hướng. đám người bọn ta, cứ theo hướng mũi tên mà vào, đi được vài dặm lộ trình liền.

Địch Thanh ngạc nhiên

- Công trình khai thác núi lớn như thế, lại gần Sa Châu, chỉ có Tào gia của Quy nghĩa quân mới làm được việc này.

Triệu Minh nói tiếp:

- Đi xa như thế, trong lòng bọn ta cũng có chút sợ hãi, muốn trở về, không ngờ đằng trước có một người gọi “ bảo thạch, trên vách đá có bảo thạch này. Bọn ta ngẩng đầu lên nhìn, nhìn thấy những tảng đá trên đỉnh đầu. tuy chỉ là mấy viên nhưng dưới ánh sáng, cũng rực rỡ lóa cả mắt. đoàn người ồ lên, cứ như bị điên hết cả lên.

Địch Thanh vẫn nghĩ cùng một vấn đề đó, thương nhân họ Lịch đem theo mười người Tạng tới, rút cuộc ẩn chứa dã tâm gì?

- Thương nhân họ Lịch luôn ở phía sau bọn ta, thấy thế nói’ hiếm thấy vô cùng, phía trước chắc chắn còn nhiều bảo thạch nữa’ riêng điều này không cần gã thúc giục, đám người kia không khác gì ong vỡ tổ đuổi theo. Ta mới lấy vợ, nên cũng có phần tham lam, hơi chút do dự, thầm nghĩ nếu lấy được viên đã bảo thạch, đủ tiêu cả một đời. cũng chính vì đang nghĩ thế, nên ta đi chậm hơn họ vài bước chân…

Trên mặt Triệu Minh tự nhiên biểu hiện thê thảm, gã vốn là người xấu xí, đã thế lại càng xấu hơn, Địch Thanh thấy vậy, trong lòng run mình, biết được có chuyện khủng khiếp đã xảy ra.

- Lúc đó sự điên loạn trong hàng lang khó mà diễn tả thành lời được, đột nhiên chân ta mềm nhũn ra, ngã xuống một khe đá bên hành lang. ánh lửa phía trước bỗng nhiên chuyển biến, đột nhiên tắt phụt, chỉ còn lại bóng tối trong hành lang đó.

Hai má Triệu Minh giật giật, thở dốc nói:

- Ngay sau đó, trong hành lang vang lên tiếng rít chói tai, sau đó ta nghe được mấy huynh đệ trong tộc thét lên sợ hãi rằng ‘ đừng bắt ta, đừng bắt ta.’

Đừng bắt ta!

Triệu Minh gần như dùng toàn bộ sức lực của mình để thốt lên mấy câu đó, âm thanh đó nghe thật thảm thiết, như âm hồn vừa khóc vừa kể lể, tràn đầy sự tuyệt vọng.

Mặc dù là ban ngày, gió xuân ấm áp, Địch Thanh nhìn thấy gương mặt vẹo vọ của Triệu Minh, toàn thân không khỏi lạnh thấu xương.

Đừng bắt ta? Là ý gì đây?

Đầu phía hành lang, đúng là có gì đó cổ quái, lẽ nào ở đó có hồng hoang quái thú, bát trảo bạch tuộc, chỉ trong khoảnh khắc đám người này đều bị bắt? vẫn trong hành lang đó, cũng có những con quỷ chết oan, tới bắt những người sống chuyển thế đầu thai?

Trời đất ảm đạm, khắp nơi là không khí đau thương.

 Chương 303 - 306: Hiệp huyết

Địch Thanh càng nghĩ càng thấy khó hiểu, lòng càng lúc càng kinh sợ. Con người chẳng phải luôn vì những thứ bản thân không biết mà sợ hãi hay sao?

Hương Ba Lạp - thế ngoại đào nguyên, sao lại biến thành địa ngục thê lương đến thế này?

Triệu Minh không ngừng la hét, như muốn trút hết toàn bộ sức lực ra vậy.

Địch Thanhthấy trán gã ướt đẫm mồ hôi, đồng tử trợn tròn, thì hoảng hốt, vội tang cho Triệu Minh một bạt tai.

Một tiếng “bốp” vang lên. Triệu Minh giật mình, quên cả la hét, cả thân người giống như vừa được lôi lêntừ dưới nước, mặt mày ngơ ngẩn.

Địch Thanhquát:

- Triệu Minh, người chớ có nói nữa, ta không nghe đâu.

Tuy hắn vốn muốn biết bí mật của Hương Ba Lạp, nhưng thấy Triệu Minh như thế này, hắn đâu nỡ lòng nào mà truy nữa?

Triệu Minh run rẩy, mồ hôi trán tuôn đầm đìa. Gã đột nhiên nắm lấy Địch Thanh:

- Địch tướng quân, ta xin ngài hãy để ta nói tiếp đi. Ngài không biết những năm này, đã bao đêm ta đều nằm mơ thấy ác mộng đâu. Nếu ta không nói ra, chỉ sợ rằng ta sẽ điên lên mất.

Địch Thanh thấy gã vẫn còn nhận ra hắn, mới trầm giọng mà nói:

- Nếu ngươi muốn nói, ta sẽ nghe.

Hắn vỗ vỗ vào vai của Triệu Minh, ý bảo gã thả lỏng người ra chút ít.

Đôi mắt Triệu Minh ánh lên cảm kích, rồi gã nói tiếp:

- Lúc đó, trong lòng ta rất sợ hãi, ta nghe thấy đồng bạn la hét ầm ĩ, giống như bị một con quái vật đáng sợ nào đó bắt lấy vậy, nhưng bọn họ không thể chống đỡ được. Trong thông đạo, tiếng gào thét rất thê lương, giống như mấy ngàn cái còi cùng lúc thổi bên tai vậy. Giọng của các huynh đệ trong tộc bị tiếng rít gào này át mất, không còn nghe rõ nữa.

Triệu Minh toàn thân run rẩy vẫn cố gắng nói tiếp:

- Lúc đó, ta như không thể cử động nổi, nhưng ý thức vẫn còn rất tỉnh táo. Cái cảm giác ấy giống như một cơn ác mộng vậy.

Triệu Minh thở dốc một chút mới nói:

- Rốt cuộc tiếng rít ấy cũng yếu dần đi. Ta đột nhiên nghe thấy thương buôn họ Lịch nói “Thời cơ đã đến rồi.” rồi chỉ thấy trước mắt có hai bóng người xẹt qua, chắc chắn là thương buôn họ Lịch và người bịt mặt.

Địch Thanh nhíu mày khó hiểu, nói:

- Thời cơ đã đến, điều này có ý gì?

Triệu Minh ngẩn người lắc đầu:

- Ta không biết, hai người đó nghe thấy âm thanh đáng sợ như vậy mà còn dám đi qua, lúc đó ta thật khâm phục lòng can đảm của họ. Ta chỉ thấy hai người kia đi qua chỗ rẽ, tiếng rít lại vang lên. Ta nghe thấy tiếng la kinh hãi của người bịt mặt “Có chuyện gì vậy?”. Sau đó hắn la lên thảm thiết “Đừng bắt ta!”

Tim Địch Thanh đập thình thịch, hắn hận là không thể tận mắt xem rốt cuộc là chuyện gì đã xảy ra?

- Người bịt mặt la lên rồi im bặt, ta chỉ nghe thấy có tiếng cười lạnh, phía trước bỗng nhiễn chói sáng lên. Ở đầu kia của thông đạo như có lửa đang cháy hừng hực vậy. Ta nghe thấy tiếng cười cuồng ngạo của thương buôn họ Lịch kia: “Trời xanh không phụ lòng ta.”

Địch Thanh vừa kinh hãi vừa thầm hy vọng. Hắn kinh hãi bởi sự điên cuồng của thương buôn họ Lịch, và hy vọng chính là thật sự có người đã vào được Hương Ba Lạp!

- Nhưng tiếng cười của thương nhân họ Lịch kia còn chưa dứt thì tiếng rít lại vang lên, lần này tiếng rít còn lớn hơn nữa, thương nhân họ Lịch kia sợ hãi kêu “Đừng bắt ta!” nhưng hắn vừa kêu xong, thì chẳng có động tĩnh gì nữa. Lát sau ta nghe thấy một âm thanh long trời lở đất, cả lòng núi đều rung chuyển.

Địch Thanh nhíu mày, trong lòng chỉ có một suy nghĩ, câu “Đừng bắt ta” rốt cuộc là có ý gì?

Triệu Minh hoảng sợ nói:

- Ta thấy cả ngọn núi sắp sập, thì chẳng biết sức lực từ đâu ra, chỉ biết cố men theo khe đá xông ra, liều mạng chạy về phía lúc đi vào. Lúc đó, đá trên núi không ngừng rớt xuống. Trong lòng ta chỉ có một suy nghĩ, đó là phải chạy ngay, mới mong còn được nhìn thấy lão bà nhà ta. Chẳng ngờ đột nhiên có tảng đá lớn rơi xuống, trúng lưng ta. Ta lập tức hôn mê bất tỉnh. Đến lúc tỉnh lại, mất bao công sức mới ra khỏi lòng núi. Thác nước kia không ngờ cũng đã khô cạn. Một chân của ta cũng bị đập gãy.

Địch Thanh nhìn chân của Triệu Minh, giờ mới biết được nguyên nhân vì sao gã què.

Triệu Minh kể hết đầu đuôi câu chuyện xong, cảm thấy dễ chịu đi nhiều. Gã lẩm bẩm:

- Địch đại nhân, ta thật không hiểu, nơi đó rốt cuộc có phải là Hương Ba Lạp không? Truyền thuyết về Hương Ba Lạp vốn không giống như vậy.

Địch Thanh vốn nghi hoặc vấn đề này, đã đang định nói, lại thấy vẻ mặt mệt mỏi của Triệu Minh nên chỉ nói:

- Chuyện đã qua là tốt rồi.

Triệu Minh vốn có thể biết được nơi duy nhất chọn người của Hương Ba Lạp, nhưng Địch Thanh lại không tiếp tục truy hỏi khiến gã vô cùng cảm kích nhìn hắn, muốn nói lại thôi.

Địch Thanh chỉ nhìn bóng mây trên trời xanh, dường như đang nhìn Hương Ba Lạp thần bí.

Hương Ba Lạp rốt cuộc là nơi như thế nào, hắn càng tìm hiểu, lại càng cảm thấy mơ hồ. Trong truyền thuyết, Hương Ba Lạp là tiên cảnh chốn nhân gian, sao nghe Triệu Minh nói lại giống như địa ngục thế?

Tiếng vó ngựa vang lên. Một người cưỡi ngựa từ đằng xa chạy đến, chính là Qua Binh.

Qua Binh mang đến một tin vô cùng chuẩn xác, bây giờ Hàn Kỳ đang ở trong trại Cao Bình ở trấn Nhung Quân.

Nếu như nói trại Nhu Viễn là đội tiền tuyến chống lại Hạ quân trên đường Hoàn Khánh thì trại Cao Bình chắc chắn là đội tiên phong chống lại Hạ quân trên đường Kính Nguyên.

Hàn Kỳ ở trong trại Cao Bình, chẳng phải có nghĩa là đại đao của y đã sắp xuất ra hay sao?

Lúc Địch Thanh nghĩ đến vấn đề này, thì đã đến trại Cao Bình rồi.

Trại Cao Bình phòng bị rất nghiêm ngặt, thành cao, hào sâu. Nhìn từ xa tinh kì tựa như khói lửa, đến gần xem lại cảm giác lạnh lẽo kinh người. Tuy đang là tiết xuân ấm áp, nhưng trại Cao Bình lại tràn đầy sát khí của cuối thu.

Hàn Tiếu đã đợi Địch Thanh ở ngoài trại từ sớm.

Địch Thanh báo cáo tên họ, binh sĩ nhanh chóng đi bẩm báo. Không bao lâu sau, một người đã ra nghênh tiếp bọn họ. Người này thần thanh khí sảng, nước da trắng nõn, chính là Kinh Lược Phán Quan Doãn Thù.

Gió quét sắc như đao, mưa nhọn như tiễn, cát bụi đẩy lui cả tuổi tác, người cũng dần suy mòn.

Nhưng cho dù thế nào, dung nhan và khí phách của Doãn Thù dường như cũng không thay đổi.

Doãn Thù nhìn thấy Địch Thanh, cười ha hả, nói:

- Địch Thanh, nghe nói gần đây ngươi đại náo Diệp Thành, uy phong lắm cơ mà, sao lại đột nhiên đến nơi đây?

Y liếc nhìn Triệu Minh, trong mắt lộ vẻ kinh ngạc.

Địch Thanh biết Doãn Thù tính tình thẳng thắn, tuy rằng có tranh cãi với Phạm Trọng Yêm, chẳng qua cũng là do bất đồng tư tưởng, chứ không phải xấu xa gì. Hắn liền chắp tay nói:

- Gần đây, Phạm Công nhận được quân văn, biết quân Hạ sợ Kính Nguyên xuất binh, nên phái ty chức sớm đến thông báo cho Hàn Công biết.

Doãn Thù mặt biến sắc, lát sau mới hừ lạnh nói :

- Bọn chúng muốn xuất binh à? Chuyện này không phải rất tốt hay sao? Hàn Công đã đợi lâu lắm rồi.

Trong lúc nói chuyện, Doãn Thù đã dẫn Địch Thanh đến trước trướng trung quân. Địch Thanh không có bảo Triệu Minh đi theo, nên gã biết điều đợi bên ngoài trướng. Địch Thanh cũng bảo Hàn Tiếu ở lại ngoài trướng.

Chưa kịp vào trướng trung quân, Địch Thanh đã chợt nghe thấy tiếng đàn nhạc vang ra. Doãn Thù cười:

- Địch Thanh, Hàn đại nhân đang đãi tiệc các tướng, ngươi đến rất đúng lúc. Nhóm ca múa Bạch Mẫu Đơn này nghe nói là xuất sắc nhất trong chu vi một trăm dặm quanh đây, ngươi thật có diễm phúc mới được xem đấy.

Địch Thanh nhíu mày lại, thầm nghĩ Hàn Kỳ này đúng là thư sinh, vẫn mang bản tính phong nhã của chốn kinh thành. Trên thực tế, Địch Thanh đã quá quen thuộc với chuyện này rồi, năm đó là Phạm Ung, sau là Hạ Tùng, bây giờ là Hàn Kỳ

Quan văn chốn biên ải, ngoại trừ Phạm Trọng Yêm ra, hầu hết đều coi ca múa, thơ từ như một bộ phận cơ thể, không thể tách rời.

Màn trướng được vén lên, cái mà Địch Thanh nhìn thấy đầu tiên không phải là ca múa nhộn nhịp như mẫu đơn trong vườn, mà là Hàn Kỳ đang ngồi trên cao kia.

Địch Thanh chưa bao giờ gặp Hàn Kỳ, nhưng lần đầu tiên thấy người ngồi trên cao kia, hắn đã biết người này chắc chắn là Hàn Kỳ. Chỉ có Hàn Kỳ mới có thể ngạo mạn như thế, chỉ có Hàn Kỳ mới có thể khiến cho chúng tướng lĩnh vốn bướng bỉnh, không chịu thuần phục như Nhậm Phúc phải cung kính như thế.

Địch Thanh đã nghe nói tới Hàn Kỳ từ lâu. Khi còn ở kinh thành, hắn đã nghe về người này qua lời kể của Nguyên Hạo, Trương Viễn, rồi cả Doãn Thù, Phạm Trọng Yêm.

Người này là nhân vật được coi trọng, cũng bởi bản thân y vốn đáng để tự hào.

Năm Hàn Kỳ hai mươi tuổi thi đậu tiến sĩ, sau đó vào phủ Khai Phong, trở thành phán quan của Thiên Độ, giữ chức Ti Gián. Quan lộ rộng thênh thang, không giống với Phạm Trọng Yêm.

Nhưng Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm giống nhau, đều dựa vào lời can gián mà nổi tiếng. Phạm Trọng Yêm vì can gián mấy phen lên xuống, nhưng Hàn Kỳ lại nhờ vào lời can gián mà nổi danh thiên hạ.

Sau khi thái hậu lâm bệnh qua đời, Triệu Trinh bắt đầu nắm quyền, cảm thấy triều đình thật vô vọng. Hàn Kỳ lúc này dâng lời can gián, nói bốn người của Lưỡng Phủ Chi Trung là Vương Tuỳ, Trần Nghiêu Tá, Hàn Ức, Thạch Trung Lập đều là những kẻ tài hèn sức mọn, ít có đóng góp xây dựng. Y khẳng khái nói ra, khiến cả triều đình đều rúng động.

Những người của Lưỡng Phủ Chi Trung đều là những nhân vật đệ nhất Tống Đình. Hàn Kỳ thẳng thắn khiển trách những người này, ai cũng nghĩ chức quan của y khó mà bảo toàn, nhưng kết quả là, Triệu Trinh bãi miễn hết chức vụ của bốn người Vương Tùy, mà trọng dụng Hàn Kỳ. Sau chuyện này, cả triều đình chấn động, danh tiếng Hàn Kỳ nổi lên như cồn.

Có một số người chỉ cần qua một chuyện, có thể khiến thiên hạ khắc cốt ghi tâm.

Huống chi, chuyện này bất quá chỉ là một trong vô số công trạng trong đời Hàn Kỳ. Lại thêm bao nhiêu tô vẽ thêm cho quầng sáng quanh người y khiến nhiều người thậm chí không dám nhìn thẳng vào y.

Hàn Kỳ nhìn thấy Địch Thanh, vẻ mặt vẫn điềm nhiên, chỉ là chỉ vào một chỗ khá xa và nói:

- Địch Đô Giám, mời ngồi.

Hàn Kỳ hoàn toàn không hỏi Địch Thanh tới đây để làm gì, tựa hồ như trong mắt y, chuyện gì cũng không bằng màn ca múa này. Y là Hàn Công uy danh thiên hạ, cho phép Địch Thanh cùng thưởng thức ca múa với y, đã là nể mặt Địch Thanh lắm rồi.

Địch Thanh chậm rãi ngồi xuống, đảo mắt nhìn qua những người đang xem ca múa. Hắn phát hiện nơi đây có rất nhiều gương mặt quen thuộc.

Đám người Vũ Anh, Vương Khuê, Chu Quan, Tang Dịch đều có ở đây.

Những người này đều đã từng sánh vai kề bước cùng với Địch Thanh, đã có giao tình từ lâu. Khi biên giới xảy ra chiến tranh, Triệu Trinh phái rất nhiều cấm quân tinh anh ra biên cương. Những người này ở biên cương, đều nhờ lập công mà được thăng chức, có những người chức quan còn lớn hơn Địch Thanh, nhưng đối với ân nghĩa năm đó của hắn, ai cũng đều cảm kích.

Những người này nhìn Địch Thanh, đều mỉm cười. Địch Thanh cũng cười đáp lễ.

Địch Thanh ngồi hàng ghế cuối.

Địch Thanh tuy là đệ nhất tướng trong số thủ hạ của Phạm Trọng Yêm, nhưng hắn chẳng qua chỉ là Binh Mã Đô Giám. Binh Mã Đô Giám là suất thần, cũng coi như là một viên quan được bổ nhiệm lâm thời.

Tống Đình vì đề phòng võ tướng tạo phản, luôn chọn phương pháp phòng thủ, không ngừng đổi tướng lĩnh đến trấn thủ biên ải, chinh chiến. Suất thần chính là kết quả của phương pháp phòng thủ này. Suất thần có nhiều loại, có An Phủ Sứ, Kinh Lược Sứ, Đô Bộ Thự, Bộ Thự, Bộ Kiềm Hạt, Đô Giám, Tuần Kiểm.

Địch Thanh vẫn là Binh Mã Đô Giám, tuy Phạm Trọng Yêm đã cho hắn làm Bộ Thự phụ trách hai đường Hoàn Khánh và Phu Diên, nhưng hắn suy cho cùng cũng chỉ là Đô Giám mà thôi.

Trong quân trướng này, những người cùng chức quan với hắn không ít, chức quan cao hơn hắn lại càng nhiều, do đó hắn chỉ có thể ngồi ghế chót. Hắn uống một hớp rượu, lẩm bẩm nói:

- Có rượu có đồ ăn, ngươi vẫn còn hy vọng cái gì hơn chứ?

Hàn Kỳ thấy Địch Thanh biết phép tắc liền khẽ nhếch miệng cười, khách khí nói với một người kế bên:

- Quốc cữu, mời ngài thưởng thức màn ca múa này.

Hàn Kỳ ngồi bên cạnh một người, trên trán đầy nếp nhăn, tóc bạc, chợt nhìn thì giống như một người già, nhưng nhìn thật kĩ, thì cảm thấy người này rất trẻ.

Tóm lại cho dù nhìn ra sao, người này cũng vô cùng kì quái.

Địch Thanh cảm thấy kì quái, trong lòng nghĩ .

-Quốc cữu gia ? người này là em của Hoàng hậu đương triều ?

Tuy Địch Thanh khá lâu không về kinh thành, nhưng biết Triệu Trinh phế hậu không bao lâu thì lập Tào Thị làm Hoàng hậu. Tào Hoàng hậu là cháu gái Tào Bân, tướng lĩnh khai quốc của Đại Tống , một vị công thần , có thể nói là xứng đôi với Triệu Trinh

Chẳng biết vì sao Địch Thanh lại nhớ đến năm ấy tại Tập Anh Môn, Triệu Trinh buồn bã, thất vọng, trên miệng nở nụ cười bất đắc dĩ. Hắn không biết Triệu Trinh cưới Tào hoàng hậu, có bị người ta bắt buộc hay không nhưng hắn cũng không muốn biết.

Tào Quốc Cữu đột nhiên nói :

- Không biết Địch Đô giám cười gì vậy?

Tào Quốc Cữu vừa mở miệng, tiếng đàn sáo trong màn trướng chợt lắng xuống.

Bạch Mẫu Đơn cũng không giận nữa, thu bớt vẻ phóng túng lại.

Kì thực rất nhiều người trong trướng cũng đang nhìn Địch Thanh, nhưng Hàn Kỳ cố ý tỏ ra lạnh nhạt, mọi người muốn nói cũng không thể mở miệng nói được.

Mọi người đều biết, Hàn đại nhân và Phạm đại nhân tuy đều là những người tài trấn thủ biên cương, nhưng lại có chút mâu thuẫn, Phạm đại nhân chủ trương phòng thủ, Phạm đại nhân thích tấn công, Hàn Kỳ cố ý lạnh nhạt với Địch Thanh, mọi người tuy không biết, Hàn Kỳ có phải biểu hiện bất mãn hay không, nhưng mọi người đều là thủ hạ của Hàn Kỳ, đương nhiên phải biết thức thời.

Ở đây chỉ có Tào Quốc Cữu không thức thời, tuy sắc mặt Hàn Kỳ trở nên nghiêm trọng nhưng vẫn không nói lời nào.

Hàn Kỳ là một người hết sức cuồng ngạo, cũng có bản lĩnh, nhưng đồng thời cũng là một người biết thời cơ, chỉ có cơ hội xuất hiện , y mới ra tay. Bởi vậy, y không giống như Phạm Trọng Yêm, ngỗ nghịch với Thái Hậu, xúc phạm chọc giận thiên tử, đối nghịch với đệ nhất nhân đương triều Lã Di Giản. Tào Quốc Cữu không có thực quyền gì, nhưng ông ta là hoàng thân, Hàn Kỳ cảm thấy không cần chấp nhất hạng người này.

Hàn Kỳ không biết vì sao Tào Quốc Cữu muốn đến biên cương, y chỉ biết, người này lại rồi, y tỏ ra lá mặt lá trái là được. Hắn càng không hiểu vì sao Tào Quốc Cữu sau khi vào trướng của Địch Thanh thì luôn nhìn chằm chằm Địch Thành, nhưng Hàn Kỳ không nhất thiết phải hiểu điều này.

Con người ở trên đời cái nên biết thì biết, cái cần hồ đồ thì phải hồ đồ, biết nhiều cũng chưa hẳn là chuyện tốt.

Trong doanh trướng trở nên yên tĩnh, Địch Thanh thấy Tào Quốc Cữu nhìn chằm chằm vào mình, liền nói :

- Hạ quan nghĩ đến lời dặn dò trước khi đi của Phạm đại nhân nên bật cười.

Tào Quốc Cữu hiếu kì nói :

- Phạm đại nhân, có phải Phạm Trọng Yêm không? hắn có dặn dò điều gì buồn cười à ? muốn

Địch Thanh đột nhiên phát hiện, âm thanh của Tào Quốc Cữu có chút hơi cao, hắn gần như cho rằng Tào Quốc Cữu là một thái giám, nhưng nhìn thấy dưới cằm Tào Quốc Cữu có hàm râu rậm rạp, nên đè nén sự nghi hoặc, trầm giọng nói :

-Phạm đại nhân nói, quân tình khẩn cấp, bảo hạ quan phải đi ngưạ không ngừng nghỉ đến đây, hạ quan cảm thấy, Phạm đại nhân thực sự quá lo lắng rồi, cho nên mới buồn cười.

Tào Quốc Cữu nháy nháy mắt, hầu như không hiểu ý châm chọc của Địch Thanh. Sắc mặt Hàn Kỳ trầm như nước, các tướng quân trong trướng cũng hơi lo lắng.

Nhâm Phúc vỗ án quát to :

-Địch Thanh, ngươi biết cái gì? Hàn đại nhân đã sớm bày mưu tính kế, lần này đãi tiệc các tướng …

Nói chưa xong, Hàn Kỳ xua tay bảo Nhâm Phúc ngừng lại, thản nhiên nói :

-Địch Thanh, ngươi có quân tình khẩn cấp gì?

Địch Thanh lấy ra thư của Phạm Trọng Yêm dâng lên, Hàn Kỳ nhận lấy, hoàn toàn không mở ra, hỏi :

- Ngươi không ngại nói tóm tắt một chút cho ta biết chứ

Địch Thanh hỏi ngược lại :

- Trước khi hạ quan nói quân tình, xin hỏi một chuyện.

Hàn Kỳ có chút kiêu ngạo nói :

- Chuyện gì ?

Địch Thanh thoáng nhìn nhạc sư trong quân và Bạch Mẫu Đơn đã ngừng nhảy múa, nói từng chữ :

- Chẳng lẽ mỗi lần trước khi Hàn đại nhân thảo luận quân tình, đều cần những nhạc sư, vũ nữ thế này sao ?

Trong lời nói của Địch Thanh thể hiện chút bất mãn, những tin tức này là do thủ hạ của hắn liều chết mới có được, lỡ như bọn nhạc sư nữ công này biết được thì mất hết giá trị rồi, hắn làm sao đối mặt với các binh sĩ đã hi sinh ?

Doãn Thù chau mày, thầm nghĩ rằng tên Địch Thanh này cũng biết điều, té ra Hàn Kỳ lúc ở kinh thành, thì không có rượu thì không vui, không có kĩ nữ lại càng không vui, tác phong này khi đến biên cương cũng vẫn như thế, mặc dù có bớt đi nhưng không hề cấm đoán.

Những quan văn được phái đến Tây Bắc, rất nhiều người đều muốn mang tới làn gió xa hoa lãng phí của kinh thành tới.

Xa như Phạm Ung, gần như là Hạ Tủng, tựa hồ như là cả ngày chỉ uống rượu nghe nhạc, ca múa không ngừng nghỉ, không nghĩ đến nghĩa vụ giữ gìn biên cương.

Doãn Thù thấy, tác phong này của Hàn Kỳ chỉ có thể nói là phong lưu, không thể nói là làm hỏng việc được, bởi vì mấy ngày nay Hàn Kỳ đang tích cực chuẩn bị tác chiến. Địch Thanh lúc này khiển trách không kiêng nể, làm sao Hàn Kỳ có thể nhẫn nhịn được chứ ?

Trong lòng Hàn Kỳ vô cùng tức giận, y vốn là Trấn An Phó Sứ Thiểm Tây, cho dù là Hạ Tủng đối với y cũng phải khách khí, không ngờ đến một Đô giám binh mã mà dám bới lông tìm vết trách móc y. Nếu là thời bình, Hàn Kỳ đã ra lệnh chém đầu Địch Thanh từ sớm rồi, nhưng y cảm thấy Tào Quốc Cữu nhìn hắn cảm thấy rất có hứng thú, Hàn Kỳ bình tĩnh trở lại, cố gắng điềm nhiên mà nói:

- Nếu như ngươi muốn ta cho tả hữu lui ra, thì nhất thiết phải nói rõ quân tình, để ta đánh giá xem có đáng phải cẩn thận như thế không?

Địch Thanh lập tức nói :

- Phạm đại nhân muốn hạ quan truyền đạt động thái xuất binh của quân Hạ.

Có một người bên cạnh cười lạnh nói :

-Địch Thanh à, Hàn đại nhân gần đây luôn lưu ý động tĩnh xuất binh của người Hạ, đâu cần ngươi đến nhắc nhở làm chi? chẳng lẽ …ngươi và Phạm đại nhân thông minh hơn Hàn đại nhân hay sao ?

Địch Thanh quay đầu sang nhìn,thấy người vừa lên tiếng cũng là người quen biết cũ, chính là Thường Côn.

Năm ấy Địch Thanh mới vào ban trực, Thường Côn là người lãnh đạo trực tiếp của Địch Thanh, sau đó Địch Thanh thì vẫn không tiến triển gì, còn Thường Côn thì từng bước là nhân vật quan trọng trong triều được Cát Hoài Mẫn tín nhiệm, lúc này gã đang là Tuần Kiểm Tây Lộ Trấn Nhung Quân.

Thường Côn chất vấn, hiển nhiên là có ý nịnh bợ Hàn Kỳ, Địch Thanh nghiêm mặt nói :

- Cổ nhân có nói, “Kẻ trí nghĩ ngàn điều thì vẫn có điều sơ suất, người ngu ngàn lo cũng có một lần được” , Hàn đại nhân và Phạm đại nhân cùng nhau gìn giữ biên cương, chống lại quân Hạ, nên phải đồng tâm hiệp lực, trao đổi tin tức cho nhau. Nhắc nhở lẫn nhau, vốn là trách nhiệm của hai bên thôi, sao có lòng khoe khoang chứ?

Thường Côn châm chọc :

- Vậy không biết Địch Đô giám có được tin tức này từ đâu ?

Nói dứt lời thì cười ha hả, rất là khinh miệt.

Địch Thanh lạnh lùng nói :

- Tin tức này, là từ chính miệng Thái Uý Hồng Châu Khánh Đa Khắc Dụng nói ra.

Mọi người hơi giật mình, lại có một người hỏi :

- Địch Đô giám xin hãy chỉ giáo? Sao Khánh Đa Khắc Dụng lại nói quân tình cho Địch đô giám biết?

Người đó mặt đen râu dài, Địch Thanh nhận ra gã chính là Cảnh Phó, là một Tham quân.

Cảnh Phó và Quách Tuân là người quen biết cũ, lúc trước Địch Thanh mới đến biên cương, vẫn được Cảnh Phó quan tâm.

Địch Thanh trả lời:

- Mấy ngày trước ta phá thành Kim Thang, giam giữ Khánh Đa Khắc Dụng, lục soát lấy được tin tức từ trong phủ Thái Uý của hắn.

Một người la lớn :

- Địch Thanh, ngươi phá thành Kim Thang rồi à ?

Người nói chính là Vũ Anh.

Mọi người chấn động, nghe tin Địch Thanh phá được thành Kim Thang, tâm trạng khác nhau, Nhâm Phúc chỉ cảm thấy Địch Thanh đang khoe khoang, còn trong mắt Thường Côn thì lộ vẻ ghen ghét, còn Vũ Anh thì kinh sợ.

Về phần Vương Khuê, Chu Quan, Tang Dịch đều cảm thấy bùi ngùi, nhớ đến lời của Thiệu Ung lúc trước:

“Địch Thanh, ngươi sẽ là anh hùng trong thiên hạ.”

Lúc trước Nhâm Phúc đã huy động không biết bao nhiêu binh mã, tự mình làm giám quân, trù tính mưu lược rất lâu, mới phá được thành Bạch Báo. Thành Bạch Báo bị hủy có thể nói là chấn động thiên hạ, triều đình đại Tống rất vui, Nhâm Phúc cũng nhân vậy được thăng mấy cấp, kiêu căng trước mặt mọi người.

Nhưng Địch Thanh lại âm thầm phá được thành Kim Thang cũng quan trong ngang với Thành Bạch Báo ư? Còn bắt được Thái uý Hồng Châu?

Sau khi Địch Thanh phá được thành Kim Thang thì ngày thứ hai mới báo tin, nên tin tức phá thành Kim Thang vẫn chưa truyền đến tai Hàn Kỳ .

Mọi người khó có thể tin được, nhưng không thể không tin.

Sắc mặt Hàn Kỳ âm trầm khó đoán, Doãn Thù lại cười lớn :

- Khá lắm Địch Thanh, thật là anh hùng. Nếu như có được tin tức từ thành Kim Thang, vậy thì chắc không thể là giả, không bằng nói ra chút đi.

Doãn Thù muốn hoà hoãn không khí lại, tạo lối thoát cho hai bên, thầm nghĩ nếu chủ công Hàn Kỳ biết lôi kéo Địch Thanh, thuận tiện điều động Địch Thanh đến Kính Nguyên lộ, kề vai chiến đấu cùng với Nhâm Phúc, phần thắng sẽ tăng lên rất nhiều. Y liếc mắt nhìn Hàn Kỳ, chỉ mong Hàn Kỳ hiểu được dụng ý của mình.

Hàn Kỳ cuồng ngạo, trong lòng cũng muốn cầu thắng lớn, lập nên uy danh thiên cổ.

Thấy Doãn Thù nhìn sang, Hàn Kỳ đột nhiên cười :

- Địch Thanh, ngươi quả nhiên không phụ kì vọng của triều đình, lần này có thể phá được thành Kim Thang, lòng quân được cổ vũ, hãy uống cạn một chén lớn, lại đây, Bạch Mẫu Đơn, rót rượu cho Địch Đô giám.

Mọi người thấy Hàn Kỳ uống rượu với Địch Thanh , đều thở phào một cái, không khí trong trướng đã có phần dịu đi, Tào Quốc Cữu vẫn trầm lặng, thấy thế cười:

- Tốt, Tốt. Làm việc nhanh gọn, ta nghe thấy, phải say một trận sảng khoái mới được.

Địch Thanh cũng không phải là hạng người lỗ mãng, mới nãy thấy Hàn Kỳ xem xét quân tình như trò đùa, nhịn không được nên mới nhắc nhở, lúc này thấy Hàn Kỳ có ý hoà giải, chắp tay nói :

- Tạ ơn Hàn đại nhân.

Bạch Mẫu Đơn là người vũ công trong trướng, khuôn mặt diễm lệ, dáng người thước tha, bưng bình rượu chậm rãi bước đến, vẻ mặt có chút lẳng lơ, cô ta đến trước mặt của Địch Thanh , sau khi rót đầy rượu xong, nghe nhàng nói :

- Thiếp thân xin kính ban nhi một chung .

Địch Thanh đang định nâng chén rượu lên uống, nghe vậy vô cùng nổi giận, quát :

- Ngươi nói gì?

Bạch Mẫu Đơn kêu “ôi” một tiếng, ngã xuống đất, mọi người cả kinh, không hiểu nguyên cớ vì sao. Lúc Bạch Mẫu Đơn nói, thanh âm rất nhỏ, trừ Địch Thanh ra, không có người thứ hai nghe cô ta nói gì.

Địch Thanh đã nổi giận ra mặt, Bạch Mẫu Đơn dám muốn gọi hắn là ban nhi?

Ban nhi ------tức là chữ xăm trên mặt Địch Thanh, mặt có xăm chữ mà ngay cả một ca kỹ cũng coi thường ư? Hắn đường đường là một Binh Mã Đô Giám, chỉ vì xuất thân từ lính màngay cả ca kỹ thấp hèn cũng có thể châm biếm hay sao?

Lúc này Địch Thanh lại nghe tiếng Dương Vũ Thường vang lên bên tai :

- Huynh ở trong lòng muội … là một anh hùng cái thế thiên hạ có một không hai, sao có thể chịu sự coi thường của những người đó?

Hắn chinh chiến nhiều năm, nổi danh ở Tây Bắc, nhưng giờ phút này ngay cả một ca kĩ cũng có thể coi thường hắn ư ?

Vũ Anh vội la lên :

- Địch huynh…chuyện gì?

Y liên tục nháy mắt, có ý bảo Địch Thanh đừng gây ra xung đột.

Địch Thanh bỗng nhiên đứng lên, lạnh lùng nhìn Bạch Mẫu Đơn, nói :

- Ngươi hãy đem những lời ngươi vừa nói, nói lại một lần cho mọi người trong trướng nghe.

Bạch Mẫu Đơn uất ức đứng nói lớn :

- Thiếp thân...thiếp thânchỉ nói kính ban nhi một chén rượu, chẳng lẽ nói sai hay sao ?

Lần này cô ta nói rõ từng chữ, mọi người trong trướng đều nghe thấy, vẻ mặt khác nhau.

Đám người Vũ Anh cũng giống như Địch Thanh đều xuất thân từ binh nghiệp, nghe Bạch Mẫu Đơn nói câu ban nhi, đã tổn hại hơn phân nửa võ tướng trong trướng, tức thì trong lòng cũng vô cùng phẫn nộ.

Chỉ có Hàn Kỳ, Nhâm Phúc, Doãn Thần mấy viên quan cấp cao, thần sắc vẫn còn tự nhiên, trong lòng bọn họ, đám người Địch Thanh, là võ nhân ti tiện, chính là cái đốm.

Đây là gia pháp tổ tông Đại Tống, một số văn nhân này đương nhiên không cảm thấy chỗ nào là sai.

Địch Thanh nhìn Hàn Kỳ, nói từng chữ một:

- Hàn đại nhân… ngài nói Bạch Mẫu Đơn có sai hay không?

Bạch Mẫu Đơn không đợi Hàn Kỳ trả lời, liền cướp lời nói:

- Tối qua lúc thiếp thân (cách phụ nữ ngày xưa khiêm tốn tự gọi mình) và Hàn đại nhân có bình luận rượu, thơ, hào kiệt, Hàn đại nhân có nói …chẳng qua là những cái đốm thôi, lời thiếp thân là lời nói thực, Hàn đại nhân, ngài không được giở trò vô lại.

Cô ấy cười duyên với Hàn Kỳ, giống như đang làm nũng vậy.

Hàn Kỳ cũng cảm thấy Bạch Mẫu Đơn nói như thế trước mặt các tướng là có điều không ổn, nhưng vì thứ nhất, bất mãn Phạm Trọng Yêm, thứ hai khinh thường Địch Thanh, càng không hài lòng việc Địch Thanh chỉ trích y trước mặt mọi người. Huống chi trước mặt giai nhân, làm thế nào mà chịu đánh mất uy phong được chứ? Nên gật đầu nói:

- Ta nói rồi, ta đương nhiên không giở trò.

Vừa nói xong, trong trướng trở nên xôn xao, Tào quốc cữu chau mày.

Địch Thanh nổi giận, mới vừa quát lớn, đột nhiên nghe thấy bên ngoài trướng ồn ào.

Đây là trại Cao Bình, trọng địa của quân Tống, Hàn Kỳ còn ở đó, ai dám đánh trống reo hò cơ chứ?

Hàn Kỳ đưa mắt nhìn quanh, quát:

- Ai đang ồn ào vậy?

Nhâm Phúc vội vàng đứng dậy, lao ra khỏi doanh trướng. Không lâu sau, Nhâm Phúc dẫn vài tên binh sĩ vào, áp giải một tên, người đó mặt đầy máu, nhưng khó che giấu cái vẻ mặt hung tợn của gã, Địch Thanh vừa trông thấy, liền kêu lên:

- Triệu Minh, sao lại là ngươi?

Ngừơi bị áp giải vào là thủ hạ mà Địch Thanh dẫn đến.

Khoé mắt Triệu Minh bầm tím, khoé miệng vỡ rách, trán chảy đầy máu tươi, rõ ràng là bị người ta xúm lại đánh một trận, y cắn chặt hàm răng, trong mắt đầy oán hận.

Địch Thanh muốn đi đến, Nhâm Phúc cổ tay khẽ vươn ra, đã tháo hết thiết sắt đeo tren lưng xuống. Vốn là Hàn Kỳ bày yến tiệc, theo quy định các tứơng không được mang theo binh đao, nhưng Hàn Kỳ khác hẳn người thường, không để cho các tướng bị gò bó. Nhâm Phúc xem mình có công lao hiển hách, nên bốn lưỡi thiết giản không lúc nào rời thân.

Thiết giản chỉ vào Địch Thanh, hiện ra ánh hào quang, Nhâm Phúc cười lạnh lùng:

- Không ngờ Địch đô giám không để Hàn đại nhân trong mắt, ngay cả thủ hạ cũng chẳng xem anh em trong doanh trại ra gì.

Lúc trứơc ở thành Bạch Báo, trước mặt Phạm Trọng Yêm Địch Thanh đã cướp công của Nhâm Phúc, lần này nắm được sơ hở của Địch Thanh, Nhâm Phúc đương nhiên chuyện bé xé ra to rồi.

Hàn Kỳ tức giận, lạnh lùng nói:

- Nhâm Phúc, là chuyện gì ?

Nhâm Phúc nói:

- Khởi bẩm Hàn đại nhân, thủ hạ của Địch Thanh ở ngoài doanh trại khiêu khích gây sự, trong trại ai cũng khuyên y, nhưng đều bị y đánh đập tàn nhẫn, làm trọng thương một người. Mạt tướng bất đắc dĩ mới bắt giữ y.

Hàn Kỳ giận quá mà cười:

- Địch Thanh à, Địch Thanh, xem ra ngươi tự cho là có công lao, nên đã sớm không để bọn ta trong mắt ngươi, người đâu…lôi Triệu Minh ra chém.

Binh sĩ lĩnh mệnh, Địch Thanh vội vàng kêu lên:

- Khoan đã.

Hắn bước lên một bước, Nhâm Phúc miệt thị bảo:

- Địch Thanh, nếu như ngươi không biết nặng nhẹ, chớ trách ta ra tay vô tình.

Địch Thanh quay đầu nhìn Hàn Kỳ:

- Hàn đại nhân, Triệu Minh không phải là hạng người hay sinh sự, trong đây chắc chắn có sự hiểu nhầm, xin hãy để y giải thích.

Triệu Minh nhìn Địch Thanh, trong mắt có ý cảm kích, nhưng vẫn chẳng nói gì.

Hàn Kỳ nghiêm nghị nói:

- Tứơng lĩnh có bướng bỉnh, thì thủ hạ mới không tuân pháp kỉ, cần phải hỏi nhiều nữa hay sao? Người đâu, dẫn Triệu Minh đi, nếu như cản trở, giết ngay không nói nhiều.

Lão biết Địch Thanh không những là mãnh tướng dưới tay Phạm Trọng Yêm, mà còn có quan hệ với thiên tử, ngược lại không muốn vì Địch Thanh ngăn cản con đường làm quan. Nhưng Địch Thanh mấy lần ngỗ nghịch, thậm chí không để Hàn Kỳ trong mắt, nếu như không giết gà cho khỉ xem, chuyện này truyền vào trong kinh thành, lão còn mặt mũi nào với quần thần nữa.

Các tứơng thấy Hàn Kỳ chau mày lại, mặt đầy sát khí, mọi người bất giác nhìn nhau.

Có binh lính vừa định dẫn Triệu Minh đi ra, Địch Thanh quát lớn:

- Đợi đã.

Hắn đột nhiên nhảy ra, đến trước người Nhâm Phúc. Nhâm Phúc đã có phòng bị từ trước, nghe tiếng quát lớnthiết giản đề vào đầu nện xuống.

Thiết giản đó rất nặng, lay động cả màn trướng lên, tiếng quát cũng rất uy nghiêm, mấy chiếc bát đôi đũa đều rung lên.

Nếu thiết giản kia là nện vào đỉnh đầu của Địch Thanh thì …

Doãn Thù thất kinh, quát bảo ngừng lại, Địch Thanh bất thình lình giơ tay, chỉ là nắm lấy khuỷu tay của của Nhâm Phúc. Cái thiết giản đó đột nhiên chuyển hướng, nện trên mặt đất. “oành” một tiếng vang lớn, dưới đất biến thành một cái hố lớn.

Hoành hành đao pháp, cho dù là trên ngựa hay đi bộ dưới đất, cũng hoành hành không kị ai. Địch Thanh đang nắm khuỷu tay có thể tuỳ ý hành động, trong tay nếu như có con dao, thì đã chém Nhâm Phúc thành hai đoạn từ lâu rồi.

Cánh tay Nhâm Phúc run lên, không đợi công kích lại, Địch Thanh đẩy nhẹ ra, Nhâm Phúc chân bước lảo đảo, nhảy vọt sang một bên. Nhâm Phúc trong nhất thời không thể chống cự, trong lòng vô cùng tức hận, định ra tay, đột nhiên nghĩ:

- Vừa rồi Địch Thanh nếu như có đao trong tay, thì mình đã chết ngay tại chỗ rồi.

Nghĩ đến đây, mới biết Địch Thanh bách chiến bách thắng, quả tiếng đồn không ngoa, trán y mồ hôi đầm đìa.

Địch Thanh đến trứơc mặt Triệu Minh.

Bọn binh sĩ áp giải Triệu Minh, hoảng sợ đi ra. Địch Thanh nắm lấy tay của Triệu Minh, trầm giọng nói:

- Triệu Minh, rốt cuộc là chuyện gì, ngươi mau mau nói ra.

Triệu Minh không đợi nói nhiều, sắc mặt biến đổi, chỉ thấy binh sĩ ào ào vào trong trướng, vây hai người lại, trường thương lô nhô và đầy sát khí.

Hàn Kỳ chậm rãi đứng dậy, nói:

- Địch Thanh, ngươi không nghe quân lệnh, lại còn muốn tạo phản à?

Địch Thanh cứu Triệu Minh một mạng, thành khẩn nói:

- Triệu Minh có quân công, vốn là người đàn ông tốt. Xin Hàn đại nhân hãy tra xét rõ, sau đó hãy phán quyết cũng chưa muộn.

Hàn Kỳ cười lạnh lùng, vẻ mặt kiêu ngạo:

- Chỉ có trạng nguyên ngoài cửa Đông Hoa tiếng tăm lừng lẫy mới là người đàn ông tốt.

Vừa nói xong, trong trứơng trầm lắng, Địch Thanh sắc mặt tái nhợt, hai tay nắm lại trong mắt đã cháy lên ngọn lửa giận dữ.

Chỉ có trạng nguyên ngoài cửa Đông Hoa tiếng tăm lừng lẫy, mới là người đàn ông tốt.

Đây là câu nói của Hàn Kỳ, cũng là của Tống Đình Chi, cũng là điều đáng tự hào của vô số văn thần của đại Tống. Đại Tống sùng văn khinh võ, trong câu nói này bao hàm tất cả, không sót điều gì.

Cho dù quân công ngươi hiển hách, cho dù ngươi hoành hành ngàn quân, cho dù ngươi võ công cái thế thì thế nào? Chỉ có thể thi đậu văn nhân, mới là đấng nam nhi giỏi.

Đây là tự cao, kiêu ngạo, hay là tự đại kiêu căng? Không có ai bình luận, nhưng lúc này là như vậy, Địch Thanh nhà ngươi được cái gì, xuất thân binh ngũ, làm sao có thể thi đậu trạng nguyên mà vinh quang được?

Doãn Thần vẻ mặt tán đồng, đám người Vương Khuê, Vũ Anh, trong lòng không biết thế nào, cho dù là Nhâm Phúc, cũng khó tránh khỏi ngượng ngùng. Nhưng đây lại là sự thực của Đại Tống, không ai có thể bác bỏ được.

Hàn Kỳ từ trên cao nhìn xuống, thấy Địch Thanh vẫn nắm lấy tay của Triệu Minh, liền uy hiếp:

- Địch Thanh, ta cho ngươi một cơ hội cuối cùng, đừng bao che thủ hạ nữa, nếu không…ngươi tin không, ta sẽ chém luôn ngươi!

Trong trướng sát khí nổi lên, tuy là tiết xuân ấm áp, nhưng lạnh giá như tuyết.

Triệu Minh ra sức vùng vẫy, khàn giọng nói:

- Địch tứơng quân, ta và ngươi không có quan hệ chó má gì cả. Ngươi bảo vệ ta làm gì, ta làm chuyệnì, có liên quan gì đến ngươi?

Hắn tuy khan giọng, nhưng hai má đã rơi nước mắt.

Đó là chuyện vô cùng chua xót. Đó là nứơc mắt cảm kích.

Triệu Minh nhất thời kích động, không muốn liên luỵ đến Địch Thanh. Y cố gắng thoát khỏi tay của Địch Thanh, bất ngờ lấy đao của một binh sĩ bên cạnh mà tự vẫn.

Địch Thanh giơ tay, tóm lấy tay của Triệu Minh, thở phào nói:

- Ngươi không thể chết.

Tay của Triệu Minh cứng ngắc, răng chảy ra máu, nhưng không giãy giụa nữa.

- Y không chết, thì ngươi phải chết.

Hàn Kỳ thản nhiên nói:

- Địch Thanh, ngươi dĩ hạ phạm thượng, bao che dung túng thuộc hạ làm loạn, cho dù ta chém ngươi, cũng không có gì là sai.

Địch Thanh quay đẩu nhìn Hàn Kỳ, đột nhiên ngửa mặt lên trời mà cười. Tiếng cười truyền vang đi xa, khuấy động vô cùng không dứt.

Sắc mặt Hàn Kỳ biến đổi.

Địch Thanh hai tròng mắt nổi lửa lên, quên đi lời dặn dò của pty, tức giận nói:

- Hàn Kỳ, ngài thực sự cho rằng ngươi tài năng bằng trời, thiên hạ kính trọng ư? Ngài cho rằng ta giống như con kiến để cho người ta giẫm đạp à? không sai, trong mắt ngài, trạng nguyên ở ngoài cửa Đông Hoa mới là ngừơi đàn ông giỏi, nhưng trong mắt Địch Thanh này, Triệu Minh là người đàn ông giỏi. Chức quan ngài cao hơn ta, đọc sách nhiều hơn ta, kiến thức rộng hơn ta, vậy thì sao?

Hắn bỗng nhiên cởi áo, lộ ra các vết thương chồng chất trên ngực, nói lớn:

- Không cần dùng đến đao thương, ta cũng xem thường đao thương, chỉ cần đọc sách, học vấn là có thể chỉ huy bọn ta, xem thường bọn ta, cưỡi lên đầu bọn ta. Nhưng Nguyên Hạo đến đánh, ngài dùng cái miệng có thể khiến y lui binh không? Ngài có thể hẫn nại, ngài là một đấng nam nhi giỏi, nhưng đừng bắt bọn ta vì ngài mà bỏ mạng quên chết, tận lực chống cự. Không có bọn ta, kỵ binh tinh nhuệ giày xéo, ngài chẳng qua cũng chỉ đứng dưới bậc thềm, cao quý hơn người khác ở chỗ nào? Địch Thanh ta không phải là đấng nam nhi tốt, nhưng đầu đội trời, chân đạp đất, không thẹn với lương tâm. Ta dựa vào hai nắm đấm để có thanh danh ngày hôm nay, bảo vệ bá tánh bình an, ngài có tư cách gì khinh miệt ta?

Mọi người đều đã biến sắc, Hàn Kỳ mặt cũng tái xanh.

Địch Thanh tích tụ dần cơn giận dữ của nhiều năm, phun trào ra một lần.

Hắn vốn khinh việc tranh giành, không tranh cãi, không muốn giận dữ, tuy hắn có minh ước với đế vương, nhưng đến biên cương, cũng là vì một lời hứa-----cuộc đời này không núôt lời.

Địch Thanh hắn vốn là anh hùng cái thế, đệ nhất vô song! Hắn muốn Vũ Thường nhìn thấy, Vũ Thường đã không tin lầm chí anh hùng của hắn.

Tuy đời hắn có hơi chìm nổi, tuy trải qua nhiều đau khổ, thập tử nhất sinh, nhưng hắn không hối hận, không oán than. Một đấng nam nhi tốt, há phải thẹn với trời đất, không hối hận không oán than sao?

Nhưng hắn lúc này, không thể kiềm chế nổi cơn giận, hắn không thể nhịn được nữa, không muốn nhẫn nhịn nữa.

Địch Thanh nghiến răng nói :

- Thành Đại Thuận mười lăm ngày dựng nên, Triệu Minh tận tâm hết mực, trù tính ít nhất mười lăm tháng. Y tàn tật là không giả, y sinh ra bộ dạng xấu xí là không giả, nhưng y có một trái tim cao quý hơn các ngươi nhiều. Y vì bá tánh, dốc tâm toàn lực, không lời oán than. Nếu nay chân tướng không rõ, y có thể sẽ hàm oan chịu nhục, các ngươi ngay đến cả một cơ hội cũng không cho y ư? Hàn Kỳ, cho dù ngài có cuồng ngạo, chức quan có cao, mạng ngươi chỉ có một, mạng của ai cũng chỉ có một mà thôi! Ai cũng không có tư cách khinh thường người khác! Ngài muốn lấy mạng của Triệu Minh, vậy thì lấy mạng mà đổi.

 Chương 307 - 312: Nguy cơ

Nói xong, Địch Thanh đã rút đao.

Tiếng đao rút ra, ánh hào quang của lưỡi đao ánh lên khuôn mặt bi phẫn. Ý của Địch Thanh đã rõ, hắn muốn liều mạng, vì một tên thủ hạ mà liều mạng, cho dù ai muốn mạng của Triệu Minh, đều phải trả giá bằng máu.

Ngừơi trong trướng hoảng sợ, trầm lặng không nói. Triệu Minh lại lần nữa rơi lệ, khóc nức nở:

- Địch đại nhân …ngài….

Y vào sau màn trướng, trong lòng vốn đã muốn chết, nhưng không ngờ rằng, Địch Thanh lại liều mạng vì y.

Y đã nghe Địch Thanh anh dũng từ lâu, cũng biết đến chuyện buồn của Địch Thanh, nhưng y chưa bao giờ nghĩ qua, Địch Thanh một thân hiệp nghĩa. Địch Thanh có thể vì nghĩa, không cần chức quan, không cần thăng tiến, không sợ trọng tội.

Một người đến cả mạng còn không cần, thì y còn kiêng dè điều gì chứ ?

Nhâm Phúc không thể tiến lên, Thường Côn mặt còn kinh hãi, Bạch Mẫu Đơn sắc mặt cũng biến đổi. Đám người Vũ Anh, Vương Khuê nhiệt huyết dâng lên, cắn chặt răng lại ….

Chỉ có Hàn Kỳ, mặt vẫn như sắt, nói từng chữ:

- Tốt, rất tốt, Địch Thanh…. Ngươi hồ đồ ngu xuẩn thì ta sẽ …

Địch Thanh giận dữ, Hàn Kỳ cớ sao lại như thế?

Thanh danh của Hàn Kỳ nổi tiếng xa gần, bất kể là trăm họ quan viên của Biện Kinh hay Tắc Hạ đều phải tôn xưng y một tiếng là Hàn công. Nhưng trước mắt, ở khu binh nghiệp này, với xuất thân của Địch Thanh, mà lại dám chỉ trích ngang ngược với ông ta, hỏi liệu đã mấy lần dám trái lệnh?

Hàn Kỳ đã phải truyền mệnh lệnh thì tất phải sát lệnh, y cho rằng mình không thể nhân nhượng.

Nhưng ông ta còn chưa dứt lời, Võ Anh đã tiến lên, quì một chân trên đất, nói:

- Hàn công, Địch Thanh có chút kích động, nhưng chuyện Triệu Minh, nói không chừng lại có ẩn khúc bên trong. Xin Hàn đại nhân… hỏi cho rõ ngọn nguồn.

Vương Khuê cũng tiến lên hành lễ nói:

- Xin Hàn đại nhân hỏi cho rõ.

Chu Quan, Dâu Dịch thấy thế, nhớ lại ơn dìu dắt của Địch Thanh thời còn trai trẻ, mọi người cùng đồng lòng kề vai sát cánh, mọi người đều nhiệt huyết dâng trào, tất cả đều tiến lên phía trước, đồng thanh nói:

- Xin Hàn đại nhân hỏi cho rõ. Nếu thật sự là Triệu Minh làm loạn, thì ty chức sẽ nguyện ra bắt y…

Ngụ ý cũng là, nếu Triệu Minh không có lỗi, xin Hàn Kỳ hãy buông tha cho Triệu Minh.

Trong trướng của tướng quân, lại có nửa số người tiến lên phía trước thỉnh cầu cho Địch Thanh. Hàn Kỳ thấy thế, sắc mặt liền thay đổi. Không phải ông ta sợ tướng quân tạo phản, sự cuồng ngạo trong lòng y, về cơ bản, ông ta thấy, những người này cũng không dám tạo phản. Chỉ là ông ta nhớ tới lời của Võ Anh, Vương Khuê là những người thân, rằng Địch Thanh và Triệu Trinh có liên quan đấy.

Theo như lời đồn, nói rằng nhà vua rất tín nhiệm Địch Thanh. Năm đó, trong cung có thay đổi, Địch Thanh đã vì vua mà đoạt lại hoàng quyền, lập được công lớn. Căn cứ vào tin tức này, Địch Thanh mấy ngày nay liên tục có tin báo thắng lợi, nhà vua cũng thường xuyên hỏi tới kết quả của trận chiến…

Mặc dù chức vụ của Địch Thanh không cao, nhưng địa vị của hắn trong lòng vua cũng không thấp!

Ông ta – Hàn Kỳ chém Triệu Minh, việc khiển trách Địch Thanh không thành vấn đề. Nhưng bởi vì có sự xung đột với Địch Thanh thì khả năng dẫn tới việc vua bất mãn tới tột cùng liệu có đáng giá hay không?

Doãn Thù thấy thế, cuống quýt nói:

- Địch Thanh, ngươi hãy để đao xuống, có chuyện gì thì cùng bàn bạc.

Địch Thanh không nói gì, chỉ có thể chăm chú nhìn Hàn Kỳ. Hàn Kỳ hơi khó xử, mặt trầm lặng như nước…

Nhưng vào lúc này, một cười nói:

- Được rồi, được rồi. Hàn đại nhân chỉ đùa một chút thôi. Địch Thanh, tại sao ngươi lại có thể làm được chứ? Trước tiên, bỏ đao xuống, hỏi lại xem có chuyện gì xảy ra, không cần phải đao to búa lớn?

Đang ngồi trên ghế cao, một người đã đứng lên, đó chính là Tào quốc cữu. Tào quốc cữu đứng dậy đi về phía Địch Thanh. Thường Côn cuống quít nói:

- Quốc cữu, cẩn thận.

Tào quốc cữu không hề để ý tới, liền đi tới trước mặt Địch Thanh, cười nói:

- Địch Thanh, nể mặt ta, hãy bỏ đao xuống, nói rõ ràng xem thế nào?

Đúng vào giữa lúc Địch Thanh chần chừ, thì bắt gặp mấy cái nháy mắt của Tào quốc cữu. Ý nghĩa của mấy cái nháy mắt đó Địch Thanh cũng thấy khó hiểu, nhưng cũng thấy Tào quốc cữu không có ác ý gì, cuối cùng cất đao vào vỏ, quay đầu nói:

- Triệu Minh, có quốc cữu gia làm chủ cho ngươi, có oan tình gì hãy nói ra đi.

Triệu Minh cắn chặt hàm răng, lại lắc đầu nói:

- Địch Đô Giám, ta… không có gì để nói hết.

Một đám người xôn xao, mắt thấy Địch Thanh khổ sở vì Triệu Minh giữ mọi cơ hội sống, nhưng Triệu Minh sao lại không có lời nào để nói? Võ Anh đã hận không thể chạy lên đánh cho Triệu Minh một trận.

Địch Thanh nhìn thấy trong mắt Triệu Minh, tràn đầy tuyệt vọng, đột nhiên gào to, nói:

- Hàn Tiếu đang ở chỗ nào?

Ở bên ngoài doanh trại có người kêu lên:

- Ty chức có mặt.

Địch Thanh đột nhiên nhớ rõ ràng cùng với Cao Bình đi vào còn có Hàn Tiếu. Triệu Minh kia bị bắt, vậy còn Hàn Tiếu? Giờ phút này cớ sao vẫn bình yên vô sự?

- Quốc cữu gia, thuộc hạ của tại hạ, Hàn Tiếu hẳn biết được tất cả những chuyện mới phát sinh…

Chưa đợi Địch Thanh nói xong, Tào quốc cữu đã nói:

- Thế thì hãy cho gọi y vào hỏi là được mà.

Dáng vẻ của Tào quốc cữu như không liên quan đến mình, nhưng những lời nói ra, không ai ở trong trướng phản đối, cho dù là Hàn Kỳ cũng từ chối cho ý kiến.

Tuy trong gia pháp của tổ tông, “Hoạn quan không cầm quyền, ngoại thích không nắm quyền”, nhưng phải biết cách ứng xử, bình thường không được đắc tội với người ngoại thích. Năm đó, cho dù là đệ nhất nhân của Lưỡng phủ Lã Di Gỉan, bởi vì đắc tội với Qúach hoàng hậu nên vẫn bị giáng chức, phải ra khỏi kinh thành. Hàn Kỳ đương nhiên biết, thời điểm nào thì nên nói cái gì.

Hàn Tiếu lúc tiến vào, mặt vẫn mỉm cười.

Mọi người thấy thế, trong lòng đều cảm thấy khinh miệt, thầm nghĩ Hàn Tiếu và Triệu Minh cùng là thuộc hạ của Địch Thanh. Triệu Minh bị thảm hại như vậy nhưng Hàn Tiếu lại bình yên vô sự. Có phải điều này nói lên Hàn Tiếu là người chẳng ra gì hay không?

Địch Thanh nhìn Hàn Tiếu từ đầu tới chân, chậm rãi nói:

- Mới vừa rồi, tất cả xảy ra ở ngoài trướng, ngươi đương nhiên thấy rõ hết mọi chuyện.

Hàn Tiếu mỉm cười nói:

- Ty chức đã thấy rõ.

Địch Thanh nói rõ ràng từng chữ:

- Triệu Minh bị tóm, ngươi thì đứng ở một bên để xem sự náo nhiệt sao?

Hàn Tiếu lại cười nói:

- Đúng vậy, ty chức đúng là đang xem náo nhiệt.

Đám người của Nhâm Phúc, Thường Côn tinh thần chấn động. Đám người của Võ Anh thần sắc ảm đạm, thầm nghĩ, nếu thủ hạ của Địch Thanh quả thật là khoanh tay xem náo nhiệt thì Triệu Minh kia, sẽ không ai có thể cứu.

Nhưng mà Địch Thanh lại không phẫn nộ, hỏi tiếp:

- Tại sao ngươi lại phải xem náo nhiệt?

Hàn Tiếu nói:

- Hai bên đấu nhau, hảo hán không chịu nổi nhiều người. Ty chức không phải là hảo hán, càng không chịu nổi nhiều người. Và nếu như các huynh đệ trong quân doanh động thủ, thì chỉ sợ bị bắt lại, trở thành đồng đảng của Triệu Minh. Biến thành đồng đảng của Triệu Minh cũng không sao, nhưng mà nếu như không thể đường đường chính chính nói ra sự tình của Triệu Minh, thế chẳng phải là phụ lại sự kì vọng của Địch đại nhân sao?

Mọi người cân nhắc kĩ càng, không thể dấu nổi ánh mắt nhìn khác thường đối với Hàn Tiếu.

Ánh mắt Địch Thanh lộ vẻ xúc động. Hàn Tiếu quả nhiên là không phụ lòng hy vọng của hắn.

- Thế thì bây giờ, ngươi… có thể đem những chuyện vừa rồi, nói hết ra một cách công bằng đi?

Địch Thanh chậm rãi nói.

Hàn Tiếu gật đầu nói:

- Kỳ thật chuyện vừa rồi, rất đơn giản. Triệu Minh chẳng qua gặp được người quen. Ở trại Cao Bình này, có một người tên gọi là Phú Nghĩa phải không?

Y thuận miệng hỏi, không có người nào đáp lời.

Sau một lúc lâu, Cảnh Phó nói:

- Phú Nghĩa ứng với Chỉ huy sứ trại Cao Bình.

Hàn Tiếu hỏi lại:

- Vị này chắc là Cảnh Phó cảnh tham quân?

Cảnh Phó ngẩn ra, không rõ Hàn Tiếu tại sao lại biết rõ y, liền gật đầu nói:

- Ta là Cảnh Phó. Thế thì sao?

Cảnh Phó trước mắt là thuộc hạ Hành Doanh tham quân, lần này đi theo Nhâm Phúc đến đây, là tới để bẩm bá tình hình về việc chuẩn bị cho chiến tranh.

Hàn Tiếu nói:

- Tiểu nhân nghe nói ông nội của Cảnh Tòng Quân khi còn trai trẻ, từng là Tư hộ tham quân cho Thục Châu. Lúc trước, quân giặc vào thành tác loạn, lấy chức quan để dụ dỗ, uy hiếp Lệnh Tổ đầu hàng. Lệnh Tổ thà chết chứ không chịu khuất phục. Bị quân giặc chặt đứt tay chân, vẫn chửi ầm lên, chết trong sự bất khuất, thực là hiệp nghĩa đấy! Cảnh đại nhân quả là anh liệt, tiểu nhân cũng vô cùng kính trọng và khâm phục.

Mọi người nghe Hàn Tiếu đột nhiên đề cập tới ông nội Cảnh Phó, cảm thấy kỳ lạ. Nhưng nghe thấy Hàn Tiếu nói với giọng hào sảng về gia thế nhà Cảnh Phó, không khỏi nhìn với con mắt khác đối với Cảnh Phó.

Cảnh Phó có phần áy náy hiện lên khuôn mặt, một lúc lâu sau mới nói:

- Mới vừa rồi Hàn đại nhân làm việc không ổn, ta không ngăn cản đúng lúc, đã phụ danh tiếng tổ tiên để lại.

Trong lòng mọi người đều bùi ngùi, đồng thời khâm phục Cảnh Phó đã tự trách mình.

Đã là người thì có ai là không hèn nhát? Mới vừa rồi Hàn Kỳ nổi giận một trận lôi đình, chỉ cần còn muốn bảo vệ chức quan đấy, cho dù là không nịnh nọt, ít nhất cũng phải giữ nguyên được sự trầm mặc. Cảnh Phó duy trì trầm mặc, người khác cũng không trách được y, nhưng y lúc này, thà rằng đắc tội với Hàn Kỳ, cũng phải nói ra cái nhìn, chỉ vì không muốn phụ sự hiệp nghĩa của tổ tiên. Loại dũng khí này, đã làm cho mọi người phải nắm lấy cổ tay.

Hàn Kỳ vẫn là im lặng không nói, nhưng sắc mặt đã xanh mét. Y vẫy vùng trong triều đình, lại tung hoành ngang dọc nơi biên thùy, trong bụng nghĩ thầm, bình định loạn lạc ở vùng tây bắc, lập nên chiến công chói lọi, thành tích vẻ vang hồi kinh. Thậm chí, những kiến ghị của Phạm Trọng Yêm cũng chẳng coi ra gì , thì cớ sao lại chịu sự chỉ trích này?

Hàn Tiếu mặc dù vẫn đang còn cười, nhưng trong mắt cũng có ý ngưỡng mộ, nói:

- Cảnh đại nhân làm việc, thật sự không thẹn với lương tâm. Tuy nhiên, không phải là tất cả mọi người đều giống như Cảnh đại nhân, nói thí dụ như Phú Nghĩa.

Cảnh Phó nhịn không được nói:

- Phú Nghĩa như thế nào?

Hàn Tiếu nói:

- Triệu Minh đây, vốn là người Phiên. Theo tiểu nhân được biết, lúc trước sau khi sự việc gãy chân ngoài ý muốn xảy ra, lúc về tới nhà thì vợ đã bỏ đi cùng người khác rồi.

Triệu Minh run rẩy như lá rụng trong gió, cắn chặt khớp hàm, trước mắt đều là những suy nghĩ bi thương.

Sau một lúc lâu, Cảnh Phó mới nói:

- Chẳng lẽ mới vừa rồi, việc doanh trại rối loạn, và chuyện của Triệu Minh trước kia lại có liên quan sao?

Hàn Tiếu gật đầu nói:

- Cảnh đại nhân phán đoán sáng suốt. Nữ nhân của Triệu Minh chạy theo Phú Nghĩa, sau đó, người khác lại chỉ sợ Triệu Minh trả thù, còn cố ý xếp đặt mọi chuyện cho Triệu Minh. Hại bỏ tù anh ta. Vết đao trên mặt Triệu Minh đây, chính là bị chém trong sự kiện đó. Một con mắt của anh ta, cũng chính là do anh ấy tự mình khoét đi.

Mọi người có vẻ sợ hãi, Cảnh Phó thất thanh nói:

- Vì sao?

Hàn Tiếu tuy chỉ nói người nào đó, nhưng tất cả mọi người đã hoài nghi đến Phú Nghĩa. Nhìn thấy Triệu Minh thảm như vậy, trong lòng cũng ưu tư.

Hàn Tiếu nói:

- Triệu Minh hận chính mình có mắt không tròng, kết nhầm bạn. Người mà cả đời này, bạn bè tuyệt đối không thể thay thế được, bằng không thì hại người hại mình thôi.

Địch Thanh nói rõ ràng từng chữ chữ một:

- Bạn bè mà nói cho đúng nghĩa bạn bè thì chỉ có thể có vài người, còn lại là không xứng với hai chữ “bằng hữu”!

Khóe miệng Triệu Minh giật giật. Y nhìn Địch Thanh vẫn đang nắm tay y, lệ nóng lưng tròng. Lúc này đây, y biết... Sẽ không bao giờ kết nhầm bạn bè nữa.

Hàn Tiếu liếc nhìn Địch Thanh một cái, lại nói:

- Chuyện này đã trải qua sự điều tra của Phạm đại nhân, biết là Triệu Minh oan uổng, thế mà lại lưu đày Triệu Minh. Tuy nhiên, việc này đã quá lâu rồi, kiểm chứng rất khó khăn. Bởi vậy, phía sau phải có kẻ điều khiển mọi chuyện. Lúc nãy, Triệu Minh đi theo Địch Thanh đại nhân tới đây, đúng lúc đụng phải Phú Nghĩa, kết quả thì sao... Triệu Minh mặc dù thành thật, Phú Nghĩa lại chủ động khiêu khích, tùy tiện làm nhục Triệu Minh. Triệu Minh không thể nhịn được nữa, mới ra tay như thế này, kết quả là bị Phú Nghĩa cắn một miếng, kích động người trong quân động thủ. Nhâm đại nhân chạy tới. Chuyện còn lại, chắc hẳn không cần tiểu nhân nói thêm nữa.

Doãn Thù nhịn không được nói:

- Chuyện oan khuất này, cớ sao vừa rồi ngươi không nói?

Trong sự tươi cười của Hàn Tiếu đầy sự mỉa mai:

- Chuyện này chẳng có gì là vẻ vang, nếu như đã bị kẻ tiểu nhân đụng vào, đương nhiên sẽ không nói tới. Nếu như vụ việc này động chạm tới Doãn đại nhân, thì không biết có nên hay không đây?

Doãn Thù hơi buồn, nhưng biết những điều mà Hàn Tiếu nói quả đúng là chuyện thường tình của con người.

Tào quốc cữu nắm cổ tay thở dài nói:

- Không ngờ trên đời còn có những người gian trá như thế, xem ra chuyện này... khó trách được Triệu Minh.

Quốc cữu gia lên tiếng, Hàn Kỳ trầm mặc không nói gì. Địch Thanh cúi xuống hành lễ nói:

- Tạ ơn quốc cữu gia phán đoán sáng suốt. Hạ quan phụ trách truyền tin, hiện giờ trách nhiệm đã hết, oan tình đã minh, hạ quan đã không còn lời nào để nói, nếu không có ai phản đối, hạ quan xin cáo lui.

Sau khi nói xong, y liền kéo tay Triệu Minh, và cùng với Hàn Tiếuóng vai bước ra khỏi quân trướng.

Chẳng có ai cản trở, chẳng có ai giữ lại, cũng không có ai có lý do gì để giữ lại.

Mọi người nhìn theo bóng những nước chân khập khiễng kia, trong lòng không khỏi bùi ngùi. Hàn Kỳ sau khi nhìn ba người kia rời khỏi đây, sắc mặt lạnh vẫn xanh lét. Không ai biết gã đang suy nghĩ gì.

Doãn Thù đột nhiên cả giận nói:

- Truyền Phú Nghĩa tới.

Thường Côn lao ra doanh trướng, nhưng một lát sau đã trở về, kêu lên:

- Phú Nghĩa bỏ trốn rồi.

Mọi người ngạc nhiên, Cảnh Phó thở dài:

- Nếu không phải y có tật giật mình, thì cớ sao phải chạy trốn?

Hàn Kỳ chậm rãi ngồi xuống, rốt cục trong mắt gã cũng hiện lên sự áy náy, nhưng nó lướt qua một cái rồi biến mất ngay, giơ chén rượu lên nói:

- Uống rượu.

Rượu đã lạnh, lạnh như tuyết. Mọi người nhìn mấy cái bàn rượu, trong lòng cảm thấy cũng chẳng thấy vui vẻ gì khi thưởng thức ca hát...

Địch Thanh ra khỏi trại Cao Bình, suốt dọc đường không nói một câu nào, chờ đi qua chân núi, rốt cục cũng ghìm cương ngựa cho dừng lại. Triệu Minh vẫn nhìn bóng lưng bi thươg kia. Thấy thế, Triệu Minh xuống ngựa quỳ xuống đất, giọng vang lên, nói:

Địch tướng quân, là ty chức liên lụy tới ngài, kính xin trách cứ!

Địch Thanh xuống ngựa nâng Triệu Minh đứng dậy, áy náy nói:

- Nếu ta không mang ngươi ra, thì đâu tới nỗi này?

Rồi lại nói tiếp:

- Là ta phải xin lỗi ngươi.

Triệu Minh không ngừng vâng vâng dạ dạ. Địch Thanh quay đầu nhìn về phía Hàn Tiếu nói:

- Thật ra, chúng ta phải cảm ơn ngươi. Nếu hôm nay không có ngươi thì không biết kết cục của bọn ta sẽ như thế nào.

Hàn Tiếu vẫn đang cười, nhưng trong nụ cười có sự tôn kính khó nói thành lời,

- Địch tướng quân, hôm nay nếu không có tướng quân, căn bản cũng không có kết cục. Chỉ là ty chức đợi cơ hội tới, nhưng mà cơ hội đó là do Địch tướng quân tạo ra.

Địch Thanh khe khẽ thở dài, thầm nghĩ, "Chính mình lại khó nhịn được sự kích động, đã đắc tội với Hàn Kỳ, chưa truyền đạt được dụng ý của Phạm đại nhân. Tuy nhiên, thư của Phạm đại nhân đã đưa cho Hàn Kỳ, chỉ trông mong Hàn Kỳ có thể lấy đại cục làm trọng, xem kỹ thư Phạm đại nhân một chút." Có thể nhưng vừa nghĩ tới vẻ mặt kiêu căng của Hàn Kỳ, Địch Thanh lại có chút llo lắng.

Đang lúc ảo não, Địch Thanh đột nhiên nghĩ đến cái gì, hô:

- Hàn Tiếu, ngươi lập tức đi thăm dò một việc.

Y ghé sát vào bên tai Hàn Tiếu nói nhỏ vài câu, Hàn Tiếu nghe xong tuy có chút kinh ngạc, nhưng vẫn là phóng ngựa rời đi.

Địch Thanh nói với Triệu Minh:

- Chúng ta trước...

Lời còn chưa dứt, từ hướng trại Cao Bình, có tiếng vó ngựa vang lên. Chỉ thấy mấy đầu người cưỡi ngựa chạy tới, cầm đầu là Tào quốc cữu.

Địch Thanh thấy khó hiểu, ghìm ngựa không tiến. Đợi tới khi Tào quốc cữu đi tới, ôm quyền nói:

- Quốc cữu phải ra ngoài sao? Vì sao không mang nhiều người mà chỉ có vài người hộ tống?

Hắn đã nhìn ra, hộ vệ bên cạnh Tào quốc cữu đều là thị vệ của Tiền điện.

Tào quốc cữu cười nói:

- Ta không ra ngoài. Là ta cố ý đuổi theo ngươi.

Địch Thanh khó hiểu nói:

- Quốc cữu tìm tại hạ có chuyện gì?

Tào quốc cữu khoát tay chặn lại, mấy thị vệ đều tản ra, hiển nhiên lời Tào quốc cữu nói không muốn cho thị vệ nghe được lời nói của mình. Triệu Minh thấy thế, liền đứng sang một bên, ngơ ngác nhìn bầu trời xa xăm.

Tào quốc cữu mắt nhìn Triệu Minh, đột nhiên nói:

- Địch Thanh, ta sớm đã từng nghe nói qua đại danh của ngươi, hôm nay vừa thấy, quả thực danh bất hư truyền.

Địch Thanh khó hiểu ý đồ của Tào quốc cữu, liền nói một cách ứng phó:

- Quốc cữu gia... Là nâng đỡ rồi. Tại hạ...

Tào quốc cữu chặn lại nói:

- Ngươi trước tiên đoán ta bao nhiêu tuổi rồi hả?

Địch Thanh nhìn khuôn mặt già nua của ông ta, nếp nhăn nơi khóe mắt, một lúc lâu sau mới nói:

- Quốc cữu gia, chắc la ngài không đến bốn mươi đâu?

Hắn rất nghiêm túc quan sát Tào quốc cữu, mới phát hiện sự già nua một cách tệ hại, cho dù là mũi thở hai bên, đều đã có chút nếp nhăn. Nói là không đến bốn mươi, chẳng qua là khách khí. Y cảm thấy người này, hẳn ông ta là huynh trưởng của Tào hoàng hậu, bởi vì Tào hoàng hậu tuổi không lớn lắm.

Tào quốc cữu cười ha hả, nhưng trong nụ cười tràn đầy thê lương, tiếng cười vừa dừng, Tào quốc cữu lúc này mới đau thương nói:

- Ta vốn là em trai Hoàng hậu. Hiện giờ ... vẫn chưa đầy hai mươi tuổi.

Địch Thanh giật mình kinh ngạc, khó có thể tin nói:

- Quốc cữu... chuyện này... Làm sao có thể?

Trong mắt Tào quốc cữu đã có ý bi ai, thở dài nói:

- Khi ta còn nhỏ, không may mắc phải loại bệnh nan y. So với người bình thường, tốc độ già nua phải nhanh hơn gấp ba. Bởi vậy, ta chưa đầy hai mươi mà thoạt nhìn đã như gần sáu mươi rồi.

Địch Thanh kinh hãi, nghĩ thầm rằng mỹ nữ tuổi xế chiều đã cực kỳ bi ai, nhưng mỹ nữ cũng có thời rực rỡ. Còn Tào quốc cữu người, thì lại ngay cả cơ hội huy hoàng cũng không có. Nhìn thấy tóc trên đầu ở hai bên thái dương của Tào quốc cữu đã bạc, Địch Thanh trong lòng đầy sự thông cảm.

Tào quốc cữu lại nói:

- Địch Thanh, tên ta là Tào Dật. Nếu như ngươi để mắt tới ta, gọi ta một tiếng huynh đệ là được rồi. Ta vốn đủ già rồi, ngươi cũng đừng gọi là quốc cữu làm gì nữa, trong lòng ta thấy không vui.

Địch Thanh không nghĩ tới quốc cữu vị này lại nói chuyện dễ như vậy. Thấy Tào quốc cữu thần sắc thành khẩn, liền mỉm cười nói:

- Ta đây sẽ lên mặt gọi ngươi một tiếng Tào huynh đệ.

Xóa đi khuôn mặt u sầu, Tào quốc cữu mỉm cười nói:

- Được, được. Địch đại ca...

Hắn hô một tiếng, nước mắt lập tức chảy xuống. Một lát sau, gạt nước nước mắt, cười nói:

- Huynh xem, đệ khóc sướt mướt đấy, vẫn còn giống đứa trẻ.

Địch Thanh trong lòng thầm than, “Ngươi đâu phải là đứa trẻ chứ? Tuy rằng, Tào Dật tính khí còn trẻ con, nhưng bị loại bệnh này, so với rất nhiều người lại lão luyện hơn nhiều.

Tào Dật nhìn chằm chằm Địch Thanh nói:

- Chị gái nhà đệ biết đệ có bệnh lạ này, nên không hề trói buộc đối với đệ, cho đệ thoải mái đi ngao du sơn thủy.

Địch Thanh thầm nghĩ, "Tào hoàng hậu đương nhiên biết đệ đệ không còn nhiều thời gian, cho nên mới để y phóng túng tâm tình. Tuy nhiên, theo như những chứng kiến vừa rồi trong quân doanh, người này cũng không phải là bất hạnh mà hận đời, ngược lại rất nhân hậu, giúp người giải quyết nguy nan, thật sự khó có mấy ai được như thế.

Tào Dật nói tiếp:

- Đệ đã biết ngày giờ còn lại không nhiều, nhưng không cam lòng cứ sống như vậy rồi lặng lẽ chết đi. Lúc này mới không đi Giang Nam, mà ngược lại đi vào Tắc Hạ. Kỳ thật, đệ đến biên thuỳ, là muốn gặp Địch đại ca. Không ngờ chưa đợi đệ đi tìm huynh, thì huynh đã đến nơi này.

Địch Thanh kinh ngạc nói:

- Đệ tìm ta... Có chuyện gì sao?

Tào Dật chần chừ một lát, gật đầu nói:

- Có.

Địch Thanh lập tức nói:

- Chuyện gì, xin hãy nói ra.

Mới vừa rồi Tào dật vì Địch Thanh mà giải vây, trong lòng Địch Thanh rất là cảm kích, thầm nghĩ nếu là đủ khả năng, đương nhiên sẽ giúp đỡ.

Tào dật nhìn chằm chằm vào hai tròng mắt Địch Thanh, nói ngay vào điểm chính:

- Địch đại ca, ngũ long có phải ở trên người của huynh hay không?

Địch Thanh sắc mặt thay đổi, không biết vì sao Tào Dật biết việc này, trầm mặc hồi lâu mới nói:

- Đúng thế.

Tào Dật thở phào một cái, hỏi:

- Vậy... Huynh có thể đem ngũ long cho đệ nhìn một chút không?

Trong mắt của y có ý sốt ruột không nói ra được.

Địch Thanh hơi do dự, cuối cùng lấy ngũ long từ trong lòng ngực đưa ra. Những năm gần đây, Địch Thanh cất giữ ngũ long trong người nhưng rốt cục cũng không giải được bí mật của ngũ long.

Tào Dật tràn đầy cảm kích tiếp nhận ngũ long, thầm nghĩ, “Vẫn nghe nói Địch Thanh hiệp nghĩa hơn người, hôm nay được tận mắt thấy, quả nhiên là người đàn ông nhiệt huyết. Huynh ấy cho dù là từ chối nói không có ngũ long, thì mình cũng không thể trách được. Nhưng huynh ấy chẳng những thừa nhận chuyện ngũ long, lại còn cho ta xem, đối với loại người ý chí này, thật sự hiếm thấy.”

Tào Dật cầm ngũ long, tìm tảng đá ngồi xuống, lật đi lật lại xem, cau mày.

Địch Thanh nhìn Tào Dật, trái lại còn hy vọng y có thể tìm ra sự huyền bí của ngũ long. Nhưng tận đến trời chiều lặn về phía tây, Tào Dật vẫn không nói được một lời. Lúc này, Hàn Tiếu đã chạy về, nói nhỏ gì đó bên tai Địch Thanh. Địch Thanh hơi hơi cười lạnh, lẩm bẩm nói:

- Được. Ngươi đi theo dõi xem, chỉ cần có chuyện gì thì về báo cho ta ngay lập tức.

Hàn Tiếu lại rời đi. Tào Dật cuối cùng cũng lấy lại tinh thần, lần lượt trả ngũ long, thở dài nói:

- Địch đại ca, tất nhiên nghe qua truyền thuyết Hương Ba Lạp rồi phải không?

Thấy Địch Thanh gật đầu, Tào Dật lại hỏi:

- Nhưng huynh có biết ngũ long này lai lịch sao?

Địch Thanh do dự một chút, nói:

- Ta nghe nói ngũ long trước tiên là đế vật...

Trong lòng dường như đã đoán được cái gì.

- Tào huynh đệ, đệ cũng muốn tìm Hương Ba Lạp sao?

Tào Dật thân mang bệnh nan y, đại nội đều không thể chữa khỏi. Tào Dật tìm đến Hương Ba Lạp đương nhiên là hợp tình hợp lý.

Tào Dật hơi có ngạc nhiên, lập tức thẳng thắn thành khẩn nói:

- Đúng vậy, đệ đang tìm Hương Ba Lạp. Đệ biết huynh cũng đang tìm Hương Ba Lạp, bởi vậy mới tới tìm huynh.

Địch Thanh nhíu mày không nói, thầm nghĩ, “Tào Dật cớ sao biết được mình đang tìm Hương Ba Lạp?”

Tào Dật giống như thấy được sự nghi hoặc của Địch Thanh, mỉm cười nói:

- Địch đại ca, có lẽ huynh không biết, trong cung lúc này, Biện Kinh tận là truyền thuyết của huynh. Tỷ tỷ của đệ cũng từng được nghe qua chuyện của huynh. Và hỏi Thánh Thượng, lại hỏi qua Bát vương gia, mới biết được...

Trên mặt y lộ ra ý thông cảm, nhẹ giọng nói:

- Chuyện của huynh, tỷ tỷ của đệ cũng vô cùng... tiếc, chị em đệ đều chúc huynh có thể tìm được Hương Ba Lạp nhé.

Địch Thanh trông thấy trong mắt Tào Dật tràn đầy thành khẩn, cổ họng giống như bị cái gì nhét vào, một lúc lâu sau mới nói:

- Đa tạ.

Hắn bôn ba này nhiều năm, bỗng dưng quay đầu, mới phát hiện, có quá nhiều người yên lặng giúp đỡ hắn.

Hắn không hối hận!

Tào Dật hì hì cười, vẻ mặt ít nhiều có chút buồn cười,

- Đương nhiên, đệ là người hy vọng nhất huynh có thể tìm ra người của Hương Ba Lạp. Đệ cũng đi tìm Hương Ba Lạp, nếu tìm được rồi, khẳng định sẽ báo cho huynh. Địch đại ca, huynh tìm được rồi Hương Ba Lạp, nhất định cũng sẽ nói cho đệ biết, phải không?

Thần sắc hắn tràn đầy khẩn cầu, Địch Thanh thấy, trong lòng dâng lên thông cảm, chậm rãi nói:

- Ngươi là người tốt, hẳn là có hảo báo đấy! Ta nếu có thể tìm được Hương Ba Lạp, nhất định sẽ hết sức nói cho ngươi biết.

Bởi vì Triệu Minh kể rõ chuyện cũ nên Địch Thanh cảm giác được Hương Ba Lạp chẳng những thần bí, thậm chí có khả năng cực kỳ nguy hiểm. Những điều vừa nói lúc nãy, Tào Dật cũng không hiểu được ngụ ý của Địch Thanh, liền phấn chấn nói:

- Được. Quân tử nhất ngôn.

Đưa tay lên, Tào Dật mỉm cười nói:

- Đệ và huynh bắt tay làm giao ước.

Địch Thanh thấy Tào Dật, dù rằng tang thương, nhưng vẫn còn giữ nét trẻ con, trong lòng nghĩ, "Tào Dật dù sao tuổi vẫn còn nhỏ, không biết rằng, rất nhiều minh ước, chỉ cần một lòng là được rồi, vốn không cần hình thức! Ta cùng Vũ Thường giao ước, chẳng cần phải bắt tay, Nhưng ta suốt đời này, làm sao có thể quên được?”

Nhưng hắn vẫn vỗ nhẹ vào tay Tào Dật, an ủi trái tim Tào Dật.

Tào Dật thu tay lại, vui mừng lộ rõ trên nét mặt. Giống như đã tìm được Hương Ba Lạp rồi. Con mắt y đảo qua đảo lại, nói:

- Nếu Địch đại ca đã cùng đệ đi chung trên một con đường, thì đệ và huynh về sau phải liên hệ tin tức mới được. Thật ra, vừa rồi, Địch đại ca đã nói sai một câu.

Địch Thanh có chút ngạc nhiên:

- Huynh nói sai ở chỗ nào?

Tào Dật nhìn lên trời cao, từ từ nói:

- Ngũ long đều không phải là vật của tiên đế. Theo đệ được biết, ngũ long vốn do một đứa trẻ có được.

Địch Thanh kinh ngạc nói:

- Đứa trẻ nào có được ngũ long?

Tào Dật suy tư nói:

- Đứa bé kia họ Cổ. Huynh và nó gần giống nhau, cũng là con nhà nông, người Linh Thạch. Năm đó, tiên đế tín đạo, nghênh đón thần ở núi Ngũ Đài. Khi quay lại, nghỉ tại làng Linh Đài, buổi tối nằm mộng, đến sáng sớm thức dậy, liền kêu, nói là trời ban ngũ long, ngay tại hôm nay. Hoàng thượng lập tức ra lệnh quần thần thẩm tra tung tích ngũ long mọi nơi.

Địch Thanh cau mày nói:

- Ngươi làm sao biết được việc này?

Tào Dật cười nói:

- Cha đệ lúc ấy hầu cận hoàng thượng. Cha đệ là Tào Vĩ.

Địch Thanh lúc này mới nhớ tới, Tào Dật vốn là cháu Tào Bân. Tào Bân là một vị tướng khai quốc nước Đại Tống. Mà bối phận thúc bá của Tào Dật, còn có vị tướng lĩnh tiếng tăm lẫy lừng Đại Tống, vốn gọi là Tào Vĩ.

Tào Vĩ là gười trấn thủ biên thuỳ mấy chục năm, ép Lý Đức Minh, cha của Nguyên Hạo cả đời không có hành động khác thường.

Chẳng trách Hàn Kỳ tuy là cuồng ngạo, nhưng đối với Tào Dật cũng không dám chậm trễ. Tào Dật không chỉ ỷ vào thế tỷ tỷ là Hoàng hậu, thật sự cũng bởi vì xuất thân là con nhà tướng, thân thế hiển hách.

Tào Dật tiếp tục nói:

- Lúc ấy quần thần có chút hoài nghi tiên đế làm bộ... Nhưng tiên đế đã ban lệnh, mọi người chỉ có thể đi tìm. Kết quả là, có binh sĩ bẩm báo, đêm qua thật sự trên trời có hiện tượng bất thường, có một quả cầu lửa từ trên trời giáng xuống.

Sắc mặt Địch Thanh có sự thay đổi khác thường, dường như nghĩ tới điều gì. Tào Dật không hề lưu ý, nói tiếp:

- Quần thần liền đi tìm theo hướng hỏa cầu xuất hiện. Tới trước nhà họ Cổ, nghe thấy tiếng khóc vọng đến. Có binh sĩ đến hỏi, kết quả mới biết được, ngày hôm qua hỏa cầu lướt qua, đứa nhỏ nhà Cổ gia đang chơi đùa trên cây, vì kinh hãi nên rớt xuống đất, bị mảnh sắt đâm bị thương vào đầu, hôn mê bất tỉnh. Bên người đứa bé kia, còn có hòn bi đen, thì ra đó chính là vật ngũ long mà bây giờ huynh đang giữ. Quan phủ yêu cầu, nhà họ Cổ đó không dám trái lệnh, liền đưa ngũ long ra. Tuy nhiên, quan gia cũng không phải là kẻ ác nghiệt vô tình, nên mang đứa bé kia giao cho danh y Vương Duy Nhất trong kinh thành điều trị, đã cứu sống được đứa bé đó. Tuy nhiên, sau này, đứa bé kia, không ai biết tung tích..

Địch Thanh nhíu mày, đột nhiên nghĩ đến, năm đó hắn bị trọng thương ở thung lũng Phi Long, sau khi tỉnh dậy, từng nghe Quách Tuân, Vương Duy Nhất nói qua ở Linh Thạch có đứa bé bị sắt nhọn chọc tổn thương đầu, và tình hình của nó gần giống như mình. Chẳng lẽ, đứa bé kia, chính là đứa trẻ mà Tào Dật nói?

Trong tối tăm ... dường như có một số người có liên quan tới ngũ long không thể phân cách.

Nhưng cái đứa bé kia hiện giờ đang ở nơi nào đây?

Tào Dật thấy Địch Thanh trầm ngâm không nói, tiếp tục nói:

- Sau khi Tiên đế có được ngũ long, lại trở nên si mê thần đạo. Cả ngày cầm ngũ long không buông tay, nói là phải nghiên cứu cho ra những huyền ảo nằm trong đó. Cha đệ... trong một lần nghe được tiên đế nói... “Ngũ long này..."

Giọng điệu Tào Dật kéo dài ra sau mới nói:

- Ngũ long này vốn là vật Hương Ba Lạp!

Địch Thanh sớm đã biết chuyện này, nên cũng không kinh ngạc. Tào Dật sau đó nói:

- Quách Tuân... Quách đại nhân, trước kia chính là người phụ trách hộ vệ ngũ long đấy!

Địch Thanh trong đầu như có sấm vang chớp dật. Trong khoảng một tích tắc này, hắn đã nghĩ tới rất nhiều điều. Một lúc lâu sau mới nói:

- Ngươi muốn nói cái gì?

Tào Dật trong mắt chứa những ẩn ý sắc bén,

- Trong truyền thuyết, người có được ngũ long, có một số người sẽ có được một loại sức mạnh thần kỳ.

Khóe miệng Địch Thanh lộ ra điệu cười chua xót, trong lòng chỉ là đang nghĩ, "Chẳng lẽ nói... Quách đại ca cũng từng chịu sự ảnh hưởng ngũ long ư?” Hắn chưa bao giờ có loại ý niệm này trong đầu, nhưng một khi nghĩ đến, thì khó có thể xua tan nó.

Quách Tuân cực khỏe, võ công cao minh. Ở thung lũng Phi Long chống lại Tứ Đại Thiên Vương, lăng Vĩnh Định giết chết Dạ Xoa, đệ nhất cao thủ Dạ Nguyệt Phi Thiên. Ở một trận chiến Tam Xuyên Khẩu vượt qua Ngũ Long Xuyên, chém vạn kẻ địch, giết Long Dã Vương, uy chấn Tây Hạ...

Quách Tuân làm được điều này, hình như chưa cố hết sức. Địch Thanh chưa bao giờ nghĩ nhiều về dĩ vãng, chỉ cảm thấy tự nhiên mà thôi.

Nhưng hiện tại... Địch Thanh đã hiểu được, Tào Dật ám chỉ cái gì. Song chờ tới khi hắn đã hiểu... thì đã muộn rồi.

Tào Dật chú ý tới sắc mặt Địch Thanh, cẩn thận nói:

- Tuy nhiên, không có nhiều người biết tới truyền thuyết này. Năm đó, tiên đế từng thì thào căn dặn, cho nên cha đệ mới biết rõ. Theo như đệ phỏng đoán, tiên đế cả ngày cầm ngũ long, chính là muốn đạt được sức mạnh thần kỳ của ngũ Long. Nhưng rất đáng tiếc, hoàng thượng hẳn là không có được năng lực ấy. Không phải là tất cả mọi người đều có thể đạt được năng lực ấy.

Trong lòng Địch Thanh chua xót, thầm nghĩ vì sao năng lực ngũ long lúc ẩn lúc hiện, vì sao chính mình lại giống với Vũ Thường sau khi gặp bất hạnh thì bắt đầu có loại thần lực phụ trợ, những nguyên do này, ai có thể biết đây?

Tào Dật trong mắt đột nhiên có phần kì dị, nhỏ giọng nói:

- Địch đại ca, nhưng ngũ long còn có một chút kì lạ, chỉ sợ huynh còn chưa biết.

Trong lòng Địch Thanh run lên, trầm giọng nói:

- Kì lạ ở chỗ nào?

Tào Dật nói từng chữ:

- Ngũ long kì lạ ở chỗ lời tiên tri của nó. Năm đó, bởi do ngũ long nên tiên đế ít để ý hơn tới Lưu Thái Hậu. Sau đó, theo đệ suy đoán... Cũng do ngũ long, mà tiên đế mới có thể có thiên tử.

Địch Thanh không kìm nổi, lại nghĩ tới lời nói năm đó của Lý Thuận Dung, Bát vương gia, nên biết Tào Dật nói .

Tào Dật thấy Địch Thanh chân mày chau lại, chỉ cho là hắn không tin, thở dài nói:

- Kỳ thật việc này vốn không thể tưởng tượng, trong cung cho dù có người biết chuyện thì cũng không dám nói. Chuyện quá khứ đã qua mấy năm, người biết được chân tướng đã ít lại càng ít. Lưu Thái Hậu đã mất, theo lý thuyết, đệ vốn không nên ở đây nghị luận về Lưu Thái Hậu...

Địch Thanh nghiêm nghị nói:

- Đệ cứ nói, đừng ngại. Hôm nay đệ nói, huynh biết sẽ không nói lại cho người ngoài đâu.

Tào Dật cười khổ nói:

- Bởi có một chuyện liên quan tới ngũ long nên Lưu Thái Hậu bị tiên đế lạnh lùng, tức giận, bất bình. Sau đó, Thái hậu cố tình tìm ẩn sĩ Thiệu Ung đến xem ngũ long, Thiệu Ung đã làm lời tiên tri mười sáu chữ.

- Nhưng 'Di Lặc ra đời, tân Phật độ kiếp. Ngũ long tái xuất, lệ rơi không ngừng” mười sáu chữ sao?

Địch Thanh hỏi. Chuyện này hắn cũng nghe Quách Tuân nói qua.

Tào Dật gật đầu nói:

- Đúng vậy, hoá ra Địch đại ca đã sớm biết. Nhưng Địch đại ca chẳng lẽ không biết, sau đó Thiệu Ung nối nghiệp đã giữ lời nói sao?

Địch Thanh kinh hãi nói:

- Ông ta đã nói gì đó?

Tào Dật mắt lộ ra sự bất an, chậm rãi nói:

- Thái hậu cảm thấy lời nói của Thiệu Ung không rõ ràng, bởi vậy bắt Thiệu Ung giải thích cặn kẽ. Thiệu Ung sau đó mới nói ngũ long là điềm xấu, người có được, nhất định thống khổ cả đời! Hơn nữa, ngũ long chỉ có thể mang đến cho người có được nó sự bất hạnh.

Địch Thanh lùi ra phía sau hai bước, sắc mặt trở nên tái nhợt hệt như tuyết. Hắn nhớ tới Quách Tuân từng nói qua, "Địch Thanh, ta chỉ biết là, ngũ long này không phải là vật mang sự may mắn tốt lành.. Ngươi... hủy nó đi, được không?”

Địch Thanh còn nhớ rõ, lúc Quách Tuân khuyên hắn vứt bỏ ngũ long đi, trong ánh mắt còn có ý bi ai không nói ra được thành lời. Lúc trước, Địch Thanh chống cự không vứt bỏ ngũ long, Quách Tuân thậm chí còn giận tím mặt.

Lúc trước, Quách Tuân còn nói, "Ngươi nếu không có nó... Nói không chừng..." Quách Tuân lúc ấy không nói tiếp, Địch Thanh vốn cũng không có hỏi tiếp. Bây giờ, suy nghĩ một chút, đã hiểu rất rõ rồi, Quách Tuân muốn nói, ngũ long cũng không thể cứu mạng. Nếu Địch Thanh không có ngũ long, nói không chừng căn bản cũng sẽ không có tai họa.

Có được ngũ long là phúc hay họa? Hoá ra Quách Tuân cũng biết hàm nghĩa lời tiên tri của Thiệu Ung. Ông ta sợ lời tiên tri ấy đúng, thì lúc này mới khuyên Địch Thanh vứt bỏ ngũ long?

Địch Thanh tâm loạn như ma, nhớ lại tình hình, đột nhiên nghĩ đến, không có ngũ long, chính mình còn có thể trở thành thị vệ Triệu Trinh, còn có thể bị Triệu Doãn Thăng chú ý, Vũ Thường gặp bất hạnh hay không?

Nghĩ đến đây, Địch Thanh đã cảm thấy ngực đau như có kim đâm. lại như bị ngàn cái chùy lớn đánh trúng, bước chân lảo đảo, trước mắt biến thành màu đen.

Một loạt những ý nghĩ tấn công đỉnh đầu, trong đầu hắn rốt cuộc giống như có cự long bắt đầu khởi động. Nhưng cự long dữ tợn, mở miệng cười nói: “Đúng, ngươi... Là ngươi, Địch Thanh ngươi hại Dương Vũ Thường!"

Địch Thanh mãnh liệt quát một tiếng, đã giơ tay rút đao, một đao chém tới.

Hoành đao chém gió, thê lương gào thét. Mọi người kinh hãi, không nghĩ tới trên đời này lại có loại đao sắc bén như vậy, Tào Dật thậm chí tránh né ý niệm trong đầu, tất cả đều không phải, cả người lạnh cứng.

Một đao kia đều không phải là chém về phía Tào Dật, mà là chém vào không trung. Một đao Địch Thanh chém ra, cả người đã toát mồ hôi đầm đìa. Nhưng cái cự long kia, cũng theo đó biến mất không thấy gì nữa.

Toàn thân Tào Dật toát mồ hôi lạnh, thấy phía sau thị vệ muốn xông lên, liền xua tay ngăn bọn họ lại. Nhìn thấy trên mặt Địch Thanh mặc dù không rơi lệ, nhưng so với rơi lệ còn đau thương gấp trăm lần, không kìm nổi, y an ủi:

- Địch đại ca... Lời tiên tri không nhất thiết là đúng. Nói cho tới cùng, chuyện của Dương Vũ Thường ... Không liên quan gì đến huynh hết.

Thời điểm Địch Thanh nghe được ba chữ "Dương Vũ Thường", toàn thân chấn động, khóe mắt giật không ngừng, nhưng đã khôi phục lại như cũ.

Một đao kia, tập trung quá nhiều bi thương.

Hắn lẩm bẩm nói:

- Ngũ long xuất hiện trùng lặp, nước mắt không ngừng rơi... Hóa ra là ý này. Ha... Ta thực là ngu xuẩn, đến bây giờ mới hiểu được ý nghĩa của hai câu này.

Hắn mặc dù đang cười, nhưng còn khó chịu hơn cả khóc.

Tào Dật thấy Địch Thanh thần sắc đau đớn, thật cẩn thận nói:

- Ngũ long này... đệ không muốn khuyên Địch đại ca hủy nó, nhưng huynh cầm nó, thì phải cẩn thận một chút...

Địch Thanh đờ đẫn nói:

- Chẳng lẽ tới tận hôm nay, sự việc vẫn còn bi thảm hơn so với lúc trước sao?

Hắn khó khăn đứng lên, đứng thẳng sống lưng nói:

- Tào huynh đệ, cảm ơn đệ đã nói cho ta biết việc này.

Tào Dật cười khổ sở nói:

- Đệ biết, không phải là một vài chuyện cũ, ngay cả đối với việc tìm kiếm Hương Ba Lạp, cũng chưa biết là ở nơi nào.

Địch Thanh lại liếc mắt một cái, nhìn Triệu Minh, một lúc lâu sau mới thở phào một cái, nói với Tào Dật:

- Huynh muốn nhờ đệ giúp một chuyện.

Tào Dật lập tức nói:

- Chỉ cần đệ có thể làm, thì sẽ làm hết sức.

Địch Thanh chậm rãi nói:

- Chuyện này, nói khó cũng không phải là khó, dễ cũng không phải là dễ. Đệ đi làm... Là không còn gì tốt hơn rồi.

Đêm đã khuya, trên không trung sao lốm đốm đầy trời, giống như đôi mắt tình nhân. Gió xuân thổi nhẹ, mang theo hơi thở ấm áp, y như sự vỗ về của tình nhân...

Ở phía đông trại Cao Bình, có một khu Cao Gia Tập, ước chừng trăm hộ. Đêm khuya như thế, mọi nhà đã đóng cửa đi ngủ sớm.

Bách tính nơi biên thùy này, cảm giác nhạy bén hơn so với quan viên Biện Kinh. Bọn họ đã ngửi được binh đao qua hơi thở. Nơi này náo loạn không ngừng, khói lửa không ngớt. Nhưng nơi này, là nhà của bọn họ, bọn họ không nỡ rời đi.

Trong Cao Gia Tập giống như những phần mộ lạnh lùng. Trong đó, chỉ có một cái đại viện, còn lóe lên ánh đèn, bên trong tụ tập những người của gánh hát. Những người ở đây, là từ trại Cao Bình ra, tạm cư ở trong này.

Hàn ỳ mặc dù có thể bắt gánh hát ca múa ở trại Cao Bình, nhưng vào lúc đêm khuya, thì không thể để họ vào đó. Có lẽ năm đó, chuyện ở trại Kim Minh, cũng để lại cho y không ít xúc động.

Hàn Kỳ cho dù kiêu căng, cho dù cuồng ngạo, nhưng vẫn có chừng mực. Năm đó, trại Kim Minh bị phá, cũng bởi nguyên nhân từ nội tặc. Vết xe đổ, Hàn Kỳ đương nhiên phải phòng.

Trận ồn ào trong viện đó, cũng từ từ lắng xuống. Vào lúc đêm khuya thanh vắng, có một người lặng lẽ ra khỏi phòng, nhìn khắp nơi một lượt, thấy không có ai chú ý tới, liền đẩy cửa nhỏ, lặng lẽ ra khỏi sân.

Người kia quần áo màu đen, lẻn vào trong đêm. Sau khi đi ra, liền lấy cái khăn đen bịt mặt lại, lập tức chạy tới phía đông Cao Gia Tập. Phía đông Cao Gia Tập có một bãi tha ma, người chết ở gần vùng này, đa số đều chôn ở nơi đó.

Trong bãi tha ma, mộ phần chồng chất. Trong đêm tối đom đóm bay qua bay lại, giống như đôi mắt cô hồn.

Những nơi như vậy, đêm khuya như thế này, người bình thường không ai dám đến. Thế mà người có bộ quần áo mầu đen kia thì dường như thông thạo, quen việc dễ làm.

Ở bên trong nấm mồ, rất ít bia mộ. Có nhiều người đã chết rồi chôn, không tên không tuổi. Một cái bóng đứng trước bia mộ, nghe thấy tiếng bước chân vang tới, liền quay đầu lại nhìn, hỏi:

- Trại Cao Bình hiện tại như thế nào?

Bóng đen cao cao gầy teo đó, trong mắt vừa có chút khẩn trương, vừa có chút tham lam.

Người có bộ quần áo mầu đen, nói lạnh như băng:

- Vì sao ngươi phải trốn?

Hai người hóa ra là biết nhau. Người có quần áo mầu đen, tuy rằng khẩu khí lạnh lùng, nhưng giọng điệu lại mềm mại, đúng là con gái. Một người con gái có dáng vẻ như thế này ở bãi tha ma, không ngờ lại có thể điềm tĩnh tự nhiên như thế.

- Cô nương đây có lai lịch là gì?

Người cao gầy hạ giọng nói:

- Làm sao ta có thể không trốn cho được? Bọn họ mà biết do ta giở trò quỷ, thì ta sẽ chỉ có con đường chết.

Người áo đen kia cười lạnh nói:

- Hàn Kỳ kiêu căng, mâu thuẫn với Địch Thanh đã lâu, nếu không phải là ngươi chạy trốn, chỉ cần ngươi chịu phân biệt rõ, Địch Thanh không thể làm gì được ngươi. Địch Thanh đã sớm biết điểm ấy, bởi vậy, căn bản không truy cứu. Ngươi có tật giật mình, lại làm lộ chân tướng.

Người cao gầy nọ cười lớn nói:

- Chẳng phải trại Cao Bình còn ngươi nữa sao? Hôm nay, một chén rượu của ngươi, đã khiến cho Địch Thanh, Hàn Kỳ trở mặt thành kẻ thù. Ta sẽ khiến cho Triệu Minh tức giận, lại ly gián Địch Thanh và Hàn Kỳ thành công, cũng coi như có một chút công lao. Các ngươi đã từng đồng ý vô điều kiện, khi nào thì thực hiện?

Người áo đen nọ hừ lạnh một tiếng, hồi lâu mới nói:

- Ngươi yên tâm đi, tự khắc sẽ có chỗ tốt cho ngươi. Ngươi lại đây...

Người áo đen đưa tay ra, nhưng lại lộ ra một đoạn cánh tay ngọc.

Người có vóc dáng cao gầy đó ngây người, thấy cổ tay trắng như tuyết, giống như xuân thông, yết hầu chuyển động, không kìm nổi. Chỉ có điều, một đoạn cánh tay kia, đã làm cho người kia khó có thể dời mắt.

Người áo đen cười "Khanh khách" nói:

- Đồ ngốc, lợi ích đã đến, chẳng lẽ ngươi lại không muốn?

Âm thanh của ả vốn lạnh như băng. Nụ cười này, có thể nói quyến rũ đến tận xương.

Người cao gầy nọ nuốt nước miếng, cuối cùng cũng tiến lên vài bước, ôm lấy người áo đen. Gã đã ý loạn tình mê, nằm mơ cũng không ngờ lại có người đẹp như thế. Nhưng gã chỉ chú ý tới việc giở trò, mà không lưu ý đến bàn tay mềm mại của người áo đen xẹt qua búi tóc, lấy xuống cây kim trâm, lập tức đâm thẳng vào ngực gã.

Ngực gã cao gầy kia đau nhức, cùng tiếng hét phẫn nộ, đã đẩy người áo đen ra, khàn giọng nói:

- Ngươi...

Lời vừa mới cất ra, sắc mặt đã xanh mét. Kim trâm kia cực kỳ sắc bén, đã xuyên qua quần áo vào thịt. Kim trâm mặc dù ngắn, nhưng trâm nhọn có độc. Độc phát tác cực nhanh, tên cao gầy kia bỗng dưng giữ yết hầu, khàn giọng nói:

- Ngươi...

Gã muốn tiến lên, nhưng sụp ngã xuống đất, tứ chi bị một trận co giật, sau đó không bao giờ ... cử động nữa.

Kẻ áo đen kia liếc nhìn tên có dáng vẻ cao gầy một cái như nhìn cá dãy chết, thản nhiên nói:

- Lợi ích của ngươi bây giờ, không phải là đã hưởng sự vĩnh hằng sao?

Chỉ có người chết, mới được hưởng lợi ích vĩnh hằng!

Kẻ áo đen đó đã giết người giống như cơm bữa. Ả xoay người đi, đột nhiên toàn thân căng thẳng. Bởi vì, chẳng biết từ lúc nào, đã có một người đứng ở sau lưng.

Người nọ có mắt sáng ngời như mũi tên, khuôn mặt vừa tuấn tú, sáng sủa lại vừa tang thương. Thái dương của y đã điểm hoa sương, nhưng người lại giống như bảo đao Lịch Sương, trong trẻo nhưng lạnh lùng sắc bén.

Người đó là Địch Thanh! Địch Thanh trong mắt có sát khí!

Trong mắt kẻ áo đen rốt cục cũng xuất hiện sự bối rối. Tên có dáng người cao gầy kia không nghĩ rằng, y sẽ bị chết. Ả cũng thật không ngờ, Địch Thanh vẫn chưa trở về, hơn nữa còn đứng chờ ở ngay tại bãi tha ma.

Địch Thanh nói vọng tới giọng lạnh lùng:

- Ngươi chớ có chạy trốn. Nếu như ngươi có thể chạy trốn, thì ta khâm phục ngươi.

Nếu như hắn lớn tiếng hô quát, thì kẻ áo đen kia nói không chừng còn có chủ ý. Có thể thấy được, Địch Thanh bình tĩnh như nước, người áo đen ngược lại không dám hành động thiếu suy nghĩ.

Địch Thanh nhìn người áo đen kia thật lâu, lúc này mới nói:

- Bạch Mẫu Đơn, câu nói đó của ngươi trong bữa tiệc, quả nhiên có vấn đề lớn.

Toàn thân kẻ áo đen khẽ run, cười khe khẽ, đưa tay tháo khăn lụa xuống, lộ ra khuôn mặt kiều diễm.

Người kia rõ ràng chính là ở trong trại Cao Bình. Bạch Mẫu Đơn từng mời rượu Địch Thanh!

Bạch Mẫu Đơn nhìn chằm chằm Địch Thanh nói:

- Từ khi nào thì ngươi bắt đầu hoài nghi ta?

Địch Thanh chậm rãi nói:

- Ta vẫn thấy kì lạ, hạng người đứng giữa xưa nay khéo đưa đẩy, cho dù khinh miệt ta, bình thường cũng không dễ dàng đắc tội với người đấy. Ngươi cố ý chọc giận ta, sau đó lại còn thản nhiên xem diễn trò. Ngươi rất khác thường.

Bạch Mẫu Đơn mỉm cười:

- Địch Thanh quả thật thông minh, so với Hàn Kỳ đại nhân, có thể thông minh hơn.

Địch Thanh hỏi:

- Vì sao ngươi phải chọc giận ta?

ạch Mẫu Đơn nói:

- Ngươi đoán xem?

Con mắt ả chuyển động ra vẻ khờ dại. Cô ta không hiểu, vì sao Địch Thanh có thể theo tới đây. Nhưng biết, không ai có thể xuống đao nhanh hơn Địch Thanh. Chỗ mà cô ta có thể thắng được Địch Thanh, cũng không phải ở võ công.

Địch Thanh nói:

- Bởi vì ngươi là người của Càn Đạt Bà bộ, trong bát bộ của Nguyên Hạo.

Bạch Mẫu Đơn ngơ ngẩn, ả không nghĩ tới Địch Thanh trong chốc lát có thể đoán ra xuất xứ của mình.

Ánh mắt Địch Thanh nhìn chằm chằm Bạch Mẫu Đơn, lại nói:

- Có khi quân hai bên giao chiến, không nhất định dùng nam nhân mới có thể dò hỏi tin tức, có thể dùng cả nữ nhân. Người của Càn Đạt Bà bộ, đều giỏi ca múa. Các ngươi biết Hàn Kỳ yêu thích ca múa, bởi vậy mới hợp ý. Hàn Kỳ cho dù không nói việc quân cơ ở trước mặt các ngươi, các ngươi cũng có thể điều động người theo ông ta, tìm ra chút manh mối. Huống chi... Hàn Kỳ vốn không để mắt tới các ngươi. Ngươi biết ta và Hàn Kỳ nghị luận việc quân, bởi vậy cố ý nắm lấy cơ hội chọc giận ta. Ngươi biết, Hàn Kỳ chắc chắn sẽ không nghe ta giải thích.

Bạch Mẫu Đơn mỉm cười duyên dáng nói:

- Địch Thanh, ta sớm nghe nói qua đại danh của ngươi, nhưng quả là trăm nghe không bằng một thấy.

Địch Thanh lại hỏi,

- Người mà ngươi mới vừa giết là ai?

Bạch Mẫu Đơn cười đã có chút miễn cưỡng, còn không chịu nhận thua

- Ngươi đoán xem?

Tiếng Địch Thanh nói chậm lại:

- Mới vừa nghe tiếng các ngươi, đã biết người kia đương nhiên chính là Phú Nghĩa. Thì ra chính là y đã hãm hại người của Triệu Minh. Y bị các ngươi mua chuộc. Có cơ hội, đương nhiên phải đẩy mối quan hệ quân Tống. Các ngươi không cần dùng tới y nữa, đơn giản giết cho xong việc, để phòng y tiết lộ bí mật của các ngươi.

Bạch Mẫu Đơn cười lớn nói:

- Ngươi cái gì cũng biết, vậy sao vừa rồi không ngăn cản ta ra tay?

Địch Thanh nói:

- Phú Nghĩa chết rồi, cũng giống như ngươi.

Bạch Mẫu Đơn che miệng cười nói:

- Ngươi nói với ta nhiều như vậy, chỉ là muốn bắt ta. Sau đó, đưa đến trướng Hàn Kỳ. Nhưng người như ngươi thông minh như vậy, thì thử đoán xem Hàn Kỳ sẽ tin ngươi, hay là tin ta?

Trong ánh mắt Địch Thanh có phần bi ai, lập tức nói:

- Ông ta sẽ tin ngươi.

Bạch Mẫu Đơn cười khanh khách, giống như một lần nữa lại nắm giữ được thế chủ động,

- Nếu ông ta không tin ngươi, vậy đêm nay ngươi làm mọi thứ, không phải vô ích sao?

Ả ta chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, lắc lắc eo nhỏ, đôi môi đỏ mọng nửa khép nửa mở, đôi mắt quyến rũ như tơ nhìn Địch Thanh nói:

- Ta và ngươi đều vì chủ của mình thôi. Mặc dù ta tính kế với ngươi, nhưng đương nhiên ngươi biết, ta còn sống, thì càng thêm hữu dụng, có đúng không?

Địch Thanh lạnh lùng nói:

- Ngươi thật ra cũng không thông minh như ngươi nghĩ.

Bạch Mẫu Đơn cười duyên đã có chút cứng ngắc, vẫn có thể hỏi:

- Ngươi nói cái gì?

Địch Thanh thản nhiên nói:

- Ta tới nơi này, là muốn nói cho ngươi vài sự việc. Việc thứ nhất chính là, ta sớm đã đáp ứng một người, từ nay về sau, không ai có thể xem thường Địch Thanh ta! Ngươi dám khinh thường ta, ngươi nhất định sẽ phải trả giá rất nhiều!

- Còn việc thứ hai thì sao?

Bạch Mẫu Đơn cười còn khó coi hơn so với khóc, trong mắt càng lộ ra ý kích động.

- Ta tới nơi này, không phải muốn bắt ngươi, mà là muốn giết ngươi!

Giọng Địch Thanh đầy mỉa mai.

Bạch Mẫu Đơn lại cười khanh khách, nhưng trong tiếng cười có sự sợ hãi, giọng khàn nói:

- Ngươi nói láo! Nếu như ngươi muốn giết ta, làm sao lại nói nhiều điều vô nghĩa như vậy?

Địch Thanh giễu cợt nói:

- Ta muốn nói cho ngươi chuyện thứ ba. Những lời này của ta, vốn không phải là nói cho ngươi nghe.

Hắn quay đầu nhìn sang một bên nói:

- Tào quốc cữu, Doãn đại nhân, các vị đều nghe rõ chứ?

Tào Dật đứng dậy, Doãn Thù vẫn theo sau, sắc mặt hai người đều thận trọng, gật đầu nói:

-Nghe được rất rõ.

Doãn Thù lại âm thầm kinh hãi, thầm nghĩ Bạch Mẫu Đơn ở trại Cao Bình nhiều ngày, Hàn Kỳ xưa nay sủng ái ả ta. Việc quân tiết lộ cho Bạch Mẫu Đơn không ít. Sau khi trở về, y nhất định phải nêu rõ chuyện này cho Hàn Kỳ.

Sắc mặt Bạch Mẫu Đơn và màu trắng hoa mẫu đơn giống hệt nhau. Ả chưa bao giờ ngờ tới, Địch Thanh muốn nhiều hơn thế. Địch Thanh vừa bị đòn thì lập tức nghĩ đến phương pháp xử lí.

Tào quốc cữu, Doãn Thù đã nói rõ chân tướng, chẳng cần phải để Bạch Mẫu Đơn trở về mới có lợi.

Địch Thanh nhìn như không nhìn Bạch Mẫu Đơn, nói với Tào quốc cữu và Doãn Thù:

- Quốc cữu, Doãn đại nhân, Địch Thanh đã nói rõ mọi việc, chuyện còn lại, phải nhờ vào hai vị đại nhân rồi.

Tào quốc cữu thở dài nói:

- Ngươi yên tâm đi, ta và Hàn Kỳ nhất định sẽ xem xét rõ ngọn nguồn.

Hoá ra, lúc ban ngày, Địch Thanh đã mời Tào Dật, Doãn Thù để dự thính.

Địch Thanh rốt cục cũng không phụ lời dặn dò của Phạm Trọng Yêm, lấy đại cục làm trọng. Hắn vạch trần bẫy này, hy vọng Hàn Kỳ có thể tạm bỏ qua ân oán cá nhân.

Doãn Thù, Tào quốc cữu vừa rời khỏi. Bạch Mẫu Đơn đã khàn giọng nói:

- Địch Thanh, nếu như ngươi là anh hùng, thì không nên giết ta. Ngươi nổi tiếng là anh hùng trong thiên hạ, ta chẳng qua chỉ là một cô gái yếu ớt.

Địch Thanh không hề mảy may thương hại, cười lạnh lùng:

- Bất cứ kẻ nào làm việc, đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Ta và ngươi đều là vì chủ của mình. Con đường là do ngươi chọn lấy, nên ngươi phải gánh vác hậu quả!

Hắn quay người đi, biến mất trong bóng đêm. Bạch Mẫu Đơn vừa giật mình, thì đã thấy bốn người xuất hiện xung quanh bãi tha ma. Kiếm trong tay như trong đêm mùa xuân mang theo sự hiu quạnh của mùa thu...

Địch Thanh và Triệu Minh đã lên ngựa, đi ngang nhau, đi về hướng thành Đại Thuận. Sự việc vừa rồi mặc dù nói là đã trải qua được một giai đoạn, nhưng Địch Thanh hiểu được, trận chiến ác liệt vừa mới bắt đầu

Binh lính theo sau đuổi tới, bảo vệ cho Địch Thanh, sau đó, khuất vào trong bóng tối.

Triệu Minh vẫn theo sau Địch Thanh, thấy thế không kìm nổi hỏi:

- Địch đại nhân... Bạch Mẫu Đơn đã chết rồi sao?

Mới vừa rồi y đi theo Địch Thanh, tận mắt nhìn thây Phú Nghĩa chết, chẳng biết tại sao, cũng chẳng lấy gì làm thoải mái.

Địch Thanh buồn bã nói:

- Đã là người thì ai mà không phải chết?

Mới vừa rồi, mặc dù hắn không xuống tay giết Bạch Mẫu Đơn, nhưng thuộc hạ của hắn chắc chắn sẽ không buông tha.

Triệu Minh nhìn khuôn mặt buồn bã kia, đột nhiên nói:

- Địch đại nhân... Ty chức... Người bên ngoài hỏi ty chức chuyện về Hương Ba Lạp, ty chức cũng không nói. Đại nhân có biết, vì sao ty chức nói với đại nhân chuyện này không?

Địch Thanh suy nghĩ rất lâu, lắc lắc đầu nói:

- Ta không biết, nhưng ta muốn cảm ơn ngươi, giúp cho ta biết càng nhiều chuyện hơn.

Trong mắt Triệu Minh tràn đầy lòng kính ngưỡng, cảm kích:

- Ngài là Binh Mã Đô Giám, ngài xưng hùng tây bắc, chỉ cần ngài truyền lệnh xuống, thì ty chức không thể không nói. Nhưng ngài... vốn không ép ty chức, ty chức biết, ngài là người tốt bụng. Ngài tôn trọng người khác! Kỳ thật, lúc trước ty chức không biết Hàn Tiếu ngài hỏi chuyện Hương Ba Lạp vì ngài. Ty chức cho là y châm chọc ty chức, thế mới gây ra tranh cãi... Sau này, ty chức mới biết được là ngài hỏi. Chỉ dựa vào việc ngài ra sinh vào tử tác chiến, bảo vệ sự yên bình cho trăm họ ở tây bắc, thì ty chức sẽ nói chuyện này cho ngài.

- Đều là những chuyện đã qua rồi, không cần phải suy nghĩ nhiều.

Địch Thanh an ủi:

- Ta biết, ngươi không muốn nhớ lại chuyện cũ, ta để ngươi nói ra, quả là có chút không yên tâm.

Mi mắt Triệu Minh ươn ướt:

- Nhưng ty chức vốn từng muốn nói, cho dù... ty chức vốn không muốn lại đi tới cái nơi quỉ quái kia.

Y nói nơi quỷ quái, đương nhiên chính là chỉ Hương Ba Lạp. Lúc y nói chuyện, toàn thân lại run rẩy, nhưng trong mắt không thấy sự sợ hãi nữa.

- Nhưng ty chức biết, ngài khẳng định muốn đi Hương Ba Lạp, là ngài có chuyện khó nói. Nhưng ngài thà rằng bản thân khó xử, cũng không ép ty chức đi trước.

Triệu Minh càng nói càng kích động, từ trong lòng rút ra cái vòng tay nói:

- Cái vòng tay này... Trước kia là do một người con gái để lại cho ty chức...

Địch Thanh không hiểu dụng ý Triệu Minh, nhất thời im lặng.

Triệu Minh lại nói:

- Khi xưa, lúc nàng ấy trao cho ty chức cái vòng tay, khuyên ty chức, nói rằng chúng ta không cần nhiều tiền như vậy, không cần đại phú đại quý, chỉ cần ở bên cạnh nhau, bình an vô sự là được rồi. Nhưng ty chức không nghe! Ty chức muốn phát tài, muốn rất nhiều, rất nhiều thứ! Nhưng hiện tại, ty chức... Cho dù của cải toàn bộ thế giới để đống ở trước mặt mình, ty chức cũng sẽ không rời khỏi nàng. Nhưng... không còn đường quay về nữa rồi.

Địch Thanh nhìn khuôn mặt bi thương của Triệu Minh, trong lòng chỉ muốn nói là “đúng thế, không có đường quay về nữa rồi. Nhưng ta sống như thế này, vốn chỉ muốn ở cùng với Vũ Thường, thì hạnh phúc nhất thế gian rồi. Nhưng ông trời keo kiệt vô cùng... lại không chịu ban cho.”

Triệu Minh cầm vòng tay kia, lệ rơi đầy mặt, khàn giọng nói:

- Nhưng thật ra là ty chức rất xin lỗi nàng. Nàng chết rồi, Phú Nghĩa chết rồi. Ty chức chưa chết, cũng chẳng khác nào như đã chết. Bởi vì cả đời này, nhiều khi, cũng không biết mình muốn cái gì, nhất định phải mất đi sau đó mới hiểu được! Nhưng bây giờ ty chức biết muốn làm cái gì. Ty chức muốn trả lại ân tình của người này. Chỉ cần ty chức còn chưa chết, chỉ cần Địch tướng quân cần, bất cứ lúc nào ngài sai ty chức đi Hương Ba Lạp, ty chức cũng sẽ đi.

Địch Thanh ngắm nhìn Triệu Minh, trong đêm tối, thấy nước mắt loang loáng. Thật lâu sau mới gật đầu nói:

- Cảm ơn.

Hắn chỉ nói hai chữ, nhưng trong lòng thể hiện sự cảm kích lớn nhất.

Triệu Minh cắn răng gật gật đầu, không nói nên lời. Nhưng y biết, cho dù không nói ra dự tính, Địch Thanh cũng hiểu được quyết tâm của y.

Có một số chuyện, vốn không cần nhiều lời, thậm chí không cần phải nói!

Khi mặt trời mới hé, những giọt sương tinh khôi còn đọng, Địch Thanh giật cương ngựa chạy về thành Đại Thuận.

Địch Thanh đi một mạch trên đường mệt mỏi, lúc người còn chưa xuống ngựa, ngựa còn chưa tháo yên đã có binh sĩ bẩm báo,

- Phạm đại nhân muốn Địch tướng quân vừa về đến, lập tức tiến vào lều trung quân.

 Chương 313 - 317: Bố cục

Địch Thanh thẳng đến lều trung quân, Phạm Trọng Yêm nghe nói Địch Thanh trở về, khoác áo bước nhanh ra ghênh đón:

- Địch Thanh, mặt người kia như thế nào?

Địch Thanh bụi sương đầy mặt, Phạm Trọng Yêm hai tròng mắt đầy tia máu, không biết mấy đêm chưa ngủ.

Địch Thanh áy náy nói:

- Phạm đại nhân, tại hạ phụ lòng kỳ vọng của đại nhân. Ngược lại, tại hạ và Hàn Kỳ đã làm một trận ầm ĩ.

Phạm Trọng Yêm trong lòng trầm xuống, Triệu Minh đã lớn tiếng nói:

- Phạm đại nhân, ngài chớ oán giận Địch Đô Giám, nguyên nhân đều là do tiểu nhân.

Địch Thanh cướp lời nói:

- Ta làm ta chịu, có liên quan gì tới ngươi?

Phạm Trọng Yêm nhìn Triệu Minh, lại nhìn Địch Thanh, hiểu được việc này không như ý, nên không có trách cứ gì, chỉ có điều nói:

- Đi vào rồi nói sau. Triệu Minh, ngươi khổ cực rồi, đi về nghỉ ngơi trước đi.

Địch Thanh sau khi vào trướng, không đợi Phạm Trọng Yêm hỏi, hắn liền kể tất cả mọi chuyện xảy ra ở trại Cao Bình. Hắn không thẹn với lương tâm, chỉ nói ra sự thật.

Phạm Trọng Yêm sau khi nghe xong, khẽ thở dài. Địch Thanh có chút bất an nói:

- Phạm đại nhân, tại hạ... Thật sự là có chút kích động.

Phạm Trọng Yêm chăm chú nhìn Địch Thanh, cười khổ nói:

- Ôi... Ta chỉ là khen ngợi ngươi làm sao có thể nhịn được thế? Nếu là ta, nói không chừng còn làm ầm ĩ hơn.

Ông ta chỉ đùa một chút, khó nén được sự lo lắng trong mắt, thầm nghĩ Hàn Kỳ tính khí như vậy, nếu mà dùng binh như thế, chỉ e là không ổn.

Địch Thanh thấy Phạm Trọng Yêm không có bất kỳ trách cứ, nói:

- Chuyện cãi vã không thành vấn đề, vấn đề là làm sao để bảo vệ biên thuỳ mới là quan trọng. Tại hạ cảm giác, Hàn đại nhân cao ngạo như thế, không biết người biết ta, trận chiến này thật nguy hiểm.

Phạm Trọng Yêm gật đầu nói:

- Ngươi nói không sai. Bạch Mẫu Đơn chẳng qua là một thủ đoạn để Nguyên Hạo dò hỏi việc quân cơ. Phú Nghĩa chẳng qua cũng là bị Nguyên Hạo mua chuộc... Con đường Kính Nguyên hôm nay, chỉ sợ nguy cơ tứ phía.

Lời còn chưa dứt, có binh sĩ đã vội vã chạy tới, bẩm báo:

- Phạm đại nhân, Nguyên Hạo lại xuất binh Hoành Sơn, xâm nhập vào đường Kính Nguyên!

Quân Hạ tập trung quân ở Hạ Lan Nguyên! Quân Hạ dấy binh đánh Khấu Cảnh rồi ra lại Hoành Sơn! Nguyên Hạo qua trại Tam Xuyên, muốn tấn công thành Hoài Viễn.

Kính Nguyên lộ khói lửa nổi lên bốn phía...

Mấy ngày hôm nay, tình hình quân sự nóng như lửa, lan đến cả thành Đại Thuận.

Phạm Trọng Yêm không thể thảnh thơi trong phút chốc, liền gọi Địch Thanh tới bàn bạc. Địch Thanh bước vào trong trướng thấy bên trong quân trướng ngoài Phạm Trọng Yêm ra còn có hai người nữa.

Một trong số đó nét mặt buồn khổ, nếp nhăn trên trán giống như đao khắc, trông giống bộ dạng của một người bị thiếu nợ không trả vậy. Nhưng người này khi nhìn thấy Địch Thanh ánh mắt có nét tười cười.

Địch Thanh nhìn thấy vui mừng tiến lên phía trước nói:

- Bàng đại nhân, Địch Thanh bái kiến.

Địch Thanh muốn thi lễ thì bị người này ngăn lại. Người này hỏi thăm Địch Thanh, vẻ mặt buồn khổ trước đó nay đã chuyển thành nụ cười vui mừng:

- Địch Thanh, ta đã nghe nói những việc ngươi làm mấy năm nay, được lắm.

Người này là Bàng Tịch.

Năm đó Địch Thanh bị hàm oan, nếu như không phải Bàng Tịch dốc sức biện minh giúp thì nói không chừng Địch Thanh đã bị khắc chữ lên mặt. Lúc đó Bàng Tịch chỉ là Thôi Quan của phủ Khai Phong mà thôi nhưng cũng chính chức Thôi Quan này đã giống như Phạm Trọng Yêm đứng vững trước những áp lực của triều đình, còn minh oan cho Địch Thanh.

Mấy năm gần đây, Bàng Tịch đã sớm được thăng chức Điện trung Thị Ngự sử là do con người chính trực, nhiều lần không khiếp sợ trước quyền quý, khuyên nhủ Triệu Trinh, được vua và dân chúng gọi là “Thiên tử Ngự Sử”.

Sau một trận chiến ở Tam Xuyên Khẩu, triều đình Tống thất kinh. Triệu Trinh mặc dù đã thay đổi cơ cấu ở biên thùy nhưng ngoài Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ ra thì rất ít người chịu chủ động đi đến nơi biên cương. Hạ Tủng cũng không phải chủ động đến đây, mà là bị Triệu Trinh buộc đến biên thùy.

Bàng Tịch là một trong số ít quan văn ngoại trừ Phạm Trọng Yêm và Hàn Kỳ ra tự xin được đi trấn thủ biên cương. Bàng Tịch lúc này thân là Chuyển vận sử Thiểm Tây, biên cương có chiến tranh, y làm nhiệm vụ chuẩn bị vũ khí quân trang. Thậm chí Bàng Tịch còn kiến nghị Triệu Trinh thắt lưng buộc bụng, giảm bớt chi tiêu hoang phí trong triều đình, lấy số tiền đó để khao quân. Lẽ tất nhiên là Triệu Trinh cho phép.

Biên cương có những người như Bàng Tịch, Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ thì mới có thể thuận lợi dấy binh chuẩn bị chiến tranh. Địch Thanh sớm đã biết Bàng Tịch đến đây nhưng vì cả hai người đều rất bận rộn nên hôm nay mới gặp mặt.

hĩ lại chuyện cũ ánh mắt Địch Thanh và Bàng Tịch hai người không khỏi có chút thổn thức. Mọi người đều ngồi xuống, lúc này Địch Thanh để ý đến vị tướng lĩnh đứng bên cạnh Phạm Trọng Yêm. Người này mặc trang phụccủa Đô Chỉ Huy Sứ, vóc người cường tráng, khuôn mặt đầy những dấu tích xương gió, râu mép giống như cương châm, trông rất nhanh nhẹn.

Địch Thanh trong lòng có chút xao động nói:

- Vị này có phải là Chu Mỹ Chu đại nhân?

Địch Thanh biết ở Phu Diên lộ có một Đô Chỉ Huy Sứ Chu Mỹ, tác chiến linh hoạt, đa dạng. Sau khi trại Kim Minh bị phá, toàn bộ Diên Châu đều do hai người Chu My và Chủng Thế Hành chống đỡ.

Nghe Địch Thanh hỏi thăm, người này cười ha ha nói:

- Ta chính là Chu Mỹ, Địch Thanh, sớm nghe đại danh của ngươi. Người ta thường nói ngươi có dáng dấp của một hung thần ác sát, giống như ma quỷ vậy, hôm nay gặp mặt mới biết tất cả đều là nói bậy.

Câu nói của Chu Mỹ rất thô kệch, ý của y muốn nói Địch Thanh trông rất khôi ngô. Phạm Trọng Yêm, Bàng Tịch nhìn nhau cười, không cho đó là ngang ngược.

Địch Thanh cười nói:

- Lời đồn đại sao có thể tin được? Tại hạ từng nghe Cao đại ca nói, Chu Mỹ Chu đại nhân phong nhã vững chãi, đâu ngờ rằng...

Địch Thanh muốn nói nhưng lại thôi. Chu Mỹ quả nhiên truy đến cùng hỏi:

- Kết quả thế nào?

Địch Thanh cười nói:

- Kết quả tương đương với phong nhã vững chãi.

Phạm Trọng Yêm lại cười, Chu Mỹ vờ giận nói:

- Cao đại ca mà người nói có phải là Cao Kế Long không?

Thấy Địch Thanh gật đầu, Chu Mỹ cố tình coi như không có gì nói:

- Y chỉ có râu rậm hơn ta một chút thôi, ngoài ra không có ưu điểm nào hết, chẳng đáng mà...

Chu Mỹ vừa chuyển đề tài vừa vuốt râu nói:

- Ta ngoài bộ râu cứng hơn người ra thì không có điểm gì đáng để khoe khoang hết.

Dứt lời, y liên tục lắc đầu, khuôn mặt lộ vẻ uể oải nói:

- Sau này nơi biên thùy này là thiên hạ của các người rồi, bớt lời sàm ngôn đi. Phàm đại nhân, đánh như thế nào, cứ phân phó đi.

Phạm Trọng Yêm lẳng lặng chờ Chu Mỹ nói hết, mới nói:

- Chu tướng quân, ưu điểm duy nhất của ta chính là ta không nhiều lời trong lúc mọi người đánh trận. Ở đây xem ra sở trường của Bàng đại nhân là nhiều nhất, hay là mời Bàng đại nhân nói quan điểm của mình.

Nói dứt lời không nhịn nổi cười, trong khi Bàng Tịch thì nghiêm mặt nói:

- Sở trường lớn nhất của ta là có thể đòi tiền. Phạm đại nhân người đừng nghĩ rằng người lấy lòng ta mà ta sẽ cho thêm chút quân trang. Việc đánh trận, hay là hỏi Địch Thanh đi.

Địch Thanh phì cười, có chút vui vẻ.

Quân tình nguy cấp, nhưng mấy người này đều biết điểm tốt của việc điềm tĩnh, thả lỏng, vì thế nên họ thường hay nói chuyện chơi với nhau. Cuối cùng Phạm Trọng Yêm nghiêm mặt lại nói:

- Được rồi, không nói chuyện phiếm nữa. Trước mắt quân tình nguy cấp, Nguyên Hạo tấn công Kính Nguyên lộ, chúng ta ở Hoàn Khánh, nghĩ việc đáng làm thì phải làm, muốn gánh vác cho Hàn đại nhân một phần áp lực. Địch Thanh ngươi nói xem, nên làm thế nào?

Nhưng trong lòng lại nghĩ:

“Ta vốn muốn xuất binh viện trợ cho Hàn Kỳ nhưng Hàn Kỳ lại cho rằng, binh tướng thuộc hạ của y tấn công dù không đủ nhưng để đối phó với sự xâm phạm của Nguyên Hạo thì quá đủ rồi nên từ chối đề nghị của ta. Dù sao ta cũng không quản được Hàn Kỳ nên chỉ mong Hàn Kỳ có thể cầu thắng, ta sẽ tận lực giúp y giảm bớt sức ép.”

Địch Thanh nghe Phạm Trọng Yêm hỏi thì cũng không từ chối, thẳng thắn nói:

- Kính Nguyện lộ gặp địch, ta kiến nghị Phạm đại nhân chia quân làm năm đường!

Một lời Địch Thanh nói ra làm kinh động lòng người.

Bàng Tịch nghe vậy thì có chút thất vọng:

- Chia quân làm năm đường? Vậy thì cần phải có bao nhiêu quân trang và lương thảo đây?.

Y nghe Phạm Trọng Yêm nói Địch Thanh là người có tài thiên phú thống lĩnh quân đội, con người trầm tĩnh, vốn rất kỳ vọng nhưng sau khi nghe Địch Thanh nói chia quân làm năm đường giống với Hàn Kỳ nên không khỏi thất vọng.

Chu Mỹ thì nháy nháy mắt, có chút suy nghĩ nói:

- Phải chia binh làm năm đường ư? Ngươi nói ra nghe xem!

Địch Thanh lạnh lùng nói:

- Kỳ thực nói chia quân làm năm đường nhưng thật ra mục đích chỉ có một. Đó là làm quân Hạ bị thiệt hại nặng nề bức Nguyên Hạo phải lui quân, giảm bớt áp lực cho Kính Nguyên lộ, sau đó tùy theo thời cơ mà đoạt lại những vùng đất đã mất.

Chu Mỹ ngạc nhiên cười nói:

- Giỏi lắm! Đây chính là một mục đích sao?

Bàng Tịch nghe thấy chủ trương này thì lại lấy lại được cảm hứng, vội hỏi:

- Địch Thanh, làm thế nào để đạt được mục đích đó?

Địch Thanh nói:

- Hoàn Khánh lộ trước tiên có thể phái một đoàn binh đến trợ giúp Kính Nguyên lộ. Tuy nhiên ta nghĩ mấy ngày tới, Hàn đại nhân đã không ngừng chiêu binh mãi mã, binh lực cũng nhiều nên chắc là sẽ không cần chúng ta phải xuất binh.

Biểu hiện của mọi người đều có chút khác thường, biết những điều Địch Thanh nói đều không sai. Hàn Kỳ vẫn đang giận chuyện Phạm Trọng Yêm không hết sức ủng hộ y nên trận Kính Nguyên lộ lần này, Hàn Kỳ vốn không nghĩ đến việc cho phép đám người Phạm Trọng Yêm tham gia! Tất cả mọi người đều lo lắng về tình huống này.

Địch Thanh lại nói:

- Binh lực ở Kính Nguyên lộ nhiều, Hàn đại nhân nếu thận trọng một chút, theo lý thuyết thì hẳn là không có chuyện gì lớn xảy ra. Vì thế nên việc cho quân đến Kính Nguyên lộ chỉ là phô trương thanh thế mà thôi.

Chu Mỹ ở bên cạnh nói:

- Có phô trương thanh thế thì cũng không thể dọa nổi Nguyên Hạo.

Địch Thanh gật đầu nói:

- Điều này đương nhiên là không thể... nhưng nếu chúng ta đã xuất binh thì cũng nên có cái để báo cáo lại với triều đình.

Phạm Trọng Yêm thở dài, lẩm bẩm nói:

- Tiểu tử ngươi giờ cũng thay đổi rồi.

Địch Thanh nói không sai, bất luận thế nào thì Kính Nguyên lộà Hoàn Khánh lộ cũng tiếp giáp biên giới. Một khi Kính Nguyên lộ bị tấn công thì Hoàn Khánh lộ cũng phải có hành động, nếu không triều đình nhà Tống sẽ cho rằng Phạm Trọng Yêm không làm gì hết. Địch Thanh được tôi luyện nhiều năm, nên suy nghĩ cũng cẩn thận và chu đáo hơn nhiều.

Địch Thanh nói:

- Còn về bốn lộ còn lại. một lộ do ta dẫn quân, đến thành Đại Thuận, qua Diệp thành, xuyên qua Hoành Sơn đến tấn công Hựu Châu! Vờ bức Linh Châu, quân Hạ nếu biết vùng đất trung tâm của mình gặp nạn thì khó tránh có thể an tâm tác chiến ở Kính Nguyên lộ.

Chu Mỹ trừng mắt nhìn Địch Thanh một hồi lâu rồi đột nhiên giờ ngón tay cái lên chỉ, nói:

- Chiêu vây Ngụy cứu Triệu này của ngươi rất hay nhưng hay hơn nữa là lá gan của ngươi. Từ sau Tào Vĩ mấy năm trở lại đây không có ai dám qua dãy Hoành Sơn. Còn tiểu tử ngươi không chỉ qua đó một thời gian trước mà nay còn muốn đi nữa, đủ can đảm.

Địch Thanh cười nói:

- Nhưng khi ta qua Hoành Sơn thì cũng không thể mang theo nhiều nhân mã.

Chu Mỹ trố mắt nói:

- Ngươi giữ lại quân làm gì?

Địch Thanh cười nói:

- Hai lộ trước một là khuếch trương thanh thế, một là cần binh tinh tướng mạnh, cả hai đều cần quá nhiều binh lực. Hơn nữa Hoàn Khánh lộ còn cần phải xuất lộ binh thứ ba đi đoạt lại trại Kim Minh.

Chu Mỹ, Bàng Tịch nhìn nhau, đều thấy trong mắt nhau sự kinh ngạc.

Phạm Trọng Yêm thì ngược lại vẫn thản nhiên, chỉ hỏi:

- Lấy lại trại Kim Minh? Chúng ta có thể đánh được không?

Hiện tại Trại Kim Minh chính là nỗi đau trong lòng của người Tống. Trại Kim Minh này vốn được mệnh danh là tường đồng vách sắt, nay lại ở trong tay của quân Hạ, ngược lại còn trở thành bức bình phong tấn công Diên châu của quân Hạ.

Đoạt lại trại Kim Minh không còn nghi ngờ gì nữa là một chuyện khiến lòng người phấn khởi, nhưng cũng là một việc vô cùng khó khăn!

Địch Thanh nói:

- Phạm đại nhân đã triệu tập Chu tướng quân, Bàng đại nhân tới đây, tất nhiên không đơn giản chỉ là muốn trợ giúp cho Kính Nguyên lộ. Chu tướng quân trước đây không phải là thường xuyên ở Diên Châu,lần này được Phạm đại nhân gọi đến đây, chắc hẳn là muốn hỏi việc tiến công trại Kim Minh có được hay không?

Chu Mỹ ngẩn người, lập tức lắc đầu nói:

- Khá lắm, thật không thể ngờ. Qua mấy năm nữa, ngươi không chỉ là một Tào Vĩ không đâu?

Mặc dù y không trực tiếp thừa nhận nhưng chắc hẳn là đã nói Địch Thanh đoán không sai.

Ánh mắt Bàng Tịch rất kinh ngạc nhưng hơn thế là sự vui mừng. Y phát hiện Địch Thanh nhìn xa trông rộng hơn nhiều so với tưởng tượng của y. Địch Thanh sớm đã không còn là một Địch Thanh hay đánh lộn mà không nghĩ đến hậu quả của năm đó nữa. Dưới sự mài dũa của sương gió, đao kiếm không những không làm mất đi nhiệt huyết của Địch Thanh mà còn mãi cho hắn sự lợi hại, sắc bén.

- Vậy theo ý của ngươi thì trại Kim Minh có thể đánh hay không?

Phạm Trọng Yêm trầm giọng nói.

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Không thể đánh!

Mọi người lại ngẩn người ra, đều hỏi:

- Đã không thể đánh thì vì sao phải xuất quân?

Địch Thanh trả lời:

- Nguyên Hạo tuyệt đối không phải người tầm thường, y rất đề phòng Phạm đại nhân. Nếu như y xuất quân Kính Nguyên lộ, hẳn là sẽ nghĩ chúng ta nhất định phản công lại. Trại Kim Minh cảnh giới nghiêm ngặt, quân lực dư dật, cứ cho là chúng ta dồn hết binh lự vào Diên Châu thì cũng không có khả năng đánh được trại Kim Minh. Nếu một trận không thắng thì công sức góp nhặt nhiều năm nay coi như tiêu tan sạch.

- Vậy thì làm sao?

Phạm Trọng Yêm mỉm cười nói.

Địch Thanh suy nghĩ nói:

- Ta tấn công Hựu Châu, buộc binh lực của chúng phải lui về, khi đó bên Hoàn Khánh lộ lại tiếp tục xuất thêm một đội nhân mã nữa khuếch trương thanh thế tấn công trại Kim Minh. Thanh thế này nhất định phải làm cho đủ, nếu quân coi giữ Hoành Sơn đặt toàn bộ tuyến phòng ngự ở trên Hựu châu và trại Kim Minh thì cơ hội của chúng ta đã đến rồi.

Ánh mắt Chu Mỹ lấp lánh, cố là ra vẻ lãnh đạm nói:

- Cơ hội gì?

Địch Thanh nói từng chữ một:

- Cơ hội tiến đánh trại Thừa Bình Tuy Châu! Trại Thừa Bình đã ở tại Tuy Châu, chúng ta muốn hạ trại Thừa Bình thì ý nghĩa của nó cũng quan trọng như thành Đại Thuận vậy! Khi chúng ta vờ tấn công trại Kim Minh, có thể mời Chu đại nhân dẫn lộ nhân mã thứ tư chặn lại viện binh của trại Kim Minh, một lộ binh khác giết ra từ thành Thanh Giản đánh hạ trại Thừa Bình, thì hình thành thế hợp vây đối với trại Kim Minh.

Ba người Phạm Trọng Yêm, Bàng Tịch, Chu Mỹ nhất tề cười lớn, cùng nói:

- Được! Được!

Ba người cười hết sức phấn khởi, Phạm Trọng Yêm nhìn Bàng Tịch và Chu Mỹ nói:

- Các người thua rồi!

Bàng Tịch hừ một tiếng nhưng không giấu nổi vẻ vui mừng trong ánh mắt:

- Thua thì thua, tai còn sợ thua không được sao?

Địch Thanh thấy thế không hiểu ra sao nói:

- Phạm công, có chuyện gì thế, lẽ nào ta nói sai ở đâu sao?

Nếp nhăn trên khóe mắt Phạm Trọng Yêm dường như đang cười:

- Ngươi không nói sai gì hết.

Thấy Địch Thanh vẫn không hiểu gì hết, Phạm Trọng Yêm liền giải thích, nói:

- Bàng đại nhân và Chu tướng quân đã đến từ rất sớm, ta với bọn họ đánh cược, chủ ý của ngươi sẽ gần giống như của bọn họ nhưng họ không tin. Kết quả là... bọn họ đã thua.

Bọn họ thua rồi.

Khi Phạm Trọng Yêm nói ra mấy chữ này, ánh mắt y trần đầy niềm vui sướng. Y khác với Hàn Kỳ, Hàn Kỳ luôn cho rằng mình tài cao hơn trời,không tin một võ tướng thì có thể có bản lĩnh gì. Phạm Trọng Yêm mặc dù khiêm tốn, không bằng nhưng y có thể khiến cho thuộc hạ của mình dốc hết tài năng.

Bàng Tịch, Chu Mỹ cho dù đã thua nhưng khuôn mặt vẫn rất vui vẻ. Địch Thanh đã hiểu, thì ra chủ ý của mình với những người như Bàng Tịch không hẹn mà gặp, trong lòng thấy rất khoái trá.

Tuy Châu nằm ở phía bắc của Diên Châu, vốn là khu vực phía đông Hoành Sơn của người Hạ. Nếu như đánh hạ được trại Thừa Bình thì ý nghĩa của nó cũng giống như việc lập nên thành Đại Thuận vậy. Từ đó về sau, trại Thừa Bình và thành Đại Thuận như hai thanh đao nhọn chọc vào địa bàn của người Hạ.

Nếu trại Thừa Bình bị phá thì trại Kim Minh sẽ trở thành cô trại. Đến khi đó không cần quân Tống phải đánh làm sao thì người Hạ không có tiếp viện ắt sẽ tự lui.

Từ thành Đại Thuận có thể qua Hoành Sơn để tấn công Hựu Châu biên giới nước Hạ. Từ Tuy Châu nghiêng xuyên qua Hoành Sơn có thể trực tiếp đánh Ngân Châu của nước Hạ.

Phạm Trọng Yêm mặc dù vẫn luôn thủ vững nhưng từ trước tới nay chưa bao giờ từ bỏ suy nghĩ tiến công trong đầu!.

Nếu Địch Thanh đã đưa ra ý chiếm trại Thừa Bình trước thì những ý kiến khác không cần phải nhiều lời.

Trên khuôn mặt sầu lo của Bàng Tịch nở nụ cười vui vẻ, nói:

- Địch Thanh, Phàm Công nói người nhất định sẽ có cách nghĩ giống như thế, nhưng ta với Chu Mỹ không tin nên liền đánh cược với y. Không ngờ ta đã thua Long Đoàn trà mà Thánh thượng ban cho...

Hai hàng lông mày Bàng Tịch động đậy, y vui vẻ nói:

- Tuy nhiên những lá trà này, thua mà làm cho người ta thấy vui mừng!

Nói dứt lời lại cười ha ha.

Mọi người đều cười, chỉ có Phạm Trọng Yêm hơi chút cau mày, thầm nghĩ:

“Hiện nay Hoàn Khánh, Phu Diên Lộ đã đồng tâm hiệp lực, đó là một việc tốt. Chỉ cần tiếp tục như thế, tất sẽ có một ngày thu hồi được khu vực đông Hoành Sơn, tiến vào biên giới nước Hạ. Nghe nói, thánh thượng không hài lòng về hỗn loạn trong triều, kiên quyết muốn tiến thủ. Tình thế cao này đem đến nhiều lòng tin cho một người thiếu quyết đoán do dự như thánh thượng. Tuy nhiên... Hàn Kỳ không thay đổi bản tính kiêu ngạo.. chỉ mong rằng y không để thua trận này, nếu không thì...

Trong chốc lát lấy lại tinh thần, Phạm Trọng Yêm nói:

- Địch Thanh tiếp lệnh... ta lệnh cho ngươi mang theo nhân mã tiến đánh Hạ Lan Nguyên, quấy rối biên giới nước Hạ, cứ việc mạnh tay thi hành, nhất định phải cho quân Hạ một đòn trí mạng!

Địch Thanh lập tức nhận lệnh, điểm binh xuất chiến, đem theo khinh kị binh nghìn đao, tụ hội hàng nghìn sát ý, thẳng tiến Hoành Sơn.

Hoành Sơn dĩ nhiên vẫn nằm trong tay quân Hạ, những Hoành Sơn quanh co dài tới nghìn dặm vì thế nhất định sẽ có nơi quân Hạ không coi giữ tới. Chủng Thế Hành có nhiều năm buôn bán qua đó, đã ghi chép lại các nơi địa thế của Hoành Sơn, lại cộng thêm những điều tra của Đãi Mệnh bộ thuộc hạ của Địch Thanh, nên Địch Thanh đã nắm rất rõ địa thế của Hoành Sơn. Địch Thanh dẫn quân đi theo con đường mòn, xuyên qua Hoành Sơn, đã tới gần Hạ Lan Nguyên.

Hạ Lan Nguyên nằm ở phía tây bắc Hoành Sơn, có một dãy núi ngăn cách với Diệp thành. Trên đỉnh Trường Thành nhìn ra xa, nó rất gần với hai vùng Hồng châu và Hựu châu của nước Hạ.

Quân Hạ tập hợp binh lực xâm nhập vào biên giới nước Tống, phần lớn được tập hợp ở Hạ Lan Nguyên, lại xuyên qua Hoành Sơn quyết định hoặc nam hạ đánh Kính Nguyên lộ hoặc đông tiến đánh Hoàn Khánh, hay là lên phía bắc đánh Diên Châu.

Thành Bạch Báo bị hủy, thành Kim Thang bị phá, Diệp thành đại loạn, sự nổi dậy của thành Đại Thuận đã làm thay đổi cục diện Hoàn Khánh lộ.

Trước đây Hoàn Khánh lộ phần nhiều là phòng ngự bị động, đến nay, do quân Tống đoạt lại một vài địa thế thì đã chủ động xuất kích.

Địch Thanh thân mang trọng trách. Mặc dù hắn không có trách nhiệm tiến đánh trại Thừa Bình Tuy Châu nhưng nhiệm vụ của hắn còn gian khổ hơn nhiều so với việc đích thân dẫn quân đánh trại Thừa Bình.

Hạ Lan Nguyên địa thế rộng rãi, có thể tập hợp nghìn quân, là đường giao thông quan trọng cho quân Hạ xuất quân, vì thế có quân đội hùng hậu canh gác, nên không một ai nghĩ rằng quân Tống lại cả gan dám hạ động thủ với Hạ Lan Nguyên.

Địch Thanh có cái gan đó, hắn tuyên chiến là bởi vì người khác không ngờ đến!

“Quan ải xưa nghìn dặm, cuộc sống Kinh Cức Trung Nguyên, Khương địch khúc chia ly, Trường Thành dưới trăng sáng.”

Dưới ánh trăng sáng chiếu rọi, trường thành của dãy trường thành càng hiện ra vẻ rách nát tả tơi. Trường Thành này vốn là bức thành che chắn của người Trung Nguyên đề phòng ngoại tộc xâm lấn, đến nay bị người Đảng Hạng chiếm cứ. Nguyên Hạo tất nhiên không hề để mắt tới việc tu sửa lại Trường Thành, y chỉ muốn thiết kỵ của mình có thể bước ra vùng lãnh thổ rộng rãi như thế, tạm thời không cần suy nghĩ tới việc phòng thủ.

Địch Thanh ngồi trên hòn đá cao, nhìn trăng sáng trên bầu trời, từ góc độ của hắn mà nói có thể thấy, tàn tích phá hủy của Trường Thành trên đỉnh núi.

Ở nơi xa, Hàn Tiếu chạy lại, trên khóe miệng mặc dù vẫn còn nụ cười nhưng khuôn mặt thì đầy vẻ kinh ngạc.

Địch Thanh trông thấy ánh mắt của Hàn Tiếu, lòng trùng xuống. Hắn biết Hàn Tiếu là người rất trầm ổn, nên việc có thể khiến Hàn Tiếu ngạc nhiên thì không phải đơn giản.

Hàn Tiếu không thi lễ, thẳng thắn nói;

- Địch tướng quân, chúng ta đã quan sát hai đêm nay, phát hiện quân coi giữ ở Hạ Lan Nguyên không nhiều, khoảng hai nghìn người.

Địch Thanh nhíu mày, không hiểu nói:

- Kì lạ, tại sao ở đây lại chỉ có hai nghìn quân Hạ?

Hắn tin vào phán đoán của Hàn Tiếu, quan sát quy mô đóng quân, thắp đèn dầu ban đêm, khói bếp là có thể đoán ra quân địch có bao nhiêu binh lực.

Hàn Tiếu không chiến đấu nhưng lại có tầm nhìn cực kỳ sắc bén.

Hàn Tiếu nói:

- Ở đây có mấy cách giải thích. Cách giải thích thứ nhất là, bọn chúng không tin chúng ta sẽ đánh qua Hoành Sơn nên thấy không cần thiết phải bố trí nhiều binh lực. Cách giải thích thứ hai thì có chút phức tạp, bởi mới có báo cáo thăm dò tin tức của Đãi Mệnh, là thời gian suốt mười ngày nay, ít nhất có một trăm nghìn đại quân qua Hạ Lan Nguyên đi về phía nam. Phần lớn quân Hạ đều tiến xuống phía nam rồi nên ở đây mới trống không như vậy.

Địch Thanh lo sợ, thất thanh nói:

- Ít nhất một mười vạn đại quân tiến xuống phía nam?

Hắn nhịn không được nhớ đến trận Tam xuyên Khẩu, trận đó, Nguyên Hạo chỉ một hơi đã tập hợp được mười lăm vạn đại quân càn quét biên giới Tống!

Thì ra Nguyên Hạo quyết tâm tấn công Kính Nguyên lộ, chọn Hàn Kỳ là cửa đột phá, không mảy may vì việc Địch Thanh phá được thành Kim Thang mà lay động, hơn nữa quyết tâm còn tăng lên.

Nguyên Hạo tập hợp nhiều binh lực như vậy để quyết chiến với Hàn Kỳ! Nhưng Hàn Kỳ đã biết tin này hay chưa?

Địch Thanh nóng ruột, nhưng vẫn cố trấn tĩnh nói:

- Theo như Chủng đại nhân suy tính thì quân Hạ hiện nay tổng cộng có năm mươi vạn quân, ngoài số binh lực được phân phòng bị Khiết Đan, Thổ Phiên ra thì bọn chúng bố trí năm vạn quân ở Hồng Châu, năm vạn ở Hựu Châu, Linh châu cũng có năm vạn, và hai vạn tinh binh bố trí các nơi ở Hoành Sơn gọi là Sơn Ngoa.

Địch Thanh đột nhiên nói tới việc bố trí binh lực của quân Hạ, Hàn Tiếu không lấy làm lạ chỉ đáp:

- Đúng!

- Kỵ trung Thiết Diêu, lĩnh nội Sơn Ngoa! Nếu luận về năng lực tác chiến đơn binh ở vùng núi thì quân Sơn Ngoa tuyệt đối không hơn Thiết Diêu!

Địch Thanh lại nói.

Hàn Tiếu gật đầu nói:

- Đó chính là cách giải thích thứ ba của ta, quân coi giữ của Hạ Lan Nguyên rất có thể là quân Sơn Ngoa.

Từ sau khi Dã Lợi Ngộ Khất bị điều đi Sa Châu thì Hoành Sơn vẫn do Không Tàng Ngộ Đạo Bàn Nhược Vương trấn thủ- con người này cực kỳ thông minh. Theo như tin tức của Chủng Thế Hành thì khi Kính Nguyên lộ bị tấn công Bàn Nhược Vương đã di rời binh lực của hai vùng Bình Viễn, Tắc Môn tiến về phía đông, phối hợp với quân coi giữ thành Kim Minh tạo dấu hiệu đại quân tiến đánh Diên Châu.

Địch Thanh lẩm bẩm:

- Binh lực không phải tự dưng mà có, quân của ba vùng Hồng Châu, Hựu Châu, Linh Châu cộng lại chỉ có mười lăm vạn binh lực. Nên Nguyên Hạo muốn xuất binh thì nhất định phải điều động binh lực từ ba Châu này. Nếu như nói binh lực xuống phía nam tiến vào Kính Nguyên lộ có hơn mười vạn quân thì rõ ràng là Bàn Nhược Vương đã không có nhiều binh có thể sử dụng, là y chỉ là đang phô trương thanh thế?

Ánh mắt Hàn Tiếu lộ rõ vẻ tán đồng, liền gật đầu nói:

- Thuộc hạ cũng cho là như vậy.

- Bàn Nhược Vương phô trương thanh thế là muốn khiến chúng ta phòng bị, kiềm chế binh lực của chúng ta.

Địch Thanh thở một hơi dài nói:

- Binh lực của y đã không còn nhiều trong khi đó nơi cần trấn giữ thì không phải là ít. Ba châu Linh, Hồng, Hựu không thể không có quân, Tắc Môn, Bình Viễn cũng cần phải phòng vệ, trại Kim Minh thì lại càng là nơi chúng phải chú trọng. Vì thế chắc chắn hắn đã điều động toàn bộ binh lực quân coi giữ của Hạ Lan Nguyên rồi..

Hàn Tiếu nhắc nhở:

- Mặc dù Hạ Lan Nguyên chỉ có hơn hai nghìn quân Sơn Ngoa nhưng vẫn còn đáng sợ hơn vạn quân cầm sinh.

Địch Thanh gật đầu nói:

- Bởi vậy nên Bàn Nhược Vương cứ hư hư thực thực, nhìn bên ngoài thì như là không hề xem trọng Hạ Lan Nguyên nhưng thật ra là đã bố trí đội quân hết sức tinh nhuệ và nhạy bén ở đây.

Hắn ngẩng đầu nhìn lên ánh trăng nói:

- Chúng ta cũng may là có mang theo Phi Kiên, hơn nữa lại có nhiều Phi Kiên.

Hàn Tiếu cũng cười:

- Không sai, bọn chúng có Sơn Ngoa thì chúng ta đã có Phi Kiên.

Hai người khi nói tới “Phi Kiên” thì ánh mắt đều hiện lên vẻ phấn chấn lạ thường.

Binh sĩ Phi Kiên là sáu binh sĩ trong số mười binh sĩ thủ hạ của Địch Thanh! Những người này là những hậu binh trọng giáp, do Chủng Thế Hành đào tạo ra, chuyên đối phó với quân Sơn Ngoa!

Địch Thanh có Phi Kiên trong tay, đã quyết ý đánh một trận, nói tránh đi:

- Hàn Tiếu, bây giờ ngươi giúp ta làm hai việc.

Hàn Tiếu lập tức nói:

- Xin Địch tướng quân phân phó.

- Việc thứ nhất là, vẫn là mong người phái người trở về bẩm báo quân tình của Hạ Lan Nguyên với Phạm đại nhân, nói Nguyên Hạo đã dẫn trọng binh tiến đánh Kinh Nguyên lộ, xin đại nhân định đoạt!

Hàn Tiếu gật đầu nói:

- Vậy còn việc thứ hai?

- Lập tức truyền lệnh trong đêm nay phái haidũng lực, khấu binh đánh nghi binh ở Thiết Môn quan, dụ quân Sơn Ngoa của Hạ Lan Nguyên xuất kích, chỉ cần quân Sơn Ngoa ra khỏi viên môn liền lệnh cho Phi Kiên chặn đường lui của Sơn Ngoa, khi đó ta đích thân dẫn hai bộ Hãm trận, Tử Phẫn làm hai thanh đao nhọn phá tuyến phòng thủ của địch, kỵ binh còn lại làm hậu quân chuẩn bị hỏa tiễn, toàn lực tấn công Hạ Lan Nguyên.

Địch Thanh phân phó nói.

Thiết Môn quan là trạm gác trọng yếu mà quân Hạ xây dựng ở Hoành Sơn, quân coi giữ mấy trăm, do địa thế hiểm yếu quân Hạ gọi là thiết môn, được xem là bức bình phong trước Hạ Lan Nguyên. Thiết môn quan nếu có cảnh báo thì quân coi giữ Hạ Lan Nguyên đương nhiên sẽ biết đầu tiên.

Hàn Tiếu lập tức nhận lệnh lui ra, Địch Thanh lại ngồi trên tảng đá lớn, vuốt nhẹ thanh đao đựng trong tráp, nhìn trăng sáng trên bầu trời.

Ánh trăng cũng đang nhìn Địch Thanh, dường như biến thành một khuôn mặt cười dịu dàng. Địch Thanh nhìn trăng sáng rất lâu như ngây dại nhưng cũng không biết là đang nghĩ cái gì.

Ánh trăng chiếu rọi đêm yên tĩnh, gió mát khẽ mở vạt áo dài.

Phạm Trọng Yêm thân mặc áo trường sam đứng giữa lưng chừng núi của thành Đại Thuận, nhìn về phía Hạ Lan Nguyên. Ánh mắt y tất nhiên là không vươn tới được Hoành Sơn nhưng lòng y luôn luôn hướng theo những binh sĩ đang ra trận bên kia.

Bàng Tịch đứng bên cạnh khẽ thở dài nói:

- Phạm công, mấy ngày hôm nay người ngủ rất ít. Việc gì nên làm thì đã làm cả rồi, việc trước mắt bây giờ chỉ là ngồi đợi tin tức, chi bằng nên nghỉ ngơi một chút?

Phạm Trọng Yêm chau hai hàng lông mày lại, ánh mắt vẫn nhìn về phía xa, nói:

- Ta vẫn còn rất nhiều ngày sau để nghỉ ngơi, chỉ có điều có rất nhiều người có thể sẽ không được nhìn thấy mặt trời ngày mai thì làm sao ta có thể ngủ yên được.

Y đột nhiên quay lại hướng của Bàng Tịch nói;

- Bàng đại nhân, người thường xuyên về kinh thành, tình hình kinh thành bây giờ ra sao rồi?

Bàng Tịch chậm rãi nói:

- Thánh thượng từ khi lập Tào thị làm hậu, Tào hoàng hậu thường xuyên cổ vũ Thánh thượng. Thánh thượng nhận thấy đại Tống suy nhược nhiều năm, nên đã bắt đầu dốc sức trị nước. Theo như ta được biết thì Thánh thượng đã chuẩn bị cải cách, chỉ là muốn đợi ta có thể đánh bại Nguyên Hạo ở phía tây bắc, mới mở rộng cải cách, trừ tệ nạn của đại Tống thì có thể mong nước hưng thịnh.

Phạm Trọng Yêm than thở nói:

- Trước kia thái hậu quy tiên, Thánh thượng không lo triều chính, đắm chìm trong mỹ sắcsau đó lại phế truất Quách hoàng hậu. Ta cho rằng người đột nhiên mất đi sự trói buộc, cũng không có áp lực nào, rất khó thoát ra khỏi mỹ sắc, nên tại triều cố ý phản đối việc người phế hậu, là không muốn sẽ có cục diện ngày hôm nay. Xem ra... là ta đã sai.

Bàng Tịch lắc đầu nói:

- Phạm công, ngươi không sai. Nếu như không có ngươi lúc đó cố ý phản đối việc Thánh thượng phế hậu thì quần thần cũng sẽ không xin Thánh thượng lập Tào thị làm hậu. Thánh thượng vốn muốn lập Thượng mỹ nhân, nữ tử này mê hoặcác độc... may nhờ có Phạm công kiên trì, phỏng chừng Thánh thượng cũng sợ quần thần chê trách nên mới lập Tào thị làm hậu.

- Chuyện cũ đừng nhắc nữa.

Phạm Trọng Yêm thở một hơi thật dài, vui mừng nói:

- Phía tây bắc có Địch Thanh, sớm muộn gì hắn cũng sẽ lập công lớn như Tào tướng quân. Có Địch Thanh ra trận thì ta cũng không lo lắng....

- Vậy nỗi lo của Phạm công là Kính Nguyên lộ của Hàn công?

Bàng Tịch chậm rãi nói:

- Thật ra dụng ý của Hàn đại nhân cũng là tốt...

Phạm Trọng Yêm lắc đầu nói:

- Người có dụng ý tốt cũng không nhất thiết có thể làm việc tốt, nói không chừng hại người nhiều hơn...

Vẫn chưa dứt câu thì có binh lính chạy tới, đưa quân văn.

Phạm Trọng Yêm nhận lấy quân văn, nhờ ánh lửa mở ra xem, sắc mặt khẽ biến đổi.

Bàng Tịch đứng bên cạnh hỏi:

- Phạm công, sao rồi... có phải là Kính Nguyên lộ có biến?

Phạm Trọng Yêm nhíu mày nói:

- Đại quân Nguyên Hạo vượt qua trại Tam Xuyên áp sát thành Hoài Viễn, cướp bóc trắng trợn. Hàn Kỳ lệnh cho quân Nhâm Phúc ra Lục Bàn Sơn chặn phủ đầu Nguyên Hạo.

Bàng Tịch nhận lấy quân văn xem qua một lát, liền đột nhiên quỳ xuống vẽ trên mặt đất, nói:

- Đông bắc thành Hoài Viễn có trại Tam Xuyên, tây có trại Đức Thắng, tây bắc chính là thành Dương Mục Long. Đông nam của thành Hoài Viễn, còn có thành Lung Can, Trương Nghĩa Bảo. Theo thiết kế của Lục bàn Sơn thì đã có tới năm vùng do quân ta chiếm giữ, Nguyên Hạo không thể công thành Hoài Viễn nên lệnh cho quân Hạ đi xuống phía nam, bốn phía chiến tranh.

Phạm Trọng Yêm chỉ “ồ” một tiếng, hai hàng lông mày co lại, hình như đang nghĩ điều gì đó.

Bàng Tịch ngẩng đầu lên, không hiểu nói:

- Hàn công nhận thấy địa thế như vậy lệnh cho quân Nhâm Phúc dựa theo địa thế đến Lục Bàn Sơn, lấy năm vùng trên làm hậu thuẫn, tiến hành truy sát quân Hạ tiến vào bên trong, cũng xem như là không có điều gì không thỏa đáng hết.

Phạm Trọng Yêm lo lắng ngồi xổm xuống, nhìn tấm bản đồ Bàng Tịch vừa vẽ, hồi lâu mới nói:

- Mấy ngày nay, Hàn Kỳ chiêu binh mãi mã, Trấn Nhung Quân ở Kính Nguyên Lộ đã tích trữ binh lực không dưới năm vạn quân, lại cộng thêm quân coi giữ ở năm vùng trên, binh lực ít nhất cũng có tám vạn quân.

Bàng Tịch gật đầu nói:

- Phạm công nói không sai, theo tin tức của Hàn Kỳ, số quân Hạ vào Kinh Nguyên lộ không quá hai vạn.

Phạm Trọng Yêm im lặng một hồi mới nói:

- Trận này Nguyên Hạo đã chuẩn bị rất lâu rồi.

- Vậy thì như thế nào?

Bàng Tịch khuyên, nói:

- Phạm công, Hàn Kỳ tuy có chút ngông cuồng nhưng dù sao thì y cũng là một người tài hoa, trận này lấy nhiều đánh ít, lại trong phạm vi nước Tống ta, nên chắc sẽ không có chuyện lớn gì.

Phạm Trọng Yêm hỏi ngược lại:

- Trận Tam Xuyên Khẩu chẳng phải cũng tuyên chiến trong phạm vi đạiTống ta sao? Hàn đại nhân tuy binh nhiều nhưng phần lớn là chiêu mộ tạm thời, vậy có được bao nhiêu người có năng lực chiến đấu, thực sự đáng lo lắng! Bàng đại nhân, Nguyên Hạo một mình tiến xuống đông nam là điều tối kỵ của binh gia, Nguyên Hạo thân đã chinh chiến trăm trận, dùng binh giảo hoạt. Làm như thế này... lẽ nào người chưa từng nghĩ tới bên trong có vấn đề!

- Có thể... Nguyên Hạo cũng có chút khinh suất.

Giọng nói của Bàng Tịch lộ chút vẻ không tự tin. Y biết, Nguyên Hạo tuyệt đối không phải là người lơ là qua quýt.

Phạm Trọng Yêm thở dài nói:

- Nếu Nguyên Hạo thật sự sơ ý thì khỏi nói nhưng con người này làm sao có thể khinh suất như vậy được? Theo như những gì ta được biết thì y rất ít kiêu ngạo, mà những kẻ kiêu ngạo xưa nay đều là quân Tống không có đủ khả năng. Nguyên Hạo nếu dám để cho quân thiết kỵ tiến vào trong khu vực bao vây của quân ta thì khỏi cần hỏi, y tự tin có thể phá vòng vây ra ngoài, chỉ mong...

Chưa nói hết câu, có binh sĩ chạy tới báo:

- Phạm đại nhân, Địch tướng quân bẩm báo quân tình gấp.

Lòng Phạm Trọng Yêm trầm xuống, nhận lấy thư xem, nét mặt biến đổi nhanh chóng.

Bàng Tịch cũng nghiêm nghị, vội hỏi:

- Phạm công, Địch Thành xuất quân bất lợi sao?

Phạm Trọng Yêm có chút thất thần đưa thư cho Bàng Tịch, ánh mắt mang nét bi thương tột độ:

- Địch Thanh đã có tin tức chính xác, Hạ Lan Nguyên mấy ngày nay xuất binh hơn mười vạn tiến thẳng tới Kính Nguyên lộ. Trong thư Hàn Kỳ có nói binh lực quân Hạ chỉ có hơn vạn, vậy số quân còn lại kia ở đâu?

Bàng Tịch nghe vậy, tay cầm thư cũng chịu không nổi run mạnh.

Trên Kinh Nguyên lộ, chiến tranh nổi lên, binh qua rầm rập, ánh nắng chiều như máu, như gió lửa thiêu đốt cả khoảng không trong xanh.

Nguyên Hạo đang đứng trên Đông Sơn của Ngõa Đình Xuyên, nhìn những đám mây cô độc đang rời xa khỏi núi, hoàng hôn nghìn dặm.

Ngõa Đình Xuyên không nằm trong biên giới nước Hạ mà nằm ở phía nam thành Dương Mục Long. Nguyên Hạo không phải là Triệu Trinh, đang lúc Triệu Trinh muốn bình định Tây Bắc thì Nguyên Hạo đã đem quân đi đến những ngọn núi hiểm trở, ngựa đạp qua Hoành Sơn, bay nhanh vào biên giới nước Tống.

Quân tiên phong hùng dũng, trong thời gian nửa ngày đã đến ngoài thành Dương Mục Long, sát khí ngang trời.

Nguyên Hạo nhàn nhã đứng trên đỉnh núi, nhìn tia nắng buổi chiều cuối cùng lặn xuống phía chân trời, y vẫn đứng đó bất động.

Nguyên Hạo chắc chắn là một người cô đơn.

Làm bạn với y chỉ có Hiên Viên cung lẻ loi và Định đỉnh tiễn ngũ sắc.

Dù cho trời đất có biến đổi màu sắc thì Xuyên Vân tiễn ngũ sắc của y trong đêm tối vẫn tỏa ánh sáng lờ mờ.

Năm cây tiễn này vốn quỷ thần khó lường, cứ cho là đứng trước Hiên Viên cung thì cũng không mất đi sự sắc bén vốn có.

Nhưng trường cung vũ tiễn dù thế nào cũng không che lấp được người đứng trên đỉnh núi kia.

Nguyên Hạo vẫn đội mũ quan đen, áo trắng, dung nhan không thay đổi, đôi mắt vẫn chứa chí lớn cháy bỏng, nhưng y cũng chính là một kẻ cô đơn. Trên đỉnh núi khó nhịn được cô hàn.

Có tiếng bước chân vang lên, một người hổn hển đến đỉnh núi, nói:

- Ngột Tốt, có quân tình mới bẩm báo.

Nguyên Hạo cũng không quay đầu lại:

- Nói!

Người nọ nói:

- Đại quân của chúng ta giết thẳng tới chân thành Dương Mục Long, lệnh cho hơn ngàn Thiết Diêu tử thủ ngoài thành. Tướng giữ thành Dương Mục Long là Vương Khuê đã phái du kỵ đưa thư đã bị chúng ta bắt giết toàn bộ. Quân ta dụ hơn vạn quân địch chiến đấu từ thành Hoài Viễn đến Trương Bảo Nghĩa. Nhâm Phúc dẫn ba vạn quân Tống xuất ra khỏi Lục Bàn Sơn, từ thành Hoài Viễn đuổi xuống phía nam đến Trương Nghĩa Bảo, hiện nay đóng quân trước núi Lung Đầu, hẳn là chuẩn bị quyết một trận thắng bại với quân ta. Đồng thời, Vũ Anh, Cảnh Phó dẫn quân Tống theo sát Nhâm Phúc tiếp ứng ở Lung Lạc Xuyên. Bọn chúng cũng có hơn vạn binh mã, chúng hình thành thế thắt cổ với đội quân dụ địch của chúng ta.

Nguyên Hạo gập ngón tay , nhịp điệu như nhạc, y có chút tiếc nuối nói:

- Trung thư lệnh, xem ra Nhâm Phúc đã cho rằng trận này tất thắng. Ta vốn nghĩ là Nhâm Phúc sẽ tiến thẳng đến thành Dương Mục Long, chặn đường trở về của ta, xem ra ta đã quá đề cao y rồi.

Người tới bẩm báo quân tình chính là Trung Thư Lệnh Trương Nguyên của nước Hạ.

Trương Nguyên là Trung Thư lệnh, nếu ở triều đình nhà Tống thì cũng coi như là người trong Lưỡng Phủ, nhưng người trong Lưỡng Phủ ở triều đình nhà Tống ít ra Biện kinh, chỉ biết đến những cảnh nhàn nhã. Trương Nguyên không chỉ ra đến Hưng Khánh phủ Hạ đô, hơn nữa còn đặt chân trên đỉnh núi này của biên giới nước Tống nhưng cũng không một lời oán giận.

Trương Nguyên cười nói:

- Sau trận tại thành Bạch Báo thì Nhâm Phúc trở nên cao ngạo, không nghe lời người khác nói. Lúc này y không chút sợ hãi, cho rằng bốn phía đâu đâu cũng là bảo trại của quân Tống, sau lưng lại có binh mã của Vũ Anh, cho là dù không thể thắng thì tất cũng có đường lui. Chỉ có điều y chưa từng nghĩ tới Ngột Tốt đã sớm suất lĩnh mười lăm vạn tinh binh đến Kinh Nguyên lộ, đứng ở đây chờ y. Trong khi đó bảo trại mà y dựa vào tới lúc đó chỉ sợ là muốn nhưng không được

Gió cuồn cuộn nổi lên, không biết từ khi nào mây dâng lên dày đặc che lấp cả Thương Sơn, trời đất tràn đầy sát khí.

Có mưa nhỏ tí tách rơi, Nguyên Hạo đưa tay ra, khẽ khàng hứng lấy giọt mưa:

- Mặc dù chúng ta đã mua chuộc được tên Tuần Kiểm Tây lộ Thượng Côn của quân Tống buộc hắn báo cáo dối quân tình làm cho những người Hàn Kỳ, Nhâm Phúc tin là binh lực của ta tiến xuống phía nam không nhiều, nhưng chúng ta cũng chỉ có cơ hội một ngày, nếu chậm trễ ắt sinh biến.

Trương Nguyên nói:

- Nhâm Phúc hát vang tiến mạnh, lệnh cho thủ hạ chỉ mang theo một ngày lương, đến ngày mai lương sẽ cạn.

Nguyên Hạo nắm tay thành nắm đấm, hai tròng mắt dừng ở tay phải, bĩnh tĩnh nói:

- Vậy thì tốt, truyền lệnh xuống, lệnh cho Đậu Duy Cát dẫn binh mã Linh Châu dốc toàn lực vây bộ của Vũ Anh tại Lung Lạc Xuyên, không tha cho bất kỳ một ngựa nào qua đây! Lệnh cho Đô Thống Quân Khắc Thành Thương tại Hồng Châu đi trước ngăn cản con đường tại Trương Nghĩa Bảo, thành Lung Can, tuyệt đối không để cho Nhâm Phúc quay về được! Nhâm Phúc binh bại, không thể nào đi qua được Lung Đầu Sơn. Ba đường không thông chắc chắn sẽ lui giữ về thành Dương Mục Long, ta sẽ ở ngoài thành chờ y!

Nguyên Hạo không nói thêm gì nữa, nhưng trong ánh mắt tràn đầy sự kiên quyết, dường như đã nghĩ rằng Nhâm Phúc lần này nhất định sẽ thua.

Y có con át chủ bài nào mà lại không chút sợ hãi như vậy?

Trương Nguyên suy tư nói:

- Tuy nhiên, Vương Khuê của thành Dương Mục Long cũng là một dũng tướng, hẳn là sẽ xuất quân chi viện, Ngột Tốt không thể xem thường.

Nguyên Hạo điềm nhiên không nói, nhẹ nhàng rút hạ dây cung, chỉ nghe thấy tiếng “coong”.

Âm thanh này giống như tiếng thiết kỵ đạp quan, binh qua phong hành, thể hiện rõ sát khí.

Dụng ý của y rất rõ, người cứu viện là dũng tướng cũng tốt mà là phiêu kỵ cũng được, y sẽ theo đó giết không sai!

Thấy Nguyên Hạo không hề có ý lui xuống, Nguyên Hạo thờ ơ hỏi:

- Ngươi vẫn còn có việc gì cần nói sao?

Trương Nguyên do dự một lát, nói:

- Vừa nhận được tin tức mới nhất rằng Địch Thanh đã đốt Hạ Lan Nguyên, giết chính phó quân chủ Phá Lãng Binh và Đảng Nhi Thiên Chiến. Hắn đốt Hạ Lan Nguyên, phá hủy Thiết Môn Quan, nay đã đem quân đến Hựu Châu.

Ngón tay Nguyên Hạo chậm rãi sờ qua bó tên, dừng lại ở phía trên ngân tiễn.

Ngân tiễn đầy ánh sáng màu bạc. Trước kia, Nguyên Hạo đã dùng chính mũi tên này giết Kim Cương Ấn, một trong ba đại thần tăng của Thổ Phiên.

Có phải y cũng muốn dùng mũi tên này để đối phó với Địch Thanh?

Nguyên Hạo biết quân trấn thủ Hạ Lan Nguyên là quân Sơn Ngoa, nhưng Địch Thanh lại đơn giản đánh bại được Sơn Ngoa?

Một lúc lâu sau, Nguyên Hạo mới nói:

- Không Tàng Ngộ Đạo Bàn Nhược Vương đang làm gì?

Trương Nguyên nói:

- Bàn Nhược Vương đang phối hợp thế tiến công với Ngột Tốt, đề phòng trọng binh của đám người Phạm Trọng Yêm đoạt lại trại Kim Minh. Địch Thanh ra chiêu bí hiểm này nên Bàn Nhược Vương tạm thời không thể ứng phó…

Nguyên Hạo cười, lãnh đạm nói:

- Được mất, được mất, có được có mất. Bàn Nhược Vương biết không thể trấn thủ tất cả mọi nơi, bỏ một nơi cũng là hành động sáng suốt. Trên đời này đạo lý vốn là thắng làm vua, thua làm giặc, còn nếu muốn không bị đánh thì chỉ cần mạnh hơn người khác! Triều đình nhà Tống thối nát ngu ngốc, quần thần tham lam hưởng lạc, thái hậu Khiết Đan nắm quyền, vua vẫn còn quá non yếu, yên ổn mấy năm nay thì đã mất đi móng vuốt sắc bén. Đại Hạ nổi dậy, sắc bén không thể ngăn nổi. Đây chính là cơ hội trời ban cho ta, một tên Địch Thanh không thể ngăn nổi bước chân thống nhất thiên hạ của ta.

Trương Nguyên chau mày nói:

- Nhưng Địch Thanh được Phạm Trọng Yêm ủng hộ như hổ thêm cánh, sớm muộn gì cũng là mối tai họa lớn của Ngột Tốt.

Nguyên Hạo cười, ánh mắt trước đây vốn đầy chí lớn nay đột nhiên có chút cuồng nhiệt, y nhìn ra xa, nói từng chữ một:

- Vậy ta đợi hắn!

Mây mỗi lúc một nhiều, mưa lăn tăn khói bay.

Mưa tí ta tí tách, làm ẩm lớp bùn đất trên mặt đất nhưng cũng không thể làm giội sạch ý chí và lòng hăng hái của người này. Nguyên Hạo nhìn về phía Hựu Châu, chỉ thấy mây đen phủ kín không có bóng người, trong thần sắc có sự lãnh lẽo cô đơn khó nói nên lời như giọt mưa.

Vương Khuê lòng nóng như lửa đốt, vì nước Hạ đột nhiên tới vây khốn thành Dương Mục Long!

Vương Khuê biết rõ khi đối thủ trọng binh tiến đến, lập tức đóng thành chuẩn bị đánh. Thành Dương Mục Long mấy ngàn quân coi giữ, nhưng quân Hạ từ phía Bắc giết qua, tràn khắp nơi, khó có thể đếm hết.

Vương Khuê kinh hãi không rõ tại sao Nhâm Phúc đã rất lâu còn chưa truyền đến tin tức phải tiêu diệt toàn bộ quân Hạ nhập cảnh. Làm sao trong nháy mắt thì có nhiều quân Hạ tiến công như vậy. Vương Khuê càng khó hiểu. Quân Hạ tiến đến, Tuần kiểm Tây Lộ Thường Côn vốn tuần tra ở trại Đắc Thắng của thành Dương Mục Long, tại sao không có chút tin truyền đến?

Quân Hạ cũng không công thành, chỉ là siết chặt việc xuất binh của Vương Khuê. Vương Khuê tuy phái du kỵ đi báo nguy cầu viện, nhưng du kỵ chỉ đến Đông Sơn thì dừng lại.

Gần Đông Sơn có kỵ binh tinh nhuệ quân Hạ Thiết Diêu Tử lui tới tuần tra, du kỵ quân Tống không thể xông qua.

Quân Hạ tụ tập ở phía nam Đông Sơn, rốt cuộc là dụng ý gì? Vương Khuê không biết, y càng muốn biết, bây giờ Nhâm Phúc thế nào rồi?

Đang lúc vô cùng lo lắng, có binh sĩ vội vã đuổi tới:

- Vương tướng quân, người của của Nhâm đô bộ thự đến.

Vương Khuê vừa mừng vừa sợ, khó hiểu ngoài thành vẫn là kỵ binh của quân Hạ, thủ hạ của Nhâm Phúc làm sao xông vào dưới thành? Không có thời gian nghỉ ngợi nhiều, Vương Khuê vội triệu người tới. Người đó cả người đầy máu, mặt đầy bụi đất, sau khi thấy Vương Khuê, lập tức quỳ xuống đất khóc không ra tiếng:

- Tướng quân, Nhâm đô bộ thự đại nhân bị vây ở Hảo Thủy Xuyên, xin tướng quân xuất binh cứu viện.

Vương Khuê quá kinh hãi, thầm nghĩ hôm qua Nhâm Phúc chưa có tin tức truyền đến, thì ra đã bị quân Hạ bao vây ở Lung Đầu Sơn, sao hôm nay thì bị vây ở Hảo Thủy Xuyên?

Hảo Thủy Xuyên ở phía đông nam thành Dương Mục Long, bình nguyên trống trải, thuận lợi cho cưỡi ngựa đánh giặc!

Nhâm Phúc không phải ở Lung Đầu Sơn sao? Sao có thể chạy tới Hảo Thủy Xuyên?

Vương Khuê trong lòng nghi ngờ, quát:

- Rốt cuộc là chuyện gì?

Người đó nói:

- Nhâm đại nhân truy kích quân Hạ tới Lung Đầu Sơn, kết quả bị quân Hạ đánh bại...

Vương Khuê vội hỏi:

- Quân Hạ chỉ hơn mười ngàn binh mã. Nhâm đại nhân dẫn hàng trăm ngàn binh mã, còn có Võ Anh trợ giúp, sao có thể bại?

Người đó bi phẫn nói:

- Quân Hạ có gian kế. Lúc trời sáng phía nam quân Hạ xông tới hàng trăm ngàn binh mã, bao vây toàn bộ Võ Anh, chặt đứt hậu viện của Nhâm đại nhân. Mà trong hơn mười ngàn quân Hạ ở Lung Đầu Sơn, lại xen lẫn ba ngàn Thiết Diêu của quân Hạ!

Vương Khuê hít vào một hơi dài, thầm nghĩ. Nghe nói Thiết Diều Tử quân Hạ tổng cộng cũng chỉ hơn ba ngàn, sao có thể chống đỡ trăm ngàn quân cầm sinh. Nhâm Phúc vội vàng không kịp chuẩn bị, bị Thiết Diêu công kích nhiều như vậy, sao có thể không bại?

Người đó quả nhiên nói:

- Nhâm đại nhân vốn lệnh Tang Dịch tướng quân dẫn ba ngàn tiên phong đối công quân Hạ. Không ngờ quân Hạ xuất ra toàn bộ Thiết Diêu, Tang Dịch tướng quân không thể địch nổi, bỏ mạng tại chỗ.

Vương Khuê trong lòng đau xót, Tang Dịch là huynh đệ tốt lúc y ở cấm quân, không ngờ chết như vậy.

 Chương 318 - 322: Trường ca

Người đó nói:

- Quân Hạ nhân cơ hội công kích, Nhâm đại nhân không kịp bố trí đề phòng, mấy chục ngàn quân ta bị xông đánh hỗn loạn. Lúc này lại có kỵ binh Hạ công kích đường lui của quân ta. Nhâm đại nhân chống đỡ không nổi, chỉ có thể chạy tới thành Dương Mục Long của chỗ Vương tướng quân, chỉ mong tác chiến theo thành. Đợi lúc Nhâm đại nhân xông tới Hảo Thủy Xuyên, thấy trên đường có chục cái thùng gỗ, trong thùng gỗ có tiếng chim vỗ cánh. Nhâm đại nhân lệnh người mở cái thùng gỗ kiểm tra, không ngờ trong đó bay ra mấy chục con chim bồ câu. Quân Hạ thấy chim bồ câu bay cao, từ Đông Sơn xông ra, bao chặt tướng quân ở Hảo Thủy Xuyên. Nhâm đại nhân xông không ra khỏi vòng vây, chạy không khỏi truy sát, lúc này phái người xông ra vòng vây, xin Vương tướng quân cứu viện!

Vương Khuê sắc mặt tái nhợt, sau hồi lâu mới nói:

- Ngươi làm thế nào giết ra vòng vây?

Người đó bỗng nhiên ngẩng đầu, trong mắt rưng rưng, nói:

- Vương đại nhân hay là không tin ty chức?

Bỗng dưng rút ra đơn đao đâm vào trong bụng.

Đơn đao đâm vào bụng thấu qua lưng. Vương Khuê cả kinh, vội nắm lấy cánh tay người đó nói:

- Sao ngươi phải khổ như vậy?

Người đó bờ môi vâng vâng mấp máy, thấp giọng nói:

- Xin tướng quân xuất binh.

Y từ từ ngã xuống, hai mắt không nhắm. Vương Khuê nhìn một đường máu tươi, lộ vẻ sầu thảm cười nói:

- Được, xuất binh đi cứu Nhâm đại nhân.

Bên cạnh có một tham quân họ Lý khuyên can:

- Vương tướng quân. Nếu lời của người này là thật, thế địch rất lớn, nếu là xuất binh, có khác gì thiêu thân lao vào lửa đâu? Xin Vương tướng quân suy nghĩ kỹ.

Vương Khuê một hồi sau mới nói:

- Nay quân ta gặp nạn, nếu đã biết tin, nên đi cứu viện. Hôm nay không cứu, sau này ai cứu ta?

Lý tham quân gục đầu xuống, không nói thêm.

Vương Khuê phấn chấn tinh thần, quát:

- Nam nhi trên đời không hổ trời đất, quân ta có nạn, vượt lửa qua sông cứu nước lâm nguy. Điểm binh, xuất thành!

Thành Dương Mục Long sôi trào lên. Vương Khuê mặc giáp cầm giáo, đã lao ra thành trì. Y dẫn theo bốn ngàn binh mã, chỉ để lại hai ngàn binh lực canh giữ thành trì.

Lúc tới gần Đông Sơn, Vương Khuê đã nghe tiếng chém giết vang trời đầu bên kia núi. Binh qua vang trời, đốt nhiệt huyết trong lòng.

Lúc này pháo nổ vang trời. Xa xa quân Hạ nghênh tới mấy ngàn kỵ binh, lẳng lặng bày trận chờ đợi. Vương Khuê trong lòng hơi trầm xuống, thầm nghĩ quân hạ biết thành Dương Mục Long xuất binh, sớm có chuẩn bị, chỉ là có chút chần chừ. Vương Khuê điều chỉnh trận hình lại một chút, đã quát:

- Tiến lên!

Nếu như y ra khỏi thành, thì không có ý định trở về!

Vương Khuê đầu tàu xung trận, cầm giáo tấn công mạnh. Quân Hạ hơi có chút lui, chỉ là quân này mới lui, lại có quân sinh lực cản lại.

Mưa đã ngừng, máu càng tuôn, hai bên sườn Đông Sơn binh qua cao chót vót.

Không biết bao lâu...

Trên trời xuất hiện chút ánh sáng, một chút mặt trời lộ ra khỏi lớp mây dày, chiếu nghiêng lên mặt Vương Khuê. Vương Khuê lúc này mới giật mình, thì ra đã sau giờ ngọ, y chém giết mấy canh giờ. Bên kia Đông Sơn tiếng chém giết vẫn còn, y đã hàng chục lần xông vào quân địch, nhưng vẫn không xông qua nỗi trận kỵ binh của quân Hạ.

Quân Hạ quả thật quá nhiều, quá dày đặc.

Kỵ binh dũng mãnh dường như mãi không ngừng nghĩ.

Vương Khuê quay đầu lại nhìn thấy bên người đã còn lại không tới nửa số binh mã. Trên mặt mỗi người đã lộ ra ý mệt mỏi, không ai không bị thương, không ai không có vết thương chồng chất.

Vương Khuê mã giáo đã gãy, thay thiết giản, nhìn con ngựa dưới háng miệng sùi bột mép, nghe tiếng chém giết bên kia Đông Sơn, lòng như dao cắt.

Cuối cùng y chậm rãi giơ thiết giản lên, khàn khàn giọng nói:

- Giết!

Sau lưng yên tĩnh không có tiếng động. Vương Khuê bỗng nhiên quay đầu lại, thấy nét do dự trên mặt mọi người.

Tại sao không công? Vương Khuê muốn ỏi, bỗng nhiên phát hiện lòng bàn tay đau như xát muối, cuối đầu nhìn mới phát hiện thiết giản đã cong, nắm tay vỡ tan. Y tuy có dũng khí tiến lên, nhưng đôi tay đã khó chịu được ác chiến như vậy.

- Vương tướng quân... không được rồi.

Có binh sĩ khiếp đảm nói:

- Quân Địch quá đông rồi, chúng ta hoàn toàn xông qua không được, chúng ta hà tất...

Thấy Vương Khuê nhìn qua, binh sĩ đó yếu đuối không nói.

Ánh mắt từ trên mặt binh sĩ đó xẹt qua. Vương Khuê nhìn mặt của những người còn lại, tất cả mọi người đều có chần chừ, sợ hãi và mệt mỏi.

Vương Khuê xuống ngựa!

Mọi người cùng thở phào một cái. Quân Hạ tuy đông, nhưng vẫn ở Đông Sơn, không có thể hình thành hợp vây bọn họ. Nếu Vương Khuê trở về thành Dương Mục Long, mọi người còn có cơ hội sống. Vương Khuê cũng là người, Vương Khuê cũng mệt...

Vương Khuê quỳ xuống, không có quỳ về hướng binh sĩ, chỉ quỳ về hướng đông.

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không biết Vương Khuê là ý gì?

Quân Hạ bên đó cũng chậm thế công, lẳng lặng nhìn quân Tống trước mặt. Mấy chục lần xông giết làm bọn họ cũng kinh hãi mỏi mệt. Bọn họ không ngờ, trong quân Tống ngoài Địch Thanh ra, còn có lãnh tướng cương liệt dũng mãnh như vậy.

Phía đông có quân Hạ, nhưng phía đông mãi lại là Biện Kinh.

Vương Khuê lạy ba lạy về phía đông, lẩm bẩm nói:

- Thần được Thánh Thượng trọng ân, mới có vinh quang như bây giờ. Hôm nay thần không phụ nước, kỳ thực không thể...

Chúng tướng sĩ cuối đầu, gần như muốn rơi lệ, chỉ cho là Vương Khuê cũng bỏ kế hoạch tiến công. Vương Khuê bật thẳng người, khóe miệng cười tươi:

- Thần không dám cầu người bên cạnh chịu chết, chỉ có thể một mình chết đền nợ nước!

Y đột nhiên nhớ tới lăng Vĩnh Định năm đó. Dạ Nguyệt Phi Thiên nói một câu:

- Dạ Nguyệt Phi Thiên bất tài, chỉ cầu một trận với Diệp Tri Thu ngươi.

Nhiều khi, rất nhiều chuyện chỉ là tái diễn lặp lại.

Ngàn đời gian nan duy chỉ có một đường chết.

Vương Khuê y đã không sợ chết, thì sợ gì? Y chỉ mong đánh một trận đường đường chính chính.

Có lẽ người khác không hiểu, có lẽ người khác không theo, có lẽ quá nhiều có lẽ... Nhưng Vương Khuê y biết mình đã làm gì, thế đã đủ.

Trở mình lên ngựa, không nói nữa. Vương Khuê giục ngựa xông về hướng quân Hạ, quân Tống ngây ra, hô:

- Vương tướng quân.

Quân Hạ cũng ngây người, trong quân trận không có trường tiễn bắn ra.

Vương Khuê một mình can đảm, con ngựa hai quyền, chỉ như vậy xông vào trước trận quân Hạ. Một người trong quân Hạ hô chạy ra, tay cầm trường thương, đỉnh thương đâm tới.

Chuyện của chiến trường, thì phải dùng huyết khí để giải quyết.

Người Đảng Hạng giỏi võ, không cam lòng yếu thế. Quân Tống có tướng lĩnh can đảm, trong người Đảng Hạng càng có người hiếu chiến. Ngoài ra quân Hạ thấy có người nghênh chiến, không tiến lên bao vây tiến công, ngược lại ghìm ngựa không tiến.

Người đó trường thương như tia chớp, một thương thì đâm vào vai phải Vương Khuê. Trường thương vào thịt, máu tươi tuôn ra như suối, thậm chí có thể có lúc nghe thấy thiết thương và xương cốt ma sát phát ra âm thanh.

Vương Khuê hoàn toàn không tránh, lại dựa vào vai phải kẹp lấy trường thương, tay trái quơ qua, nặng nề đánh vào mũ người đó.

“Chát” một tiếng vang lên, quân Hạ đột kích đó óc vỡ toang ra, tử thi rớt xuống đất, quân Hạ hô to.

Con ngựa đó đau đớn mà rên hí, ngã xuống cát bụi. Con ngựa đó chinh chiến rất lâu, đã không chịu nỗi ác chiến. Nhưng trước lúc mất mạng, Vương Khuê phi thân lên, đã lập tức cưỡi lên ngựa của địch, giục ngựa đi thêm. Phút chốc có quân Hạ cầm thương đâm tới. Vương Khuê vẫn vậy, với vết thương vai kế bên, thiết giản vũ động, lại giết một người.

Quân Hạ kinh hãi, nhất thời bị dũng mãnh của Vương Khuê làm kinh sợ. Có người lui, có người lên, trường thương đâm loạn.

Một lát sau Vương Khuê đã trúng ba phát, thiết giản đó đã thành màu đỏ. Mặt trời vừa bớt nắng, sát khí kết băng, lại có sáu bảy quân Hạ bị Vương Khuê rõ ràng đánh chết. Vương Khuê khàn giọng hét to, lại múa giết, lần này kèn thổi vang lên, thê lương buồn bã.

Trong tiếng “rầm” quân Hạ đã né ra một con đường.

Quân Tống ngoài xa nhìn thấy, gần như khó tin được mắt mình. Mới lúc nãy mấy ngàn quân Tống xé không được tuyến phòng của quân hạ, Vương Khuê lại dựa vào sức một mình đã thông con đường phía trước?

Vương Khuê trong lòng kinh ngạc, mới định giục ngựa, chỉ thấy không trung hắc khí chợt lóe lên, trước mặt máu đỏ, bỗng dưng thân hình ngưng tụ.

Quân Hạ im lặng, quân Tống bi thương hô lên. Chỉ thấy trong mắt Vương Khuê cắm một mũi tên, xuyên qua sau gáy, tuôn ra một dòng máu.

Vương Khuê lại không nghe được gì, chỉ thấy một cái liếc nhìn cuối cùng của thế gian, sau đó cứ như vậy té xuống. Cái nhìn cuối cùng của y thấy được tận cuối con đường không phải quân Tống mà y cố ý muốn cứuở đó chỉ đang đứng một người một ngựa...

Lập tức người đó quan đen áo trắng, tay giơ cao trường cung, thần sắc tiêu điều, lại có khí ngạo nghễ của thiên hạ. Cung là cung Hiên Viên, dây cung chấn động như dây đàn, kích động tiếng lòng của mọi người...

Người đó đương nhiên chính là Nguyên Hạo!

Nguyên Hạo xuất tên, dùng là tên sắt Hắc Vũ. Lúc Vương Khuê lao ra, một mũi tên giết chết Vương Khuê.

- Đáng hận ta không phải là Địch Thanh.

Lúc Vương Khuê nghĩ tới đây, không còn tri giác nữa.

Thiết giản rơi xuống đất, nện vào bên trong chỗ đầy nước, phun ra vài giọt nước bọt. Giống như máu của thương thiên, dưới thái dương chiếu sáng, tràn là máu đỏ.

Tây bắc khói lửa nổi lên bốn phía. Phủ Hưng Khánh giống như Biện Kinh của Đại Tống phồn hoa như trước, trên Thái Bạch Cư, người qua kẻ lại, vô cùng náo nhiệt.

Năm đó Hạ Tùy bị giết ở Thái Bạch Cư tuy nổi lên chút phong ba, nhưng rất nhanh gió êm sóng lặng, buôn bán của Thái Bạch Cư càng ngày càng mạnh hơn trước.

Lầu hai của Thái Bạch Cư đang ngồi mấy người, bàn bạc nước bọt bay tứ tung.

Có một người quần áo hoa lệ, thoạt nhìn giống như là con cháu quý tộc, đột nhiên nói:

- Luôn nghe các ngươi nói Địch Thanh thế này thế kia, nhưng ai thấy Địch Thanh rốt cuộc hình dạng thế nào?

Hóa ra vừa nãy mọi người đang bàn tán chiến sự vùng biên cương.

Nói biên cương, thì không kìm nổi phải nói tới Địch Thanh.

Bên cạnh có một người nói:

- Nghe nói người này cực kỳ xấu, mặt mũi hung tợn, giống như ác quỷ. Ở tiền tuyến chỉ cần lộ diện, người thấy được đều hồn bay phách tán, tay chân không thể động đậy.

Trong những thực khách bàn bên cạnh có một người mắc áo dài nói:

- Ngươi nói vô cùng sai lầm. Ta nghe nói Địch Thanh người này không phải xấu, chỉ là khôi ngô. Nghe nói hắn lưng hùm vai gấu, hai mắt giống như chuông đồng, nếu hét lên một tiếng, giống như hổ gầm. Nghe nói hắn ở trước thành Kim Thang hét một tiếng, dọa sợ tới mức chiến mã trong thành đều mềm liệt không động đậy được.

Người mặc áo hoa lệ đó khinh thường nói:

- Nghe nhầm đồn bậy thôi, ta thì không tin hắn có năng lực gì. Nếu có thể trông thấy hắn, ta ngược lại muốn đọ sức với hắn. Bên hông y mang kiếm, vỏ kiếm khắc hoa chuôi kiếm Kim Lũ. Người đó tuốt vỏ kiếm đặt lên bàn thật mạnh, chén dĩa loạn vang lên.

Người gầy vừa nói lúc nãy và người áo dài đều tặc đầu lưỡi không dám nói nhiều, chỉ sợ vị này là nhân vật của Lục ban trực trong Ngự Vi.

Người mặc quần áo hoa lệ đang nói, không ngừng ló cổ nhìn về con phố dài dưới lầu, giống như đang đợi một người. Y chỉ lo nhìn xung quanh, không có để ý tới bàn bên cạnh có một thực khách, ngẩng đầu liếc nhìn y.

Thực khách đó sắc mặt ngăm đen, đội mũ mềm, luôn cuối đầu uống rượu, dáng vẻ vạn sự không quan tâm, nhưng ngẩng đầu liếc nhìn, trong hai mắt ẩn hiện hào quang. Thực khách sắc mặt ngăm đen, thái dương có tóc bạc, lúc ngẩng đầu, xem ra hình dáng bộ mặt cũng là vô cùnganh tuấn đỉnh đạt.

Chỗ cầu thang cửa tửu lầu có tiếng bước chân vang lên, người mặc quần áo hoa lệ đó hơi vui mừng, quay đầu nhìn lại. Nhìn thấy người bình thường trên mặt hơi mỉm cười, không khỏi thất vọng lớn, lại quay đầu đi.

Người mỉm cười đó tới trước mặt thực khách, sắc mặt ngăm đen đó ngồi xuống, giơ tay lấy ra một phong thư từ trong ngực đưa tới người trước mặt, trong mắt có ý bi thương.

Thực khách sắc mặt ngăm đen cũng không nghĩ ngợi gì nhận lấy thư, mở ra xem, hai tay đều run lên. Trong mắt y ngoại trừ bi thương, hoài niệm, đau xót ra, còn có mấy phần sát ý mãnh liệt.

Hai người này cử chỉ bình tĩnh, không có gây chú ý người bên cạnh.

Đang lúc này cuối con phố dài vó ngựa gấp gáp. Thực khách thích nhiều chuyện cố ngẩng đầu ra ngoài nhìn, thấy một đầu của con phố dài có chừng mấy con ngựa chạy tới. Người cầm đầu, thân hình dũng mãnh, sắc mặt âm u lạnh lẽo.

Có người thấp giọng nói:

- Là người của Lục ban trực trong Ngự Vi.

Người mặc quần áo hoa lệ lộ ý mừng, trên lầu hô:

- Mao Nô đại ca, tiểu đệ bên này.

Người cầm đầu đó đã đến dưới Thái Bạch Cư, ngẩng đầu nhìn thấy người mặt quần áo hoa lệ, đột nhiên phi thân xuống ngựa vào Thái Bạch Cư.

Thực khách trong Thái Bạch Cư đều hơi biến sắc. Rất nhiều người đã nhận ra người vào đó tên Mao Nô Lang Sinh.

Mao Nô Lang Sinh tính cách tàn nhẫn. Cũng nói người này vốn là cô nhi, được người ta nhặt ra từ hang sói. Sau này tập được võ nghệ, được Nguyên Hạo để ý tới và đưa vào Lục ban trực trong Ngự Vi, bây giờ là lãnh ban của tổ hổ trong cung.

Lúc trước Địch Thanh vào phủ Hưng Khánh ám sát Nguyên Hạo, cải trang thành Thượng La Đa Da, còn là thuộc hạ của người này.

Có người im lặng rời khỏi, Mao Nô Lang Sinh đột nhiên một tay nắm lấy một thực khách lén đi, cười lạnh nói:

- Ngươi là Địch Thanh.

Thực khách đó giật mình đến nỗi sắc mặt trắng bệch, nói:

- Tiểu nhân không phải, sao tiểu nhân có thể là Địch Thanh chứ?

Mao Nô Lang Sinh nói:

- Ngươi không phải Địch Thanh, nhìn thấy ta tại sao muốn đi?

Thực khách đó biết gần đây Địch Thanh công Hựu Châu, chiến Hồng Châu, đại náo Hạ cảnh, binh đi như gió quỷ, đã giết tam tộc người Khương. Mà tộc của Mao Nô chính là một trong tam tộc bị Địch Thanh tiêu diệt. Mao Nô Lang Sinh tuy nói lục thân không nhận, nhưng đối với chuyện này nhất định cũng rất căm tức.

Thực khách âm thầm bỏ đi đó, rung giọng nói:

- Tiểu nhân ăn no rồi, do vậy phải đi.

Mao Nô Lang Sinh nhìn chằm chằm thực khách đó nói:

- Một cái khay bánh bao mười hai cái trên bàn ngươi tới bây giờ chỉ ăn một cái, thì ngươi no rồi? Nếu như vậy, ta đánh cuộc với ngươi một ván.

- Đánh cuộc gì?

Thực khách đó kinh hãi nói.

- Ta cuộc trong bụng ngươi không có bao nhiêu cơm, ngươi vẫn đang đói. Nếu ngươi thua rồi, ta đền ngươi một trăm lượng bạc.

- Cái này... làm sao cược?

Thực khách đó mồ hôi chảy xuống dưới.

- Mổ bụng của ngươi ra, thì biết rồi?

Mao Nô Lang Sinh sắc mặt không đổi.

Thực khách đó bị dọa sợ tới mức hai chân nhũn ra:

- Là nói đùa sao?

Mao Nộ Lang Sinh khoát tay chặn lại:

- Kéo nó ra ngoài, mổ bụng của nó ra xem.

Sớm có bọn thủ hạ tiến lên, kéo thực khách đó ra Thái Bạch Cư. Thực khách đó kêu thảm như giết heo, trong tiếng kêu thảm không ngừng nghỉ lúc đó, máu nhuộm con phố dài.

Kêu thảm tuy đã dừng, nhưng tiếng hét như tiếng cưa gỗ đó làm chói tai mọi người.

Có người nhát gan, sợ tới mức phần dưới ướt đẫm tanh hôi. Thái Bạch Cư đã giống như chết lặng.

Mao Nô Lang Sinh ác độc nhìn đám thực khách, từng chữ nói:

- Ta hận nhất người bên cạnh lừa ta. Ngươi có thể không để ý ta, nhưng ngươi phải nhớ, nhất định không được lừa ta.

Sau khi gã nói xong lên lầu hai. Thực khách dưới lầu lập tức giải tán, thực khách trên lầu như dê đợi làm thịt. Chạy cũng không dám chạytất cả mọi người đều có chút chán ghét nhìn người mặc áo hoa lệ đó.

Người mặc quần áo hoa lệ đó vẫn dương dương tự đắc, thấy Mao Nô Lang Sinh đi tới, người đó tiến lên thi lễ nói:

- Mao Nô đại ca, tiểu đệ hữu lễ.

Mao Nô Lang Sinh nói:

- Ta không có huynh đệ.

Người đó sửa lời nói:

- Mao Nô đại ca, ty chức hữu lễ.

Mao Nô Lang Sinh nói:

- Ta không có thuộc hạ như ngươi.

Mọi người chán ghét người nịnh nọt đó, chỉ hy vọng Mao Nô Lang Sinh cũng lôi người đó ra mổ bụng. Nhưng người đó vẫn có thể cười được nói:

- Mao Nô đại nhân, tiểu nhân hữu lễ.

Mao Nô Lang Sinh sắc mặt vẫn âm trầm như trước, không nói thêm gì, đột nhiên quát:

- Lấy bút mực đến.

Chưởng quầy của Thái Bạch Cư kinh ngạc không ngớt, khó hiểu Mao Nô Lang Sinh muốn bút mực làm gì. Nhưng vẫn run rẩy tự mình dâng bút mực lên, nịnh nọt nói:

- Mao Nô đại nhân muốn đề chữ sao? Vậy thật là làm vách tường Thái Bạch Cư phát sáng.

Mao Nô Lang Sinh lạnh lùng cười, trám mực lên ghế dài, trên tường trắng như tuyết viết mấy câu.

- Hạ Tủng chưa từng làm kinh sợ? Hàn Kỳ chưa đủ đặc biệt! Địch Thanh như bọn chuột nhắt, chỉ biết đánh lén!

Viết xong, Mao Nộ Lang Sinh cười ha hả, nhìn thực khách trên lầu nói:

- Các ngươi nói... ta viết thế nào?

Mọi người im lặng.

Hạ Tủng chưa làm kinh sợ, Hàn Kỳ chưa đủ đặc biệt, toàn là hạng rồng hổ, vẫn nói chuyện quân cơ!

Bài thơ này, vốn là Trung thư lệnh Trương Nguyên ở Tam Xuyên Khẩu viết hai người cho Hàn Kỳ và Hạ Tủng. Mao Nô Lang Sinh chỉ là bóp méo sự thật, thêm Địch Thanh vào.

Quân Tống ở Hảo Thủy Xuyên lại thảm bại!

Tang Dịch chết trận, Nhâm Phúc chết trận, mấy vạn quân Tống chết hết ở Hảo Thủy Xuyên.

Vương Khuê chết trận, thành Dương Mục Long nguy cấp.

Võ Anh chết trận, Cảnh Phó chết trận, Võ Anh toàn bộ quân chết, chỉ có một đội Chu Quan, may mắn thoát ra vòng vây, chỉ còn hơn ngàn người. Lúc Triệu Luật là Đô Giám Vị Châu dẫn hai ngàn kỵ binh đi cứu viện, cũng tổn thất trước trận, toàn quân bị diệt.

Thị vệ Điện Tiền năm đó cùng Địch Thanh đến biên thùy, trong trận Hảo Thủy Xuyên hơn phân nửa đã bỏ mạng.

Lô cốt Trương Nghĩa bị chiếm đóng, thành Lung Can bị vây, thành Hoà Viễn báo nguy.

Quân Hạ thiết kỵ leng keng, chia thành hai đường. Một đường từ đông nam tiến vào bức ép Tần Châu, một đường theo hướng đông bắc giết lại, đã gần trại Tam Xuyên, tàn sát bừa bãi quân Trần Nhung.

Tin tức truyền ra, người Tống kinh hãi thất sắc, người Hạ hô to tươi cười.

Triều Tống vẫn xem trận Tam Xuyên Khẩu là vô cùng nhục nhã, canh cánh trong lòng. Chỉ cho rằng từ khi lập quốc tới nay, thất lợi lần này là sỉ nhục nhất. Không ngờ qua hơn một năm, trận Hảo Thủy Xuyên, càng đánh vào đầu triều Tống một đòn.

Hảo Thủy Xuyên bại trận, ô nhục càng sâu.

Sau khi Trương Nguyên thống quân đại thắng trở về, đã viết một bài thơ khiếu nại Hàn Kỳ chưa đặc biệt ở trại Tam Xuyên, lại lần nữa làm nhục Hàn Kỳ. Mao Nô Lang Sinh hiện giờ ở Thái Bạch Cư bóp méo câu thơ, chính là muốn làm nhục người Tống ở đây.

Trong Phủ Hưng Khánh, người Tống ở cũng không ít, trên lầu mọi người trầm mặc. Người mặc quần áo hoa lệ đó lại nói:

- Đại nhân quá chuẩn xác, bọn Địch Thanh chuột nhắt, không đủ một đường. Tiểu nhân.... kỳ thực cũng muốn tỷ thí với hắn một chút.

Sắc mặt Mao Nô Lang Sinh lúc này mới tốt một chút, thấy mọi người nơm nớp lo sợ, chỉ vào một người gầy ốm nói:

- Ta hỏi ngươi đó, chẳng lẽ ngươi không nghe thấy?

Người gầy ốm đó chính là lúc nãy nói Địch Thanh mặt mũi hung tợn, nghe vậy lạnh mình nói:

- Rất hay, so với Lý Thái Bạch còn.... Thái Bạch... Y vốn định khen ngợi, nhưng miệng không nghe theo sai khiến. Có người muốn cười, Mao Nô Lang Sinh cũng mỉm cười, trong mắt toàn là sát khí:

- Ta so với Lý Thái Bạch còn trắng hơn? Nói rất hay...

- Nói rất hay đó.

Một người đột nhiên cắt đứt lời nói của Mao Nô Lang Sinh.

Mọi người kinh hãi, chỉ thấy sắc mặt ngăm đen đó. Thực khách đội mũ mềm mỉm cười nói:

- Mao Nô đại nhân bài thơ này thật rất hay.

Mọi người thấy nụ cười của y, không biết tại sao sống lưng xông lên cái ớn lạnh khó tả.

Trong nụ cười đó, giống như mang sát khí vô tận.

Mao Nô Lang Sinh ánh mắt như đinh, gắt gao trừng mắt nhìn người đó nói:

- Hay ở chỗ nào chứ?

Gã không nhận ra người đó, cảm thấy người đó tuy có chút cổ quái, nhưng gã không sợ.

Người đội mũ mềm đó nói:

- Ta cũng có hai câu thơ tặng lại đại nhân.

- Tặng lại?

Mao Nô Lang Sinh hai con ngươi híp chặt lại, từng chữ nói:

- Tốt lắm, ngươi viết đi!

Gã vung tay lên, cây viết trong tay đột nhiên bay ra đã tới trước mặt người đó.

Bút lông bay nhanh, tốc độ không thua gì ném đoản kiếm.

Người đó vừa giơ tay, đã cầm cây viết trên tay. Mao Nô Lang Sinh hơi rét, lại thấy tay người đó cầm bút lông tới trước tường trắng.

Thuộc hạ của Mao Nộ Lang Sinh muốn tiến lên, lại bị gã xua tay chặn lại.

Người đội mũ mềm đó cầm bút chấm mực, không chút hoang mang viết hai câu:

- Từ trước giờ chưa biết mặt Mao Nô. Nay mới biết dài tám trượng.

Mọi người thất vọng nhìn, cho rằng người này cũng chỉ là một hạng nịnh nọt.

Mao Nô Lang Sinh thấy người này thân thủ không tệ, vốn âm thầm cảnh giác. Nhưng thấy y lại viết thơ nịnh hót gã khôi ngô, không khỏi thầm nghĩ:

- Chẳng lẽ người này giống như Mã Trưng, cũng muốn cầu quan sao?

Thì ra người mặc quần áo hoa lệ ấy tên là Mã Trưng. Mấy ngày nay đến, cho Mao Nộ Lang Sinh không ít chỗ tốt, vì có thể làm một chức quan ở phủ Hưng Khánh. Người đội mũ mềm đó lại nịnh hót Mao Nô Lang Sinh, hơn phân nửa cũng là người thất bại.

Mao Nô Lang Sinh đang lúc trầm ngâm, người đội mũ mềm đó lại viết hai câu:

- Không phải Mao Nô dài tám trượng, vì sao đánh rắm ở tường cao?

Mọi người ồ lên, thấy người đó châm chọc Mao Nô Lang Sinh viết thơ chính là đánh rắm, muốn cười lại không dám.

Mao Nộ Lang Sinh nhìn thấy giận tím mặt, xương cốt cả người “răng rắc” sát tâm dâng trào. Người đó không ngờ vẫn có thể ung dung viết ba chữ, sau đó ném bút lông, vỗ vỗ tay cười nói:

- Ta viết thế nào?

Y tuy đang cười, nhưng ánh mắt như kim châm, chăm chăm nhìn vào người của Mao Nô Lang Sinh.

Thái Bạch Cư im lặng ngay cả cây kim rơi cũng nghe thấy, tất cả mọi người đều kinh hãi nhìn ba chữ viết cuối cùng trên tường trắng.

Địch Thanh lưu!

Ba chữ cuối cùng của người đó viết, rành rành chính là “Địch Thanh lưu”

Trước mắt người này chính là Địch Thanh? Địch Thanh sao có thể tới phủ Hưng Khánh?

Người đó đẩy cái mũ mềm trên đầu xuống, khuôn mặt lộ ra tuy đen, lại cực kỳ tuấn lãng. Người đó chính là Địch Thanh, hắn chỉ là bôi đen khuôn mặt tạm dấu hình xăm, nhưng hắn tiêu điều buồn bã, hơi thở vẫn vậy.

Hắn ý bi thương đầy cõi lòng, bỗng dưng nghĩ đến năm đó chuyện mọi người uống rượu say ca hát. Tiếng ca còn bên tai, nhưng đám người Anh Võ, Vương Khuê, Tang Dịch, đều đã không còn.

Những người đàn ông đó ngày bình thường trầm lặng, trong lòng nhiệt huyết. Khi Địch Thanh hắn khốn quẫn, bị Hàn Kỳ khinh miệt, vẫn nghĩa bất dung từ đứng ra, đứng bên cạnh hắn.

Quân tử chi giao, bình đạm như nước.

Nhưng lúc thật sự quan trọng, ném đầu, tan nhiệt huyết, làm việc nghĩa không chùn bước...

Địch Thanh chính là vì cái chết của các huynh đệ mà bi thương phẫn nộ điên cuồng. Mao Nô chủ động khiêu khích, sao hắn có thể kiên nhẫn?

- Mao Nô Lang Sinh, ta đánh cuộc với ngươi!

Mao Nô Lang Sinh cả người dồn lực, từng chữ nói:

- Cược cái gì?

Địch Thanh cười lạnh nói:

- Ta cược ngươi sống không rời khỏi Thái Bạch Cư này! Nếu ta thua, tùy ngươi làm thế nào thì làm!

Mọi người ồ lên. Mao Nô Lang Sinh nhìn đôi mắt Địch Thanh tràn đầy sát khí, chỗ lưng bỗng xông lên luồng khí lạnh cả người. Nếu Địch Thanh thua, đương nhiên phải chết, nhưng Mao Nô Lang Sinh gã thua thì sao?

Mao Nô Lang Sinh gã không chỉ người phải ở lại ở Thái Bạch Cư, còn phải để lại cái mạng.

Mao Nô Lang Sinh không có động, nhưng tay cầm đao đã nổi gân xanh. Khóe mắt gã bắt đầu nhảy lên, cảm thấy được lưng có mồ hôi. Thật lâu sau, gã mới nói:

- Được, ta cược với ngươi.

Một câu của Mao Nô Lang Sinh nói ra, trong Thái Bạch Cư bầu không khí đã như gió bão kéo đến.

Mọi người thấy Mao Nô Lang Sinh nghiến răng nghiến lợi, chiến ý đã lên, lại còn không ra tay, đều cho rằng Mao Nô Lang Sinh là dồn lực ra một đòn, chỉ có Mao Nô Lang Sinh biết là không phải.

Gã có chút sợ.

Loại sợ hãi này, Mao Nô Lang Sinh đã lâu rồi không có. Nhưng khi nhìn thấy khuôn mặt trấn tĩnh, đôi mắt tự tin, còn có một thanh đao lúc nào cũng kè kè bên hông của Địch Thanh. Mao Nô Lang Sinh nhớ tới rất nhiều chuyện cũ của Địch Thanh. Lúc gã chưa gặp Địch Thanh, chỉ cho rằng khi gặp Địch Thanh sẽ không chút do dự mà giết. Nhưng khi gặp Địch Thanh, hai chân giống như rót chì dường như rất nặng.

Bầu không khí trầm tịch đó đã làm người ta phát cuồng.

Địch Thanh mỉm cười, tay vịn chuôi đao nói:

- Mới vừa rồi ngươi nói ta là con chuột nhắt. Ta và ngươi quang minh chính đại đấu một trận, chẳng lẽ ngươi cả con chuột nhắc cũng không bằng? Xuất chiêu đi!

Địch Thanh quát chói tai mới xuất. Mao Nô Lang Sinh đột nhiên rút đao, phóng một cái thì ra khỏi lầu hai. Người trong không trung, Mao Nô Lang Sinh khàn giọng nói:

- Chặn hắn lại!

Mao Nô Lang Sinh lui, gã không đánh mà lui, gã không có dũng khí giao thủ với Địch Thanh.

Bại thì chết, chạy trốn có lẽ có thể giữ được tính mạng.

Cũng không phải tất cả mọi người đều không sợ chết. Người càng nhìn càng hung ác, tận đáy lòng càng sợ chết. Vì bọn họ luôn luôn xem thường tính mạng của người khác, để áp chế sợ hãi trong lòng mình.

Mao Nô Lang Sinh dẫn bốn thuộc hạ tới lầu trên. Bốn người đó lúc Mao Nô Lang Sinh lui, gần như đồng thời rút đao ngăn chặn Địch Thanh.

Chỉ cần khoảnh khắc giết đó, Mao Nô Lang Sinh đi xuống lầu, nhiệm vụ của bọn chúng xem như hoàn thành.

Trong lầu bỗng nhiên hàn khí cực mạnh, cầu vồng hiện lên, huyết quang đổ xuống.

Mọi người chỉ thấy một đường cầu vồng đuổi ra, đánh vào ngực của Mao Nô Lang Sinh, đột nhiên lui lại.

Cầu vồng như chợt lóe lên. Mao Nô Lang Sinh tạm ngừng giữa không trung, sau đó lồng ngực đồng thời phun ra máu tươi. Dưới ánh mặt trời chiếu sáng, như cầu vồng bảy màu, từ trên người Mao Nô Lang Sinh biến hóa mờ ảo bay ra.

“Ầm” một tiếng vang lên, thi thể ngã xuống lầu, phố xá đại loạn.

Trên lầu yên lặng như chết, tất cả mọi người đều không dám nhúc nhích, chỉ thấy bốn tên thị vệ bao vây Địch Thanh ngã xuống đất, trong cổ máu tươi tuôn ra mãnh liệt.

Địch Thanh xuất đao, không chỉ một đao giết Mao Lô Lang Sinh, còn thuận tay giết bốn thị vệ, đây là đao pháp gì?

“Choang choang” vang lên, trường đao tra vào vỏ. Địch Thanh một đao đắc thủ, không vội bỏ đi, ngược lại tới chỗ lan can nhìn lại, thấy Mao Nô Lang Sinh trợn tròng hai mắt, trong mắt tràn đầy ý không tin, thản nhiên nói:

- Ngươi thua rồi.

Hắn buông hai tiếng cười dài, đột nhiên chỉ Mã Trưng nói:

- Ngươi qua đây.

Mã Trưng cả quần ướt sũng, hai đùi run lên, nghe vậy quỳ xuống nói:

- Địch đại gia, tiểu nhân là thuận miệng nói lung tung...

Không đợi nói nhiều, hét thảm một tiếng, đã chói cả tai.

Địch Thanh một đao nạo lỗ tai của y, trầm giọng nói:

- Giữ lại mạng lệnh cho ngươi đi nói cho Trương Nguyên, bảo y sau này ngủ cẩn thận một chút.

Mã Trưng trong tiếng gào thê thảm, Địch Thanh đã không thấy bóng dáng.

Mọi người ngây ra, chỉ nghe thấy xa xa truyền đến tiếng hát hào phóng của Địch Thanh.

- Nam nhi đời này nhẹ thanh danh. Bảo đao bên hông nặng hoành hành, chảy không hết máu anh hùng, giết không hết hào hùng.

Tiếng ca vang hùng hồn, khuấy động phố thị, rồi dần dần đi xa...

Nhưng hào hùng huyết khí này lưu lại rất lâu giữa đất trời, dư âm không dứt!

Địch Thanh giết một tay cừ trong Lục ban trực của nước Hạ, cười dài mà đi.

Hắn tuy cười, nhưng trong lòng đầy là bi thương. Giết một Mao Nô Lang Sinh hoàn toàn không đáng là gì, không giảm bớt được bi phẫn trong lòng hắn.

Năm đó mọi người chung vai tới tây bắc, đã đoán được tướng quân bách chiến tử, chiến sĩ khó trở về. Qua nhiều năm nay, bão cát khắc mài một lời nhiệt huyết, nói không chừng rơi lại ở biên cương này.

Nói không chừng đi rồi, thì gặp được người thân, nói không chừng chết đi, thì ở lại biên cương...

Nhưng không có ai lùi bước.

Bọn họ có hào hùng, có nhiệt huyết, có chí lớn, có vì nước mà chiến, lòng quyết hi sinh ở biên thùy.

Nhưng bọn họ vốn không cần chết!

Địch Thanh không muốn nghĩ nhiều, hắn đối với phủ Hưng Khánh giống như ngựa quen đường cũ. Sau khi ra khỏi lầu, nhẹ nhàng thoát khỏi truy quét của quân Hạ, chuồn ra khỏi phủ Hưng Khánh.

Tới vùng ngoại ô, Địch Thanh nhìn về dãy núi nối liền nơi xa, lập tức tới thẳng một bìa rừng rậm.

Qua Binh đang đứng chờ ngoài rừng thấy Địch Thanh, tiến lên nghênh đón nói:

- Địch tướng quân. Diên Châu có tin, Châu Mỹ đã thẳng tiến Tuy Châu, chiếm lĩnh trại Thừa Bình.

Địch Thanh lẩm bẩm nói:

- Đánh hay, công hạ trại Thừa Bình, Tuy Châu đang mong. Nếu Tuy Châu có thể đánh xuống, Ngân Châu của người Hạ lại nguy hiểm rồi. Chỉ cần chúng ta không ngừng tiếp tục đánh, người Hạ không kịp đánh chúng ta. Bây giờ… Kính Nguyên Lộ có tình hình mới không? 

Qua Binh nói:

- Quân ta thảm bại ở trận Hảo Thủy Xuyên, Hàn Kỳ thượng thư gánh trách nhiệm. Nhưng Hạ Tủng nói trách nhiệm không ở Hàn Kỳ, mà ở Nhâm Phúc. Ban đầu Hàn Kỳ đích thực căn dặn Nhâm Phúc cẩn thận làm việc. Không ngờ Nhâm Phúc sơ xuất tiến mạnh, bị đánh bại như vậy.

Địch Thanh nhớ tới vẻ mặt cao ngạo của Hàn Kỳ, lại thở dài, lẩm bẩm nói:

- Chẳng lẽ mấy chục ngàn oan hồn ở Hảo Thủy Xuyên chỉ là một trách nhiệm có thể kết thúc rồi?

Vẻ buồn bả trên mặt Địch Thanh càng sâu, Qua Binh lại nói:

- Nghe nói triều đình hạ chỉ giáng chức Hàn Kỳ làm tri châu.. gần đây mới phái Đằng Tử Kinh tạm quản Kính Nguyên Lộ.

- Đằng Tử Kinh?

Địch Thanh có chút nghi ngờ,

- Y là ai?

- Ông ấy là bạn thân của Phạm công, năm đó cùng đậu tiến sĩ với Phạm công. Nghe nói người này rất tài giỏi.

Địch Thanh thật lòng mỉm cười:

- Bằng hữu của Phạm công, cũng không tệ. Lúc này Nguyên Hạo ở Kính Nguyên Lộ, có dấu hiệu lui binh không?

Qua Binh nói:

- Theo tin trước mắt, vẫn không có. Nguyên Hạo xem ra muốn đánh vào đường Quan Trung. Trước mắt trọng binh tàn sát bừa bãi KínhNguyên Lộ. Đằng Tử Kinh đóng thành không ra, áp lực rất lớn.

Địch Thanh cau mày nói:

- Điều này cho thấy chúng ta tạo đả kích không lớn cho Nguyên Hạo.

Qua Binh cười khổ nói:

- Địch tướng quân, chúng ta tổng cộng hai ngàn nhân thủ, đã liên tục chiến đấu. Lúc ở đường Tàng Ngộ ngài không mang binh vây giết, dẫn mấy trăm người chúng tôi đi ngang qua sa mạc, đi tới phủ Hưng Khánh, tùy thời cơ tấn công Trường Kê Lĩnh, uy hiếp Nguyên Hạo lui binh, việc ngài làm không được càng nhiều.

Trường Kê Lĩnh ở sơn cốc Hạ Lan. Sơn cốc Hạ Lan lại chắn phía tây phủ Hưng Khánh. Nếu sơn cốc Hạ Lan có tình hình chiến tranh, phủ Hưng Khánh nhất định lòng người hoang mang. Địch Thanh vẫn không có từ bỏ ý niệm bức Nguyên Hạo lui binh.

Địch Thanh dựa vào cây, trong lòng thầm nghĩ:

- Qua Binh nói không sai, ta tuy vẫn tạo sức ép cho quân Hạ, nhưng theo năng lực và nhân thủ trước mắt, quả thật khó có thể uy hiếp Nguyên Hạo chấn động. Nếu đã như vậy... tiếp theo nên làm thế nào?

Đang lúc trầm tư, trong lòng đột nhiên dâng lên cảm giác. Sắc mặt Địch Thanh không ay đổi, tự nhiên nói ra:

- Thời tiết hôm nay rất đẹp.

Trong mắt Qua Binh hàn quang lóe lên, thấy ngón tay trỏ Địch Thanh chỉ vào trong rừng góc đông nam.

Có địch đến.

Địch Thanh và thuộc hạ thập sĩ có một bộ mật ngữ liên lạc, thuận tiện hành việc. Địch Thanh nói thời tiết hôm nay rất đẹp, chính là chỉ ý có địch, hướng ngón tay trỏ của hắn, chính là chỉ chỗ ẩn nấp của địch.

Trong thập sĩ, phần lớn là hạng người bướng bỉnh không chịu thuần phục, nhưng đối với Địch Thanh đều là tâm phục khẩu phục. Qua Binh theo Địch Thanh đã lâu, càng đối với Địch Thanh là khâm phục tận đáy lòng.

Địch Thanh nói có cảnh giác thì tuyệt sẽ không phải báo giả.

Nhưng lân cận sớm có thuộc hạ của Qua Binh canh phòng, lại có ai có thể dễ dàng lọt qua canh phòng của những nhân thủ này tới bên cạnh Địch Thanh?

Ánh mắt Qua Binh như tia chớp, đột nhiên dúm miệng hút sáo. Trong miệng phát ra một tiếng chim hót, tiếng chim hót đó rất thật, tiếng chim vang lên, Qua Binh đã vọt tới dưới gốc cây đại thụ.

Qua Binh thân hình di động, trường kiếm ra khỏi vỏ, đã một kiếm đâm lên cây.

Trên cây có người!

Kiếm quang như tia chớp, ánh sáng lóe lên làm người ta hoa mắt. Trường kiếm Qua Binh mới xuất, một người từ trên cây giống như chim bay xẹt qua. Trường kiếm chém vào khoảng không, Qua Binh trong lòng hơi rét, thầm nghĩ thân thủ kẻ địch trác tuyệt, là kình địch.

Người đó nhảy xuống cây, không vội chạy. Trong rừng có năm sáu người chạy ra, bao vây người đó. Người đó thân hình xoay vòng, bỗng nhiên vọt tới Địch Thanh, quát:

- Địch Thanh, để mạng lại.

Cổ tay y vừa động, cổ tay áo đột nhiên xuất ra một thứ gì đó giống gậy sắt, mũi nhọn như mỏ chim ưng.

Thấy y cách Địch Thanh chỉ hơn một trượng, mỏ chim ưng đó đột nhiên động đây, thì ầm ầm một kích.

Địch Thanh lại không động đậy, nhíu mày nỏi:

- Phi Ưng, ngươi làm cái gì?

Người đó đột nhiên ngừng lại, đứng trước người Địch Thanh, cười ha hả nói:

- Hay cho một Địch Thanh, cái này cũng không dọa nổi ngươi.

Mỏ chim ưng trên cánh tay y “vù” một tiếng, đã rút về ống tay áo.

Người đó bịt kín mặt, chỉ lộ môi hơi mỏng, và cái mũi giống như mỏ chim ưng, ánh mắt sắc bén tựa như chim ưng. Chính là Phi Ưng liên thủ với Địch Thanh giết Nguyên Hạo.

Địch Thanh khoát tay chặn lại, bọn thủ hạ ẩn đi. Địch Thanh cau mày nói:

- Ngươi cảm thấy chơi rất vui?

Hắn không ngờ Phi Ưng đột nhiên tới đây, Phi Ưng đến phủ Hưng Khánh làm gì?

Phi Ưng thở dài nói:

- Không vui chút nào. Lần trước sau khi ta giết Hạ Tùy, bị người truy giết, trên đường chạy trốn tới Ngọc Môn Quan, thiếu chút nữa toi mạng. Nhưng ta không ngờ, cái âm mưu đó cũng giết không nổi Nguyên Hạo.

Lúc y nói chuyện ngạo khí không giảm, cuồng tính như trước.

Trong mắt Địch Thanh hào quang chớp động, như thoáng có suy nghĩ nói:

- Vậy ngươi lần này đến, muốn làm gì?

- Tìm ngươi!

Địch Thanh hỏi:

- Làm sao ngươi biết ta ở đây?

Phi Ưng bĩu môi, cao ngạo nói:

- Ngươi giết Mao Nô Lang Sinh, người Hạ không tìm được ngươi, ta lại có thể theo kịp ngươi.

Địch Thanh nhíu mày, thầm nghĩ người này xuất quỷ nhập thần, cả Nguyên Hạo cũng dám đắc tội, rốt cuộc là người thế nào? Trầm giọng hỏi:

- Ngươi tìm ta làm gì?

Phi Ưng chậm rãi nói:

- Ta định tìm ngươi liên thủ, lại giết Nguyên Hạo, báo thù cho Quách đại ca!

Ánh mắt y quái gở, tràn đầy cuồng nhiệt.

Địch Thanh “ah” môt tiếng, nhẹ giọng nói:

- Ngươi thật muốn báo thù cho Quách đại ca sao?

Phi Ưng thân hình hơi chấn động, ánh mắt đột nhiên mãnh liệt, chậm rãi nói:

- Vậy ta hao phí tâm lực liên hệ với Dã Lợi Vượng Vinh để ngươi lẫn vào trong cung ám sát Nguyên Hạo, đảo loạn phủ Hưng Khánh, chạy thục mạng về Ngọc Môn Quan, đều là ăn no rỗi việc hay sao?

Ánh mắt Địch Thanh lộ ra ý suy nghĩ, sau một hồi lâu mới chậm rãi nói:

- Ngươi chạy trốn về Ngọc Môn Quan, bởi vì ngươi biết Hương Ba Lạp ở gần đó. Ta và Dã Lợi Vượng Vinh hợp tác, cũng là vì Hương Ba Lạp. Ngươi muốn ta giết Nguyên Hạo, chỉ là vì y cản trở ngươi tiếp cận Hương Ba Lạp!

Trong mắt Phi Ưng hào quang bùng lên, thân hình hơi cong, đã hiện sát khí.

Địch Thanh biết mình đoán trúng.

Hai người lúc này đang dò xét, đấu ai có thể nắm trong tay cục diện. Phi Ưng vẫn ra vẽ thần bí, Địch Thanh thì ở trong phương diện này đã vạch trần thần bí, lấy được thế thủ trước.

Trong quá trình đối thoại với Phi Ưng, Địch Thanh luôn nhớ tới quá trình qua lại với Phi Ưng.

Phi Tuyết, Nguyên Hạo, Dã Lợi Vượng Vinh, Ngọc Môn Quan. Ngọc Môn Quan chẳng phải ở gần Sa Châu sao?

Lúc nghĩ tới Sa Châu, Địch Thanh lại nhớ tới thương nhân họ Lịch và Đôn Hoàng mà Triệu Minh từng nói, càng không thể không nhớ tới Hương Ba Lạp.

Lúc nhớ tới Hương Ba Lạp, Địch Thanh bỗng nhiên tỉnh ngộ. Phi Tuyết muốn xuyên qua sa mạc tới phủ Hưng Khánh, khả năng chính là đi tìm Phi Ưng. Phi Tuyết và Phi Ưng có thể liên thủ, có phải vì bọn họ có cùng chung mục đích không?

Phi Tuyết muốn đi Hương Ba Lạp, nói như vậy, Phi Ưng cũng vì Hương Ba Lạp! Địch Thanh nghĩ tới đáp án này, chuyện còn lại lại rộng mở. Hắn liên tiếp suy đoán ba cái, nước chảy thành sông.

Thấy thần sắc Phi Ưng khẩn trương, Địch Thanh càng thêm thoải mải. Hắn biết mình không cần bị Phi Ưng xỏ mũi dẫn đi nữa.

- Cứ cho là ta nói trúng tâm sự của ngươi, ngươi cũng không cần giương cung bạt kiếm chứ?

Thần sắc Địch Thanh thích ý nói.

Phi Ưng thở phào một cái đột nhiên cười nói:

- Địch Thanh, ngươi thật ra cũng không dám khẳng định, đúng không? Ta hơi khẩn trương, ngược lại nói cho ngươi biết tình hình thực tế.

Địch Thanh khẽ mỉm cười, không nói thêm lời. Có đôi khi, không nói còn biết nhiều hơn nói.

Phi Ưng nhìn thẳng vào Địch Thanh, sau hồi lâu lại nói:

- Ngươi còn biết cái gì?

Địch Thanh lập lờ môi nói:

- Nên biết tự nhiên sẽ biết.

Trong lòng lại nghĩ, Phi Ưng rõ ràng không thể tiến vào Hương Ba Lạp, y không có thành công, cho nên trở về phủ Hưng Khánh. Phủ Hưng Khánh có bí mật của Hương Ba Lạp sao? Hay là y vẫn muốn tìm người hợp tác? Nếu nói không chừng muốn tìm nhân thủ hợp tác. Chẳng lẽ nói muốn vào Hương Ba Lạp, chỉ dựa vào sức một người thì không được? Chi bằng nhất định phải tìm một người bạn đi cùng vào.

Ý niệm trước kia mơ hồ dần dần rõ ràng, Địch Thanh biết càng ngày càng nhiều, trở nên bình tĩnh. Hắn càng biết một điểm, hắn không vội, vội chỉ có thể là Phi Ưng.

Trong mắt Phi Ưng sâu xa đầy thâm ý, đột nhiên nói:

- Ta biết ngươi cũng đang tìm tới Hương Ba Lạp, đúng không?

Địch Thanh lồng ngực đau xót, thần sắc vẫn không thay đổi:

- Do vậy ngươi vẫn không nhắc tới Hương Ba Lạp với ta, ngươi sợ ta sẽ tranh dành với ngươi?

Phi Ưng cười, trong thần sắc bỗng nhiên trở nên tự phụ:

- Nên là của ngươi, chính là của ngươi, ai cũng không cướp đi.

Địch Thanh châm chọc nói:

- Ngươi không cần vạch Hương Ba Lạp trong địa bàn của ngươi vội như vậy. Ta phải nói cho ngươi biết một sự thật, bây giờ Hương Ba Lạp vẫn trong địa bàn của Nguyên Hạo.

Hắn vẫn đang thử dò xét, quả thấy trong mắt Phi Ưng lộ ra ý oán hận:

- Nguyên Hạo cái thứ hỗn tạp này, sớm muộn có một ngày ta để y biết, kết cuộc khi đắc tội ta.

Địch Thanh lại lần nữa khẳng định cách nghĩ lúc nãy của mình, Hương Ba Lạp chính là ở Sa Châu. Nguyên Hạo khống chế được Sa Châu, không để cho ai tiếp cận. Địch Thanh ngược lại cũng có chút hoảng sợ cuồng ngạo và tự tin của Phi Ưng, Phi Ưng thậm chí không coi Nguyên Hạo ra gì.

Tên Phi Ưng này rốt cuộc là lai lịch gì, có khí chất gì tự tin như vậy?

Phi Ưng đột nhiên chậm giọng điệu lại:

- Địch Thanh, nếu ngươi cũng biết không ít, vậy ta nói thẳng với ngươi. tìm ngươi, chính là để liên thủ với ngươi tìm ra bí mật của Hương Ba Lạp. Dưới gầm trời này, nếu với khả năng ngươi và ta, còn không thể tìm ra bí mật của Hương Ba Lạp. Vậy chỉ sợ không có ai có thể tìm ra bí mật này.

- Thật không?

Địch Thanh không đậm không nhạt nói:

- Phi Tuyết cộng thêm Dã Lợi Trảm Thiên cũng không thể sao?

Phi Ưng cười lạnh nói:

- Bọn họ là si tâm vọng tưởng.

Địch Thanh trong khẽ động, mỉm cười nói:

- Ngươi nghe ta nói Phi Tuyết và Dã Lợi Trảm Thiên cùng một nhóm, hoàn toàn không kinh ngac? Có phải là, ngươi đã gặp qua bọn họ rồi phải không?

Phi Ưng hơi chấn động, đã ý thức được Địch Thanh sớm không phải Địch Thanh lúc ở sa mạc. Địch Thanh bây giờ càng cơ trí trưởng thành hơn, tâm cơ rất là thâm trầm. Y tuy cái gì đều không nói, nhưng Địch Thanh đã nói rất nhiều.

Địch Thanh thấy thế, lắc đầu nói:

- Ngươi cái gì cũng gạt ta, vậy chúng ta làm sao hợp tác chứ?

Trong lòng lại nghĩ, Phi Tuyết và Dã Lợi Trảm Thiên nhất định cũng không thành công, bằng không mục tiêu của Phi Ưng chính là hai người đó. Diệp Tri Thu lâu nay không có tin tức, Tào Dật cũng đang đau khổ tìm kiếm...

Cái Hương Ba Lạp này, rốt cuộc có gì huyền ảo?

Sau hồi lâu, Phi Ưng dò hỏi:

- Địch Thanh, thật ra ngươi càng muốn đi Hương Ba Lạp hơn ta. Nếu ngươi liên thủ với ta, cơ hội tìm ra Hương Ba Lạp càng lớn hơn. Ta quả thật có chút chuyện gạt ngươi, nhưng bây giờ rõ ràng không phải là lúc nói ra chân tướng.

Địch Thanh liếc xéo Phi Ưng, đột nhiên nói:

- Ngươi và ta có thể hợp tác, nhưng ta có một điều kiện, tháo cái che mặt của ngươi xuống. Ngươi phải để ta biết ngươi là ai, ta không quen hợp tác với người không biết rõ ràng.

Phi Ưng thân hình chấn động, ngưng thanh nói:

- Nếu ta không cởi bỏ khăn che mặt thì sao? Thì ngươi thế nào?

Địch Thanh trong lòng hơi căng thẳng, thầm nghĩ Phi Ưng tại sao xem trọng thân phận như vậy. Phi Ưng sợ gì? Hắn gần như muốn động thủ vạch trần khăn che mặt của Phi Ưng, nhưng cuối cùng hắn kiềm chế kích động.

Lúc này hắn không có nắm chắc bắt được Phi Ưng, hắn cũng không có cần phải trở mặt với Phi Ưng.

- Không nói cho ta biết thân phận của ngươi, vậy thì xin mời đi ngay. Ngươi nói đúng, ta quả thật cũng muốn tìm Hương Ba Lạp, nhưng ta... không cần nhất định hợp tác với ngươi!

Phi Ưng sắc mặt đột nhiên trở nên cực kỳ cổ quái, ngưng thanh nói:

- Địch Thanh, nếu hôm nay ngươi không hợp tác với ta, ngươi nhất định sẽ hối hận! Vì trên đời này, chỉ có một mình ta mới biết làm sao phá giải bí mật của Hương Ba Lạp! Nguyên Hạo cũng không được!

- Thật không?

Địch Thanh trong lòng tuy khẩn trương, vẫn tràn đầy vẻ không quan tâm:

- Vậy tự ngươi đi tìm đi, hà tất đến tìm ta chứ?

Trong mắt Phi Ưng đã hiện lên chút tức giận, hít sâu một hơi, ngửa mặt lên trời cười dài nói:

- Được, ngươi chớ hối hận!

Y nói xong, bỗng nhiên xoay người, thân hình nhoáng một cái đã mất trong rừng rậm.

Địch Thanh hơi có thất vọng, không ngờ Phi Ưng đột nhiên nói đi là đi. Lại ra hiệu thuộc hạ đừng chặn lại. Hắn và Phi Ưng nói chuyện một hồi có chút thu hoạch, nhưng hàm ý không lớn. Hắn càng biết, Phi Ưng đến phủ Hưng Khánh, cũng tuyệt sẽ không vì Địch Thanh hắn.

Trước khi giết Mao Nô Lang Sinh, ai cũng sẽ không nghĩ rằng Địch Thanh hắn đã tới phủ Hưng Khánh, Phi Ưng cũng không ngoại lệ.

Phi Ưng đến phủ Hưng Khánh, hơn phân nữa có mục đích khác.

Đang lúc trầm ngâm, Hàn Tiếu đã tới. Người lúc nãy ở Thái Bạch Cư truyền tin cho Địch Thanh chính là Hàn Tiếu, y vừa thấy Địch Thanh, thì nói:

- Địch tướng quân, có tin tức mới nhất, Phạm đại nhân triệu ngài trở về!

Địch Thanh hơi giật mình, đoán không được Phạm Trọng Yêm triệu hắn trở về là vì chuyện gì. Nhưng biết Phạm Trọng Yêm sẽ không bắn tên không đích, lập tức căn dặn:

- Hàn Tiếu, ngươi truyền lệnh xuống bảo Lý Định tối nay quân Hạ bạo chiến tiến công Trường Kê Lĩnh, sau trận chiến, đừng ở lại, toàn bộ bỏ chạy.

Hàn Tiếu truyền lệnh xuống, Địch Thanh không chần chờ nữa cùng Hàn Tiếu, Qua Binh đi về hướng nam, định qua dãy núi lên quan đạo trở về thành Đại Thuận. Tới chỗ chân núi, Địch Thanh không kìm nổi nhìn vọng về hướng chùa Giới Đài. Thấy phía xa chùa Giới Đài giống như cọp chầu rồng cuộn, không khỏi dừng chân lại.

Gió núi ù ù, trăm hoa rực rỡ.

Địch Thanh thu tầm nhìn lại, nhìn bông hoa cười duyên trong sơn dã đó, không biết đóa hoa nào là nụ cười của Dương Vũ Thường. Hắn vốn cho rằng có thể không nghĩ, hóa ra tương tư đó chỉ là càng sâu hơn.

Hắn cất bước muốn đi, đột nhiên dừng lại.

Lúc này trời xanh lam cỏ xanh lục, hoa hồng gió nhẹ. Trong sơn quang rực rỡ một đỉnh kiệu đi tới, cỗ kiệu bằng vàng đính vải ngọc. Trong màu núi xanh xanh, rõ ràng thu hút người ta chú ý.

Trước sau cỗ kiệu đều có quân Hạ đang theo, tổng cộng có mười sáu người. Bên cổ kiệu có một tùy nữ đi cùng, cuối đầu bộ dạng phục tùng, nhẹ nhàng bước đi liên tục.

Hàn Tiếu để ý Địch Thanh đang nhìn tùy nữ có chút kỳ quái. Tùy nữ đó mặc dù môi hồng răng trắng, có chút tư sắc, nhưng Địch Thanh tuyệt không phải người háo sắc. Địch Thanh nhìn chằm chằm tùy nữ đó muốn làm gì?

Hàn Tiếu cảm thấy người ngồi trong kiệu thân phận không thấp, trong lòng khẽ động nháy mắt về phía Qua Binh.

Qua Binh tới trước mặt Địch Thanh, làm một thủ thế “giết”. Địch Thanh lắc đầu, quay đầu vọt tới bên cạnh đường. Hàn Tiếu lúc nãy chỉ cho rằng Địch Thanh muốn xuất thủ giết người, thấy Địch Thanh tỏ thái độ, biết hiểu sai ý, cũng lắc đầu với Qua Binh lắc người tới bên đường.

Hàn Tiếu không biết rõ tình hình, Địch Thanh lại nhận ra người tùy nữ đó. Lúc hắn ám sát Nguyên Hạo không thành, lúc lánh nạn lầu Đan Phượng, thì thấy qua tùy nữ đó.

Đó vốn là nha hoàn của Đan Đan công chúa.

Người trong kiệu là Đan Đan?

Vừa nghĩ tới đây, trong đầu Địch Thanh lóe lên bóng dáng bộ đồ tím đó, còn có khuôn mặt quật cường hơi tái nhợt. Chỗ này cách chùa Giới Đài không xa, Đan Đan có thể là đi dâng hương cầu nguyện, bây giờ trở về phủ Hưng Khánh không chừng? Địch Thanh đoán như vậy, trong lòng hắn không có sát ý, chỉ là yên lặng chờ cỗ kiệu đi qua.

Hành động của Địch Thanh rất bình thường. Thông thường dân chúng nhìn thấy cỗ kiệu này, không cần hỏi cũng là tạm lánh để tránh phiền toái.

 Chương 323 - 327: Đấu tướng

Những binh Hạ đó đang nhìn chằm chằm ba người Địch Thanh bên đường, trong mắt lộ ra ý cảnh giác. Dù sao lúc trước Đan Đan đã từng bị Phi Ưng bắt qua một lần, những người này được dặn dò của Ngột Tốt, bất cứ lúc nào cũng bảo vệ Đan Đan. Nếu có sai sót, khó tránh khỏi rơi đầu.

Gặp thoáng qua như sắc núi chạm mây, ve qua cỏ xanh...

Thản nhiên, tựa như gần lại xa. Địch Thanh đã định cất bước đi tới, cổ kiệu đột nhiên dừng lại. Trên vai Qua Binh khẽ dựng lên, Hàn Tiếu tươi cười ngưng lại, chỉ có Địch Thanh vẫn bất động thanh sắc, liếc qua kiệu nhỏ.

Màn kiệu vén ra, quả nhiên hiện ra màu tím quen thuộc, như đinh hương nở rộ. Đan Đan xuống kiệu, nhìn về hướng Địch Thanh, giống như là cô đang nhìn Địch Thanh, lại nhìn về hướng núi xanh liền mây.

Vẫn cao ngạo như trước, vẫn phóng khoáng như trước. Nhưng trong bảy phần cao ngạo, chứa lẫn một phần phiền muộn, hai phần tiều tụy.

Người Đan Đan lạnh giống như băng sơn, trong trong ánh mắt lại có chán nản và có tưởng niệm.

Cô ấy đang tưởng niệm gì?

Địch Thanh không nghĩ ngợi nữa, cũng không có nhìn nữa, hắn dời ánh mắt đi, tuyệt không phải vì cảm thấy Đan Đan có thể nhận ra hắn.

Đan Đan cuối cùng dời ánh mắt đi. Địch Thanh đã thay đổi trang phục, cô ấy đương nhiên nhận không ra. Nhưng tại sao cô ấy muốn xuống kiệu, chẳng lẽ... ở đây từng có kỷ niệm?

Thật lâu sau, binh Hạ không nói, cũng không dám khuyên. Đan Đan đột nhiên kéo mép váy, nhảy bước chân chạy về hướng chân núi.

Quân Hạ hộ vệ đều biến sắc, nhưng hô cũng không dám hô, chỉ có thể thấp giọng hô lên, hộ vệ giải tán ra. May là vừa nhìn chỗ cỏ xanh vô ngần không ai ẩn núp, cũng không có thích khách.

Địch Thanh vô cùng kinh hãi, không hiểu Đan Đan muốn làm gì. Cho dù hắn đoán được tâm cơ của Phi Ưng, nhưng lại nhìn không thấy tâm tư của Đan Đan.

Đan Đan ngồi xổm xuống, ngồi xổm trong cỏ xanh, nhặt khối đá vụn lên, đang vẽ gì, lại giống như đang nhìn gì, hồi sau cô đứng dậy xuống núi, vào cổ kiệu.

Cổ kiệu nâng lên, đám người đó đi xa.

Địch Thanh nhìn cổ kiệu đó biến mất không thấy, xoay người muốn đi, Hàn Tiếu đột nhiên nói:

- Cô gái này lúc nãy hình như đang viết cái gì, chính là bên bụi hoa đỗ quyên đó.

Địch Thanh hơi giật mình, lắc đầu nói:

- Cô ấy viết cái gì? Không liên quan chuyện của chúng ta.

Qua Binh có chút tò mò, nói:

- Địch tướng quân, thuộc hạ đi xem thử.

Y biết Địch Thanh sẽ không ngăn, bay vút qua, lát sau trở về nói:

- Hàn Tiếu nói không sai, cô gái đó quả thật viết mấy chữ kỳ quái.

Địch Thanh không nhẹ lòng hỏi,

- Viết cái gì.

Vẻ mặt Qua Binh cổ quái, hồi lâu sau mới nói:

- Cô ấy viết là hoa lặng lẽ nở, tại sao ngài đến?

Địch Thanh chấn động, lại ngây người.

Hoa lặng lẽ nỡ, tại sao ngài sẽ đến?

Tại sao Đan Đan muốn viết câu này? Chẳng lẻ lúc nãy Đan Đan công chúa đã phát hiện Địch Thanh hắn đến. Cô ấy là làm sao phát hiện, Địch Thanh khóe miệng lộ ra nụ cười chế giễu, thầm nghĩ nói:

- Cô ấy nói, không thấy được là Địch Thanh ta rồi.

Địch Thanh tâm tình phức tạp, cuối cùng cất bước tới chỗ lúc nãy Đan Đan viết. Qua Binh nói không sai, bên cạnh một bụi hoa đỗ quyên, trên một chỗ đất cát bằng Đan Đan công chúa dùng đá vụn viết chính là mấy chữ đó.

Có lẽ sau khi gió thổi qua, cuối cùng bụi đất che lại nét chữ. Nhưng chữ trước mắt này, tựa như đã nói qua, luôn tồn tại, không ở bên tai trên đất, chỉ ớ trong óc trong tim.

Gió nhẹ hây hây thổi, hoa trên núi lay động, chữ viết vẫn còn, người đã không còn, chỉ có hương hoa nương theo gió mà đi. Từ trên núi xanh xanh đó thổi qua, lướt qua người đó đi về hướng đông, tới bên kiệu nhỏ đó lay động.

Cái kiệu lắc lư, người trong kiệu lạnh lùng không thay đổi, chỉ là đang nhìn bàn tay như ngọc. Mười ngón tay nhỏ dài, còn lưu lại mùi thơm của bùn đất. Đóa hoa lặng lẽ nở, nhưng ngườisẽ đến cuối cũng vẫn phải đi.

Nếu đã như vậy, găp nhau chi bằng không gặp, hay có lẽ, gặp nhau chi bằng hoài niệm?

Hoa nở hoa tàn, cỏ xanh xào xạc, trong nháy mắt lại đến mùa sương mới nhuộm rừng phong, cỏ dại vàng khô. Làn thu dâng lên, xung quanh trại An Viễn Tần Châu đầy cô tịch.

Tiếng gió lên, chinh phạt đầy trời.

Mặt trời chưa kịp lặn, cửa trại trại An Viễn sớm đã đóng chặt, quân dân trong trại tiêu điều lành lạnh giống như thu. Bên cạnh một tửu quán phía đông trại An Viễn, tà dương chiều muộn, gió xé cờ quán rượu, vù vù bay.

Lúc này chưa tới giờ cơm tối, trong tửu quán chỉ có một khách uống rượu.

Khách uống rượu đó đội cái mũ mềm, quần áo nghèo túng, gục ở trên bàn, không chờ trời tối hình như đã ngủ rồi.

Khách uống rượu cũng không gây người ta chú ý, nằm ở trước bàn làm người ta nhìn không thấy mặt. Bên hông y còn tùy tiện dắt một đơn đao, đơn đao cổ xưa, nghèo túng giống như khách uống rượu.

Ông chủ của tửu quán đang nhìn về khách uống rượu cúi xuống ngủ đó, nhíu mày. Nhưng nhìn bạc vụn trên tay, lại lắc đầu, lẩm bẩm:

- Đại hảo nam nhi, cả ngày nay uống rượu tới say mèm?

Lúc này mặt trời chiều tiêu điều, sau một tiếng chuông vang lên trại An Viễn tĩnh mịch hơi có chút náo nhiệt.

Có một số quân dân từ đằng xa đi tới, tụm năm tụm ba đi vào quán rượu ngồi xuống, tùy tiện lấy chút rượu, rồi ướp chút đồ ăn với cơm.

Tiếng chiêng là tín hiệu của thủ quân giao ban. Binh lính canh giữ trại cả ngày, dân chúng làm đồng cả ngày, đều mượn thời gian nghỉ tạm tới tửu quán lân cận uống mấy ngụm rượu.

Bất luận trại binh hay là dân chúng, đều mặt co mày cáu đang uống rượu buồn, không biết ở đâu truyền tới tiếng sáo trúc Khương xa xa, tràn đầy thê lương. Những người đó đang nghe tiếng sáo trúc tràn đầy nỗi nhớ quê hương, có người còn thỠnặng nề, lẩm bẩm nói:

- Ngày tháng này, khi nào mới kết thúc?

Quân Hạ đại thắng Hảo Thủy Xuyên, Kính Nguyên Lộ khổ sở vùng vẫy. Tần Châu chính là nơi tiếp giáp, cũng là sợ bóng sợ gió, trông gà hóa cuốc, cả ngày vây thủ. Trại An Viễn rất nhiều quân thủ, vốn là từ phía bắc rút về, nghe tiếng sáo trúc vang lên khó tránh khỏi nhớ quê hương.

Lúc này ven đường đi đến một người mù, bên cạnh còn có một cô gái.

Người mù mặt đầy tang thương, trong tay đang cầm hai khối lê hoa bản, nhẹ nhàng gõ. Tiết tấu tuy là đơn điệu, lại có ý cổ tang thương. Cô gái đó trên tay đang cầm một cây đàn tỳ bà, khuôn mặt mỹ lệ, quần áo mộc mạc, chải tóc hai bím dài.

Thấy hai người này giống như là ông cháu sống nương tựa lẫn nhau, làm người ta vừa thoạt nhìn ẩn sinh sự thông cảm.

Có quân trại nhìn thấy, hô:

- Giang lão hán, đến đúng lúc nói chuyện chút đi.

Quân trại đều nhận ra hai ông cháu này. Ông lão mù họ Giang, cô gái đang cầm tỳ bà kia tên Lộ Nhi. Ông cháu này lưu lạc tứ xứ, nghe nói vốn ở tây bắc, vì nhớ cố thổ, cuối cùng về tới cảnh Tống, lấy nghề hát rong kể chuyện để sống, bây giờ thì đang ở trại An Viễn.

Lỗ Nhi dẫn ông nội tới cái ghế dài ngồi xuống, hỏi:

- Các vị khán quan, hôm nay muốn nghe những gì?

Có một đàn ông mặt dài nói:

- Hôm qua đang nói mấu chốt, hôm nay đương nhiên vẫn là nói cuộc chiến Hảo Thủy Xuyên rồi.

Người đàn ông đang cúi đầu ngủ hình như động đậy, nhưng cuối cũng không có ngẩng đầu.

Quân trại đều nhìn người đàn ông lạ mặt đó, không biết đó là ai, nhưng không ai có tâm tư hỏi. Bây giờ chiến tranh khói bụi, không biết có bao nhiêu người đàn ông tây bắc du đãng như vậy, ai quản được nhiều?

Lộ Nhi nói với ông lão mù:

- Ông nội, bọn họ muốn nghe câu chuyện của những anh liệt đó.

- Không phải là chuyện xưa, chỉ là chuyện đã qua.

Ông lão đó khàn khàn cổ họng, gõ nhẹ lê hoa bản, hát:

- Tắc hạ thu lai phong cảnh dị, hành dương nhạn khứ vô lưu ý. Tứ diện biên thanh liên giác khởi, thiên chướng lý, trường yên lạc nhật cô thành bế! Trọc tửu nhất bôi gia vạn lý, yến nhiên vị lặc quy vô kế. Khương quản du du sương mãn địa, nhân bất mị, tương quân bạch phát chinh phu lệ! (BTV đã dịch nghĩa ở phần trước).

Giọng ông lão tang thương, Lộ Nhi nhẹ nhàng gảy tỳ bà, ngữ điệu không bàn mà hợp ý nhau.

Tửu quán mọi người nghe rồi, chỉ cảm thấy làn điệu tràn đầy thê lương bi tráng, nhìn xa xa tà dương chói rọi, trong lòng bi thương.

Ông lão hát xong, Lộ Nhi phụ họa nói:

- Ông nội, ca khúc của ông là ca khúc gì?

Ông cụ nói:

- Đây là lời của Phạm công, lão đây nhất thời hứng khởi hát ra, hát không hay, xin chư vị khán quan chớ để ý.

Có một người đàn ông người mặc áo tang nói:

- Hát hay đấy. Ông lão, Phạm công ông nói chính là Phạm Trọng Yêm đại nhân hả?

Ông lão nói:

- Trên đời này, không phải là có một Phạm công sao?

Người đàn ông mặt dài nói:

- Vậy cũng không phải, vốn còn có một lão tử Đại Phạm.

Mọi người mỉm cười nói, bên cạnh có người nói:

- Ta nói chính là Phạm Ung, ha ha...

Người đó muốn nóithôi, tràn đầy khinh miệt.

Lộ Nhi bên cạnh hé miệng cười khẽ nói:

- Lão tử đại Phạm không bằng lão tử tiểu Phạm đâu. Lúc đó Phạm Ung, làm Tam Xuyên Khẩu thảm bại, biên cương sa sút. Nhưng từ khi Phạm công... cũng chính là sau khi lão tử tiểu Phạm đến, chỉnh đốn biên thùy, trước xây thành Đại Thuận, phá thành Kim Thang, vây Hựu Châu, lấy trại Thừa Bình. Tới bây giờ, lại lấy lại trại Kim Minh, đất mất của lão tử đại Phạm, toàn được Phạm công thu lại. Không chỉ thế, còn đào mấy khối biên giới của người Hạ.

Mọi người nghe đến lòng đầy sôi sục, người đàn ông mặt dài vỗ bàn nói:

- Nói rất hay, bằng không quân Hạ biên thùy khuyên bảo nhau, nói cái gì lão tử tiểu Phạm trong bụng có mấy chục ngàn binh giáp, không dễ bát nạt như lão tử Đại Phạm.

Người mù thở dài nói:

- Đáng tiếc tây bắc chỉ có một Phạm công. Mọi người trầm lặng, có người cũng thở dài theo. Người mù lại nói:

- Ông lão ta lúc nãy hát ca từ đó, vốn là ngày Phạm công mới tới biên thùy, cảm thấy tây bắc tiêu điều. Ta theo lời gió, phần lớn là nhu mì không xương, duy chỉ có Phạm công quét qua tinh thần suy sụp. Lão đây trước kia cũng hát ca từ của Liễu Thất, nhưng bây giờ càng thích của Phạm công. Đáng tiếc, Phạm công chỉ có một, ông ta tài hoa hơn người, ca từ làm lại không nhiều.

Lộ Nhi bên cạnh nói theo:

- Có lẽ, Phạm công có tài, lại là đại tài, tâm tư phần lớn đặt ở biên thùy, do đó không có lòng dạ nào làm thơ nữa.

Thì ra hai ông cháu sống nương tựa lẫn nhau đó, hát rong kể chuyện cũng là như vậy. Người mù đó chủ yếu phụ trách kể và hát, còn cô gái Lộ Nhi bên cạnh hát đệm theo, quân trại sớm đã quen.

Hồng nhan đầu bạc trong trẻo lại tang thương, ngược lại đã trở thành phong cảnh độc đáo của trại An Viễn.

Người mù nói:

- Lộ Nhi, con nói cũng đúng. Nhưng hôm nay chúng ta nói không phải là Phạm công, mà là một người đáng nói trong cuộc chiến Hảo Thủy Xuyên.

Lộ Nhi nháy mắt nói:

- Đó là ai chứ?

Đột nhiên vỗ tay nói:

- Ông nội nói chính là Hàn Kỳ sao?

Mọi người trầm lặng xuống, trên mặt có vẻ khác thường.

Người mù lắc đầu nói:

- Ưu khuyết điểm của Hàn công, làm sao lão đây có thể nói, ông lão ta không dám nói đâu.

Trong giọng ông lão tràn đầy thổn thức, mọi người cũng nghe ra trong giọng người mù còn có chút bất mãn.

Lộ Nhi suy tư hồi lâu, đột nhiên nói:

- Ông nội, cháu biết ông muốn nói người nào. Cháu nghe ông nói rồi, trận chiến Hảo Thủy Xuyên, quân Tống tuy bại, nhưng có quá nhiều bi khí huyết lệ. Ví dụ như Nhâm Phúc đại nhân quyết chiến Hảo Thủy Xuyên với quân Hạ, trước lúc sắp chết người bên cạnh khuyên ông ta chạy trốn. Ông ta nói cái gì “ta là đại tướng, binh bại, lấy cái chết đền nợ nước!” kết quả chiến tử tại Hảo Thủy Xuyên. Ông chính là muốn nói Nhâm Phúc đại nhân phải không?

Giọng cô rất mềm giòn, nhưng lúc nói lấy cái chết đền nợ nước, leng keng có lực, mọi người nghe thấy, đều là nhiệt huyết kích động.

Người mù thở dài, nói giọng khàn khàn:

- Trận Hảo Thủy Xuyên, đều nói là Nhâm Phúc khinh binh liều lĩnh, xông vào mai phục của quân Hạ, dẫn đến thảm bại. Nhưng trước khi ông ta chết, cuối cùng dốc sức chiến đấu hi sinh cho tổ quốc, lão cũng không nói nhiều.

Lộ Nhi hất bím tóc dài, lại nghi ngờ nói:

- Vậy ông nói hơn phân nữa là Vương Khuê Vương tướng quân rồi... Cháu nghe nói ông ta vốn không cần chết, ông ấy trú quân thành Dương Mục Long, chỉ vì nghe Nhâm Phúc tướng quân bị vây, dẫn quân tới giải vây. Trận doanh của quân Hạ dày đặc, ông ấy xông vào bốn lần, lại không xông qua được trận địa quân địch. Ai cũng mệt mỏi, mệt, sợ, thậm chí có một số binh sĩ, đều không muốn xông lên nữa. Chỉ có ông ta khấu đầu về phía Đông, nói “thần không phụ nước, kỳ thực lực không thể... thần không dám cầu người bên cạnh chịu chết, chỉ có thể một mình chết đền nợ nước!” Sau khi ông ấy nói xong, thì một mình giết vào doanh Hạ, lại giết hơn mười người, lúc này bị loạn tên bắn chết, loại anh liệt này, tại sao không nói chứ?

Mọi người nghe giọng điệu du dương của Lộ Nhi nói, trong mắt lộ ra ý hồi tưởng. Người đàn ông mặt dài lại cúi đầu, tràn đầy vẻ xấu hổ.

Người mù nói:

- Hôm qua không phải nói rồi? Hôm nay nói lại, sợ mọi người chán ghét.

Đôi mắt Lộ Nhi trong veo như nước, thở dài:

- Đúng vậy, nhưng chuyện của ông ấy, cháu nói thêm hàng trăm lần cũng không mệt.

Đột nhiên lại nói:

- Nhưng Vương Khuê thật sự... không cần chết. Nếu ông ấy rút lui, quân Hạ cũng vô lực bao vây ông ta. Tại sao ông ta... tại sao như vậy chứ?

Trên mặt người mù tràn đầy bi thương, chậm rãi nói:

- Có người không làm, có người phải làm. Có những người, biết rõ phải chết, cũng sẽ chịu chết. Người Tống suy nhược lâu, biên thùy ăn nhiều đánh bại, thiếu không phải là người, mà là nguồn huyết khí phải đấu. Nếu ai nấy tự bảo vệ mình, gặp nguy không cứu, vậy người biên thùy khó bảo toàn. Người có lòng đều biết rõ điều này, do vậy Nhâm Phúc có nạn, Lý Giản đi viện, Vương Khuê chịu chết. Có lẽ không vì người bên cạnh, mà chỉ muốn nói cho quân Hạ, trong người Tống, cũng có rất nhiều đàn ông liều mạng như ông ta. Ông ta tuy chết rồi, nhưng thành Dương Mục Long lại bảo vệ được. Quân Hạ tuy nhiều lần phá trại Bảo của Kính Nguyên Lộ, nhưng mãi tới bây giờ, vẫn không xông vào thành Dương Mục Long nhỏ nhoi mấy ngàn người canh giữ! Tại sao? Vì Vương tướng quân không phụ thiên hạ, người thiên hạ không phụ Vương tướng quân.

Mấy câu cuối cùng của người mù nói âm vang có lực. Ông mắt tuy mù, nhưng lòng không mù, trên mặt đã có hào quang, như ánh mặt trời chiều ngày thu.

Mặt trời chiều đã lặn, mây tàn như máu, nhưng có phần rạng rỡ như vậy cũng vui.

Mọi người máu đã nóng, trong lòng kích động

Lộ Nhi tâm tư buông thả, khẽ gẩy tỳ bà, hồi lâu mới nói:

- Vậy được, thì không nói Nhâm đại nhân và Vương tướng quân. Vậy ông nội rốt cuộc muốn nói gì, cháu thật sự đoán không ra?

Người mù nhẹ nhàng gõ lê hoa bản, ho tiếng khô khan mới nói:

- Ta hôm nay muốn nói lại là một Hành doanh Tham quân ở Hảo Thủy Xuyên, tên Cảnh Phó.

Lộ Nhi lắc đầu nói:

- Không có nghe nói tên của người này, nghĩ là các vị khán quan đối với người này cũng lạ l뭠đấy?

Người đàn ông mặc áo tang nói:

- Cô nương nói sai rồi, rất nhiều người biết Cảnh Tham quân Cảnh Phó. Ông ta là thuộc hạ của Nhâm đại nhân, cùng chiến tử với Võ Anh đại nhân ở Lung Lạc Xuyên. Ông ta tuy là văn nhân, nhưng nếu nói lòng mãnh liệt, không thua người bên cạnh.

Tiếng “leng keng” của người mù vang lên, bên cạnh nói tiếp:

- Đúng vậy, mãnh liệt của người này, không xem dũng mãnh, không xem sự tích, không xem quan chức, chỉ xem một trái tim lựa chọn phải trái rõ ràng. Cho dù là thư sinh tay trói gà không chặt, có thể khăng khăng chịu chết, cũng đáng được ông lão nói, để càng nhiều người biết.

Mọi người im lặng nghe, mọi người lại nhìn người đàn ông đang cúi đầu ngủ, trong mắt lại lộ ra ý tò mò.

Người mù ho nhẹ tiếng, tiếp tục nói:

- Trận chiến Hảo Thủy Xuyên, Nguyên Hạo dùng hàng chục ngàn kỵ binh tinh nhuệ, toàn bộ ba ngàn Thiết Diều Tử bao vây hàng chục ngàn binh mã quân Tống. Nhâm Phúc bị bao vây, Võ Anh, Chu Quan hai bộ mấy lần bị binh mã thiết kỵ quân Hạ bao vây ở Lung Lạc Xuyên. Quân Tống người ít ngựa cũng ít, bình nguyên trống trải không chỗ trốn tránh, chỉ có thể bày trận ngăn cản thiết kỵ đối phương tấn công. Nhưng cung tên sớm đã hết, lúc này Võ Anh đã trúng một mũi tên, biết không được rồi, liền bảo Chu Quan suất bộ đột vây, ông ta đến cản phía sau. Lúc đó Cảnh Tham quân Cảnh Phó ở bên cạnh Võ Anh, Võ Anh bảo Cảnh Phó đi trước.

Lộ Nhi nói tiếp:

- Ông nội, Võ Anh này cũng là một hảo nam nhi.

Người mù thở dài:

- Ông ta là hảo nam nhi, nhưng cũng không chặn nổi quân Hạ như sói. Ông ta tuy anh hùng chiến đấu hăng say, nhưng nghe nói... sau đó ông ta chết dưới đao của La Hầu Vương quân Hạ.

Người đàn ông cúi đầu ngủ toàn thân hơi rung, đột nhiên ngẩng đầu liếc nhìn người mù. Lộ Nhi thoáng nhìn thấy, trong lòng hơi sợ. Thầm nghĩ đôi mắt của người này sắc bén, thấy gò má người đó có hình xăm, thì ra cũng là một quân nhân.

Mọi người đều bị người mù nói cho hấp dẫn, không có để ý người đàn ông đó.

Tầm nhìn Lộ Nhi vẫn không rời khỏi mặt người đàn ông đó, thầm nghĩ: “Người đàn ông rất anh tuấn, cố tình quá tang thương như vậy. Cô và ông nội kể chuyện hát rong, vào nam ra bắc, quả thật thấy qua không ít nhân vật. Nhưng ít anh tuấn mà tang thương, ít tang thương mà anh tuấn. Văn nhân nhu nhược nhiều, võ nhân thô lỗ nhiều. Duy có người đàn ông đó, thái dương tóc đã bạc, trên mặt đầy phong sương, vầng trán có sẹo, hai má hình xăm, hẳn là người luyện võ nghèo túng. Cố tình nhìn kỹ mới phát hiện y thật sự tuấn lãng vô cùng.

Người đàn ông nghèo túng tang thương đó, vốn là một người đàn ông cực kỳ anh tuấn.

Nhưng lúc nhìn người đàn ông đó, lại làm không ít người chú ý sự anh tuấn của y, chỉ để ý đôi mắt bất khuất của y. Y một khuôn mặt phiền muộn tẻ lạnh.

Y tuy đang nghe kể chuyện, tuy trong đám người, nhưng vẫn cô đơn. Đôi mắt của y, vẫn sáng như tinh tú trên trời, nhưng trong đôi mắt này, lại như mông lung, che dấu không biết bao nhiêu đời này kiếp trước.

Lộ Nhi vốn chỉ là liếc nhìn, ánh mắt khó dời đi. Cô dựa vào tâm tư tinh tế của nữ nhân, thì biết chuyện bản thân của người đàn ông này. Nhất định so với chuyện mà ông nội kể phải phấn khích sảng lạnh gấp trăm lần.

Thậm chí cô quên giúp ông nội kể chuyện, chợt thấy người đàn ông đó nhìn cô.

Lộ Nhi cúi đầu, chỉ cảm thấy trong mắt lóe lên tia điện, có ma lực không nói ra được, không dám nhìn nữa.

Người mù đó dường như mơ màng nghĩ cuộc chiến Lung Lạc Xuyên. Không có để ý biểu lộ của cháu gái, lê hoa mộc cũng quên gõ, lại nói:

- Trước khi Võ Anh chết, từng khuyên Cảnh Phó chạy trốn. Cảnh Phó không nói, Võ Anh vội nói: “Anh là người luyện võ, binh bại thì chết. Quân văn sứ, không ai trách, hà tất chết cùng Anh?

Người đàn ông nghèo túng đột nhiên mở miệng, giọng khàn khàn hỏi:

- Cảnh Phó nói thế nào?

Trong thần sắc gã, lại có chút nhớ lại. Gã nhớ rõ lúc gã ở trại Cao Bình, bị Hàn Kỳ xem thường, Cảnh Phó cũng từng ra mặt vì gã.

Người mù nói:

- Cảnh Tham quân cái gì cũng không nói, chỉ là dũng cảm tiến lên. Sau khi Võ Anh chết, Cảnh Tham quân lại lãnh quân cầm cờ đích thân dẫn tàn quân tác chiến cản ở phía sau. Ông ta vốn là văn nhân, ai cũng không biết khí lực của ông ở đâu mà có, nhưng dù sao ông cũng là văn nhân, rất nhanh chết trong loạn quân.

Người đàn ông nghèo túng hơi giật mình, thở dài một hơi nói:

- Nói rất hay

Mọi người cảm thấy kỳ quái người đàn ông trả lời, vì Cảnh Phó rõ ràng cái gì cũng không nói.

Lộ Nhi cũng đã hiểu, nói:

- Vị này... quan nhân là nói, Cảnh Tham quân tuy cái gì cũng chưa nói, nhưng so với nói vô số lời hào hùng còn đáng hơn. Trên đời này vốn có loại người, không cần nói gì, nhưng cho dù một câu họ cũng không nói, cũng có vô số người ghi nhớ họ!

Người đàn ông nghèo túng nói, tỏ ý khen ngợi, trong mắt đã có phần chiến ý. Võ Anh chết trong tay Dã Lợi Trảm Thiên. Y và Dã Lợi Trảm Vương cuối cùng còn có một trận chiến. Nhưng Dã Lợi Trảm Thiên không phải vẫn cùng ở chỗ Phi Tuyết, sao lại trở về trong quân doanh của người Hạ.

Người mù nói:

- Lộ Nhi, câu nói này của cháu không những thích hợp với Cảnh Tham quân, còn hợp với Địch tướng quân.

Ánh mắt Lộ Nhi đã sáng lên, tai của mọi người đều dựng lên.

“Địch Thanh” hai chữ này, đã làm ánh nắng chiều nơi chân trời phai màu. “Địch Thanh” hai từ này, không những có ma lực, cũng tiêu biểu cho hy vọng của biên thùy.

Lộ Nhi nói:

- Ông nội, thời gian còn sớm, ông hãy nói chuyện cũ của Địch tướng quân đi. Cháu nghĩ người ở đây, đều muốn nghe chuyện của Địch tướng quân đấy.

Người đàn ông mặc áo tang nói:

- Đúng vậy, lão gia tử, nếu ông nói chuyện của Địch tướng quân, ta cho dù nghe ba ngày ba đêm cũng không phiền chán...

Y vì muốn nghe chuyện, mà sửa cách xưng hô với người mù.

Mọi người tâm tình kích động, đều là có chút chờ đợi. Chỉ có người đàn ông nghèo túng cuối đầu xuống, tự cười chế giễu.

Người mù gõ lê hoa bản nói:

- Sự tích của Địch tướng quân. Ta nói ba ngày ba đêm cũng nói không hết. Đều nói Phạm công mấy ngày này, công tích vô song. Nhưng rất nhiều người đều biết, nếu ông ta không có Địch tướng quân giúp đỡ, cũng rất khó đối kháng với quân Hạ như hổ như sói. Địch tướng quân trải qua trăm trận chiến khó bại, phá trại Hậu Kiều, công thành Bạch Báo, lấy Kim Thang, náo chợ Diệp, đốt Hạ Lan Nguyên, tàn sát hãn tộc người Khương, thậm chí hàng loạt loạn phủ Hưng Khánh, ác chiến Hạ Lan Sơn, viễn chiến Ngọc Môn Quan... hoành đao lập mã. Quân Hạ rất nhiều người nghe tên của Địch tướng quân, thậm chí không dám đánh với ngài ấy. Những chuyện này, làm sao ba ngày ba đêm có thể nói hết?

Mọi người nghe chuyện Địch Thanh ngựa dẫm quan sơn, hoành hành nơi biên thùy, mắt đều sáng lên, hướng về sự anh dũng của Địch Thanh. Duy chỉ có người đàn ông nghèo túng nói:

- Lão trượng, có lẽ ông nói có chút khoa trương. Theo ta biết, có những chuyện tuyệt không phải Địch Thanh làm.

Người đàn ông mặc áo tang vỗ bàn, quát:

- Ngươi nói cái gì? Ngươi dám nói không phải của Địch tướng quân?

Mọi người cũng tức giận nhìn người đàn ông nghèo túng, đều là cực kỳ bất mãn. Nhìn dáng vẻ của bọn họ, cho dù mình chịu nhục, cũng không chịu để người bên cạnh nói xấu Địch Thanh.

Người đàn ông nghèo túng đó nhìn người đàn ông mặc áo tang nói:

- Ta cũng không có nói không phải của hắn...

Người mù nói:

- Vị quan nhân này, ngài nói ông lão không sao cả. Nhưng lão dám nói, công tích của Địch tướng quân, chỉ nhiều hơn lão kể ra, sẽ không ít hơn ông lão nói. Ai dám nói ông lão nói không đúng?

Mọi người đều gật đầu nói:

- Đúng vậy, Địch tướng quân chính là người đàn ông nói ít làm nhiều. Sự tích của ông ta, chỉ có nhiều hơn ông lão nói, mà không phải ít hơn.

Người đàn ông nghèo túng chỉ có cười khổ.

Người đàn ông mặc áo tang thần sắc tức giận, không để ý đến nữa. Người mù không muốn mọi người làm loạn, đã gõ lê hoa bản nói:

- Chuyện khác tạm thời không nói nữa, thì nói những ngày trước khi Địch tướng quân đại loạn phủ Hưng Khánh, từng lưu lại một bài hát...

Ông chưa nói xong, Lộ Nhi đã gãy tỳ bà lên, làn điệu dâng trào, giống như binh giáp âm vang.

Ông lão khàn khàn giọng nói:

- Cuộc đời nam nhi này nhẹ thanh danh. Bảo kiếm bên hông nặng hoành hành...

Không đợi ông lão hát xong, người đàn ông mặc áo tang đã dùng chiếc đũa gõ lên bàn cùng hát:

- Chảy không hết máu anh hùng, giết không hết hào hùng.

Hai người hợp xướng, trong giọng hát bi thương tràn đầy hùng tráng.

Mọi người nhẩm nhẩm theo:

- Chảy không hết máu anh hùng, giết không hết hào hùng...

Chẳng biết tại sao, trong bốn câu bình đạm thế này, hát ra không biết bao nhiêu huyết lệ anh hùng, chí khí hào hùng!

Đợi hát xong bốn câu này, người đàn ông mặc áo tang đó liếc xéo người đàn ông nghèo túng nói:

- Bài hát này chính là Địch tướng quân hát sau khi giết cao thủ người Hạ ở phủ Hưng Khánh. Bây giờ sớm do người Hạ truyền miệng tới Trung Nguyên. Ngươi dám nói bài hát này không phải là Địch tướng quân làm? Ngoại trừ Địch tướng quân ra, còn có ai có khí phách này?

Người đàn ông nghèo túng chỉ là bưng bát rượu, lẳng lặng uống hết. Y giống như cũng bị tiếng ca kích động, trong mắt đầy ý dâng trào.

Lộ Nhi thấy thế, giải vây nói:

- Ông ấy cũng không nói gì. Nhưng uy danh của Địch tướng quân lớn như vậy, nhưng vẫn đơn quân tác chiến. Nghe nói ông ấy bây giờ vẫn là Binh Mã Đô giám của Phu Diên Lộ, do vậy chuyện ông ấy có thể làm không nhiều. Nếu ống ấy có thể thăng lên mấy bậc, không biết còn phải làm ra bao nhiêu chuyện kinh thiên động địa.

Người đàn ông áo tang hai mắt sáng lên, lắc đầu nói:

- Lộ Nhi cô nương có điều không biết. Bây giờ Địch tướng quân sớm không phải Mã binh Đô giám. Ta nghe Phong trại chủ nói, trước đây Địch tướng quân bị người gian chèn ép, vẫn không thăng lên được. Nhưng từ khi Phạm công đến tây bắc, bẩm báo đúng sự thật công trận của ngài ấy, ngài ấy lúc này có thể lên chức một cách bình thường. Nếu là như vậy, bây giờ ngài ấy đã làm Phó đô bộ thự Kính Nguyên Lộ, kiêm phó kinh lược an phủ chiêu thảo sứ Kính Nguyên Lộ, phụ trách toàn bộ Kính Nguyên Lộ. Kính Nguyên Lộ nguy cấp, do vậy triều đình lệnh Địch tướng quân tiến đến tọa trấn, đối kháng người Hạ. Nghe nói mấy ngày nay Địch tướng quân muốn đến An Viễn, Phong trại chủ sớm ra ngoài nghênh đón rồi.

Mọi người bỗng nhiên biến đổi sắc mặt, phấn chấn hô:

- Địch tướng quân sẽ tới chỗ này? Thật hay giả? Cố Sơn Tây, ngươi đừng gạt bọn ta.

Lộ Nhi tiếc hận nói:

- Tại sao đều là chức phó chứ? Với khả năng của Địch tướng quân, cho dù làm một An phủ sứ đều có thể mà.

Người mù thở dài:

- Triều đình ta vốn là như vậy. Cần người luyện võ, nhưng vẫn sợ người luyện võ làm loạn, không chịu trọng dụng. Cho Địch tướng quân chức phó, chính là ý muốn khống chế chức chính.

Cố Sơn Tây lắc đầu cười nói:

- Người luyện võ của Đại Tống, với xuất thân binh nghiệp, có thể giống như Địch tướng quân làm tới vị trí như ngày nay, đã ít lại càng ít rồi. Ngài ấy bây giờ ở biên thùy, có giúp đỡ của Phạm đại nhân, không ai có thể trói buộc ngài ấy, ta nghe nói...

Còn chưa nói xong, phía tây trại đột nhiên truyền đến tiếng chiêng vang cấp bách.

Mọi người đều cả kinh, đứng lên nói:

- Không tốt, có quân tình khẩn cấp, tình cảnh hơi loạn.

Cố Sơn Tây đã nói:

- Đừng sợ, sợ gì, có địch đến, thì chúng ta đánh. Kể chuyện là chuyện của ông lão, còn tác chiến chính là chuyện của chúng ta.

Mọi người gật đầu, không đợi nói nhiều, cùng mấy người chạy ra như bay, Cố Sơn Tây thấy rồi, mặt có ý vui, hô:

- Phong trại chủ, ngài về rồi?

Người dẫn đầu đó, dáng người nhanh nhẹn dũng mãnh, mặt như quả táo nặng, cổ có vết sẹo đao, vẹo vào tai.

Vết sẹo giống như con giun vặn vẹo, thoạt nhìn có chút đáng sợ nói không ra lời. Nhưng tất cả mọi người đều không sợ, vì người của trại An Viễn đều biết, một đao này của Phong trại chủ là chống cự khi giao thủ với người Hạ.

Đối với người này, bọn họ chỉ có kính.

Phong trại chủ nhìn về phía này, quát:

- Cố Sơn Tây, Lưu Đao Nhi, có tình hình quân địch. Các ngươi đi theo ta, người còn lại, không được nghỉ ngơi, đều đi.

Cố Tây Sơn và người đàn ông mặt dài đều nghe theo lệnh, vỗ áo đi theo.

Phong trại chủ mệnh lệnh phát ra, mới đi về hướng tây trại, đột nhiên dừng lại xoay người, bỗng nhiên nhìn người đàn ông nghèo túng đó.

Mọi người chỉ thấy trên mặt Phong trại chủ lộ ra biểu tình vô cùng phức tạp. Giống như không tin, lại giống như kích động, còn mang theo ý bi thương vô tận...

Phong trại chủ từng bước đi tới người đàn ông nghèo túng, trong mắt đã rưng rưng, ra sức nói:

- Ngài đến rồi... ngài đến rồi...

Gã không biết nói bao nhiêu cái ngài đến rồi, nước mắt đã theo khóe mắt chảy xuôi xuống.

Mọi người tràn đầy hoang mang, mọi người đều biết xưa nay Phong trại chủ là người đàn ông đổ máu không đổ lệ. Vậy Phong trại chủ tại sao lại khóc?

Người đàn ông nghèo túng nhìn Phong trại chủ, thần sắc thổn thức, chỉ trả lời một câu:

- Ta đến rồi!

Hắn chỉ là ba chữ đơn giản, nhưng trong khẩu khí, lại có cảm thán và kiên định nói không ra.

Y bật ngồi dậy.

Lúc nãy hắn nằm phục xuống, cố sức uống rượu, chỉ có phiền muộn. Nhưng lúc hắn bật người dậy, đã có thể gánh cả núi cao.

Phong trại chủ tới trước mặt người đó, đột nhiên quỳ xuống đất, khàn giọng nói:

- Địch tướng quân, cuối cùng ngài tới rồi. Nhưng ngài đến muộn rồi, Võ đại nhân đã chết.

Bên tai mọi người ầm ầm như sấm rền, trên mặt mọi người đều lộ ra vẻ không tin.

Địch tướng quân? Là Địch tướng quân nào?

Dưới gầm trời này, còn có Địch tướng quân nào? Người đàn ông nghèo túng là Địch Thanh?

Người đàn ông nghèo túng đó đương nhiên là Địch Thanh!

Địch Thanh khẽ vươn tay đỡ Phong trại chủ lên, khóe mắt ươn ướt, nói:

- Phong Lôi, ta đến trễ rồi.

Phong trại chủ chính là Phong Lôi, cũng là thủ hạ của Võ Anh. Năm đó gặp qua Địch Thanh, cùng Địch Thanh chiến đấu, được Địch Thanh cứu. Bây giờ Võ Anh chết rồi, Phong Lôi làm trại chủ, ngay tại An Viễn.

Chuyện cũ như khói, tràn đầy mưu bụi, nhưng chuyện cũ rõ ràng giống như trước mắt.

Mọi người đã thấy ngây người, trên mặt Cố Sơn tây có chút kinh hãi, lẩm bẩm nói:

- Mẹ ơi, Ông ta là Địch Thanh? Lúc nãy ta còn quát lớn ông ta?

Phong Lôi rơi lệ không ngừng, nức nở nói:

- Trước khi Võ đại nhân chết, còn nhớ tới Địch tướng quân. Ngài ấy nói, nếu ngài chỉ huy, tuyệt đối sẽ không để những người này chết như vậy. Ngài ấy còn nói ngài ấy xin lỗi tam quân binh sĩ. Nhưng ngài ấy đã dốc toàn lực, ngài ấy cũng khuyên Nhâm Phúc chớ khinh tiến như vậy, nhưng Nhâm Phúc không nghe. Khi Võ đại nhân không khuyên nữa, thì bị quân Hạ bao vây.

Địch Thanh nhớ tới tình cảnh cùng Võ Anh kề vai tác chiến, tràn đầu đau buồn:

- Ta... cũng...

Hắn vốn muốn nói ta cũng tận lực rồi, nhưng cuối cùng nuốt lời nói trở vào trong.

- Giết ngài ấy chính là Dã Lợi Trảm Thiên.

- Ta biết.

- Trước khi Võ đại nhân chết, nói với ty chức một câu. Nói nếu ty chức vẫn còn sống thì chuyển lời cho Địch tướng quân.

Phong Lôi cắn răng nói.

- Ngươi nói đi!

Phong Lôi từng chữ nói:

- Võ đại nhân nói ngài ấy chết có tiếc, nhưng ngài ấy biết, Địch tướng quân ngài nhất định sẽ báo thù cho ngài ấy, báo thù chom tất cả tướng sĩ chết oan ở Hảo Thủy Xuyên. Ngài ấy nói... Ngài nhất định có thể làm được!

Mọi người đều nhìn Địch Thanh, chờ trả lời của Địch Thanh.

Địch Thanh nhìn qua mọi người, cười. Trong tiếng cười có nước mắt. Hắn nhẹ giọng nói:

- Các người tin ta, ta nhất định có thể làm được.

Có lúc, quyết tâm tuyệt không xem lớn nhỏ của giọng nói. Giọng Địch Thanh nói tuy nhẹ, nhưng tất cả mọi người đều nghe thấy, nghe thấy quyết tâm trong xương tủy.

Mọi người rưng rưng, có người đã rơi lệ, cho dù người mù đó, trong hốc mắt khô khô, cũng có ý ươn ướt.

Địch tướng quân nhất định có thể làm được, tất cả mọi người đều tin!

Phong Lôi ôm lấy Địch Thanh, người đàn ông cường tráng khóc thương tâm giống như đứa trẻ:

- Địch đại ca, đại ca không có đến trễ, đại ca đến sớm.

- Phải, ta đến sớm.

Địch Thanh giơ tay vỗ nhẹ lên ngực Phong Lôi, nói:

- Phong Lôi, bây giờ không phải là lúc khóc.

Phong Lôi lùi lại sau một bước, duỗi tay áo lau chút nước mắt nói:

- Phải, bây giờ không phải là lúc khóc. Địch đại ca, nếu nói cuộc chiến Hảo Thủy Xuyên, đại ca đến muộn. Nếu đại ca ở đây, làm sao có thể để Nguyên Hạo thực hiện được? Nhưng đại ca cũng đến sớm rồi. Vốn nghe tin quân, đại ca phải là hai ngày sau mới tới. Đệ nghĩ đại ca có thể sẽ tới sớm, nhưng nghe nói có quân Hạ ở lân cận thường xuyên lui tới, chỉ sợ An Viễn có chuyện, lúc nãy vội chạy đến.

Địch Thanh nói:

- Ta không chờ được. Nghe nói ngươi ở An Viễn, muốn gặp ngươi, cho nên tới sớm hai ngày. Ta không gặp được ngươi, không muốn quấy nhiễu người khác, bởi vậy ở đây chờ tin tức.

Mọi người lúc này mới hiểu ý đến sớm đến muộn trong lời hai người nói, thổn thúc không ngừng.

Tất cả mọi người đều nhìn Địch Thanh, nhìn anh hùng của truyền thuyết, không tin hắn nghèo túng tuấn lãng như vậy, lại thấy được đôi mắt tràn đầy chiến ý, lại tin chỉ có người đàn ông này, mới là anh hùng trong lòng họn họ.

Không chảy hết máu anh hùng.

Máu anh hùng đây, ý chí chiến đấu đây, ý chí chiến đấu Địch Thanh đây, hào khí đây! Máu chảy không hết, ý chí chiến đấu không ngừng. Một tiếng chiêng vang đó đã dồn ép vào tai, nhưng Địch Thanh hoàn toàn không có chút khẩn trương. Nếu không có can đảm khí khách của trăm chiến thành thép, làm sao có thể điềm tĩnh không biến sắc trước núi lở như vậy?

Có quân sĩ đã phi nước đại nói:

- Phong trại chủ, có ngàn người ngựa quân Hạ tới phía tây trại, xin ngài đi nhanh.

Phong Lôi phẫn nộ quát:

- Sợ cái gì? Ngươi đi nói cho Từ Tử Lang biết, bảo y cố giữ vững. Quân Hạ tiến vào một người, thì ta chém nó! Ngươi nói thêm cho Từ Tử Lang biết, chính là nói Địch tướng quân tới rồi, Từ Tử Lang nếu không phải hèn nhát, biết làm thế nào!

Quân sĩ kia liếc nhìn Địch Thanh, trong mắt tràn đầy kinh ngạc vui mừng, liên tục gật đầu, đi như bay.

Địch tướng quân đến rồi!

Năm từ này, dường như như gió truyền đến An Viễn, truyền khắp An Viễn.

Tửu quán mọi người đã sôi trào, trại An Viễn đã sôi trào. Mà ngay cả người mù đó mặt cũng hiện hào quang, nghiêng tai nghe, không chịu bỏ qua một câu nói của Địch Thanh, lại không dám tiến tới quấy rầy Địch Thanh. Lộ Nhi đôi mắt to trong veo như nước, càng nhìn chằm chằm vào người Địch Thanh, không chịu bỏ qua cơ hội gặp lần này.

Có những người bỏ lỡ rồi, còn có cơ hội vớt lại. Có những người, bỏ lỡ rồi, thì sẽ không thấy nữa!

Địch Thanh nghe khẩu khí của Phong Lôi như bạo phát, mỉm cười nói:

- Phong Lôi, nhiều năm qua, ngươi vẫn cuống cuồng như vậy.

Phong Lôi gãi gãi đầu, có chút xấu hổ. Ai cũng không thể ngờ Phong Lôi cũng có thái độ này, nhưng ai cũng đều nhận ra Phong Lôi đối với Địch Thanh tâm phục khẩu phục.

- Địch đại ca...

- Đi phía tây trại xem thử đi.

Địch Thanh nói.

Phong Lôi lập tức nói:

- Vâng.

Rồi quay đầu quát:

- Đi!

Gã cùng Địch Thanh sóng vai đi trước, tràn đầy phấn chấn, lại không có chú ý tới trong mắt Địch Thanh xẹt qua chút chần chừ.

Mọi người ở tửu quán đều đi theo Địch Thanh, phía sau Phong Lôi quân dân nghe hỏi cũng chạy theo.

Dòng người như nước, cuồn cuồn đi về phía tây trại.

Chỉ có người mù vẫn bất động, nói với cháu gái:

- Lộ Nhi, rốt cuộc Địch tướng quân hình dáng thế nào, cháu phải nói với ta.

Lộ Nhi vểnh chân nhìn về phía tây trại, nghe vậy vội nói:

- Ông nội, chúng ta cũng đi xem thử đi, lúc này sao ông không cho cháu đi cùng?

Người mù thở dài nói:

- Lộ Nhi, kể chuyện là chuyện của chúng ta, nhưng đánh giặc là chuyện của Địch tướng quân, liên quan gì cháu? Cháu mong Địch tướng quân thắng, thì không nên bám theo sau chân ngài ấy, cháu có thể làm gì?

Lộ Nhi bĩu môi, tuy là không vui, nhưng cuối cùng vẫn ngồi xuống, nói:

- Ông nội, ông không biết Địch tướng quân quả thật rất tuấn lãng...

Cô ấy nói chuyện, nhưng trái tim sớm đã bay tới phía tây trại. Chỉ là đang nghĩ, Địch tướng quân bây giờ thế nào rồi, ngài ấy nhất định không thể thua đâu!

Địch tướng quân không thể thua, Địch tướng quân sẽ không thua!

Tất cả mọi người đều là ý nghĩ này. Địch Thanh đã tới phía tây trại, lúc này mặt trời lặn phía tây, tan hết một phần ánh sáng cuối cùng.

Trời xanh đã tối, vẫn còn hơi mờ.

Có một tướng nghênh đón nói:

- Phong trại chủ...

Nhìn thấy Địch Thanh và Phong Lôi sóng vai đi, tỉnh ngộ đến nói:

- Vị này là Địch tướng quân sao?

Trong thần sắc y có chút chần chừ, chỉ vì Địch Thanh tuấn lãng không giống tướng quân ngàn quân hoành hành.

Phong Lôi mắng:

- Đương nhiên là Địch tướng quân, chẳng lẽ còn có Từ tướng quân ngươi sao?

Đó chính là Từ Tử Lang tướng thủ phía tây trại, vốn là chỉ huy sứ, nghe Phong Lôi quát mắng, Địch Thanh xua tay chặn lại, nói:

- Ta là Địch Thanh, bây giờ tình hình thế nào?

Từ Tử Lang nói:

- Quân Hạ có hơn ngàn người tới phía tây trại khiêu chiến. Mạt tướng vẫn đang thủ ở đây, nhưng bọn họ cũng không có công tới.

Địch Thanh lơ đãng nhíu mày:

- Có ngàn người?

Hình như hắn đang suy nghĩ cái gì, thần sắc có chút do dự.

Phong Lôi thấy thế, trong lòng khó hiểu, thấp giọng nói:

- Địch đại ca, có ba ngàn người trại An Viễn có thế tác chiến. Đại ca... là đến một mình sao?

Địch Thanh nhìn xung quanh, gật đầu nói:

- Ta đến vội, vốn là có chuyện khác, không ngờ gặp phải quân Hạ đến công.

Phong Lôi nói:

- Một mình đại ca đến thì đủ rồi. Năm đó một mình đại ca cũng đánh mấy trăm Thiết Diều Tử bỏ chạy, mấy chục người tới đốt trại Hậu Kiều. Binh lính của trại An Viễn có mấy ngàn người, cũng có thể đánh, toàn bộ do đại ca điều động.

Mọi người đều nhìn Địch Thanh, chỉ đợi một tiếng căn dặn của hắn.

Địch Thanh thấy binh lính tập hợp xung quanh trại, trong mắt lại có phần do dự. Phong Lôi thoáng nhìn, trong lòng hơi rét, lẩm bẩm nói:

- Địch tướng quân, ngài sao vậy?

Lúc này Phong Lôi phát giác, Địch Thanh hôm nay và Địch Thanh trước kia có chút không giống. Nếu là Địch Thanh trước kia, lúc này nói không chừng sớm dẫn người giết ra. Lúc này nhiều người, lại chiếm ưu thế, tại sao Địch Thanh ngược lại không có bốc đồng như trước.

Chẳng lẽ, vì Địch Thanh đã thăng tới Phó đô bộ thự?

Có người nói, chẳng phải là quan cao, thì lá gan nhỏ sao?

Địch Thanh nhìn thấy Phong Lôi muốn nói lại thôi, cười nói:

- Được, nếu đều do ta phái, vậy thì xuất chiến. Địch Thanh vừa nói xuất chiến, người trại An Viễn lại phấn chấn lên, thay nhau xin giết giặc.

Địch Thanh dùng tay vạch một đường nói:

- Bên tay trái theo ta xuất chiến, đánh lui địch đến.

Bên tay trái ước chừng có hai trăm người, nghe vậy kêu lên:

- Tuân lệnh.

Địch Thanh lại nói với Phong Lôi:

- Phong Lôi, ngươi cũng xuất chiến, thay ta chặn đầu trận tuyến.

Phong Lôi ưỡn ngực nói:

- Dạ, Địch tướng quân, mạt tướng có thể làm tiên phong.

Địch Thanh lắc đầu:

- Không cần.

Sớm có người cưỡi ngựa tiến đến, người đó lại là Hàn Tiếu. Địch Thanh nhìn thấy Hàn Tiếu, ánh mắt chớp động, tay vịn yên ngựa, ngón tay khẽ động.

Một bàn tay Hàn Tiếu cong duỗi biến hóa giống như đang nói gì. Địch Thanh thấy, trong mắt hiện lên phần phấn chấn. Hắn hỏi Hàn Tiếu, chỉ dựa thế của bàn tay thì trao đổi rất nhiều chuyện.

Hai người trao đổi cực kỳ mau lẹ đơn giản. Sau khi Địch Thanh trao đổi xong, thần sắc trở nên kiên quyết.

Cửa trại mở rộng, trong trại tiếng trống vang như sấm Địch Thanh dẫn hơn hai trăm kỵ binh đi trước, đội hình tuy yếu, nhưng khí thế không yếu.

Phong Lôi lại ở phía sau Địch Thanh dẫn gần ngàn người. Sau khi ra trại, bày trận trước trại.

Sau khi Địch Thanh ra trại, từ trên yên ngựa, lấy cái mặt nạ bằng đồng xanh mang lên mặt. Trong nháy mắt, một tướng quân tuấn lãng đó, trở thành Hình Thiên mặt mũi hung tợn.

Chúng quân Tống thấy, dũng khí đại chấn.

Đối diện chính là binh Hạ khiêu chiến, thấy quân Tống xuất quân, ngừng quát chiến, bày trận nghênh đón.

Kỵ binh quân Hạ không giống trận chiến của quân Tống, nhìn như cao thấp không đều. Nhưng Địch Thanh quét mắt qua, biết kỵ binh của đối phương đã bố trí thành thế trận công kích sắc bén.

Dưới tay Địch Thanh cũng có kỵ binh tinh nhuệ. Đương nhiên biết thời gian nào kỵ binh phát huy có lợi nhất.

Đối thủ không yếu.

Trong đầu Địch Thanh đã nhớ lại tin tức của Hàn Tiếu cho

- Linh Châu Đậu Duy Cát vây khốn thành Dương Mục Long, binh phá trại Tam Xuyên, trước mắt xuống phía nam chiến trại Tĩnh Biên, Đại Tống đã gần An Viễn...

Địch Thanh không cần nghĩ nữa, đối diện quân trận ba con ngựa lao ra.

Người cầm đầu đang cưỡi ngựa là một người đàn ông cường tráng. Người đàn ông đó cởi trần nửa người, ngực lộ ra giống như sắt nung, hai cơ bắp cánh tay lồi ra giống như rễ cây già.

Trên tay của người đàn ông cường tráng đó đang cằm cái búa phá núi, vừa nhìn thì có sự hùng tráng nói không ra lời.

Hai người đi phía sau người đàn ông, đương nhiên là giống như vậy, rất giống như là huynh đệ sinh đôi. Hai người đó đều là mặt gầy gò, mắt sáng quắc, thân hình tráng kiện, người mặc áo giáp, một cầm trường thương, một cầm chày sắt hộ vệ sau lưng người đàn ông, giống như thiên thần hộ pháp.

Địch Thanh thấy đối thủ chỉ ra ba ngựa, Tam Tiêm Lưỡng Nhận Đao vừa giơ lên. Ngựa Tống vẫn ngừng, Địch Thanh cầm đao thúc ngựa, đã đón tới.

Tiếng trống ngừng, gió đột nhiên thổi nhanh.

Gió đêm cuồng liệt, cuốn tung bụi bay đầy trời, lá thu bay nhẹ, tựa hồ cũng bị sát khí làm khiếp sợ, xa xa lay động.

Quân Tống nhìn tình hình trên trận, trong lòng đã nghĩ tới. Ai cũng biết người đàn ông cường tráng đó tuyệt không dễ đối phó, Địch Thanh so với người đàn ông đó đã yếu khí thế.

Quân Tống ở đây tuy đã sớm biết đại danh của Địch Thanh, nhưng dù sao chưa thấy qua Địch Thanh ra tay, khó tránh khỏi trong lòng lo sợ.

Địch Thanh cách ba người ngoài mấy trượng, đã ghìm chặt chiến mã, trầm giọng nói:

- Bọn ngươi phương nào?

Hắn hoành đao vừa vung, trong mắt mơ mồ có phần suy tư. Ánh măt xẹt qua người thanh niên trai tráng, liếc nhìn huynh đệ Lý Sinh, dời ánh mắt đi.

Thanh niên trai tráng không đợi nói nhiều, người đó bên trái hắn đã nói:

- Tướng đến chính là Địch Thanh sao?

Địch Thanh trong lòng hơi rét, thầm nghĩ mình đã tới trại An Viễn, đối thủ làm sao biết tin tức của mình nhanh như vậy? Nhưng hắn vừa suy nghĩ, mặt nạ lại che mất biểu hiện ở mặt, chỉ là gật đầu.

Người đó cất giọng nói:

- Tướng quân ta Đồ Vạn Chiến sớm nghe nói đại danh của tướng quân. Biết tướng quân tới An Viễn đặc biệt yêu cầu đơn độc đấu với tướng quân một trận.

Hai quân nghiêm nghị, không ngờ Quân Hạ đề ra yêu cầu này. Quân Hạ đề ra một yêu cầu Địch Thanh không thể cự tuyệt.

Quân Hạ yêu cầu đấu tướng!

Hai trận vừa lập, mỗi bên lấy tướng xuất đấu, gọi là đấu tướng. Đấu tướng không thường thấy, chiến trường thắng bại, đấu chủ bài binh bố trận, mọi người đồng lòng, mà không ở cái dũng thất phu của chủ tướng.

Từ xưa đến nay, những danh tướng như Hàn Tín, Bạch Khởi, Lý Tĩnh, tuy có chiến công hiển hách, danh lập cổ thiên, cũng do Thần Chuẩn chỉ huy, mà không dựa vào đơn lực kình thiên.

Tướng lĩnh chân chính, ít có đấu tướng như vừa nói. Nhưng người Hạ thượng võ, nếu đã đề xuất, Địch Thanh khó có thể cự tuyệt. Hắn là Đô bộ thự, nhưng hắn càng là chiến thần trong lòng quân Tống.

Hắn vốn là xuất thân binh nghiệp, có thể được địa vị ngày hôm nay, không phải nhờ vào phần đức tổ, mà là dựa vào hai nắm đấm đơn đao đánh ra quân công. Mọi người kính hắn, chính là vì dũng mãnh của hắn.

Nếu người Hạ yêu cầu giao thủ một đối một, Địch Thanh cũng không thể nghênh chiến, vậy hắn làm sao thống lĩnh ngàn quân?

Địch Thanh gần như không có do dự, trầm giọng nói:

- Được.

Lời vừa nói ra, màn đêm đã buông xuống, khắp nơi đốt lửa lên, ánh lửa sáng diệu, hào khí xông lên trời.

Đồ Vạn Chiến nghe thấy Địch Thanh ứng chiến, trong mắt đã dấy lên chiến ý như lửa. Búa lớn mở núi đó chậm rãi nhấc lên, lửa diệu xuống, hiện ra hàn quang như băng.

Địch Thanh vẫn là hoành đao vừa động, thần sắc tự nhiên, nhưng đôi mắt không khỏi nhìn chằm chằm cái búa lớn của Đồ Vạn Chiến.

Đồ Vạn Chiến? Trong quân Tống không có ai nghe qua cái tên này, Địch Thanh cũng chưa có nghe qua. Nhưng hắn biết, nếu người này dám độc đấu với hắn, không phải kẻ điên, chính là có chỗ hơn người.

Đồ Vạn Chiến nhất định không phải kẻ điên!

Sát khí trước khi chiến đấu, ngàn quân nín thở. Đang lúc này cuồng phong nổi lên thổi bay vô số lá vàng, lá vàng xoay nhẹ, hóa thành bướm mà bay.

Đồ Vạn Chiến chỉ dựa vào lực của cánh tay, lập tức nhấc búa chiến lên, đột nhiên quát lớn:

- Địch Thanh, ăn một búa của ta.

Âm thanh gào thét đó, giống như sấm rền nổ vang. Tam quân nghe thấy, tiếng quát chưa dừng, Đồ Vạn Chiến đã giục ngựa xông tới. Người điên cuồng phẫn nộ, ngựa cuồng chạy. Con ngựa đó gần như mới vừa giục, thì đã phát huy tới đỉnh cao.

Thế ngựa như tên bay.

Quân Tống hô nhỏ, bọn họ chưa từng thấy qua ngựa nhanh như vậy, cũng chưa từng thấy qua người khí thế như vậy. Đồ Vạn Chiến giục ngựa tiến lên, ngựa như tên, người như hổ, búa hóa sao băng, đã lao lên không trung.

Gã một búa, bổ giữa bầu trời.

Nhưng tất cả mọi người đều biết dụng ý của Đồ Vạn Chiến. Nếu Đồ Vạn Chiến không có sai tên, cho dù gã không có vạn chiến, nhưng cũng là đối với một đường công đánh này, đối với suy tính của chiến mã càng là tinh chuẩn tới cực điểm

Chiến mã không thể so bước hạ, ngoại trừ khí thế, đấu thực lực, đấu dũng khí còn phải tính toán độ nhanh chậm của tuấn mã hai bên.

Lúc Đồ Vạn Chiến giục ngựa Địch Thanh cũng đã đồng thời giục ngựa xông tới. Đồ Vạn Chiến tuy nhanh, nhưng Địch Thanh cũng không chậm. Chính lúc Đồ Vạn Chiến giơ búa, Địch Thanh đã cách Đồ Vạn Chiến hai trượng.

Đồ Vạn Chiến búa dài bổ ra, nhanh như sao băng, nhưng chính vào thời gian sao băng bay ấy. Địch Thanh lại gần một trượng, khoảng cách hơn một trượng đã đủ xuất đao.

Nhưng một búa của Đồ Vạn Chiến đánh hụt, đã đoạt tiên cơ, khoảng cách càng rút ngắn lại tận cùng, bổ tới trước mặt Địch Thanh.

Một búa này, rất nhanh, rất mãnh liệt, rất sắc bén. Nhưng càng sắc bén cũng là tính toán của Đô Vạn Chiến. Một đầu búa này của gã tính toán quá nhiều nhân tố, cho dù Địch Thanh xuất đao, cũng chậm một bước so với gã.

Búa đã chém lên người Địch Thanh.

Ánh lửa dường như ngưng lại, quân Tống gần như sụp đổ. Nhưng trong nháy mắt, bọn họ mới phát hiện, đầu búa bổ trúng là tàn ảnh của Địch Thanh. Địch Thanh đã không còn ở trên ngựa.

Thế búa lớn mở núi không nghỉ, trùng trùng chém vào chiến mã, chiến mã đau đớn hí lên, bị búa lớn nặng nề bổ vào bốn chân gãy cả, ngã xuống cát bụi.

Địch Thanh đang ở đâu? Đồ Vạn Chiến một búa bổ trúng chiến mã, trong lòng đã lạnh.

Trong không trung bỗng nhiên đánh ra một tia thiểm điện, tia thiểm điện mãnh mẽ lướt qua như sao băng nuốt chửng cả sao băng.

Đó là một đao của Địch Thanh bổ ra.

Ánh đao như điện, còn mang theo phần kinh diễm.

Ánh đao rơi, người chia ra, máu bắn ra tung tóe. Trong bầu trời đen sẫm, vàng kim là lửa, đỏ tươi là máu, trăng sáng là đao. Trường đào đang nắm trên tay Địch Thanh, sát khí đã thu lại. Người như núi, Địch Thanh đã rơi trên ngựa của Đồ Vạn Chiến.

Cả người đẫm máu.

Máu là máu của Đồ Vạn Chiến.

Đồ Vạn Chiến đã phân thành hai nửa ngã xuống ngựa, cái búa lớn mở núi “leng keng” rớt xuống đất, mang theo tiếng gào thét cuối cùng. Hai quân thậm chí còn chưa hiểu rõ rốt cuộc là chuyện gì, chung cuộc đấu tướng.

Chỉ có rất ít người mới thấy, Địch Thanh phi người bay ra khi Đồ Vạn Chiến xuất búa, nhảy lên phía chân trời, vung đao chém tới. Một đao chém phẫn nộ, sinh tử lập tứ phân ra!

 Chương 328 - 333: Thống kích

Mặc dù Đồ Vạn Chiến đấu dũng mãnh hơn nhưng Địch Thanh lại chém một đao nhanh hơn, sắc bén hơn. Một đao đó của Địch Thanh khiến người khác phải kinh hô lên, Đồ Vạn Chiến thấy một đao đó của Địch Thanh cũng hoảng sợ.

Bọn chúng kêu lên sợ hãi vì cái gì?

Hai đội quân đã tràn tới phía trước như lũ thác.

Đột nhiên giữa lúc đó, Địch Thanh cảm thấy được nguy hiểm lớn, có hai người cưỡi ngựa ngay cạnh Đồ Vạn Chiến, dồn Địch Thanh từ hai bên lại. Sát khí của hai kẻ kia còn hung ác hơn cả Đồ Vạn Chiến.

Chỉ có hai người mới có khả năng tiếp cận Địch Thanh nhanh như vậy, đó chính là huynh đệ sinh đôi phía sau Đồ Vạn Chiến.

Đồ Vạn Chiến chỉ là mồi nhử, còn hai người kia mới chính là sát thủ thực sự. Đây vốn là một thế cục bày ra để giết chết Địch Thanh.

Khi Địch Thanh nghĩ ra thì hai tên kia đã xuất thủ.

Một tiếng “hự” vang lên, người kia cầm trường thương đã đâm vào ngực của Địch Thanh.

Địch Thanh thối lui, chém bừa một đao vào chiến mã của Đồ Vạn Chiến. Đao của hắn tuy rằng nhuốm máu nhưng ý chí chiến đấu đã sút giảm, tốc độ khí thế đã kém hơn trước.

Đối thủ thừa lúc này xuất chiêu thì hiển nhiên là biết nắm bắt cơ hội, cũng không phải kẻ đầu đường xó chợ.

Người cầm chày sắt cũng đồng thời ra chiêu.

Chày sắt gậy sắt vũ điệu điên cuồng, sát khí ngập thu khiến cho lá vàng buồn đau xoáy tròn vỡ nát hỗn độn.

Địch Thanh thét một tiếng dài rồi lại vung đao. Tiếng đao thương chống đỡ vang lên “đang đang”, ánh lửa bắn ra bốn phía. Trường thương vừa đẩy ra thì gậy sắt chày sắt theo sát tới đập giữa lưng ngựa.

Chiến mã hí lên đau đớn rồi ngã ầm xuống đất. Địch Thanh nghiêng mình trên không. Hắn chưa kịp vung đao đáp trả thì một tiếng “vút” vang lên, người cầm thương lại vung thương ra, phóng một mũi thương.

Mũi thương nhanh như tên xẹt, đâm ngay vào sườn Địch Thanh.

Địch Thanh xoay người trên không trung, mũi thương chỉ sạt qua sườn. Địch Thanh né đòn bất ngờ, phản ứng rất nhanh.

Nhưng không ngờ mũi thương kia lại đột nhiên biến hóa nhanh chóng, trói Địch Thanh lại. Phía sau mũi thương có một sợi dây nhỏ. Địch Thanh không nghĩ tới bất ngờ này nên đã bị sợi dây nhỏ đó trói cánh tay lại.

Sợi dây tuy rằng nhỏ nhưng hết sức bền chặt. Địch Thanh ra sức giãy dụa nhưng không thể thoát thân ra được.

Đúng lúc này thì chày sắt, gậy sắt lại lao đến.

Địch Thanh thét lên một tiếng lớn, bị chày sắt gậy sắt đánh bật ra. Nhưng trong tình thế sống chết, hai cánh tay Địch Thanh gồng lên thật mạnh khiến cho dây trói đứt lìa, trường đao trong tay hắn vung lên như sấm sét điện bắn.

Người nọ cầm chày sắt gậy sắt đạt được một chiêu thì trong lòng đang mừng thầm. Nhưng giây lát sau thì gã chợt thấy lạnh, cúi đầu nhìn xuống thì đã bị trường đao xuyên thủng người, thân người gã quơ quơ mấy cái rồi ngã xuống ngựa.

Địch Thanh cũng ngã ra đất.

Đúng lúc này thì một con ngựa lao đến, một cánh tay với ra, kêu:

- Địch tướng quân.

Người kia chính là Phong Lôi. Y thấy hai tướng quân của Quân Hạ đánh lén nên đã giục ngựa xông đến. Vừa lúc Địch Thanh ngã xuống đất thì y phóng tới nơi.

Địch Thanh giơ tay bám lấy tay của Phong Lôi, được Phong Lôi dốc sức kéo lên lưng ngựa. Người cầm thương muốn lao đến nhưng đã bị hai quân chặn lại.

Hai quân chạm nhau lao vào chém giết.

Trong lòng Phong Lôi lo lắng cho tình trạng vết thương của Địch Thanh nên đã bất chấp phải tái chiến mà vung trường thương lên, thét ra lệnh tạm về.

Quân Hạ mặc dù thừa dịp loạn mà tấn công nhưng quân phòng thủ trại An Viễn đã có kinh nghiệm phòng thủ, dùng thiết thuẫn, cung tiễn kết hợp với trường thương để đánh lui sự tấn công của Quân Hạ.

Sau khi Phong Lôi cõng Địch Thanh trở về doanh trại thì mọi người trong doanh trại không còn reo hò nữa. Trên mặt mỗi người đều trầm ngâm. Tất cả mọi người đều muốn biết một việc: “Rốt cuộc Địch Thanh có bị thương nặng hay không?”

Phong Lôi truyền lệnh xuống cho toàn bộ binh sĩ trong trại canh phòng nghiêm ngặt, tử thủ không được xuất chiến, kẻ nào muốn chiến thì sẽ chém. Sau khi Phong Lôi an bài cho Địch Thanh thì lập tức tìm một thầy thuốc giỏi nhất trong trại đến xem bệnh cho Địch Thanh. Về tình trạng vết thương của Địch Thanh, Phong Lôi giữ kín không nói ra.

Sau hai ngày liên tiếp, trên bầu trời của trại An Viễn mây đen bao phủ, trời đất mịt mờ, lại kéo theo mưa phùn khiến cho mọi người càng thêm lo lắng.

Quân Hạ liên tiếp khiêu chiến, chửi rủa trước trại An Viễn để khích cho Địch Thanh xuất chiến. Nhưng trại An Viễn chỉ đóng cửa không ra. Quân lính trong trại hoảng sợ, hiểu được rằng tình trạng vết thương của Địch Thanh khẳng định là vô cùng nghiêm trọng. 

Nếu như Địch Thanh còn có thể tác chiến thì làm sao Quân Hạ có thể kiêu ngạo như vậy được?

Trong nháy mắt đã đến hoàng hôn ngày thứ ba, Quân Hạ ngoài trại An Viễn càng thêm kiêu ngạo. Tiếng chửi rủa cười đùa không dứt. Thậm chí có kẻ còn đi tiểu tiện trước cửa trại để làm nhục.

Mọi người trong trại An Viễn nổi cơn thịnh nộ, xen lẫn với căm phẫn. Tất cả mọi người lòng đầy căm phẫn. Cố Sơn Tây trấn thủ ở trại phía tây thấy thế thì giận dữ ra mặt, đột nhiên vỗ đùi quát:

- Địch tướng quân bị thương. Nhưng chúng chúng ta không bị thương tổn. Ai có dũng khí thì cùng ta xuất chiến!

Khi gã đứng lên thì quân sĩ trong trại vốn đã nhẫn nhịn oán hận mấy ngày nay đều hô lên hưởng ứng.

Cố Sơn Tây đang muốn xuất chiến thì Lưu Đao Nhi ở bên cạnh liền khuyên nhủ:

- Cố huynh, không thể xuất chiến. Phong trại chủ nói nếu tự xuất chiến thì sẽ là tử tội đấy.

Cố Sơn Tây cười lạnh, liếc xéo Lưu Đao Nhi, nói:

- Lưu Đao Nhi, trước kia ở thành Dương Mục Long, ngươi đã không chịu chiến, để mặc cho Vương Khuê tướng quân chịu chết. Chẳng lẽ đến bây giờ ngươi cũng không chịu chiến sao?

Rồi đột nhiên gã xé ngực áo ra, để lộ ra một vết đao, quát:

- Cổ mỗ ở Lung Lạc Xuyên theo Vũ đại nhân tác chiến, may mắn không chết. Cái mạng này vốn là được nhặt về. Hôm nay cho dù chết ở An Viễn thì cũng không có gì hối tiếc.

Lưu Đao Nhi đỏ bừng cả mặt.

Vốn hai người này đều là binh sĩ may mắn còn sống sót sau trận chiến ở Thủy Xuyên, bây giờ lui về An Viễn. Trước kia Vương Khuê một mình chịu chết khiến cho mỗi một binh sĩ quân Tống khó mà không tự trách. Lưu Đao Nhi chính là một trong số đó. Vì thế khi y nghe được ông cháu Thuyết Thư nói về chuyện của Vương Khuê thì không kìm nổi sự xấu hổ.

Cố Tây Sơn thấy Lưu Đao Nhi không nói gì thì hô lớn:

- Hôm nay cho dù chết cũng làm cho người Hạ thấy rằng quân Tống ở trại An Viễn không phải là bọn hèn nhát!

Gã vừa ra khỏi trại thì lại bị Lưu Đao Nhi giữ lại.

Mặc dù mặt Lưu Đao Nhi đỏ bừng, nhưng y kiên quyết nói:

- Cố huynh, trước kia ta sợ chết là không hề sai. Nhưng hôm nay cho dù chết thì thế nào? Cái mạng của Lưu Đao Nhi này đã giao cho Cố huynh rồi.

Quân Tống nghe được vậy thì nhiệt huyết càng được kích động. Lưu Đao Nhi lại nói:

- Nhưng bất kể như thế nào thì quân lệnh không thể không theo. Chúng ta không thể để cho nhiều huynh đệ tự dưng phải chịu trách nhiệm như vậy được. Huynh có dám cùng ta đến gặp Phong trại chủ để cầu xin được liều chết chiến đấu không?

Cố Tây Sơn quát:

- Làm sao mà không dám? Phải xin thỉnh chiến, đi theo ta !

Trong lòng gã tức giận nhưng cũng biết là Lưu Đao Nhi có hảo ý, sải bước đi vào trướng của Phong Lôi.

Quân Tống thấy thế đều đi theo.

Quân trong trại nhanh chóng thành một dòng nước lũ đổ dồn về phía trước trướng chủ soái. Tiếng người ồn ào bên trong, Cố Sơn Tây quỳ rạp ngoài trướng vải, cao giọng nói:

- Phong trại chủ, Cố Sơn Tây muốn dẫn binh đánh một trận với quân Hạ.

Gã biết hành động này không ổn, thậm chí là có khả năng bị Phong Lôi chém tại chỗ. Nhưng vì đạo nghĩa không cho gã chùn bước.

- Lưu Đao Nhi cũng xin được chiến!

Khi hai người nói ra thì tất cả quân trong trại đều đồng thanh nói:

- Chúng ta xin quyết một trận tử chiến với quân Hạ.

Tinh thần của mọi người mãnh liệt, nhiệt huyết sôi sục. Mặc dù Địch Thanh bị thương nhưng mọi người đã quyết. Bọn họ nên vì Địch tướng quân chia sẻ trọng trách.

Một bàn tay dang ra, nhẹ nhàng đỡ Cố Tây Sơn dậy. Bàn tay mặc dù nhìn nho nhã nhưng trong đó chất chứa sự quyết tâm, thậm chí còn hơn mãnh liệt hơn cả lời thỉnh chiến của ngàn quân.

Cố Tây Sơn thấy bàn tay kia không phải bàn tay thô ráp của Phong Lôi thì ngẩng đầu lên, thất thanh nói:

- Địch tướng quân!

Người đứng trước mặt hắn chính là Địch Thanh mấy ngày rồi chưa xuất hiện.

Sắc mặt Địch Thanh có chút tái nhợt, ngực còn quấn băng vải. Trên băng vải còn có vết máu thấm ra. Nhưng thân người hắn đứng thẳng, ánh nắng của ngày mùa thu chiếu vào hắn, có vẻ cao lớn ngang tàng.

- Địch tướng quân?

Tất cả binh sĩ kinh ngạc hô lên.

Cố Tây Sơn vui vẻ nói:

- Địch tướng quân, người đã khỏe lại rồi à?

Khi vừa thấy vẻ nghiêm nghị của Địch Thanh thì trong lòng Cố Tây Sơn lại trầm xuống. Trong suy nghĩ của mọi người, Địch Thanh là chiến thần bất tử của quân Tống, là ý chí chiến đấu sôi sục của quân Tống, là tướng quân không bao giờ đầu hàng. Mọi người truyền tụng cái tên Địch Thanh. Cái tên tượng trưng cho hy vọng của Tây Bắc.

Nhưng xem ra lúc này Địch Thanh đã bị hy vọng đè sập.

Có phi kỵ phóngtới dừng trước binh trại nói:

- Địch tướng quân… Phong trại chủ…

Rồi đột nhiên thấy tình hình như thế, hắn lại nói quanh co úp mở.

Phong Lôi ở bên cạnh Địch Thanh thấy thế thì cả giận nói:

- Có chuyện gì? Lưỡi ngươi bị cắt ròi à?

Tên lính kia cắn răng nói:

- Tướng quân Ngôi Danh Hư của quân Hạ ở trước trại muốn nghênh chiến với Địch Tướng quân một trận. Hắn nói rằng đã ngưỡng mộ đại danh của Địch tướng quân từ lâu, muốn được mở rộng tầm mắt.

Phong Lôi cả giận nói :

- Tên Ngôi Danh Hư này là cái gì chứ ? Hắn muốn đánh là đánh ngay sao ? Thật khiến chúng ta không còn mặt mũi !

Trong lòng mọi người nặng trĩu, hiểu rõ rằng khi Phong Lôi nói như vậy chính là cho rằng Địch Thanh đã không còn có khả năng chiến đấu nữa.

Địch Thanh bị tổn thương không ít.

Binh trại kia lắp bắp nói:

- Vậy… chúng ta không thèm để ý tới?

Phong Lôi quát:

- Đương nhiên không nên để ý tới. Đám người này mưu ma chước quỷ. Lần trước nói đơn đả độc đấu nhưng lại ám toán Địch tướng quân. Nói chuyện với bọn chúng thì có gì tốt chứ?

Binh trại xoay người bỏ đi, thần sắc uể oải.

Địch Thanh đột nhiên ngăn binh trại lại:

- Đợi một chút. Ngươi đi nói với Ngôi Danh Hư, lát nữa ta sẽ cùng hắn quyết một trận tử chiến!

Mọi người kinh hãi. Phong Lôi cũng lộ ra vẻ lo lắng, nói:

- Địch tướng quân, vết thương của người rất nặng, làm sao mà xuất chiến được?

Địch Thanh nhìn lại mọi người, chỉ nói một câu:

- Địch Thanh có thể chết nhưng không thể không đánh!

Tất cả binh sĩ có mặt đều nước mắt ưng tròng nhìn Địch Thanh. Bọn họ không khỏi nhớ lại Vũ Anh, nhớ tới Vương Khuê, nhớ tới Cảnh Phó, nhớ tới rất nhiều nam nhi nhiệt huyết nơi biên thùy khác.

Cũng vì những nam nhi nơi biên thùy này mà mới càng có thêm nhiều hảo hán nữa.

Thì ra Địch Thanh vẫn là Địch Thanh!

Một lúc nữa, Địch tướng quân sẽ cùng quyết một trận với tướng Ngôi Danh Hư của quân Hạ!

Tin tức truyền ra khiến cho trại An Viễn sôi sục từ trong ra ngoài, xen lẫn vẻ bi tráng khôn tả cùng với nỗi lo lắng vô biên.

Ai cũng biết, lần này Địch tướng quân không thể thua nữa. Bản thân Địch Thanh bị trọng thương, nếu như thua thì sẽ mất mạng! Quân Hạ mưu ma chước quỷ, lần này lại giở trò đánh lén giống như lần trước nữa không?

Ngôi Danh Hư là ai ? Rất nhiều người không biết. Nhưng Địch Thanh lại biết.

Ngôi Danh Hư là một trong tám người dưới trướng Nguyên Hạo, là cao thủ thần bí nhất trong bộ Dạ Xoa. Ngay cả Địch Thanh cũng chỉ nghe qua họ tên của hắn. Người này là thủ lĩnh của Hư Không Dạ Xoa.

Chuyện cũ trôi qua nhanh chóng. Hảo hán của quân Tống như tre già măng mọc. Tuy nhiên trong tám bộ của Nguyên Hạo cũng bị tổn thất rất nhiều người tài.

Trận chiến hôm nay, tổn thất sẽ là hảo hán quân Tống hay là cao thủ người Hạ?

Một canh giờ thoáng chốc trôi qua, Địch Thanh ra khỏi trướng chủ soái, thậm chí không mặc áo giáp. Chẳng lẽ nói là hắn không còn sức mặc nổi áo giáp?

Thần sắc Phong Lôi nghiêm nghị, nhưng không hề khuyên nhủ gì thêm, chỉ điểm kỵ binh tinh nhuệ nhất trong trại. Tiếng pháo vừa vang lên thì cửa trại mở ra. Kỵ binh chia làm hai cánh, thuẫn bài binh, đao phủ thủ xếp phương trận đi ra ngoài.

Tuy nói là đấu tướng nhưng Phong Lôi muốn đề phòng quân Hạ thừa cơ xông vào doanh trại.

Mưa lạnh rơi tí tách. Gió thốc lên trong khoảng không.

Quân Hạ ở đối diện đã sớm bày xong thế trận. Ở trước trận hai quân, trải ra một khoảng đất trống. Trước trận quân Hạ, lần này chỉ có một người thúc ngựa tiến ra.

Người nọ mặc áo giáp màu đen, cưỡi hắc mã, sắc mặt tối, cầm trong tay cây chùy. Thân chùy màu đen giống như màu của người lẫn ngựa. Người kia đứng ở trước quân, hòa vào màu xẩm tối của hoàng hôn.

Mưa rơi rả rích, trờ đất mịt mờ. Địch Thanh trông thấy người kia thì cảm thấy người kia mờ ảo mịt mù..

Địch Thanh đeo lên mặt chiếc mặt nạ bằng đồng xanh, tăng thêm vẻ lạnh lẽo. Sau chiếc mặt nạ kia, con ngươi sáng quắc nhưng đồng thời hiện ra vẻ trong trẻo lạnh lùng. Hắn cầm đao leo lên yên ngựa, thúc ngựa đến trước cách Ngôi Danh Hư chừng vài trượng thì chậm rãi dừng lại.

Ngôi Danh Hư cầm chùy nói:

- Nghe qua đại danh của Địch tướng quân, hôm nay mới được diện kiến, thật là may mắn.

Địch Thanh lãnh đạm nói:

- May mắn không phải là chuyện thường xảy ra. Có lẽ ngươi sẽ nhanh chóng biết được đây là may mắn hay là bất hạnh đây.

Ngôi Danh Hư thở hắt ra một hơi, thận trọng nói:

- Nam nhi tập võ để được nổi danh thiên hạ. Có thể chết ở dưới tay Địch tướng quân thì ta chết cũng không tiếc. Tại hạ cũng biết Địch tướng quân có thương tích trên người. Nhưng ta nghĩ dù là Bồ Đề Vương cũng không phải địch thủ của Địch tướng quân, nên tại hạ chỉ có thể thừa dịp Địch tướng quân có thương tích mà mặt dày khiêu chiến mà thôi.

- Ngươi thật đúng là thẳng thắn.

Địch Thanh thở dài nói:

- Ngươi đương nhiên biết là ta không thể không đánh.

Trong mắt Ngôi Danh Hư hiện lên sự tôn kính, trầm giọng nói:

- Đúng vậy. Địch Thanh có thể chết nhưng không thể không đánh! Tại hạ dụng tâm ti tiện, cũng chỉ cầu được nổi danh thiên hạ.

- Một kẻ vì được nổi danh mà cho dù dùng thủ đoạn hèn hạ mà cũng có thể nói ra được?

Mặt nạ bằng đồng xanh lạnh lẽo hơn, ánh mắt phía sau hiện ra vẻ mỉa mai. Địch Thanh nói:

- Ngươi nói không sai. Một người chỉ cần tìm được một cái cớ để có thể an tâm làm việc. Nhưng ta rất muốn nói cho ngươi biết một câu.

Ngôi Danh Hư nghiêm nghị nói:

- Xin nghe lời dạy của Địch tướng quân.

Từ đầu đến cuối, thái độ của gã đối với Địch Thanh đều rất nho nhã lễ độ. Cho dù bên trong gã là một kẻ tiểu nhân nhưng bên ngoài vẫn tỏ ra là một kẻ quân tử.

Địch Thanh nói:

- Ngươi lấy cớ là bất đắc dĩ thì ta cũng giống như ngươi thôi.

Ngôi Danh Hư ngạc nhiên, trong mắt hiện lên vẻ hồ nghi, một lúc sau mới nói:

- Thứ cho ta ngu muội không hiểu được lời nói của Địch tướng quân.

Địch Thanh nói:

- Ngươi sẽ nhanh chóng biết thôi. Mời!

Hắn không nói thêm lời nào, tay đè trường đao nhìn cử động của Ngôi Danh Hư. Tuy rằng Ngôi Danh Hư có hoang mang nhưng trong lúc nhất thời không thể suy nghĩ nhiều.

Hai người tham chiến thì giống như tên đã trên dây không thể không bắn.

Ngôi Danh Hư cầm chắc chùy trong tay, chậm rãi thở ra một hơi, nói:

- Mời!

Hai chân gã kẹp ngựa, xách chùy vọt tới hướng Địch Thanh. Thực sự là trước sau gã đều giữ sự cung kính đối với Địch Thanh. Khi khoảng cách với Địch Thanh chỉ còn có hai trượng, thấy Địch Thanh vẫn bất động, Ngôi Danh Hư đã không thể không ra tay.

Ngôi Danh Hư ra tay thì đập chùy xuống đất.

Ngàn quân im phăng phắc, chỉ nghe thấy tiếng chiến đấu của hai người trên chiến trường. Thấy Ngôi Danh Hư ra tay, tất cả mọi người đều ngạc nhiên khó hiểu chiêu này của gã có mục đích gì?

Rất nhanh chóng, mọi người đều hiểu ra dụng ý của Ngôi Danh Hư. Thiết chùy kia đột nhiên nổ tung, thoát ra làn khói đen dày đặc. Khói thoát ra nhanh chóng, trong phút chốc đã bao phủ hết phạm vi mấy trượng trong đó.

Người Hạ lại bày ra quỷ kế. Quân Tống giận dữ.

Ngôi Danh Hư vọt tới phía trước Địch Thanh, “phập” vang lên, cán chùy linh hoạt sắc bén đâm vào ngực Địch Thanh, một chiêu long trời lở đất.

Từ lúc xuất chiến thì Ngôi Danh Hư đã có dụng kế. Đầu tiên gã dùng ngôn ngữ khiêu khích Địch Thanh, sau đó tranh thủ sự thông cảm bất đắc dĩ, rồi lại dùng khói đen chiếm được địa thế, sau đó dùng hết sứcc để một chiêu lấy mạng Địch Thanh.

Tất cả kế hoạch đều được chuẩn bị chính xác. Ngôi Danh Hư xác định rằng Địch Thanh đã bị thương, vết thương rất nặng. Cho nên gã mong là một trận này có thể giết chết được Chiến thần tây bắc của quân Tống.

Nhưng cán chùy đã đâm vào không trung.

Đột nhiên không thấy Địch Thanh đâu. Ngôi Danh Hư tuy rằng tinh mắt nhưng bên trong khói đen khó có thể nhận ra Địch Thanh ở chỗ nào. Sương khói tràn ngập che đi mắt của Địch Thanh, đồng thời cũng khiến cho Ngôi Danh Hư không nhìn thấy gì.

Ngay lúc đó nghe thấy tiếng “vút vút vút” vang lên không dứt. Trong chớp mắt phía đối diện bắn ra rất nhiều tên nỏ.

Địch Thanh lại dùng ám khí sao? Điều này sao có thể?

Ngôi Danh Hư cả kinh, núp dưới thân ngựa. Cũng đúng lúc đã gã thấy được dưới bụng ngựa đối diện hiện ra ánh sáng lạnh như băng của mặt nạ. Ngôi Danh Hư bỗng dưng hiểu được là vừa rồi khi gã tấn công, Địch Thanh đã tránh ở dưới bụng ngựa.

Hai con ngựa lần lượt giao nhau. Ngôi Danh Hư chợt nghe tiếng quân Hạ ồn ào, nhất định là quân Hạ đang rối loạn trận tuyến. Ngôi Danh Hư vừa sợ vừa không biết cuối cùng đã xảy ra chuyện gì.

Cũng không biết là Dạ Nguyệt Phong đã xảy ra chuyện gì. Dạ Nguyệt Phong chính là một trong hai huynh đệ đã giao thủ với Địch Thanh ba ngày trước.

Phong Lâm Sơn Hỏa là Dạ Xoa tứ tuyệt.

Dạ Nguyệt Phong rất hận Địch Thanh. Lúc trước khi Địch Thanh vừa mới đến biên thùy đã giết hai huynh đệ Dạ Nguyệt Sơn và Dạ Nguyệt Hỏa của hắn. Dạ Nguyệt Phong vẫn chờ thời cơ để báo thù. Vì vậy khi y biết Địch Thanh đến An Viễn thì đã lập tức khiêu chiến.

Dạ Nguyệt Phong đi theo đệ nhất cao thủ Dạ Xoa là Đồ Vạn Chiến, cùng với huynh đệ của mình là Dạ Nguyệt Lâm tấn công Địch Thanh từ hai mặt. Vốn tưởng rằng trận chiến này tất thắng chứ không ngờ là chỉ đả thương Địch Thanh, lại còn bị chết mất Đồ Vạn Chiến và Dạ Nguyệt Lâm.

Nhưng cuối cùng Địch Thanh cũng bị thương.

Dạ Nguyệt Phong cấp báo xuống phía nam cho thái thú Linh Châu là Đậu Duy Cát. Sau khi Nguyên Hạo đại thắng ở Thủy Xuyên đã cùng Trương Nguyên trở về nước Hạ, ra lệnh cho Đậu Duy Cát toàn quyền xử lý mọi chuyện ở Kính Nguyên lộ, tìm thời cơ tấn công Quan Trung. Đậu Duy Cát vừa nghe được tin thì lập tức ra lệnh cho Ngôi Danh Hư đến An Viễn khiêu chiến, đồng thời dồn binh xuống phía nam để giết Địch Thanh, chiếm An Viễn.

Giết được Địch Thanh còn khiến phấn chấn tinh thần hơn là chiếm được hơn mười bảo trại của quân Tống. Địch Thanh mà chết thì quân Hạ ở tây bắc không còn người nào để khiếp sợ nữa.

Dạ Nguyệt Phong thấy Ngôi Danh Hư dốc hết sức xuất thủ thì hận không thể tự mình tham chiến. Y chỉ có thể chặn ở tuyến đầu, đề phòng quân Tống tấn công. Nếu bọn chúng có thể bày ra quỷ kế thì quân Tống cũng không thể ngồi nhìn mà chờ chết được.

Quả nhiên Ngôi Danh Hư vừa ra tay bên kia quân Tống đã có dấu hiệu di chuyển.

Dạ Nguyệt Phong đã truyền lệnh cho quân Hạ chuẩn bị xuất kích. Đúng lúc này thì phía hậu quân đột nhiên loạn cả lên khiến Dạ Nguyệt Phong nổi giận, quay đầu trông lại thì thấy lửa trại bốc lên, có thể thấy rõ từ phía xa. Gió lạnh thổi đến khiến ngọn lửa bùng lên từng đợt.

Từng đợt lửa bùng lên giống như mặt nước gợn từng vòng, từ từ lan rộng ra trung quân của quân Hạ.

Trung quân của quân Hạ đã loạn.

Dạ Nguyệt Phong không hiểu rõ, quát hỏi:

- Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Có binh sĩ vội vàng tiến đến bẩm báo:

- Dạ Nguyệt tướng quân, đột nhiên có quân địch từ phía tây nam truy sát tới đây. Chúng ta không ngăn cản được.

Lời còn chưa dứt thì đã có binh sĩ khác chạy đến, kêu lên:

- Dạ Nguyệt tướng quân, có quân địch từ phía tây bắc truy sát tới. Chúng ta tổn thất vô cùng thê thảm.

Dạ Nguyệt Phong nghiêm nghị trong lòng, đã mơ hồ hiểu ra được chuyện gì, chưa kịp hạ lệnh thì hai hướng tây bắc, tây nam phía sau cùng loạn lên. Ngay sau đó, đội ngũ quân Hạ như tảng đá lớn bị quăng xuống nước, như băng bị đâm xuyên trong đêm lạnh, lộ ra hai khe hở.

Có hai đội binh mã đột nhiên chia ra, xé nhỏ thế trận của quân Hạ.

Binh sĩ tấn công từ phía tây bắc đều mặc áo đen, cầm trường thương trong tay, lưng đeo đao sắc, chạy nhanh như tên bắn. Trong đêm tối, những mũi trường thương đâm ra mạnh mẽ, xếp thành một lá chắn đầy đinh nhọn. Mỗi lần lá chắn trường thương đâm tới thì vô số tiếng kêu rên thảm thiết vang lên, máu tươi chảy xối xả.

Người cầm đầu ánh mắt sắc như mũi kiếm nhìn về phía Dạ Nguyệt Phong.

Người đó chính là Qua Binh.

Qua Binh đã mang theo Thập Sĩ trong Hãm Trận Chi Sĩ đi đột phá vòng phòng ngự mạn tây bắc của quân Hạ.

Toàn bộ binh sĩ tấn công từ phía tây nam đều mặc áo giáp màu đen, cầm trường chùy trong tay, đầu chùy có gắn răng sói như móc câu, lưng đeo khoan đao. Trong bóng đêm, họ như u linh xông ra, vung trường chùy trong tay như Lôi công hành pháp.

Những binh sĩ kia không có sự lợi hại như Hãm Trận chi binh nhưng lại có uy thế hùng hồn như núi đổ.

Sức mạnh kinh hồn của thiết chùy bổ xuống, đập kẻ nào chết kẻ đó, vung lên đánh ngựa khiến ngựa chạy mất.

Người cầm đầu cầm chùy lớn trong tay, ánh mắt điên cuồng phóng, đồng thời cũng phóng tới hướng Dạ Nguyệt Phong.

Người đó chính là Bạo Chiến.

Bạo Chiến mang theo Thập Sĩ trong Dũng Lực chi sĩ đột phá phòng tuyết phía tây nam của quân Hạ.

Kỵ binh của quân Hạ vội vàng không chuẩn bị kịp. Trước trận thế đại loạn, nhất thời không có lợi thế tấn công, từng người tự rơi vào cơn ác mộng chiến tranh.

Mộng khó tỉnh, mà cuồng phong thì lớn.

Qua Binh và Bạo Chiến xé tan đội hình của quân Hạ, khiến cho Dạ Nguyệt Phong rơi vào thế bị vây kín. Dạ Nguyệt Phong trầm xuống. Bọn chúng bố trí thế cục làm kẻ đi săn, bỗng dưng lại biến thành con thú bị vây trong bẫy.

Địch Thanh thật là gian trá!

Vậy rốt cuộc Địch Thanh kia có bị thương hay không? Dạ Nguyệt Phong rất nghi ngờ nhưng y không thể suy nghĩ tiếp vì Qua Binh và Bạo Chiến đang tạo nên áp lực lớn khiến y phải cẩn thận.

Chắc chắn Địch Thanh có thương tích. Nếu Địch Thanh không bị thương thì tuyệt đối hắn sẽ không sử dụng tên nỏ, cũng sẽ không ẩn thân dưới bụng ngựa. Lúc Ngôi Danh Hư nghĩ đến chuyện này thì ý chí chiến đấu tăng lên.

Giết được Địch Thanh thì Ngôi Danh Hư gã có thể xưng bá trong bộ Dạ Xoa, thậm chí có thể vinh quang trèo lên vị trí Long Bộ Cửu Vương.

Hai ngựa lại ra sức lồng vào nhau. Ngôi Danh Hư lại ra chiêu. Trong đám khói đen mờ mờ ảo ảo, lúc này chính là cơ hội tuyệt vời cho gã xuất thủ. Ngôi Danh Hư xuống ngựa, tung chiêu biến ra thành ba người đứng trước mặt Địch Thanh.

Ngôi Danh Hư là Hư Không Dạ Xoa, có thể biến ảo thành hư, dùng khoảng không vô hạn bao lấy Địch Thanh.

Bộ Dạ Xoa đều có tuyệt học. Chiêu này của Ngôi Danh Hư vốn được gọi là Nhất Khí Hóa Tam Thanh, chỉ trong một thoáng của thể biến ra ba bóng người ảo, hưu hư thật thật làm cho không người nào có thể nhận ra.

Đây chính là nhẫn thuật của nước ngoài (nghệ thuật ám sát và gián điệp thời phong kiến của các ninja Nhật Bản), kết hợp chặt chẽ với phương pháp của Tạng Bắc Mật giáo, quỷ dị khôn cùng.

Ngôi Danh Hư thấy quân Hạ rối loạn, biết là sự việc có biến. Gã nhất định phải nhanh chóng, hết sức giải quyết xong Địch Thanh thì mới có thể ứng phó với những thứ khác.

Gã không tin rằng Địch Thanh có thể ứng phó với thuật chướng nhãn của gã. Quần áo của gã huyễn ảo ra những bóng dáng khác trước mặt Địch Thanh. Gã mượn khói biến thành hai bóng dáng, đi đến trước mặt Địch Thanh.

Gã dồn hết lực đâm một kích, ngay vào sau lưng Địch Thanh.

Khi Ngôi Danh Hư đi đến phía sau Địch Thanh thì đột nhiên lạnh cả sống lưng. Gã chỉ thấy một mớ quần áo, một mặt nạ bằng đồng xanh ở dưới bụng ngựa mà không thấy Địch Thanh.

Địch Thanh không trốn dưới bụng ngựa?

Khi Ngôi Danh Hư nghĩ ra thì đã thấy một luồng ánh sáng.

Ánh sáng sáng như trăng, sáng như băng, sáng như trăng sáng chiếu lên băng. Sông băng mênh mông, sát khí mênh mông như vậy chiếu xuống. Tất cả ảo ảnh đều bị chiếu diệt.

Đêm nay tối như vậy, vốn không có trăng. Vậy ánh trăng sáng đó là từ đâu mà có? Khi Ngôi Danh Hư nghĩ thông ra thì thấy ánh trăng đã nhuộm máu.

Máu là máu của Ngôi Danh Hư. Trăng không phải trăng, là ánh đao, là ánh đao trên tay Địch Thanh. Ánh mắt Địch Thanh như ánh đao, nhìn chằm chằm cái đầu Ngôi Danh Hư đang bay lên, chỉ nói một câu:

- Bây giờ ngươi đã hiểu rõ ý của ta chứ?

Một tiếng “bịch”, cái đầu rơi xuống. Ánh mắt Ngôi Danh Hư vẫn còn mở to, dường như đã hiểu được.

Địch Thanh không bị thương. Nếu Địch Thanh bị thương nặng thì không thể xuất ra một đao sáng lạnh như vậy.

Ngôi Danh Hư dùng chiêu Nhất Khí Hóa Tam Thanh tấn công Địch Thanh. Còn Địch Thanhdùng cách che mắt, dùng đồ đánh lạc hướng dưới bụng ngựa, rồi phóng lên cao chém Ngôi Danh Hư một đao trí mạng.

Ngô Danh Hư vẫn tự cho rằng mưu sự đã thành nên có phần kiêu ngạo. Vì thế gã đã thua vì sự kiêu ngạo. Nếu như gã bình tĩnh một chút, thì bản năng sẽ phát hiện ra ở dưới bụng ngựa kia chỉ là ảo ảnh.

Ngươi viện cớ bất đắc dĩ thì ta cũng vậy.

Khi Ngôi Danh Hư chết thì cuối cùng cũng hiểu hàm ý những lời này của Địch Thanh. Nhưng gã chết không nhắm mắt. Gã không hiểu vì sao Địch Thanh biết rằng gã sẽ sớm ra tay, vì sao Địch Thanh phải kéo dài vài ngày, vì sao quân Hạ lại loạn lúc này?

Nhưng người đã chết thì hiểu hay không hiểu được thì có gì khác nhau đâu.

Địch Thanh phi người lên ngựa, mang mặt nạ chạy ra khỏi đám khói đặc. Quân Tống thấy Địch Thanh từ trong đám khói đặc lao ra thì tất cả nhảy lên hò reo hoan hô vang động cả đất trời.

Người ra tay chính là Địch Thanh, còn kẻ chết đích đáng chính là Ngôi Danh Hư. Địch Thanh vẫn là Chiến thần bách chiến bách thắng của Đại Tống. Cho dù Địch Thanh có bị trọng thương thì cũng vẫn vậy.

Không khí đau buồn của quân Tống bỗng trở thành tinh thần dũng cảm ngút trời.

Khi Địch Thanh nâng đao hướng về quân Hạ ra hiệu “giết” thì Lôi Phong đã sớm chuẩn bị, quát lên:

- Xông lên!

Quân Tống ở trại An Viễn dưới sự dẫn dắt của Lôi Phong ào về phía trận doanh quân Hạ.

Dạ Nguyệt Phong thất bại phải chạy trốn.

Một chiêu tính toán sai lầm mà cả bàn cờ đều thua. Vốn Dạ Nguyệt Phong còn hy vọng có thể tiêu diệt hai người Qua Binh và Bạo Chiến, xoay chuyển tình thế tàn cuộc. Nhưng khi nghe tiếng hoan hô của quân Tống, thấy Địch Thanh xuất hiện qua màn sương đen thì Dạ Nguyệt Phong liền quyết định phải chạy trốn.

Hắn không còn tinh thần chiến đấu nữa.

Quân Hạ không đầu, một chủ tướng thì bị chém, một thì chạy trốn nên không còn dũng khí chống cự nữa. Chúng gào thét thúc ngựa chạy như điên hướng về hướng bắc.

Đêm càng xuống thì tiếng mưa càng nặng hạt. Tiếng vó ngựa đạp lên mưa thu, xé gió, tỉnh cả mộng.

Dạ Nguyệt Phong chạy một mình trên đường như điên, thoắt cái chạy được hơn mười dặm.

Nhưng tiếng vó ngựa vẫn vọng lại từ phía sau gã, giống như muốn chạy theo giết gã bất cứ lúc nào.

Truy binh của Địch Thanh không hề buông tha. Một khi hắn đã đuổi theo, giống như muốn đem mối ân cười mấy năm kia được chấm dứt, đoạt lại mối bi huyết ngày xưa, ngàn dặm núi sông.

Phía trước đã là trại Kê Xuyên. Trong lòng Dạ Nguyệt Phong vui buồn lẫn lộn. Đau buồn chính là vì mấy ngàn thiết kỵ của quân Hạ đã tan tác hết. Vui mừng chính là trại Kê Xuyên của Đậu Duy Cát có hơn vạn đại quân.

Chỉ cần gặp được Đậu Duy Cát, tập hợp lại thì gã vẫn có thể chiến một trận với Địch Thanh. Dạ Nguyệt Phong không phục, thua không cam lòng. Địch Thanh giả dối, dám giả vờ bị thương để dụ bọn chúng lơ là, dùng danh nghĩa là quyết chiến để tập kích bất ngờ. 

Địch Thanh nói không giữ lời.

Lần này không chiến không trả hết tội.

Lúc Dạ Nguyệt Phong tới đây thì đã mang mấy trăm kỵ binh đến trước trại Kê Xuyên. Có tên lính hô lên:

- Là ai đó?

Dạ Nguyệt Phong vội la lên :

- Nhanh bẩm báo với Đậu thái úy là quân tống đột kích ! Phải toàn lực chuẩn bị chiến đấu !

Tên lính Hạ kia có chút không tin, cười nói:

- Đậu thái úy mới dời binh ở đây, ngày mai đi đến An Viễn…

Lời còn chưa dứt thì đột nhiên sắc mặt hắn thay đổi.

Phía sau Dạ Nguyệt Phong bất ngờ nổi lên cuồng phong, tiếng kỵ binh vang lên như sấm sét.

Trong đêm tối hiện ra một đội binh mã cầm trong tay trường đao, búa lớn, hung hãn tiến tới tàn sát đám binh lính phía sau do Dạ Nguyệt Phong dẫn đầu. Dạ Nguyệt Phong khẩn trương không biết làm thế nào mà địch có thể đến nhanh đến như vậy? Không cần nói nhiều, gã giục ngựa chạy nhanh vào trong doanh trại để trốn.

Quân Hạ bên ngoài trại cũng thấy là bảo toàn sinh mạng là quan trọng hơn, thấy trại Kê Xuyên mới là nơi an toàn nhất nên vội vàng chen chúc chạy theo Dạ Nguyệt Phong vào trong trại. Quân Tống truy sát thấy thế thì cũng tiến vào..

Quân Hạ canh trại thấy quân Tống cầm đao giơ búa xông tới như trận gió cuồn cuộn, mưa to sấm lớn thì đều biến sắc cả.

Dạ Nguyệt Phong đã chạy tới trước trướng trung quân.

Đậu Duy Cát nghênh đón, quát hỏi:

- Có chuyện gì?

Thấy Dạ Nguyệt Phong chật vật, lại nhanh chóng nghe thấy tiếng giết nổi lên bốn phía trại Kê Xuyên, Đậu Duy Cát nhất thời không biết kẻ thù đến ít hay nhiều, sắc mặt biến đổi lớn.

Dạ Nguyệt Phong khàn giọng nói:

- Đậu thái úy, việc lớn không tѴ rồi. Ngôi Danh Hư chết rồi. Địch Thanh đuổi giết tới đây. Ngươi hãy mau chuẩn bị nghênh chiến đi.

Đậu Duy Cát kinh hoàng kêu lên:

- Ngươi…

Y định mắng Dạ Nguyệt Phong nói bậy.

Điều này sao có thể?

Từ sau khi quân Hạ đại thắng ở Thủy Xuyên trở về vẫn luôn ra uy bắt người cướp của, công phá trại Tam Xuyên, vây khốn thành Dương Mục Long, xua binh xuống nam hạ. Những trại của quân Tống trên đường đều bị lâm nguy, hoặc bị phá, hoặc phòng thủ mà không chiến.

Lúc này có tin truyền đến là Địch Thanh nhận nhiệm vụ lúc lâm nguy, chủ chiến ở Kính Nguyên lộ, phụ trách điều hành binh mã của Kính Nguyên Lộ. Địch Thanh tới Kính Nguyên Lộ không lâu thì chuyển đến An Viễn ở Tần Phượng Lộ.

Dạ Nguyệt Phong bày kế khiêu chiến khiến cho Địch Thanh bị thương nặng. Tin tức truyền đi khiến quân Hạ chấn động. Đậu Duy Cát lại cấp tốc phái cao thủ Ngôi Danh Hư của Dạ Xoa bộ đến khiêu chiến. Đậu Duy Cát chuẩn bị ngày mai tự mình lãnh binh xuôi về phía nam để vây An Viễn, giải quyết dứt điểm.

Giết Địch Thanh, đoạt An Viễn, đánh thủng tuyến đường Tần Phượng lộ thì chẳng bao lâu sẽ khai thông con đường đi tới Quan Trung. Đúng lúc Đậu Duy Cát đang sung mãn thì đột nhiên nghe tin dữ Địch Thanh thoát chết trở về, khó trách khiến y không tin được.

Tiếng giết chóc nổi lên bốn phía trại Kê Xuyên giống như quân Tống đã vây khốn bốn phía. Dạ Nguyệt Phong nghe thấy thì sắc mặt càng tái đi, thầm nghĩ vì sao quân Tống có thể có nhiều nhân thủ như vậy, làm sao có thể nhanh chóng truy sát đến nơi này?

Đậu Duy Cát không nói nhiều, quát lớn:

- Chuẩn bị ngựa!

Một binh sĩ dẫn ngựa đến bên cạnh Đậu Duy Cát. Đậu Duy Cát mới trèo lên ngựa thì tự dưng thấy ớn lạnh trong người. Y hét vang, rút đao nổi giận chém.

Đao vừa vung lên thì tia máu bắn ra đầy mặt. Tên binh sĩ dẫn ngựa kia xoay người lẩn ay vào trong bóng tối. Trước khi tên binh sĩ kia lẩn đi còn quay đầu lại nhìn, mắt đầy sát ý.

Người nọ chính là thủ hạ của Địch Thanh, Tử Phẫn chi sĩ, Lý Đinh!

Dạ Nguyệt Phong kinh hãi, vội hỏi:

- Đậu thái úy, sao lại ra thế này?

Rồi đột nhiên gã nhìn thấy đầu vai trái của Đậu Duy Cát cắm một mũi tên nỏ, mặt biến sắc.

Hóa ra chẳng biết từ lúc nào, Lý Đinh thừa dịp loạn tới bên cạnh Đậu Duy Cát, mượn việc đưa ngựa để ám sát Đậu Duy Cát.

Dù sao Đậu Duy Cát cũng trải qua trăm trận chiến, lại làm Thái thú Hồng Châu, cả ngày sống nơi đao kiếm. Ngay thời khắc Lý Đinh xuất thủ thì y nhanh chóng giật mình, tránh chỗ hiểm, vung đao phản kích.

Một chiêu của Lý Đinh không trúng thì thối lui. Đầu vai Đậu Duy Cát đau, nhưng trong lòng còn đau hơn vì căm tức Dạ Nguyệt Phong.

Dạ Nguyệt Phong nhanh chóng hiểu được. Vừa rồi khi gã xông vào trong quân doanh thì quân Tống thuận thế giết vào, nhất định là Lý Đinh đã lẩn vào giết quân Hạ sau đó thay quần áo, dẫn ngựa ra tiếp cận Đậu Duy Cát.

Nhưng người này sao lại có kế hoạch trù tính như vậy?

Tất cả đã rõ ràng. Lần công kích này không phải là quân Tống thừa cơ đánh lén mà là mưu đồ từ lâu!

Đậu Duy Cát lại nhảy lên ngựa, định giục ngựa chuẩn bị tham chiến thì con ngựa hí lên đau đớn rồi ngã “rầm” xuống đất. Đậu Duy Cát liếc qua nhìn thì thấy con ngựa sùi bọt mép ngã lăn trên mắt đất. Y lại càng nổi giận, không đợi ngựa được mang đến thì thấy một người xông đến, mặc thiết giáp hùng hổ cầm búa bổ đến.

Cơn mưa búa ào ạt đổ tới, tới tấp như bão. Búa chưa đến thì gió lạnh đã tạt vào mặt.

Đậu Duy Cát tránh gấp lăn qua một bên rồi nhảy lên hất một thủ hạ xuống dưới ngựa. Sau khi đoạt được chiến mã của thủ hạ thì Đậu Duy Cát chưa vội nghênh chiến mà thét với tên thủ hạ, giục ngựa hô lớn:

- Theo ta xuất trại đánh một trận!

Ra trại đánh một trận !

Sự sắc bén của quân Hạ không nằm ở việc thủ trại. Uy thế của quân Hạ là lợi dụng ưu thế kỵ binh , sự chia rẽ của đồng bằng để đối công đối xung.

Đậu Duy Cát kêu gọi binh mã chuẩn bị ra ngoài chiến đấu với quân Tống, đã xoay chuyển tình thế nguy nan. Trong tiếng thét lên của Đậu Duy Cát, quân Hạ rốt cuộc cũng tìm được phương hướng. Tất cả đều hăng hái đi theo Đậu Duy Cát, sóng vai xông ra ngoài doanh trại để chiến đấu.

Nhưng vừa ra đến ngoài doanh trại thì sắc mặt của Đậu Duy Cát thay đổi. Trong bóng tối, hai bên hiện ra hai đội kỵ binh khí thế còn hơn cả sấm sét mưa xa.

Một đội cầm thương, mũi thương đâm ra như rừng. Một đội giơ cao búa, búa phủ kín như núi.

Nhuệ khí của hai đội kỵ binh hợp lại tạo nên sát khí đằng đằng, ào ạt lao ra. Kỵ binh của Đậu Duy Cát bị đối thủ xông tới thì chia năm xẻ bảy, quân lính tan tác.

Hơn vạn quân Hạ giống như ruồi không đầu, chạy tán loạn trối chết khắp nơi.

Đậu Duy Cát thấy thế địch như nước triều thì ngạc nhiên trước sự chuẩn bị của đối thủ. Y không còn lòng dạ nào cũng không còn sức mà chiến đấu. Y xác định phương hướng rồi dẫn người chạy trốn về phương bắc. Chỉ cần qua được Kê Đầu Sơn, chạy đến trại Dã Bình tập hợp với quân Hạ ở đó thì có thể ổn định trận tuyến.

Chỉ cần có thể đứng vững thì Đậu Duy Cát vẫn tin tưởng rằng vẫn có thể quyết chiến một trận với quân Tống.

Y vẫn không tin là quân Tống có thể tấn công nhanh như vậy, cũng không tin rằng kỵ binh của quân Tống có thể đánh bại bọn chúng.

Chiến mã run rẩy trong gió thu, mưa rơi nặng hạt trong đêm.

Một lát sau thì Đậu Duy Cát đã đến Ngô Công Lĩnh ở Kê Đầu Sơn. Y biết rõ những con đường nhỏ phía sau nên phi ngựa rất nhanh. Nhưng lúc này, tiền quân bỗng dưng dừng lại.

Đậu Duy Cát cả giận nói:

- Có chuyện gì?

Không đợi trả lời, y đã biết xảy ra chuyện gì. Từ yếu đạo trong núi xuất hiện một đội nhân mã dựng lá chắn như bức tường, kiên quyết chắn đường yếu đạo trên núi.

Đường này không thông.

- Xông lên!

Đậu Duy Cát hô lớn.

Quân Hạ tiến lên. Chỉ có điều đường núi hẹp nên uy lực của kỵ binh suy yếu. Mọi người xông lên nhưng uy lực giảm nhiều so với lúc rong ruổi khoái ý tiêu dao trên bình nguyên.

Khó khăn lắm bọn chúng mới tiến tới bức tường sắt phía trước, nhưng quân Hạ lại chần chừ. Bọn họ tuy dũng mãnh nhưng làm thế nào để phá bức tường chắn này? Đang ngần ngừ thì bức tường chắn bỗng nhiên vỡ ra, ánh búa bổ tới giống như hồng hoang quái thú.

Chiến mã đau đớn hí lên. Quân Hạ kêu lên thảm thiết. Có người bị rìu lớn bổ ra làm hai nửa, máu chảy thành sông.

Người chắn đường chính là Phi Kiên!

Là Phi Kiên chi sĩ trong Thập Sĩ dưới trướng của Địch Thanh.

Phi Kiên mặc trọng giáp, cầm thiết thuẫn, vung búa thép. Ánh búa lóe lên giống như bánh xe đang lăn, siết chặt yếu đạo trên núi. Quân Hạ xung phong không có kết quả gì, lại nghe một tiếng pháo vang lên. Hai bên sườn núi, phục binh nổi lên bốn phía, tên bắn như mưa, đá lăn như sét, ầm ầm đổ xuống.

Quân Hạ đại loạn. Đậu Duy Cát quay đầu ngựa tìm kiếm đường núi khác, vất vả lắm mới chạy ra khỏi mai phục. Y thê thảm lắm mới thoát ra khỏi núi, đội thiết kỵ quân Hạ đi theo chỉ còn có mấy trăm người.

Đậu Duy Cát ngửa mặt lên trời thở dài rồi giục ngựa chạy về phía bắc. Chợt y nghe thấy tiếng vó ngựa gấp gáp từ phía bắc. Một con vật cưỡi nhanh như gió, nhanh như điện xé màn đêm lao tới phía trước mặt y.

Trong đêm tối, chỉ thấy người kia mặt mũi hung tợn.

Địch Thanh?

Là Địch Thanh! Làm sao Địch Thanh lại xuất hiện ở chỗ này? Đậu Duy Cát hoảng sợ, muốn tiếp lên nghênh chiến nhưng tinh thần đã sớm sa sút, muốn lui về phía sau chạy trốn nhưng đã muộn.

Trường đao của người kia vung lên, làm kinh động đêm đen. Một tiếng quát lớn vang lên cùng tiếng chém rụng.

Địch Thanh ở đây!

Tiếng đến ngựa đến. Ngựa đến đao vung. Đao vung đầu rơi!

Địch Thanh điên cuồng giục ngựa đuổi theo quân Hạ hai trăm dặm, truy sát trong đêm tối, giơ tay chém một đao liền bay đầu Thái thú Linh Châu Đậu Duy Cát.

Quân Hạ cuồng loạn, chạy trối chết khắp nơi.

Địch Thanh dồn sức chém Đậu Duy Cát rồi lại dừng lại nghỉ. Hắn đứng trong mưa nhìn quân Hạ chạy trốn tứ phía. Sớm đã có kỵ binh lao ra truy kích, nhưng dường như Địch Thanh đang chờ cái gì đó.

Tiếng mưa rơi tí tách trên lá khô, chảy xuôi theo tấm mặt nạ lạnh ngắt, mang theo vẻ lạnh lẽo.

Máu đã phai. Mưa như nước mắt. Mặt nạ dữ tợn kia nhìn về phương bắc suy nghĩ điều gì đó, vẻ lạnh lẽo trên mặt nạ khiến cho người ta sợ hãi.

Một người giục ngựa chạy đến, dáng vẻ tươi cười, hoàn toàn đối lập với vẻ dữ tợn của mặt nạ kia.

Người đến là Hàn Tiếu. Hàn Tiếu tươi cười, có phần tự hào nói :

- Địch tướng quân, trại Kê Xuyên đã bị phá, quân Hạ chạy trốn tứ phía. Ba đội Dũng lực, Hãm Trận, Khấu Binh đã đúng hẹn chia ra làm ba đường xuất kích. Phi Kiên phụ trách dọn dẹp hậu phương, toàn bộChấp Nhuệ chuẩn bị sắp xếp, bất cứ lúc nào cũng có thể tiếp tục xuất chiến cùng với tướng quân.

Bên trong cơn mưa thu có một đội binh mã lẳng lặng đứng phía sau Địch Thanh như một đám âm hồn.

Đội nhân mã kia cầm trong tay hoặc hoặc trường đao, hoặc búa lớn, hoặc lợi kích sắc bén...

Bọn họ là đội nhân mã đầu tiên tấn côn trại Kê xuyên. Đội nhân mã này gọi là Chấp Nhuệ.

Binh khí trong tay của bọn họ không giống nhau, nhưng hàn quang trên bính khí của họ đều lạnh lẽo như nhau. Lưỡi đao lạnh không vấy máu, máu không dính đao.

Đây là đội nhân mã thứ bảy mà Chủng Thế Hành chuẩn bị cho Địch Thanh, cũng có thể nói là thứ vũ khí thứ bảy của Địch Thanh.

Chấp Nhuệ!

Lấy nhuệ khí giành thắng lợi, lấy lưỡi dao sắc bén để tấn công.

Tử Phẫn, Dũng Lực, Hãm Trận, Khấu Binh, Phi Kiên, Chấp Nhuệ, Đãi Mệnh, toàn bộ thất sĩ đều đến đông đủ tham dự trận chiến này. Nếu Ngôi Danh Hư không chết thì có lẽ sẽ hiểu rõ. Địch Thanh giả vờ bị thương, chỉ là kéo dài thời gian để cho bảy đội nhân mã tụ tập, phát động một cuộc phản công dữ dội với quân Hạ.

Trong vòng hai ngày Địch Thanh giả vờ bị thương, hai đội của Hãm Trận và Dũng Lực lặng lẽ di chuyển, tạo thành thế tiêu diệt Ngôi Danh Hư. Còn ba đạo quân Khấu Binh, Chấp Nhuệ và Tử Phẫn đã sớm đúng hẹn mà dời binh trăm dặm, nhìn trại Kê Xuyên một cách thèm thuồng. Tam sĩ chi binh thấy Ngôi Danh Hư bại quân thối lui thì thừa dịp loạn tấn công Đậu Duy Cát.

Việc này đã được thảo luận thỏa đáng với Hàn Tiếu trước khi Địch Thanh giết Đồ Vạn Chiến.

Vì đêm nay mà Địch Thanh đã chuẩn bị nửa năm trời. Thậm chí có thể nói khi hắn vừa đến biên thùy đã chờ mong một trận chiến như vậy.

Gặp chư quân Đãi Mệnh, Địch Thanh gật đầu ra lệnh:

- Tốt lắm, bắt đầu dựa theo kế hoạch, tiếp tục truy kích. Mục tiêu lần này chính là trại Tĩnh Biên!

Trại Tĩnh Biên ở phía bắc trại Kê Xuyên mấy chục dặm. Đêm nay quân Tống đã toàn thắng, mà Địch Thanh cũng không có ý định dừng tay lại! Một trận phải đạp phá quan ải, giành lại non sông!

Tiếng thiết kỵ vang lên trong cơn mưa thu không dứt.

Hoàng hôn chiếu rực rỡ trên An Viễn, máu nhộm khắp quan ải!

Địch Thanh hăng hái ở An Viễn, chém giết ba đại cao thủ của quân Hạ là Ngôi Danh Hư, Đồ Vạn Chiến vàDạ Nguyệt Lâm, xâm nhập vào Kính Nguyên lộ của quân Hạ, phát động toàn diện phản công. Quân Tống đại thắng trại Kê Xuyên, đánh tan tác hơn vạn kỵ binh chủ lực xuôi phía nam của quân Hạ phía nam, lấy mạng Thái thú Hồng Châu Đậu Duy Cát. Quân Tống tiếp tục tấn công trại Tĩnh Biên, giành lại đất bị mất.

Quân Tống chiến đồng gia bảo, quân Tống thủ uy vinh thành.

Trong vòng vài ngày, quân Tống đã giành lại hơn nửa những vùng đất bị mất ở Kính Nguyên lộ.

Quân Hạ nghe tiếng thì chạy trốn về phía bắc, thậm chí không dám đánh một trận với Địch Thanh. Chiến thần tây bắc Địch tướng quân có lệnh, toàn bộ binh mã ở Kính Nguyên lộ phối hợp hành động lần này, cướp giết thiết kỵ của Tây Hạ ở phía bắc.

Kính Nguyên lộ toàn dân đều là binh.

Đội thiết kỵ của Địch Thanh phấn chấn, ba ngày trải qua mười một cuộc chiến lớn nhỏ, đều đại thắng, hát vang.

Mặt trời đỏ lên, sương thu ngưng đọng, trên trời cao có bóng chim nhạn làm bạn đồng hành.

Vẻ lạnh lùng bên trong đã biến mất, Địch Thanh đã giết đến Tam Xuyên Khẩu. Mấy vạn oan hồn ngày xưa đã mịt mù trong cơn mưa cuối hạ. Ngày xưa khó có thể trở về được, ngay cả những ký ức gian khổ năm đó cũng không thể trở về được.

Địch Thanh giục ngựa đi, vẫn đeo tấm mặt nạ bằng đồng xanh. Sau tấm mặt nạ ấy, chỉ có khuôn mặt hiu quạnh hơn cả cuối thu.

Khuôn mặt lạnh, ánh mắt đa tình. Địch thanh đứng cô liêu trước Tam Xuyên Khẩu, mi mắt hơi ướt.

Núi xanh vẫn thế người đã già.

Người không còn, tình núi vẫn còn.

Nhìn trời cao vút một màu, khói trên sông trải dài, hắn dường như nhìn thấy được Vũ Anh đang xua binh huyết chiến, cô đơn nói: “Huynh là người luyện võ, binh bại thì chết”. Hắn như được nhìn thấy Vương Khuê quỳ về hướng đông, bi thương nói: “Thần không thể phụ nước nhà, nhưng kỳ thực không đủ sức. Thần không dám cầu xin kẻ nào chết thay, chỉ có thể tự mình chết để đền nợ nước!”

Chuyện cũ như khắc rõ mồn một trước mắt.

Có thể nào quyên chúng huynh đệ say rượu cùng điên cuồng ca hát? Có thể nào quên chúng huynh đệ tình thâm ý trọng? Bao nhiêu năm gió đao mưa tên năm xưa trôi qua nhanh như điện, xương trắng núi hoang bi ca nhiệt huyết. Những huynh đệ đã từng là bằng hữu kia cũng không còn được thấy nữa.

Đấng tu mi phải lấy việc thành danh làm trọng, lấy việc dương danh làm mộng.

Nghĩ đến đây thì hắn không kìm nổi lòng chua xót, không kìm nổi hàng lệ rơi, không kìm nổi thở dài một tiếng.

Quân thủ trong thành Dương Mục Long đã sớm hò reo hoan hô, quân Hạ vây ngoài thành sau một đêm đã bị đánh tan hết. Địch tướng quân theo Tần Phượng lộ tiến đánh, đại chiến Kính Nguyên lộ, tiêu diệt quân chủ lực của quân Hạ, chiến đấu ở Kê Xuyên, thu lại Tĩnh Biên. Trong vòng ba ngày mà hắn liên tục chiến đấu trong hơn trăm dặm, đánh chiếm lại Tam Xuyên Khẩu, tận sức giành lại những vùng đất mà đại Tống đã mất đi suốt một năm qua.

Địch tướng quân đã dẫn binh đến gần thành Dương Mục Long.

Sau trận chiến Thủy Xuyên ở Kính Nguyên, thành Dương Mục Long đã trơ lại là một cô thành.

Binh sĩ trong thành không còn sợ hãi, cũng không cố thủ mà sớm ra nghênh đón vị tướng quân anh hùng trong suy nghĩ của bọn họ. Vó ngựa như sấm rền, tiếng hoan hô vang trời.

Địch Thanh chỉ mong rằng được nhẹ nhàng như làn khói kia bay lên trời. Biển trời mênh mang, đàn cô nhạn bay về phía mặt trời nhuộm đỏ.

Áng mây chuyển động, ở bên trong dường như hiện ra một bóng hình quen thuộc. Hình ảnh ấy mờ nhạt, như ẩn như hiện, cảm giác như tư tư sớm tối cùng nhau.

Đám mây theo gió phiêu lãng. Bên tai Địch Thanh như nghe được một tiếng gọi.

Âm thanh ấy vẫn quen thuộc như nhiều năm trước, nhẹ nhàng nồng nàn.

- Địch Thanh, huynh phải sống thật tốt, để cho muội biết… Muội không nhìn lầm vị anh hùng của muội!

Trời đất yên lặng, quan hà uốn lượn. Tam thiên quấn quýt si mê như dây cung hoa rơi, vắng vẻ trường ca. Hóa ra, mọi thứ chưa bao giờ rời đi, cũng không hề thay đổi.

Trong mắt Địch Thanh đã ngấn lệ, tràn đầy tang thương. Hắn ngẩng lên nhìn bầu trời đầy mây nghê thường kia, trong lòng lẩm bẩm:

- Vũ Thường, nàng sẽ không nhìn lầm vị anh hùng của nàng. Nàng yên tâm, ta sẽ nhanh chóng đi tới chỗ Hương Ba Lạp. Nàng nhất định phải chờ ta!

Màu trời đỏ rực ngày thu xuyên qua đám mây trôi, những tia nắng đỏ chiếu sáng khắp nơi. Ánh sáng ấm áp chiếu lên những đóa hoa dại, dịu dàng như người tình nhân đang nhẹ nhàng vuốt ve giọt sương còn sót lại trên cánh hoa.

Giọt sương trong như nước mắt, lấp lánh trong suốt dưới ánh nắng mặt trời, đóa hoa như lúm đồng tiền trên khuôn mặt người thiếu nữ trẻ.

Gió ở biên thùy nổi lên, cổ thành nồng đậm tiết thu. Sương mù dày đặc bao phủ con đường tiến đến trong thành lăng. Có nhiều tiếng sáo, không biết từ nơi nào truyền đến từng hồi ca hát, lảnh lót trào dâng, làm vỡ tan cái rét, tiếng ồn ào liên tục vang lên. Có một con chim nhạn lẻ loi bị tiếng động làm cho hoảng sợ, vỗ cánh bay lên trời cao ngàn dặm, bay qua thành Dương Mục Long để đến nơi không còn cô đơn nữa.

Bên trong phủ thành của thành Dương Mục Long, Địch Thanh nghe thấy tiếng nhạn kêu liền ngẩng đầu ngắm nhìn. Giây lát sau lại nhìn vào công văn trên bàn, lông mày nhíu lại, tóc bạc bên thái dương giống như thu muộn ngưng sương.

Kính Nguyên lộ thắng lớn, thu phục cố thổ. Tướng sĩ ở biên thùy Đại Tống đều rất sôi nổi, tinh thần dâng cao, chỉ đợi Địch Tướng quân ra lệnh một tiếng, mọi người lập tức ngựa đạp qua Hoành Sơn, tiếp tục chiến đấu với quân Hạ.

Địch Thanh lại nghĩ, mọi việc không đơn giản như vậy. Theo tin nhận được, hôm nay, Không Tàng Ngộ Đạo thống lĩnh quân Tây Hạ phòng ngự ở Hoành Sơn, điều Sơn Ngoa nghiêm mật tử thủ tuyến đường Hoành Sơn. Quân Tống muốn qua Hoành Sơn, sao dễ dàng như vậy? Từ sau khi Địch Thanh chiến thắng ở đường Kính Nguyên lộ, cũng không dám lơ là, tích cực chuẩn bị chiến sự đề phòng Nguyên Hạo phản kích, lại sớm phái các binh sĩ Đãi đi tìm hiểu động tĩnh của quân Hạ.

Mấy ngày nay, ngoại trừ việc trấn an dân chúng trong thành, lại tiến hành tế lễ cho Vương Khuê đã tử trận. Dân chúng bên trong thành vốn đã vì cái chết của Vương Khuê mà lập nhiều mộ chôn quần áo và di vật, thành Dương Mục Long này có thể thủ vững mấy tháng, cô thành không bị phá, đều là nhờ vào cái chết của Vương Khuê đã kích động nhiệt huyết của dân chúng.

Cô thành: thành trì bị cô lập, không có tiếp viện.

Lúc Địch Thanh tế bái, quân sĩ và dân chúng trong thành Dương Mục Long vui buồn lần lộn. Buồn vì cái chết của Vương Khuê, vui vì cuối cùng Tướng quân cũng có thể chống đỡ tình hình chiến tranh ở Tây Bắc.

Chưa đến một tháng, Địch Thanh đã dùng hành động tạo ra uy vọng vô thượng trong lòng dân chúng. Uy vọng này ở Tây Bắc không ai có thể sánh được.

Lúc này, Địch Thanh đang xem bản đồ của biên thùy Tây Bắc, sau đó cẩn thận suy tính xem kế tiếp nên hành động thế nào.

Lúc này, ở ngoài phủ truyền đến tiếng vó ngựa. Giây lát sau, Hàn Tiếu tiến vào phủ, tiến lên bẩm báo:

- Địch Tướng quân, quân Hạ ở phía nam thành Dương Mục Long đã rút hết khỏi Kính Nguyên Lộ. Quân Hạ ở trước trại Tam Xuyên cũng có dấu hiệu lui quân về phía bắc… Mấy ngày qua, quân ta giết quân Hạ hơn vạn, thu được vô số khôi giáp và chiến mã…

 Quyển 3: Xạ Thiên Lang

Chương 334 - 338: Thừa thiên

Địch Thanh gật đầu nói:

- Giặc cùng chớ đuổi. Lệnh cho quân ta tiến đến trại Tam Xuyên thì d뮧 lại, dựa vào địa thế Lục Bàn Sơn tiến hành phòng ngự, đề phòng quân Hạ phản kích. Lệnh cho quân và dân tại các bảo trại của Kính Nguyên Lộ tu sửa công sự, tích cực chuẩn bị chiến tranh! 

Hàn Tiếu lĩnh mệnh, định lui ra thì Địch Thanh đột nhiên nghĩ tới một chuyện, bèn hỏi:

- Lần trước phái người đi Sa Châu vẫn chưa có tin tức sao?

Sắc mặt Hàn Tiếu có chút do dự rồi nói:

- Địch Tướng quân, ở xung quanh Sa Châu Đôn Hoàng, Nguyên Hạo cho trọng binh mai phục, còn phái Dã Lợi Ngộ Khất trấn thủ. Lúc này, người thường căn bản là không thể tới gần nơi đó, chớ nói chi là tìm hiểu tin tức.

Địch Thanh gật đầu:

- Tốt! Ta biết rồi. Nói các huynh đệ đi Sa Châu cẩn thận một chút, tùy cơ mà hành sự.

Hàn Tiếu lui ra, Địch Thanh ngồi trong nội đường, âm thầm suy tư.

Hóa ra sau khi quân Tống liên tiếp thất bại phải lui binh, triều đình nhà Tống hoảng hốt, không nghĩ tới cái họ gia nô Nguyên Hạo từng ban thưởng ở Tây Bắc, không ngờ hai lần đánh bại đại quốc to lớn. Triệu Trinh gọi bách quan lại tới hỏi biện pháp, không có hiệu quả, triều đình cũng đành bó tay không có biện pháp. Phạm Trọng Yêm tiến lên đặc biệt đề bạt Địch Thanh tới trấn thủ tạiKính Nguyên Lộ, bách quan phản đối, cho rằng thời gian này Địch Thanh thăng chức qua nhanh, không hợp lý. Mặc dù Triệu Trinh vẫn không quyết định, nhưng lửa cháy đến nơi, nghe thấy Địch Thanh liên tiếp chiến thắng, vì mặt mũi, không do dự nữa, lập tức lệnh cho Địch Thanh tổng lĩnh công việc của Kính Nguyên Lộ, các châu huyện toàn lực phối hợp hành động với Địch Thanh.

Sau khi Địch Thanh tiếp quản Kính Nguyên Lộ, không nóng nảy gióng trống khua chiêng, chỉ âm thầm điều nhân mã Thất Sĩ tới Kính Nguyên. Có đám người Đằng Tử Kinh, Bàng Tịch, Phạm Trọng Yêm toàn lực phối hợp, rồi sau đó âm thầm phản kích một đòn sấm sét, một hơi đánh đuổi quân Hạ ra khỏi Kính Nguyên Lộ.

Chiến dịch này, Địch Thanh mưu tính đã lâu, nhưng hắn biết, thắng lợi chỉ là tạm thời. Lúc này, việc cấp bách nhất chính là làm cách nào mới có thể khiến Nguyên Hạo không còn có thể quấy rối biên giới nước Tống. Hơn tháng trước hắn đã đưa thư lên Triệu Trinh, đề xuất một ý tưởng to gan lớn mật, nhưng không biết Triệu Trinh có dám quyết đoán thực thi nó hay không…

Trong lúc Địch Thanh đang chìm vào suy tư, có một binh sĩ tiến vào bẩm báo:

- Địch Tướng quân, Chủng Đại nhân đã tới.

Tinh thần Địch Thanh chấn động, phủi áo đứng lên, vội nói:

- Mau mời!

Hắn không đợi Chủng Thế Hành vào phủ mà đích thân ra ngoài nghênh đón. Lúc Chủng Thế Hành tiến vào, trên khuôn mặt xanh xao tràn đầy hưng phấn. Sau khi nhìn thấy Địch Thanh, y giơ ngón cái lên nói:

- Địch Thanh tiểu tử, trận đánh rất hay.

Địch Thanh cười nói:

- Thân mang trọng trách mà thôi, có điều cũng chỉ mới bắt đầu thôi.

Hắn để ý thấy phía sau Chủng Thế Hành còn có một người, người này ăn mặc giống quan lại ở kinh thành, tai to môi dày, khuôn mặt trung hậu, nhưng hai tròng mắt sáng ngời, ẩn chứa vẻ nghiêm nghị.

Chủng Thế Hành gặp ánh mắt dò hỏi của Địch Thanh liền giới thiệu:

- Địch Thanh, đây là Tri chế cáo Phú Bật Phú Đại nhân trong triều.

Phú Bật chắp tay làm lễ, nói ngay vào điểm chính:

- Địch Tướng quân, ta phụng lệnh Thánh thượng, đặc biệt tới tìm ngài. Trên đường gặp Chủng Đại nhân, bởi vậy cùng nhau đến.

Trong lòng Địch Thanh khẽ động, thầm nghĩ Tri chế cáo lệ thuộc Lưỡng chế, nghe nói là ở trong triều là do Hàn Lâm Học Sĩ đảm nhiệm. Người này được Thánh thượng phái tới, chẳng lẽ là đã có quyết định về vấn đề mình đề cập trong thư? Vội nhường đường:

- Hai vị Đại nhân, mời!

Lúc này, mặc dù Địch Thanh là tổng lĩnh chiến sự Kính Nguyên Lộ nhưng quân hàm chỉ là Thứ sử Tần Châu. Chủng Thế Hành cũng vì công mà thăng chức, hiện nay quản lý Hoàn Châu. Mặc dù chức quan của hai người không thấp, nhưng vẫn còn kém Phú Bật.

Sau khi vào hậu đường, Địch Thanh mời Phú Bật ngồi. Phú Bật lắc đầu nói:

- Từng nghe uy dang của Địch Tướng quân, vẫn chưa có duyên gặp mặt. Hôm nay được gặp, thật là may mắn ba đời. Địch Tướng quân có công, xin ngồi trước.

Địch Thanh có chút kinh ngạc, thầm nghĩ quan văn trong triều trừ đám người Phạm Trọng Yêm, Bàng Tịch ra, số còn lại đều là loại kiêu căng, không ngờ Phú Bật này lại có khí phách như vậy, thật sự khó gặp.

Thấy thần sắc thành khẩn của Phú Bật, Địch Thanh lòng mang việc nước, không hề khách sáo. Sau khi mọi người phân chủ khách ngồi xuống, Địch Thanh lập tức hỏi:

- Không biết lần này Phú Đại nhân đến đây có việc gì?

Phú Bật khẽ mỉm cười, lấy từ trong người ra một chiếu thư, đưa cho Địch Thanh rồi nói;

- Địch Tướng quân, mời tự xem.

Địch Thanh tiếp nhận chiếu thư, xem xong, gương mặt vui mừng nói:

- Thánh thượng đồng ý đề nghị của hạ quan rồi hả?

Phú Bật gật đầu nói:

- Ý tưởng của Địch Tướng quân không mưu mà hợp với suy nghĩ của Thánh thượng. Thánh thượng lo lắng tình hình chiến sự Tây Bắc, bởi vậy lệnh cho ta đến phối hợp hành động với Địch Tướng quân, tới thành Thanh Đường, tùy cơ ứng biến.

Chủng Thế Hành vẫn im lặng không nói gì, khi nghe được ba chữ “thành Thanh Đường”, tinh thần run lên, trên mặt có nét vui mừng.

Địch Thanh thở phào, trong ánh mắt mang theo sự kỳ vọng, lại hỏi:

- Không biết Phú Đại nhân định khi nào khởi hành?

Phú Bật nói:

- Việc quân như lửa, chậm một khắc, nói không chừng sẽ có không ít biến số. Ta có thể cùng Địch Tướng quân tới thành Thanh Đường bất cứ lúc nào!

Địch Thanh thấy Phú Bật làm việc quả quyết, không có nửa phần do dự của văn nhân, trầm ngâm nói:

- Hôm nay đã muộn, chi bằng mời Phú Đại nhân nghỉ tạm trong thành một đêm. Hạ quan chuẩn bị một chút, sáng sớm ngày mai xuất phát, không biết đại nhân thấy thế nào?

Phú Bật đứng dậy thi lễ:

- Đoạn đường này… làm phiền Tướng quân.

Địch Thanh đáp lễ, cười nói:

- Đây là bổn phận của hạ quan, Phú Đại nhân khách sáo quá rồi.

Địch Thanh nói xong liền phái người đưa Phú Bật về phủ nghỉ ngơi. Sau đó Chủng Thế Hành hỏi:

- Địch Thanh, Thánh thượng thật sự đồng ý liên hợp Thổ Phiên công đánh Nguyên Hạo sao?

Địch thanh chậm rãi gật đầu, trầm ngâm nói:

- Ngày trước, Phạm công, Bàng Đại nhân, ta và ngài cảm thấy phải bóp chặt thế công của Nguyên Hạo. Lúc này, chỉ dựa vào binh lực của Đại Tống khó mà làm được. Nếu có thể liên hợp với Thổ Phiên, hai đường tấn công nước Hạ, khiến cho Nguyên Hạo trước sau đều gặp khó khăn, có thể đè bẹp nhuệ khí của y. Thánh thượng cuối cùng cũng đồng ý đề nghị của ta. Lần này phái Phú Đại nhân đi sứ thành Thanh Đường, đi gặp Cốc Tư La, thuyết phục bọn họ liên kết xuất binh. Thánh thượng còn lệnh ta bảo vệ Phú Đại nhân, tùy cơ ứng biến. Lão Chủng, nếu thật sự có thể thuyết phục người Thổ Phiên xuất binh, chúng ta sẽ tiến công Ngân, Hồng, Hựu Châu của nước Hạ. Người Thổ Phiên tiến công Qua, Sa, Lương Châu. Nếu có thể thành công, không khác nào chặt đứt hai cánh tay của Nguyên Hạo, chặn đánh Nguyên Hạo, như vậy là đã lập không ít công lớn…

Vẻ mặt Địch Thanh đầy hưng phấn. Hắn chờ đợi nhiều năm, chính là đang chờ cơ hội này.

Chủng Thế Hành ở bên cạnh bĩu môi, giội một gáo nước lạnh:

- Ngươi nghĩ thật hay quá. Có thể thuyết phục Cốc Tư La xuất binh hay không còn là vấn đề. Thuyết phục được bọn họ xuất binh, có thể hành động đúng như ngươi nói hay không, lại là một việc khác. Người Tạng thần bí khó nắm bắt, thậm chí ta còn hoài nghi, ngươi đi tới đó, có thể nhìn thấy Cốc Tư La hay không, có còn sống mà trở về hay không…

Địch Thanh thấy hai hàng lông mày của Chủng Thế Hành nhíu chặt, lặng lẽ cười:

- Lão Chủng, ngươi yên tâm đi. Mạng ta rất cứng, những năm qua, ông trời cũng không muốn thu ta… Lần này cũng sẽ không thu.

Chủng Thế Hành ngắm nhìn khuôn mặt đầy vẻ sương trần của Địch Thanh, hồi lâu mới nói:

- Địch Thanh, ta có một câu muốn hỏi ngươi… Ngươi liên hợp Thổ Phiên muốn cướp hai địa phương Sa Châu, Qua Châu, là vì Đại Tống… Hay còn vì điều gì khác?

Địch Thanh bỗng nhiên trầm xuống.

Chủng Thế Hành nghiêng đầu đi, lẩm bẩm nói:

- Mặc dù Triệu Minh đã vẽ ra địa điểm này, nhưng trong này núi lở, toàn bộ địa hình đã thay đổi, đi theo đường cũ khẳng định là không được nữa rồi. Quân Hạ ở phụ cận canh giữ nghiêm cẩn, chúng ta không thể tiếp cận Hương Ba Lạp… Như vậy, nếu như có thể liên kết với người Thổ Phiên đoạt lại, quay về Sa Châu, tiến nhập Hương Ba Lạp sẽ thuận tiện hơn rất nhiều.

Địch Thanh đột nhiên nói:

- Lão Chủng, ngươi xem ta là loại người gì!

Chủng Thế Hành hơi ngạc nhiên, ngẩng đầu nhìn Địch thanh, chỉ thấy hai tròng mắt của Địch Thanh lóe sáng, ánh mắt thành khẩn. Địch Thanh tiến lên một bước, trầm giọng nói:

- Lão Chủng, ta muốn đến Hương Ba Lạp, nằm mơ cũng muốn. Nhưng những năm qua, ta biết… Có rất nhiều chuyện, không phải muốn là có thể làm. Ngươi, Quách Đại ca, Diệp Bộ đầu, còn có rất nhiều người vẫn vì chuyện của ta mà bôn ba, ta rất cảm kích các người. Ta cũng muốn nói cho ngươi biết một câu…

Địch Thanh tạm ngừng, thốt ra từng chữ:

- Ngươi phải tin tưởng ta, ta sẽ lấy việc nước làm trọng.

Chủng Thế Hành nhìn chằm chằm Địch Thanh, một lúc lâu sau mới nói:

- Không phải ta không tin ngươi. Địch Thanh, ngươi đã đáp ứng ta, toàn lực tác chiến, vì dân chúng Tây Bắc mà đánh, ngươi làm được. Nhưng ta… Ta phụ sự tín nhiệm của ngươi. Bấy lâu nay ta vẫn không tận lực giúp ngươi điều tra… Trong lòng ta thật hổ thẹn.

Đôi mắt ông lão có chút đỏ lên, mặt tràn đầy vẻ áy náy, che miệng ho.

Ngược lại, Địch Thanh lại mỉm cười, vỗ nhẹ vào bả vai Chủng Thế Hành:

- Năm đó tiên đế tận lực cả nước cũng không tìm được Hương Ba Lạp, ngươi nhận làm công việc khó nhất thiên hạ này, ta đã chiếm tiện nghi rồi. Lão Chủng, tất cả đều do mệnh trời, ngươi không cần vội vàng. Chỉ cần chúng ta đánh hạ Sa Châu, tất cả mọi chuyện tự nhiên sẽ như nước chảy thành sông.

Hắn an ủi Chủng Thế Hành như thế, nhưng đến cuối cùng có đánh hạ được Sa Châu, trong lòng hắn cũng không nắm chắc.

Chủng Thế Hành không khỏi thở dài:

- Ôi… Ông lão ta đã bao nhiêu tuổi rồi, vậy mà lại để ngươi an ủi. Tốt lắm. Không nói nhiều, ngươi đi Thanh Đường phải cẩn thận. Hy vọng ngươi có thể thuận lợi thuyết phục Cốc Tư La xuất binh, lấy Sa Châu. Đến lúc đó chúng ta bình Tây Hạ, ngươi nổi danh thiên hạ, ta cũng không cần phải chạy tới chạy lui, có thể an tâm buôn bán… phát tài lớn…

Vẻ mặt Chủng Thế Hành tràn đầy khao khát. Địch Thanh khẽ mỉm cười, lẩm bẩm nói:

- Kỳ thật ta cũng không muốn nổi danh thiên hạ…

- Vậy ngươi muốn cái gì?

Chủng Thế Hành mở miệng hỏi. Đột nhiên tỉnh ngộ, không nói gì.

Địch Thanh cũng không trả lời, chỉ quay đầu nhìn ra phía ngoài nhà.

Trời tối, một sắc thu dựa trông quan ải, không biết nơi đó ra sao, trăng tàn biến mất khỏi chân trời.

Trăng tàn, sáng nhẹ, nhẹ rơi xuống chân trời, giống như sương buồn vung vẩy trên đất.

Địch Thanh nhìn trăng tàn, khuôn mặt lạnh băng, trong lòng tự nhủ:

- Địch Thanh ta không cần thiên hạ, chỉ cần Vũ Thường!

Chủng Thế Hành nhìn khuôn mặt sắc cạnh như đao,như đúc bằng sắt thép kia, đôi mắt không kìm được đỏ lên, dùng ống tay áo lau lau nước mắt, lẩm bẩm nói:

- Tiểu tử ngốc…

Bình minh lên, Hàn Tiếu sớm đã chuẩn bị thỏa đáng. Địch Thanh chỉ dẫn theo Hàn Tiếu và mấy tên thủ hạ, cùng Phút Bật ra khỏi thành Dương Mục Long , một đường tiến về phía tây.

Địch Thanh, Phú Bật gánh trách nhiệm nặng nề trên vai, theo lệnh vua ban, lặng lẽ đi sứ Tây Tạng, phải thuyết phục Cốc Tư La và quân Tống liên hợp xuất binh, tấn công nước Hạ!

Tính tới thời điểm này, Khiết Đan, Đại Tống, nước Hạ là các nước mạnh nhất.

Tuy nhiên, những năm gần đây, lực lượng quân Cốc Tư La đất Thổ Phiên, xuất hiện lực lượng mới, đã tuyệt đối không thể bỏ qua.

Năm đó, khi Nguyên Hạo đánh Cao Xương, đánh dân tộc Hồi Hột, vốn định thừa dịp nhập vùng đất người Thổ Phiên vào bản đồ, nhưng không ngờ gặp phải quân Cốc Tư La ngăn cản mãnh liệt. Nguyên Hạo thế mạnh, nhưng Cốc Tư La trấn thủ thành Thanh Đường, dùng kế vườn không nhà trống, bằng một trăm ngàn tín đồ trú binh bên bờ sông Tông Ca. Cuộc chiến của Nguyên Hạo diễn ra trong thời gian gần một năm, nhưng không thể đẩy lùi quân Cốc Tư La nửa bước. Khi Nguyên Hạo lương thảo không còn nhiều, lòng quân dao động, Cốc Tư La đã lấy khỏe thắng yếu, kết quả là quân Nguyên Hạo bị đại bại trên sông Tông Ca.

Có thể nói là thất bại chiến dịch trên sông Tông Ca trong suốt cuộc đời Nguyên Hạo ít có thảm bại, khiến cho từ đó về sau, ngay cả ngựa của quân Hạ, cũng không dám uống nước sông Tông Ca nữa. Sau đó, Cốc Tư La đặt điện Nhất Dịch ở vị trí cao nhất của đất Thổ Phiên.

Nhưng sau đó, bên trong nội tộc Cốc Tư La có phản loạn, Quy Nghĩa Quân Tào Hiền có ý đầu hàng Nguyên Hạo. Nguyên Hạo thu nạp Qua Châu, Sa Châu và những nơi khác, khuếch trương thế lực thêm một bước nữa. Cốc Tư La ra sức bình định, không đủ sức để lấy lại hai địa phương Qua Châu, Sa Châu, chỉ có thể cầm cự với Nguyên Hạo.

Lúc này, đất của Cốc Tư La ở phía đông tới Tần Châu nước Tống, phía bắc giáp nước Hạ, phía tây đi qua Thanh Hải, tạo thành một khối cường thịnh nhất phía tây nam.

Địch Thanh nghĩ đến đây, đã qua đường Địch Đạo ở Lũng Tây.

Đạo lí truyền thống, an nhiên tự tại. Con đường nhà Hán, hồ cát bay lên...

Trên suốt dọc đường hắn đi cùng Phú Bật, nhưng thật ra lại rất ít nói chuyện. Sau khi vào Địch Đạo, đột nhiên nói:

- Địch tướng quân cũng biết chuyện trước đây của Địch Đạo sao?

Địch Thanh lắc đầu, mặt toát mồ hôi nói:

- Ta biết chút ít qua sách...

Phú Bật khẽ mỉm cười,

- Ta nghe Phạm Công nói, Địch tướng quân ít đọc sách, biết dụng binh. Thật ra, chinh chiến bắc nam, biết dụng binh là việc cần kíp. Ít đọc sách không ảnh hưởng tới đại sự, sau này đọc nhiều một chút là được. Binh dùng không được giỏi, nhưng phải trọng mạng người.

Địch Thanh thấy thái độ Phú Bật khiêm hòa, cảm thấy hứng thú nên hỏi:

- Hình như Phú đại nhân có quan hệ rất tốt với Phạm Công thì phải?

Phú Bật cảm khái nói:

- Phạm Công có thể có quan hệ xã hội không tốt, nhưng là người rất ít tư thù cá nhân. Năm đó, khi ta buồn bực vì thất, còn Phạm Công may mắn được đề cử, bởi thế mới có vinh quang như ngày hôm nay. Nói ra thì Phạm Công như là ân sư của ta rồi.

Địch Thanh biết được từ miệng của Chủng Thế Hành, Phú Bật này vốn là con rể của trọng thần trong triều - Yến Thù, nhưng không nghĩ lại từng có liên quan tới Phạm Trọng Yêm. Trong lòng thầm nghĩ, ông ta có thể được Phạm Công đề cử, tuyệt đối cũng phải là kém cỏi gì.

Phú Bật thấy phương xa bụi bay mù mịt, nói:

- Chốn cũ Địch Đạo Lý Đường vốn đã có không ít anh hùng hào kiệt. Ngoại trừ Hoàng đế khai quốc Đại Đường Lý Uyên ra, nhớ tới triều đại nhà Hán, đã từng xuất hiện phi tướng quân Lý Quảng. Phi tướng quân Công Tích khó có thể thắng số, vận mệnh ngắn ngủi... Nhưng người đời sau chỉ bằng một câu ''Đãn sử long thành phi tương tại, bất giáo hồ mã độ âm sơn” đã khiến lưu danh thiên cổ!

Đãn sử long thành phi tương tại, bất giáo hồ mã độ âm sơn!

Phi tướng Long Thành Lý Quảng, mạnh mẽ giương cung giết giặc, rốt cục khiến cho người Hồ không dám khinh thường Trung Nguyên!

Lúc Địch Thanh nghe kịp được hai câu này, cũng là lúc nhiệt huyết trào dâng. Nhưng hắn không biết tại sao Phú Bật lại có câu cảm thán này?

Tiếng Phú Bật vòng vọng tới Địch Thanh, thành khẩn nói:

- Địch tướng quân, từ xưa “Phùng đường Dịch lão, Lý Quảng khó phong” thành thật đáng tiếc cho việc đó. Người mà vừa có tài, có khả năng, thất bại cũng là chuyện thường. Phạm Công nhiều lần cảm thán, nói Địch tướng quân nhất định có thể trở thành danh tướng để đời, nhưng bị quản chế trong tổ tông gia pháp, vẫn khó có thể là nhân tài toàn diện... Mỗi lần ta nghĩ tới điều đó, trong lòng đều thấy không yên tâm.

Địch Thanh cười nói:

- Ta, thân có thể theo nghiệp nhà binh đến được địa vị hôm nay, đã là may mắn lắm rồi. Phú đại nhân quá khen.

Phú Bật lắc đầu nói:

- Địch tướng quân có thể có địa vị hôm nay, là bằng chiến công gây dựng nên, làm sao có thể nói là may mắn? Địch tướng quân, Phạm Công và chúng ta đều kỳ vọng cao ở tướng quân, chỉ mong tướng quân có thể giống như Phi tướng quân, bật ngựa vung đao, bình định tây bắc, khiến người Hồ không dám đảo loạn Trung Nguyên, làm cho thiên hạ yên ổn. Ta nguyện dốc hết sức lực, đem giúp việc cho tướng quân, cũng mong tướng quân chớ tự coi nhẹ mình, lại lập kỳ công. Như nay thiên tử phấn chấn, phải nghĩ kế sách làm cho nước hưng thịnh, đúng là ta và tướng quân cùng đang có cơ hội thật tốt.

Địch Thanh thấy thần sắc Phú Bật chân thành tha thiết, sau một lúc lâu mới nói:

- Địch mỗ ta sẽ cố gắng hết sức để không phụ lòng mong đợi của mọi người.

Nụ cười của Phú Bật lộ vẻ vui mừng, thay đổi đề tài nói:

- Người nước Hạ mấy lần tấn công Tống Cảnh. Thiên tử tức giận, lúc này mới dốc hết sức chủ chiến. Nhưng nghe nói trước đây ít năm, Cốc Tư La bổn phái Bất Không đến kinh thành, mời Thái hậu xuất binh hợp sức đánh Nguyên Hạo...

Địch Thanh nhớ tới Bất Không, trong giây lát lại nghĩ tới đám người Quách Tuân, thần sắc thổn thức. Sau này, hắn lại theo lời kể của Diệp Tri Thu biết được, Bất Không còn từng yêu cầu ngũ long với Thái hậu...

Phú Bật tiếc hận nói:

- Khi đó, vốn có cơ hội tốt để tiêu diệt Nguyên Hạo. Nhưng lúc trước, Thái hậu không chú ý tới tây bắc, cuối cùng làm cho sự việc không thành. Lần này, ta gánh trách nhiệm nặng nề trên vai, muốn thuyết phục Cốc Tư La xuất binh, nhưng cuối cùng có thể được hay không, trong lòng cũng không chắc chắn. Không biết Địch tướng quân... Có đề nghị gì không?

Địch Thanh do dự một chút, nói:

- Phú đại nhân, nhớ năm đó dù sao cũng là Thái hậu làm chủ, ông và những người khác không có liên quan. Hiện giờ, Thái hậu đã đi về cõi tiên, chuyện cũng đã là quá khứ rồi.

Ý hắn lúc này chính là, cho dù năm đó Cốc Tư La bị triều đình nhà Tống cự tuyệt, không có quan hệ gì tới Triệu Trinh. Địch Thanh lại nói:

- Người Tây Tạng, người nước Hạ trở mặt nhiều năm, oán hận chất chứa từ xưa đến nay. Theo ta được biết, Cốc Tư La vẫn... Cố ý dây dưa, vùng Sa Châu – Lưỡng Châu, hiện giờ có cơ hội mở cửa, có lẽ sẽ không bỏ lỡ cơ hội này.

Phú Bật gật đầu nói:

- Địch tướng quân, lời nói này rất đúng.

Trong lòng thầm nghĩ, "Địch Thanh tuy là người luyện võ, nhưng rất có kiến giải, ngược lại suy nghĩ rất hợp với mình rồi". Y vừa bắt đầu đề cập tới Triệu Trinh, Phạm Trọng Yêm, thì đã có cảm nhận rất tốt đối với Địch Thanh. Hôm nay, được một phen ngôn luận, cũng làm cho Phú Bật hiểu rõ hơn về Địch Thanh, đồng thời càng kính trọng hắn hơn.

Hiện giờ hai nướcTống, Hạ giao binh, cắt đứt qua lại buôn bán. Nếu có người buôn bán, thì phần lớn bắt nguồn từ Tần Châu, đi theo con đường Địch Đạo, chạy dọc thành Thanh Đường. Hoặc là kết giao với người Tây Tạng, hay thương nhân Tây Vực để kinh doanh buôn bán. Dọc theo đường đi, thương nhân đông như dệt cửi, vì thế thêm phần náo nhiệt.

Bởi có Hàn Tiếu đi theo, Địch Thanh không cần lo lắng quá nhiều. Phú Bật chọn tuyến đường đi hướng tây, nên không thể đi trong một ngày. Đang vào mùa thu, xa xa những dãy núi xanh uốn lượn quanh con sông lớn. Phóng tầm mắt nhìn tới tận cùng sẽ phát hiện ra một tòa thành lớn.

Hàn Tiếu không đợi Địch Thanh hỏi, đã nói:

- Địch tướng quân, con sông kia chính là sông Tông Ca, tên thành trước đây là thành Tông Ca, đầu mối then chốt của người Thổ Phiên, cũng là con đường giao lưu buôn bán. Đi qua thành Tông Ca mất một ngày đường thì có thể đến thành Thanh Đường rồi.

Địch Thanh ngẩng đầu nhìn trời, đề nghị:

- Phú đại nhân, trời đã tối, hôm nay chúng ta xuống nghỉ tạm một chút, ngày mai sẽ xuất phát, đại nhận thấy thế nào?

Phú Bật tuy là nóng vội, nhưng dù sao cũng là văn nhân, xa kinh thành theo ra biên thuỳ, lại đi vào trong đất Thổ Phiên nên rất mỏi mệt. Thấy Địch Thanh nói như vậy, biết là Địch Thanh suy nghĩ, lo lắng cho sức khỏe của y, trong lòng cảm kích, liền lập tức đồng ý.

Lần này, Phú Bật đi sứ Thổ Phiên, là đi bí mật, cho nên Địch Thanh cũng không khuếch trương. Ở trong thành, Hàn Tiếu đã tìm một căn nhà trọ để trú chân. Nhà trọ đơn sơ, đủ mọi hạng người. Trong nhà trọ tràn đầy mùi gay mũi. Thứ có thể uống chỉ có thể là hai hũ đen như mực đó là nước bơ trà——và hũ rượu lúa mạch cay sặc mũi.

Lần đầu tiên, Địch Thanh ở lại vùng đất của người Tây Tạng, và cũng là lần đầu tiên uống trà bơ. Lúc vừa đưa trà vào miệng, gần như muốn phun ra. Loại trà đó nồng ngấy như dầu, không biết là ngọt hay là mặn, có mùi vị cực kì khác thường. Ngược lại, Phú Bật thì thản nhiên, uống trà bơ từng ngụm một. Địch Thanh có chút kinh ngạc, hỏi:

- Phú đại nhân, ngài có thể uống loại trà này sao?

Phú Bật lắc đầu, lại cười nói:

- Nhập gia tùy tục, nếu không có sự lựa chọn, thì sẽ thích ứng được thôi. Những cái này ăn thua gì. Thật ra, ta cũng từng khổ, tuy nhiên... rốt cục cũng không thấy khổ như Phạm Công.

Địch Thanh ngạc nhiên nói:

- Sao lại khổ như Phạm đại nhân?

Phú Bật bưng bát trà, nhớ lại nói:

- Nghe người ta nói, khi Phạm Công đi tới phủ Ứng Thiên học, trải qua cuộc sống cực kỳ bần hàn, cả ngày nấu cháo ăn đỡ đói. Lúc trời lạnh, khi cháo đã đông lại thì chia làm bốn phần, ăn làm hai bữa sớm và tối…

Địch Thanh nhớ rõ, Quách Tuân đã từng nói với hắn về việc này. Nhớ lại trước kia, nhớ tới Quách Tuân, lòng đầy thương cảm.

Phú Bật lại nói:

- Ta tự cảm thấy không bằng Phạm Công, nhưng cũng sẽ cố gắng hết sức nêu gương ông ta. Nếu mới có chút đắng mà đã không thể uống, thì thật sự là đừng tới Tây Tạng nữa. Trà bơ tuy có mùi vị khác thường, nhưng có tác dụng làm cho cơ thể khỏe mạnh đấy. Tây Tạng lạnh khủng khiếp. Bởi vì ít rau xanh cho nên người Tây Tạng mới lấy từ lá trà để hấp thu chất dinh dưỡng, tăng cường sức khỏe. Nếu một người như Địch tướng quân giờ phút này chỉ sợ sớm đã có thể nhìn thấy Cốc Tư La, ta e làm liên lụy tới hành trình của các ngài, chỉ còn trông cậy vào trà bơ này, giúp ta một chút nữa.

Địch Thanh thấy trong câu cảm thán của Phú Bật, mang theo sự quật cường cương nghị, cảm thấy kính nể, gật đầu nói:

- Nếu như trong triều mọi người đều nghĩ như Phú đại nhân, thì triều đình của ta có gì mà phải lo không hưng thịnh chứ?

Đề tài vừa chuyển, liền cười nói:

- Chẳng qua là ta vẫn còn muốn uống thêm chút rượu nữa, Phú đại nhân, ta đi ra ngoài xem trước một chút...

Địch Thanh đi ra khỏi đó, đến đại sảnh của quán trọ, xông lên mũi chính là tổng hợp các mùi trà sữa, hương nến và rượu mạnh pha trộn vào nhau. Địch Thanh lặng lẽ ngồi xuống một góc, kêu rượu mạnh và thịt dê, nhìn ra cửa.

Mỗi khi đến một chỗ nào đó, theo thói quen, Địch Thanh ngồi chờ tin tức Hàn Tiếu. Trời đã tối, ngoài nhà dấy lên lửa trại, đống lửa cháy đùng đùng.

Ánh lửa sáng rọi xuống, mọi người hô quát đấu rượu, trong quán ồn ào khác thường. Địch Thanh thấy thế, lại nhớ tới năm đó, các huynh đệ uống rượu, vẻ mặt buồn bã. Đột nhiên nghe thấy trước cửa có tiếng bước chân vang lên, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn người đi qua, thấy Hàn Tiếu đi tới, đột nhiên thần sắc hơi khác thường.

Hàn Tiếu đang định nói với Địch Thanh cái gì đó, thấy vẻ mặt Địch Thanh là lạ, nên hỏi:

- Địch... Đại ca, chuyện gì thế?

Y không lộ thân phận, xưng huynh đệ với Địch Thanh.

Địch Thanh bỗng nhiên đứng dậy, khẽ nói:

- Đợi một chút.

Thân hình hắn chợt lóe, đã ra tới bên ngoài nhà trọ. Ngoài nhà trọ đang có hai người đi qua, thấy Địch Thanh xuất hiện giống như ma quỉ, giật nảy người, liền lui về phía sau hai bước.

Địch Thanh thoáng nhìn, thấy hai người kia, cách ăn mặc một người giống như thư sinh, một người khác càng giống như là một thư đồng, nên không để ý tới. Hắn lại nhìn về hướng bên phải nhà trọ, chỉ thấy phố dài vắng vẻ, có lửa sáng lóng lánh, ở đầu kia con đường, cũng không có bóng dáng con người.

Địch Thanh cau mày, liền đi về hướng kia một lúc lâu. Cuối cùng cũng không gặt hái được gì, trong lòng thấy kì lạ, thầm nghĩ: đúng là y sao? Tại sao lại là y? Làm sao y có thể đi đến nhanh như vậy? Chẳng lẽ ... Y phát hiện ra mình, cho nên trốn tránh không gặp?

Địch Thanh đang trầm ngâm, Hàn Tiếu đã chạy tới nói:

- Địch đại ca, làm sao vậy?

Địch Thanh nhẹ giọng nói:

- Ta nhìn thấy một người, hình như là Diệp Hỉ Tôn.

Hoá ra, mới vừa rồi, Địch Thanh thấy ở ngoài cửa có một người lướt qua, thân hình người kia thanh nhàn như nhạn, ngờ ngợ giống như từng gặp qua. Lại thấy thần sắc người đó cao ngạo, lông mày vẹo nhập tấn, lúc đó liền nghĩ đến, người này hình như là Diệp Hỉ Tôn!

Địch Thanh từng gặp Diệp Hỉ Tôn hai lần, suy xét mãi vẫn không ra lai lịch của người này. Sau đó, vì nghi Diệp Hỉ Tôn là kẻ khả nghi đã giết Tào Hiền Anh, lấy bản đồ Hương Ba Lạp, Địch Thanh lại nhờ Chủng Thế Hành lưu ý người này nhiều hơn. Nhưng từ đó về sau, Diệp Hỉ Tôn lặn mất tăm... không thấy bóng dáng đâu nữa. Địch Thanh không nghĩ lúc gần như đã quên thì người này lại bỗng dưng xuất hiện?

Làm sao Diệp Hỉ Tôn lại đến Tây Tạng này?

Hàn Tiếu cũng biết Diệp Hỉ Tôn, nghe nói vậy kinh ngạc nói:

- Làm sao y tới nơi này?

Vấn đề được phát hiện rất nhanh, câu hỏi không có đáp án, Hàn Tiếu sửa lời, nói:

- Có muốn đệ phái người đi chung quanh tìm hiểu chuyện này không?

Địch Thanh trầm ngâm một lát, nói:

- Lúc này không nên phức tạp. Diệp Hỉ Tôn này võ công rất cao siêu, bên địch bên ta không rõ... Như vậy đi, ngươi phái thuộc hạ tạm thời lưu ý động tĩnh người này, nếu như nhìn thấy y, thì nói ta tìm y, chớ có động thủ. Ngày mai, chúng ta sẽ khởi hành, nếu tìm không được, thì không nên ở chỗ này lâu.

Hàn Tiếu gật đầu, vội vã rời đi truyền lệnh. Sau khi Địch Thanh quay lại nhà, thấy có thêm hai người đang ngồi bên cạnh bàn mình. Hai người kia chính là thư sinh và thư đồng mà Địch Thanh đã gặp ở ngoài quán trọ.

Thư sinh kia dung mạo thanh tú, cử chỉ ung dung, thấy Địch Thanh đi tới, đứng dậy thi lễ nói:

- Huynh đài, mời ngồi.

Địch Thanh nhíu mày, khó hiểu ý đồ người này, đáp lễ nói:

- Các hạ tìm ta có việc sao?

Thư sinh kia mỉm cười nói:

- Huynh đài hình như là người Tống?

Vẻ mặt Địch Thanh hơi mất kiên nhẫn, ngồi xuống nói:

- Đúng thì sao?

Trong lòng của hắn khẽ dao động, lại quan sát kẻ thư sinh kia, thầm nghĩ thư sinh này hỏi như vậy, chẳng lẽ y không phải là người Tống? Có thể thấy được phong thái của y, cách nói năng, không giống người Tây Tạng và người Đảng Hạng.

Thư sinh kia cười nói:

- Từ lâu tại hạ đã rất ngưỡng mộ văn hóa Đại Tống, nghe nói Đại Tống địa linh nhân kiệt, ngọa hổ tàng long, vốn vẫn không tin. Hôm nay, gặp huynh đài tư thế oai hùng bừng bừng, long hành hổ bộ, lúc này mới tin, lời đồn đại không phải là giả.

Thấy Địch Thanh cau mày, thư sinh kia lập tức nói:

- Tại hạ là Đoàn Tư Liêm, người Đại Lý.

Địch Thanh chưa từng nghe qua cái tên Đoàn Tư Liêm, nhưng thấy người này có chút thẳng thắn, nét mặt vẫn đen, mới hỏi:

- Đoàn huynh tìm ta có chuyện gì?

Đoàn Tư Liêm dò hỏi:

- Không biết tên họ huynh đài là gì?

Địch Thanh lần này vào Tây Tạng, đề phòng khó khăn trắc trở xảy ra, ví như bôi đen mặt, che giấu hình xăm. Gặp phải Đoàn Tư Liêm hỏi, không muốn nói ra thân phận, thản nhiên nói:

Ta và ngươi gặp lại giống như bèo nước gặp nhau, gặp nhau trong giây lát, xưng tên họ hay không thì có gì khác nhau đâu?

Đoàn Tư Liêm giống như cái đinh mềm ra, sắc mắt ngượng ngùng, lại hỏi:

- Thế nhưng, có phải huynh đài đi tới thành Thanh Đường không?

Địch Thanh trong lòng chấn động, vẻ mặt không hề thay đổi nói:

- Đoàn huynh, vì sao huynh hỏi như vậy chứ?

Hắn chú ý đến trong mắt Đoàn Tư Liêm hiện lên chút phấn chấn, thậm chí còn có phần quái dị, trong lòng liền cảnh giác.

Đoàn Tư Liêm sau một lúc lâu cúi đầu, mới nói:

- Mấy ngày nữa, thành Thanh Đường sẽ có tế Thừa Thiên ba năm một lần, có thể nói việc trọng đại này, rất nhiều người đi cả ngàn dặm xa xôi để đến xem sự kiện. Ta nghĩ huynh đài cũng vì chuyện này mà đến đây chăng?

Địch Thanh không biết, tế Thừa Thiên là cái gì, cũng không có gì hứng thú với tế Thừa Thiên, lắc lắc đầu nói:

- Tại hạ đến đây chẳng phải vì tế Thừa Thiên. Tại hạ còn có việc khác, xin cáo từ.

Hắn đứng dậy quay lại hiên nhà, trước khi đi lên, nghe được tên thư đồng khẽ nói:

- Công tử, người này không biết phân biệt, công tử việc gì phải để ý đến hắn?

Lại nghe công tử kia nói:

- Cao nhân làm việc, đều có chỗ khác thường, ngươi chớ có nhiều lời.

Địch Thanh âm thầm buồn cười, thầm nghĩ bản thân mình có gì mà gọi là cao nhân. Tên Đoàn Tư Liêm này có thể đã nhìn lầm rồi. Hắn để ý đến ẩn trong thần sắc Đoàn Tư Liêm có sự âu lo, tuy nhiên không muốn xen vào chuyện của người khác.

Sáng sớm ngày thứ hai, Địch Thanh có được tin tức của Hàn Tiếu, không tìm được Diệp Hỉ Tôn. Địch Thanh tuy có chút thất vọng, nhưng là nằm trong dự liệu, thầm nghĩ Diệp Hỉ Tôn xuất quỷ nhập thần, nếu muốn tìm y cũng không phải chuyện dễ dàng. Địch Thanh không để ý tới Diệp Hỉ Tôn nữa, lại cùng Phú Bật khởi hành, đi một mạch tới thành Thanh Đường.

Mặt trời lặn về phía tây, hoàng hôn bắt đầu buông xuống, thành Thanh Đường đã ở trước mắt.

Thành cổ Thanh Đường nguy nga sừng sững, hùng cứ tây nam. Trong suy nghĩ người dân Tây Tạng, thành như là thánh địa, quy mô rộng rãi, hơn xa các thành trì còn lại của Tây Tạng.

Mọi người vào thành, thấy trong nội thành chùa miếu san sát, người đi đường đông như mắc cửi, mặc dù không phồn hoa như Biện Kinh, nhưng nếu nói về sự nghiêm túc, thì hơn xa.

Người Thổ Phiên tin Phật, nhà ở trong thành, Phật ở trong lòng, nơi nơi có thể thấy được chùa chiền, tăng nhân, bia đá và phật các. Trong không khí, đầy mùi hương nến. Có gió thổi qua. Tiếng chuông đồng hình nón vang lên, tiếng tung kinh như thanh âm của trời...

Người đến nơi này, nén lòng lắng nghe, thậm chí còn không dám thở mạnh.

Đám người Địch Thanh tới trong thành cũng cực kì cẩn thận từng li từng tí. Phú Bật thấy trời đã tối, hơi nhíu mày, nói:

- Nghe nói Cốc Tư La có một thói quen, ban đêm sẽ không tiếp khách. Chúng ta thân là sứ thần Đại Tống, tuy là tuân lệnh của thiên tử, bí mật làm việc, nhưng muốn gặp Cốc Tư La, cũng cần phải quang minh chính đại. Chi bằng sáng sớm ngày mai, chúng ta chính thức đi gặp ông ta sẽ hay hơn.

Địch Thanh không biết nghi lễ này, nhưng tôn trọng đề nghị của Phú Bật, lập tức ra lệnh cho Hàn Tiếu đi tìm nhà trọ nghỉ ngơi một đêm. Hàn Tiếu đã sớm phái người chuẩn bị đâu vào đó, quay lại sau cười nói:

- Cũng may mấy ngày trước chúng tôi đã chuẩn bị phòng, chứ nếu không thì bây giờ muốn tìm chỗ ở, có thì có nhưng sẽ không dễ tìm.

Phú Bật ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao?

Hàn Tiếu giải thích nói:

- Đêm nay thành Thanh Đường sẽ tiến hành tế Thừa Thiên ba năm một lần. Nghi lễ trang nghiêm, đã có rất nhiều dân chúng ở các vùng phụ cận tới xem lễ như dân tộc Hồi Hột, Cao Xương, Đại Lý... Thậm chí, thương nhân Tây Vực cũng đã tới đây.

Địch Thanh không kìm nổi nói:

- Tế Thừa Thiên là cái gì?

Hắn đã từng nghe Đoàn Tư Liêm nói qua về việc này, chỉ có điều hắn đã không để tâm tới.

Hàn Tiếu giải thích:

- Mấy năm trước, sau khi Cốc Tư La bình định nội loạn, thì cứ ba năm một lần sẽ tiến hành giao lưu với thiên thần, thế nên gọi là tế Thừa Thiên. Mục đích hẳn là cầu nguyện thiên thần ban phúc cho người Tây Tạng. Cốc Tư La là Tán Phổ, lại là Phật Tử, ông ta vì dân chúng mà cầu phúc, nghe nói rất linh nghiệm. Mấy năm qua, ở Tây Tạng vẫn mưa thuận gió hoà, người Tây Tạng đều nói là công lao của Cốc Tư La.

Trong lời nói của Thổ Phiên đầy ý khen ngợi, nói chung trong số đàn ông ở Tây Tạng, chỉ có Hoàng đế Thổ Phiên mới có danh hiệu như vậy. Phú Bật biết ở Tây Tạng, Cốc Tư La có uy tín cực lớn, thấy sắc mặt Địch Thanh khác thường, sợ Địch Thanh nói vô lễ với Cốc Tư La, gây ra phiền toái không cần thiết, liền cười nói:

- Nhập gia tùy tục, thói quen của bọn họ, chúng ta cho dù không thừa nhận điều đó nhưng phải theo họ. Địch tướng quân, tướng quân nói có đúng hay không?

Địch Thanh nghe Phú Bật nói có ý khuyên bảo thì gật gật đầu. Hắn mời Phú Bật về nghỉ ngơi trước, còn mình lại tìm quán rượu, bảo Hàn Tiếu kể lại tỉ mỉ việc tế Thừa Thiên.

Địch Thanh không có hứng thú đối với tế Thừa Thiên. Nhưng mấy năm nay, hắn thấy có nhiều chuyện kỳ lạ hơn, nghe Hàn Tiếu nói, Cốc Tư La có thể kết nối cùng thiên thần, nên thật ra cũng có nhiều hứng thú. Hắn thầm nghĩ, nếu quả thật Cốc Tư La có loại thần thông này, thì sẽ không ngại hỏi y một chuyện về Hương Ba Lạp. Tuy nhiên, việc hiểu biết của Hàn Tiếu đối với tế Thừa Thiên cũng có hạn, thấy Địch Thanh quan tâm tới chuyện này, liền ra ngoài tìm hiểu tin tức, để Địch Thanh ngồi chờ ở quán rượu là được rồi.

Trời đã tối, nhưng xung quanh thành Thanh Đường lửa trại vẫn cháy hừng hực, sáng như ban ngày.

Người Tây Tạng, người Khương, người Tây Vực, người Hán, thậm chí còn có người Khiết Đan qua lại trong thành không ngớt. Họ khe khẽ bàn luận, đều nói về chuyện tế Thừa Thiên, nhưng nội dung không có gì hay để nói cả. Địch Thanh đang trầm ngâm, nghe ngoài cửa có người nói:

- Công tử, giờ tý bắt đầu tế Thừa Thiên, chỉ còn có mấy canh giờ nữa thôi, chúng ta tranh thủ đi ăn cơm chứ?

Địch Thanh nghe thanh âm mơ hồ quen thuộc, quay đầu lại nhìn, thấy một người đi về phía hắn, người kia đúng là người của Đại Lý, Đoàn Tư Liêm.

Đoàn Tư Liêm nhìn thấy Địch Thanh, sắc mặt vui mừng, bước nhanh tới, nói:

- Huynh đài, lại gặp mặt. Xem ra ta và ngươi chẳng phải là bèo nước gặp nhau, mà là người hữu duyên rồi.

Thấy Địch Thanh nhíu mày không nói, Đoàn Tư Liêm nặng mặt nói:

- Huynh đài... Cùng mời không bằng tình cờ gặp mặt, chỗ cơm này, ta mời.

Dứt lời liền ngồi xuống.

Địch Thanh thấy khó hiểu người này vì sao lại rất có hứng thú với mình, vừa định đứng dậy rời đi, thì đột nhiên nghĩ tới một chuyện, mỉm cười nói:

- Lần trước nghe Đoàn huynh đặc biệt đến đây vì tế Thừa Thiên, nhưng lại không nhớ Đoàn huynh nói tế Thừa Thiên rốt cuộc là cái gì?

Đoàn Tư Liêm thấy rốt cục Địch Thanh cũng đồng ý nói chuyện với y, sắc mặt rất hào hứng, liếc nhìn khắp nơi, nói khẽ:

- Huynh hỏi ta, nhưng là hỏi đúng người rồi. Việc này người bên ngoài chỉ biết phong phanh, ta lại biết đến tột cùng.

Địch Thanh trong lòng khẽ xao động, xách bầu rượu rót đầy chén rượu cho Đoàn Tư Liêm, mỉm cười nói:

- Tại hạ xin lắng tai nghe.

Đoàn Tư Liêm uống rượu, cũng không đùn đỡ, nói nhỏ:

- Ta nghe nói chuyện tế Thừa Thiên liên quan vận mệnh quốc gia Thổ Phiên. Năm đó, Tán Phổ lúc tuổi còn nhỏ, chịu sự khống chế của Luận Bô Ôn Bô Kỳ. Chuyện này huynh đài biết chưa?

Địch Thanh biết Luận Bô là tiếng Tây Tạng, là Tướng Quốc nước Thổ Phiên, quyền vị tương đương với người trong Lưỡng phủ của Đại Tống. Năm đó, Tướng quốc Thổ Phiên Ôn Bô Kỳ bắt nạt Cốc Tư La còn bé, mặc dù tiếng là ủng hộ Cốc Tư La, nhưng lại muốn nắm hết quyền hành. Thậm chí, y nhốt Cốc Tư La, muốn phế Cốc Tư La, tự lập mình làm vua. Tuy nhiên, Cốc Tư La trốn thoát ra khỏi tù, chạy thẳng đến chỗ quần thần người Tây Tạng, chỉ nói tám chữ, "Ta là Tán Phổ, bình loạn cho ta!" Tám chữ cực kì ngắn gọn này, khiến cho quần thần quân dân Thổ Phiên giận dữ, giết Ôn Bô Kỳ, lập lại Cốc Tư La làm vua, sức ảnh hưởng của Cốc Tư La ở Tây Tạng từ đó có thể thấy rõ.

Tình tiết của chuyện này chưa rõ thực hư. Mấy ngày nay, Địch Thanh đã tìm hiểu chuyện xưa ở Tây Tạng, vì thế cũng biết.

Đoàn Tư Liêm thấy Địch Thanh gật đầu, hạ giọng nói:

- Phật Tử năm đó bị tù, từng lập lời thề, nói rằng chỉ cần có thể bình loạn, nhất định sẽ cứ ba năm một lần lấy máu tế trời, cầu phúc cho người dân Tây Tạng. Ông ta không lấy máu của người khác, mà chỉ dùng máu của mình! Ông ta xả thân vì người Tây Tạng mà cầu phúc, bởi vậy được người dân ở đó rất yêu mến.

Địch Thanh có chút cảm tình với Cốc Tư La, lại hỏi:

- Huynh chỉ biết có vài chuyện này thôi sao?

Đoàn Tư Liêm do dự một lát, mới nói:

- Ta biết đến đây thôi.

Địch Thanh chú ý đến sự do dự của Đoàn Tư Liêm, cảm thấy dường như Đoàn Tư Liêm còn có cái gì đó không nói ra được, mới ngừng hỏi. Đột nhiên, cảm giác được điều gì, quay đầu nhìn sang một bên.

Hắn đột nhiên phát hiện có người ngồi sát cạnh đang chú ý hắn.

Đó là một loại cảm giác xảy ra trong giây lát, cũng là một loại cảm giác có được do đã trải qua trăm trận chiến nên trở thành cảnh giác!

Địch Thanh nhờ vào cảm giác này, đã thoát được nhiều nguy hiểm. Nhưng lần cảnh giác này, ngược lại có chút bất đồng với quá khứ. Bất đồng cụ thể là cái gì, trong lúc nhất thời, hắn lại khó có thể nói rõ.

Hắn quay đầu nhìn lại, trong lòng hơi chấn động. Sau đó, hắn đã thấy một đôi mắt...

Trong hoảng hốt, Địch Thanh nhìn thấy một người, chẳng qua cũng như bao người khác. Người đó ăn vận bình thường, ngồi ở chỗ kia, mờ nhạt như mọi người, nhưng mà người kia lại tuyệt đối không giống bao người khác ở chỗ: một đôi mắt.

Đó là sự ngưng đọng của một đôi mắt, giống như đã có duyên nợ ngàn năm. Đôi mắt si mê, một đôi mắt thấm nhuần tình đời, lợi hại vô song.

Người kia thấy Địch Thanh nhìn sang, ánh mắt cũng nhìn lại chằm chằm không chớp. Chỉ có điều, trên mặt ngườ đó, đột nhiên phát ra một luồng ánh sáng. Địch Thanh nhìn thấy luồng ánh sáng kia, đột nhiên trong lòng rung động, không kìm nổi sắc mặt tái nhợt, bực mình hừ một tiếng!

Đoàn Tư Liêm ngẩng đầu trông thấy Địch Thanh sắc mặt khác thường, thần sắc đau đớn, chỉ cho là Địch Thanh có việc, khẽ gọi:

- Huynh đài?

Địch Thanh giật mình, bỗng nhiên đứng lên, ngỡ ngàng nói:

- Làm sao vậy?

Rồi lại nhìn sang bàn bên kia, bàn đó đã không có một bóng người. Hắn không khỏi giật mình kinh hãi, trán toát mồ hôi.

Hoá ra mới vừa rồi, hắn liếc nhìn lại, trong giây lát, đã rơi vào hoảng hốt, mê ly. Loại cảm giác này, hệt như lạc vào giấc mộng. Mà trong khoảnh khắc của giấc mộng, hắn nhìn thấy có bóng trắng rơi xuống trước mắt...

Đó là cơn ác mộng khó quên trong đời hắn.

Vì sao đột nhiên hắn lại có loại ảo giác kì lạ này. Chẳng lẽ vì đôi mắt vừa rồi của người kia ư? Địch Thanh thấy Đoàn Tư Liêm đầy sự hoang mang, liền túm lấy tay Đoàn Tư Liêm, hỏi:

- Đoàn huynh, ngươi cảm thấy người ngồi ở bàn bên kia như thế nào?

Đoàn Tư Liêm quay đầu nhìn sang, mê muội nói:

- Vừa rồi, bàn bên kia có người phải không? Ah... Ta nhớ ra rồi, hình như có một người ngồi, tuy nhiên người đó không có gì đặc biệt cả...

Lời của y còn chưa dứt, Địch Thanh đã buông tay của y ra, xoay mình đi ra khỏi quán rượu, lao nhanh trên con đường dài.

Trên con đường cũ, lửa trại bề bộn.

Nơi ngọn đuốc cháy đã sắp tàn, người đến người đi, lặp đi lăp lại. Nhưng người Địch Thanh muốn nhìn thấy, rốt cuộc lại không xuất hiện. Mồ hôi Địch Thanh vã như mưa. Trong lòng hắn biết, sẽ rất khó tìm thấy người kia. Bởi vì người ấy thực sự quá bình thường, mà đã bình thường trong đám người kia, thì sẽ biến mất không thể thấy nữa. Vậy người đó là ai mà đôi mắt có ma lực như vậy?

Khi Địch Thanh đang nhìn xung quanh, chợt nghe thấy ở bên trong thành cổ, có tiếng phát ra từ chiếc nón đồng va vào nhau. Tiếng động ấy vang lên cực lớn, chấn động thiên địa. Trong thành Thanh Đường, lửa vẫn cháy. Ban đêm tiếng động càng lớn, nhưng sau một tiếng nổ thật lớn thì không gian yên tĩnh lại bao trùm khắp thành.

Ngay sau đó, có tiếng tụng kinh cất lên theo gió truyền đến...

Trong trời đất, chỉ còn lại âm đọc bằng tiếng Phạn, không hề bị các tạp âm tạp niệm khác chen vào. Từ thành Thanh Đường, một đội tăng lữ đi tới. Họ mặc áo màu vàng của tăng, ánh lửa chiếu rọi xuống, quanh người kim quang lóng lánh.

Mỗi người ở đội tăng đó, trong tay cầm một cái nón lớn. Tiếng vang đinh tai nhức óc kia, chắc là do bọn họ đánh ra.

Người đi trên đường nhìn thấy họ, đều lùi ra hai bên đường, quỳ xuống thi lễ, không dám nhìn xung quanh.

Sau khi đội tăng đó đi qua, lại có một đội tăng khác, mặc màu áo xanh, hai tay kết ấn, môi mấp máy, xướng tiếng Phạn (tụng kinh), qui tụ về một chỗ, có thể rửa sạch trời đất..

Sau khi phiên áo xanh đi qua, có một tăng nhân chậm rãi bước đi thong thả. Những nếp nhăn trên mặt tăng nhân kia giống như khắc vào, dung nhan già nua, sắc mặt trầm tư, nhưng dường như bụi hồng trần thế gian cũng không thể làm loạn tâm của ông ta.

Vị tăng nhân ấy lông mày chùng xuống, mắt nhắm, cứ như vậy đi tới...

Trong không khí tràn đầy âm Phạm trầm bổng như tiếng hát, trang nghiêm túc mục. Trong giây lát, Địch Thanh cũng đã quên chuyện vừa mới xảy ra. Sau khi tất cả các phiên tăng đi qua, Địch Thanh lúc này mới thở nhẹ ra một hơi.

Đoàn Tư Liêm bước nhanh tới, kéo ống tay áo Địch Thanh, khẽ nói:

- Nhanh, đi giữ chỗ, nếu không sẽ không tới được chỗ tế Thừa Thiên.

Địch Thanh vốn không có ý định đi xem tế Thừa Thiên, nhưng chẳng biết tại sao, đang ở thành Thanh Đường, cũng bịtrang nghiêm huyền bí của nơi này hấp dẫn, không tự chủ được và cuối cùng cũng cùng Đoàn Tư Liêm đi theo phiên tăng.

Mọi người đi đông như nước thủy triều, nhưng lại cực kỳ im lặng, đi theo các phiên tăng kia, khoảng cách không xa lắm. Địch Thanh không kìm nổi nên hỏi:

- Đoàn huynh, vị tăng nhân già vừa rồi là ai? Chẳng lẽ là Phật Tử sao? Phải đi tới đâu để giữ chỗ?

Đoàn Tư Liêm lắc đầu nói:

- Người đó đương nhiên không phải là Phật Tử, mà trên cả Phật Tử, chính là cao tăng Thiện Vô Úy. Tế Thừa Thiên ngay tại thành Thanh Đường, được cử hành ở đệ nhất tự là Thừa Thiên tự.

Địch Thanh hơi chấn động, nhớ tới thủ hạ Cốc Tư La có ba đại tăng nhân. Nhưng sau khi xuất hiện tại Biện Kinh, thì bặt vô âm tín kể từ đó. Mà Kim Cương Ấn thì bị Nguyên Hạo bắn chết ở phủ Hưng Khánh. Hắn dường như vẫn nghĩ đến Thiện Vô Úy cùng Bất Không, Kim Cương Ấn, nhưng lại không nghĩ có bộ dạng như vậy.

Mọi người đã đến trước một ngôi chùa.

Ngôi chùa đằng xa đó không phồn hoa như chùa Đại Tướng Quốc Biện Kinh, nhưng rộng lớn mênh mông vô cùng. Dân chúng theo đoàn tăng lữ nối đuôi nhau đi vào, không đợi chỉ bảo, đã quì theo thứ tự ở trước miếu, vẻ mặt rất thành kính.

Địch Thanh vốn tưởng rằng đi vào sớm có thể vào được chùa, sau đó mới phát hiện nhiều người đã vào từ rất sớm, đang quì đông như kiến với muôn hình muôn vẻ.

xung quanh chùa miếu trống trải, cây đuốc khổng lồ được đốt cháy ở trong gió, lan tỏa ra mùi thần bí. Phía trước miếu, dựng một cái đài cao làm bằng gỗ, ánh sáng màu đỏ như máu, kì dị và trang nghiêm. Còn người tăng nhân già nua kia ngồi trầm tư, thì ra là Thiện Vô Úy. Ông ta đang ngồi ở giữa đài cao, hai tay kết ấn, môi mấp máy...

Bên người Thiện Vô Úy, chỉ có một chiếc đèn phật đồng thau, tỏa hào quang chiếu rọi sắc mặt bất định của Thiện Vô Úy.

Tiếng Phạn xướng không ngừng. Nghe trong đêm ở chùa Thừa Thiên đây sự kì lạ, đáng sợ. Có lẽ, chính sự kì dị này đã khiến cho mọi người tâm thần khuất phục, quên đi chính mình.

Địch Thanh quỳ trong đám người, nghe âm Phạm, lòng đã từ từ bình tĩnh trở lại. Nhưng mấy vấn đề vẫn còn quanh quẩn trong đầu, không sao xua đi được. Tế Thừa Thiên liệu có phải là có thể giao cảm với thần hay không, người vừa rồi nhìn thấy đó, ngoài đời thực ra là ai?

Không biết đã bao lâu, Địch Thanh đột nhiên phát hiện, liền nhìn sang một bên, đã thấy Hàn Tiếu không biết khi nào, cũng xen lẫn trong đám người, lặng lẽ nhìn xung quanh hắn, giống như muốn nói cái gì.

Địch Thanh vốn thường dùng trực giác, đã sớm có thể phát hiện Hàn Tiếu, nhưng trong khoảng thời gian này, trong đầu hắn lại phảng phất bóng trắng lúc ẩn lúc hiện, khiến hắn khó tránh khỏi trong lòng không yên.

Ngón tay của Hàn Tiếu cong lại duỗi, truyền tin về phía Địch Thanh,

- Đã tìm được Diệp Hỉ Tôn rồi!

Đội Thập Sĩ có loại ngôn ngữ của người câm điếc, chính là để giao lưu khi không tiện nói với nhau. Hoàn cảnh như thế, Hàn Tiếu đương nhiên không dám lỗ mãng, thậm chí không thể di chuyển, chỉ có thể dựa vào thủ thế truyền đạt tâm ý.

Địch Thanh biết đã được tìm được Diệp Hỉ Tôn, trong lòng hơi vui mừng, và có chút ngạc nhiên. Nhưng hắn không thể lên tiếng, cũng không có thể di chuyển. Vào đúng lúc đang nghĩ ngợi, tay hắn vịn đầu vai, ngón tay co duỗi, nói với Hàn Tiếu, sau khi kết thúc tế Thừa Thiên thì đi ra ngoài.

Hắn muốn đi gặp Diệp Hỉ Tôn ngay, nhưng ở hoàn cảnh này, hắn làm sao có thể đứng dậy được chứ?

Tế Thừa Thiên còn chưa bắt đầu, rốt cuộc tới khi nào thì mới chấm dứt, Địch Thanh cũng không biết. Đúng lúc vô cùng lo lắng, thì nghe tiếng nón đồng vang lên, mọi âm thanh đều yên tĩnh. Phía bên tay trái trên đài cao, một chiếc xe ngựa lẳng lặng được đẩy tới.

Địch Thanh ngẩng đầu nhìn lại, thấy có một người đứng trên xe, màu áo trắng hơn tuyết, tóc đen như mực. Hắn chỉ có thể nhìn thấy bóng lưng người đó, thấy mái tóc người ấy dài bồng bềnh, đúng là con gái.

Mọi người có mặt đều kinh ngạc, khó hiểu vào thời điểm tế thần thánh lần này, tại sao lại có con gái tiến đến?

Đoàn Tư Liêm cũng đầy ngạc nhiên. Đột nhiên, y thoáng nhìn Địch Thanh, rồi nhìn chằm chằm vào nàng kia, toàn thân khẽ run, khó hiểu nổi tại sao Địch Thanh lại kích động như vậy?

Lúc Địch Thanh nhìn thấy nàng kia xuất hiện, còn có cảm giác mơ hồ quen thuộc. Bởi vì nàng kia không đẹp, không quyến rũ, chỉ có điều bình tĩnh như nước. Trong lúc đó, Địch Thanh trông thấy nàng kia, ở bên hông có dây lưng lụa màu lam. Trong lòng kinh hãi.

Dây lưng lụa màu lam như biển, tinh khiết như trời, gợi lên ký ức kia lần lượt trôi qua trí nhớ...

Địch Thanh dù chưa nhìn thấy mặt cô gái đó, nhưng đã nghĩ đến nàng là ai.

Còn có cô gái nào trong tình cảnh này vẫn có thể bình tĩnh như mặt nước không chút gợn sóng, không sợ hãi, cho dù đối mặt với thần tăng thủ hạ của Phật Tử cũng thản nhiên như thường?

Người con gái kia đúng là Phi Tuyết!

 Chương 339 - 342: Đại họa

Làm sao Phi Tuyết đã tới được Tây Tạng rồi? Đúng lúc Địch Thanh kinh ngạc thì cô gái kia đã bước từ trên xe ra đài cao, đi tới trước Thiện Vô Úy.

Sắc mặt mọi người dưới đài khác nhau, nhưng vẫn còn có thể duy trì vẻ nghiêm nghị.

Thiện Vô Úy vẫn nhắm mắt tụng kinh, và cô gái kia đã tới trước mặt. Rốt cục y cũng đã mở mắt, nhìn cô gái kia nói:

- Ngươi đã chuẩn bị xong chưa?

Cô gái kia cũng không nói lời nào, chỉ gật gật đầu, khoanh chân ngồi xuống bên cạnh Thiện Vô Úy.

Cô ta quay người lại, Địch Thanh liền thấy rõ trắng đen, giống như vẽ tranh thủy mặc trước mắt. Cô gái kia không nhận ra Địch Thanh. Cô gái đó đúng là Phi Tuyết.

Phi Tuyết vì sao lại đến chùa Thừa Thiên? Nàng có tư cách gì ngồi ở bên cạnh Thiện Vô Úy?

Tất cả mọi người đều tỏ ra ngạc nhiên. Phải biết rằng việc tế Thừa Thiên vốn là nghi thức cực kỳ nghiêm nghị, vốn đàn bà con gái không được tham dự, thì vì sao Phi Tuyết có thể ngồi ở trên đài cao?

Mặc dù mọi người khó hiểu, nhưng nếu Thiện Vô Úy không phản đối, thì không người nào dám đề xuất nghi ngờ.

Trong ngôi chùa to trống trải, tiếng xướng âm Phạn dần dần trầm xuống lành lạnh. Ngọn đèn trong gió chợt sáng chợt tắt, lóe lên ánh sáng lạnh lẽo. Trong lúc nhất thời, Địch Thanh bị Phi Tuyết hấp dẫn, thậm chí đã tạm quên chuyện của Diệp Hỉ Tôn.

Rất lâu sau, hai mắt Thiện Vô Úy đột nhiên mở ra, quát khẽ nói:

- Thời giờ đã đến, Phật Tử, mời ra.

Tiếng quát khẽ kia rất trầm thấp nhưng lại có uy lực, giống như vang lên bên tai mọi người.

Giọng nói vừa mới cất lên thì trên tế đài đột nhiên hào quang phóng ra rực rỡ.

Ánh hào quang kia xán lạn hoa lệ, phóng ra bất ngờ, trong phút chốc bao phủ toàn bộ dàn tế màu đỏ. Tín đồ thấy thế, vừa phấn chấn, vừa sợ hãi, đồng thời không kìm nổi những tràng vỗ tay...

Lúc hào quang tan hết là lúc, một người mang theo hào quang đã đứng trên đài tế. Mọi người ngồi nghiêm trang im lặng, một tiếng động nhỏ cũng không có.

Cho dù là Địch Thanh, cũng không thể không nhìn về phía Cốc Tư La. Hắn từng nghe qua quá nhiều truyền thuyết về Cốc Tư La. Cũng biết danh tiếng Cốc Tư La mặc dù nổi như rồng, nhưng vẫn không ai có thể miêu tả được bộ dạng Cốc Tư La lớn lên như thế nào nữa. Lúc trước, lúc Địch Thanh đi đến Tây Tạng, đã hỏi Hàn Tiếu về dung mạo Cốc Tư La. Nhưng không ngờ, cho dù Hàn Tiếu vạn sự đều thông hiểu, cũng không thể miêu tả được vẻ bề ngoài Cốc Tư La. Hàn Tiếu chỉ nói là, y cũng chưa từng gặp qua Cốc Tư La. Khi đi hỏi thăm, mới biết hỏi một ngàn người Tây Tạng thì có ngàn sự miêu tả khác nhau về Cốc Tư La.

Hôm nay, rốt cục thì Địch Thanh cũng gặp được Cốc Tư La. Hắn đột nhiên phát hiện, cho dù Cốc Tư La đứng ở trước mặt hắn, nhưng hắn cũng không thể miêu tả vẻ bề ngoài Cốc Tư La.

Hình như Cốc Tư La là màu vàng kim...

Toàn thân ông ta khoác áo màu vàng lóng lánh, dù ngọn đèn màu vàng xanh nhạt chiếu lên trên người ông ta, cũng không thể thay đổi sắc vàng óng ánh. Khuôn mặt Cốc Tư La ẩn hiện hào quang, hoặc là khuôn mặt đó, giống như là một dải ánh sáng!

Điều này thật sự gây ra cảm giác hết sức lạ lùng.

Rõ ràng, Cốc Tư La đứng ở trên đài cao, có thể ngay cả ánh mắt sắc bén của Địch Thanh, cũng không thể thấy rõ mặt mũi của ông ta!

Trog lòng Địch Thanh có cảm giác kì lạ. Loại cảm giác này giống như đã từng quen biết. Đột nhiên nghĩ đến, lúc trước khi nhìn thấy Dã Lợi Trảm Thiên, cũng giống hệt như cảm giác lúc này, nhưng tuyệt đối không mãnh liệt như thế.

Trời đất tất cả đều yên tĩnh, ánh lửa hừng hực.

Cốc Tư La đứng ở trên đài tế, cuối cùng cũng mở miệng nói:

- Đức ngõa sát, giả cát lợi dạ, nô ha đoá nhi!

Thanh âm của ông ta trầm thấp nhưng hữu lực, từng chữ nói ra tuy là mềm nhẹ, nhưng lại như tiếng nện búa, đánh vào lồng ngực người nghe.

Địch Thanh hơi giật mình, không hiểu Cốc Tư La đang nói cái gì. Nhưng tín đồ quỳ sát nghe xong rất nhiều lại đi theo thì thầm: "Đức Ngõa sát, giả cát lợi dạ, nô ha đoá hoa!"

Trong một chớp mắt, tinh thần quần chúng của mọi người đã mãnh liệt, trên mặt hiện lên ý kích động. Chỉ có điều, giữa khoảng tích tắc của thời gian, trong chùa Thừa Thiên đột nhiên như tảng đá lớn vỗ lên mặt nước, bốn bề sóng dậy.

Ngữ điệu Cốc Tư La không thay đổi, lại nói:

- Mạt thát ni đề, đát ma nã!

Mọi người đều đọc theo: "Mạt thát ni đề, đát ma nã!" Địch Thanh liếc xéo sang người bên cạnh, thấy có người vừa đọc lệ vừa rơi đầy mặt, có người hô khàn cả giọng, giống như điên cuồng, không khỏi áy náy kinh hãi.

Loại tình hình như thế này, hắn hình như đã từng thấy qua? Đột nhiên trong lòng chấn động, nhớ lại chuyện thung lũng Phi Long năm xưa. Năm đó, Triệu Doãn Thăng mê hoặc lòng người cũng làm việc như vậy. Nhưng mà năm đó, Triệu Doãn Thăng còn phải nhờ vật mới khiến mọi người bị lạc tâm trí, nhưng Cốc Tư La chỉ bằng mấy lời, đã có thể làm cho người ta như thế, càng làm cho người khác kinh ngạc.

Chẳng biết tại sao, Địch Thanh nhìn thấy xung quanh mọi người quát to như vậy, trong ý nghĩ cũng dâng lên ý niệm trong đầu phải quát to theo. Nhưng ý chí hắn cực kiên định, cố gắng giữ lại ý nghĩ này, như thế mới có thể xem xét mọi chuyện.

Thiện Vô Úy đã nói:

- Tế thiên bắt đầu, pháp khí lên.

Tiếng nói vừa mới cất lên, có bốn vị tăng, đã mang một đồ vật đi lên dàn tế.

Nhìn vẻ bề ngoài của vật đó như một cái thùng hình vuông, mặt trên đang phủ một mảnh vải màu hồng, làm cho người ta không nhìn thấy phía dưới là cái gì. Nhưng vật kia hiển nhiên rất nặng, bởi vì bốn người cực kỳ to lớn, nhưng nâng vật kia đi lên, đầu vai đã nghiêng, bước chân nặng nề.

Địch Thanh có chút kinh ngạc, thầm nghĩ bốn người này đều là thanh niên trai tráng, mỗi người đều có thể khiêng một vật nặng chừng trăm cân. Bốn người cố sức cùng nhau khiêng như vậy, thùng kia ít nhất cũng nặng tới năm sáu trăm cân. Xem thể tích vật kia không lớn, cho dù là giả bộ, cũng không nặng nề đến như thế?

Vật kia rốt cuộc là cái pháp khí gì?

Bốn người đặt cái vật đang khiêng ấy xuống. Trên tế đài giống như đều lung lay. Thiện Vô Úy đứng dậy đến trước vật đó, trầm mặc hồi lâu mới nói:

- Lấy pháp đao ra!

Có người giơ khay màu vàng lên cao, bên trên đặt hai thanh đao màu bạc.

Ánh đèn Phật chiếu xuống thân đao, hiện ra vầng sáng yếu ớt, phản lên sắc mặt Phi Tuyết càng trắng bệch, chiếu sắc mặt Thiện Vô Úy càng già hơn. Chỉ có Cốc Tư La, trước sau vẫn mờ mờ ảo ảo, hào quang của sắc mặt không giảm.

Thiện Vô Úy đã lấy một thanh pháp đao, đưa tới trước mặt Phi Tuyết.

Địch Thanh kinh hãi, khó hiểu ý nghĩa việc này. Thấy Phi Tuyết trầm tĩnh cầm lấy đao, chậm rãi đi vòng nhẹ xung quanh, đem mũi đao nhắm ngay ngực, càng làm Địch Thanh thêm sợ hãi, thiếu chút nữa kêu ra tiếng. Chỉ thấy Phi Tuyết lấy đao chỉ ngực, chăm chú nhìn Cốc Tư La nói:

- Sau khi ta chết... Ngươi nhớ rõ lời hứa của ngươi...

Mấy chữ đó tuy rất nhỏ, nhưng lại truyền vào bên tai Địch Thanh, giống như sấm rền cuồn cuộn. Chẳng biết tại sao, Địch Thanh trong lòng đau xót —— đau đớn như vết dao cứa vào!

Phi Tuyết vì sao phải tự sát? Cốc Tư La vì sao phải giết Phi Tuyết? Cốc Tư La đã làm gì với Phi Tuyết? Địch Thanh hoa mắt, trong đầu bỗng dưng lóe lên bóng trắng kia. Đúng lúc này, hắn nghe được Cốc Tư La hạ giọng nói:

- Được!

Vừa nói xong, Phi Tuyết đã giơ dao lên, đầu nhọn của đao lao xuống!

Địch Thanh không kịp nghĩ nhiều, quát:

-Không!

Hắn nhún người bay tới, vài cái lên xuống, đã tới tế đài.

Mọi người ồ lên giây lát rồi lại yên lặng. Đao nhọn kia dừng ở giữa không trung, cuối cùng không đâm xuống nữa.

Hào quang ngân đao lóe ra lưu ly, kích động trái tim Địch Thanh đập liên hồi. Nhưng gió mát lạnh lùng, rét lạnh, lòng hắn đầy ngập nhiệt huyết. Sự tự phát đột nhiên, không ai lường trước sẽ có người dám vọt tới tế đài. Bởi vậy, Địch Thanh đột nhiên nhảy đến, không ngờ có thể dễ dàng bay tới đài cao.

Nhưng không đợi Địch Thanh lấy lại thăng bằng, bốn phía bóng người đã lắc lư, không biết có bao nhiêu cao thủ Mật tông Tây Tạng đã vây dàn tế. Những người đó lạnh như băng, ánh mắt nhìn Địch Thanh, như nhìn người chết.

Những năm gần đây, chưa cho phép Phật Tử tự ý lên dàn tế. Người mà bị đưa lên dàn tế, chỉ có một kết quả, đó là phải chết!

Địch Thanh mặc dù không biết cái nguyên tắc này, nhưng cũng biết hành động của mình cực kỳ không ổn. Nhưng hắn không thể không ngăn cản. Hắn có thể nào trơ mắt nhìn Phi Tuyết tìm đến cái chết?

Cho dù là biết quy tắc, cũng nhất định phải ngăn cản!

Phi Tuyết tặng hắn mặt nạ Hình Thiên. Trong kinh thành, cô ta đã giúp hắn thuyết phục Triệu Trinh, Bình Viễn cứu tính mạng của hắn. Trong sa mạc lại nhường mạng sống cho hắn.

Mặc dù Phi Tuyết lạnh lùng, mặc dù cũng không nói gì, nhưng Địch Thanh cảm thấy không chỉ nợ Phi Tuyết một chút, mà là rất nhiều...

Trên tế đài, yên lặng như chết. Phi Tuyết không nhúc nhích, nhưng trong đôi mắt trắng đen không rõ kia, dường như cũng có tầng sương mù mông lung. Cô ấy vốn không hỏi Địch Thanh là người nào, nhưng nàng hiển nhiên nhận ra Địch Thanh.

Ngoại trừ Địch Thanh, còn có ai sẽ đứng ra vì nàng ngay tại lúc này?

Cốc Tư La cũng không hề có động thái gì. Y đứng yên tại chỗ nhìn Địch Thanh, như là đang quan sát Địch Thanh, hoặc như là làm như không thấy Địch Thanh. Địch Thanh đã nhìn Cốc Tư La. Đột nhiên hắn phát hiện, mặc dù tiếp cận Cốc Tư La, nhưng vẫn nhìn không rõ khuôn mặt Cốc Tư La.

Thiện Vô Úy cũng không hề động, chỉ có điều trong khuôn mặt già nua kia, đột nhiên hiện lên chút dữ tợn. Chỉ có điều, y khẽ vươn tay, chỉ vào Địch Thanh nói một câu, "Giết hắn!"

Khó có thể giải thích, không nguyên do, thậm chí cũng không hỏi người đến là ai.

Bởi vì mặc kệ tới là ai, chỉ cần tự tiện đi tới dàn tế, quấy nhiễu tế thiên, khinh nhờn thần linh, kết quả chỉ có một, đó là phải chết!

Tình cảm quần chúng mãnh liệt, đã hận không thể xé Địch Thanh. Vị tăng kia và giáo lí tăng nhân Trung Nguyên có chỗ bất đồng. Giới tăng nhân Trung không sát sinh. Nhưng tăng nhân ở đây, đối phó phản nghịch, tội nhân và yêu ma quỷ quái chỉ có một loại phương pháp.

Huống chi, nhà Phật cũng làm Sư Tử Hống. Nghe Thiện Vô Úy có lệnh, có người trong tiếng rống giận dữ, đã bay nhào tới tế đài. Người kia cao lớn nhưng không khôi ngô, nhưng vừa bổ nhào về phía trước, khí thế như hổ!

Rất nhiều người đều đã nhận ra, người đó đúng là đại đệ tử của Thiện Vô Úy, tên là Chiên Hổ. Thủ hạ Cốc Tư La có ba đại thần tăng, đều có thần thông. Cốc Tư La càng bị truyền thuyết là Phật tổ chuyển thế, có đại năng vô cùng .... Nhưng mấy người kia không phải là cao thủ. Có không ít người dân Tây Tạng công nhận, Chiên Hổ là đệ nhất cao thủ Tây Tạng!

Tuy Chiên Hổ là đệ nhất cao thủ Tây Tạng, nhưng thần có thể hàng phục long hổ, cao thủ và thần vốn chính là hai khái niệm.

Trong truyền thuyết, Chiên Hổ mặc dù đang trung niên, cũng chỉ có chỉ số thông minh bằng người mười mấy tuổi. Y được hổ nuôi lớn, được Thiện Vô Úy cứu ra, ngu ngốc ngơ ngác. Cả đời y chỉ trung thành với hai người, thì đương nhiên phải là Thiện Vô Úy và Cốc Tư La rồi.

Thiện Vô Úy làm cho Chiên Hổ trở về hàng ngũ làm người. Cốc Tư La lại có thần thông giao lưu với Chiên Hổ. Chiên Hổ đối với hai người giống như thần này, có sự tôn kính cùng phục tùng vô biên.

Thiện Vô Úy có lệnh, Chiên Hổ khẳng định sẽ là người đầu tiên đi ra!

Hổ gầm như gió, thổi tắt mấy ngọn đuốc trong viện, trong phút chốc cả viện tối sầm lại.

Chiên Hổ nhảy lên rồi lao tới trước mắt Địch Thanh. Y không có binh khí, chỉ có thể dùng hai tay tạo thành trảo ngăn tới, mười ngón tay giống như mười chuôi đao sắc bén.

Tiếng rít gào xông tới, móng vuốt của y đã sắp tới gần cổ họng của Địch Thanh.

Địch Thanh một phát bắt được Phi Tuyết, xoay người, trong chớp mắt tránh được một trảo của Chiên Hổ. Hắn không có vung đao, hắn biết rằng trong lúc vô tình mình đã phá hỏng phong tục tế thiên của người Tạng. Đây là một sai lầm hết sức nghiêm trọng, cần phải giải thích rõ ràng.

Chiên Hổ tuy ngốc, nhưng võ công lại đáng sợ, khiến người sợ hãi! Y một trảo thất bại, thân hình vẫn không ngừng, trảo thứ hai đã tới ngực của Địch Thanh

Chiên Hổ đúng như hổ, ra chiêu không có quy tắc gì cả, đơn giản chỉ là tốc độ kinh người. Một trảo thình lình đến, mắt thấy muốn Địch Thanh bị thủng ngực, mọi người đều nghĩ Địch Thanh không thể trốn thoát một trảo hung mãnh như vậy.

- Răng rắc.

Tiếng của vỏ đao chặn trước ngực Địch Thanh.

Là vỏ đao của Địch Thanh.

Địch Thanh kịp thời dùng vỏ đao chắn một trảo. Động tác của hắn nhìn như bình thường, nhưng nhất cử nhất động, đều nhanh như thϬ lưu loát tự nhiên.

Vỏ đao nứt ra, tiếng vỡ vụn làm người ta tê cả răng.

Một trảo này của Chiên Hổ đã làm nứt vỏ đao của Địch Thanh. Một đôi móng vuốt của y còn sắc bén, cứng rắn hơn cả sắt thép.

Nhưng Chiên Hổ không có bắt được đao của Địch Thanh.

Bá vương tranh giành, Thái bảo hoành hành!

Tranh giành thiên hạ, cũng không bởi vì đả kích m dễ dàng buông tha. Thanh đao sắc bén, cũng không phải để người tùy ý bóp nát.

Vỏ đao nứt ra, thanh đao được thoát khỏi trói buộc. Địch Thanh xuất đao, một đao chém vào không trung.

Chiên Hổ bổ nhào về phía trước, khiến bóng tối trong viện càng thêm âm trầm. Nhưng một đao kia của Địch Thanh, lại như làm sáng thiên địa, ánh đao phản chiếu ánh lửa, chiếu đến khắp nơi.

Một đao kia, như muốn đem hơn ngàn ngọn lửa trong viện đều tụ lại trên đao.

Thân hình của Chiên Hổ lóe lên, nhào tới bên trái của Địch Thanh.

Một đao kia của Địch Thanh là chém vào không khí, nhưng nếu Chiên Hổ cố ý tiến lên, nhất định sẽ bị thanh đao chém thành hai nửa.

Oai thế từ một đao kia, cho dù là Chiên Hổ, cũng không dám đỡ từ chính diện. Chiên Hổ là hổ, nên y có bản năng của dã thú. Y có thể phân biệt ở đâu có nguy hiểm, để mà đợi thời cơ, đánh đến một kích trí mạng.

Địch Thanh rốt cuộc có không gian để nói, liền gọi to:

- Đợi một chút…

Còn chưa dứt lời, chợt nghe một tiếng Oanh thật lớn. Toàn bộ dàn tế bị vỡ tan.

Địch Thanh đột nhiên đi ra, tiếng nổ kia cũng vang lên đột nhiên. Chịu ảnh hưởng của vụ nổ, toàn bộ dàn tế màu đỏ chia năm xẻ bảy. Cho dù là Thiện Vô Úy nghe thấy tiếng vang này, sắc mặt cũng phải thay đổi.

Trong nháy mắt, khói đen dày đặc đã bao phủ dàn tế, nhanh chóng khuếch tán bốn phía.

Trong lúc các tín đồ còn chưa kịp giật mình, trong chùa miếu đột nhiên tối xuống. Những cây đuốc sáng hừng hực xung quanh, không biết vì sao bị tắt một nửa.

Trong phút chốc, Thừa Thiên tự tràn đầy không khí khủng bố.

Tín đồ rốt cục có chút rối loạn, tiếng kêu sợ hãi liên tiếp. Trong hỗn loạn, Địch Thanh giữ chặt Phi Tuyết, đã trốn xuống dưới dàn tế.

Phi Tuyết cũng không giãy dụa, tùy ý để Địch Thanh mang xuống dàn tế. Bên trong khói đặc, không biết là do Chiên Hổ bị mất phương hướng, hay là vì sao, nhưng nó không có đuổi theo.

Địch Thanh trong lúc nhất thời không biết làm gì cho phải.

Đến cuối cùng là ai làm nổ dàn tế? Hắn lúc đầu cảm thấy là Hàn Tiếu, giây lát chỉ biết tuyệt không có khả năng. Vụ nổ lần này không phải ngẫu nhiên. Thậm chí nói đã có người mưu tính từ lâu. Cho nên không thể là Hàn Tiếu.

Mục đích của việc làm nổ dàn tế là gì? Địch Thanh khó hiểu. Điều hắn duy nhất biết là, lần này hắn đã hết đường chối cãi!

Phi Tuyết bình tĩnh như thường, hạ giọng nói nói:

- Trước rời khỏi nơi này.

Lúc nàng suýt chết, nàng rất bình tĩnh. Gặp được loại hỗn loạn này, nàng vẫn giữ được sự trấn định tự nhiên.

Địch Thanh nghe thấy Thiện Vô Úy cao giọng hô cái gì đó, nhưng bằng tiếng Tạng, hình như là bảo mọi người bình tĩnh. Khói càng ngày càng đậm, nhưng trong chùa chiền cũng đã dần dần bình tĩnh lại. Địch Thanh còn đang do dự, không biết có nên đi ra giải thích. Đột nhiên hắn cảnh giác, kéo Phi Tuyết sang bên cạnh.

Một kiếm phá khói xông đến, gần như sát qua vai Địch Thanh mà đi. Địch Thanh lại chuyển thân hình, đã cách xa người nọ. Hắn không muốn đả thương người, cũng không muốn tạo hiểu lầm lớn hơn.

Vừa suy nghĩ, Địch Thanh vừa kéo Phi Tuyết chạy về chủ điện chùa Thừa Thiên.

Khói đặc đã bao phủ chùa Thừa Thiên, không thể nhìn rõ ràng vật xung quanh. Địch Thanh biết rằng các phiên tăng sẽ tập trung phòng bị những người chạy ra miếu, nên việc phòng thủ trong chùa Thừa Thiên khẳng định nới lỏng hơn.

Quả nhiên, trong chùa loạn thành một đoàn, các phiên tăng đều lao ra bảo vệ Phật Tử. Trong chủ điện chùa Thừa Thiên ngược lại không có một bóng người. Địch Thanh đi vào chủ điện, thấy bên trong thờ đầy các vị Phật, ở giữa là thờ phụng một pho tượng thần.

Bộ mặt của tượng rất dữ tợ, màu sắc sặc sỡ. Bị đèn dầu chiếu tới, càng thêm quỷ bi đáng sợ. Địch Thanh không nhìn ra đó là tượng của vị phật nào. Nhưng khi nhìn tượng phật, không kìm nổi nghĩ tới tượng phật và huyền cung trong giấc mơ.

Bất chấp nghĩ nhiều, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn phía đỉnh miếu. Hắn biết người bình thường đều có điểm mù. Cho dù có xem xét cẩn thận xung quanh, nhưng rất ít khi lưu ý trên đỉnh đầu. Vì vậy hắn muốn trốn trên xà nhà theo dõi động tĩnh.

Có tiếng bước chân truyền đến, Địch Thanh không do dự nữa, lôi Phi Tuyết trèo lên hương án, trốn phía sau bức tượng phật dữ tợn kia. Trừ phi có người trèo lên hương án nhìn mới có thể phát hiện ra bọn hắn.

Địch Thanh nghe thấy tiếng bước chân đến trước điện rồi dừng, sau đó lại không có tiếng động. Địch Thanh âm thầm kỳ quái, thầm nghĩ có người dám nghênh ngang đi vào trước điện, chẳng lẽ là nhân vật quan trọng nào đó của người Tạng, lại không biết muốn làm gì. Mặc dù hắn đầy bụng nghi hoặc, cũng không dám ló đầu ra nhìn. Đột nhiên, Địch Thanh phát giác ra mình còn nắm tay của Phi Tuyết.

Tay của Phi Tuyết, mềm mại nhưng lạnh như băng.

Địch Thanh chậm rãi buông tay của Phi Tuyết. Tuy có vài việc muốn hỏi, nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Ngẩng đầu nhìn phía Phi Tuyết, chỉ thấy đôi mắt đen như mực kia đang nhìn hắn.

Trong lòng Địch Thanh chấn động, không khỏi nghĩ tới ở ngõ Mạch Kiết kia, Dương Vũ Thường cũng nhìn hắn như vậy.

Phi Tuyết chăm chú nhìn Địch Thanh một lát, rồi chậm rãi dời đi. Ánh mắt của nàng lại quăng tới hướng đèn cầy, không biết đang suy nghĩ cái gì.

Trong lòng Địch Thanh dồn dập không yên. Đột nhiên lại nghe tới tiếng bước chân không ngừng truyền tới. Có mấy người vội vàng tiến vào nói:

- Tán Phổ, quốc sư, đã tra ra người nọ. Hắn là người đi cùng Tống thần Phú Bật, tên là Địch Thanh!

Địch Thanh chấn động. Không ngờ những người này lại thần thông quảng đại như vậy, phút chốc đã tra được lai lịch của mình.

Hóa ra, đứng ở Tiền Điện đúng là Phật Tử Cốc Tư La và quốc sư. Nhưng vừa nãy hắn chỉ nghe thấy tiếng bước chân của một người. Kia rốt cuộc là Cốc Tư La thâm bất khả trắc, hay là Thiện Vô Úy võ công cao cường, có thể che giấu tiếng bước chân, đến Địch Thanh cũng không phát hiện ra được? Hai ngươi này đứng ở trước tượng Phật, vẫn không có phát hiện Địch Thanh và Phi Tuyết.

Mặc dù Địch Thanh đã ẩn dấu kỹ càng. Nhưng ở trước mặt hai người Tây Tạng thần bí này, hắn cũng không dám có chút sơ suất.

Hồi lâu, thanh âm già nua của Thiện Vô Úy mới truyền đến:

- Hiện tại Phú Bật như thế nào?

Có người trả lời:

- Thuộc hạ đã bắt đám người Phú Bật.

Địch Thanh lại chấn động, âm thầm kêu khổ. Không nghĩ vô tâm lại làm phiền hà tới Phú Bật, còn có thể khiến việc liên minh giữa Đại Tống cùng Thổ Phiên trở thành ảo ảnh.

Ngoài điện lại có bước chân truyền đến, một lát sau có người bẩm báo nói:

- Khởi bẩm Tán Phổ, Hạp Chiên đã được đưa tới.

Địch Thanh có chút kỳ quái, không biết Hạp Chiên là ai. Hắn bỗng chú ý tới, sắc mặt của Phi Tuyết vẫn lạnh lùng, nhưng trong mắt đã có chút bối rối. Phi Tuyết cảm thấy Địch Thanh đang nhìn mình, nhưng nàng vẫn ngơ ngác nhìn đèn dầu.

Bất kể ở nơi nào, bất kể gặp chuyện gì khó khăn, Phi Tuyết đều lạnh lùng như vậy. Địch Thanh không kìm nổi nghĩ, chẳng lẽ trên đời này, không có việc gì khiến Phi Tuyết quan tâm?

Nhưng nếu việc gì Phi Tuyết cũng không quan tâm, vậy nàng đã đáp ứng Cốc Tư La là vì cái gì?

Trong điện có một thanh âm run rẩy nói:

- Tán Phổ, quốc sư, thuộc hạ không làm tròn bổn phận, khiến gian nhân phá hủy chùa Thừa Thiên. Thuộc hạ đáng chết vạn lần. Nhưng... Thuộc hạ... Những năm gần đây...

Dường như người nọ rất sợ hãi, đã nói không nên lời.

Thiện Vô Úy nói:

- Hạp Chiên, ngươi mấy năm nay, không có công lao, cũng có khổ lao. Bởi vậy ngươi muốn Tán Phổ đặc xá cái chết cho ngươi chứ gì?

Hạp Chiên mừng rỡ, liên tục gật đầu nói:

- Vâng…vâng…Cầu Tán Phổ xem những vất vả của tiểu nhân mấy năm nay, mà tha tiểu nhân một mạng.

Một lúc lâu sau, Cốc Tư La mới nói:

- Hạp Chiên, ngươi theo ta bao nhiêu năm?

Thanh âm của y vẫn trầm thấp có lực, không có lộ ra ý tứ gì.

Hạp Chiên nói:

- Bảy năm…

Cốc Tư La khẽ thở dài, nói:

- Là bảy năm ba tháng mười ba ngày.

Hạp Chiên ngẩn ra, chỉ nói:

- Vâng.

Trên trán y đổ đầy mô hôi. Không biết vì sao Cốc Tư La nhớ rõ ràng như vậy, lại càng không biết Cốc Tư La vì sao phải nói ra.

Lại qua hồi lâu, Cốc Tư La mới nói:

- Năm đó ta bị Ô Bô Kỳ bỏ tù, ngươi còn là một ngục tốt. Nếu không có ngươi thả ra, không chừng ta đã chết ở nhà giam. Ngươi đối với ta có ân cứu mạng.

Hạp Chiên cúi rạp đầu xuống, không dám ngẩng lên. Cốc Tư La lại nói:

- Ta nhớ ân tình của ngươi, nên lưu ngươi lại bên người. Đem việc phụ trách việc cúng tế của chùa Thừa Thiên giao cho ngươi. Ngươi vẫn không có phụ lòng tín nhiệm của ta.

Hạp Chiên liên tục dập đầu nói:

- Tiểu nhân không bao giờ phản bội Tán Phổ.

Thiện Vô Úy một bên nói:

- Có thật ngươi chưa bao giờ phản bộ Tán Phổ? Việc cúng tế ở chùa Thừa Thiên, xưa nay đều cho ngưoi vào cúng bái, lẫn vào gian tế cũng không có gì là lạ. Nhưng dàn tế là ngươi dựng, dàn tế đột nhiên nổ tung, hiển nhiên là có người mưu đồ đã lâu. Xưa này ngươi vốn là người thận trọng, làm sao có chuyện không phát hiện dàn tế có khác thường? Chỉ bằng điều này, ngươi khó mà tránh khỏi tội cấu kết với người ngoài!

Hạp Chiên chấn động, run giọng nói:

- Quốc sư, tại tiểu nhân có chút không cẩn thận…

Không đợi y nói xong, Cốc Tư La đã nói:

- Ta chỉ hỏi ngươi một câu, ngươi có nhận tội hay không?

Thanh âm của Cốc Tư La vẫn trầm thấp như trước, nhưng mồ hôi của Hạp Chiên đã rơi ra như mưa, y không dám lau. Sau một lúc lâu y mới nói:

- Tiểu nhân nhận tội.

Cốc Tư La hạ giọng nói:

- Ngươi không có lý do gì phản bội ta…Rốt cuộc là ai sai ngươi là? Chỉ cần ngươi nói cho ta biết, ta sẽ không phạt ngươi.

Hạp Chiên run giọng nói:

- Tán Phổ, ngài thật sự không trừng phạt tiểu nhân?

Cốc Tư La nói:

- Ai mà chả có sai lầm, sửa lại là được. Ta nói rồi, ngươi đã cứu ta, lại chỉ có điều bị người lợi dụ, nhất thời phạm sai lầm, chỉ cần đồng ý sửa đổi là tốt rồi.

Giọng điệu của y hòa hoãn, không có nửa phần tức giận. Cho dù, Địch Thanh nghe được, cũng cảm giác Cốc Tư La nói rất đáng tin.

Hạp Chiên không do dự nữa, lập tức nói:

- Tán Phổ, người sai khiến ta làm nổ đàn tế, là Địch Thanh!

Địch Thanh chấn động, khó mà tin được những điều y nói! Hắn căn bản vừa mới biết chuyện tế đàn ở chùa Thừa Thiên, cũng không biết Hạp Chiên. Hắn nằm mơ cũng không ngờ, Hạp Chiên lại bảo Địch Thanh hắn là thủ phạm phá hư đàn tế?

Hạp Chiên đang nói dối, nhưng vì sao y phải hãm hại mình?

Trong lòng Địch Thanh bối rối. Hắn cảm thấy mình đã rơi vào một cái âm mưu thật lớn. Đáng sợ hơn là, hắn không biết phía sau nó là cái gì.

Trong điện yên lặng như tuyết rơi, trong im lặng mang theo cỗ không khí lạnh như băng.

Hồi lâu, Cốc Tư La lúc này mới nói:

- Vì sao Địch Thanh muốn phá hư lễ tế?

Hạp Chiên lắc đầu nói:

- Tiểu nhân không biết. Nhưng hắn đã bắt người nhà của tiểu nhân, uy hiếp tiểu nhân phá hủy dàn tế. Hắn nói nếu tiểu nhân không làm theo, sẽ giết cả nhà tiểu nhân. Tán Phổ, tiểu nhân thật sự ăn gan báo cũng không dám phản bội ngươi, nhưng không có lựa chọn nào khác...

Địch Thanh vừa sợ vừa giận. Hắn suy nghĩ rồi quyết định một việc, thấp giọng nói:

- Phi Tuyết, ngươi bảo trọng.

Nói xong hắn liền lắc mình ra khỏi tượng Phật, nhảy xuống bệ thần. Quát:

- Hạp Chiên, ngươi nói láo! Ta là Địch Thanh, ngươi lặp lại lần nữa, có phải là ta làm chủ hay không?

Địch Thanh không thể không đứng ra. Vừa rồi hắn cũng không muốn trốn đi, mà muốn ở lại chùa Thừa Thiên, tìm cơ hội phân giải.

Hiểu lầm đã sinh, hắn sẽ lập tức giải quyết. Hắn không muốn vì hiểu lầm mà làm hỏng việc liên minh giữa Thổ Phiên và Đại Tống.

Nhưng Hạp Chiên lại nói là hắn làm chủ. Lúc này, nếu không đứng ra, chỉ sợ không còn cơ hội giải thích!

Nhưng khi hắn đứng ra, chỉ thấy trên khuôn mặt Cốc Tư La cùng Thiện Vô Úy đã tràn đầy sát khí. Trong lòng Địch Thanh trầm xuống.

Càng làm cho Địch Thanh kinh hãi chính là, Hạp Chiên vừa thấy hắn, đã lui về phía sau vài bước, chỉ vào Địch Thanh hoảng sợ nói:

- Chính là hắn, chính là hắn bắt người nhà tiểu nhân, uy hiếp tiểu nhân phá hỏng tế lễ!

Địch Thanh nghiêm nghị, biết nếu không phải Hạp Chiên cố ý hãm hại, thì là có người khác cải trang thành hắn, khiến Hạp Chiên nhận lầm…

Nhưng bất kể rơi vào tình huống nào, việc hãm hại này đã được mưu tính từ trước. Hắn bị rơi vào cạm bẫy, khó mà thoát thân ra được. Rốt cuộc là ai, lại có tâm cơ như vậy?

Thiện Vô Úy nhìn Địch Thanh lạnh như băng nói:

- Địch Thanh, ngươi hủy đài tế thiên, lại bất kính với Phật tổ, dám trốn phía sau Phật tổ, tội nào cũng đáng chết. Ta mặc kệ ngươi là tướng quân của Đại Tống, hay là sứ thần của Đại Tống, lập tức nhận lấy cái chết, ta cho ngươi toàn thây!

Thanh âm già nua của Thiện Vô Úy mang theo sự phẫn nộ. Hiển nhiên ông ta mặc tội danh của Địch Thanh.

Địch Thanh tâm tư xoay chuyển, trong lúc nhất thời không có cách nào, chỉ nói:

- Phật tử, tại hạ và Phú Bật Phú đại nhân đến nơi này, vốn có việc thương lượng…

Hắn cách Cốc Tư La không xa, trong chùa cũng không tối, nhưng thấy khuôn mặt của Cốc Tư La vẫn như đang chìm vào mơ mộng, căn bản là nhìn không ra tâm tư của Cốc Tư La.

Cốc Tư La chậm rãi nói:

- Ta chỉ hỏi ngươi một câu, ngươi nhận tội hay không. Nếu như ngươi nhận tội, ta sẽ không lấy tính mạng của ngươi!

Địch Thanh ngẩn ra, tâm loạn như ma. Đèn dầu chiếu tới bóng tượng phật, cổ tháp trang nghiêm, nghe những lời này, rất có sức thuyết phục. Nhưng Địch Thanh vẫn nhìn vào Cốc Tư La, thẳng thắn nói:

- Tán Phổ, tuyệt đối không phải là ta làm nổ dàn tế! Ta không có lý do gì làm như vậy. Phật tổ có thể chứng kiến, ta vô tội!

Còn chưa dứt lời, một tiếng rít gào vang lên, Chiên Hổ đã xông tới, nhất trảo bổ ra! Cùng với tiếng rống của Chiên Hổ, là một tiếng Phạn đột nhiên vang lên.

Tiếng Phạn thình lình xuât hiện, không giống như tiếng trời, mà lại mang đầy sát khí. Cho dù Địch Thanh bình tĩnh, cũng bị tiếng xướng kia làm chấn động tâm thần.

Trong điện, đèn dầu lập lòe, tiếng Phạn vang lên, bóng của tượng Phật lập lòe, có vẻ quỷ dị, giống như tượng Phật đang sống lại.

Trong chớp mắt, Địch Thanh né tránh song trảo của Chiên Hổ, cất giọng nói:

- Tán Phổ, kẻ gây tội là người khác. Ta trốn sau tượng phật là muốn nói chuyện với ngươi. Đó là việc hai nước liên kết, chống lại Nguyên Hạo. Thử hỏi ở thời điểm này, làm sao sẽ bất kính với Phật Tử?

Thanh âm của Địch Thanh cao vút. Mặc dù lẫn trong tiếng Phạn, nhưng vẫn có thể nghe rõ ràng.

Cốc Tư La lẳng lặng đứng ở đó, dường như không nghe thấy.

Chiên Hổ bất động, tiếng Phạn xướng lên càng ngày càng có lực, liên tục giống như không biết mệt mỏi. Gió thổi trong điện cực kỳ mãnh liệt, sát khí bắn ra bốn phía, như gió cắt trong trời đông.

Địch Thanh đã lui đến phía trước tượng phật sặc sỡ. Mà Chiên Hổ gầm càng ngày càng lớn, hai chân chộp loạn, không biết là chộp người hay chộp bóng.

Lúc này, tiếng Phạn xướng lên nhanh hơn, Chiên Hổ rống giận, thân hình đột nhiên xoay chuyển như con quay, nháy mắt tới trước mặt Địch Thanh, một trảo lại bổ xuống!

Một chiêu này quái dị phi thường, tốc độ cực nhanh. Chiên Hổ tuy chỉ ra một trảo, nhưng dưới ánh đèn bị biến ảo thành vô vàn ảnh trảo, làm người ta phân biệt không rõ đâu làư thực.

Địch Thanh xuất đao.

Một đao chém ngang, phòng thủ trước người.

Trảo của Chiên Hổ không đánh tới. Trảo của y tuy cứng rắn, nhưng mũi đao lại sắc bén hơn. Trảo của y dù nhanh như tia chớp, nhưng đao của Địch Thanh lại vung lên như bức tường. Nếu y tiếp tục vồ tới, chẳng những năm ngón tay phải đứt, chỉ sợ ngay cả cánh tay cũng đi theo.

Thiện Vô Úy thay đổi sắc mặt, ông ta nhìn ra, Địch Thanh còn dư sức.

Chiên Hổ rống lên giận dữ, lùi về phía sau, lấy đà cho lần tấn công kế tiếp.

Trong lúc đó, Thiện Vô Úy đã nói:

- Cẩn thận!

Chiên Hổ ngưng tụ thế công. Địch Thanh phát hiện có người tiếp cận. Người này đúng là từ trên không bay xuống.

Có người ẩn thân trên xà nhà, lúc này đột nhiên nhảy xuống. Không biết y là địch hay là bạn?

Địch Thanh liếc xéo sang, chỉ thấy một người mặc áo đen che mặt, cả người tối như cũi, đã bổ nhào lên đỉnh đầu của Chiên Hổ, kêu lên:

- Địch Thanh, ta đến giúp ngươi!

Nói xong, y xuất chiêu, từ cổ tay áo bay ra một ánh sáng bạc, đánh trúng đầu vai của Chiên Hổ.

Máu tươi vẩy ra, Chiên Hổ bạo lui.

Địch Thanh kinh hãi, không biết lúc này tại sao có thể có người giúp hắn, người kia là ai?

Người nọ một chiêu đánh xuống, Địch Thanh cũng đồng thời xuất đao. Một đao của Địch Thanh không chém vào Chiên Hổ, mà là chém vào thích khách.

Hắn không cần giúp đỡ như vậy!

Người nọ đánh Chiên Hổ, càng làm cho Địch Thanh hết đường chối cãi. Trong nháy mắt Địch Thanh hiểu được dụng ý của người nay. Hắn phẫn nộ như điên, đao rất nhanh vung tới.

Nhưng người kia như sớm đoán trước. Một kích đã xong, liền nhảy cao lên, sớm né một đao của Địch Thanh.

Một đao của Địch Thanh chém vào khoảng không. Lông mày của hắn nhíu chặt lại, cảm thấy thân hình của thích khách này có chút quen thuộc. Hắn thấy người kia nhảy lên, liền hít một hơi dài…

Người không phải là chim, thích khách kia nhảy mặc dù cao, nhưng cách xà ngang còn rất xa, cuối cùng vẫn phải rơi xuống. Địch Thanh đợi thích khách rơi xuống, rồi sẽ vung một đao trí mạng.

Không nghĩ tới, người nọ mới nhảy lên không trung, chỗ xà ngang lại bay ra một cái dây thừng.

Thích khách bắt được dây thừng, liền nhảy lên xà ngang.

Địch Thanh cực kỳ tức giận, không nghĩ tới thích khách còn có người giúp đỡ, quát lên:

- Ở lại!

Hắn biết nếu không giữ người này lại, hắn sẽ hết đường chối cãi. Cánh tay vung lên, đơn đao đã rời khỏi tay, hướng về phía không trung.

Một đao ném tới, không thấy huyết không lùi.

Đao kia vung tới giống như lôi đình, giống như sét đánh, âm thanh phát ra rít gào, khiến tiếng Phạn xướng cũng bị ngừng lại. Một đao kia, cho dù là Thiện Vô Úy cũng phải thay đổi sắc mặt, không nghĩ trên đời lại có thứ đao pháp này.

Thích khách cũng thật không ngờ Địch Thanh sẽ một đòn hiểm như vậy. Y kêu lại một tiếng kỳ quái, uốn người trong không trung, chỉ cảm thấy tay nắm dây thừng lạnh buốt, cả người như muốn rơi xuống.

Cánh tay của thích khách đã bị chém đứt, máu tươi vung ra.

Rầm một tiếng, thế đao không ngừng, đâm vào xà ngang trên điện phật, bụi mù bay tứ tung. Một đao kia không những cắt đứt cánh tay của thích khách, thậm chí còn đâm sâu vào xà ngang, như muốn chém đắt thanh xà.

Uy lực của đao này, quả thực khó mà hình dung.

Thích khách chưa kịp rơi xuống, chỗ xà ngang có một người bay lên, nắm được áo của thích khách. Y rung một cái, lướt qua xà ngang, đánh vỡ đỉnh điện, nghênh ngang rời đi.

Trên xà nhà lại sớm có hai người mai phục. Hai người kia rốt cuộc là ai, vì sao lại muốn hãm hại Địch Thanh ta? Mà làm nổ dàn tế, có phải do hai người này bày ra?

Địch Thanh biết mấu chốt nằm trên hai người này, liền đi ra đuổi theo. Cảm giác có nguy cơ, một người đã đánh tới bên người hắn.

Là Chiên Hổ! Chỉ có Chiên Hổ mới có thể vào lúc này, lao nhanh tới tiếp cận Địch Thanh. Chiên Hổ đã bị thương, nhưng mãnh hổ lúc bị thương mới là đáng sợ.

Địch Thanh vì Chiên Hổ ra tay, nhưng Chiên Hổ lại không nhận ra. Nó chỉ biết, theo tiếng lệnh Phật, là phải giết Địch Thanh.

Địch Thanh xoay người, vội lui, thân hình nhoáng cái đã đến trước hương án. Nhưng hổ trảo vẫn như cũ đuổi tới bên người hắn. Địch Thanh dùng tay làm đao, một chưởng đập vào khuỷu chân của Chiên Hổ, bức bách Chiên Hổ lùi lại.

Đúng lúc này, tiếng Phạn lại xướng lên, một thanh âm như tiếng trời truyền đến.

Thanh âm kia chỉ nói sáu chữ...

Bàn - Nhược – Ba – La – Mật – Đa!

Thanh âm kia vừa chậm vừa nhanh, giây lát đã niệm xong. Nhưng sáu chữ kia như sáu cái châm đâm vào tai của Địch Thanh. Trong lòng Địch Thanh đau đớn, tay chân tự nhiên chậm lại nửa nhịp.

Chỉ cần nửa nhịp, một trảo của Chiêu Hổ đã đâm tới ngực.

Sáu chữ kia chả lẽ có ma lực? Địch Thanh hoảng hốt, vẫn kịp thời thu tay đỡ trước ngực, cản lại một quyền trảo của Chiên Hổ. Một trảo kia như Cự Chùy đánh tới. Địch Thanh cho dù là dũng mãnh, nhưng trong ngực cũng nóng lên, ở cổ mằn mặn, không kìm nổi lùi lại phía sau hai bước.

Hắn loạng choạng đứng đó, nhìn về hướng Thiện Vô Úy, thấy môi của ông ta mấp máy, lại thì thầm:

- Bàn - Nhược…

Chú ngữ này chính là do Thiện Vô Úy đọc lên. Tâm tư Địch Thanh chuyển động, ánh mắt xẹt qua phía Cốc Tư La. Hào quang trên mặt Cốc Tư La đã hết, khiến hắn nhìn thấy rõ rằng mặt của Cốc Tư La.

Đó là một khuôn mặt bình thường, nhưng Địch Thanh đã từng thấy qua khuôn mặt như vậy.

Trên khuôn mặt bình thường này có một đôi mắt không bình thường.

Đôi mắt kia giống như tập hợp tất cả thất tình lục dục của chúng sinh, cặp mắt kia như thấm nhuận tình đời, chiếu ra hào quang vạn trượng.

Cốc Tư La chính là người mà Địch Thanh gặp ở quán rượu.

Một bóng trắng từ trong đầu hiện lên, Địch Thanh kêu lên một tiếng trầm thấp, tim như bị đao cắt. Sau đó hắn thấy môi Cốc Tư La mấp máy, thì thầm:

- Bàn - Nhược – Ba – La – Đa!

Sáu cái chữ bình thản không có gì lạ, đột nhiên chồng lên chú ngữ của Thiện Vô Úy. Chú ngữ giống nhau, tốc độ khác nhau, đồng thời vang đến, rời vào trong tai của Địch Thanh, giống như lưỡi dao sắc bén.

Địch Thanh go rú một tiếng, khóe mắt co giật liên tục. Những chuyện cũ trong đầu cứ dồn dập hiện ra, không có dấu hiệu dừng lại. Ở thời khắc này, hắn như rơi vào trong giấc mộng, khó mà phân thực hay ảo.

Má hồng chớp mắt phôi pha

Tóc mây ngoảnh lại nay đà như sương

Hai mắt của Địch Thanh trở nên mê ly. Hắn chỉ thấy bầu trời nơi phương xa có tiếng ca, có mây trắng. Trong đó có một người con gái, đang nhảy múa giữa những đám mây.

Hết thảy chỉ là tâm trí hiện lên, Địch Thanh chỉ biết hồi tưởng, đã quên địch nhân phía trước. Nhưng Chiên Hổ lại chưa bao giờ quên chức trách của mình, một trảo lại đánh tới ngực của Địch Thanh.

Một tiếng rầm vang lên thật lớn, Địch Thanh điên cuồng phun máu tươi, bay văng xa ra ngoài, đánh vào tượng Phật. Tượng Phật lung lay như muốn đổ xuống. Toàn thân Địch Thanh bủn rủn. Hắn thấy Chiến Hổ lại xông tới, trong lúc nhất thời, không có lực đứng lên.

Đúng lúc này, một người bỗng nhiên chắn trước người Địch Thanh, kêu lên:

- Chờ một chút!

Người nọ mặc áo trắng như tuyết, tóc đen như thác nước, đúng là Phi Tuyết vốn trốn ở phía sau tượng Phật.

Sắc mặt Thiện Vô Úy biến đổi, muốn quát ngưng lại nhưng lại do dự. Một trảo của Chiên Hổ đã lao tới cổ của Phi Tuyết.

Đột nhiên trong đại điện vang lên một tiếng rống long trời lở đất, lấn át cả tiếng Phạn xướng, thổi tắt cả đèn dầu trong điện. Một người đã lao nhanh tới chắn trước mặt Phi Tuyết.

Đứng ra chính là Địch Thanh.

Một tiếng cười vang lên, năm ngón của Chiên Hổ đâm sâu vào ngực của Địch Thanh.

Địch Thanh lần này không có né tránh. Hắn cũng vung mạnh một quyền đánh vào xương sườn của Chiên Hổ.

 Chương 343 - 346: Gắn bó

Chiến Hổ cuồng hô, cả người bay lên không. Lúc đập xuống mặt đất, máu tươi đã phun ra điên cuồng, không thể đứng dậy được nữa.

Tay phải của Địch Thanh vung quyền, tay trái nắm chặt tay của Phi Tuyết. Hắn ra quyền nhanh như vậy, giống như bù đắp những tiếc nuối của kiếp này. Vừa rồi hắn nhìn thấy bóng trắng hiện lên bên cạnh hắn, đó chính là cảnh tượng mà năm đó ở Hoàng Nghi môn thấy qua…

Chuyện cũ như điện, khắc cốt ghi tâm!

Hắn đã làm sai một lần, làm sao lại có thể khiến nó tái diễn.

Ở một khắc này, hắn giống như lại nhìn thấy Vũ Thường vì hắn xả thân nhảy xuống. Lòng hắn quặn đau khong chịu nổi. Không biết khí lực từ đâu tới, khiến hắn vốn đang tỉnh tỉnh mê mê trở nên sáng suốt. Cho dù là vô thượng thần thú, cũng không thể ngăn chặn được hắn.

Hắn phấn khởi, vung quyền, đánh bay Chiên Hổ, rồi rơi lệ ngoái đầu nhìn lại, nhìn phía Phi Tuyết kêu lên:

- Vũ Thường!

Đúng lúc này, Phạn xướng lại vang lên, tiếng trời truyền đến:

- Bàn – Nhược –a – La – Đa!

Sáu chữ đơn giản mang theo vô tận ma lực cùng nguyền rủa, đánh vào trong lòng của Địch Thanh. Địch Thanh chấn động, hai mắt lại mê ly. Nhưng đột nhiên phát hiện trước mắt không phải là Vũ Thường, mà là Phi Tuyết. Suy nghĩ của hắn rơi vào hoảng loạn. Thân hình lay động, một bước đi tới. Không biết tại sao, như rơi vào không trung, vội vàng rơi xuống.

Làm sao hắn có thể đạp vào không trung? Địch Thanh khó hiểu, nhưng hắn theo bản năng buông lỏng bàn tay ra.

Có lẽ, hắn đã làm thần phật tức giận, ngỗ nghịch thiên ý, tội ác tày trời! Dưới tiếng Phạn xướng, dưới thần lực của tượng Phật, những con quỷ từ Đại ngục đã phá vỡ mười tám tầng địa ngục, muốn bắt hắn đi vào.

Nếu không phải Vũ Thường, hắn sẽ không muốn cùng Phi Tuyết ngã xuống. Nếu là Vũ Thường? Hắn có thể mang theo Vũ Thường đi xuống.

Địch Thanh không biết.

Địch Thanh buông tay, nhưng Phi Tuyết lại một phát bắt được tay của Địch Thanh, gắt gao nắm chặt. Giống như kiếp trước hai người có quan hệ, nàng trầm mặc không nói gì, đi theo Địch Thanh xuống vực sâu vô tận.

“Ầm” một tiếng vang lên, Địch Thanh ngã lên đất, ngất đi. Cho dù là địa ngục cũng có lúc tới đáy tận cùng.

Hắn liên tục bị thương, lại bị chú ngữ vô thượng trói buộc, nội thương ngoại thương, lo buồn phẫn nộ kinh sợ. Tuy là thể chất to lớn, nhưng cũng không thể chịu được đau khổ như vậy.

Chỉ là trước khi ngất đi, trong lòng Địch Thanh còn đang nghĩ: “Nếu ta vào địa ngục, còn có thể gặp lại Vũ Thường không?

Bóng đen vô hạn... tĩnh mịch vô biên...

Trong hôn mê Địch Thanh có lúc nghĩ sẽ chết, có lúc hơi có cảm giác, có lúc cảm giác mình miệng khô lưỡi đắng. Bỗng nhiên có chút nước đổ bên miệng hắn, nước sền sệt, còn hơi ấm, vào trong bụng, cho hắn phần sức lực, làm hắn không đến mức trầm luân với bóng tối vô cùng vô tận.

Bởi vậy cho dù trong hôn mê, hắn cũng cảm giác bên cạnh có người làm hắn không đến mức cô đơn.

Trong bóng tối, hắn cảm giác có đôi mắt thăm thẳm như nước chăm chú nhìn lặng lẽ ... Mặc dù không nhìn thấy, nhưng có thể cảm giác được.

Là Vũ Thường... hay là Phi Tuyết, Địch Thanh không biết.

Trong mơ màng, nghe được có người thì thầm:

- Quan tự tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách...

(Đây là bài kinh Trong Bát Nhã ba la mật đa tâm kinh)

Âm thanh bình ổn, như tiếng Phạn xướng, lại thêm phần gợn sóng.

Âm thanh đó lọt vào tai Địch Thanh không phải như lưỡi đao sắc bén đâm mạnh, chỉ như gió xuân ấm áp.

“Ta đang ở đâu?”

Địch Thanh mơ màng nghĩ ngợi, chỉ cảm giác miệng khô nứt ra, nhịn không được nói:

- Nước...

Có giọt nước rơi vào môi của hắn, không nhiều, nhưng đã có thể làm Địch Thanh hồi phục lại bình tĩnh.

- Xá lợi tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thụ tưởng hành thức, diệc phục như thị... Xá lợi tử, thị chư pháp không tương, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm...

(Đây là bài kinh Trong Bát Nhã Tâm Kinh

Lúc Địch Thanh nghe mấy câu này, trong lòng mê hoặc, nhưng hắn cảm thấy cái này giống như là kinh văn. Nhưng lúc này, sao có người đọc kinh văn cho hắn nghe. Kinh văn đó bình thản và yên tĩnh, truyền tới trong tai Địch Thanh, làm hắn quên đi chuyện cũ, quên bi thương, ngủ thật say.

Trong lúc đó, phía trước có chùm ánh sáng chói mắt.

Là hào quang! Sao lại có hào quang mãnh liệt thế này.

Hào quang rực rỡ nhiều màu, như ngân hà treo ngược. Hào quang vỡ mở ra là vùng đất mênh mông. Trên vùng đất bỗng nhiên xuất hiện núi lửa bùng cháy, mây trời bị ngọn lửa lớn thiêu cháy hừng hực như máu. Đỉnh núi lửa có hai người đang đứng đối lập.

“Hai người đó là ai? Sao ta lại tới chỗ này, đây là mộng hay tỉnh, là thật hay ảo?”

Địch Thanh đã không phân biệt rõ. Hắn cố gắng nhìn kỹ, chỉ thấy bên mặt của hai người đó, hình như là một nam một nữ.

Thái dương người người nam tóc sương bạc, dung mạo tuấn lãng, mơ hồ chính là Địch Thanh hắn.

Nếu người nam đó là Địch Thanh hắn, vậy người kia là ai? Địch Thanh nghĩ mãi không ra. Hắn cố hết sức nhìncô gái đối diện người đàn ông đó. Cô gái đó... chính là Vũ Thường.

Địch Thanh trong kinh ngạc có vui mừng bất ngờ, muốn chạy tới, nhưng toàn thân vô lực, muốn gọi to, nhưng không thể nào phát ra tiếng. Chính đang lúc này, hắn nhìn thấy đôi nam nữ đó quỳ bái lạy nhau, cùng kêu lên:

- Địch Thanh, Dương Vũ Thường không cầu cùng sinh, nhưng cầu cùng chết, đời đời kiếp kiếp, tình này không thay đổi.

Kèm theo lời thề đó, có tiếng hát truyền đến:

- Xe ngựa hạm hạm, thuế y như viêm, chẳng phải người suy nghĩ, sợ chết không dám?

Trời có mưa, không tưới tắt được núi lửa dâng trào. Trời có mưa, như nước mắt của nhân tình tích tụ.

Địch Thanh nghe được tiếng ca đó, không khỏi nhớ tới đêm ác mộng đó. Trong lòng không kìm được đau đớn, kêu:

- Vũ Thường...

Nhưng giọng hắn quả thật quá yếu ớt, yếu đến mức cho dù chính mình cũng khó nghe thấy.

Trong lúc đó có tiếng Phạn xướng truyền đến:

- Vô quải ngại cố, vô hữu khủng phố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn.

(Đây là bài kinh Trong Bát Nhã Tâm Kinh)

Trời đất cùng chấn động, núi lửa đó bỗng nhiên không thấy, đôi nam nữ đó cũng biến mất không thấy bóng dáng.

Địch Thanh khẩn trương, cất bước muốn đuổi theo. Đất nứt tách ra, hắn té không kịp chuẩn bị, bỗng nhiên rơi vào bóng đen vô cùng vô tận, Địch Thanh bỗng nhiên mở mắt, hô to:

- Vũ Thường!

Âm thanh đó âm âm vang lên, chấn động bên tai. Nương theo tiếng hô đó còn có một tiếng Phạn xướng.

- Cố Tri Bát Nhã Ba La Mật Đa, là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, có thể loại bỏ tất cả khổ ải, thật không giả.

Bát Nhã Ba La Mật Đa!

Địch Thanh nghe sáu từ này, bỗng nhiên mở mắt ra. Trước mắt vẫn là một khoảng tối đen, nhưng cuối cùng hắn nhớ lại tất cả mọi thứ. Hắn bị chú ngữ bó buộc, bị Chiên Hổ gây thương tích, Phi Tuyết đến cứu hắn, tinh thần hắn mơ màng, tưởng lầm là Vũ Thường. Lúc này mới phấn chấn lên, đánh lui Chiên Hổ, sau đó hình như lọt vào chỗ này...

- Đây là chỗ nào?

Địch Thanh không kìm nổi hỏi, dừng lại một chút, hỏi:

- Phi Tuyết, là cô sao?

Màu đen vô tận, tĩnh mịch vô biên, Địch Thanh tuy dốc sức nhìn qua, nhưng vẫn không thấy gì, nhưng cảm giác được bên cạnh có người.

Một người niệm kinh Phật giúp hắn an tâm. Người đó là Phi Tuyết, hắn cảm giác được.

Hồi lâu, giọng Phi Tuyết mới truyền đến:

- Phải, đây là dưới tượng Phật Lư Xá Na.

Giọng nàng trước sau vẫn bình tĩnh, nhưng lại có chút yếu ớt.

Địch Thanh lẩm bẩm nói:

- Tượng Phật Lư Xá Na? Là Phật gì. Vốn tưởng Phi Tuyết không trả lời, không ngờ Phi Tuyết thấp giọng nói:

- Lư Xá Na vốn là tiếng Tạng, ý là trí tuệ quảng đại, quang minh chiếu rọi khắp nơi. Phật Lư Xá Na là Phật Báo Thân, là tu hành viên mãn, biểu hiện đại triệt đại ngộ

Địch Thanh khó hiểu tại sao Phi Tuyết thành thạo kinh Phật như vậy, chỉ là đang nghĩ bọn họ dưới Phật Lư Xa Na là ý gì?

Phi Tuyết dường như nhìn ra tâm tư của Địch Thanh, giải thích:

- Chúng ta vẫn ở Thừa Thiên tự, chỉ là mấy ngày trước ở sau lưng tượng Phật, bây giờ là trong huyệt động phía dưới tượng Phật.

Địch Thanh trong lòng run lên, mới cảm giác thân mình suy yếu không trụ nổi, nhẹ phiêu phiêu như đám mây.

- Chúng ta ở đây mấy ngày rồi?

Địch Thanh hỏi, không nghe trả lời, Địch Thanh đột nhiên giật mình:

- Dưới tượng Phật có cơ quan, chúng ta rớt xuống trong cơ quan?

Thật lâu, Phi Tuyết mới nói:

- Trong này không phải cơ quan, vốn là chỗ tăng nhân tu hành. Ngươi đụng tượng Phật, mở cửa, do đó rớt xuống.

Địch Thanh không kìm nổi hỏi:

- Vậy... vậy sao cô không ra ngoài? Cô... bị thương rồi phải không?

Hắn đã nghe thấy giọng Phi Tuyết bình thản, nhưng đã hơi yếu.

Phi Tuyết không nói nữa, trong huyệt động bỗng dưng trở nên tĩnh lặng như chết.

Địch Thanh trong lòng lo lắng, vùng vẫy đứng lên. Tuy nhìn không rõ tình hình trong huyệt động, nhưng đã sờ soạng về hướng Phi Tuyết, hỏi:

- Phi Tuyết, rốt cuộc cô sao rồi?

Trong lúc đó, đầu ngón tay hắn cảm thấy lãnh lẽo mềm nhẵn, lập tức ý thức được chạm trúng mặt của Phi Tuyết, liền vội rút tay lại:

- Xin lỗi.

Phi Tuyết sau hồi lâu mới nói:

- Ta... không sao... chỗ này là tăng nhân tạo ra để tu hành. Vì xây chỗ này, chỉ cần vào trong đó, không xác định được thời gian . Cho dù họ có thần thông quãng đại cũng không ra được. Cơ quan này, vốn ở bên ngoài.

Địch Thanh trong lòng nghiêm nghị, giật mình nói:

- Nói như vậy... nếu không thả chúng ta ra ngoài, chúng ta phải chết ở đây?

Phi Tuyết im lặng, có khi im lặng, chính là tỏ ý thừa nhận.

Địch Thanh từ từ ngồi xuống, lúc này cảm nhận lòng ngực đau như kim châm, trán đầy mồ hôi, toàn thân suy kiệt không trụ nổi. Chiên Hổ đó vừa ra tay đã đả thương nặng hắn, nhưng hắn vẫn có thể tỉnh lại cũng là kỳ tích. Địch Thanh sờ soạng khắp nơi, lúc này phát hiện dưới chân là mặt đá xanh, còn bốn vách tường cũng giống vậy. Không lâu, hắn đã mò xong cảnh vật xung quanh, mới phát hiện là chỗ này xung quanh hình tròn. Hơn nữa mặt đất xung quanh dưới chân đều là chỗ tuyệt đối không ra được.

Lối ra duy nhất chính là đỉnh đầu, nhưng lúc mò lên trên, Địch Thanh trong lòng chợt trầm xuống.

Phía trên trống trải như không, vẫn tối tăm không thấy được gì. Nhưng bên trong bốn vách tường thành là hình loa kèn, trơn không dính tay, nếu muốn leo lên, tuyệt đối không thể.

Phi Tuyết nói không sai, một người nếu rơi vào trong đó. Nếu không có bên ngoài mở cơ quan, cho dù thần thông quảng đại, cũng không thể sống sót ra ngoài.

Cả đời Địch Thanh trước giờ chưa có lúc tuyệt vọng như vậy, bây giờ hắn chỉ có thể chịu chết. Ngoài trừ cái này ra, chỉ có thể cầu nguyện bên ngoài có người đi ngang qua, sẽ thả bọn họ ra.

Nhưng hắn là bị Cốc Tư La giam ở bên trong, khóa tượng Phật lại rất bí ẩn, cơ hội có người cứu bọn họ có thể nói là hoàn toàn không có.

Địch Thanh ngồi xuống, hồi lâu mới hỏi:

- Phi Tuyết, tại sao cô tới chỗ này?

Cho tới lúc này, Phi Tuyết vẫn có thể giữ được bình tĩnh, cho dù chính Địch Thanh cũng cảm thấy kỳ quái.

Phi Tuyết thấp giọng nói:

- Ngươi biết hay không biết, có gì khác biệt chứ? Trong ngữ điệu nàng, cũng là bình tĩnh.

Địch Thanh luôn cảm giác được Phi Tuyết có chút khác thường, nhưng không có nghĩ nhiều. Rơi vào tuyệt địa này, hắn suy nghĩ lộn xộn nhưng lại rõ ràng vô cùng. Hắn không sợ chết, nhưng hắn thật sự có quá nhiều chuyện cần đi làm.

Hắn phải đi Hương Ba Lạp, hắn phải cứu Phú Bật, hắn còn có trách nhiệm kết minh Thổ Phiên, hắn gánh vác trọng trách chống lại Nguyên Hạo.

Chuyện hắn phải làm quá nhiều quá nhiều. Cốc Tư La sao có thể là một người bình thường của tửu quán. Chú ngữ của lão sao lợi hại như vậy? Bùng nổ hủy dàn tế là ai? Mục đích ở đâu? Hai thích khách từ dưới xà điện là ai, tại sao muốn ám hại Địch Thanh hắn?

Bỗng nhiên linh quang chớp động, Địch Thanh lẩm bẩm:

- Là Nguyên Hạo, nhất định là Nguyên Hạo! Chỉ có Nguyên Hạo mới có thể phá hủy dàn tế Thừa Thiên, giá họa cho ta. Chỉ có y mới có thể thu được lợi ích từ chuyện này, phá hoại liên minh của Đại Tống và Thổ Phiên.

Trong nháy mắt có một nghi hoặc lớn hơn. Lần này đi sứ Thổ Phiên, vốn là việc làm bí mật, Nguyên Hạo làm gì có thể biết tin tức nhanh như vậy chứ?

Nhưng nếu không phải Nguyên Hạo sai người đến quấy rối, còn có ai có thể làm như vậy?

Phi Tuyết không nói. Địch Thanh trong lòng đột nhiên sợ hãi, sợ Phi Tuyết như vậy chết đi, run giọng nói:

- Phi Tuyết... cô vẫn khỏe chứ?

Hắn bước lên trước một bước, cảm nhận được động tĩnh của Phi Tuyết.

Hắn không sợ cô đơn, không sợ chết, nhưng không biết tại sao trong lòng luôn có sợ hãi, cảm giác Phi Tuyết không giống như lời nàng nói...

Phi Tuyết bị thương phải không?

Phi Tuyết thấp giọng nói:

- Phải.

Địch Thanh bước lên trước một bước, run rẩy vươn tay ra. Trong bóng tối muốn đi nắm tay Phi Tuyết. Hắn và Phi Tuyết chỉ gặp qua mấy lần, nhưng trong cảm giác, hai người đã giống như bằng hữu gắn bó sinh tử. Hắn muốn biết tình hình thật sự của Phi Tuyết.

Nhưng hắn sợ đường đột, lại không tìm được tay của Phi TuyếtĐang lúc bàng hoàng, có một bàn tay lạnh như băng nắm lấy tay của Địch Thanh.

Địch Thanh vui mừng, hỏi:

- Sao cô thấy được ta?

Trong bóng đen vô tận, cho dù là mắt Địch Thanh sắc bén, cũng không thể nào thấy được Phi Tuyết. Nhưng làm sao Phi Tuyết có thể nắm tay hắn chính xác không lầm như vậy?

- Ngài muốn nhìn thấy, thì có thể thấy!

Âm điệu Phi Tuyết vẫn như trước.

Địch Thanh nắm tay của Phi Tuyết, hơi yên tâm. Vốn vẫn muốn hỏi thử sao cô và Dã Lợi Trảm Thiên sao không tới Hương Ba Lạp, tại sao tới Tây Tạng, và có hứa hẹn gì với Cốc Tư La. Nhưng nói tới bên miệng, đã biến thành:

- Trước đây Cát Chấn Viễn gặp qua cô.

Hắn như ma xui quỷ khiến bật hỏi câu này, lại không kìm nổi nhớ tới câu chuyện của Cát Chấn Viễn kể.

Buổi chiều tối mùa hè bầu trời đầy bươm bướm đó...

- Ta còn cho rằng ngươi sẽ hỏi chuyện của Dã Lợi Trảm Thiên.

Phi Tuyết thấp giọng nói.

Địch Thanh cười khổ nói:

- Tới giờ, hỏi hay không hỏi có gì khác biệt. Nhưng có chuyện này, ta thật sự muốn hỏi... Ta muốn hỏi, lúc cô gặp được bà bà có bệnh đó, tại sao thương tâm như vậy? Lúc đó hai tên đàn ông có ý xấu vơi cô, tại sao lại phát điên? Phi Tuyết, cô có thể nói cho ta biết không?

Lúc Địch Thanh hỏi chỉ là lúc đang nghĩ:

“ NếuCốc Tư La nhốt hắn và Phi Tuyết ở đây, rốt cuộc lão ta định làm gì? Nếu lão ta thật muốn để ta chết, lúc nhốt hắn ở trong này, thì có thể giết ta rồi. Nói như vậy, lão vẫn không muốn giết ta. Nếu lão thay đổi ý định, nói không chừng sẽ thả ta và Phi Tuyết ra ngoài. Bây giờ chỉ cần có chút sự sống, ta cũng sẽ không từ bỏ. Phi Tuyết vốn là cô gái hành động đặc biệt độc lập, ý chí kiên định, tại sao cô ấy muốn tự sát ở dàn tế Thừa Thiên? Nếu cô ấy từ bỏ hy vọng, vậy thì không ra được chỗ này, ta nhất định phải làm cô ấy tiếp tục kiên cường.”

Hắn chính là vì điều này, mới nhắc lại chuyện cũ với Phi Tuyết. Trong lòng hắn, nếu không phải vì hắn, Phi Tuyết sẽ không rơi vào chỗ này. Cho dù tính mạng hắn không còn, cũng phải tìm cách để Phi Tuyết tiếp tục sống.

Phi Tuyết im lặng hồi lâu mới nói:

- Trên đời này có rất nhiều chuyện không thể giải thích...

Địch Thanh đang cho rằng Phi Tuyết không muốn nói, không ngờ Phi Tuyết lại tiếp tục nói:

- Ví dụ như chú ngữ...

Địch Thanh khẽ run, dù hắn trời không sợ, đất không sợ. Nhớ tới chú ngữ của Thiện Vô Úy, nhớ tới Phạn xướng quay xung quanh, cũng không kìm được nổi sống lưng lạnh cả người.

Phi Tuyết dừng lại hồi lâu, lại nói:

- Tạng Truyền Tam Mật chia làm ba loại Thân, Khẩu và Y. Nói đơn giản, Thân mật là kết thủ ấn thông thần, Khẩu mật là lấy chú ngữ để phụ trợ, Ý mật lại là dựa vào ý thức để tu luyện. Còn nói Tam Mật Giả có thể tinh thông ấn chứng đại đạo, có thể mượn thiên địa thần thông.

Địch Thanh vốn là nửa tin nửa ngờ, nhưng bản thân hắn đã bị chú ngữ trói buộc nên không thể không tin, liền suy đoán:

- Thiện Vô Úy, Cốc Tư La kết thủ ấn, niệm chú ngữ lại có thể làm tâm thần ta hoảng hốt. Chẳng lẽ... bọn họ có khả năng khơi thông thần thông.

Phi Tuyết im lặng hồi lâu mới nói:

- Bọn họ cụ thể là tình hình gì, ta cũng không biết . Trong Tạng Truyền Kinh Luận thường nói Phật thuyết tám mươi bốn ngàn pháp môn, pháp môn Bát Nhã thù thắng nhất. Bát Nhã Tâm Kinh là cõi sâu của Bát Nhã Kinh. Còn Bát Nhã Ba La Mật Đa là chú ngữ ghi chép trong tâm kinh, cũng là chú ngữ vô thượng giữa đất trời...

Địch Thanh thầm nghĩ:

“Mình hỏi cô ấy chuyện cũ, tại sao cô ấy phải lôi đến kinh văn Tạng Truyền?”

Nhưng ý định ban đầu hắn chính là làm Phi Tuyết phấn chấn. Nếu Phi Tuyết có hứng thú tiếp tục nói, mục đích hắn đã thành, cũng không làm đứt đoạn.

Phi Tuyết chuyển đề tài, nói:

- Ba người Thiện Vô Úy, Bất Không, Kim Cang Ấn đều đã luyện Thân mật, Khẩu mật nhưng lại chưa đạt đến Ý Mật thần thông. Nhưng bọn họ khó có thể tu luyện được Ý mật. Ở Tây Tạng, bây giờ có thể đạt tới Ý mật thần thông chỉ có một người, người đó chính là Cốc Tư La.

Địch Thanh nhớ tới đôi mắt của Cốc Tư La, trong lòng nghiêm nghị. Vì đôi mắt đó dường như có thể xuyên thấu tất cả, làm người ta không thể che giấu.

- Ở Thừa Thiên Tự, ngươi và Chiên Hổ quyết đấu, Thiện Vô Uy dùng chú ngữ vô thượng khống chế hành động của ngươi. Còn Cốc Tư La dùng chú ngữ nhiễu loạn tinh thần của ngươi.

Phi Tuyết cuối cùng thở dài nói:

- Trận chiến ấy của ngươi nhất định là bị Cốc Tư La khơi gợi chuyện cũ đau lòng nên mới bị thua, đúng không?

Địch Thanh cả kinh, sau hồi lâu mới nói:

- Phải!

Lúc này hắn mới hiểu rõ. Thì ra ở tửu quán, ở Thừa Thiên Tự nghĩ đến Vũ Thường cũng không phải không có nguyên nhân.

- Ý mật tuy thần thông, nhưng đòi hỏi bản thân ngươi cũng có nhược điểm cho lão lợi dụng.

Phi Tuyết nói:

- Mỗi người đều có nhược điểm, có người si, có người tham, có người dễ giận. Cốc Tư La chính là có một loại năng lực, là mở rộng vô hạn khuyết điểm của con người. Nhược điểm của ngươi...

Phi Tuyết do dự một hồi, cuối cùng không có nói tiếp.

Địch Thanh thầm nghĩ

“ Chắc chắn Phi Tuyết muốn nói nhược điểm của ta chính là Vũ Thường. Cốc Tư La dùng chú ngữ để kích phát chuyện cũ đau buồn của ta... Chẳng trách ta hai lần gặp Cốc Tư La thì đều nghĩ tới Vũ Thường,không thể tự thoát ra được. Nhưng nếu ta không có nhược điểm này, cuộc đời này còn có ý nghĩ gì?”

Địch Thanh nghe Phi Tuyết kể rõ Ý mật, mơ hồ nghĩ tới chuyện gì, nhất thời không thể khẳng định.

Phi Tuyết đã nói:

- Năm đó hai tên tham lam vô lại đó muốn lấy đồ của ta, ta chỉ là cho lòng tham của bọn họ bành trướng ra, bọn họ không thể chịu được, mới phát điên mà thôi.

Địch Thanh hơi chấn động, ít nhiều hiểu được tại sao Phi Tuyết nhắc tới Tam mật bên Tây Tạng. Chẳng lẽ cô gái này lại có bản lĩnh giống như Cốc Tư La, không kìm được hỏi:

- Lòng tham bành trướng vô vạn, cũng sẽ phát điên sao?

Phi Tuyết thản nhiên nói:

- Cái này kỳ lạ lắm sao? Chẳng lẽ ngươi chưa thấy rất nhiều người vì quyền lực tiền tài, người thân cũng không nhận (lục thân bao gồm: bố, mẹ, anh, em, vợ, con đều không nhận), cái đó và điên cuồng có gì khác biệt?

Địch Thanh cười khổ, nhưng lại cảm thấy Phi Tuyết nói cũng có lý. Phi Tuyết lại nói:

- Trên đời này có người bày mưu nghĩ kế, quyết thắng thiên lý. Có người bị vẻ bề ngoài che mắt, không thấy rừng rậm, tâm niệm quá đơn giản. Hành động của mỗi người khác biệt vạn lần ở chỗ vận mệnh dẫn đến thành công. Nhưng thành công hay không, càng được quyết định bởi ý chí mạnh yếu. Vì có những người ý chí mạnh, thậm chí có thể ảnh hưởng hành động của người khác. Như nói Cốc Tư La, lão chỉ cần một tiếng quát, không dựa võ lực, thì có thể làm trăm ngàn người Tạng sống chết có nhau. Có những người ý chí không kiên định, thì dễ bị người khác chi phối, ví dụ như Thiên tử Đại Tống Triệu Trinh.

Lần đầu tiên Địch Thanh nghe người ta đánh giá thiên tử như vậy, nhất thời không biết nói gì, nhưng trong lòng hắn cũng nghĩ như Phi Tuyết. Tuy hắn và Triệu Trinh xem là thân mật, nhưng mấy năm nay không gặp, cách xa, ngược lại có thể nhì thấy rõ tất cả.

Triệu Trinh năm đó ý chí hăng hái, muốn học theo Đường Tông Tống tổ, khai sáng một sự nghiệp to lớn, nhưng lại không quyết đoán thay đổi gia pháp tổ tông, rõ là người vô dụng, thiếu sự kiên định, dễ bị văn thần Lưỡng Phủ chi phối. Đại Tống thất bại thảm hại ở Tam Xuyên Khẩu, Hảo Thủy Xuyên, cố nhiên có quá nhiều nguyên do. Nhưng Triệu Trinh không biết cách dùng người, không thể thoái thác trách nhiệm.

Không nghĩ về Triệu Trinh nữa, Địch Thanh hỏi lại:

- Cô làm thế nào khiếnlòng tham vô hạn của bọn chúng bành trướng chứ?

Phi Tuyết im lặng sau hồi lâu mới nói:

- Ngươi đang mang Ngũ long, phải không?

Địch Thanh hơi chấn động, liền thoáng gật đầu:

- Phải!

Phi Tuyết chậm rãi nói:

- Từ sau khi ngươi có được Ngũ long, thì có một sức mạnh thần kỳ, đúng không?

Địch Thanh tay chân đều có chút đổ mồ hôi, run giọng nói:

- Phải.

Hắn đã cảm thấy Phi Tuyết muốn nói cho mình biết một bí mật liên quan đến bản thân. Không kìm được sự khẩn trương, thoe hắn thấy, Phi Tuyết phải biết rất rõ bí mật của Hương Ba Lạp hơn hẳn tất cả mọi người.

Phi Tuyết dường như suy nghĩ điều gì, rất lâu mới nói:

- Kỳ thật chính xác mà nói, Ngũ long không hề cho ngươi sức mạnh thần kỳ gì nhiều, nó chỉ là khai thác và phát huy một loại năng lực dồi dào của chính bản thân ngươi. Theo lý mà nói, tham cũng là một loại năng lực, đương nhiên có thể phát huy tăng thêm.

Địch Thanh nghe giận líu lưỡi, lần đầu tiên nghe có người giải thích Ngũ long như vậy, nhất thời khó mà chấp nhận. Phi Tuyết dường như nhận ra vẻ khó hiểu của Địch Thanh, thản nhiên nói:

- Ngươi từng nghe nói qua một thuyết Lục thần thông của Phật giáo chưa?

Địch Thanh lắc đầu, không đợi nói nhiều, Phi Tuyết dường như đã nhìn thấy, nói:

- Lục thần thông chính là Lục thông, là chỉ sáu loại năng lực vượt trội tự do không chướng ngại gồm phân thân cảnh thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mệnh thông, lậu tận thông. Người thế gian đa phần nhận thức vô căn cứ, nhưng chỉ có người đại trí tuệ chân chính mới có thể tu được. Theo ta biết, Cốc Tư La có năng lực tha tâm thông. Ngươi có Ngũ long, trong truyền thuyết... đó là thần vật có thể mở ra lục thần thông của con người.

Địch Thanh đột nhiên muốn hỏi Phi Tuyết có loại năng lực này không, vì hắn luôn cảm thấy thiếu nữ trầm lặng ít nói này, hình như có đôi mắt thấu hiểu tình đời. Nhưng cuối cùng hắn kiềm chế, hắn quen biết Phi Tuyết tới nay, lần đầu tiên nghe Phi Tuyết nói chuyện nhiều như vậy, trong lòng ngược lại có cảm giác kỳ lạ.

Phi Tuyết ngừng lại hồi lâu mới nói:

- Ngươi nhất định muốn hỏi ta có loại năng lực này không?

Địch Thanh chấn động, thất thanh nói:

- Làm sao cô biết?

Phi Tuyết từng chữ nói:

- Ta biết!

Trong giọng nói của nàng có loại sức mạnh vô cùng đáng tin, làm người ta không thể không tin.

Tâm tư Địch Thanh như tê dại, đột nhiên nhớ tới rất nhiều chuyện cũ. Hắn nhớ Cát Chấn Viễn từng nói, lúc Phi Tuyết ở trại Bình Viễn, tuy trong xe ngựa, nhưng lại biết Địch Thanh hắn bị thương. đã từng vào kinh thành. Phi Tuyết tuy là người ngoài cuộc, nhưng khuyên Triệu Trinh bảo Địch Thanh đi tây bắc. Hai chuyện này tuy nhỏ, nhưng bây giờ ngẫm nghĩ, tràn đầy kỳ lạ.

Thì ra Phi Tuyết thật sự có một loại thần thông? Thần thông có thể biết người khác suy nghĩ gì?

Bốn vách tường yên tĩnh, Địch Thanh ngồi yên ở đó thật lâu, đột nhiên rung giọng nói:

- Phi Tuyết, ta có thể cầu xin cô một chuyện không...

Phi Tuyết sau hồi lâu mới nói:

- Ngươi muốn hỏi chuyện của Hương Ba Lạp phải không?

Địch Thanh bị Phi Tuyết đoán trúng tâm sự, không khỏi chấn động, khàn giọng nói:

- Ta xin cô nói cho ta biết, truyền thuyết về Hương Ba Lạp ... là có thật không, nó thật có thể... Hắn khẩn trương vô cùng, lúc hỏi, quả tim gần như ngừng đập. Hắn sợ Phi Tuyết không nói, lại sợ Phi Tuyết nói, sẽ càng làm hắn thất vọng!

Bóng tối vô biên, tĩnh lặng như chết, dường như có thời gian trăm năm dài dằng dặc trôi qua một cách vô ích, Địch Thanh mới nghe Phi Tuyết nói:

- Là thật, nó thật sự có thể cứu được người mà ngươi yêu thương nhất!

Lúc Địch Thanh nghe được câu nói này, huyết dịch toàn thân giống như tuôn chảy, trái tim vui mừng gần như muốn nổ tung ra. Hắn tin Phi Tuyết! tin vô điều kiện. Nhưng trong nháy mắt hắn nghĩ tới một vấn đề quan trọng khác, có chút lo lắng hỏi:

- Phi Tuyết, vậy cô... có thể dẫn ta đi Hương Ba Lạp không?

Trong mật thất, bỗng nhiên yên tĩnh trở lại, Địch Thanh dường như nghe được tiếng trái tim đập của mình, một tiếng thở dài ra, Phi Tuyết đạm mạc nói:

- Bây giờ ngươi có thể còn sống ra ngoài được không còn chưa biết... cần gì nghĩ nhiều như vậy chứ?

Địch Thanh cảm giác bị một chậu nước lạnh dội vào, cả người lạnh thấu! Phi Tuyết nói không sai, hắn và Phi Tuyết bị nhốt ở đây, Cốc Tư La không cần giết hắn, chỉ cần bỏ mặc không hỏi, hắn và Phi Tuyết phải chết ở đây không ai biết.

Hắn vốn không sợ chết, nhưng hắn vừa mới biết Hương Ba Lạp quả thật có thể cứu Vũ Thường, cũng biết Phi Tuyết có thể dẫn hắn đi tới Hương Ba Lạp. Hắn đã có hy vọng cứu được Dương Vũ Thường mà chốc lát lại chết ở đây...

Địch Thanh bàng hoàng, chỉ thấy bóng tối ác nghiệt tràn ngập xung quanh, trong nhất thời mờ mịt bất lực. Bất chợthô to:

- Cốc Tư La, ngươi thả ta ra, Cốc Tư La, ngươi thả ta ra!

Hắn đột nhiên gào thét, âm thanh vù vù, âm vang rung động chấn động căn phòng bí mật. Nhưng sau âm thanh qua, mật thất lại tĩnh mịch giống như chết.

Địch Thanh nghĩ tới Dương Vũ Thường có hi vọng cứu, nhưng mình lại bất lực, đau buồn máu huyết kích động, không kìm được lại hét lên, trong nháy mắt, trong mật thất toàn là tiếng gào thét.

Phi Tuyết lại im lặng, chỉ nghe Địch Thanh gào thét không giúp. Trong tiếng thét của người đàn ông chỉ huy ngàn quân đó, đã có ý vô cùng tuyệt vọng. Không biết bao lâu, Phi Tuyết mới nhẹ giọng nói:

- Vô dụng thôi, ngươi đừng gào thét nữa.

Trong giọng nói của nàng vẫn luôn bình thản, tựa như có nước gợn sóng, nhưng trong giây lát sóng nước lại biến mất đi.

Địch Thanh mới khẽ giật mình, lúc này mới ngừng lại. Ngừng lại giây lát đó, chỉ cảm thấy môi khô nứt đau buốt, cả người mệt mỏi vô lực, tay vịn vách tường lạnh như băng, khàn giọng nói:

- Phi Tuyết... chúng ta ở trong này đã lâu chưa?

Hắn vừa nói, mới phát hiện cổ họng đau như kim đâm, ngực như lửa đốt. Lúc đó, hắn mới phát hiện mình rất khát nước.

Phi Tuyết thấp giọng nói:

- Ba ngày rồi...

Trong giọng nói của nàng có phần yếu ớt, không ai có thể chống cự được tháng ngày không có nước, Phi Tuyết cũng không ngoại lệ.

Địch Thanh trong lòng lo lắng, vùng vẫy đứng lên. Tuy nhìn không rõ tình hình trong huyệt động, nhưng đã sờ soạng về hướng Phi Tuyết, hỏi:

- Phi Tuyết, rốt cuộc cô sao rồi?

Trong lúc đó, đầu ngón tay hắn cảm thấy lãnh lẽo mềm nhẵn, lập tức ý thức được chạm trúng mặt của Phi Tuyết, liền vội rút tay lại:

- Xin lỗi.

Phi Tuyết sau hồi lâu mới nói:

- Ta... không sao... chỗ này là tăng nhân tạo ra để tu hành. Vì xây chỗ này, chỉ cần vào trong đó, không xác định được thời gian . Cho dù họ có thần thông quãng đại cũng không ra được. Cơ quan này, vốn ở bên ngoài.

Địch Thanh trong lòng nghiêm nghị, giật mình nói:

- Nói như vậy... nếu không thả chúng ta ra ngoài, chúng ta phải chết ở đây?

Phi Tuyết im lặng, có khi im lặng, chính là tỏ ý thừa nhận.

Địch Thanh từ từ ngồi xuống, lúc này cảm nhận lòng ngực đau như kim châm, trán đầy mồ hôi, toàn thân suy kiệt không trụ nổi. Chiên Hổ đó vừa ra tay đã đả thương nặng hắn, nhưng hắn vẫn có thể tỉnh lại cũng là kỳ tích. Địch Thanh sờ soạng khắp nơi, lúc này phát hiện dưới chân là mặt đá xanh, còn bốn vách tường cũng giống vậy. Không lâu, hắn đã mò xong cảnh vật xung quanh, mới phát hiện là chỗ này xung quanh hình tròn. Hơn nữa mặt đất xung quanh dưới chân đều là chỗ tuyệt đối không ra được.

Lối ra duy nhất chính là đỉnh đầu, nhưng lúc mò lên trên, Địch Thanh trong lòng chợt trầm xuống.

Phía trên trống trải như không, vẫn tối tăm không thấy được gì. Nhưng bên trong bốn vách tường thành là hình loa kèn, trơn không dính tay, nếu muốn leo lên, tuyệt đối không thể.

Phi Tuyết nói không sai, một người nếu rơi vào trong đó. Nếu không có bên ngoài mở cơ quan, cho dù thần thông quảng đại, cũng không thể sống sót ra ngoài.

Cả đời Địch Thanh trước giờ chưa có lúc tuyệt vọng như vậy, bây giờ hắn chỉ có thể chịu chết. Ngoài trừ cái này ra, chỉ có thể cầu nguyện bên ngoài có người đi ngang qua, sẽ thả bọn họ ra.

Nhưng hắn là bị Cốc Tư La giam ở bên trong, khóa tượng Phật lại rất bí ẩn, cơ hội có người cứu bọn họ có thể nói là hoàn toàn không có.

Địch Thanh ngồi xuống, hồi lâu mới hỏi:

- Phi Tuyết, tại sao cô tới chỗ này?

Cho tới lúc này, Phi Tuyết vẫn có thể giữ được bình tĩnh, cho dù chính Địch Thanh cũng cảm thấy kỳ quái.

Phi Tuyết thấp giọng nói:

- Ngươi biết hay không biết, có gì khác biệt chứ? Trong ngữ điệu nàng, cũng là bình tĩnh.

Địch Thanh luôn cảm giác được Phi Tuyết có chút khác thường, nhưng không có nghĩ nhiều. Rơi vào tuyệt địa này, hắn suy nghĩ lộn xộn nhưng lại rõ ràng vô cùng. Hắn không sợ chết, nhưng hắn thật sự có quá nhiều chuyện cần đi làm.

Hắn phải đi Hương Ba Lạp, hắn phải cứu Phú Bật, hắn còn có trách nhiệm kết minh Thổ Phiên, hắn gánh vác trọng trách chống lại Nguyên Hạo.

Chuyện hắn phải làm quá nhiều quá nhiều. Cốc Tư La sao có thể là một người bình thường của tửu quán. Chú ngữ của lão sao lợi hại như vậy? Bùng nổ hủy dàn tế là ai? Mục đích ở đâu? Hai thích khách từ dưới xà điện là ai, tại sao muốn ám hại Địch Thanh hắn?

Bỗng nhiên linh quang chớp động, Địch Thanh lẩm bẩm:

- Là Nguyên Hạo, nhất định là Nguyên Hạo! Chỉ có Nguyên Hạo mới có thể phá hủy dàn tế Thừa Thiên, giá họa cho ta. Chỉ có y mới có thể thu được lợi ích từ chuyện này, phá hoại liên minh của Đại Tống và Thổ Phiên.

Trong nháy mắt có một nghi hoặc lớn hơn. Lần này đi sứ Thổ Phiên, vốn là việc làm bí mật, Nguyên Hạo làm gì có thể biết tin tức nhanh như vậy chứ?

Nhưng nếu không phải Nguyên Hạo sai người đến quấy rối, còn có ai có thể làm như vậy?

Phi Tuyết không nói. Địch Thanh trong lòng đột nhiên sợ hãi, sợ Phi Tuyết như vậy chết đi, run giọng nói:

- Phi Tuyết... cô vẫn khỏe chứ?

Hắn bước lên trước một bước, cảm nhận được động tĩnh của Phi Tuyết.

Hắn không sợ cô đơn, không sợ chết, nhưng không biết tại sao trong lòng luôn có sợ hãi, cảm giác Phi Tuyết không giống như lời nàng nói...

Phi Tuyết bị thương phải không?

Phi Tuyết thấp giọng nói:

- Phải.

Địch Thanh bước lên trước một bước, run rẩy vươn tay ra. Trong bóng tối muốn đi nắm tay Phi Tuyết. Hắn và Phi Tuyết chỉ gặp qua mấy lần, nhưng trong cảm giác, hai người đã giống như bằng hữu gắn bó sinh tử. Hắn muốn biết tình hình thật sự của Phi Tuyết.

Nhưng hắn sợ đường đột, lại không tìm được tay của Phi Tuyết. Đang lúc bàng hoàng, có một bàn tay lạnh như băng nắm lấy tay của Địch Thanh.

Địch Thanh vui mừng, hỏi:

- Sao cô thấy được ta?

Trong bóng đen vô tận, cho dù là mắt Địch Thanh sắc bén, cũng không thể nào thấy được Phi Tuyết. Nhưng làm sao Phi Tuyết có thể nắm tay hắn chính xác không lầm như vậy?

- Ngài muốn nhìn thấy, thì có thể thấy!

Âm điệu Phi Tuyết vẫn như trước.

Địch Thanh nắm tay của Phi Tuyết, hơi yên tâm. Vốn vẫn muốn hỏi thử sao cô và Dã Lợi Trảm Thiên sao không tới Hương Ba Lạp, tại sao tới Tây Tạng, và có hứa hẹn gì với Cốc Tư La. Nhưng nói tới bên miệng, đã biến thành:

- Trước đây Cát Chấn Viễn gặp qua cô.

Hắn như ma xui quỷ khiến bật hỏi câu này, lại không kìm nổi nhớ tới câu chuyện của Cát Chấn Viễn kể.

Buổi chiều tối mùa hè bầu trời đầy bươm bướm đó...

- Ta còn cho rằng ngươi sẽ hỏi chuyện của Dã Lợi Trảm Thiên.

Phi Tuyết thấp giọng nói.

Địch Thanh cười khổ nói:

- Tới giờ, hỏi hay không hỏi có gì khác biệt. Nhưng có chuyện này, ta thật sự muốn hỏi... Ta muốn hỏi, lúc cô gặp được bà bà có bệnh đó, tại sao thương tâm như vậy? Lúc đó hai tên đàn ông có ý xấu vơi cô, tại sao lại phát điên? Phi Tuyết, cô có thể nói cho ta biết không?

Lúc Địch Thanh hỏi chỉ là lúc đang nghĩ:

“ NếuCốc Tư La nhốt hắn và Phi Tuyết ở đây, rốt cuộc lão ta định làm gì? Nếu lão ta thật muốn để ta chết, lúc nhốt hắn ở trong này, thì có thể giết ta rồi. Nói như vậy, lão vẫn không muốn giết ta. Nếu lão thay đổi ý định, nói không chừng sẽ thả ta và Phi Tuyết ra ngoài. Bây giờ chỉ cần có chút sự sống, ta cũng sẽ không từ bỏ. Phi Tuyết vốn là cô gái hành động đặc biệt độc lập, ý chí kiên định, tại sao cô ấy muốn tự sát ở dàn tế Thừa Thiên? Nếu cô ấy từ bỏ hy vọng, vậy thì không ra được chỗ này, ta nhất định phải làm cô ấy tiếp tục kiên cường.”

Hắn chính là vì điều này, mới nhắc lại chuyện cũ với Phi Tuyết. Trong lòng hắn, nếu không phải vì hắn, Phi Tuyết sẽ không rơi vào chỗ này. Cho dù tính mạng hắn không còn, cũng phải tìm cách để Phi Tuyết tiếp tục sống.

Phi Tuyết im lặng hồi lâu mới nói:

- Trên đời này có rất nhiều chuyện không thể giải thích...

Địch Thanh đang cho rằng Phi Tuyết không muốn nói, không ngờ Phi Tuyết lại tiếp tục nói:

- Ví dụ như chú ngữ...

Địch Thanh khẽ run, dù hắn trời không sợ, đất không sợ. Nhớ tới chú ngữ của Thiện Vô Úy, nhớ tới Phạn xướng quay xung quanh, cũng không kìm được nổi sống lưng lạnh cả người.

Phi Tuyết dừng lại hồi lâu, lại nói:

- Tạng Truyền Tam Mật chia làm ba loại Thân, Khẩu và Y. Nói đơn giản, Thân mật là kết thủ ấn thông thần, Khẩu mật là lấy chú ngữ để phụ trợ, Ý mật lại là dựa vào ý thức để tu luyện. Còn nói Tam Mật Giả có thể tinh thông ấn chứng đại đạo, có thể mượn thiên địa thần thông.

Địch Thanh vốn là nửa tin nửa ngờ, nhưng bản thân hắn đã bị chú ngữ trói buộc nên không thể không tin, liền suy đoán:

- Thiện Vô Úy, Cốc Tư La kết thủ ấn, niệm chú ngữ lại có thể làm tâm thần ta hoảng hốt. Chẳng lẽ... bọn họ có khả năng khơi thông thần thông.

Phi Tuyết im lặng hồi lâu mới nói:

- Bọn họ cụ thể là tình hình gì, ta cũng không biết . Trong Tạng Truyền Kinh Luận thường nói Phật thuyết tám mươi bốn ngàn pháp môn, pháp môn Bát Nhã thù thắng nhất. Bát Nhã Tâm Kinh là cõi sâu của Bát Nhã Kinh. Còn Bát Nhã Ba La Mật Đa là chú ngữ ghi chép trong tâm kinh, cũng là chú ngữ vô thượng giữa đất trời...

Địch Thanh thầm nghĩ:

“Mình hỏi cô ấy chuyện cũ, tại sao cô ấy phải lôi đến kinh văn Tạng Truyền?

Nhưng ý định ban đầu hắn chính là làm Phi Tuyết phấn chấn. Nếu Phi Tuyết có hứng thú tiếp tục nói, mục đích hắn đã thành, cũng không làm đứt đoạn.

Phi Tuyết chuyển đề tài, nói:

- Ba người Thiện Vô Úy, Bất Không, Kim Cang Ấn đều đã luyện Thân mật, Khẩu mật nhưng lại chưa đạt đến Ý Mật thần thông. Nhưng bọn họ khó có thể tu luyện được Ý mật. Ở Tây Tạng, bây giờ có thể đạt tới Ý mật thần thông chỉ có một người, người đó chính là Cốc Tư La.

Địch Thanh nhớ tới đôi mắt của Cốc Tư La, trong lòng nghiêm nghị. Vì đôi mắt đó dường như có thể xuyên thấu tất cả, làm người ta không thể che giấu.

- Ở Thừa Thiên Tự, ngươi và Chiên Hổ quyết đấu, Thiện Vô Uy dùng chú ngữ vô thượng khống chế hành động của ngươi. Còn Cốc Tư La dùng chú ngữ nhiễu loạn tinh thần của ngươi.

Phi Tuyết cuối cùng thở dài nói:

- Trận chiến ấy của ngươi nhất định là bị Cốc Tư La khơi gợi chuyện cũ đau lòng nên mới bị thua, đúng không?

Địch Thanh cả kinh, sau hồi lâu mới nói:

- Phải!

Lúc này hắn mới hiểu rõ. Thì ra ở tửu quán, ở Thừa Thiên Tự nghĩ đến Vũ Thường cũng không phải không có nguyên nhân.

- Ý mật tuy thần thông, nhưng đòi hỏi bản thân ngươi cũng có nhược điểm cho lão lợi dụng.

Phi Tuyết nói:

- Mỗi người đều có nhược điểm, có người si, có người tham, có người dễ giận. Cốc Tư La chính là có một loại năng lực, là mở rộng vô hạn khuyết điểm của con người. Nhược điểm của ngươi...

Phi Tuyết do dự một hồi, cuối cùng không có nói tiếp.

Địch Thanh thầm nghĩ

“ Chắc chắn Phi Tuyết muốn nói nhược điểm của ta chính là Vũ Thường. Cốc Tư La dùng chú ngữ để kích phát chuyện cũ đau buồn của ta... Chẳng trách ta hai lần gặp Cốc Tư La thì đều nghĩ tới Vũ Thường,không thể tự thoát ra được. Nhưng nếu ta không có nhược điểm này, cuộc đời này còn có ý nghĩ gì?”

Địch Thanh nghe Phi Tuyết kể rõ Ý mật, mơ hồ nghĩ tới chuyện gì, nhất thời không thể khẳng định.

Phi Tuyết đã nói:

- Năm đó hai tên tham lam vô lại đó muốn lấy đồ của ta, ta chỉ là cho lòng tham của bọn họ bành trướng ra, bọn họ không thể chịu được, mới phát điên mà thôi.

Địch Thanh hơi chấn động, ít nhiều hiểu được tại sao Phi Tuyết nhắc tới Tam mật bên Tây Tạng. Chẳng lẽ cô gái này lại có bản lĩnh giống như Cốc Tư La, không kìm được hỏi:

- Lòng tham bành trướng vô vạn, cũng sẽ phát điên sao?

Phi Tuyết thản nhiên nói:

- Cái này kỳ lạ lắm sao? Chẳng lẽ ngươi chưa thấy rất nhiều người vì quyền lực tiền tài, người thân cũng không nhận (lục thân bao gồm: bố, mẹ, anh, em, vợ, con đều không nhận), cái đó và điên cuồng có gì khác biệt?

Địch Thanh cười khổ, nhưng lại cảm thấy Phi Tuyết nói cũng có lý. Phi Tuyết lại nói:

- Trên đời này có người bày mưu nghĩ kế, quyết thắng thiên lý. Có người bị vẻ bề ngoài che mắt, không thấy rừng rậm, tâm niệm quá đơn giản. Hành động của mỗi người khác biệt vạn lần ở chỗ vận mệnh dẫn đến thành công. Nhưng thành công hay không, càng được quyết định bởi ý chí mạnh yếu. Vì có những người ý chí mạnh, thậm chí có thể ảnh hưởng hành động của người khác. Như nói Cốc Tư La, lão chỉ cần một tiếng quát, không dựa võ lực, thì có thể làm trăm ngàn người Tạng sống chết có nhau. Có những người ý chí không kiên định, thì dễ bị người khác chi phối, ví dụ như Thiên tử Đại Tống Triệu Trinh.

Lần đầu tiên Địch Thanh nghe người ta đánh giá thiên tử như vậy, nhất thời không biết nói gì, nhưng trong lòng hắn cũng nghĩ như Phi Tuyết. Tuy hắn và Triệu Trinh xem là thân mật, nhưng mấy năm nay không gặp, cách xa, ngược lại có thể nhì thấy rõ tất cả.

Triệu Trinh năm đó ý chí hăng hái, muốn học theo Đường Tông Tống tổ, khai sáng một sự nghiệp to lớn, nhưng lại không quyết đoán thay đổi gia pháp tổ tông, rõ là người vô dụng, thiếu sự kiên định, dễ bị văn thần Lưỡng Phủ chi phối. Đại Tống thất bại thảm hại ở Tam Xuyên Khẩu, Hảo Thủy Xuyên, cố nhiên có quá nhiều nguyên do. Nhưng Triệu Trinh không biết cách dùng người, không thể thoái thác trách nhiệm.

Không nghĩ về Triệu Trinh nữa, Địch Thanh hỏi lại:

- Cô làm thế nào khiếnlòng tham vô hạn của bọn chúng bành trướng chứ?

Phi Tuyết im lặng sau hồi lâu mới nói:

- Ngươi đang mang Ngũ long, phải không?

Địch Thanh hơi chấn động, liền thoáng gật đầu:

- Phải!

Phi Tuyết chậm rãi nói:

- Từ sau khi ngươi có được Ngũ long, thì có một sức mạnh thần kỳ, đúng không?

Địch Thanh tay chân đều có chút đổ mồ hôi, run giọng nói:

- Phải.

Hắn đã cảm thấy Phi Tuyết muốn nói cho mình biết một bí mật liên quan đến bản thân. Không kìm được sự khẩn trương, thoe hắn thấy, Phi Tuyết phải biết rất rõ bí mật của Hương Ba Lạp hơn hẳn tất cả mọi người.

Phi Tuyết dường như suy nghĩ điều gì, rất lâu mới nói:

- Kỳ thật chính xác mà nói, Ngũ long không hề cho ngươi sức mạnh thần kỳ gì nhiều, nó chỉ là khai thác và phát huy một loại năng lực dồi dào của chính bản thân ngươi. Theo lý mà nói, tham cũng là một loại năng lực, đương nhiên có thể phát huy tăng thêm.

Địch Thanh nghe giận líu lưỡi, lần đầu tiên nghe có người giải thích Ngũ long như vậy, nhất thời khó mà chấp nhận. Phi Tuyết dường như nhận ra vẻ khó hiểu của Địch Thanh, thản nhiên nói:

- Ngươi từng nghe nói qua một thuyết Lục thần thông của Phật giáo chưa?

Địch Thanh lắc đầu, không đợi nói nhiều, Phi Tuyết dường như đã nhìn thấy, nói:

- Lục thần thông chính là Lục thông, là chỉ sáu loại năng lực vượt trội tự do không chướng ngại gồm phân thân cảnh thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mệnh thông, lậu tận thông. Người thế gian đa phần nhận thức vô căn cứ, nhưng chỉ có người đại trí tuệ chân chính mới có thể tu được. Theo ta biết, Cốc Tư La có năng lực tha tâm thông. Ngươi có Ngũ long, trong truyền thuyết... đó là thần vật có thể mở ra lục thần thông của con người.

Địch Thanh đột nhiên muốn hỏi Phi Tuyết có loại năng lực này không, vì hắn luôn cảm thấy thiếu nữ trầm lặng ít nói này, hình như có đôi mắt thấu hiểu tình đời. Nhưng cuối cùng hắn kiềm chế, hắn quen biết Phi Tuyết tới nay, lần đầu tiên nghe Phi Tuyết nói chuyện nhiều như vậy, trong lòng ngược lại có cảm giác kỳ lạ.

Phi Tuyết ngừng lại hồi lâu mới nói:

- Ngươi nhất định muốn hỏi ta có loại năng lực này không?

Địch Thanh chấn động, thất thanh nói:

- Làm sao cô biết?

Phi Tuyết từng chữ nói:

- Ta biết!

Trong giọng nói của nàng có loại sức mạnh vô cùng đáng tin, làm người ta không thể không tin.

Tâm tư Địch Thanh như tê dại, đột nhiên nhớ tới rất nhiều chuyện cũ. Hắn nhớ Cát Chấn Viễn từng nói, lúc Phi Tuyết ở trại Bình Viễn, tuy trong xe ngựa, nhưng lại biết Địch Thanh hắn bị thương. đã từng vào kinh thành. Phi Tuyết tuy là người ngoài cuộc, nhưng khuyên Triệu Trinh bảo Địch Thanh đi tây bắc. Hai chuyện này tuy nhỏ, nhưng bây giờ ngẫm nghĩ, tràn đầy kỳ lạ.

Thì ra Phi Tuyết thật sự có một loại thần thông? Thần thông có thể biết người khác suy nghĩ gì?

Bốn vách tường yên tĩnh, Địch Thanh ngồi yên ở đó thật lâu, đột nhiên rung giọng nói:

- Phi Tuyết, ta có thể cầu xin cô một chuyện không...

Phi Tuyết sau hồi lâu mới nói:

- Ngươi muốn hỏi chuyện của Hương Ba Lạp phải không?

Địch Thanh bị Phi Tuyết đoán trúng tâm sự, không khỏi chấn động, khàn giọng nói:

- Ta xin cô nói cho ta biết, truyền thuyết về Hương Ba Lạp ... là có thật không, nó thật có thể... Hắn khẩn trương vô cùng, lúc hỏi, quả tim gần như ngừng đập. Hắn sợ Phi Tuyết không nói, lại sợ Phi Tuyết nói, sẽ càng làm hắn thất vọng!

Bóng tối vô biên, tĩnh lặng như chết, dường như có thời gian trăm năm dài dằng dặc trôi qua một cách vô ích, Địch Thanh mới nghe Phi Tuyết nói:

- Là thật, nó thật sự có thể cứu được người mà ngươi yêu thương nhất!

Lúc Địch Thanh nghe được câu nói này, huyết dịch toàn thân giống như tuôn chảy, trái tim vui mừng gần như muốn nổ tung ra. Hắn tin Phi Tuyết! tin vô điều kiện. Nhưng trong nháy mắt hắn nghĩ tới một vấn đề quan trọng khác, có chút lo lắng hỏi:

- Phi Tuyết, vậy cô... có thể dẫn ta đi Hương Ba Lạp không?

Trong mật thất, bỗng nhiên yên tĩnh trở lại, Địch Thanh dường như nghe được tiếng trái tim đập của mình, một tiếng thở dài ra, Phi Tuyết đạm mạc nói:

- Bây giờ ngươi có thể còn sống ra ngoài được không còn chưa biết... cần gì nghĩ nhiều như vậy chứ?

Địch Thanh cảm giác bị một chậu nước lạnh dội vào, cả người lạnh thấu! Phi Tuyết nói không sai, hắn và Phi Tuyết bị nhốt ở đây, Cốc Tư La không cần giết hắn, chỉ cần bỏ mặc không hỏi, hắn và Phi Tuyết phải chết ở đây không ai biết.

Hắn vốn không sợ chết, nhưng hắn vừa mới biết Hương Ba Lạp quả thật có thể cứu Vũ Thường, cũng biết Phi Tuyết có thể dẫn hắn đi tới Hương Ba Lạp. Hắn đã có hy vọng cứu được Dương Vũ Thường mà chốc lát lại chết ở đây...

Địch Thanh bàng hoàng, chỉ thấy bóng tối ác nghiệt tràn ngập xung quanh, trong nhất thời mờ mịt bất lực. Bất chợthô to:

- Cốc Tư La, ngươi thả ta ra, Cốc Tư La, ngươi thả ta ra!

Hắn đột nhiên gào thét, âm thanh vù vù, âm vang rung động chấn động căn phòng bí mật. Nhưng sau âm thanh qua, mật thất lại tĩnh mịch giống như chết.

Địch Thanh nghĩ tới Dương Vũ Thường có hi vọng cứu, nhưng mình lại bất lực, đau buồn máu huyết kích động, không kìm được lại hét lên, trong nháy mắt, trong mậtt toàn là tiếng gào thét.

Phi Tuyết lại im lặng, chỉ nghe Địch Thanh gào thét không giúp. Trong tiếng thét của người đàn ông chỉ huy ngàn quân đó, đã có ý vô cùng tuyệt vọng. Không biết bao lâu, Phi Tuyết mới nhẹ giọng nói:

- Vô dụng thôi, ngươi đừng gào thét nữa.

Trong giọng nói của nàng vẫn luôn bình thản, tựa như có nước gợn sóng, nhưng trong giây lát sóng nước lại biến mất đi.

Địch Thanh mới khẽ giật mình, lúc này mới ngừng lại. Ngừng lại giây lát đó, chỉ cảm thấy môi khô nứt đau buốt, cả người mệt mỏi vô lực, tay vịn vách tường lạnh như băng, khàn giọng nói:

- Phi Tuyết... chúng ta ở trong này đã lâu chưa?

Hắn vừa nói, mới phát hiện cổ họng đau như kim đâm, ngực như lửa đốt. Lúc đó, hắn mới phát hiện mình rất khát nước.

Phi Tuyết thấp giọng nói:

- Ba ngày rồi...

Trong giọng nói của nàng có phần yếu ớt, không ai có thể chống cự được tháng ngày không có nước, Phi Tuyết cũng không ngoại lệ.

Địch Thanh chấn động, đột nhiên nghĩ đến cái gì, hỏi:

- Trong này không có nước sao?

Thấy Phi Tuyết im lặng. Địch Thanh không biết tại sao, trong đầu đột nhiên nhớ tới tình cảnh lúc hôn mê.

Lúc đó, hắn thiếp đi, nhưng cảm giác được có người mớm nước cho hắn uống.

- Lúc ta hôn mê, cô cho ta uống nước gì?

Địch Thanh không kìm được hỏi.

Phi Tuyết không nói.

Trong cái im lặng khôn xiết đó, Địch Thanh đột nhiên nghĩ tới khả năng cực kỳ đáng sợ. Dù hắn đã trải qua sinh tử, thân thể kinh hãi cũng không kìm được không ngừng run rẩy như lá rơi trong gió thu.

Không nghe động tĩnh của Phi Tuyết, Địch Thanh đột nhiên khàn giọng nói:

- Rốt cuộc cô cho ta uống gì? Còn cô? Mấy ngày nay làm sao chịu đựng tới giờ chứ?

Hắn lúc này mới hiểu, tại sao giọng của Phi Tuyết lại khẽ như vậy, nhẹ như vậy. Phi Tuyết nhất định cũng khát, nhưng lúc nãy tại sao cô ấy còn nói nhiều như vậy?

Phi Tuyết vẫn không nói gì, Địch Thanh trong lòng kích động. Bỗng nhiên nhớ tới trong sa mạc, Phi Tuyết đem túi nước còn sót lại để lại cho hắn. Lần này thì sao? Địch Thanh bỗng dưng giơ tay, trong bóng tối, liền nắm được cổ tay của Phi Tuyết.

Hắn nhìn không nhìn thấy Phi Tuyết đang ở đâu nhưng hắn cảm giác được. Địch Thanh cảm giác được thân hình Phi Tuyết khẽ run, thậm chí cảm giác được Phi Tuyết nhíu mày. Địch Thanh vội hỏi:

- Phi Tuyết, cô rốt cuộc... Không đợi nói xong, hắn đột nhiên cảm giác được cái gì. Tay đã buông lỏng, tim đập nhanh không ngừng.

- Cô... sao bị thương rồi? Địch Thanh run rẩy hỏi. Lần này hắn nắm là cổ tay trái của Phi Tuyết, cổ tay Phi Tuyết có vết thương, hắn cảm giác được.

- Bị thương đã lâu rồi. Phi Tuyết cuối cùng nói, trong giọng nói chứa phần bất an.

Trong đầu Địch Thanh chợt lóe lên, đột nhiên nói:

- Không phải, trên cổ tay cô là vết thương mới! là vết đao!

Tâm trạng hắn kích động, đưa mắt trong qua, ánh mắt đã xé rách bóng tối, dừng lại trên tay Phi Tuyết.

Hắn nhìn thấy một vết thương.

“Ngươi muốn nhìn thấy, thì ngươi có thể nhìn thấy.”

Bỗng dưng nghĩ tới lời Phi Tuyết nói lúc nãy. Địch Thanh không còn tâm tư nghĩ tại sao mình có thể nhìn thấy, đưa mắt nhìn Phi Tuyết, trong mật thất tối đen, hắn thật sự nhìn thấy được một khuôn mặt còn trắng hơn tuyết, đôi mắt đã bắt đầu ảm đạm.

Đôi mắt đó vốn đã ảm đạm, thấy Địch Thanh nhìn qua, đột nhiên có ánh sáng lóe lên, nhưng trong nháy mắt Phi Tuyết cúi đầu xuống. Nhưng giữa lúc ánh sáng lửa lóe lên, Địch Thanh còn nhìn thấy môi đỏ mộng của Phi Tuyết đã mất hết màu máu.

Trên môi đã nứt ra toàn màu trắng bệch, đó là dấu hiệu của thiếu nước nghiêm trọng.

Địch Thanh không biết lúc này Phi Tuyết làm sao có thể chịu nổi đau đớn, nói ra lời nói bình tĩnh như vậy, khàn giọng nói:

- Cô... tại sao...

Đột nhiên tỉnh ngộ, trước mắt Địch Thanh trở thành màu đen, bỗng nhiên nắm thật chắc tay của Phi Tuyết, thất thanh:

- Cô cho ta uống không phải là nước, là máu, là máu của cô.

Giây phút đó Địch Thanh cảm nhận được mùi vị mằn mặn bên môi, đột nhiên hiểu rõ tất cả. Hắn bị Chiên Hổ làm bị thương nặng ở ngực, mất máu nghiêm trọng. Hắn tuy thể chất to lớn, nhưng lúc này không có lý nào hắn hắn lại có tinh thần hơn Phi Tuyết. Ở trong này không nước không thức ăn, hắn có thể tỉnh lại, giải thích duy nhất là Phi Tuyết cắt cổ tay lấy máu cho hắn uống.

Tay của Phi Tuyết vẫn lạnh buốt như trước, nhưng trong lòng Địch Thanh có lửa đang cháy. Hắn nắm tay của Phi Tuyết, đã rơi lệ, khàn giọng nói:

- Tại sao, tại sao!

Địch Thanh thật sự không biết tại sao! Hắn chưa từng nghĩ ngoại trừ Vũ Thường ra còn có cô gái thứ hai có thể vì hắn cam tâm tình nguyện từ bỏ tính mạng của mình.

Cho tới giờ, hắn chưa từng hiểu qua Phi Tuyết. Hắn và Phi Tuyết cũng chỉ gặp qua mấy lần, nhưng hắn biết trên người cô gái bình tĩnh này, ẩn chứa quyết tuyệt tựa như trời long đất lở. Chuyện Phi Tuyết quyết định, không ai có thể ngăn cản.

Địch Thanh chưa từng biết Phi Tuyết bôn ba khắp nơi là tại sao, cũng không biết tại sao cô ấy lại tới Tây Tạng, càng không biết tại sao lại từ bỏ bản thân để cứu Địch Thanh hắn. Hắn hoàn toàn không biết gì về Phi Tuyết, duy nhất hắn biết là hắn nợ Phi Tuyết quá nhiều quá nhiều.

Thấy Phi Tuyết không có sức ngẩng đầu lên, tim Địch Thanh đau như dao cắt, không kìm nổi ngẩng đầu nhìn lên không trung, gào lên thảm thiết:

- Cốc Tư La, ngươi giết ta rồi thả Phi Tuyết ra ngoài, chuyện này không liên quan với cô ấy!

Nhưng cho dù hắn gào thét, âm thanh cũng trở nên yếu ớt vô lực.

Không người trả lời, mật thất tĩnh mịch như chết, Địch Thanh định hô nữa, Phi Tuyết đã nói:

- Vô dụng, Địch Thanh, ngươi đừng kêu nữa. Giọng nàng tuy thấp, nhưng truyền tới bên tai Địch Thanh như tiếng sấm vang lên.

Địch Thanh chấn động, nắm thật chặt tay của Phi Tuyết, giọng gấp gáp nói:

- Phi Tuyết, cô yên tâm, ta nhất định mang cô ra ngoài, ta nhất định mang cô ra ngoài!

Nhưng cảm nhận được tay Phi Tuyết lạnh như băng, trong lòng bỗng dưng hoảng sợ vạn phần, chỉ l nghĩ:

“Ta thật sự có thể mang cô ấy ra ngoài không?”

Ánh mắt Phi Tuyết lóe lên, nói nhỏ:

- Được, ta yên tâm.

Địch Thanh thấy trong giọng nói của Phi Tuyết đã trở nên suy kiệt, đột nhiên hạ quyết tâm cắn một cái vào cổ tay của mình. Nếu Phi Tuyết có thể mớm máu kéo dài tính mạng của hắn, tại sao hắn không thể? Giây phút đó, hoàn toàn không có nghĩ ngợi nhiều.

Nhưng Địch Thanh vừa cắn xuống, lại cắn trúng tay của Phi Tuyết.

Không biết lúc nào Phi Tuyết đã nhẹ đặt tay lên cổ tay của Địch Thanh. Địch Thanh sửng sốt, hoảng hốt ngậm miệng, định nói, Phi Tuyết đã nói:

- Ngươi biết tại sao ta muốn cứu ngươi không?

Hai tròng mắt Địch Thanh rưng rưng, lắc đầu nói:

- Ta không biết.

Phi Tuyết ngước nhìn Địch Thanh, trong đôi mắt trong trẻo kia có gợn sóng giống như nước xanh màu ngọc bích:

- Ngươi ở dàn tế Thừa Thiên cứu ta, ta nhất định phải cứu ngươi một lần. Như vậy, ta và ngươi không thiếu nợ nhau.

Địch Thanh nghẹn ngào không nói gì, trong đôi mắt Phi Tuyết dường như có thần thái vừa hiện, lẩm bẩm nói:

- Ở Tây Tạng, có một truyền thuyết... nói hai người không thiếu nợ nhau... kiếp sau... sẽ không gặp lại.

Địch Thanh nắm chặt tay của Phi Tuyết, khàn giọng nói:

- Cô sai rồi, ta nợ cô quá nhiều! Phi Tuyết, đời này ta không thể trả cô, kiếp sau nhất định phải gặp cô trả cho cô. Lần này... nếu không phải ta, cô đâu đến nỗi bị nhốt ở đây.

Nhưng trong lòng lại nghĩ:

“Chẳng lẽ, Phi Tuyết không muốn gặp lại ta sao? Cô ấy... gặp ta, trước giờ không có gặp được chuyện gì tốt. Cũng không trách được cô ấy không muốn gặp lại ta.”

Phi Tuyết nhìn Địch Thanh, trong ánh mắt hắc bạch phân minh, ngàn vạn ý nghĩ sâu xa:

- Ngươi cũng sai rồi, nếu không phải ngươi cứu ta ở dàn tế Thừa Thiên, ta sớm đã chết rồi. Hơn nữa, chuyện này... vốn chính là vì ta mà ra.

Nắm ngược lại tay của Địch Thanh, Phi Tuyết thấp giọng nói:

- Địch Thanh, ngươi có thể hứa với ta một chuyện không?

Địch Thanh không muốn nghĩ nhiều về ý tứ trong lời nói của Phi Tuyết, chỉ là cắn răng nói:

- Cô nói đi.

Trong hai tròng mắt Phi Tuyết phóng ra một tia thần thái, kiên định nói:

- Ngươi hứa với ta, từ nay về sau, ngươi và ta không nợ nhau, được không?

Nàng mềm giọng muốn nhờ, lần đầu tiên trong mắt lộ ra ý khẩn khiết hy vọng.

Địch Thanh lắc đầu, từng chữ nói:

- Không được!

Trong mắt Phi Tuyết có ý thất vọng, dần buông lỏng tay, nhắm nghiềm hai mắt.

Địch Thanh một tay nắm lấy đầu vai của Phi Tuyết, khàn giọng nói:

- Cô đừng cho rằng ta không biết tâm ý của cô. Cô không muốn ta áy náy, cho nên cô mới nói với ta không thiếu nợ gì nhau. Cô nói với ta những lời này, chỉ là hy vọng ta có thể có hy vọng sống tiếp. Nhưng cô nói ra tất cả mọi thứ, có phải vì cô đã định từ bỏ không? Bỗng nhiên hắn ôm lấy Phi Tuyết, khuôn mặt đã đầy lệ nóng, khàn khàn nói:

- Phi Tuyết, nếu cô biết tâm ý của người khác, nhưng cô không biết lòng của ta sao? Ta muốn cô kiên cường sống tiếp, cô có thể không biết sao?

Phi Tuyết nằm ở đầu vai của Địch Thanh khóe mắt đã có nước mắt, thật lâu nàng mới nói:

- Ta biết.

Trong lòng thê lương của Địch Thanh có ý vui mừng, nắm chặc đầu vai của Phi Tuyết, nhìn chằm chằm đôi mắt của Phi Tuyết nói:

- Vậy cô hứa với ta, không được từ bỏ. Ta biết, nếu cô không muốn từ bỏ, nhất định có thể sống sót.

Trên gương mặt trắng bệch của Phi Tuyết đột nhiên hiện lên một tia ửng hồng. Thấy ánh mắt Địch Thanh sáng quắc, Phi Tuyết khẽ thở dài một cái nói:

- Được, ta hứa với ngươi.

Nhưng.. không biết tại sao, nước mắt tuôn ra, Phi Tuyết gục đầu xuống, không nói gì nữa.

Địch Thanh biết ý của Phi Tuyết, cho dù là Phi Tuyết hứa với hắn, giờ khắc này, hai người lại có thể sống bao lâu?

Bóng tối, tĩnh mịch, tuyệt vọng như thủy triều tràn tới, hơi thở dần dần yếu đi...

 Chương 347 - 350: Tuyệt lộ

Địch Thanh cũng không biết rốt cuộc sẽ kiên trì được bao lâu, hắn chỉ là nắm tay của Phi Tuyết, lẳng lặng chờ đợi sự xuất hiện của thần chết.

Trong mật thất sâu kín, bỗng truyền đến tiếng ca trầm thấp...

Cây cỏ tổn thương bởi mùa thu, ve như sương, gió sớm chiều tuyết không nơi nương tựa.

Anh hùng vốn tự chuốc khổ. Hồng nhan dễ tuổi xế chiều. Thân này khó thoát khỏi số mệnh!

Đó là tiếng ca của Phi Tuyết, lúc Địch Thanh nghe “thấy thân này, khó thoát khỏi số mệnh” trong lòng tràn đầy ý xin lỗi bi ai. Hắn không đau buồn mình phải chết, mà đau buồn liên lụy tới Phi Tuyết.

Nghe Phi Tuyết lại hát:

- Chỗ Ngọc Môn Thiên Sơn, Hán Tần quan nguyệt, chỉ chiếu đường cát bụi... Địch Thanh thương thế đầy cõi lòng, không đợi nói gì, Phi Tuyết đã nắm tay của Địch Thanh, thấp giọng nói:

- Địch Thanh, ta nói cho ngài một bí mật!

Bây giờ Địch Thanh nói chuyện, đều là có yếu ớt. Lúc này không ngờ Phi Tuyết sẽ nói cho hắn biết bí mật gì, có liên quan với Hương Ba Lạp không? Nhưng lúc này, biết bí mật có ích lợi gì?

Phi Tuyết nắm chặt tay Địch Thanh, vẫn bình thản nói:

- Thật ra...

Còn chưa nói xong, đột nhiên im miệng, ngẩng đầu nhìn lên.

Địch Thanh khó hiểu, hỏi:

- Sao vậy?

Lúc đó trong phòng chấn động, chợt nghe một tiếng “xoạt” trên đỉnh đầu, lại có tia sáng chiếu vào.

Trong mật thất đột nhiên sáng choang, Địch Thanh không kìm nổi nheo hai mắt, thấy Phi Tuyết dung nhan tiều tụy. Phi Tuyết thấy ánh sáng, không hề vui mừng, ngược lại chau mày.

Địch Thanh sớm biết được đỉnh đầu chính là lối ra của mật thất. Nhưng lối ra đỉnh đầu cách Địch Thanh có độ cao chục trượng, cho dù hắn hoàn toàn không có hao tổn cũng không thể thoát khỏi. Vốn đã vô cùng tuyệt vọng, không ngờ lại có người mở lối ra, sao có thể không làm Địch Thanh vừa mừng vừa lo.

Người đến rốt cuộc là ai?

Địch Thanh tuy trải qua sinh tử lâu, nhưng lúc này càng lo lắng tính mạng của Phi Tuyết, nôn nóng nhìn lên khoảng không , nhất thời không dám phát ra tiếng. Sau một lát, phía trên lại hạ xuống một sợi dây, nhanh chóng tới trước mặt Địch Thanh, một người ép giọng nói:

- Địch Thanh, bắt lấy sợi dây, ta kéo ngươi ra.

Địch Thanh trong lòng kỳ quái, thầm nghĩ người này nếu là Cốc Tư La phái tới, thì không cần cẩn trọng như vậy. Nhưng người này nếu không phải Cốc Tư La phái tới, còn có ai biết Địch Thanh hắn ở đây, còn có thể lén tới Thừa Thiên Tự?

Nhưng cơ hội thoát mạng ở trước mắt, Địch Thanh không kịp nghĩ ngợi nhiều, phấn khởi với sức lực còn lại dùng dây thừng buộc vào thắt lưng của Phi Tuyết trước. Chuyện ngày thường làm nhẹ và dễ dàng nhưng lại khiến Địch Thanh thở hồng hộc.

Phi Tuyết lặng lẽ nhìn Địch Thanh, đột nhiên nói:

- Ngươi và ta cùng ra đi.

Địch Thanh nói:

- Kéo cô lên trước hãy nói.

Phi Tuyết kiên quyết lắc đầu, đột nhiên thấp giọng nói:

- Ngươi và ta cùng ra ngoài, được không?

Giọng của nàng trở nên nhẹ nhàng làm Địch Thanh khó có thể cự tuyệt. Địch Thanh chỉ cho rằng Phi Tuyết sợ hãi, hơi chút do dự, buộc sợi dây thừng lên người mình và quấn mấy vòng. Hắn kéo dây thừng, ám chỉ đã buộc chặt dây thừng.

Người phía trên đã kéo sợi dây thừng mang hai người lên, người đó kéo hai người Địch Thanh lại giống như không tốn chút sức lực, Địch Thanh biết người này phải là cao thủ quyền thuật. Nhưng nhìn từ dưới lên, bị ánh sáng chụp xuống, Địch Thanh chỉ thấy người đó lưng dài vai rộng, nhìn không rõ khuôn mặt người đó.

Rồi đột nhiên nghĩ tới điều gì, Địch Thanh nhỏ tiếng hỏi:

- Phi Tuyết, lúc nãy cô muốn nói bí mật gì?

Hai người buộc với nhau trên sợi dây thừng, mặt đối mặt, có thể nghe thấy hơi thở của nhau, sắc mặt Phi Tuyết đột nhiên ửng đỏ, dời ánh mắt đi, bình tĩnh nói:

- Làm gì có bí mật gì?

Địch Thanh còn định nói thêm, hai người đã được kéo ra mật thất. Địch Thanh đưa mắt trông qua, thấy được người đó người mặc áo đen, đầu đội mũ mềm, mặt che khăn đen, chỉ để lộ ánh mắt sáng quắc. Người đó nhìn thấy Địch Thanh, nhỏ tiếng nói:

- Đi theo ta.

Người đó đi trước dẫn đường, Địch Thanh thấy người đó không có ý giúp đỡ, cắn răng đỡ Phi Tuyết lảo đảo bước đi. Trên đường tình cờ gặp mấy vị tăng người Phiên, nhưng đều là hôn mê bất tỉnh. Địch Thanh nhìn thấy, biết hơn phân nữa là người đó đánh ngã những tăng nhân này. Đợi ra Phật đường, người đó quẹo qua hướng đông lách qua hướng tây, tới hậu viện của Thừa Thiên Tự.

Lúc này phía đông đã mờ mờ, thì ra đã gần sáng.

Thừa Thiên Tự dù túc mục trang nghiêm, tăng nhân cũng phải ăn cơm nhóm lửa, bởi vậy hậu viện chùa cũng chất đống củi. Chỗ gần cửa sau, đậu một chiếc xe ngựa, chắc là vận chuyển củi.

Người đó thấp giọng nói:

- Trốn lên xe ngựa đi. Bây giờ cả thành đều đang bắt hai người các ngươi, đừng thò đầu ra.

Ánh mắt Địch Thanh lóe lên, thấy người này không đưa tay nên cũng không muốn nhờ, đỡ Phi Tuyết lên xe củi. Sau đó tự mình cũng lật lên xe củi, đợi tới lúc lên xe, đã mệt mỏi không thể động đậy.

Người đó mang chút cỏ khô che lên người hai người Địch Thanh, Phi Tuyết. Lên xe ngựa, cởi bộ áo bên ngoài màu đen, lộ ra trang phục tiều phu bên trong, giơ roi lên đã đánh xe ra khỏi Thừa Thiên Tự.

Địch Thanh trốn ở bên trong, trong lòng thầm nghĩ. Người này rõ ràng là dùng thân phận tiều phu chở củi trà trộn vào trong chùa, sau đó thừa dịp lúc sáng sớm phòng bị lơi lỏng đánh xỉu tăng Phiên, mở mật thất. Người này đối với Thừa Thiên Tự nắm rõ như lòng bàn tay, lại quen Địch Thanh hắn, người này là ai? Xe ngựa lắc lư, Địch Thanh tay bám thành xe, nhìn Phi Tuyết qua khe cỏ khô, chỉ thấy Phi Tuyết bình tĩnh như trước, lại trở lại vẻ mặt lãnh đảm như trước.

Xe ngựa ra khỏi Thừa Thiên Tự, thẳng tới thành nam, trên đường đi không gặp nguy hiểm. Đợi sau khi ra thành Thanh Đường, người đó không dừng xe, vẫn đánh xe tới phía nam, tới chân núi hoang, lập tức đánh xe lên núi.

Địch Thanh âm thầm nhíu mày, không hiểu người này người này rốt cuộc muốn đi đâu?

Lúc này Tây Tạng đã vào tiết đông, trời xanh gió mạnh, vạn vật tiêu sát, Địch Thanh trong tận cùng cái chết thoát mạng, nhưng trong lòng luôn có chút bất an. Suy cho cùng nhìn thế nào người cứu hắn cũng không giống bằng hữu của hắn

Nếu người này là bằng hữu của hắn, sao có thể đối xử hắn như vậy?

Đường núi trở nên dốc đứng, xe ngựa cuối cùng không thể đi tiếp. Người đó nhảy xuống xe ngựa, xốc cỏ khô lên, đưa cho Địch Thanh một cái bình nước:

- Ta biết ngươi bây giờ cần nhất chính là nước, uống chút nước đi.

Địch Thanh thấy người đó vẫn dùng cái mũ mềm che hở nửa mặt, không nhịn được hỏi:

- Các hạ là ai?

Hắn vừa nói vừa nhận cái bình nước, nhưng không uống nước ngay mà nhanh chóng đưa cho Phi Tuyết, thành khẩn:

- Phi Tuyết, cô uống chút nước trước đi.

Hắn tuy yếu ớt, nhưng quan tâm Phi Tuyết hơn. thấy sắc mặt Phi Tuyết càng trắng hơn tuyết, dung nhan tiều tụy, không khỏi đau lòng.

Phi Tuyết cũng không có giơ tay, chỉ là nhìn chằm chằm Địch Thanh, lại nhìn qua người đội mũ mềm đó, thản nhiên nói:

- Nước có thuốc mê, ta không uống!

Địch Thanh chấn động, đột nhiên quay đầu lại nhìn người cứu hắn, ngưng thanh nói:

- Rốt cuộc các hạ có dụng ý gì?

Lúc này hắn yếu ớt vô lực, người này muốn đối phó hắn, có thể nói nhẹ và dễ dàng. Nếu đã như vậy, người này tại sao còn muốn bỏ thuốc mê trong nước?

Nhưng xưa nay trực giác Phi Tuyết rất chính xác, sao lại bắn tên vô đích?

Thân hình người đó hơi khựng lại, chớp mắt cười ha ha, xốc cái mũ ra, để lộ ra một khuôn mặt bịt mặt. Địch Thanh thấy rồi, hơi chau mày nói:

- Phi Ưng? Sao lại là ngươi! Rốt cuộc ngươi làm gì?

Người cứu Địch Thanh, chính là Phi Ưng xưa nay xuất thần nhập quỷ, cho dù đám người Nguyên Hạo cũng không cách nào vạch trần lai lịch.

Phi Ưng vẫn cao ngạo không thay đổi, ánh mắt sáng quắc, tự tin nói:

- Nếu không phải ta sao có thể cứu ngươi ra?

Địch Thanh kinh ngạc không giảm, không nhịn được lại hỏi:

- Ngươi cứu ta ra, lại bỏ thuốcê trong nước, lại là ý gì?

Ánh mắt Phi Ưng lóe lên, đột nhiên thở dài một tiếng nói:

- Địch Thanh, ngươi thật sự tin trong nước có thuốc mê?

Địch Thanh nhìn Phi Tuyết, từng chữ một nói:

- Có lẽ ta không nên tin trong nước có thuốc mê, nhưng ta tin Phi Tuyết!

Thần thái trong mắt Phi Tuyết lại hiện lên, rồi lại dời ánh mắt đi... Trời làm gió lạnh, có mây trắng như múa, mặc dù nét mặt của Phi Tuyết tuy vẫn có sự phòng thủ, ngàn năm không đổi, nhưng nội tâm của nàng lại dao động thay đổi, làm người ta khó có thể suy đoán.

Làm sao Phi Tuyết biết trong nước có thuốc mê. Chẳng lẽ nàng thật sự có Tha tâm thông trong Lục thần thông, có thể hiểu rõ suy nghĩ trong lòng người khác?

Ánh mắt Phi Ưng di chuyển giữa hai người, đột nhiên cười ha hả nói:

- Trong nước quả thật có thuốc mê. Vì bây giờ các ngươi quá yếu, ta chỉ muốn các ngươi ngủ ngon một giấc.

Địch Thanh chậm rãi gật đầu, giống như chấp nhận lời giải thích của Phi Ưng:

- Nói như vậy, ngươi vẫn là có ý tốt. Nhưng... làm sao ngươi biết ta bị nhốt trong Thừa Thiên Tự chứ?

Phi Ưng khẽ mỉm cười, cái mũi chim ưng dưới ánh mặt trời ẩn hiện hàn quang:

- Ta vừa tới Tây Tạng, nghe nói sau khi ngươi phá hỏng dàn tế Thừa Thiên thì biến mất không thấy nên rất kinh ngạc. Ta biết ngươi không phải người như vậy nên ta càng để ý Thừa Thiên Tự nhiều hơn, trong lúc vô ý từ miệng tạp dịch được biết ngươi bị nhốt trong này, do đó mới đến cứu ngươi.

Địch Thanh lẩm bẩm nói:

- Xem ra ngươi thật sự rất hiểu ta... Chỉ đáng tiếc, đều nói Phật tử của Tây Tạng rất cơ trí, không ngờ không nghe ta giải thích

Phi Ưng lặng lẽ cười lạnh nói:

- Ngươi thật sự cho rằng họ rất thông minh sao? Người này chỉ là cố làm huyền bí thôi, thật ra nội tâm họ đê tiện không chịu nổi càng tàn nhẫn vô cùng, xem mạng người như cỏ rác!

Địch Thanh khẽ thở dài một cái, dường như rất tán đồng cách nghĩ của Phi Ưng:

- Ngươi tới Tây Tạng làm gì, tại sao muốn cứu ta?

Phi Ưng nhìn Phi Tuyết, chau mày, hồi lâu mới nói:

- Tới bây giờ, ta nói thật với ngươi được rồi. Ta đến Tây Tạng, thật ra chỉ muốn mượn Cốc Tư La một món đồ. Nhưng người này quả thật cố chấp không thể nói lý, không những không chịu cho ta mượn còn cho người giết ta.

Địch Thanh thản nhiên nói:

- Vậy cũng phải xem ngươi mượn cái gì. Nếu ngươi mượn đầu của lão, đổi lại là ta cũng sẽ không cho mượn

Trong đôi ánh Phi Ưng lóe sáng lên, lặng lẽ nói:

- Lão muốn giết ngươi, ta cứu ngươi, ngươi lại không tin ta, ngược lại giúp lão?

Địch Thanh hỏi ngược lại:

- Ngươi hao hết tâm tư cứu ta, chẳng lẽ là muốn ta liên thủ với ngươi đối phó Cốc Tư La? Rốt cuộc ngươi muốn mượn đồ gì của lão?

Phi Ưng lại nhìn về Phi Tuyết, do dự một chút mới nói:

- Ngươi không cần biết món đồ đó là gì, ngươi chỉ cần biết, món đồ đó là chỗ mấu chốt mở Hương Ba Lạp thì được rồi.

Địch Thanh chấn động, thất sắc nói:

- Chỗ mấu chốt mở Hương Ba Lạp? Ngươi thật sự đã tìm được Hương Ba Lạp, còn có thể nghĩ cách vào Hương Ba Lạp?

Phi Ưng ngang nhiên nói:

- Đúng vậy, trên đời này chỉ có ta... mới biết bí mật thật sự của Hương Ba Lạp, cũng chỉ có ta mới có tư cách mở Hương Ba Lạp.

Phi Tuyết vốn luôn im lặng không nói, nghe tới đây, liếc Phi Ưng một cái, bình tĩnh nói:

- Điều này cũng chưa chắc.

Trong mắt Phi Ưng hiện lên chút tức giận, thoáng cười:

- Tranh chấp chỉ là vô bổ. Địch Thanh, ta biết ngươi cũng muốn tới Hương Ba Lạp. Thế này nhé, ta và ngươi liên thủ đối phó Cốc Tư La, chỉ cần lấy được vật ta muốn, ta dẫn ngươi tới Hương Ba Lạp. Vụ mua bán này có thể làm được?

Địch Thanh tim đập thình thịch, cúi đầu suy nghĩ hồi lâu mới nói:

- Đề nghị này cũng rất hay. Phi Tuyết, cô cảm thấy thế nào?

Hắn đột nhiên hỏi ý kiến Phi Tuyết, cũng khiến Phi Ưng rất là kinh ngạc. Trong mắt Phi Ưng lóe lên phần khẩn trương, nhìn chằm chằm Phi Tuyết muốn nói lại thôi. Phi Tuyết tĩnh lặng như nước ngừng, nói:

- Ngươi muốn làm thế nào, cần gì hỏi ta chứ?

Phi Ưng ngắt lời nói:

- Dĩ nhiên Địch Thanh muốn đi Hương Ba Lạp rồi...

Địch Thanh thở dài một hơi, chậm rãi nói:

- Ngươi nói không sai, ta quả thật muốn đi Hương Ba Lạp. Nhưng trước khi ta đi Hương Ba Lạp, phải đi gặp Cốc Tư La một lần.

Phi Ưng đầy kinh ngạc, giật mình nói:

- Ngươi... ngươi gặp lão làm gì?

Địch Thanh nói:

- Ta phải gặp lão, vì giữa ta và lão có một hiểu lầm, nếu không tiêu trừ, ta không thể nào yên tâm.

Hắn ở trong mật thất, hoàn toàn quên hết tất cả, nhưng vừa ra khỏi mật thất, thì lại lập tức nghĩ tới chuyện liên minh của triều Tống và Thổ Phiên.

Bây giờ Phú Bật hơn phân nữa là bị nhốt, sống chết chưa biết. Bất luận thế nào hắn phải cứu Phú Bật ra rồi mới nói sau.

Phi Ưng lặng lẽ cười lạnh nói:

- Ngươi cũng đã biết, trong dàn tế Thừa Thiên, chưa được Cốc Tư La cho phép, tự tiện lên đài chỉ có một con đường chết?

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Ta không biết.

Phi Ưng lại nói:

- Ngươi cũng đã biết, Cốc Tư La đã hạ lệnh phái giết ngươi. Người quấy nhiễu Phật Lư Xa Na, cũng là chắc chắn phải chết? Ngươi còn không biết, Cốc Tư La người này có thù tất báo, đối với ngươi thành kiến rất sâu. Ngươi liên tiếp phạm tối kỵ người Thổ Phiên, chỉ cần bị người Thổ Phiên Tây Tạng nhìn thấy, thì chắc chắn giết ngươi. Ngươi chỉ cần vào thành Thanh Đường lần nữa, chính là từng bước vào chỗ chết, nói không chừng đi không khỏi mười bước.

Địch Thanh nhìn chằm chằm Phi Ưng, thần sắc nghiêm nghị, trầm giọng nói:

- Ta đều không biết, nhưng ta biết một điều ta phải đi gặp Cốc Tư La.

Phi Ưng ngửa mặt lên trời cười to âm thanh vang tới trời cao, trong tiếng cười đó mơ hồ có vẻ tiêu sát. Tiếng cười bỗng nhiên ngừng lại, Phi Ưng quát:

- Địch Thanh, thật sự trong lòng ngươi hoàn toàn không có Dương Vũ Thường. Nếu ngươi nghĩ tới Dương Vũ Thường, thì sẽ không liên tiếp từ bỏ cơ hội rất tốt, ra sức khước từ không đi Hương Ba Lạp!

Lúc Phi Tuyết nghe được ba chữ Dương Vũ Thường, nhìn qua Địch Thanh, trong đôi mắt hắc bạch phân minh tựa hồ cũng có ý nghi ngờ.

Địch Thanh nghe thấy ba chữ “Dương Vũ Thường” trong lòng rất đau, hồi lâu mới nói:

- Ngươi sai rồi, trong lòng có một người hay không, không nhất định nhắc ở trong miệng. Trong lòng ta có Vũ Thường hay không, không cần chứng minh với ngươi, chỉ cần Vũ Thường hiểu ta thì đủ rồi! Nếu ngươi thành tâm hợp tác với ta, thì để ta gặp Cốc Tư La trước rồi hãy nói.

Phi Ưng lạnh lùng nói:

- Ngươi muốn đi chết, nhưng ta không muốn chết sớm như vậy. Nếu đạo bất đồng, mời ngươi xuống xe.

Địch Thanh nhìn qua Phi Tuyết nói:

- Phi Tuyết, chúng ta đi. Hắn mới định gắng gượng đứng lên xuống xe, không ngờ Phi Tuyết trả nói:

- Ngươi muốn đi thì đi đi, nhưng ta không muốn đi.

Địch Thanh ngẩn ra, không đợi nhiều lời, Phi Ưng đã cười lớn:

- Địch Thanh, bởi vì Phi Tuyết nhìn thấu bộ mặt giả dối của ngươi nên mới không chịu đi cùng ngươi.

Phi Tuyết thần sắc vẫn như như trước cũng không nhiều lời, nhưng ai cũng nhận ra lời nàng đã nói ra thì khó thay đổi.

Thần sắc Địch Thanh có phần lo lắng, khuyên nhủ:

- Phi Tuyết, cô nghe ta một câu, đi cùng ta đi?

Phi Tuyết vẫn cứ im lặng, Phi Ưng bên cạnh lãnh đạm nói:

- Ngươi ngay cả người phụ nữ yêu thương cũng không thể bảo vệ, biết rõ có cơ hội cứu người phụ nữa yêu thương cũng không đi tranh lấy, ai có thể yên tâm đi với ngươi?

Địch Thanh bỗng nhiên quay đầu nhìn Phi Ưng, căm tức nói:

- Quách Mạc Sơn, trên đời này, không phải tất cả mọi người đều không từ thủ đoạn giống như ngươi. Có những chuyện là có những người phải đảm đương.

Phi Ưng chấn động, không khỏi lui lại nửa bước, khóe miệng hơi giật, trong mắt tràn đầy kinh ngạc, sau hồi lâu mới nói:

- Ngươi... ngươi vừa nói cái gì?

Địch Thanh ánh mắt chớp động, chỉ có thể ngước nhìn đôi mắt của Phi Ưng, từng chữ nói:

- Quách Mạc Sơn, ngươi thật sự cho rằng không ai biết chuyện ác của ngươi. Ngươi cũng thật sự đừng khoe khoang chí cao vô thượng của mình. Ngươi là một tên trộm cướp phản nghịch, không chuyện ác nào không làm, chẳng lẽ sẽ có người yên tâm đi cùng ngươi?

Ánh mắt Phi Ưng sắc bén như kim châm, âm u lạnh lẽo nhìn Địch Thanh, hồi lâu mới cười cười, hỏi:

- Làm sao ngươi biết ta chính là Quách Mạc Sơn? Câu vừa hỏi như vậy của y, trong vô hình đã thừa nhận thân phận của mình.

Địch Thanh giọng mỉa mai nói:

- Lúc ta và ngươi gặp mặt lần đầu tiên, thì cố làm ra vẻ huyền bí, nói rằng đã từng gặp ta , muốn báo thù cho Quách đại ca. Ngươi cho rằng ta sớm quên ngươi rồi, nhưng trận chiến thung lũng Phi Long, người trải qua làm sao quên? Sau trận thung lũng Phi Long năm đó, ngươi và Vương Tắc, Trương Hải ba người mất tích ly kỳ, lại không có tung tích. Nhưng mấy năm sau, các ngươi lại bái giáo Di Lặc, trong giáo bí mật tu luyện Ngũ long, giọt lệ đắng trải qua, cổ mê lòng người...

Địch Thanh một mạch nói ra những cái này, trong lòng lại nhớ tới lời Quách Quỳ năm đó:

- Quách Mạc Sơn và Trương Hải tạo phản ở Thiểm Tây. Hiện tại bọn họ thanh thế không nhỏ, đã là mầm móng tai họa của triều đình. Đại ca biết được bọn Quách Mạc Sơn tạo phản, lập tức xin lệnh tới bình định Thiểm Tây.

Chuyện cũ như khói, tan thành mây khói, người cũ đã qua đời như dòng nước chảy nhưng câu chuyện lại khắc vào tim...

Ánh mắt Phi Ưng càng lạnh, đã dần nắm chặt hai nắm tay.

Địch Thanh dường như không nhìn thấy sát khí của Phi Ưng, tiếp tục nói:

- Sau đó thế lực các ngươi lớn dần, ngang nhiên tập hợp lưu dân tạo phản. Quách Tuân Quách đại ca tới bình định, Quách Mạc Sơn ngươi tuy không tệ nhưng vẫn không địch lại Quách đại ca! Ngươi tuy binh bại, nhưng giảo quyệt đa đoan, thoát được tính mạng.

Phi Ưng thở dài một hơi nói:

- Ngươi nói không sai, ta không địch lại Quách Tuân. Đáng tiếc y đã chết rồi.

Trong mắt y nhắc tới Quách Tuân không hề có thương nhớ cảm kích, ngược lại có phần thoải mái.

- Quách đại ca chết rồi, nhưng Địch Thanh ta vẫn còn.

Vạn Lý Song Hành

Sáp Huyết

Tác giả: Mặc Vũ

Địch Thanh gằn giọng nói:

- Chuyện phản quân các ngươi bại, Bộ đầu Diệp Tri Thu dốc toàn lực truy nã bọn ngươi. Ngươi và đám người Vương Tắc, Trương Hải chuyển hoạt động chỗ tối. Nhưng ngươi vẫn không chịu tháo bỏ mặt nạ, chính là sợ ta biết người là Quách Mạc Sơn, gây chú ý của Diệp bộ đầu, bất lợi cho ngươi hành sự. Ngươi có dã tâm, biết Hương Ba Lạp có sức mạnh thần kỳ, lúc này mới cố ý đi Hương Ba Lạp. Nhưng Hương Ba Lạp ở Sa Châu gần Đôn Hoàng, được trọng binh Nguyên Hạo canh giữ. Không nói ngươi tìm được, cho dù tiếp cận cũng không thể. Do đó ngươi thu phục Thạch Đà, thừa cơ hội đối phó Nguyên Hạo. Ngươi đương nhiên biết, muốn đi Hương Ba Lạp, nhất định phải loại bỏ Nguyên Hạo. Ngươi liên hệ Dã Lợi Vượng Vinh, gạt ta nói muốn báo thù cho Quách đại ca, dựng kế ám sát Nguyên Hạo! Nhưng ngươi không ngờ tới, Nguyên Hạo mạnh hơn ngươi nghĩ nhiều. Có thể bình định tạo phản, làm ngươi không công mà lui. Ngươi luôn miệng nói có thể đi Hương Ba Lạp, ngươi hoàn toàn không thể tiếp cận Hương Ba Lạp, ngươi có năng lực gì dẫn ta đi chứ?

Phi Ưng chậm rãi gật đầu, lẩm bẩm nói:

- Địch Thanh, ta luôn đánh giá thấp ngươi, không ngờ ngươi biết nhiều hơn rất nhiều hơn ta nghĩ.

Ánh mắt Địch Thanh tràn đầy giọng mỉa mai, giễu cợt nói:

- Ta còn biết nhiều chuyện hơn, ngươi muốn nghe thử không.

Ánh mắt Phi Ưng phát lãnh, âm trầm nói:

- Ngươi còn biết gì?

Địch Thanh cắn răng nói:

- Ta còn biết, ngươi từ lâu đã muốn giết ta.

Phi Ưng tràn đầy kinh ngạc ha hả cười lớn:

- Ta muốn giết ngươi, sớm đã động thủ rồi, cần gì phải đợi tới bây giờ chứ? Địch Thanh, ngươi tuy không tệ, nhưng thật sự cho rằng vô địch thiên hạ sao?

Địch Thanh đột nhiên sờ tay vào ngực lấy ra một lệnh bài sáng bóng đưa cho Phi Ưng nói:

- Ngươi nhận ra lệnh bài này không?

Lệnh bà đó là chế tạo bằng đồng thau, chính giữa màu bạc, mà trong màu bạc lại vẽ ba vòng tròn nhỏ.

Ánh mắt Phi Ưng lóe lên, cố làm ra vẽ bình tĩnh, thầm nghĩ:

- Đây là cái gì?

Địch Thanh bình tĩnh nói:

- Đây là lệnh bài của giáo đồ Di Lặc. Lúc nãy ta đã nói qua, bái giáo Di Lặc đều bí mật tu luyện cái gọi là Ngũ long, giọt lệ đắng trải qua. Mà tấm lệnh bài này, cũng tên Tích Lệ Lệnh.

Phi Ưng buông bàn tay, dường như không có chuyện gì:

- Cái này có liên quan gì với ta chứ?

Địch Thanh lại nói:

- Lúc trước ta phụng chỉ hồi kinh, từng gặp Điện trung thừa Bao Chửng. Hắn ta phụ trách chuyện điều tra Nhâm Biện Phần Châu cấu kết giáo đồ Di Lặc, lại bị giáo đồ Di Lặc đuổi giết. Ta vốn bắt được đám người Xa quản gia, nhưng có người xông ra, giết người bịt miệng, còn muốn ám sát ta. Mà trước đây, túi của ta đã từng bị có người đụng tới. Ta từng suy nghĩ hàng trăm lần không có lời giải đáp, không rõ cao thủ như vậy muốn lục lọi gì từ túi của ta. Bây giờ cuối cùng đã nghĩ thông, người đó muốn tìm Ngũ long từ túi của ta.

Hai hàng chân mày Phi Ưng dựng lên, chỉ hừ lạnh một tiếng, không cũng nhiều lời.

Địch Thanh tiếp tục nói:

- Người đó cải trang thành tiểu nhị, võ công cao minh. Ta trái lo phải nghĩ, cảm thấy người đó nếu không phải Quách Mạc Sơn, nhất định chính là một trong hai người Trương Hải, Vương Tắc. Các ngươi mưu đồ Ngũ long của ta, không cần hỏi, cũng là có liên quan với muốn đi Hương Ba Lạp. Nếu đã như vậy, ngươi nói lệnh bài này có phải liên quan với ngươi không?

Phi Ưng con mắt dò xét, thở dài nói:

- Đây có lẽ là thủ hạ ta vô tình gây nên, ta không hề biết.

Địch Thanh ánh mắt như đao, nhìn vào mặt Phi Ưng nói:

- Có lẽ lần đó giết ta không liên quan với ngươi? Nhưng ta mất tích ở Thừa Thiên Tự, tăng Phiên tuân lệnh Cốc Tư La, nhất định giữ kín không nói ra chuyện này. Cho dù thủ hạ của ngươi cũng không thể tìm được ta, ngươi dựa vào cái gì từ miệng nha dịch thì biết được tung tích của ta? Giải thích duy nhất chính là, lúc đó ngươi ở trong Thừa Thiên Tự, hơn nữa chính là trên xà ngang trong miếu.

Phi Ưng liếc nhìn Phi Tuyết, ngửa mặt lên trời cười ha hả, trên lưng bàn nắm tay đã nổi gân xanh.

Địch Thanh thở một hơi dài nhẹ nhõm, cuối cùng hạ một kết luận, nói:

- Bây giờ ta có thể kết luận, mua chuộc Hạp Chiên phản bội Cốc Tư La chính là ngươi. Người làm nổ phá hủy dàn tế Thừa Thiên cũng là ngươi! Sau khi bùng nổ, thích khách từ dưới xà ngang nhảy xuống trong khói mù mịt đâm ta một kiếm chắc chắn là thủ hạ của ngươi và cũng chính là tiểu nhị lúc trước muốn giết ta. Mà người cứu đi thích khách đó, không cần nói, chính là cấm quân năm xưa, Phi Ưng ngươi, là Quách Mạc Sơn, đạo tặc Thiểm Tây sau này.

Địch Thanh một mạch nói ra những cái này, hơi có thở hổn hển nhưng vẫn ngồi thẳng người trên xe ngựa không có chút ý sợ sệt Phi Ưng.

Phi Ưng lặng lẽ nhìn kỹ Địch Thanh thật lâu, lúc này mới vỗ tay khen ngợi nói:

- Những chuyện này, nếu không phải chính miệng Phi Tuyết nói với ngươi, vậy ngươi thật sự quá thông mình rồi.

Địch Thanh khẽ mỉm cười:

- L݆Xi trời tuy thưa, nhưng khó lọt. Quách Mạc Sơn, ngươi gạt được ta một lúc, nhưng không gạt nổi ta cả đời.

Phi Ưng nhẹ nói:

- Nhưng ngươi vẫn giả heo ăn thịt hổ, vốn không cần nói ra những cái này. Ngươi cố ý nói ra những cái này, thật ra không phải nói cho ta nghe.

Liếc nhìn Phi Tuyết một cái, Phi Ưng thản nhiên nói:

- Ngươi vạch trần lai lịch của ta, thật ra chỉ muốn để Phi Tuyết biết rõ bộ mặt ta, để Phi Tuyết rời khỏi ta mà thôi!

Địch Thanh cũng không phủ nhận, quay lại nhìn Phi Tuyết:

- Đúng vậy, ta chính là nói cho cô biết, Phi Ưng không phải là một người đáng tin cậy.

Phi Ưng đột nhiên cất tiếng cười to, sau khi tiếng cười dứt mới nói:

- Đáng tiếc, tâm cơ của ngươi dùng sai chỗ rồi. Ngươi hoàn toàn không biết quan hệ của Phi Tuyết và ta. Cô ấy sao có thể vì mấy câu nói của ngươi mà bỏ đi theo ngươi?

Địch Thanh chỉ nhìn Phi Tuyết, trong thần sắc tràn đầy hy vọng. Hắn chính như lời Phi Ưng, không muốn Phi Tuyết theo Phi Ưng nữa, do vậy mới vạch trần lai lịch của Phi Ưng. Nhưng thấy Phi Ưng tự tin đắc ý, nhất thời cũng không còn cách nào xác định dụng ý của Phi Tuyết.

Cuối cùng Phi Tuyết mở miệng, ngôn ngữ thản nhiên:

- Vậy cũng không chắc.

Phi Ưng ngạc nhiên, khàn giọng nói:

- Cô đừng quên ước hẹn của cô và ta!

Phi Tuyết nhìn qua Địch Thanh, trong đôi mắt hắc bạch phân minh lại là sương mù mông lung:

- Trong lòng ngươi đã có sát khí, Địch Thanh nói ra bí mật của ngươi, ngươi nhất định phải giết hắn?

Phi Ưng buông tiếng cười dài, tiếng cười chưa dứt, cách đó không xa đã đi ra hai người. Một người cụt cánh tay, trên mặt giống như lửa cháy, đỏ một khói đen một khối. Người còn lại là người què chân, lúc đi đường, một vai cao một vai thấp.

Hai người đó đi tới bên cạnh Phi Ưng, sóng vai đứng, rõ ràng là thủ hạ của Phi Ưng.

Địch Thanh chỉ là nhìn người như lửa đốt trên mặt, hỏi:

- Vương Tắc?

Lúc hắn ở sa mạc, từng gặp qua người này. Người đó nhìn Địch Thanh tràn đầy oán độc, cắn răng nói:

- Phải!

Địch Thanh chậm rãi nói:

- Vương Tắc, lúc ngươi cải trang thành tiểu nhị ám sát ta và Bao Chửng. Sau đó tới sa mạc, ta luôn cảm thấy ngươi có chút quen, nhưng ngươi làm ra vẻ không quen ta, tâm cơ có thể nói thâm trầm. Nhưng ngươi cẩn thận mấy lần cũng sai sót, quên che dấu bộ mặt thật. Sau khi ta biết ngươi là Vương Tắc, tất nhiên biết được Phi Ưng là Quách Mạc Sơn.

Trong lòng Phi Ưng run sợ, không ngờ Địch Thanh lại cố chấp moi ra lai lịch của y như vậy

Vương Tắc oán hận nói:

- Có thâm sâu hơn cũng không sánh bằng ngươi. Địch Thanh, mối thù cụt cánh tay, hôm nay ngươi chỉ có dùng mạng để trả.

Địch Thanh đối mặt ba người, nhưng vẫn là thần sắc tự nhiên:

- Vương Tắc, ngươi giả vờ hợp mưu với ta, đâm Chiên Hổ bị thương, vùi ta vào bất nghĩa, hết thảy tất cả, chỉ là ngươi gây tội tự chuốc lấy.

Phi Ưng nhướng mày, trong mắt sát khí đã hiện lên:

- Địch Thanh, ngươi là người thông mình, lại làm chuyện không thông minh. Nếu ngươi không vạch trần lai lịch của ta, ta và ngươi còn có thể hợp tác. Nhưng tới bây giờ, ngươi chỉ có một con đường có thể đi!

Địch Thanh cười cười, xoay lại Phi Tuyết nói:

- Nếu ta chỉ còn lại một con đường, cô có thể đi cùng ta không?

Phi Tuyết đang nghe vẫn lãnh đạm như trước, giống như người ngoài cuộc. Nghe vậy cũng cười, nàng bỗng nhiên cười, như xuân về hoa nở, trăm hoa kiều diễm. Nàng bình tĩnh mà lại kiên quyết nói:

- Ta và ngươi cùng một đường!

Địch Thanh tinh thần chấn động, tự nghĩ một hồi nói chuyện lúc nãy cuối cùng có tác dụng rồi. Phi Ưng đã biến sắc mặt, hừ lạnh nói:

- Địch Thanh, ngươi tự tìm đường chết... chẳng lẽ còn muốn người bên cạnh chôn theo sao?

- Ngươi sai rồi!

Địch Thanh mỉm cười nói:

- Chết không nhất định là ta.

Phi Ưng thấy Địch Thanh vẫn có thể bình thản tự nhiên, không khỏi lộ ý nghi ngờ. Y biết Địch Thanh tuyệt đối không phải hạng người phô trương thanh thế. Nhưng lúc này Địch Thanh có năng lực gì chống cự ba người bọn họ? Y chỉ là nghĩ không thông, do đó do dự không quyết. Vương Tắc đã quát:

- Địch Thanh, ngươi đừng nói to chói tai. Hôm nay chỉ một mình ta cũng có thể lấy mạng của ngươi rồi.

Gã mới định tiến lên, bỗng nhiên dừng lại, trong mắt đã lộ ra ý kinh hãi.

Không biết lúc nào trong tay Địch Thanh đã cầm một vật. Vật đó nhỏ như nắm tay trẻ con, ngăm đen cũng bình thường, nhưng lúc này Địch Thanh lấy món đồ đó ra, sao có thể không lý do?

- Không biết các ngươi có nhận ra món đồ này không?

Địch Thanh thản nhiên nói.

Phi Ưng nhìn vật đó, ánh mắt lóe lên, hồi lâu mới nói:

- Phích lịch?

Hai chữ đó giống như tiếng sấm bùng lên bên tai mọi người. Vương Tắc tuy rất hận Địch Thanh, nghe vậy cũng không chịu nổi lui lại hai bước, thần sắc khẩn trương.

Phích lịch! Trên tay Địch Thanh chính là phích lịch. Địch Thanh cầm chính là phích lịch của Quách Tuân đã từng dùng. Trận Tam Xuyên Khẩu năm đó, quân Tống tuy bại, nhưng uy lực của phích lịch vẫn làm thiết kỵ quân Hạ run rẩy tâm kinh.

Đám người Phi Ưng cũng biết chuyện năm đó. Thấy Địch Thanh tay cầm phích lịch, không khỏi trên mặt biến sắc.

Địch Thanh lại cười:

- Quả nhiên ngươi có chút nhãn lực. Đây chính là phích lịch đại nội Võ Kinh Đường nghiên cứu chế tạo. Đã cách nhiều năm, uy lực càng mạnh hơn năm đó. Uy lực của quả phích lịch này, các ngươi muốn mở rộng kiến thức một chút không?

Phi Ưng nheo mắt, nhanh chóng cười lạnh nói:

- Ngươi từ lâu chân tay đã không có lực, ném không xa lắm. Phích lịch vừa ném ra, ngươi cũng không thoát chết dưới phích lịch.

- Vậy sao?

Địch Thanh thản nhiên nói:

- Ta không sợ chết, ngươi sợ không?

Phi Ưng thầm lạnh run, biết Địch Thanh không phải người khoác lác khinh người. Địch Thanh có dũng khí liều mạng, nhưng Phi Ưng còn có dã tâm lớn, sao chịu chết dễ dàng?

Trương Hải vẫn im lặng, nghe vậy thấp giọng nói:

- Phi Ưng, hắn chỉ có một quả phích lịch, dụ hắn ném ra thì được rồi.

Trương Hải có mưu kế, ban đầu giữ chức Nhâm quân sư trong phản quân, đã nhìn ra nhược điểm của Địch Thanh.

Phi Ưng gật đầu, tự ỷ võ công, định bay bổ qua, Địch Thanh đã cướp quát trước:

- Đỡ lấy!

Địch Thanh vừa quát ra thân hình đứng thẳng, cánh tay vung lên.

Ba người Phi Ưng đều rùng mình sợ uy lực của phích lịch, không dám lao thẳng lên mà lắc mình tới một bên.

Không ngờ cánh tay Địch Thanh vừa chấn động, cổ tay áo có dao bay ra đang trúng trên cặp mông con ngựa kéo xe.

Con ngựa hoảng sợ, dưới đau đớn, bỗng nhiên chạy đi, men theo đỉnh núi nghiêng nghiêng chạy xuống. Ngựa khi hoảng sợ chạy như điên, mượn thế núi mà xuống, trong nháy mắt đã chạy cách mấy trượng, bỏ lại đám người Phi Ưng.

Phi Ưng vừa sợ vừa giận, không ngờ Địch Thanh lấy tiến làm lùi, lại muốn chạy trốn. Thân hình y vừa khai triển, đã vọt lên không trung, thì muốn đuổi xuống núi. Vương Tắc, Trương Hải hai người cũng ý nghĩ giống vậy, vội theo Phi Ưng vọt tới.

Không ngờ ba người vừa mới bắn lên, thì có một vật rơi xuống “ầm” một tiếng nổ vang, chấn động điếc cả tai, đá vụn đất cát lập tức bay lên, ở giữa còn có thiết châm bắn ra.

Chỗ nổ tung đó chính là chỗ lối ra của đám người Phi Ưng. Ba người kinh hãi, xê dịch trong không trung tránh né. Lúc rơi xuống đất, dù chưa bị thương nặng nhưng cũng chật vật không chịu nổi.

Chỉ trong chốc lát này, xe ngựa đã chạy ra xa mười mấy trượng, thuận theo sườn núi mà lao đi, càng thấy nhanh lẹ.

Phi Ưng thầm nghĩ:

“Hôm nay không giết được Địch Thanh, ngày sau nếu hắn sẽ báo thù, nhất định là họa lớn. Ngựa mất máu hoảng sợ, tuyệt đối chạy không được lâu, chỉ cần tới chân núi, ngựa nhanh chóng chậm lại. Ta chỉ cần theo phía sau nhất định có thể lấy được mạng hắn.”

Vừa nghĩ tới đây, đã dẫn hai người Vương Tắc chạy xuống núi. Lúc đầu y cứu Địch Thanh ra khỏi mật thất còn nghĩ lợi dụng Địch Thanh, lúc đó cố ý không đỡ Địch Thanh chính là muốn xem Địch Thanh còn lại mấy phần thực lực. Lúc đó thấy Địch Thanh sớm tình trạng kiệt sức, đã buông lỏng cảnh giác, chỉ muốn dẫn Địch Thanh tới sau ngọn núi hoang sơ thì tha hồ thao túng, làm sao ngờ Địch Thanh lại dùng địa thế, ngược lại thoát khỏi bao vây của y, không khỏi trong lòng rất hối hận. Hận lúc đó tại sao không trực tiếp giết Địch Thanh, dẫn Phi Tuyết đi?

Y mạo hiểm lẻn vào Thừa Thiên Tự, thật ra nguyên nhân lớn là vì Phi Tuyết!

Ba người phóng chân chạy như điên, nhưng thấy cái xe củi đó ngược lại càng ngày càng xa. Lúc này mặt trời đỏ đã phá tầng mây lộ ra, sát khí lại hiu quạnh lạnh cả núi. Lúc mấy người truy đuổi một xe không lâu, xe ngựa đã dần xa, Phi Ưng đang lo lắng, bỗng nhiên nghe “ầm” một tiếng vang lớn, xe ngựa bỗng nhiên phân ra năm bảy mãnh. Mắt thấy Địch Thanh và Phi Tuyết trên xe ngựa đã nhảy ra ngoài, lăn xuống chân núi, liền sau đó không thấy bóng dáng.

Thì ra ngựa hoảng sợ chạy như điên, hoảng hốt chạy bừa, lại va vào một tảng đá lớn ở sườn núi, lực đó vừa chạm, nặng tựa ngàn cân, xe ngựa không chịu nổi khi đó vỡ ra.

Địch Thanh không nghĩ tới biến hóa này, chỉ kịp ôm Phi Tuyết, hai người bị quán tính, bay ra khỏi xe, lăn xuống chân núi.

Địch Thanh lăn thất điên bát đảo, trong lòng áy náy. Lúc nãy nếu hắn không phải cố ý muốn dẫn Phi Tuyết đi, Phi Tuyết sẽ không gặp v�xui thế này. Hắn là đang cứu Phi Tuyết, cũng là đang hại Phi Tuyết?

Ý nghĩ vô cùng lộ xộn, trời đất u ám, Địch Thanh chỉ thấy một cây đại thụ đảo ngược, đập thẳng vào mặt, Địch Thanh trong tiếng kêu lớn, đã ôm chặt Phi Tuyết, bảo vệ cả người Phi Tuyết.

“Ầm” một tiếng vang lên, lưng Địch Thanh nặng nề đập vào tàng cây .“Oa”, một ngụm máu tươi phun ra, nhưng thế ngã nhào đã dừng lại. Địch Thanh bất chấp thân mình, gọi:

- Phi Tuyết, cô không sao chứ?

Cúi đầu nhìn lại, chỉ thấy trong đôi mắt thủy mặc như tranh vẽ mang chút ảnh lệ...

Phi Tuyết ngước nhìn Địch Thanh. Kinh biến long trời lở đất cũng không thể thay đổi sự bình tĩnh của nàng, nhưng một tiếng hỏi ân cần của Địch Thanh đã làm hai mắt nàng đẫm lệ duyên dáng.

Địch Thanh nhìn qua ánh mắt thoáng như hữu tình vô ý đó, trong lòng ngơ ngẩn, nhớ tới ngõ hẹp Biện Kinh đó, mai nghiêng tuyết sáng ...

Hắn đã phân biệt không ra, cứu là Phi Tuyết hay cứulà Vũ Thường.

Nhưng bất luận nói thế nào, hắn luôn muốn thoát khỏi truy giết của Phi Ưng. Không nói cái khác nữa, Toàn thân Địch Thanhh muốn nứt ra, đỡ Phi Tuyết gắng gượng đứng lên, ngay sau đótrời đất xoay chuyển mơ màng, lại phun ra ngụm máu tươi, suy sụp rồi ngã xuống.

Trong mấy ngày nay hắn trước thì bị thương nặng, sau đó chịu đói, toàn dựa vào nghị lực và quyết tâm vô thường mới kiên trì tiếp tục. Lúc nãy va vào đại thụ, vết thương bên ngoài toàn bộ nứt ra, nội thương lại bộc phát, cho dù người làm bằng sắt cũng không thể chống cự.

Mạnh mẽ ngã xuống bụi cây, Địch Thanh theo bản năng buông Phi Tuyết ra

Trong suy nghĩ, hắn cảm thấy đã liên lụy Phi Tuyết quá nhiều, hắn không muốn kéo theo Phi Tuyết ngã xuống. Nhưng trong sâu thẳm, hắn lại càng không muốn buông lỏng bàn tay nắm chặt đó.

Năm đó hắn không thể bắt lấy, nhưng qua nhiều năm sau, hắn đã quyết ý buông tay.

Nhưng hắn buông bàn tay, lại phát giác Phi Tuyết kéo hắn. Thân hình nhỏ bé yếu ớt đó của Phi Tuyết cũng đã lung lay sắp ngã. Nhưng bàn tay nhỏ nhắn lạnh như băng lại nắm chặt lấy Địch Thanh như tuyết luyến gió đông.

Hai người lại ngã lăn. Trong giây phút lăn lộn đó, trong đầu Địch Thanh có ánh chớp xẹt qua, cảnh tượng của Thừa Thiên Tự cuối cùng hiện ra trước mắt...

Lúc hắn té xuống mật thất, đã buông nắm tay ra, hắn hoàn toàn không muốn kéo Phi Tuyết vào vực sâu vô tận. Phi Tuyết giống như hôm nay, chặt chẽ nắm lấy bàn tay của hắn, cùng hắn chết cũng tốt, sống cũng thế, không rời nửa bước.

“Tại sao Phi Tuyết làm như vậy, nàng thật sự coi nhẹ sống chết? Hay là...”

Địch Thanh ngơ ngẩn từng hồi, lúc té xuống đất, không còn sức đứng lên nữa.

Lúc này có tiếng hô quát truyền đến:

- Bọn họ đang ở đây. Trong âm thanh tràn đầy ý vui mừng oán độc. Địch Thanh đã nghe ra đó là giọng của Vương Tắc. Địch Thanh kiệt lực chạy trốn, không ngờ thất bại trong gang tấc, cuối cùng còn mất mạng trong lúc này.

Địch Thanh, Phi Tuyết, lăn ra xe ngựa, Phi Ưng lập tức lệnh Vương Tắc, Trương Hải chia ra lục soát. Vương Tắc phát hiện hành tung của Địch Thanh trước, trong lòng rất vui. Sau khi gãô quát, lại hận Địch Thanh chém cánh tay của gã, mấy bước nhảy tung lên đã tới trước gần Địch Thanh, cười gằn nói:

- Địch Thanh, ngươi vẫn không thoát khỏi bàn tay của lão tử!

Gã giơ đao lên, đang định chém xuống...

Địch Thanh không nhìn Vương Tắc tiến đến, không nhìn mũi đao thê lãnh, mà chỉ nhìn đôi mắt đẫm lệ mông lung sương mù kia, lòng như xoắn nứt ra nói:

- Phi Tuyết, ta xin lỗi cô...

Giây khắc đó, thời gian như quay vòng, bóng trắng chợt rọi, trước mắt hóa thành khuôn mặt không thôi như mộng.

Trên gương mặt đó đã có bảy phần cát bụi, ba phần tiều tụy. Đôi mắt đó không còn bình tĩnh như nước nữa, mà ẩn hiện gợn sóng.

Phi Tuyết nhìn Địch Thanh, khóe miệng đột nhiên hiện lên nụ cười, ý cười hóa tuyết, dung băng, sáng lên hàn ý của mùa đông. Nàng không nhìn đơn đao chém xuống, đã thả người che lên người Địch Thanh, sau đó nói:

- Thế này cũng tốt!

 Chương 351 - 354: Tán Phổ

Mặt trời đỏ rực đã lên cao, trường đao đã rơi, dưới ánh vàng óng ánh, trên mũi đao đằng đằng sát khí. Vết cắt của đơn kiếm đã tạo ta một hình vòng cung lạnh như băng, đã rất khó khăn để cắt vào sau cổ Phi Tuyết.

Địch Thanh không muốn Phi Tuyết như thế, kinh hãi nói:

- Không.

Hắn gầm lên giận dữ, ra sức quay người, lấy thân mình che cho Phi Tuyết.

Đường đao của Vương Tắc vẫn không dừng, mặc kệ nhát đao kia chém là Phi Tuyết hay là Địch Thanh. Vương Tắc vẫn không hiểu, tại sao Phi Ưng coi trọng Phi Tuyết như vậy, nhưng lúc này Phi Ưng lại không có mặt, gã bất luận Phi Tuyết như thế nào, chỉ cần giết được Địch Thanh.

Đúng lúc này, trong không trung vang lên một tiếng cười, một vật sắc nhọn như băng đánh tới trước mặt Vương Tắc.

Vương Tắc kinh sợ, không kịp chém Địch Thanh nữa, vội lấy thanh đao chắn lại.

Một tiếng “Keng” vang lên, vật kia đâm trúng sống đao, tia lửa bắn ra tứ phía, rồi văng ra ngoài, cắm lên cành cây. Thì ra đó là một thanh Phi đao.

Vương Tắc không cần nhìn lại cũng cảm thấy luồng gió lạnh thấu xương chạy qua đỉnh đầu, gã vội rụt đầu lui đi nhanh. Đơn đao giữ lại mà lên.

Ba người Vương Tắc, Trương Hải, Quách Mạc Sơn năm đó đều là cấm quân, là thủ hạ của Quách Tuân. Nhưng ba người này đều gặp chuyện lạ, chỉ ở trong võ thuật thì mới tiến vùn vụt. Quách Mạc Sơn càng lĩnh ngộ rất nhiều, lúc này mới trở thành người đứng đầu trong số ba người. Vương Tắc ở trước mắt này võ công cao minh, hơn xa hẳn những đạo sĩ bình thường.

Vương Tắc trong thế Phi Đao sứt mẻ, thì phát hiện người đột kích từ trên cây phi xuống, lập tức vung đao phản kích. Vừa nghe tiếng “keng” vang lên, hai thanh đao chạm vào nhau, tia lửa bắn tứ phía.

Trong tia lửa chập chờn, Vương Tắc nghiêng người mà lên, lao thẳng vào Địch Thanh. Y đã thấy rõ người trên cây có dáng người gầy gầy, nhanh nhẹn, giống như một con dơi, trong tay cầm một thanh đơn đao lưỡi mỏng. Y không cần biết kẻ đánh lén kia là ai, chỉ muốn giết Địch Thanh trước rồi mới tính đến kẻ đó.

Trên cây người đó bất ngờ nhảy xuống ra tay tấn công Vương Tắc, nhưng lại bị Vương Tắc đỡ được. Vô cùng kinh ngạc, rồi rơi xuống phía sau Vương Tắc.

Vương Tắc phán đoán chính xác, lập tức nhảy tới trước mặt Địch Thanh. Không ngờ nhoáng một cái, một người đã chắn trước mặt Địch Thanh. Vương Tắc giận dữ, chém liền ba nhát vào vai, ngực, xương sườn kẻ đó. Y làm giả một động tác, chỉ chờ đối phương né tránh thì sẽ một đòn chí mạng.

Không ngờ người kia căn bản không nhìn mũi đao mà cứ thế xông lên.

Một tiếng “Phập” kêu lên, lưỡi kiếm đâm vào thịt, chém vào tay người kia. Không ngờ cánh tay người đó chuyển một cái, bóp chặt mũi đao, và mặt đối mặt với Vương Tắc

Vương Tắc nghe thấy âm thành của lưỡi đao rạch vào xương cốt, cũng nhìn thấy khuôn mặt tàn tro của gã đó mà thấy ớn lạnh sống lưng. Y chưa bao giờ nhìn thấy một kẻ không muốn sống như thế, cũng chưa từng trải qua cảnh tượng tương tự thế này. Không đợi phản ứng thì cảm thấy bụng nhói đau, mới phát hiện ra một dây bạc đã đâm vào bụng hắn, quấn quanh ruột y. Vương Tắc đau đớn, không kìm nén nổi gầm lên một tiếng, vung cùi trỏ đánh tới. Người đó xoắn cổ tay, lộn ra một vòng. Lúc rơi xuống đất nét mặt càng bụi hơn, nhưng trên dây bạc trong tay vẫn móc theo một đoạn ruột trắng hếu.

Vương Tắc lấy tay che bụng, lảo đảo lui xuống, ánh mắt tràn đầy vẻ khó tin.

Lúc này Phi Ưng, Trương Hải cùng đuổi tới, thấy thế kinh hãi, vội giúp Vương Tắc nhìn về phía Địch Thanh. Nhìn thấy một loạt pháo hoa bắn lên trời, lấp lánh giữa không trung. Hai người đứng sóng vai, che trước mặt Địch Thanh

Địch Thanh thấy hai người kia đuổi tới, cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm. Người tới chính là thủ hạ trong Thập sĩ của hắn. Người mặt xám như tro chính là người lãnh đạo của quân Tử phẫn- Lý Đinh, còn người nhảy từ trên cây xuống vốn là thủ lĩnh của quân sĩ Khấu binh - Trương Dương.

Trong lòng Phi Ưng thấy ớn lạnh, không hiểu vì sao thủ hạ Địch Thanh lại tìm đến đây. Địch Thanh dường như nhận ra sự hoang mang của Phi Ưng, thong thả nói:

- Người dám chắc rất lấy làm kỳ lạ là sao bọn họ lại tìm đến đây?

Phi Ưng không kìm chế nối, hỏi:

- Vì sao bọn chúng biết ngươi ở đây?

Địch Thanh thở gấp nói:

- Nếu như ngươi muốn giết ta thì cơ hội tốt nhất là ở trong chùa Thừa Thiên. Nhưng ngươi quá mức tham lam, chỉ mong muốn hoặc là có thể lợi dụng ta, do vậy mà đem ta tới đây. Nhưng khi ta bị nhốt trong chùa Thừa Thiên, huynh đệ của ta không nghe thấy tin tức của ta, đương nhiên sẽ biết ta xảy ra chuyện, làm sao có thể không đi tìm kiếm ta?

Phi Ưng lạnh lùng đáp:

- Nhưng căn phòng bí mật đó, ngoài ta ra, người khác không thể tìm thấy được.

Địch Thanh mỉm cười đáp:

- Không sai. Sự thật là bọn chúng không tìm thấy ta, nhưng nhất định canh giữ bên ngoài chùa Thừa Thiên để nghe ngóng tin tức. Ngươi cứu ta ra, chỉ cho rằng ta không thể chạy trốn nên không chú ý đến. Sau khi ta ra khỏi chùa đã để lại tín vật trên đường đi.

- Bởi vậy bọn họ phát hiện ra tín vật và có thể truy tìm tới?

Phi Ưng có chút giật mình, oán hận nói:

- Cho nên ngươi không sợ trở mặt với ta? Nhưng ngươi chưa từng nghĩ đến liệu chúng có đến kịp thời hay không sao?

Địch Thanh từng chữ, từng chữ một đáp:

- Ta tin bọn họ!

Ánh sáng của pháo hoa trên bầu trời chiếu xuống, chiếu vào đám người Địch Thanh, ấm áp như sự tin cậy của tình huynh đệ.

Bả vai Lý Đinh vẫn đang chảy máu, sắc mặt càng xám lại, nhưng sống lưng thẳng đuột. Anh ta xưa nay đánh trận không quản mạng sống, nhưng cũng vì không màng đến tính mạng mà anh ta mới có thể sống sót sau mỗi lần. Vương Tắc mạnh hơn anh ta, nhưng đã bị anh ta làm trọng thương.

Trương Dương đứng đó, vẫn còn giống như nhẹ bay chưa hề phân lượng. Nhưng trên nét mặt hiện rõ vẻ đoạn tuyệt, nặng hơn cả núi. Ai nhìn vào cũng nhận ra, vì Địch Thanh, anh ta không tiếc tính mạng.

Phi Ưng coi thường thiên hạ, hống hách ngang ngược, xưa nay luôn coi thường người khác. Lúc này Địch Thanh không thể đứng lên được, Lý Đinh bị thương, Trương Dương thì gầy còm. Gã vốn không để ý, nhưng thấy ba người này thần sắc kiên định nên lúc này không thể tiến lên.

Một lúc lâu sau, Phi Ưng mới cười lạnh lùng nói:

- Địch Thanh, bọn chúng cho dù tìm đến thì cũng có thể thế nào được đây? Chỉ dựa vào hai người này, ngươi cho rằng có thể ngăn ta giết ngươi sao?

Địch Thanh cắn răng đứng lên, cùng Lý Đinh, Trương Dương đứng sóng vai nhau, chậm rãi nói:

- Không phải hai người, mà là ba người.

Phi Ưng nháy mắt với Trương Hải, ra hiệu cho Trương Hải đảm nhiệm Hai người Lý Đinh và Trương Dương, còn gã dùng toàn lực để giết Địch Thanh. Thấy Trương Hải gật đầu, Phi Ưng khom người xuống, đằng đằng sát khí, không đợi hành động. Rồi đột nhiên gã nhìn về hướng Tây bắc, thấy một người bước chân nhẹ như báo đi tới, đã cách mọi người không còn xa nữa. Thấy Phi Ưng nhìn lại, liền nói:

- Không phải ba người, mà là bốn người.

Người đó lưng đeo thanh kiếm dài, thân hình cũng như cây kiếm, chỉ trong giây lát đã đứng bên cạnhĐịch Thanh, đó chính là Qua Binh.

Phi Ưng hơi ớn lạnh, không nghĩ là bang thủ của Địch Thanh đến nhanh như vậy, gã ngầm nhíu mày. Bất chợt phía sau gã không xa có vài động tĩnh. Quay đầu nhìn lại thì thấy một người đứng trên tảng đá lớn từ lúc nào, hai tay chụp xuống, trợn trừng mắt nhìn hắn noi:

- Không phải bốn người, mà là năm người.

Người đó chính là Bạo Chiến, là thủ lĩnh của quân sĩ Dũng Lực.

Tiếng của Bạo Chiến vừa dứt, lại một người nữa cười nói:

- Không phải năm, mà là sáu người.

Một người nữa ở phía sau tảng đá mà Bạo Chiến đứng lắc mình xuất hiện, nét mặt tươi cười, đó là Hàn Tiếu.

Phi Ưng nheo nheo mắt, không ngờ chỉ trong giây lát mà Địch Thanh có hơn năm trợ thủ tới. Năm người này xem ra đều phi thường, và có thể vì Đại Thanh mà không tiếc thân mình, khiến gã muốn lấy mạng Địch Thanh cũng không phải là chuyện dễ.

Hàn Tiếu không để ý tới Phi Ưng, từ xa xa hướng về phía Địch Thanh nói:

- Địch tướng quân, năm bộ Tử Phẫn, Hãm Trận, Dũng Lực, Khấu Binh, Đãi Mệnh và những người còn lại lập tức sẽ tới, chờ lệnh tướng quân.

Phi Ưng đảo mắt, ngạo nghễ cười nói:

- Ngươi chớ lớn tiếng khinh người, phô trương thanh thế. Ta nghĩ…các ngươi sẽ không còn ai đến nữa đâu.

Gã biết là đã trúng quỷ kế của Địch Thanh, hóa ra Địch Thanh ban nãy giải thích cho gã, không chỉ là để kéo dài thời gian, đợi người kéo đến đông đủ mà thôi. Phi Ưng dự tính thực lực của năm người này, cảm nhận thấy Hàn Tiếu là người yếu nhất. Lúc này Địch Thanh căn bản không thể ra tay, gã và Trương Hải kết hợp, chỉ cần đánh bại bốn người Lý Đinh thì có thể giết được Địch Thanh. Gã và Địch Thanh đã trở mặt, càng kị bị Địch Thanh báo thù. Có cơ hội này, đương nhiên không chịu dễ dàng bỏ qua.

Hàn Tiếu khẽ mỉm cười, bước ra hai bước, chìa tay lấy từ trong ngực ra một ống trúc nói:

- Chỉ cần năm người chúng ta, muốn giết ngươi không phải là chuyện khó.

Phi Ưng cười lạnh nhạt, không đợi nhiều lời, Hàn Tiếu đã giương ống trúc trong tay lên nói:

- Phi Ưng, ngươi biết trong tay ta đang cầm cái gì không?

Phi Ưng nhìn ống trúc đó, hồ nghi nói:

- Chỉ là một ống trúc thôi mà.

Hàn Tiếu khẽ cười, ngạo nghễ noi:

- Phích lịch ngàn dặm, thiên lắc địa trấn, Bạo vũ như thác đổ, quỷ thần kinh sợ. Không biết hai câu này ngươi từng nghe qua chưa?

Phi Ưng thấy Hàn Tiếu đối mặt với gã, nhưng anh ta vẫn tỏ vẻ thản nhiên, trong lòng càng thêm thận trọng, không dám coi thường, chau mày nói:

- Đây là câu nói nhảm nhí gì? Ta chưa từng nghe qua.

Hàn Tiếu nói:

- Không phải là nhảm nhí mà là lời nói thật. Hai câu này muốn nói hai lợi khí này là do Võ Kinh đường của Đại Nội triều Tống chế tạo - Phích lịch và bạo vũ. Uy lực của phích lịch, nói thế chắc ngươi đã biết. Nhưng còn bạo vũ rốt cuộc dùng như thế nào, ta nghĩ ngươi cũng sẽ nhanh chóng biết ngay thôi.

Phi Ưng nhớ lại uy lục của phích lịch đã vô cùng kinh sợ, lại nhìn ống trúc kia mà hỏi:

- Trong tay ngươi chính là bạo vũ?

Hàn Tiếu gật đầu nói:

- Không sai, trong này đựng chín chín tám mươi mốt cây kim bạc. Chỉ cần ấn nút sẽ bắn ra như bạo vũ. Tuy nhiên cái kim này không giống như hạt mưa. Mưa không để lại dấu vết, còn cây kim này không chỉ để lại dấu vết mà còn đâm vào thịt, kim đến khớp xương. Bạo vũ mà xuất ra thì trong phạm vi mấy trượng cả người và vật đều không thể tránh được, ngươi có tin không?

Miệng Phi Ưng co rúm lại, thấy miệng cái ống kia hướng về phía mình, lại thấy ngón tay Hàn Tiếu hơi cong cong, tựa như muốn ấn xuống, bất giác lui xuống một bước.

Trương Hải thấy thế cũng lùi theo xuống một bước, nét mặt sợ hãi.

Nét mặt Hàn Tiếu tươi cười, nhìn chằm chằm vào Phi Ưng nói:

- Lúc nãy ta có thể thừa cơ người không chuẩn bị mà dùng tới bạo vũ. Nhưng chúng ta là thủ hạ của Địch tướng quân, không đánh sau lưng kẻ thù. Phi Ưng, hôm nay ta với ngươi độc chiến. Nếu ngươi có thể tránh được bạo vũ thì mạng này ta xin tặng cho ngươi,

Dứt lời anh ta liền bước lên một bước, một tay cầm ống trúc, quát lên:

- Tới đây.

Phi Ưng lại lui lại một bước nữa, thấy mấy người Lý Đinh không ra tay, dường như rất yên tâm về Hàn Tiếu thì trong lòng càng thêm lo lắng không yên. Thấy Hàn Tiếu cười không ngớt, ẩn hiện sát khí, suy nghĩ quay cuồng. Ước chừng tình thế hai bên, chung quy không muốn mạo hiểm nên quay người rời xa Hàn Tiếu mấy trượng. Lúc này mới hét lớn:

- Thuộc hạ Địch Thanh đường đường chính chính, Phi Ưng ta cũng sẽ không đánh lén sau lưng. Địch Thanh, ta chờ ngươi khỏe lại sẽ quyết với ngươi một trận.

Dứt lời gã cùng Trương Hải đem theo Vương Tắc rời đi.

Đám người Lý Đinh không ngăn cản. Chờ đến khi bóng Phi Ưng khuất xa mới tiến lại gần Địch Thanh, rối rít nói:

- Địch thướng quân, Người thế nào rồi ạ?

Hàn Tiếu thấy môi Địch Thanh, Phi Tuyết khô nứt, đã nhanh chóng lấy nước và lương thực tới. Địch Thanh, Phi Tuyết sau khi uống nước và ăn một chút lương khô, tinh lực có phần phục hồi. Hàn Tiếu nhận ra Phi Tuyết chính là người con gái ở Chùa Thừa Thiên thì rất kinh ngạc, nhưng không tiện hỏi điều gì.

Qua Binh đứng một bên nói:

- Địch tướng quân, rốt cuộc là thế nào? Vì sao Phi Ưng muốn đuổi giết Người?

Địch Thanh liếc nhìn Phi Tuyết một cái, thấy nàng đang ngồi yên lặng dưới gốc cây, cũng không biết đang suy nghĩ điều gì. Hắn đem sự tình kể qua cho mọi người một lượt, mọi người đều tức giận. Qua Binh bực tức nói:

- Kẻ phản nghịch này, Địch tướng quân hà cớ sao không cho ty chức giết hết cùng lúc?

Vốn dĩ lúc nãy Địch Thanh dù nói không nhiều, nhưng một mực ra điệu bộ để mọi người không manh động, đám người Qua Binh này mới không ra tay.

Nụ cười của Hàn Tiếu có chút chua xót, nói:

- Qua Binh, ngươi không biết, Quách Mạc Sơn này sớm đã xưa không bằng nay, lại có thêm Trương Hải, không phải là nhỏ. Địch tướng quân không cho chúng ta động thủ là vì sợ chúng ta không ngăn được.

Qua Binh cau mày nói:

- Thêm bạo vũ cũng không được sao?

Lý Đinh và Khấu Binh liếc mắt nhìn nhau, đều lộ vẻ thận trọng. Hóa ra ban nãy hai người kết hợp đánh bất ngờ nên mới đánh trọng thương Vương Tắc. Nhưng biết rằng nếu mặt đối mặt giao tranh, chưa chắc có thể làm gì được Vương Tắc. Quách Mạc Sơn là kẻ dẫn đầu quân phản nghịch, võ công cao minh, lại thêm Trương Hải, nếu thật sự ra tay, chưa chắc mọi người có thể cứu được Địch Thanh.

Hàn Tiếu không còn cầm ống trúc kia nữa, nghe vậy ném sang một bên, nói:

- Làm gì có bạo vũ gì? Nếu thật sự lợi hại như vậy thì ta đã sớm dùng rồi. Đây chẳng qua chỉ là một ống trúc ta tiện tay nhặt được. Các ngươi không biết thực sự cho rằng ta kiên cường vậy sao?

Y dứt lời cười đau khổ.

Mọi người đứng ngẩn ra. Đến lúc này mới hiểu rõ được Hàn Tiếu đúng là kẻ phô trương thanh thế, thầm kêu lên thật nguy hiểm. Bạo Chiến đứng bên lo lắng nói:

- Nếu thật sự không có bạo vũ, vậy thì Địch tướng quân sẽ gặp nguy hiểm, lúc này chúng ta phải làm sao? Có cần phải nhanh chóng trốn đi không?

Hà Tiếu trầm ngâm nói:

- Phi Ưng không biết thật hư. Nếu y âm thầm theo dõi chúng ta, bắt gặp chúng ta vội vội vàng vàng, chỉ e là sẽ hoài nghi. Một khi đã thế này, việc quân cơ kông nề dối trá, tạm thời chúng ta ở đây nghỉ ngơi, để Địch tướng quân hồi phục chút sức lực rồi tính tiếp. Phi Ưng thấy ta không sợ hãi, nhất định không dám đến nữa. Ta đã truyền tin xuống, Thập Sĩ của chúng ta tụ tập ở gần thanh đường rất nhanh sẽ đến. Chỉ cần bọn họ tới rồi, thì không còn sợ Phi Ưng sinh chuyện. Đến lúc đó chúng ta dời đi cũng không muộn.

Mọi người đều thấy khả thi, Địch Thanh gật gật đầu, đột nhiên nhớ ra một chuyện, hỏi:

- Hiện giờ Phú đại nhân sao rồi?

Mấy người Hàn Tiếu đưa mắt nhìn nhau. Qua Binh vâng dạ nói:

- Địch tướng quân, người nghỉ ngơi trước đã, những chuyện khác sau này hãy nói.

Trong lòng Địch Thanh trầm xuống, ngóng nhìn Hàn Tiếu nói:

- Ngươi hãy nói luôn bây giờ đi.

Hàn Tiếu liếc nhìn Phi Tuyết, thấy thần sắc Phi Tuyết lạnh lùng, nhất thời không hiểu quan hệ giữa nàng và Địch Thanh là gì, hạ giọng nói:

- Trong mắt người Thổ Phiên, phá hủy lễ hội Thừa Thiên là tội ác tày trời. Địch tướng quân và vị cô nương này tham gia trong đó làm cho người Tạng phẫn nộ, cho rằng triều đình ta bất kính với họ. Cốc Tư La đã sớm hạ lệnh, giam giữ Phú Bật ở đại lao, nghe nói đã biên soạn sách để chất vấn triều đình của ta…

Nhìn thấy Địch Thanh trầm ngâm, Hàn Tiếu an ủi nói:

- Địch tướng quân không cần quá lo lắng. Phú đại nhân tạm thời sẽ không có chuyện gì. Người hãy an tâm lo dưỡng thương trước, những chuyện khác để sau nói.

Địch Thanh chỉ gật gật đầu, than nhẹ một tiếng, nhìn lên trời xanh, trong lòng nghĩ: lúc trước Quách Mạc Sơn cũng chỉ là hạng người hời hợt qua loa, vì sao lại có thể có năng lực ngày hôm nay? Hóa ra Địch Thanh chưa hề từ bỏ việc dõi theo tình hình của Phi Ưng. Bây giờ thủ hạ của hắn có một đội chờ lệnh, tin tức linh thông. Tình cờ từ năm đó trong sa mạc chứng kiến trên người kỵ sĩ kia, tìm thấy quân phiến loạn Thiểm Tây giống như Vương Tắc. Địch Thanh đã xâu chuỗi tất cả các dấu vết lại với nhau, mới phỏng đoán Phi Ưng chính là tên cướp Quách Mạc Sơn và lúc này mới thử nói ra. Địch Thanh đã vạch trần ván bài của Phi Ưng, một mặt không ngờ Phi Tuyết lại cùng với Phi Ưng, mặt khác cũng thực sự muốn mượn cớ này định đoạt thân phận của Phi Ưng.

“Có thể Quách Mạc Sơn cố ý phá hoại lễ hội Thừa Thiên, rốt cuộc dụng ý là gì? y muốn mượn cái gì từ Cốc Tư La? Y và Phi Tuyết….rốt cuộc có liên quan gì?” Nghĩ đến đây, Địch Thanh bất giác nhìn về phía Phi Tuyết thì thấy Phi Tuyết cũng nhìn lại, trái tim bỗng run lên.

Phi Tuyết uống nước, ăn một chút lương khô, tinh thần đã sảng khoái hơn nhiều. Nàng dù nhìn nhỏ bé yếu ớt, nhưng cứng cỏi như tre trúc, tốc độ phục hồi nhanh hơn nhiều so với người thường. Thấy Địch Thanh nhìn lại, Phi Tuyết bước lại nói:

- Ta phải đi đây.

Địch Thanh hơi bất ngờ, thất thanh nói:

- Cô đi đâu?

Phi Tuyết nhìn chằm chằm Địch Thanh, hai tròng mắt tựa như sương mù dầy đặc, thật lâu sau mới đáp:

- Ta và ngươi vốn không phải hai kẻ cùng đường. Nơi ngươi muốn đi và nơi ta muốn đi là không giống nhau.

Nói rồi quay đầu định bước đi, Địch Thanh đột nhiên kêu lên:

- Phi Tuyết…

Phi Tuyết khựng lại, nhưng vẫn không xoay người lại, bình tĩnh nói:

- Ngươi dù đã cứu ta vài lần, nhưng ta cũng đã từng cứu ngươi. Ta và ngươi từ giờ không còn nợ gì nhau. Ta sẽ không cảm tạ ngươi đâu.

Địch Thanh nhìn bóng dáng nhỏ bé, nói từng từ:

- Nhưng ta sẽ cảm kích cô. Cô vốn đã quyết ý đi cùng đường với ta, vì sao lúc này lại muốn đi?

Lúc này mặt trời đã lên cao, chiếu xuống người Phi Tuyết khiến cái bóng cô thật dài.

Gió nổi lên, tay áo tung bay, Địch Thanh không nhìn thấy nét mặt Phi Tuyết, suy nghĩ mãi vẫn không hiểu được tâm tư của Phi Tuyết. Căng thẳng chờ đợi câu trả lời của Phi Tuyết, hắn đã biết Phi Tuyết là người quan trọng phá giải Hương Ba Lạp, đương nhiên hy vọng nàng sẽ ở lại, nhưng hắn không ngờ Phi Tuyết sẽ ra đi như thế này, cũng là lo lắng cho Phi Tuyết mới trốn khỏi căn phòng bí mật đó. Thân thể suy yếu, thật khó mà chịu được cái lạnh giá của vùng Tây Tạng.

Một hồi sau Phi Tuyết mới đáp:

- Có một vài người có thề chết cùng ngươi, nhưng không thể cùng ngươi đi chung một con đường.

Địch Thanh trong lòng rối loạn, hoàn toàn không hiểu tâm tư của Phi Tuyết, hắn cũng chưa từng bao giờ hiểu.

- Ngươi muốn giữ ta lại, là muốn ta đưa ngươi đi tới Hương Ba Lạp sao?

- Phi Tuyết đột nhiên hỏi.

Địch Thanh hồ hởi hẳn lên, run giọng nói:

- Phải.

Phi Tuyết đáp:

- Nhưng ta sẽ không dẫn ngươi đi.

Địch Thanh ngẩn ra, tràn đầy thất vọng, không kìm được nói:

- Tại sao?

Phi Tuyết nhìn xa xa một hồi rồi nói:

- Không tại sao cả.

Nói xong nàng bước đi, bước đi tuy chậm chạp, nhưng đầy vẻ kiên quyết.

Đám người Hàn Tiếu thấy thế cùng muốn ngăn cản, nhưng Địch Thanh đã khoát tay, ra hiệu cho đám thủ hạ không cản nàng, cất giọng nói:

- Phi Ưng có thể vẫn còn ở gần đây, các ngươi hãy thận trọng.

Phi Tuyết ngừng lại một chút, nhưng cuối cùng vẫn không xoay người lại. Không bao lâu đã khuất xa.

Địch Thanh nhìn theo mãi bóng dáng Phi Tuyết, chỉ thấy bóng dáng nhỏ bé kia cuối cùng cũng hòa cùng trời đất bao la. Nếu có chút buồn, Phi Tuyết dù không đưa hắn tới Hương Ba Lạp, nhưng trong lòng hắn cũng không hề có chút gì oán hận. Trong lòng hắn luôn cảm thấy Phi Tuyết hành sự rất có đạo lý, mặc dù khiến người ta khó mà đoán ra, nhưng đối với hắn luôn không hề có ác ý.

Đang chìm sâu trong suy nghĩ thì lại có người của Thập Sĩ tới.

Lần này Địch Thanh và Phú Bật bí mật đi sứ Thổ Phiên. Bề ngoài tuy chỉ là mấy người, nhưng sớm đã lệnh cho đội quân tinh anh của Thập Sĩ âm thầm phối hợp. Đến tuy không quá mười người, nhưng mọi người đều thanh thế lớn mạnh, ngay lập tức chuyển tới một nơi bí mật.

Địch Thanh nghỉ ngơi một ngày hai đêm. Tuy vết thương vẫn chưa lành, nhưng tinh thần và thể lực đã hồi phục năm phần. Tới lúc bình minh, nghĩ tới Phú Bật vẫn còn trong lao ngục, lại không thể chờ đợi được, lập tức tìm đám người Hàn Tiếu tới nói:

- Ta bắt bưộc phải cứu Phú Đại nhân ra trước.

Đám người Hàn Tiếu ngơ ngác nhìn nhau. Qua Binh cất lời nói:

- Địch tướng quân, Phú đại nhân lúc này đang bị giam giữ ở trong Vương Cung của thành Thanh Đường, nơi đó được canh phòng dày đặc, chúng ta không thể tiếp cận. Chúng ta hoàn toàn không biết lúc này tình trạng thế nào. Với nhân lực chúng ta có hiện nay, muốn cứu Phú đại nhân thật không dễ dàng.

Đám người Lý Đinh đều là những người suy nghĩ sâu xa, nên rất lo lắng.

Địch Thanh cười cười, mắt nhìn đám mây trắng đang bay trên trời, cuối cùng hạ quyết tâm nói:

- Ta chuận bị đi gặp Cốc Tư La, cầu xin y thả Phú đại nhân.

Mọi người đều ngạc nhiên, Hàn Tiếu miễn cưỡng cười nói:

- Địch tướng quân, chúng ta đã phá hủy lễ hội Thừa Thiên, trong suy nghĩ của người Tạng, thật sự là tội ác tày trời. Người lại đánh thương Chiên Hổ, càng tích thêm sự oán hận của người Thổ Phiên. Lúc này đi gặp Cốc Tư La, y làm sao có thể bỏ qua cho người? Chuyện này cần bàn bạc kỹ càng hơn.

Bạo Chiến, Trương Dương đều lên tiếng khuyên nhủ:

- Hàn Tiếu nói rất đúng. Địch tướng quân, người đảm nhiệm trọng trách chống lại Nguyên Hạo. Lúc này vết thương chưa lành, tuyệt đối không thể lại làm gì nguy hiểm tới bản thân.

Địch Thanh thấy vẻ mặt mọi người đều cấp bách, lúc sau mới nhìn Lý Đinh nói:

- Lý Đinh, vết thương của ngươi đỡ chưa?

Thấy Lý Đinh gật gật đầu, Địch Thanh lại hỏi:

- Hôm qua Vương Tắc tới giết ta, vì sao ngươi thà chịu thương mà kông tránh?

Lý Đinh ngày thường vốn ít nói, không giống hai người Hàn Tiếu, Qua Binh thân cận với Địch Thanh, nghe vậy há hốc miệng nói:

- Ty chức không dám chắc có thể chặn gã lại.

Anh ta không nói thêm gì nữa, nhưng mọi người đều biết rằng Lý Đinh không thể tránh, vì sợ Vương Tắc sẽ làm thương Địch Thanh. Người trong Thập Sĩ, vẻ bề ngoài đối với Địch Thanh hoặc là gần gũi, hoặc là không thân, nhưng đều là dòng dõi hiệp sĩ, biết được sự quan trọng của Địch Thanh, người người đều không tiếc liều mình tới cứu Địch Thanh.

Địch Thanh tỏ vẻ cảm kích, nhìn mọi người một lượt rồi nói:

- Ta biết các ngươi đều vì ta mà sẽ không lùi. Tình nghĩa của các ngươi Địch Thanh ta khắc sâu trong lòng. Theo lý mà nói, có một só chuyện hoàn toàn không thể lựa chọn, cũng không thể nhượng bộ. Sự việc phá hỏng lễ hội Thừa Thiên là do ta mà ra, làm liên lụy tới sự thuận hòa giữa triều đình ta và Thổ Phiên, thì bắt buộc phải do ta đứng ra giải quyết. Ta tuy có sai lầm, nhưng kông thể vô tâm bỏ qua. Ta muốn thành tâm đi xin lỗi, Cốc Tư La sẽ cân nhắc mức độ nặng nhẹ, chắc sẽ không làm khó chúng ta. Nút thắt này càng sớm tháo gỡ càng tốt. Nếu càng kéo dài, không những Phú đại nhân có thể nguy hiểm, mà rất có khả năng nguy hại cả giao kết giữa Đại Tống và Thổ Phiên. Một khi đã như vậy, hôm nay ta nhất định phải gặp Cốc Tư La.

Mọi người thấy Địch Thanh ý chí kiên quyết, biết rằng không thể khuyên, đều nói:

- Vậy chúng tôi sẽ cùng Địch Tướng quân đi gặp Cốc Tư La.

Địch Thanh lắc lắc đầu:

- Chúng ta không phải đi đánh nhau, không cần dùng nhiềuương người như vậy. Thế này đi, Qua Binh, ngươi đem theo thủ hạ hộ tống ta cải trang vào thành. Hàn Tiếu, ngươi sẽ cùng ta một lát nữa đi gặp Cốc Tư La, như vậy ổn chưa?

Hàn Tiếu khẽ mỉm cười, đáp:

- Thuộc hạ tuân lệnh.

Mọi người biết Hàn Tiếu tuy không biết Võ Công, nhưng là người khôn khéo, tháo vát. Thấy y lúc này dám cùng Địch Thanh vào thành thì trong lòng đều rất khâm phục. Lập tức mọi người đi thu dọn, cải trang lần nữa để vào trong thành Thanh Đường, thẳng tiến đến vương cung.

Lúc gần tới vương cung, đám người Qua Binh, Lý Đinh chờ lại phía đằng xa. Địch Thanh và Hàn Tiếu tiếp tục đi tới trước cung.

Đúng giữa trưa, tường thành vương cung Tán Phổ cao sừng sững, cửa sơn son. Ánh mặt trời chiếu vào trong cung như đỉnh ngọc lưu ly, cho thấy toàn bộ vương cung xanh vàng rực rỡ, trang trọng và uy nghiêm.

Thấy Địch Thanh và Hàn Tiếu tới gần liền có binh sĩ tiến lên quát hỏi:

- Người tới là ai?

Địch Thanh chắp tay hành lễ, trầm giọng nói:

- Tại hạ là Kính Nguyên Lộ phó đô bộ thự của Tống triều Địch Thanh, xin được gặp Tán Phổ.

Binh sĩ nghe thấy tên Địch Thanh, ngạc nhiên, giật mình lùi về sau hai bước, rút đao ra. Thị vệ trước cung thấy thế đều cầm binh khí tiến lên, bao vây hai người Địch Thanh và Hàn Tiếu.

Nét mặt Địch Thanh không hề thay đổi, vẫn chắp tay hành lễ nói:

- Địch Thanh xin gặp Tán Phổ, làm phiền bẩm báo.

Đám binh sĩ liếc mắt nhìn nhau, vẻ mặt không chắc lắm. Một hồi lâu sau mới có kẻ dẫn đầu nói:

- Các ngươi trông chừng Địch Thanh, ta đi bẩm báo Tán Phổ.

Chỉ nghe một tiếng vang lên, chẳng mấy chốc đã nghe kèn trống từ xa xa vọng lại. Trong phút chốc đã đến gần Thâm cung.

Địch Thanh biết rằng hơn nửa là để thông báo người đám người Thổ Phiên trong cung đề phòng. Hắn suy đi tính lại, nhớ lại những chuyện đã xảy ra trong mấy ngày gần đây, vẻ mặt vẫn nguyên như cũ, nhưng trong lòng thấp thỏm không yên. Hắn chưa từng lo lắng cho sự an nguy của bản thân, chỉ là suy nghĩ phải trình bày như thế nào mới có thể hóa giải mọi chuyện, để Thổ Phiên, Đại Tống lại quay về tốt đẹp như trước?

Không bao lâu, trong cung có tiếng bước chân vọng tới. Người ban nãy đã lao ra cửa cung, quát lớn:

- Tán Phổ có lệnh, cho Địch Thanh yết kiến.

Địch Thanh thở phào nhẹ nhõm, cất bước đi trước, Hàn Tiếu mới định bước theo sau, tên kia đã nói:

- Tán Phổ chỉ cho một mình Địch Thanh vào cung.

Hàn Tiếu khựng lại, trong lòng lo lắng, vết thương của Địch Thanh vẫn chưa lành, giờ lại vào cung thế này, ngộ nhỡ người Thổ Phiên trở mặt thì Địch Thanh làm gì còn hy vọng sống sót trở ra?

Địch Thanh ngược lại, trấn tĩnh Hàn Tiếu nói:

- Vậy ngươi không cần đi cùng ta. Ngươi yên tâm đi, ta sẽ không có chuyện gì đâu.

Dứt lời liền đi cùng tên đó vào trong cung.

Hàn Tiếu không còn cách nào, đành quay lại tìm gặp đám người Qua Binh. Mọi người nghe Hàn Tiếu kểthì đều sốt ruột, có sức mạnh mà không có nơi để sử dụng, đành chờ đợi trong lo lắng. Lúc này Địch Thanh đã vào Thâm cung, người dẫn đường cũng đã thay đổi mấy lần.

Vương Cung Tán Phổ uy nga hùng vĩ, bên trong có rất nhiều con đường nhỏ uốn khúc như mê cung. Nếu không có người dẫn đường, người đi vào đó sẽ bị lạc bên trong. Trong cung tiếng nhạc khắp nơi không dứt, đàn hương mù mịt khiến người ta nghe cảm thấy tinh thần thoải mái, dễ chịu.

Tây tạng tuy là vùng đất lạnh giá, nhưng trong cung cây cối đa dạng, xanh mướt, tràn đầy sức sống.

Thỉnh thoảng lại có tiếng chuông đồng hồ vọng đến, như thanh âm của trời làm người ta tỉnh ngủ. Thành cung vừa dày vừa nặng, mỗi cánh cửa cung đều làm thành hình vòng cung, đã vào trong thì chỉ cảm thấy chung quanh cung điện nguy nga, khí thế cấp bách, khiến người ta thu mình lại, trong lòng chỉ còn sự tôn kính, ngưỡng mộ.

Địch Thanh không biết đã đi qua bao nhiêu cung các, giờ mới tới trước một tòa cung điện. Lúc này mặt trời ngày đông đã lên chính giữa, bầu trời trong xanh, cung điện đó tường đỏ, mái vàng, dưới cái ánh mặt trời chiếu rọi tản ra những vệt sáng đẹp lạ thường.

Cảnh đẹp giống như mơ, như tiên cảnh. Vừa to lớn lại vừa tráng lệ.

Một bậc thềm bằng ngọc trắng hướng thẳng về phía trong cung. Tận cùng bậc thềm có một ngọc tọa rất cao, một người ngồi ngay ngắn ở trên, quần áo trang nghiêm, đầu đội kim quan.

Địch Thanh từ xa xa đã trông thấy, tuy nhìn không rõ khuôn mặt người đó, nhưng đã biết, ngoài Cốc Tư La, trong cung không có người thứ hai có vẻ uy nghiêm đến như vậy.

Lạt Ma dẫn đường cũng không nói nhiều, giơ tay chỉ về phía trước, sau đó chắp hai tay, từ từ lui ra phía sau.

Trong lòng Địch Thanh vô cùng kinh ngạc, không ngờ thế này là có thể gặp được Cốc Tư La.

Trong cung điện uy nghiêm, chỉ có một mình Cốc Tư La. Lẽ nào nói Cốc Tư La hết sức thần thông, đối với chiến thần Tây Bắc hết sức coi thường? Hay là Cốc Tư La sớm đã biết Địch Thanh hoàn toàn không thể động thủ nên mới không kiêng nể gì? Hay là cái này nhìn như trên bậc thềm bằng ngọc trắng cao quý hoa lệ, có căn phòng bí mật giống như chùa Thừa Thiên, khiến cho người ta chỉ cần bước lên trên là sẽ bị diệt vong.

Địch Thanh thay đổi suy nghĩ, nhưng không thẹn với lòng mình, cuối cùng bước lên bậc thềm bằng ngọc trắng, đi vào trong cung điện.

Không có hố bẫy, không chiến lược, không hiểm ác. Ngoài điện, tiếng tụng kinh như được gió đưa nhẹ tới. Địch Thanh đã đến trước mặt Cốc Tư La ba trượng. Địch Thanh dừng bước, cúi đầu hành lễ nói:

-Tán phổ, Kính Nguyên Lộ phó đô bộ thự Tống triều Địch Thanh đến tạ tội.

Cốc Tư La trên đài cao ngắm nhìn Địch Thanh, vẫn là khuôn mặt bụi mờ, vẫn là cái vẻ hiểu thấu trò đời, đôi mắt lợi hại có một không hai.

Không biết bao lâu sau, Cốc Tư La mới cất lời:

-Phi Tuyết đâu?

Địch Thanh khẽ giật mình, không ngờ Cốc Tư La vừa cất lời đã hỏi ngay tới Phi Tuyết, hắn do dự một lát rồi nói:

-Cô ấy đi rồi.

Cốc Tư La thản nhiên nói:

-Ta biết cô ấy nhất định sẽ đi. Địch Thanh, ngươi có biết vì sao Phi Tuyết không dám đến cùng ngươi không?

Địch Thanh không hiểu vì sao Cốc Tư La lại hỏi như vậy. Trước khi đến vương cung, hắn đã nghĩ đến muôn vàn giải thích, nhưng mới chỉ hỏi thế này, hắn đã không biết phải trả lời thế nào.

Căn bản hắn hoàn toàn không biết gì về Phi Tuyết.

-Tại hạ không biết.

Địch Thanh trả lời một cách khó nhọc. Hắn biết bây giờ mỗi câu nói của hắn đều liên quan đến sự an bình của biên cương nên không thể sơ suất.

Ánh mắt Cốc Tư La đột nhiên quắc lên, nói:

-Địch Thanh, ngươi có biết lễ tế Thừa Thiên là vì cái gì?

Địch Thanh suy nghĩ một hồi lâu rồi mới trả lời:

-Nghĩ Tán Phổ cầu phúc cho dân, cho nên mới lấy máu tế trời?

Hắn không kìm được ngẩng đầu nhìn Cốc Tư La. Dù không nhìn rõ mặt Cốc Tư La, nhưng đã thấy sự mỉa mai trong ánh mắt, hắn do dự một chút rồi lại nói:

-Cụ thể thế nào, tại hạ thực lòng không biết rõ.

Cốc Tư La tựa như mỉm cười, nhưng yên lặng một hồi sau mới nói:

-Địch Thanh, ngươi có biết vì sao Phi Tuyết phải chịu chết không?

Địch Thanh chỉ biết lắc đầu nói:

-Tại hạ không biết.

Tiếng Cốc Tư La đột nhiên trở lên mạnh mẽ, nói:

-Cái này ngươi không biết, cái kia cũng không biết, nhưng lại liều lĩnh xuất hiện trong lễ tế Thừa Thiên ngăn Phi Tuyết tự sát, cản ta tế trời, làm trọng thương thủ hạ của ta, câu kết với Phi Ưng phá hủy chùa chiền, làm hỏng uy tín của ta?

Đại điện lúc này bỗng thấy lạnh lẽo, cho dù là đang trong cái nắng ấm của ngày đông nhưng cũng không thể chiếu vào trong điện. Để làm tiêu tan sự lạnh lùng trong giọng nói của Cốc Tư La, Địch Thanh cũng không hề sợ hãi, trầm ngâm nói:

-Tại hạ biết sai, nhưng mong Tán Phổ minh giám. Tại hạ vốn không cố ý. Phi Tuyết kỳ thực là bạn của tại hạ, liên tiếp cứu tính mạng tại hạ mấy lần. Bỗng nhiên thấy cô ấy tự sát, không kìm lòng nổi nên mới xuất hiện ngăn cản. Sau tất cả mọi việc, tuy vì tại hạ mà thành, nhưng là do Phi Ưng cố ý. Tại hạ xin thề với trời, tuyệt nhiên không có dã tâm phá hủy lễ tế Thừa Thiên.

“Không kìm lòng nổi”, Cốc Tư La lẩm bẩm một mình, rồi đột nhiên hỏi:

-Nhưng ngươi có biết, lần này Phi Ưng phá hủy Lễ tế Thừa Thiên, vốn là âm mưu cùng với Phi Tuyết không?

Địch Thanh kinh ngạc, kêu lên thất thanh:

-Cái này….làm sao có thể?

Trong lòng hắn rối bời, thực sự không ngờ rằng Phi Tuyết lại có liên quan tới vụ nổ. Nhưng nghĩ lại, Phi Tuyết, Phi Ưng vốn quen biết nhau…Phi Ứng tới Tây Tạng, Phi Tuyết cũng nối gót mà đi. Chẳng lẽ, hai người này tới Tây Tạng vì cùng một mục đích?

Bất chợt nhớ đến lúc ở trong mật thất từng nghe Phi Tuyết nói: “Chuyện này…vốn là do ta mà ra”. Lúc đó, khi Địch Thanh nghe thấy câu này, nhưng lại không suy nghĩ gì nhiều. Nhưng đến giờ ngẫm lại, mới phát hiện trong câu nói của Phi Tuyết có hàm ý sâu sắc.

Ánh mắt Cốc Tư La sắc nhọn, nhìm chằm chằm vào Địch Thanh rồi nói:

-Phi Ưng một mực cố xin ta cho vào Hương Ba Lap lấy một vật quan trọng, nhưng bị ta cự tuyệt, nhưng y cũng không từ bỏ ý định. Lúc này lợi dụng Phi Tuyết lừa gạt ta. Phi Tuyết đến tìm ta trước, nói cam tâm vì ta tự sát để ta tế trời. Ta đã tin cô ta, nhưng cô ta lại muốn lợi dụng lúc dàn tế nổ tung sẽ lẻn vào Hương Ba La đánh cắp đồ.

Địch Thanh mặt mày xanh mét, lúc lâu sau mới nói:

-Phi Tuyết cô ấy…

Hắn thực sự muốn giải thích cho Phi Tuyết một hai câu, nhưng hắn có thể nói được gì đây? Hắn cũng không biết vì sao Cốc Tư La nói với hắn những chuyện này. Một lúc sau, hắn mới hỏi:

-Vì sao người tin cô ấy?

Cốc Tư La chậm rãi trả lời:

-Bởi vì trên đời này, ngoài ta ra, e là chỉ có cô ta mới giúp được ta.

-Cô ấy có thể giúp người?

Địch Thanh khổ tâm hỏi lại.

Màn sương trên mặt Cốc Tư La đột nhiên như tan ra, lộ ra vẻ giản dị thường ngày, nhưng chỉ trong giây lát gương mặt đó lại mơ hồ trở lại.

Trong lúc đó, Địch Thanh đã để ý thấy vẻ mặt Cốc Tư La rất thổn thức, rồi lại nghe Cốc Tư La nói:

-Cô ta có thể giúp ta tìm một người.

Địch Thanh lấy làm lạ, không làm sao có thể gắn kết được chuyện tế Thừa Thiên và việc tìm người. Thấy Cốc Tư La không nói gì thêm nữa, Địch Thanh chỉ có thể hói:

-Vật mà Phi Ưng muốn đó là gì?

Cốc Tư La trả lời:

-Chính là pháp khí tế trời.

Địch Thanh rùng mình, nghĩ tới vật mà bốn vị thầy tu nâng lên, cũng đã rõ vì sao Phi Tuyết phải tham gia vào lễ tế Thừa Thiên. Tuy nói rằng không cấm người từ các nước đến hành lễ, nhưng không ai mà không được sự cho phép của các phật tử mà dám tự tiện lên đài. Phi Tuyết đã lấy danh vì hiến tế mà tiếp cận Cốc Tư La, không phải là muốn thừa cơ lấy đi pháp khí tế trời? Nhưng pháp khí ấy quá nặng, làm sao Phi Tuyết có thể lấy được?

Cốc Tư La dường như nhận ra Địch Thanh nghi ngờ, liền nói:

-Pháp khí tuy nặng, nhưng chúng chỉ cần lấy một vật bên trên là được. Lúc đó, ta cũng không còn có thể sử dụng pháp khí nữa, và bọn chúng có thể ra điều kiện với ta.

Địch Thanh trầm xuống, cảm thấy lời nói của Cốc Tư La rất có lý. Nói như vậy…Không đợi nghĩ lâu thì nghe thấy Cốc Tư La nói:

-Kết quả, ngươi lại liều lĩnh xông lên, nhìn có vẻ như là cứu Phi Tuyết, nhưng kỳ thực lại phá hỏng kế hoạch của bọn chúng. Phi Tuyết sẽ không cảm ơn ngươi đâu.

Địch Thanh trong lòng tràn đầy đau khổ, hắn biết rằng Cốc Tư La nói không sai. Hóa ra đây là một vở kịch. Hắn tựa như cứu Phi Tuyết nhưng lại thành ra làm hại nàng. Hắn đi sứ Thổ Phiên, nhưng lại đắc tội với Cốc Tư La. Hắn đã trải qua nhiều gian khổ, trở về từ cõi chết, lại phát hiện ra tất thảy những việc đã làm đều không có ý nghĩa gì.

Cốc Tư La từ trên đài cao hỏi xuống:

-Địch Thanh, bây giờ ta chỉ muốn hỏi ngươi một câu, nếu như có lại cơ hội một lần nữa, ngươi đã biết rõ mọi chuyện, ngươi sẽ vẫn lên dàn tế cứu Phi Tuyết chứ?

Lời đã nói ra, nhưng tim thì ngưng lại.

Địch Thanh vừa nghe Cốc Tư La hỏi thì ngẩn ra ở đó. Nếu như lại xảy ra một lần nữa, liệu hắn có lựa chọn ra tay hay không? Hay hắn sẽ vẫn liều lĩnh ra tay? Đắc tội với Phật tử, đắc tội với người Thổ Phiên, đắc tội với Phi Ưng? Phá hỏng kế hoạch của Phi Tuyết? Làm một việc không có ý nghĩa gì?

Đây vốn là một câu nói không cần phải lựa chọn. Vì sao Cốc Tư La lại hỏi câu này?

Những chuyện trong quá khứ mờ như sương, từng cảnh, từng cảnh…

Chẳng biết vì sao, Địch Thanh nhớ tới mấy ngày ở trong căn phòng bí mật, trong lòng không hề hối hận, không hề tiếc nuối, thậm chí không oán hận. Hắn nhìn Cốc Tư La, bình tĩnh nói:

-Tại hạ vẫn sẽ ra tay.

 Chương 355 - 360: Đa Ma

Cốc Tư La ở trên đài cao, dáng vẻ như là đang đối phó với mọi vấn đề, nghe Địch Thanh nói như vậy cũng không khỏi giật mình, nháy mắt hỏi:

-Ngươi có biết ngươi đang nói gì không?

Địch Thanh ngẩng đầu, ưỡn ngực ra, nhìn Cốc Tư La nói:

-Tán Phổ, Địch mỗ vốn xuất thân binh nghiệp, ít đọc sách, rất nhiều chuyện không hiểu biết, không biết ý nghĩa của lễ tế Thừa Thiên là ở chỗ nào, nhưng tại hạ nghĩ cái quý của Thừa Thiên là ở sự thành tâm. Nếu không thành tâm, thành ý thì e là trời xanh cũng không thể cảm nhận được lòng thành của người. Phi Tuyết đã không hề thật lòng hiến tế, do đó cũng vô bổ. Nếu như tại hạ biết, nhất định sẽ ra tay ngăn cản cô ấy. Tại hạ tuy mạo phạm thần linh, nhưng là do không cố ý. Trời xanh bao la, thần linh có dung tuyệt đối sẽ không vì một chuyện nhỏ mà chấp nhặt, trách tội tại hạ.

Ánh mắt Cốc Tư La hiện lên sự vui vẻ, thản nhiên nói:

-Ngươi nói thế, có phải là ám chỉ ta không? Nếu ta vẫn trách tội ngươi, nghĩa là ta không đủ cái tâm?

Địch Thanh vội nói:

-Địch mỗ không dám.

Cốc Tư La thong thả nói:

-Ngươi nói thật ra rất có lý. Kỳ thực có lúc đối với người thông minh không cần nói gì nhiều. Nhưng trên đời này, người thông minh lại không nhiều. Trang Tử của các ngươi đều nói: “nhập tục nào thì theo lệnh đấy”, cũng là cách thường nói: nhập gia tùy tục. Có một số quy tắc, ngươi cho dù biết không ổn nhưng cũng không thể thay đổi, cho dù ngươi biết rõ là không đúng, nhưng cũng nhất định phải nói rõ cho mọi người.

Địch Thanh không ngờ Cốc Tư La dù ở vùng Tây Tạng, nhưng rất thông thái. Cốc Tư La biết câu mà Trang Tử nói. Địch Thanh cũng không hiểu rõ, nhưng hắn biết ý trong câu nói của Cốc Tư La không phải ám chỉ hắn phá vỡ quy tắc thì phải bị trừng phạt. Cốc Tư La tuy ở Tây tạng xưng Vương, nhưng cũng phải tuân thủ quy tắc như nhau, nếu không làm sao khiến dân phục? Địch Thanh nghĩ tới đây, nói:

-Tán phổ, Địch mỗ có sai, nguyện cam chịu xử phạt.

Cốc Tư La nhìn Địch Thanh hồi lâu, giống như đang trầm tư, lại giống như xuất thần, một hồi lâu đột nhiên nói:

-Ta kể cho ngươi nghe câu chuyện, thấy thế nào?

Địch Thanh lấy làm bất ngờ, không hiểu dụng ý của Cốc Tư La. Trên thực tế từ sau lúc vào cung hắn chưa từng đoán trúng ý của Cốc Tư La. Vốn dựa vào những suy nghĩ của Địch Thanh, hắn sai lầm quá nhiều. Lần này vào cung thỉnh tội, đám người Cốc Tư La, Thiện Vô Úy nhất định sẽ nghiêm khắc trừng phạt, coi như giương cung bạt kiếm, chứa nhiều rắc rối, thậm chí không thể gặp Cốc Tư La cũng là hợp tình hợp lý. Nhưng hắn vẫn cứ dễ dàng gặp được Cốc Tư La, mà dường như Cốc Tư La không hề có ý trách cứ. Cốc Tư La hỏi Phi Tuyết, giải thích âm mưu của Phi Ưng, và nói chuyện về Trang Tử, những điều này khiến Địch Thanh nói năng lung tung. Lúc này Cốc Tư La lại còn muốn kể cho hắn nghe câu chuyện?

Cốc Tư la rốt cuộc muốn làm gì?

Trong lòng Địch Thanh hoang mang, nhưng nghĩ được nghe câu chuyện còn tốt hơn là bị ăn roi da, nên cười đáp:

-Vậy tại hạ xin được rửa tai lắng nghe.

Ánh mắt Cốc Tư La nhìn xa xa, nhìn lên bầu trời xanh thẳm như có điều suy nghĩ, nói:

-Rất lâu… rất lâu trước kia, khi đó…khi đó ngươi và ta còn chưa có mặt trên thế gian này, có một đôi tình nhân vì nguyên nhân bất đắc dĩ mà bị bắt chia tay nhau. Từ đó về sau, biển người rộng lớn, trời đất bao la nên cũng không thể gặp lại nhau.

Địch Thanh vô cùng ngạc nhiên, không hiểu dụng ý của câu chuyện này ở chỗ nào. Nhưng nghĩ đến mình và Vũ Thường nên không kìm nén nổi nỗi đau trong lòng.

Cốc Tư La nói tiếp:

-Vậy.. cô gái nhé. Có thể cho là cô gái… Nàng một lòng muốn tìm được người yêu. Do đó trải qua bao gian khổ, hơn mười năm ngày nào cũng như ngày nào đi tìm kiếm người bạn đời. Giữa họ tuy không có định ước, nhưng nàng biết rằng chàng trai cũng không từ bỏ việc đi tìm nàng.

Địch Thanh thật sự lấy làm lạ, không hiểu Cốc Tư La nói “có thể cho là cô gái” là ý nghĩa gì? Nam thì là nam, nữ thì là nữ, Cốc Tư La vì sao không dám khẳng định? Nhưng sự hiếu kỳ trong lòng hắn nổi lên, đành yên lặng chờ Cốc Tư la nói tiếp.

Cốc Tư La nói tiếp:

-Người con gái đó tìm rất nhiều năm nhưng hoàn toàn không tìm thấy tung tích của người bạn đời, nên vô cùng thất vọng. Nàng đi lại bị khập khiễng, chỉ có thể nhờ người bên cạnh đi tìm kiếm. Sau đó nàng gặp được một người, gọi là Đoàn Tư Bình, cô gái hứa lấy vật chất giúp hắn lập quốc, nhờ hắn giúp tìm kiếm người bạn kia.

Địch Thanh nghe đến đây thì rất ngạc nhiên, thầm nghĩ cô gái này có bản lĩnh cao cường vậy sao? Có thể giúp người khác hưng quốc? Cô gái này nếu như thật sự có năng lực như vậy, chắc chắn phải nổi tiếng trong thiên hạ. Người bạn của cô gái nếu như không phải là đã chết thì sao không thể tìm thấy cô? Đoàn Tư Bình, Địch Thanh cảm thấy cái tên này nghe quen quen.

Cốc Tư La lại nói:

-Đoàn Tư Bình đồng ý với cô gái, chỉ cần cô gái có thể giúp y lập quốc, y nhất định sẽ tìm ra được người yêu cho cô. Nhưng mãi cho tới khi Đoàn Tư Bình chết đi, vẫn chưa hoàn thành tâm nguyện của cô gái.

Địch Thanh cảm thấy chua xót, trong lòng không khỏi nghĩ tới chuyện mình và Vũ Thường.

Đời này kiếp này cuối cùng Vũ Thường có thể gặp lại hắn một lần không?

Hồi lâu không nghe Cốc Tư La nói gì nữa, Địch Thanh không kìm nén nổi, hỏi:

-Tán Phổ, sau đó thế nào?

Cốc Tư La trầm lặng một hồi lâu mới nói:

-Sau đó cô gái…cứ đợi mãi, nhưng cuối cùng Đoàn Tư Bình đã không ithực hiện được lời hứa, do vi phạm lời hứa nên không có cái kết tốt đẹp, mà y tự tay đánh bại vương quốc. Tuy vẫn còn tồn tại trên thế gian, nhưng không được truyền ngôi cho huyết thống, mà còn bị huynh đệ soán vị, cho tới tận ngày hôm nay.

Trong đầu Địch Thanh như có dòng diện chạy qua, bỗng nhiên nhớ ra Đoàn Tư Bình là ai. Trong lòng tràn đầy ngạc nhiên, Địch Thanh kinh ngạc nói:

-Tán Phổ, Đoàn Tư Bình mà người nói, không lẽ là ông vua khai quốc Đại Lý?

Nếu ngày nay thiên hạ chia thành Khiết Đan, Tống, Hạ, Thổ Phiên, Đại Lý. Vùng đất của Đại Lý quốc ở ngoài biên cương, luôn không hề tranh giành quyền thế. Có thể nói trong cuộc tranh giành giữa năm nước thì Đại Lý lập quốc là nước ít tham gia nhất. So với Triều Tống, Triệu Khuông Dận xưng đế sớm hơn 20 năm, nhưng vị vua khai quốc Đại Lý lại chính là long mã thần thương Đoàn Tư Bình.

Đoàn Tư Bình thân là vua khai quốc, lại vì Đại Lý tôn sùng Phật giáo, những câu chuyện truyền kỳ về bản thân thậm chí còn nhiều hơn cả Triệu Khuông Dận. Thái tổ Đại Tống Triệu Khuông Dận và huynh đệ đã dựa vào song côn tứ quyền đánh hạ bốn trăm quân triều Tống. Mà trong truyền thuyết Đoàn Tư Bình còn được trời ban thần thương long mã, tung hoành Nam Chiếu, đánh đâu thắng đó, đánh hạ cả biên giới Đại Lý.

Năm đó Triệu Khuông Dận ngạo nghễ thiên hạ, nam chinh bắc chiến, sau khi diệt Hậu Thục, đại tướng Tống là Vương Toàn Bân từng thỉnh cầu tấn công Đại Lý, giúp Triệu Khuông Dận bình định Nam cương. Khi đó Đoàn Tư Bình đã chết, nhưng uy lực của Đại Lý Đoàn Thị vẫn còn, nghe nói Triệu Khuông Dận biết sau khi đại tướng dưới quyền xin tha mạng cho, thứ nhất là vì đang đối phó Khiết Đan ở phương Bắc, thứ hai là vì lo lắng uy lực của Đại Lý Đoàn Thị dũng mãnh, sự phiền toái của Nam Chiếu man di, vì vậy mà lấy chiếc búa ngọc trên trời hạ xuống bản đồ vùng biên giới, vẽ một đường dọc theo sông Đại Độ, nói gì nhỉ: “Ngoài ta ra không ai có”, nhưng Triệu Khuông Dận giải thích cho đám quần thần không tấn công Đại Lý rằng: “Lấy đạo đức cảm hóa con người trong khả năng, man di tự thi hành.”

Từ sau đó, triều Tống tuân thủ gia pháp tổ tông. Đại Lý, triều Tống không vi phạm lẫn nhau, hòa bình gắn bó nhiều năm, nhưng vị vua khai quốc Đại Lý Đoàn Tư Bình càng vì chuyện Tống vung búa ngọc bị người Trung Nguyên biết đến.

Địch Thanh tuy ít đọc sách, cũng biết Đoàn Tư Bình, nhưng làm thế nào hắn cũng không thể nghĩ ra được câu chuyện Cốc Tư La kể lại có liên quan tới Đoàn Tư Bình. Nghĩ lại lại nghĩ, nghe nói sau khi Đoàn Tư Bình chết, ngôi vị được truyền lại cho con trai là Đoàn Tư Anh, nhưng nghe tin Đoàn Tư Anh ngồi chưa nóng chỗ thì bị người chú Đoàn Tư Lương buộc phải thoái vị làm tăng ni. Ban nãy Cốc Tư La nói “Đoàn Tư Bình vi phạm lời hứa nên không có cái kết tốt đẹp”. Vương quốc tuy còn tồn tại trên thế gian, nhưng không được truyền ngôi cho huyết thống”, nói mãi chính là nói chuyện này.

Cốc Tư La nghe Địch Thanh hỏi, lại im lặng hồi lâu rồi mới nói:

-Không sai, Đoàn Tư Bình trong câu chuyện mà ta kể chính là vị vua khai quốc Đại Lý.

Địch Thanh bối rối không hiểu, tạm thời gác lại ân oán ngày xưa, hỏi:

-Tán Phổ, lượng thứ cho tại hạ ngu muội, người bỗng nhiên nhắc đến chuyện trước kia của Đoàn Tư Bình.. rốt cuộc..”.

Hắn muốn nói nhưng lại dừng, ngụ ý là với tôi có liên can gì?

Cốc Tư La cười nói:

-Rất nhiều chuyện nhìn thì thấy không có liên quan, nhưng sau này ngươi hãy thử suy nghĩ sẽ biết có liên quan hay không.

Y vung tay lên, có một vệt sáng về hướng Địch Thanh, nói:

-Cuốn sách này, ngươi có thể xem qua.

Địch Thanh thấy Cốc Tư La không có dấu hiệu vẫy tay, lúc này mới nhớ ra hai bên vẫn còn ân oán, trong lòng hơi run. Cốc Tư La còn chưa dứt lời, vệt sáng kia đã đánh tới trước mặt Địch Thanh. Ánh mắt Địch Thanh nhạy bén, đã phát hiện ra vệt sáng kia chính là cuốn sách mỏng mỏng.

Địch Thanh xoay cổ tay, dễ dàng bắt được cuốn sách. Chạm tay vào hơi lạnh, lúc này mới phát hiện ra cuốn sách mỏng manh kia chính là dùng bạch kim làm thành, mà trên bìa cuốn sách dùng vàng khảm bốn chứ thật to: Kim thư huyết minh.

Bên cạnh bốn chữ đó lại có mấy chữ nhỏ nhỏ, viết là: thông hải tiết độ sứ Đoàn Tư Bình tự lập ra.

Địch Thanh nhìn cuốn sách đúng là do từng tờ từng tờ bạch kim đóng thành, dùng vàng khảm chữ, một cuốn sách có thể nói là vô giá, đột nhiên nhớ lại năm đó Quách Tuân từng đưa cho hắn một phong thư, trong thư viết: “Muốn đi Hương Ba Lạp, buộc phải tìm Điệp Mã.” Bức thư này cũng dùng bạch kim làm đế, dùng vàng khảm chữ nên không khỏi kinh ngạc, thầm nghĩ lẽ nào nói bức thư của Quách Tuân kia vốn từ Thổ Phiên đưa tới? Hay là từ Đại Lý mà tới?

Bỏ qua suy nghĩ, Địch Thanh đã lật trang sách, xem nội dung ở trang đầu tiên của cuốn sách, đột nhiên giật mình, nét mặt tái xanh, suýt làm rơi cuốn sách xuống đất.

Trang đầu tiên của cuốn sách không có chữ nào, mà chỉ vẽ một pho tượng phật.

Pho tượng phạt eo nhỏ thướt tha với chuỗi ngọc trang nghiêm, chỉ có điều gương mặt trống rỗng. Tượng phật này dường như Địch Thanh đã từng nhìn thấy.

Bức vẽ trong cuốn sách chính là tượng phật không mặt.

Tượng phật này Địch Thanh từng nhìn thấy ở Crân Tông Huyền cung, nhìn thấy trong mơ, không ngờ hôm nay lại có thể được nhìn, lẽ nào bức tượng phật không mặt này thật sự có nguồn gốc gì? Nếu không thì vì sao mà đại Tống Crân Tông và Đại Lý vương Đoàn Tư Bình đều có ghi chép lại? Trong lòng Địch Thanh chán nản, không kìm nén được về phía Cốc Tư La. Cốc Tư La chỉ nói:

-Ngươi hãy xem trước đi.

Địch Thanh tay cầm cuốn sách có chút run rẩy, lật qua trng thứ hai, thấy vẫn là vẽ một bức hình, bức hình đó vẽ hai người đối lập nhau, một người là tượng phật không mặt kia, người còn lại là một người có bộ dạng của tướng quân. Tướng quân kia một chân quỳ dưới đất, vẻ mặt rất cung kính tượng phật kia.

Giữa hai người này đặt một khay bằng ngọc, trên khay ngọc có một bãi máu màu đỏ sẫm. Người tướng quân đó chìa tay trái ra, ngón trỏ đang chảy máu, bờ môi cũng bôi đỏ.

Trong trang sách tuy chỉ có một bức vẽ nhưng trông rất sống động, sống động một cách phi thường. Địch Thanh ngừng nghĩ đến việc mặt dưới của bạch kim làm sao có thẻ làm ra được bức tranh sinh động thế này, mà chỉ nghĩ theo những lời Cốc Tư La nói, Đoàn Tư Bình từng có một lời hứa với người con gái kia. Cuốn sách này nếu như do chính Đoàn Tư Bình làm thì đây chắc là một bức vẽ để bày tỏ rõ.

Cố nhân uống máu ăn thề, xem việc lấy máu lau môi biểu thị cho việc giữ lời hứa, với ý nghĩa thật tâm một lòng. Lẽ ra Đoàn Tư Bình nên thề với người con gái kia, vì so lại biến thành uống máu ăn thề với tượng phật không mặt này?

Trong lòng mang đầy hoài nghi, nhìn thấy bên dưới bức vẽ có một hàng chữ nhỏ “uống máu vì thề, thề với trời, nếu có lòng khác, giang sơn sẽ thành hư không.”

Địch Thanh nhíu mày, lại lật qua một trang, nhìn mấy hàng chữ viết lít nhít ở bên trên: “Thần dư bản Nam Chiếu, phong quan Thông hải tiết độ sứ, được quốc chủ coi trọng, trong lòng cảm ơn. Vậy thì gian thần giữa đường, trước có Trịnh Mãi Tự làm loạn, sau có Triệu Thiện Chính bất trung, lại thêm Dương Can Trinh vì loạn mà nhầm lẫn lung tung khiến dân chúng lầm than, ngoài ra còn có chí cứu dân thời loạn. Ngày nay ngoài việc uống máu ăn thề, nếu có thể thành chuyện, nhất định giữ lời hứa, mãi mãi không vi phạm lời thề.

Cốc Tư La dường như biết Địch Thanh không hiểu rõ chuyện ngày trước, giải thích nói:

-Đất nước khi thời Đương Nam Chiếu các vùng đất xung quanh Vân Nam, do Mông Thị đương quyền thống lĩnh các tộc. Đoàn Gia vốn đều là trọng thần của Nam Chiếu. Sau này Nam Chiếu suy sụp, có Trịnh Mãi Tự đã diệt hơn tám trăm người hoàng tộc Mông Thị, tự lập thành Vương, xưng làm Đại Trường Hòa quốc. Triệu Thiện Chính vốn là quan thanh bình Đại Trường Hòa quốc, cũng tương đương với Tể tướng của triều Tống, liên minh với Đông Xuyên Tiết độ sứ Dương Can Trinh giết hại gia tộc Trịnh Thị, lại lập nên Đại Thiên Hưng quốc. Tuy nhiên sau đó Dương Can Trinh lại từ bỏ Triệu Thiện Chính, tự lập xưng đế. Đoàn Tư Bình là sau khi bức tử Dương Can Trinh lập nên Đại Lý.

Chỉ mấy câu ít ỏi của Cốc Tư La đã phác thảo được sự thăng trầm của Nam Chiếu.

Địch Thanh nhìn máu thề của cuốn sách vàng kia, phảng phất nhìn thấy huyết khí giết choc lan tràn, binh qua khói lửa ngập tràn. Hắn lại lật sang một trang, thấy trang đó viết: “ Năm hưng thánh nguyên, được trời giúp thần lực, không thể tin nổi.”

Trang này tuy chỉ có mấy từ đơn giản, Địch Thanh xem mà xao động trong lòng, lại lật sang một trang nữa, thấy bên trong viết: “ Năm Hưng Thánh thứ hai, có được thần thương long mã, lòng người quy thuận…Thần nữ quả không bắt nạt ta.”

Địch Thanh không biết thần thương long mã rốt cuộc có sự thần kỳ gì, nhưng nghĩ Đoàn Tư Bình muốn ghi chép sâu đậm, khẳng định có chỗ kỳ lạ, mà trong cuốn sách ghi lại “Thần nữ”, thì đương nhiên là người con gái mà Cốc Tư La đã nói.

Thần nữ? Người con gái này có năng lực gì?

Địch Thanh đã cảm thấy ghi chép trong cuốn sách và bản thân có liên quan, tim không khỏi đập thình thịch. Tiếp tục mở trang nữa, phát hiện cuốn sách ghi chép nhiều về câu chuyện thần kỳ trước kia của Đoàn Tư Bình.

Nhìn từ những ghi chép trong cuốn sách, từ lúc sau khi Đoàn Tư Bình uống máu lập thề với tượng phật không mặt kia thì đích thực không có chuyện gì không thuận lợi, đánh đâu thắng đó, phát sinh một sự việc rất thần kỳ trong con người Đoàn Tư Bình, đó là có dân chúng mục đồng chăn thả gia súc trong núi, từng nghe trâu ngựa nói chuyện với nhau, nói cái gì nhỉ: “Tư Bình là Vương, Tư Bình là Vương!”. Khi đó quân thần Nam Chiếu sùng bái phật giáo, thấy trời xuất hiện dị tướng thì không khỏi chấn động một thời. Câu chuyện này có thể nói là vì những người dân sau này của Đoàn Tư Bình tâm quy thuận tạo nên nền móng vô cùng tốt đẹp.

Sau đó thế lực của Đoàn Tư Bình lớn dần, được bách tính ủng hộ, lại thuận lợi trong việc liên minh với ba mươi bảy bộ. Sau đó có chuyện càng thần kỳ hơn, đó là Đoàn Tư Bình cuối cùng khi tấn công Dương Thị hoàng thành gặp thủy nạn, có trọng binh ngăn cản đường đi. Lúc này giữa dòng sông xuất hiện nữ thần chỉ cho con đường bí mật, đồng thời bầu trời xuất hiện nhiều sương mù, Đoàn Tư Bình lợi dụng cơ hội vượt qua dòng nước, giành toàn thắng. Một trận chiến đã tiêu diệt quân đội chủ lực của Đại Nghĩa Ninh quốc Dương Thị, tiến tới tiêu diệt lực lượng Dương Thị, xưng đế lập quốc.

Địch Thanh xem đến đây, trong lòng thầm nghĩ: “từ xưa tới nay, quân vương khai quốc vì xây dựng uy tín, đa phần sẽ thần hóa bản thân. Hai câu chuyện thần kỳ được ghi chép lại trong cuốn sách, hoặc là Đoàn Tư Bình âm thầm thao túng, nói không chừng cố làm ra vẻ huyền bí để khích lệ tinh thần binh sĩ, nhưng nếu như cuốn sách này là do Đoàn Tư Bình tự tay viết, song lại không được lưu truyền, thì Đoàn Tư Bình không có lý gì để lại viết những điều giả dối này lên. Nói như vậy thì…Những câu chuyện thần kỳ được ghi chép trong cuốn sách là rất đáng tin cậy. Nhưng thư minh của cuốn sách vàng mà Đoàn Tư Bình tự tay viết tại sao lại rơi vào tay Cốc Tư La? Mà Cốc Tư La đưa mình xem cuốn sách này là có dụng ý gì?

Lúc này Địch Thanh lật tới trang cuối cùng của cuốn sách thì thấy trước mắt chỉ là một màu máu đỏ. Địch Thanh kinh ngạc, chăm chú nhìn lại, mới phát hiện trang cuối cùng trong cuốn sách không phải màu bạch kim, mà là màu máu đỏ thẫm.

Mà trong màu máu đó có mấy chữ màu đen viết: “Lời thề chưa xong, con cháu có kinh sợ, để tránh đại họa, phải tránh vị để làm tăng ni.”

Địch Thanh kinh ngạc nhìn mấy chữ đó, nhất thời không thể hiểu ý nghĩa của chúng.

Gấp lại cuốn sách vàng, Địch Thanh phảng phất như thấy cuộc đời của Đoàn Tư Bình. Nếu có hiểu được, thì càng thấy là hoang mang nhiều.

Cốc Tư La thấy Địch Thanh đã xem xong cuốn sách vàng về lời thề máu, mới nói:

-Sau khi Đoàn Tư Bình chết, cuối cùng vẫn chưa hoàn thành lời thề. Lúc này mới lập ra huấn thị cho con cháu. Nếu có đại nạn, thì phải thoái vị làm tăng ni, sám hối sai lầm. Quân vương Đại Lý quốc là người không yêu giang sơn bằng yêu tăng ni, hơn phân nửa là do tổ tông cảnh báo.

Địch Thanh trả lại cuốn sách vàng, hỏi:

-Không biết Tán Phổ kể câu chuyện này cho tại hạ nghe là có dụng ý gì?

Trong lòng hắn đã lờ mờ có đáp án, nhưng lại không dám khẳng định.

Cốc Tư La nhìn Địch Thanh một hồi lâu sau mới nói:

-Ta chỉ muốn nói với ngươi, có những lúc có việc dù lấy máu ăn thề cũng không thể thành. Có một số lời thề vốn không cần thề thốt gì.

Rồi hắn đột ngột chuyển chủ đề:

-Địch Thanh, ngươi lần này đến Thanh Đường là vì lẽ gì?

Địch Thanh cảm giác Cốc Tư La có hàm ý gì hơn thế, nghe Cốc Tư La hỏi chuyện đi sứ, tạm thời gác lại nghi hoặc, tinh thần chấn động lên đáp:

-Tại hạ phụng mệnh Thiên tử đại Tống, đến đây với mong muốn cùng Tán Phổ phân hướng xuất binh cùng tấn công Nguyên Hạo. Nếu Tán Phổ có thể xuất binh tấn công các châu Tây Nam Qua, Sa, Băng của nước Hạ, Đại Tống có thể xuất binh tấn công các vùng khác như Ngân, Hồng, Hữu, cùng nhau hô ứng, có thể khiến Nguyên Hạo khó mà có thể chú ý hết mọi mặt, ngăn chặn kế hoạch xâm lược phía Nam, tấn công phía Đông của Nguyên Hạo

Cốc Tư La thản nhiên nói:

-Ngươi cho là ta sẽ xuất binh sao?

Địch Thanh hơi chút trầm ngâm, đáp:

-Tại hạ nghĩ Tán Phổ sẽ không bỏ qua cơ hội này.

-Tại sao?

Cốc Tư La bình tĩnh hỏi.

Địch Thanh nhớ lại lời Nguyên Hạo đã từng nói, trầm giọng đáp:

-Vì tại hạ từng nghe Nguyên Hạo nói, Tán Phổ luôn muốn gây phiền phức cho gã. Tán Phổ càng muốn chiếm đoạt hai châu Qua, Sa. Sự việc này vốn là việc hai bên cùng có lợi, tại hạ nghĩ Tán Phổ không nên bỏ qua.

Cốc Tư La dường như cười, lẩm bẩm nói: “Nguyên Hạo đã từng nói? Không sai. Hắn chắc chắn là người hiểu ta nhất”. Nhìn ra ngoài điện, trong ánh mắt Cốc Tư La có chút kỳ quái, nói:

-Điều ngươi muốn tất đã biết được. Ta muốn giành lại hai châu Qua, Sa, chính là vì muốn đi Hương Ba Lạp.

Địch Thanh hơi chấn động, không ngờ Cốc Tư La nói thẳng thế, chỉ gật gật đầu.

Cốc Tư La lạnh nhạt nói:

-Người trên đời này muốn tới Hương Ba Lạp, hoặc vì cầu tài, hoặc cầu thế, hoặc cầu trường sinh bất lão, hoặc cầu cơ nghiệp thiên thu, đương nhiên cũng có kẻ giống ngươi, là vì người con gái yêu trong lòng.

Nét mặt Địch Thanh biến sắc, không hiểu vì sao Cốc Tư La biết chuyện này, Chẳng lẽ Cốc Tư La đúng như lời Phi Tuyết đã từng nói, là người có lòng thần thông? Nghe Cốc Tư La lại nói:

-Mục đích của tất cả mọi người đi tới Hương Ba Lạp, chung quy cũng vì ba chữ: “Có điều cần cầu”. Nhưng mục đích của ta tới Hương Ba Lạp khác với những người khác.

Địch Thanh không hiểu, thầm nghĩ nếu như Cốc Tư La thật sự không có cầu điều gì, thì tại sao không tiếc khai binh? Cũng muốn phải cố ý đoạt về hai nơi là Qua và Sa?

Giọng điệu Cốc Tư La có phần thổn thức:

-Kỳ thực nhiều năm trước ta đã từng phái Bất Không đi gặp Thái hậu, chuẩn bị làm cái kiến nghị của ngươi ngày hôm nay. Khi đó Nguyên Hạo như cánh chim không gió, lại bị ta đánh bại ở Sông Tông Ca. Sĩ khí xuống thấp, có thể nói là chúng ta có cơ hội tốt ngàn năm mới có. Tiếc rằng Thái hậu không quan tâm tới việc dùng binh dẫn đến sự việc bất thành. Hiện giờ Tam Xuyên Khẩu, Hảo Thủy Khẩu của Đại Tống hai lần thất bại thảm hại, lúc này mới cảnh giác, muốn liên kết với Thổ Phiên. Nhưng thời cơ đã qua, thế lực người Hạ đang là tiên phong, lại muốn khai binh, khẳng định sẽ phải dùng khí lực gấp mấy lần.

Địch Thanh hối tiếc, nói:

- Mất bò mới lo làm chuồng, vẫn còn chưa muộn, vẫn mong Tán Phổ gác lại khúc mắc ngày trước, lấy đại cục làm trọng.

Cốc Tư La trầm ngâm một lúc, thở dài nói:

-Ta có thể bỏ qua, nhưng lần này hai bên liên kết liệu có thành Hay không, hay là con số chưa biết?

Địch Thanh không hiểu, nói:

-Chẳng lẽ Tây Tạng còn điều gì cản trở sao?

Cốc Tư La tránh không trả lời, nói:

-Mấy ngày trước ta sớm đã dâng thư cho Thiên tử triều đình các ngươi nói về chuyện liên minh, muốn mời chính ngươi lãnh đạo đội quân cùng quân của ta kết hợp tác chiến, tấn công chiếm hai nơi Qua, Sa. Nghĩ là chắc phải qua vài ngày triều đình các ngươi sẽ có hồi âm, không thì thế này, Địch Thanh, tạm thời ngươi lưu lại Thanh Đường chờ tin tức, không biết ý ngươi thế nào?

Địch Thanh vui mừng khôn xiết, không ngờ Cốc Tư La thông suốt đến thế. Bao nhiêu những sự việc phiền phức đều không bàn tới. Chợt thấy có chút kỳ lạ, thầm nghĩ bản thân bị nhốt trong phòng kín, sinh tử cận kề. Cốc Tư La vì sao vẫn dâng thư xin Đại Tống phái Địch Thanh hắn lãnh đạo đội quân? Cốc Tư La sớm biết rằng hắn có thể ra, hay còn có mưu đồ gì khác?

Sự việc đến như ngày hôm nay, Địch Thanh không ngờ phức tạp thế:

- Như thế cũng tốt, chỉ là không biết Phú Bật Phú đại nhân hiện giờ đang ở nơi nào?

Hăn đến vương cung vốn chính là vì ứng cứu Phú Bật. Thấy Cốc Tư La rất dễ nói chuyện, không kìm được hỏi.

Cốc Tư La nói:

-Phú đại nhân đang ở trong cung. Sau khi ngươi ra khỏi điện, sẽ có người dẫn ngươi tới gặp ông ta.

Địch Thanh hành lễ rồi lui khỏi Đại điện. Thấy ngoài điện không xa có một người đang đứng, vẻ mặt hồng hào, râu ngắn từng sợi như cậy kim đang mỉm cười với hắn. Địch Thanh nhìn thấy người đó, vừa mừng vừa lo, vội tiến hia bước nói:

-Vương thần y, sao lại là ngươi?

Địch Thanh có năm mơ cũng không thể ngờ người đang đứng ngoài điện k lại là thần y Vương Duy Nhất trong kinh.

Từ lúc từ biệt ở trong kinh, Địch Thanh và Vương Duy Nhất đã hơn một năm không gặp lại. Vốn cho rằng Vương Duy Nhất vẫn đang ở trong đại nội Biện Lương, nào ngờ gã lại chạy tới vùng Tây Tạng giá lạnh khủng khiếp này.

Vương Duy Nhất vì sao lại tới thành Thanh Đường, và làm thế nào có thể vào vương cung Thổ Phiên?

Vương Duy Nhất dường như nhận ra những khúc mắc của Địch Thanh, mỉm cười nói:

-Ta dẫn ngươi đi gặp Phú đại nhân, chúng ta vừa đi vừa nói chuyện.

Địch Thanh thấy dáng vẻ Vương Duy Nhất rất ung dung, thì cũng thoải mái hẳn lên, bước đi theo Vương Duy Nhất.

Mọi chuyện không ngờ lại suôn sẻ ngoài ý muốn, nhưng ngược lại lại khiến Địch Thanh thấy trong lòng bất an. Nhưng hắn rốt cuộc bất an về điều gì? Nhất thời cũng không thể hiểu rõ ràng được.

Cốc Tư La vẫn còn ngồi trên đài cao, nhìn Địch Thanh bước đi, dường như có chút trầm tư. Một người từ thiên điện xuất hiện, nói:

-Tán Phổ, người thật sự tin rằng Địch Thanh không cố ý chứ? Người thật sự muốn bỏ qua cho Địch Thanh như thế này sao?

Người đó dung nhan già nua, chất giọng khan khan có chút thần bí, đó chính là thủ hạ của Cốc Tư La, đệ nhất thần tăng - Thiện Vô Úy.

Thiện Vô Úy tất nhiên là đã ở thiên điện từ lâu, và nghe được cuộc nói chuyện giữa Cốc Tư La và Địch Thanh

Cốc Tư La nói:

-Trong tính cách con người Địch Thanh, hắn phạm là do vô tình, rất dễ nhận thấy. Lúc trước khi ta ở quán rượu từng nghe hắn hỏi thăm Đoàn Tư Liêm về chuyện lễ tế Thừa Thiên. Rõ ràng Địch Thanh không hề biết gì về lễ tế Thừa Thiên. Đã như vậy, hắn lên đài tế chỉ là vì cứu người chứ không phải có ý quấy rối. Lúc trước Phi Ưng chẳng qua là vu oan giáo họa. Chúng ta không cần thiết phải để tâm tới chuyện này nữa.

Sắc mặt Thiện Vô Úy nghiêm nghị, hơi có chút không hài lòng, nói:

-Nhưng lễ Thừa Thiên tế Thần thánh, không thể xâm phạm, Địch Thanh cứ coi là vô tình thì cũng phải chịu trừng phạt.

Cốc Tư La nhẹ nhàng nói:

-Lẽ nào ngươi quên rồi? Chúng ta đã nhốt hắn trong mật thất, chính là đã trừng phạt hắn. Hắn có thể thoát khỏi mật thất đã chứng minh phật tổ cho rằng mệnh hắn chưa thể đoạn tuyệt, hãy bỏ qua cho sai lầm của hắn.

Thiện Vô Úy đan hai tay lại, trầm giọng nói:

-Phật tử, người tuy nhốt Địch Thanh ở một nơi cô lập, nhưng người sớm đã biết rằng Phi Ưng sẽ quay lại, phải vậy không? Do đó, người căn bản không phòng bị thêm cho Chùa Thừa Thiên, hiển nhiên là muốn mượn Phi Ưng cứu Địch Thanh ra. Cứ như thế này, sau này người có thể ăn nói với người khác không?

Màn sương mù trên gương mặt Cốc Tư La cuối cùng cũng tan hết, lộ ra một khuôn mắt bình thường. Nếu nói ban nãy y khiến cho người ta không thể nhận ra được biểu cảm của gương mặt, thì y lúc này bình yên như mặt nước, càng khiến người ta không thể hiểu tâm ý của y.

-Ngươi chỉ nói đúng một nửa. Phi Ưng chắc chắn sẽ quay lại, người y muốn cứu là Phi Tuyết chứ không phải là Địch Thanh. Người sống trên cõi đời này, chỉ có ba người biết bí mật chân chính của Hương Ba La, đó chính là ta, Nguyên Hạo và Phi Tuyết. Ta và Phi Tuyết coi như còn có chung một mục đích. Dựa vào điểm này, ta không nghĩ cô ta lại chết đi như vậy. Phi Ưng không thể cạy miệng ta và Nguyên Hạo để biết được tất cả, đương nhiên phải lợi dụng Phi Tuyết phá giải bí mật Hương Ba Lạp, do đó sẽ quay lại cứu Phi Tuyết, mà Phi Tuyết nhất định sẽ nhân tiện đó mà cứu Địch Thanh ra. Ta giam Địch Thanh trong mật thất cũng không phải là muốn để ăn nói với ai. Ta muốn cho các ngươi biết Địch Thanh từ cõi chết trở về mà vẫn không hề quan tâm tới tính mạng mình, quay lại thành Thanh Đường cùng ta hóa giải mâu thuẫn. Chỉ dựa vào điểm này, Địch Thanh đã là người có được lòng tin của ta. Hơn nữa thế lực Nguyên Hạo hùng mạnh, muốn bảo vệ sự bình an cho người Tạng thì sẽ cùng triều Tống gắn bó thuận hòa, cân đối thế lực. Một khi đã như vậy, chúng ta càng phải cần Địch Thanh tới để hàn gắn mối quan hệ với triều đình Tống.

Thiện Vô Úy trầm ngâm lại, vặn vẹo đôi bàn tay, sự già nua trên gương mặt càng thêm đậm nét.

Không biết bao lâu sau, ngoài điện có binh sĩ vội vàng chạy tới nói:

-Khởi bẩm Tán Phổ, Đoàn Tư Liêm cầu kiến.

Cốc Tư La lắc lắc đầu nói:

-Không gặp.

Người nọ giật mình, nhưng nghe lệnh của Phật tử đành phải lui ra. Thiện Vô Úy liền nói:

-Chờ chút.

Rồi gã quay đầu về phía Cốc Tư La nói:

-Tán Phổ, Đoàn Tư Liêm là hoàng tộc Đại Lý, nếu như đã thành tâm xin gặp, Tán Phổ hà tất phải từ chối người từ ngàn dặm tới?

Cốc Tư La thản nhiên hỏi:

-Ngươi có biết y muốn gặp ta là có dụng ý gì không?

Nét mặt Thiến Vô Úy ngạc nhiên, trầm ngâm hối lâu mới nó:

-Y nếu như đã muốn gặp Phật tử khẩn cấp, thiết nghĩ tất có việc muốn cầu xin Phật tử. Đại Lý quốc ngày nay là Đoàn Tố Hưng đương quyền. Người này hoang dâm vô đạo, vốn là cùng thời với Đoàn Tư Lương, còn Đoàn Tư Liêm là người sau thời Đoàn Tư Bình. Năm đó em trai Đoàn Tư Lương soán vị của cháu, ép người thời sau của Đoàn Tư Bình thoái vị làm tăng, nhưng, Đoàn Tư Lương ở Đại Lý có uy tín rất cao, nghe nói người thế hệ sau của y Đoàn Tư Liêm ở Đại Lý được bách tính ủng hộ đã khiến Đoàn Tố Hưng nghi kỵ. Đoàn Tư Liêm đến Thanh Đường, một mặt là để xem lễ, một mặt khác nhiều hơn là cũng muốn mời Phật tử ra tay giúp y đánh đuổi Đại Lý vương Đoàn Tố Hưng, đoạt lại ngôi vị. Phật tử nếu thật sự có thể giúp Đoàn Tư Liêm nắm lại hoàng quyền, có thể kết minh với Đại Lý, chẳng phải là điều rất tốt sao?

Cốc Tư La lặng lẽ nghe hết, thản nhiên cười, lắc lắc đầu nói;

-Ta cũng không thể đồng ý. Đại Lý xưa nay không tranh giành quyền thế mới có thể bảo đảm an ninh như ngày nay. Đoàn Tư Liêm tuy có dã tâm thay thế Đoàn Tố Hưng, nhưng tuyệt đối không có lòng thống nhất thiên hạ. Chuyện nội bộ Đại Lý của y, ắt có người Đại Lý giải quyết. Đại lý quốc ở tận vùng biên thùy xa xôi, ta mạo muội hỗ trợ Đoàn Tư Liêm, sự việc thất bại thì uổng công không bàn tới, sự việc mà thành công thì những cái được cũng không thể bù cho cái mất.Tiền tài là vật ngoài thân, cần thì cũng có tác dụng gì? Đoàn Tố Hưng hoang dâm vô đạo sẽ có người Đại Lý chỉnh đốn. Ta không muốn tham gia vào trong đó, do vậy không gặp Đoàn Tư Liêm. Nếu Đoàn Tư Liêm thật sự thông minh thì sẽ không đến nhờ nữa.

Thiện Vô Úy hỏi:

-Lẽ nào Phật tử đặt tất cả hy vọng chống đối với Nguyên Hạo lên Đại Tống sao?

Cốc Tư La cười cười, cảm khái nói:

-Lấy thế giao người, thế nghiêng thì cự tuyệt, lấy lợi giao người, lợi nghèo thì giải tán. Duy chỉ có thật lòng giúp nhau sẽ là đạo lý vĩnh cửu. Nguyên Hạo đánh không bại được ta, cố thi triển thủ đoạn lôi kéo, mấy lần muốn cùng ta liên minh thôn tính Đại Tống, nhưng lấy thế xưng hùng, rốt cuộc thất bại. Do đó ta tuyệt nhiên không kết minh với gã, chỉ cần chờ gã thất thế là tốt rồi. Đại Tống có cái nhìn thiển cận, lấy lợi giao người, bất luận đối với Khiết Đan hay nước Hạ đều muốn lấy lợi cầu hòa, không biết tham lam vô hạn. Văn thần Đại Tống đã an nhàn kiêu xa từ lâu rồi, chỉ lo hưởng thụ, thiếu đi chí tiến thủ, sớm muộn cũng vì lợi mà hòa, vì lợi mà ô nhục. Ta kết minh với Tống vốn không mấy hy vọng, nhưng lần này lại một lần nữa thể hiện ý tốt với triều Tống, chỉ vì một mình Địch Thanh. Nhưng liệu Địch Thanh có thể thao túng chủ ý của Triệu Trinh? Triệu Trinh liệu có quyết tâm chống lại căn bệnh ngạo mạn và thành kiến bao năm qua? Đều là không biết. Ta vì cầu cho người Tạng bình an, nhiều phúc, chỉ cần gián tiếp trong đó là được rồi, không cần gây chiến. Nếu có thể đúng như Địch Thanh nói, tấn công chiếm lại Sa Châu thì đã hoàn thành ý nguyện đầu tiên của ta, đó là kế sách tốt nhất. Nhưng ta chỉ sợ… Tống Thiên tử không quả quyết. Lần kết minh này cũng chỉ như hoa trong gương, trăng trong nước mà thôi.

Dứt lời, y thở dài rồi nhìn ra xa xa ngoài điện.

Không biết từ lúc nào mây đen kéo đến che hết bầu trời xanh thẳm. Bên ngoài điện tuyết rơi đầy, thì ra đông đến sớm, vạn vật bắt đầu ngủ đông.

Tuyết đang bay nhẹ nhàng tô điểm cho những cây thông xanh mướt. Địch Thanh cùng Vương Duy Nhất bước vào trong cung. Thấy Vương Duy Nhất rất thành thục đường đi trong cung, bất giác cảm thấy thật kỳ lạ.

Vương Duy Nhất đi trước dẫn đường, nói;

-Ta biết ngươi có rất nhiều vấn đề, nhưng mà hãy gặp Phú Bật trước rồi hãy nói. Mấy ngày nay Phú Bật lo lắng không yên, tóc đã bạc rất nhiều.

Dứt lời, khóe miệng y nở nụ cười.

Địch Thanh nén lại vẻ hoang mang, cùng Vương Duy Nhất đến trước một gian gác. Trong gian gác có một người đang ngồi, khuôn mặt trung hậu, mắt nhìn chăm chăm vào chén trà, cau mày, nghe thấy có tiếng bước chân vọng đến thì ngẩng đầu nhìn lên. Thấy là Địch Thanh, chân mày dãn ra, đúng dậy nghênh đón, nói:

-Địch Thanh, rốt cuộc là chuyện gì?

Người đó chính là Phú Bật.

Địch Thanh thấy Phú Bật không có chút gì là dáng vẻ của kẻ bị giam cầm, thật sự rất ngạc nhiên về cách xử xự của Cốc Tư La, cũng vội hỏ lại:

-- Phú đại nhân, ngài chịu khổ rồi.

Phú Bật cười đau khổ nói:

-Ta không có gì khổ cả, chỉ là sau cái đêm ngươi thoát ra, đột nhiên có binh sĩ tới nói ngươi quấy rầy lễ tế Thừa Thiên. Tán Phổ cho ta vào cung, ta không thể phản đối. Sau khi theo binh sĩ vào cung, Tán phổ gặp ta, nói ta không cần phải lo lắng, chỉ cần ngươi quay lại thì coi như không có chuyện gì. Ta không có chỗ nào để đi, cũng không có ai để nói chuyện, thật may có Vương thần y ở đây, an ủi ta nói là sẽ không có chuyện gì.

Địch Thanh thấy rất nhiều sự việc mà Phú Bật không biết rõ, liền đem những việc đã xảy ra nói qua cho hắn nghe.

Phú Bật nghe Địch Thanh mấy ngày qua có khá nhiều rối rắm, khi thì nhíu mày, khi thì trầm tư. Chờ Địch Thanh nói hết ý kiến xử lý của Cốc Tư La, Phú Bật phấn khởi, nhưng lại thấy có chút kỳ quái, không ngờ sự việc lại được giải quyết như thế. Tuy nhiên nói như vậy, ông cuối cùng cũng không thấy ô nhục sứ mệnh, thở ra một hơi dài rồi nói:

-Một khi đã như vậy, chúng ta hãy đợi chỉ ý của Thánh Thượng.

Địch Thanh chờ sau khi trấn an Phú Bật, lại nhờ Vương Duy Nhất chuyển lời tới đám người Hàn Tiếu, nói tất cả thuận lợi, chờ truyền lệnh sau. Lúc này mới kéo Vương Duy Nhất tới một nơi vắng vẻ, không chờ hắn mở lời, Vương Duy Nhất đã hỏi:

-Ta nhờ Quách Tuân đưa cho ngươi một phong thư, ngươi rốt cuộc có nhận được không?

Địch Thanh hơi ngạc nhiên trong giây lát nghĩ ra điều gì đó, thất thanh nói:

-Muốn tìm Hương Ba Lạp, buộc phải tìm Điệt Mã. Thì ra bức thư đó là của ngươi gửi cho ta?

Vương Duy Nhất kỳ quái nói;

-Đúng vậy, đương nhiên là thư của ta gửi cho ngươi, Quách Tuân không nói gì sao?

Địch Thanh trong lòng thấy chua chát, nhớ lại chuyện trước, chán nản nói:

-Khi đó việc quân khẩn cấp. Quách đại ca chỉ nhờ người đưa bức thư đó cho ta, nhưng không có giải thích gì thêm, cứ nghĩ là huynh ấy chờ sau chiến tranh sẽ nói rõ với ta, không ngờ là…

Vương Duy Nhất thở dài nói:

-Tướng quân khó tránh khỏi cái chết trong trận chiến. Quách Tuân tuy chết, nhưng đã khiến cho người trong thiên hạ ngưỡng mộ, không phụ cuộc đời. Một người có thể dũng cảm một đời như thế là đã vượt qua mong đợi của ta rồi.

Địch Thanh nghe trong giọng điệu của Vương Duy Nhất có chút xúc động, cũng có chút tiêu điều, dường như hào hứng mất hết, không kìm được hỏi lại:

-Vương thần y, vì sao ngươi lại tới nơi đây?

-Đừng gọi ta là thần y gì. Vương Duy Nhất khoát khoát tay, cười đau khổ nói:

-Ta tới vùng Tây tạng mới biết kẻ thần y ta cái gì cũng không thần. Trên đời này vốn có quá nhiều sự việc không thể tin nổi.

Vương Duy Nhất dứt lời, nhìn tuyết bay đầy trên bầu trời, chậm rãi nói:

-- Vì sao ta tới Tây tạng? Nói ra thì dài dòng lắm, Quách Tuân biết ta tới Tây tạng, muốn ta tiện thể việc giúp tìm hiểu sự tình Hương Ba Lạp.

Địch Thanh nghe tới chuyện cũ trong lòng lại thấy chua xót, lại cảm động, hồi lâu mới nói;

-Ta nợ Quách đại ca quá nhiều rồi.

Vương Duy Nhất cười cười, lại thở dài nói:

-Quách Tuân là người làm ơn không chờ báo đáp. Nợ hắn đâu chỉ có ngươi đâu? Thực ra ta tới Tây tạng có mấy lý do…

Không biết vì sao, Địch Thanh đột nhiên phát hiện trong mắt Vương Duy Nhất có vẻ bị sốc. Địch Thanh hơi run, mới ngừng hỏi. Nét mặt Vương Duy Nhất đã trở lại bình thường, thấp giọng nói:

-Một trong những lý do đó là, ta nhận lời mời của Tán Phổ nên mới đến thành Thanh đường.

Địch Thanh kinh ngạc không dứt hỏi:

-Cốc Tư La vì sao lại tìm ngươi tới vùng Tây Tạng? Y biết ngươi sao?

Trong lòng thầm nghĩ: “Đây chỉ là một trong những lý do, vậy lý do khác là gì?”

Nét mặt Vương Duy Nhất có chút thần bí, ấp úng nói:

-Y…Y kỳ thật…

Rồi đột nhiên lắc lắc đầu nói:

-Địch Thanh, ta không muốn dối ngươi, ta đã đồng ý với Tán Phổ sẽ không tiết lộ chuyện này. Ta kông thể nói, nhưng ngươi yên tâm, những việc ta làm đều là những việc không thẹn với lương tâm mình.

Địch Thanh có chút tò mò, nhưng thấy Vương Duy Nhất khó xử, nên cũng không truy hỏi nữa, chuyển sang chủ đề khác:

-Tán Phổ cho ngươi tới Tây tạng làm gì? Không biết có thể nói được không?

Vương Duy Nhất lần này sảng khoái đáp:

-Y biết ta có chút hiểu biết về y thuật, do đó mời ta đến Thanh Đường, nghiên cứu bí mật Phục Tạng.

Địch Thanh chấn động, nghe Diệp Tri Thu nói qua về chuyện Phục Tạng, vội hỏi;

-Ngươi đã nghiên cứu ra kết quả gì rồi?

Vương Duy Nhất nét mặt đau khổ, lắc lắc đầu nói:

-Việc này và Tam Mật lư truyền ở Tây Tạng đều như nhau không thể tin nổi. Ta tiến triển quá nhỏ, chẳng qua theo ta, thật ra mỗi người đều được xem như là một Phục Tạng.

Địch Thanh khó mà có thể lý giải nổi, lẩm bẩm nói:

-Mỗi người đều là Phục Tạng, sao có thể như vậy được?

Vương Duy Nhất nghiêm sắc mặt nói:

-Bản thân mỗi người là một thế giới kỳ diệu, tiềm năng không thể hạn chế. Từ xưa tới nay, bất luận là người trong đạo phật, hầu hết đều dồn sức khai thác tiềm năng của bản thân, muốn kết nối với bên ngoài, đạt được kết quả chứng nhận thành tiên. Thực ra từ phương diện này, cái nhìn về bí mật của Tây Tạng và đạo phật là như nhau. Trong Tam Mật lưu truyền ở Tây Tạng, câu thần chú được xem như huyền diệu. Theo ta, nên là sử dụng thanh âm rung động của mấy chữ mở ra dòng máu huyền bí khắp trong cơ thể, để đạt được sức mạnh phi thường. Đương nhiên rồi, thói quen tập luyện của mỗi người là khác nhau, hiệu quả của câu thần chú cũng khác biệt rất lớn, mà chắp tay chắc hẳn là sử dụng động tác của tứ chi, lắc lư thân thể, đạt được hiệu quả giống như câu thần chú. Còn về Ý Mật cũng là màu nhiệm bí ẩn. Ngươi đã hiểu ý nghĩa của Điệt Mã rồi chứ?

Vương Duy Nhất nói đến Tam Mật được lưu truyền ở Tây Tạng, nhưng lại rất lưu loát, chắc hẳn trong thời gian này qua đã có nghiên cứu.

Địch Thanh gật gật đầu, trầm ngâm nói:

-Diệp Bộ Đầu từng nói qua với ta, Điệt Mã chính là Phục Tạng, phụ trách ghi nhớ những kinh điển mà thiên thần lưu lại như là thần chú…

Vương Duy Nhất nhìn lên trời, trầm tư hối lâu mới nói:

-Khi đó ta cũng cho là như vậy, nhưng sau này phát hiện có thể có chút sai lệch. Đương nhiên rồi, cách nhìn của ta cũng không thể xem là chính xác được. Sách cổ “Nội kinh” có mây, người và trời đất tương ứng, tương trợ cho bốn mùa, người hòa vào trời đất. “Linh Xu” cũng là cách nhìn như vậy. Cho rằng người và trời đất như một, thực ra theo cách nhìn của của một thầy thuốc như ta, người và trời đất ngang với nhau, là lấy bí mật của việc dùng ngũ hành quy nạp cơ thể người, nhưng bí ẩn trong đó thì ngũ hành cũng không thể nói rõ một cách đơn giản. Sau khi ta đã hiểu được Tam Mật được lưu truyền trong Tây Tạng, đột nhiên nhớ ra, thiên thần thực ra đã không lưu lại kinh điển gì. Thần chú, mà những thứ này đều tồn tại trong trời đất, nhưng lại không tồn tại trong con người. Cái gọi là Phục Tạng chẳng qua là trải qua kích thích đặc biệt, thông qua ý niệm để đạt được cái kinh điển tồn tại khắp mọi nơi trong trời đất, để đạt được một phần nào đó mà thôi.

Địch Thanh nghe xong đến líu cả lưỡi, mãi lâu sau mới cất giọng nói:

-Vương thần y, ngươi có phải muốn nói, trên trời vốn có rất nhiều thứ, chỉ có những người thông qua thủ đoạn đặc biệt để tu luyện mật pháp thì mới có thể điều phối được ý thức, nhìn thoáng qua những thứ này? Do đó mỗi người đều là Phục Tạng, mấu chốt là làm thế nào để có thể đạt được phương pháp khởi đầu.?

Vương Duy Nhất nghe vậy, phấn chấn hẳn lên, vỗ đùi nói:

-Đúng thế, những điều ngươi nói rất trùng với những điều ta nghĩ..

Địch Thanh phấn chấn nói:

-Nhưng làm thế nào để đạt được phương pháp khởi đầu này đây?

Vương Duy Nhất cảm khái đáp:

-Phương pháp khởi đầu này, trong Phật Giáo lưu truyền ở Tây tạng là dùng Tam Mật để thực hiện, mà còn phật đạo thì tự trong nó có mật pháp, ta không cần chờ, trước mắt đều có thể biết rõ được. Tán Phổ tìm ta tới, thực ra là cân nhắc phương diện này, nếu như có thể thành công, chỉ e là thế giới sẽ thay đổi một diện mạo khác. Nhưng trí não con người huyền ảo,khó nghiên cứu, rất khó để ta có thể tiến thêm bước nữa.

Bất giác như chợt nhớ ra điều gì, Vương Duy Nhất hạ giọng, với vẻ bí mật nói:

-Ngày trước ngươi tuy không kém, nhưng đã không qua được một trận của Phi Long, chưa có được ngũ long, chắc chắn sẽ không đến trình độ ngày nay, phải không?

Địch Thanh hoang mang nói:

-Ta có võ công ngày hôm nay có quan hệ rất lớn với ngũ long, nhưng có liên quan gì tới một trận chiến Phi Long?

Vương Duy Nhất cười cười hạ giọng nói:

-Sao lại không có liên quan? Khi đó ngươi bị Đa Văn Thiên Vương đâm một nhát, vết đâm đó ăn sâu vào trong não ngươi, đã thay đổi kết cấu trong não ngươi. Theo ta thấy, không phải tất cả mọi người đều có thể cảm nhận được sức mạnh thần bí của ngũ long, nhưng ngươi thì cảm nhận được.

Địch Thanh chợt nói:

-Ta có thể có bản chất ngày hôm nay, là vì kết cấu não bộ của ta đã thay đổi, mới có thể đạt được ích lợi từ ngũ long?

Nói đến đây, Địch Thanh không biết nên cảm ơn Dạ Nguyệt Phi Thiên, hay là nên oán hận người đó.

Vương Duy Nhất gật gật đầu, nhẹ nhàng nói:

-Không sai, đây chính là kết luận của ta. Đây cũng chính là một phương pháp khởi đầu, nhưng phương pháp này liên quan đến sự sống và cái chết, không phải ai cũng đều tốt số được như ngươi.

Địch Thanh nhớ lại chuyện trước đây, cảm thấy Vương Duy Nhất nói rất có lý, cũng giải thích được tại sao có người nhìn thấy ngũ long nhưng không thu được gì, vì sao có người bị ngũ long kích thích. Đột nhiên nhớ ra chuyện gì đó, Địch Thanh nói:

-Chân Tông cũng cảm nhận được sự thần kỳ của ngũ long, chẳng lẽ kết cấu não bộ của ông ta cũng khác với người thường?

Vương Duy Nhất đáp:

-Cái này cũng không nhất định, trí óc bí ẩn, ta chẳng qua cũng chỉ như ếch ngồi đáy giếng. Nhưng ta nghĩ, sự kích thích của ngũ long và trí óc, hoàn cảnh, ý chí đều có liên quan tới nhau. Do đó, có người cảm thụ được rất nhiều, có người lại cảm thụ được ít. Lúc trước tiên đế Tư Tử thành điên, lại thêm một loại cuồng nhiệt, cảm thụ được sự thần kỳ của ngũ long không đủ thần kỳ. Thái hậu lạnh lùng với ngũ long, do đó tuy tiếp xúc được với ngũ long… nhưng chưa từng đạt được bí mật của ngũ long.

Khi nói tới Thái hậu, mặt Vương Duy Nhất biến sắc, trong mắt có chút sợ hãi, đột nhiên hỏi:

-Địch Thanh, nghe nói khi Thái hậu quy tiên, ngươi đang ở Biện kinh mà vẫn gặp được người?

Địch Thanh không hiểu vì sao Vương Duy Nhất đột ngột đề cập đến chuyện này, gật đầu nói:

-Ta phụng chỉ hồi kinh chính là vì Thái hậu muốn gặp mặt ta.

Vương Duy Nhất nhìn quanh, giả bộ như thờ ơ hỏi:

-Trước khi Thái hậu lâm chung, có thể có gì khác thường sao?

Địch Thanh thấy có chút kỳ lạ, hỏi:

-Có gì khác thường? chẳng qua Thái Hậu…thực sự quá già.

Hắn không nói thì còn không nhận ra, cứ nói tới thì cảm giác Thái hậu tuy tuổi không ít, nhưng khi đó thực sự thậm chí còn già hơn so với tuổi. Nghĩ lại, khi đó Thái Hậu dường như chỉ vào phía sau mình, nói cái gì như: "Ta hiểu rồi, xin chào…” Thái Hậu chưa nói xong thì đã ra đi. Khi đó Địch Thanh chỉ nghĩ Thái hậu nói là “ngũ long vốn là vật của Hương Ba Lạp, nhưng ngươi nhất định phải…” Rốt cuộc thì là ý gì? Làm sao có thể lưu ý nhiều như vậy được. Hắn biết Thái hậu chỉ không phải là hắn. Bây giờ nhớ lại, phía sau hắn hình như là Diêm Văn Ứng và Triệu Trinh.

Đột nhiên trong lòng thấy rung động, Địch Thanh đã nghĩ ra Thái hậu muốn nói điều gì. Thái hậu đã biết ngũ long là vật không hoàn thiện. Điều Thái hậu nói có thể chính là giống như Quách đại ca : “Ngũ long vốn là vật của Hương Ba Lạp, nhưng ngươi nhất định phải mất nó”. Nói như vậy, Bát vương gia nói phải tìm thấy bản đồ e chính là ý của bản thân Bát vương gia.

Nghĩ đến đây, Địch Thanh thấy buồn bã về sự mất mát, thầm nghĩ ngụ ý của Thái hậu năm đó rốt cuộc là gì, căn bản không thể có người nào biết được.

Lúc đó hắn đau lòng kinh hãi, trừ những việc có liên quan tới Hương Ba Lạp thì không ai nghĩ nhiều đến chuyện gì khác. Bây giờ bỗng nhiên nhớ lại tình hình lúc đó mới phát hiện Thái hậu băng hà quả nhiên có chút khác thường. Thái hậu chết vì đau buồn sao? Triệu Trinh đứng trước linh cữu khóc dường như cũng có chút gì đó khác thường. Ý nghĩ vừa qua trong đầu, Địch Thanh thấy Vương Duy Nhất cúi thấp đầu nâng chén trà lên.

Chỉ nghe tiếng chén trà “cạch cạch”. Địch Thanh phát hiện ra tay Vương Duy Nhất đang run run, không khỏi quan tâm hỏi:

-Vương thần y, người không sao chứ?

Vương Duy Nhất chấn động, thiếu chút nữa làm đổ chén trà. Đang lúc tay chân luống cuống, cúi thấp đầu nhìn Địch Thanh nói:

-Ta không sao, ta thì có chuyện gì được? Địch Thanh, ta dự định sẽ không quay về Biện Kinh nữa.

Địch Thanh không hiểu vì sao Vương Duy Nhất trở nên hoảng hốt như vậy, chau mày hỏi:

-Ngươi là ngự y, chẳng lẽ lại nghĩ cuộc đời này sẽ ở lại Tây tạng nghiên cứu Phục Tạng gì đó sao?

Vương Duy Nhất cười chua xót, chuyển chủ đề khác nói:

-Địch Thanh, mối quan hệ giữa ngươi và Thiên tử rất tốt, phải không?

Địch Thanh đáp:

-Không hẳn là rất tốt, ngày trước không biết người là Hoàng thượng thì rất thân thiết với người. Nhưng từ sau khi Thái hậu qua đời, Thiên tử đăng cơ thì đã lâu lắm rồi ta không gặp lại người nữa. Lần đó khi về Biện Kinh, người đối với ta tuy không tồi, nhưng gần vua như gần cọp, ở bên cạnh người ta luôn cảm thấy bất an. Ta vẫn cảm thấy ở biên thùy được tự do.

Hắn nhớ lại khi đó Triệu Trinh nổi giận, buộc hắn lấy vợ thì yên lặng chau mày. Hắn là bạn của Vương Duy Nhất, vì vậy mà không giấu giếm chuyện trong lòng.

Ánh mắt Vương Duy Nhất lo âu, lấp liếm nói:

-Đúng vậy, gần vua như gần cọ ngươi đã làm đúng, rời xa Thiên tử một chút, cẩn thận một chút là đúng. Ngươi đừng cho rằng ngày trước ngươi và Thiên Tử không tệ thì sẽ không kiêng nể gì. Ngươi hãy nhớ lấy lời ta nói đó.

Địch Thanh cảm giác trong lời nói của Vương Duy Nhất có ý sợ hãi, nhưng nhất thời khó mà suy xét được giữa hắn và Triệu Trinh đã xảy ra chuyện gì.

Vương Duy Nhất cũng nói:

-Muộn rồi, ngươi cũng mệt rồi, nghỉ sớm một chút đi.

Dứt lời, y đứng dậy bước đi. Trước lúc đi lẩm bẩm một mình: “Ta đã từng…xem qua bệnh cho Thái Hậu. Thực ra trước khi ngươi quay lại kinh thành thì đã đến Tây tạng.” Không chờ Địch Thanh hỏi lại, Vương Duy Nhất đã đi thật xa. Tiếng gió lạnh xào xạc, ống tay áo Vương Duy Nhất bay bay, bóng dáng có vẻ hơi run run.

Địch Thanh nhìn bóng Vương Duy Nhất dường như có chút suy tư.

Trong những ngày tiếp theo, Địch Thanh chỉ có thể chờ đợi. Chẳng mấy chốc đã gần một tháng qua đi, triều đình Tống vẫn chưa có hồi âm lại. Địch Thanh và Phú Bật đều có chút lo lắng, thầm nghĩ phải đàm phán hòa bình thì mới được việc, thật hợp với kỳ vọng của Triệu Trinh, nếu có tin tức tới kinh thành, Triệu Trinh nên lập tức phái người quyết định chuyện này.

Tuy nói Tây Tạng cách Biện Kinh cả ngàn dặm xa xôi, nhưng Triệu Trinh nếu thật sự nắm chắc chuyện này thì dẫu tám trăm dặm, tin tức của triều đình Tống chắc cũng đã quay lại rồi.

Ngày này, Phú Bật và Địch Thanh đối mặt với nhau. Phú Bật cau mày, nhìn bốn phía đều không có người, nói với Địch Thanh:

-Địch tướng quân, ngươi không cảm thấy có gì bất ổn sao? Hay là ta đã thật sự lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử? Theo lý mà nói, nếu Cốc Tư La sớm đã cử người đi Biện Lương, thì triều đình chúng ta cũng sớm đã cử người chính thức giải quyết chuyện này. Vì sao đến tận ngày hôm nay vẫn không có tin tức gì vậy?

Địch Thanh cũng chau mày đáp:

-Đại nhân muốn nói Cốc Tư La căn bản không cử người đi Biện Kinh sao? Vậy thì dụng ý của y là gì?

Phú Bật nghĩ trăm lần vẫn không tìm ra lời giải lo lắng nói:

-Rốt cuộc Cốc Tư La muốn gì? Lúc này ta tạm thời không nghĩ ra, nhưng ta luôn cảm thấy lần liên minh này, chỉ e…

Nói chưa dứt lời thì Hàn Tiếu chạy tới.

Những ngày này, hai người Địch Thanh, Phú Bật được Cốc Tư La đặc biệt cho phép có thể tùy ý đi lại trong cung, nhưng cả hai đều sợ sẽ xảy ra chuyện gì khác nên chỉ ở lại trong cung. Vết thương của Địch Thanh sớm đã khỏi. Hàn Tiếu có việc nên đã vào cung tìm hắn bẩm báo, Cốc Tư La cũng không ngăn cản.

Địch Thanh biết được tin tức từ Hàn Tiếu, khi đó Hàn Tiếu đích thực đã tìm được Diệp Hỉ Tôn, nhưng sau đó kinh biến xảy ra liên tiếp, Diệp Hỉ Tôn lại biến mất. Địch Thanh chỉ còn biết cười đau khổ, thầm nghĩ mình và Diệp Hỉ Tôn thật sự không có duyên.

Hàn Tiếu tới bên Địch Thanh, nói nhỏ mấy câu, rồi đưa cho Địch Thanh một phong thư.

Địch Thanh mở phong thư đọc một hồi lâu, cau mày lại. Phú Bật nhìn thấy, vội hỏi:

-Địch tướng quân, có phải là biên thùy có chiến tranh không?

Trong lòng Phú Bật thậm chí còn nghĩ Cốc Tư La không muốn liên minh với tiều đình Tống, chẳng qua chỉ muốn níu kéo Địch Thanh. Nếu Nguyên Hạo nhân thời cơ này tấn công Tây Bắc thì có thể sẽ thành chuyện lớn.

Địch Thanh lắc lắc đầu:

- Tây Bắc tạm thời không có chiến sự. Nguyên Hạo cũng không có dự định xuất binh…

Hắn muốn nói nhưng lại thôi, ánh mắt cũng có vẻ hoang mang, lại nói:

-Ta đã phái người điều tra rõ, Cốc Tư La đích thực đã phái người đi Biện Kinh rồi, nhưng không biết vì sao triều đình chậm trễ hồi âm.

Phú Bật thốt lên hổ thẹn, thầm nghĩ những thứ học được trong đầu đều không dùng được tý nào, phải tự mình phỏng đoán. Thì ra Địch Thanh sớm đã nghi ngờ chuyện này, lệnh cho người điều tra. Địch Thanh tuy ở trong vương cung Thổ Phiên nhưng vẫn nắm được những chuyện bên ngoài.

Ngoài phòng có vệ binh Thổ Phiên tiến tới nói:

-Phú đại nhân, Địch tướng quân, Tán Phổ mời hai vị đại nhân tới. Xin mời đi theo tôi.

Địch Thanh và Phú Bật cùng nhìn nhau, thầm nghĩ đến mấy ngày qua, Cốc Tư La không hề chính thức bàn chuyện gì với họ. Lần gặp này, có chuyện gì để bàn đây.

Cả hai người mang theo những nghi hoặc đi đến đại điện đỉnh vàng ngọc trắng đó. Cốc Tư La vẫn ngồi ở trên đài cao, đứng bên cạnh là Thiện Vô Úy. Con mắt Địch Thanh sắc sảo, đã nhìn thấy một người ngồi dưới điện, đầu hơi trọc, nét mặt xanh xao, không khỏi vừa mừng vừa lo.

Người đó là Chủng Thế Hành!

Vì sao Chủng Thế Hành cũng tới đây? Chẳng lẽ Thiên tử truyền chỉ lệnh Chủng Thế Hành tới?

Địch Thanh hướng về phía Cốc Tư La hành lễ, liếc mắt nhìn Chủng Thế Hành, trong ánh mắt có ý dò hỏi. Chủng Thế Hành nhìn thấy Địch Thanh, nhẹ ho khan vài tiếng, nét mặt cũng vui mừng, nhưng trong ánh mắt thì buồn bã. Địch Thanh nhìn thấy thế, trong lòng trầm xuống, cảm thấy sự việc bất ổn.

Cốc Tư La nói:

-Chủng đại nhân, ngươi hãy nói lại sự việc cho Địch Thanh nghe.

Địch Thanh không nghe thấy gì trong ngữ khí của Cốc Tư La, đành nhìn sang phía Chủng Thế Hành, thấp thỏm nói:

-Chủng đại nhân, có phải thánh thượng cử đại nhân tới không?

Thấy Chủng Thế Hành gật gật đầu, Địch Thanh không kịp vui mừng thì đã nghe Chủng Thế Hành nói ra tin tức ngũ lôi oanh đỉnh.

-Thánh thượng có chỉ…nói Tống, Thổ Phiên thời gian qua quan hệ thân thiết, sau này chuyện này cũng sẽ không có gì thay đổi. Về việc liên minh xuất binh tấn công Tây Hạ, sau này không được nhắc tới nữa.

Địch Thanh thấy hoa mắt, dáng vẻ hoảng hoảng, cố tự trấn anh mình, cảm giác âm thanh không còn giống như của mình nữa, chua chat hỏi:

-Tại sao?

Chủng Thế Hành thấy Địch Thanh như thế, trong lòng cũng thấy khó chịu, thầm nghĩ Địch Thanh đã trải qua bao gian nguy, khó khăn lắm mới có được cơ hội đánh bại Nguyên Hạo, chiếm lấy Châu Sa. Nhưng cơ hội này lại như lục bình bọt biển, tan biến rất nhanh.

-Bời vì không lâu trước, chính vào lúc Tán Phổ phái sứ giả tới, Nguyên Hạo cũng đồng thời phái sứ giả tới Biện Kinh, tự kể là không phải, muốn cùng Đại Tống nghị hòa.

Chủng Thế Hảnh bất đắc dĩ nói:

-Địch Thanh, triều đình chán ghét chiến tranh, nghe Nguyên Hạo chủ động thỉnh cầu nghị hòa, dồn d yêu cầu Thánh thượng không được khai binh.

Địch Thanh tiến lên một bước trừng mắt nhìn Chủng Thế Hành, giọng khàn khàn nói:

-Nhưng Nguyên Hạo lòng muông dạ thú, lần này nói đám phán hòa bình, cũng có thể là hàm chứa âm mưu. Lời hứa kia chằng qua chỉ là một trang giấy, muốn xé thì xé, đại nhân vì sao cũng không hiểu được lý lẽ này?

Trong lòng lại thầm nghĩ: “quân Tống mới có khởi sắc, chẳng lẽ trong phút chốc lại muốn trở về tình cảnh trước kia? Chiêu này của Nguyên Hạo có chút thâm hiểm, chúng ta vốn đã mời Cốc Tư La ra tay, nếu triều đình đồng ý với Nguyên Hạo, thay đổi hết lần này đến lần kia, lại muốn liên kết với Thổ Phiên. Nếu ta là Cốc Tư La, e là cũng sẽ không tin triều đình Tống nữa. Dã tâm của Nguyên Hạo hừng hực, ý muốn thống nhất thiên hạ, làm sao có thể an ninh vô sự. Nguyên Hạo không bị tiêu diệt thì sớm hay muộn cũng sẽ xuất binh xâm chiếm Tây Bắc. Thổ Phiên khoanh tay đứng nhìn, khi đó chúng ta sẽ lại lâm vào cuộc chiến vô cùng vô tận.

Nhưng trong lòng có một cảm giác đau buồn hơn, đó là hắn trì trệ chưa tới Sa Châu để tìm kiếm Hương Ba Lạp, bởi vì ở đó cóbinh lính Nguyên Hạo canh gác. Hắn toàn tâm hy vọng có thể đem binh đánh tan quân lính canh giữ nơi đó, rồi xâm nhập vào Hương Ba Lạp, nhưng mà như vậy thì hy vọng xâm nhập vào Hương Ba Lạp của hắn há không tan thành bọt nước?

Chủng Thế Hành thấy Địch Thanh có thái độ không bình thường, hơi lúng túng, hạ giọng nói:

-Địch Thanh, ta hiểu đạo lý này, nhưng ta hiểu thì có tác dụng gì chứ?

Cơ thể Địch Thanh khẽ run lên, hắn đã lấy lại được thái độ như bình thường, trong lúc tâm tư thay đổi, hắn nhìn về phái Cốc Tư La.

 Chương 361 - 364: Thay đổi

Cốc Tư La ở trên cao, vẫn bình tĩnh như thường. Địch Thanh thầm nghĩ trong lòng: “Lúc trước Cốc Tư La từng nói, liệu việc liên minh giữa hai bên có thành? Hay là vẫn chưa biết thế nào, Chẵng lẽ y sớm đã biết Triều đình Tống sẽ như thế này sao?” Với sự quyết tâm, Địch Thanh trầm tĩnh lại, hành lễ nói:

- Tán Phổ, sự thay đổi này tại hạ chưa từng nghĩ tới..

Cốc Tư La thản nhiên nói:

- Vậy bây giờ ngươi quyết định làm thế nào?

Địch Thanh đáp:

- Tại hạ muốn quay về Tây Bắc trước, trình tấu lên Thánh thượng nói rõ những điểm lợi và hại, thuyết phục Thánh thượng liên minh với Tán Phổ. Mong Tán Phổ tin tưởng ở tại hạ.

Chủng Thế Hành đứng bên thấp giọng nói:

- Địch Thanh, ngươi không cần dâng tấu nữa. Đã không có chiến tranh nữa, Thánh thượng sẽ không cần ngươi lãnh đạo binh sĩ. Triều định hiện giờ đang thăng ngươi lên thành Đoàn Luyện sứ, hạ chỉ cho ngươi về kinh, ngươi có thể trực tiếp nói chuyện với Thiên Tử.

Địch Thanh khẽ giật mình, không ngờ mình biến đổi đột ngột như vậy, hỏi lại:

- Vậy Kinh Tây Lộ ở Bắc sẽ do ai phòng vệ?

Bậc quan của hắn vốn là Tần Châu thứ sử, giờ đổi thành Đoàn Luyện Sứ, bậc quan tăng lên một cấp, nhưng không nắm binh quyền, vị trí quyền lực bề ngoài là thăng tiến, nhưng thực chất bên trong là ngầm giáng xuống. Địch Thanh đã không còn là cậu thiếu nhiên ngây thơ, hắn biết hành động này của Thánh thượng là bảo hắn không cần phải đa nghi, điều hắn về kinh là đối đãi tốt với hắn.

Chủng Thế Hành cười đau khổ hạ giọng nói:

- Ngươi cũng biết, Đại Tống Canh Thú Pháp là gia pháp của tổ tông, xưa nay không để tướng lĩnh nào ở lâu một nơi. Ngươi đã ở Tây Bắc quá lâu, danh tiếng ngày càng lớn, văn thần trong triều đều cho rằng không ổn, do đó mới điều ngươi về kinh. Ta cũng đã bị chuyển nơi khác.

Chủng Thế Hành tuy làm việc lão đạo nhưng trong lời nói cũng thấy có chút phẫn nộ. Dù lão nói nhỏ, nhưng không tránh được Cốc Tư La nghe thấy. Dứt lời lại ho khan mấy tiếng. Lão lấy khăn tay che miệng lại, ho xong mới gấp khăn lại.

Địch Thanh suy nghĩ những bước tiếp theo nên đi thế nào nên không chú ý hành động nhỏ của Chủng Thế Hành. Suy xét mãi rồi dứt khoát nói:

- Vậy hạ quan về kinh gặp Thánh thượng, mong Thiên Tử định đoạt.

Ngẩng đầu nhìn Cốc Tư La, Địch Thanh thành khẩn nói:

- Tán Phổ, tại hạ xin hồi kinh gặp Thánh thượng, mong Tán Phổ cho tại hạ thêm thời gian.

Cốc Tư La trầm ngâm hồi lâu, lúc này mới lên tiếng:

- Ta tin ngươi, Địch Thanh, nhưng trên đời này Địch Thanh dù sao cũng chỉ có một. Được, ta đồng ý với ngươi, chỉ cần ngươi lãnh quân đội, ta có thể hợp tác với ngươi bất cứ lúc nào.

Địch Thanh mừng rỡ, cũng không nghĩ nhiều đến ngụ ý của Cốc Tư La, chắp tay nói:

- Được, nhất định như vậy.

Lúc này hắn chỉ nghĩ đến việc hồi kinh, phân tích cho Thiên tử tình thế ngoài biên thùy mà không chú ý nét mặt Chủng Thế Hành có chút sợ hãi, âm u, giống như mây mùa đông, nặng nề như vậy.

Tuyết dần dần tan, băng từ từ rã, băng tuyết tan rã hòa vào nước sông xuân.

Nước xuân xa xa chảy về hướng đông, qua biên ải quan sơn, tựa như giữa lúc đó gió xuân của đêm lấn qua hai bờ Hoàng Hà. Sự lấn chiếm đó làm vạn vật như bừng bừng sức sống, trôi xuôi theo nước sông tràn ngập kinh thành.

Trải qua một giấc ngủ đông, đại thành Biện Kinh càng huy hoàng hơn mảy may không nhìn thấy khói lửa qua binh của tây bắc. Địch Thanh ở bên ngoài cửa cung thấy cách đó không xa chim oanh sáng sớm tranh nhau hót trên chồi lộc trên cành cây, chân mày nhẹ chau lại.

Lại đợi thêm nén nhang nữa thì trong cung mới có một người bước nhanh ra ngoài tới trước mặt Địch Thanh, thấp giọng nói:

- Địch tướng quân, Thánh Thượng thân thể không khỏe, không muốn gặp ngài.

Người đó chính là Diêm Sĩ Lương cũng tổng quản đứng đầu trong cung lúc này, đã từng gặp Địch Thanh mấy lần.

Diêm Sĩ Lương vốn là nghĩa tử của Diêm Văn Ứng. Năm đó Diêm Văn Ứng luôn theo Triệu Trinh, có thể nói vất vả công lao càng lớn. Sau khi Thái hậu về cõi tiên, La Sùng Huân chết, Diêm Văn Ứng thuận lý trở thành người đứng đầu trong đại nội. Diêm Văn Ứng vốn vẫn không hoà thuận với Quách hoàng hậu. Sau đó Triệu Trinha phế Quách hoàng hậu, đám người Phạm Trọng Yêm phản đối, Diêm Văn Ứng kiên quyết đứng về phía Triệu Trinh, ủng hộ phế bỏ Quách hoàng hậu.

Cuối cùng Quách hoàng hậu bị trục xuất ra khỏi hoàng cung, xuất gia làm ni.

Tuy nhiên sau đó nghe nói Quách hoàng hậu nhiễm bệnh nhẹ, từng viết bức thư tình cho Triệu Trinh. Sau khi Triệu Trinh xem thư, nhớ lại chuyện cũ, có chút áy náy với Quách hoàng hậu. Nghe nói Triệu Trinh có ý triệu lại Quách hoàng hậu vào cung, nhưng Quách hoàng hậu đưa ra điều kiện “nếu được triệu lại, nhất định các quan lại lập lớp học chịu sách”. Trong lúc Triệu Trinh cân nhắc, ban thuốc cho Quách hoàng hậu dùng.

Thuốc đó là Diêm Văn Ứng đưa đi.

Sau khi Quách hoàng hậu dùng thuốc, ngày thứ ba thì đột tử. Mọi người nghi ngờ Diêm Văn Ứng và Quách hoàng hậu bất hòa, cho rằng Diêm Văn Ứng sợ Quách hoàng hậu quay lại cung đối phó y, do đó hạ độc giết Quách hoàng hậu.

Có người nghi ngờ, nhưng chất vấn chỉ có một người, người đó là Phạm Trọng Yêm!

Lúc đó Phạm Trọng Yêm bị giáng chức mới về lại kinh thành, thấy quần thần không lên tiếng nên dâng thư nói thẳng, cho rằng cái chết của Quách hoàng hậu Diêm Văn Ứng không thể trốn tránh trách nhiệm. Phạm Trọng Yêm lời lẽ thẳng thắn mạnh mẽ làm triều đình chấn động, thậm chí Lã Di Giản cũng áp chế không được chuyện này. Cuối cùng Triệu Trinh truy cứu chuyện Quách hoàng hậu, giáng chức Diêm Văn Ứng trục xuất ra Lĩnh Nam, nhưng Diêm Văn Ứng chưa tới Lĩnh Nam thì chết trên đường đi.

Chuyện cũ như mây khói, xuất nhập trong mây.

Địch Thanh ở xa tận biên thùy rải rác nghe nói chút chuyện cũ, cũng biết sau khi Triệu Trinh trục xuất Diêm Văn Ứng cũng không quở trách Diêm Sĩ Lương, thậm chí còn đề bạt Diêm Sĩ Lương làm người đứng đầu trong đại nội.

Nghe Diêm Sĩ Lương nói Triệu Trinh không khỏe, Địch Thanh nhíu mày, trong lòng thầm nghĩ:

“Ta quay lại kinh thành đã nửa tháng, nửa tháng trước Thánh Thượng thoái thác thân thể không khỏe, tới bây giờ vẫn chưa chuyển biến tốt? Ta đã hỏi thăm qua Thánh Thượng lâm triều như cũ, không giống có bệnh. Nói như vậy... Người tạm thời không muốn gặp ta? Hay người đã hạ quyết tâm nghị hòa với nước Hạ, cho nên không muốn ta vào khuyên ngăn để tránh hai bên khó xử.”

Địch Thanh lại phụng chỉ, ngàn dặm xa xôi trở về kinh thành, chỉ vì muốn Triệu Trinh đàm phám lại chuyện liên minh với Thổ Phiên. Không ngờ hắn chức quan tuy cao, ngược lại gặp hoàng thượng không dễ như trước kia. Thấy Diêm Sĩ Lương cũng có chút khó xử, không tiện vạch trần chân tướng, chỉ là nói:

- Vậy Diêm đại nhân giúp Địch Thanh chuyển lời hỏi thăm một tiếng, làm phiền rồi.

Diêm Sĩ Lương vẻ mặt đầy cười trừ nói:

- Được, nhất định, nhất định.

Địch Thanh không biết làm sao, chỉ có thể trở lại Quách phủ. Sau khi hắn về kinh thành, vẫn luôn ở trong Quách gia. Cảnh còn người mất, Quách Quỳ cao lớn rất nhiều cũng to lên rất nhiều. Sau khi thấy Địch Thanh về thì gào khóc. Địch Thanh trong lòng khó chịu, an ủi Quách Quỳ. Quách Quỳ không hề học văn, say mê luyện võ kỹ, hầu như ngày ngày cũng rèn luyện sớm tối đồng thời cùng tập luyện với Địch Thanh.

Sau khi Quách Tuân chết trận, Triệu Trinh đau lòng không dứt, ban thưởng hậu đãi Quách gia. Do vậy Quách Quỳ sớm được đề bạt trong hàng Tam Ban. Địch Thanh lại biết Quách Quỳ chí tại biên thùy, chống lại Tây Hạ báo thù cho đại ca. Địch Thanh luôn chịu ân tình của Quách Tuân nêncàng thêm chiếu cố Quách Quỳ. Lòng nghĩ dù sao rảnh rỗi không việc gì làm, hết lòng mài giũa Quách Quỳ. Lúc này Triệu Trinh không muốn gặp hắn, Địch Thanh liền muốn trở về đi gặp Quách Quỳ.

Địch Thanh đi trên đường, đang qua một con phố dài, đột nhiên nghe phía trước tiếng chiêng đồng vang lên, binh sĩ mở đường, có một cỗ kiệu nhỏ đỉnh vàng đi qua.

Người đi đường thấy thế, biết trong kiệu hơn phân nửa là hoàng thân quốc thích, đều tránh qua một bên. Địch Thanh cũng lách người qua bên đường, chậm rãi chờ đợi cỗ kiệu qua. Lúc này bầu trời một tiếng yến kêu, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn, thấy có con chim yến mới ngậm bùn bồi hồi có vẻ cô đơn. Trong lòng nghĩ rằng: “Mấy ngày nữa phải đi thăm Dương bá phụ một chút”

Sau khi hắn trở về kinh thành, vẫn chưa tới Dương phủ. Nghe nói gần đây Dương Niệm Ân làm ăn rất tốt, cũng không đến quấy rầy nữa. Đều nói nhìn vật nhớ người, Địch Thanh hắn chinh chiến nhiều năm, trước giờ chưa có một ngày quên Vũ Thường, vừa nghĩ tới Dương Phủ, thì nghĩ tới “Kinh Thi”,cái chuông gió vỏ cua đó, đôi mắt tươi đẹp lúc nào cũng cười vui đầy nước mắt kia… chuyện cũ như khói.

Địch Thanh nhìn con yến đó, mi mắt hơi ướt. Đang lúc buồn bả, cái kiệu đó đã tới bên cạnh hắn, chậm rãi dừng lại. Địch Thanh hơi kinh ngạc, nghe cỗ kiệu đó có người nói:

- Địch tướng quân, từ biệt mấy năm, vẫn khỏe chứ?

Giọng nói người trong kiệu êm nhẹ, Địch Thanh nghe mơ hồ quen tai, nhưng không nhớ ra người này là ai.

Im lặng hồi lâu, người trong kiệu cười nói:

- Địch tướng quân, thần thiếp Thường Ninh.

Địch Thanh giật mình, cuối cùng nhớ lại người trong kiệu là ai, vội thi lễ nói:

- Thần Địch Thanh, tham kiến trưởng công chúa.

Lúc hắn trở lại kinh thành, Triệu Trinh đã từng giữ Địch Thanh lại bên cạnh, từng muốn gả muội muội Thường Ninh công chúa cho Địch Thanh, nhưng bị Địch Thanh quyết liệt từ chối. Sau đó Địch Thanh tuy có xin lỗi, nhưng cũng đã quên chuyện này, không ngờ Thường Ninh lại còn nhớ hắn, lại còn chào hỏi hắn.

Thường Ninh công chúa dường như thở dài xa xôi, nói:

- Rất lâu không gặp, xem ra Địch tướng quân vẫn như xưa.

Thấy Địch Thanh không nói, Thường Ninh công chúa hỏi:

- Vừa rồi thần thiếp qua đường, thấy Địch tướng quân mặt co mày cáu, hình như có tâm sự, không biết có thể nói với thần thiếp không?

Địch Thanh cười khổ nói:

- Thần phụng chỉ hồi kinh, vốn có việc gấp muốn gặp Thánh Thượng. Không ngờ nghe Diêm Sĩ Lương nói Thánh Thượng thân thể không khỏe... nên lo lắng. Hắn lập lờ nói che dấu tâm ý thật, đồng thời ngôn ngữ dò xét, muốn xác định Triệu Trinh có phải là bệnh thật không.

Thường Ninh trong kiệu im lặng một hồi, lúc này mới nói:

- Thì ra là như vậy, vậy thần thiếp có chút bất lực rồi. Nhưng Địch tướng quân cũng không cần quá lo lắng, nghĩ ngài ác chiến tây bắc, một lòng vì nước, lòng này thiên nhật có thể thấy, rất nhiều người sẽ không quên ngài. Thần thiếp có chuyện, đi trước một bước.

Nói xong, cỗ kiệu nâng lên, chậm rãi rời đi. Địch Thanh lắc đầu, mới bước đi, đột nhiên cảm thấy có người đang chú ý hắn.

Địch Thanh quay lại, nhìn thấy bên đường đang đứng hai người. Một người là một người mù, tay cầm hai khối lê hoa. Người còn lại là một cô nương, tay cầm cây đàn tỳ bà, chảy tóc hai bím dài.

Đang nhìn Địch Thanh chính là cô nương đó.

Địch Thanh nhìn thấy cô nương đó, liền có chút quen thuộc, lại nhìn người mù đó, thì nhớ người mù đó họ Giang, cô nương đó tên Lộ Nhi, hắn đã từng gặp qua ông cháu này ở trại An Viễn.

Thấy Lộ Nhi muốn nói nhưng lại không dám, Địch Thanh sải bước đi qua, chủ động nói:

- Giang lão trượng, Lộ Nhi cô nương, sao tới kinh thành?

Lộ Nhi vừa mừng vừa sợ, không ngờ Địch Thanh còn nhớ bọn họ, ngượng ngập nói:

- Địch tướng quân, đúng là ngươi rồi, không ngờ ngươi cũng tới kinh thành? Từ sau đại thắng An Viễn, thì không có nghe nói chuyện của ngươi nữa. Chúng ta là từ An Viễn thuyết thư tới kinh thành. Ngươi... vết thương đỡ chút nào chưa?

Địch Thanh cười:

- Đã qua nửa năm rồi, làm sao không khỏi? Các người trôi dạt ở kinh thành, cần giúp gì không?

Hắn thấy Lộ Nhi lúc này có chút khiếp đảm nhìn hắn, chỉ cho rằng ông cháu này có chuyện gì khó xử.

Người mù sớm nghe tiếng của Địch Thanh, vẫn luôn vâng dạ không dám lên tiếng, nghe vậy vội nói:

- Sống đã quen rồi, không cần làm phiền Địch tướng quân. Đều là a đầu này, cách rất xa liền nói ngài đang ở gần đây. Lão già ta không tin, không ngờ thật sự chạm phải Địch tướng quân, lão phu thật là may mắn. Đúng rồi, chúng ta còn có chuyện, mấy ngày trước có một công tử hào phóng, cho chúng ta một trăm lượng, bảo chúng ta ở tửu lầu này thuyết thư mười ngày... là kể chuyện xưa của Địch tướng quân.

Địch Thanh ngược lại có chút lúng túng, nói:

- Vậy,... tốt rồi. Giang lão trượng, vậy ta không quấy rầy các người thuyết thư nữa.

Nói rồi xoay người định đi, Lộ Nhi gọi:

- Địch tướng quân, ngươi không đi nghe thử chúng ta thuyết thư?

Địch Thanh có chút bất ngờ, nói:

- Các người lấy thuyết thư để sống, nói thế nào ta không có ý kiến. Nhưng ta da mặt dày, thật sự xấu hổ đi nghe.

Người mù cười ha hả lên, kéo cháu gái một cái nói:

- Vậy…Địch tướng quân, chúng ta phải đi thuyết thư rồi, mời ngài đi nhanh.

Địch Thanh lập tức cáo từ, bước lớn bỏ đi.

Lộ Nhi miệng đã mân mê, đạp chân một cái, tức giận nói người mù:

- Ông nội, sao ông có thể làm như vậy chứ? Chúng ta không dễ gì mới có thể gặp lại Địch tướng quân, ông giống như muốn đuổi người ta đi.

Hoa lê mộc trong tay người mù gõ xuống, phát ra tiếng giòn vang, động lòng người lại tang thương nói:

- Lộ Nhi, cháu lớn rồi, cũng nên hiểu chuyện. Địch tướng quân vai gánh trách nhiệm nặng nề, chinh chiến cấp bách, nhất định chuyện rất nhiều. Ông ta có thể nhớ chúng ta, đến nói với chúng ta hai câu, chủ động giúp chúng ta đã là may mắn kiếp trước chúng ta tu. Lo nghĩ của ông ấy đều nhiều hơn ai hết. Cho dù chúng ta không thể giúp ông ấy, nhưng cũng không thể luôn quấn lấy người ta. Ông ấy là đại anh hùng thiên hạ vô song, chúng ta là người thuyết thư, và ông ấy không phải người của thiên hạ, con nên hiểu. 

Lộ Nhi đỏ mặt lên, cắn môi, hồi lâu giận dỗi nói:

- Cháu hiểu, cháu đều hiểu hơn người ta. Trước giờ cháu nghĩ phải gả cho ông ấy, cháu không nghĩ nhiều khác, cháu chỉ muốn nhìn thật rõ ông ấy, nhớ nhiều mấy câu của ông ấy, sau đó nói cho người ta biết. Nếu ông thật sự hiểu chuyện, vậy sau này đừng theo hỏi tướng mạo Địch tướng quân với cháu.

Dứt lời hất bím tóc, lên tửu lầu.

Người mù cười khổ không nói, lại nghe tiếng bước chây chạy tới. Lộ Nhi lại chạy lại, cười khì khì, kéo ống tay áo của người mù nói:

- Lên lầucông tử đó vẫn chưa tới.

Người mù lắc đầu, cùng cháu gái lên tửu lầu, lúc Lộ Nhi lên lầu hỏi:

- Ông nội, công tử đó vừa ra tay thì một trăm lượng. Mỗi lần đến nghe thuyết thư, luôn có mấy người bảo vệ, ông đoán người đó là ai?

Người mù cau mày nói:

- Quan tâm người đó là ai làm gì, người đó thích nghe chuyện của Địch tướng quân như vậy, đương nhiên là người tốt. Người đó có bao nhiêu người bảo vệ có quan hệ gì, nội dung chúng ta nói không thẹn với lương tâm thì được rồi.

Lúc nói chuyện, hai người lên lầu hai tửu lầu, sớm có ông chủ tửu lầu ra nghênh đón, chào hỏi:

- Giang lão trượng, hôm nay đến sớm đó, ngồi bên này...

Trong tửu lầu sớm ngồi đầy thực khách, thấy người mù đến, đều chào hỏi:

- Giang lão hán đến rồi, hôm nay chuẩn bị nói những gì đây?

Hóa ra mấy ngày nay có công tử hơi hào phóng cho Giang lão hán một trăm lượng, bảo nói chuyện của Địch Thanh, nói liền mười ngày. Thực khách tửu lầu có thuyết thư miễn phí, đương nhiên đua nhau tối chiếm chỗ, nhất thời tửu lầu làm ăn tốt, ông chủ tất nhiên rất khách khí với ông cháu này.

Giang lão hán ngồi xuống, Lộ Nhi chỉnh dây đàn, thì có người thúc giục nói:

- Giang lão hán, nói nhanh đi... hôm nay có phải hôm nay nói chiến thắng An Viễn không?

Người mù cười nói:

- Hôm nay nói chính là chiến thắng An Viễn, nhưng chính chủ vẫn chưa tới, các vị khán quan xin hãy bình tĩnh chờ. Mọi người đều nghe người mù đang chờ vị trả tiền đó, lẩm bẩm nói:

- Người này xưa nay đúng giờ, không biết hôm nay sao đến trễ?

Lời vừa nói ra, chỗ cầu thang lại có tiếng bước chân vang lên, mọi người đều nói:

- Đến rồi, đến rồi.

Lộ Nhi đưa mắt nhìn qua, thấy trước có hai người sóng vai lên lầu, ánh mắt sáng quắc, nhìn xung quanh, lúc này mời công tử phía sau đi lên. Công tử đó cuối đầu, vội vàng đi, tới phòng cao ngồi xuống. Có một người hầu theo y, vì công tử đó đầy rượu, bức rèm che rủ xuống. Sau đó người hầu đó giọng the thé nói:

- Được rồi, có thể bắt đầu.

Mỗi lần công tử đó tới, đều tới phòng cao nghỉ ngơi, cách mảnh vải nghe Giang lão hắn thuyết thư. Việc làm có chút cổ quái, mọi người thấy đều không trách, không lấy làm lạ, đều nói:

- Được rồi, bắt đầu đi.

Người mù cười, gõ hoa lê bản, hắng giọng, khàn khàn hát trước:

- Tắc Hạ nhạn buồn bã hát rời khỏi đau khổ, xa xôi mặt trời lặn cô thành ngộ, tướng quân trăm chiến kinh qua gió bụi, người hiền mười năm dấn bước sương khói.

Lộ Nhi gảy tỳ bà theo, trong tiếng nhạc thánh thót đầy tiêu điều sầu khổ. Khi tiếng nhạc ngừng, Lộ Nhi mới nói:

- Ông nội, hôm nay ông nói là chiến thắng An Viễn, tại sao nói bốn câu này trước chứ?

Người mù nói:

- Phàm chuyện gì có nhân mới có quả, có quả phải có nhân. Thuyết thư cũng giống vậy, bắt đầu luôn có nguyên do. Trong bốn câu này của ta chính là nói về tình hình biên thùy tây bắc, cũng nói hai người.

Lộ Nhi làm ra vẻ trầm tư, đột nhiên vỗ tay nói:

- Phải rồi, Sau hai trận chiến Tam Xuyên Khẩu, Hảo Thủy Xuyên tây bắc, trại Bảo tây bắc có nguy, cô thành Dương Mục Long cao chót vót, thủ vững rất lâu, binh sĩ Đại Tống không biết chết bị thương bao nhiêu, giống như cô nhạn mất người thân. Ông nội, hai câu trước trong bài thơ của ông chính là nói tình hình này à?

Thực khách tửu lầu nghe vậy, hoặc xấu hổ, hoặc nghiến răng, người mù nói:

- Không sai, ta nói chính là tình hình này. Đang lúc người người Đại Tống ta vô cùng bất an, có hai người dũng cảm bước ra chặn binh quân Hạ như sói hổ, cứu dân chúng tây bắc khỏi nước lửa.

Lộ Nhi lại cười vỗ tay nói:

- Cháu biết rồi, tướng quân kinh qua trăm trận gió bụi mà ông nói nhất định là Địch Thanh, Địch tướng quân. Cháu ở biên thùy gặp qua Địch tướng quân, lúc nãy... cháu ở dưới lầu còn gặp được hắn.

Nói xong trên mặt đầy vẻ vui mừng, lại kiêu ngạo.

Mọi người ồ lên, vọt tới chỗ lan can của lầu các, thiếu chút nữa chen nứt lan can, đều gọi:

- Ở đâu, ở đâu? Cô nương chỉ chúng ta xem xem.

Thì ra kinh thành rất nhiều người tuy nghe nói qua nhiều chuyện của Địch Thanh, nhưng người thấy qua Địch Thanh không nhiều. Vừa nghe Địch Thanh ở dưới lầu, không kìm nổi muốn đi nhìn thấy tận mắt.

Lộ Nhi vẻ mặt đau khổ nói:

- Sớm đi rồi, hắn là người bận rộn.

Nàng có chút buồn bã, không có để ý tới công tử trong mảnh vải nói với người hầu bên cạnh:

- Địch Thanh mấy ngày nay thế nào rồi?

Người hầu đó cung kính nói:

- Địch Thanh hôm nay lại tới xin gặp Thánh Thượng, nhưng theo tâm ý của của Thánh Thượng, nô tài đã ngăn hắn trở về.

Công tử đó chỉ là “ồ” một tiếng, nghe ngoài mảnh vải có người nói:

- Địch Thanh có gì hay chứ? Đơn giản là một cái mũi hai con mắt mà thôi. Người đó lưng dài vai rộng, người mặc áo dài, ngồi ở đó rất có uy nghiêm. Lộ Nhi nghe thế không phục nói:

- Địch tướng quân quả thật là là một cái mũi hai con mắt, nhưng tu宠lãng hơn các hạ nhiều.

Mọi người nghe vậy cười vang, người đó nghe Lộ Nhi châm chọc, bỗng nhiên đứng lên quát:

- Ngươi nói cái gì?

Lộ Nhi hơi sợ hãi, nhưng bất luận thế nào, cũng không dễ dàng tha thứ cho người khác coi thường Địch Thanh, ngang đầu nói:

- Ta nói là sự thật, ta đã hai lần gặp qua Địch tướng quân. Thấy hắn trán có sẹo, hai má có hình xăm, thái dương đã bạc, mặc dù nhìn có tang thương nhưng ta biết hắn là nam nhân anh hùng tuấn lãng nhất thiên hạ. Ai hỏi ta đều nói như vậy!

Công tử trong mảnh vải nghe xong, lẩm bẩm nói:

- Nghe nàng ấy nói như vậy, xem ra thật sự đã gặp Địch Thanh. Không ngờ tóc mai Địch Thanh đã bạc, ta và hắn lại mấy năm chưa gặp.

Người hầu nói:

- Dạ vâng, Địch Thanh tang thương rất nhiều, có lẽ do gió bụi biên ải Tây Hạ mài mòn nhiều, làm người ta nhanh già một chút.

- Biên ải Tây Hạ không tốt, tại sao Địch Thanh luôn lưu luyến biên thùy?

Công tử đó lẩm bẩm tự nói, nghe bên ngoài mảnh vải bộ dạng muốn đánh nhau, cau mày nói:

- Bảo Giang lão kể tiếp đi.

Người hầu vừa nghe, giọng the thé kêu lên:

- Đừng ầm ĩ nữa, nếu không nghe thư, thì xin xuống lầu.

Mọi người đều nói:

- Phải đó, nghe thư nghe thư, không muốn nghe thì xuống đi.

Người đàn ông mặc áo dài đó thấy mọi người đều bất mãn với gã, hừ lạnh một tiếng, tự nói:

- Ta vẫn thật muốn nghe thử Địch Thanh có năng lực gì.

Giọng nói tuy không phục, nhưng cuối cùng không gây chuyện nữa. Người mù đó đã giảng hòa nói:

- Lộ Nhi, vậy con nói thử xem, câu thơ cuối cùng bài thơ này của ta là nói ai?

Lộ Nhi cũng không tranh cãi nữa, suy nghĩ hồi lâu mới nói:

- Người hiền mười năm dấn bước phong sương, chẳng phải là nói Phạm công sao? Nhưng cái này và sương khói có liên quan gì chứ?

Trên mặt người mù lộ ra phần hào quang, nói:

- Đúng vậy, ta nói chính là Phạm công. Phạm công mấy năm nay trấn thủ tây bắc, cùng với Địch tướng quân một văn một võ, hợp nhau càng tăng thêm sức mạnh, quả thật là trụ cột vững vàng của tây bắc Đại Tống. Nghe nói Phạm công không những văn chương giỏi, còn là một tay chơi đàn rất hay. Nhưng cuộc đời đánh đàn, chỉ đánh một ca khúc, tên “Dấn bước phong sương” Phạm công thăng trầm mấy năm, trải bao phong sương nhưng nhưng không đổi khí tiết, lão hán ta chính là rất ngưỡng mộ.

Mọi người cũng đều lộ ra vẻ tán đồng, ngay cả người đàn ông mặc áo dài đó, lần này cũng không có nói gì.

Công tử trong mảnh vải nói:

- Phạm Trọng Yêm gần đây thế nào rồi?

Người hầu nói:

- Ông ấy và đám người Phú Bật, Hàn Kỳ, Hạ Tủng đều từ biên thùy triệu hồi về kinh thành, trước mắt đang chờ căn dặn của Thánh Thượng. Thật ra Thánh Thượng muốn biết Phạm Trọng Yêm, chuyện của Địch Thanh có thể tìm bọn họ hoặc tìm đám quân thần hỏi, hà tất ở đây nghe người ta thuyết thư chứ?

Công tử đó mỉm cười nói:

- Người ngoài nói có phần hơi thiên lệch, chỉ có lời nói của đám người này, lúc này mới có thể nói ra yêu thích của dân chúng. Trẫm kiên quyết thay đổi cải cách, đương nhiên phải bao gồm nghe ngôn luận nhiều phía, vậy mới có thể có quyết định.

Công tử đó không phải người ngoài, chính là Triệu Trinh Thiên tử đương triều Đại Tống.

Triệu Trinh đã từ lâu không còn ngây ngô bất lực của năm nào, thần sắc uy nghiêm vô cùng.

Người hầu chính là Diêm Sĩ Liêm thái giám đứng đầu trong cung, nghe vậy nói:

- Thánh Thượng anh minh.

Còn định nói thêm cái gì, Triệu Trinh đã nói:

- Nghe thư đi.

Diêm Sĩ Liêm lập tức khoanh tay ở bên cạnh, không nói nhiều nữa.

Người mù bên ngoài mảnh vải lúc này sớm đã nói tới chiến thắng An Viễn. Nói tới Địch Thanh liên tiếp chém hai tướng, bị quỷ kế của người Hạ làm bị thương rơi xuống ngựa. Mọi người đều lo lắng vạn phần, Lộ Nhi tiếp lời nói:

- Ông nội, Địch tướng quân trọng thương, vậy làm thế làm là tốt?

Người mù nói:

- Địch tướng quân trọng thương, được Phong trại chủ đoạt lại đưa về doanh trại. Người Hạ thấy thế rất vui mừng, đệ nhất cao thủ Dạ Xoa Bộ Ngôi Danh Hư vẫn ẩn núp trong Hạ doanh, Ngôi Danh Hư Dạ Xoa chạy tới khiêu chiến, nghĩ rằng chiếm được lợi thế, mắng chửi khiêu chiến trước doanh. Địch tướng quân mới về tới doanh, thì đã tỉnh lại, nghe có địch tới khiêu chiến, lập tức lên ngựa lần nữa, quát:

- Địch Thanh có thể chết, không thể không chiến.

Câu nói cuối cùng của người mù, xen lẫn tiếng đánh của lê hoa mộc, leng keng có lực. Mọi người nhiệt huyết dâng lên, đều nói:

- Địch tướng quân quả nhiên thật là anh hùng.

Triệu Trinh nghe xong, nhớ tới chuyện cũ năm đó, thổn thức nói:

- Cái tên Địch Thanh này, thật sự thay đổi rất nhiều.

Người mù ngoài mảnh vải nói:

- Địch tướng quân lúc đó trọng thương trên người, người khác đều đang lo lắng sống chết của Địch tướng quân. Nhưng Địch tướng quân nghe địch đến, thì phấn khởi tiếp tục ra chiến, ra trại chỉ một hiệp thì chém Ngôi Danh Hư, thét lệnh quân Tống phản kích. Lúc đó quân Tống trại An Viễn cảm thấy cả người tràn đầy dũng khí, lập tức cùng Địch tướng quân đuổi giết ra ngoài. Khí thế đó, như hồng thủy bạo phát, không ngờ lại đánh tan binh mã Đậu Duy Cát Thái úy Linh Châu. Địch tướng quân một ngựa xông lên trước, lại chém Đậu Duy Cát, binh sĩ dọc các bảo trại nghe vậy, đều chém giết theo. Trong nháy mắt tụ lại mấy vạn binh mã, thẳng giết tới Tam Xuyên Khẩu, thu lại phần đất mất của Đại Tống.

Người mù nói tới mức nước miếng văng tứ tung, người nghe mặt mày hớn hở, hãnh diện. Chỉ có người mặc áo dài cười lạnh nói:

- Địch Thanh trọng thương còn có thể đuổi ra mấy trăm dặm, có ai có thể tin chứ?

Người mù ngẩn ra, giây lát đứng lên nói:

- Lúc đó lão hán ở An Viễn, nghe nói chuyện này, làm sao có thể giả?

Người mù thuyết thư, đương nhiên cũng không tận tường. Sự thật Địch Thanh là làm bộ bị thương kéo dài thời gian chờ đợi cơ hội phản kích. Nhưng người mù cũng không biết chân tướng, vì để nói anh hùng của Địch Thanh, đương nhiên dứt khoát bảo Địch Thanh trọng thương phấn khởi phản kích lại. Nhưng người mù không cảm thấy có gì không đúng. Xưa nay thuyết thư, chỉ cầu lưu loát biến chuyển, chi tiết không cần đi sâu nghiên cứu kỹ. Lúc nãy Lộ Nhi và người mặc áo dài cãi nhau, người mù còn thầm trách cháu gái nhiều chuyện. Lúc này nghe người đó chất vấn đã nói rõ sựthật, không kìm được cả mặt đỏ bừng, gân xanh nổi rõ trên trán .

Người mặc áo dài đó cười lạnh nói:

- Cho dù lúc đó ông ở An Viễn, chẳng lẽ không thể nói dối gạt người. Dù sao ta không tin Địch Thanh lợi hại như vậy. Nếu thật gặp được hắn, ngược lại muốn đọ sức với hắn một chút.

Mọi người đều trợn mắt nhìn, nhưng thấy người đó hung bạo, không dám nói nhiều. Đột nhiên có người nói:

- Dựa chút bản lĩnh của ngươi, còn muốn tìm Địch đại ca đọ sức? Ta dưới tay Địch đại ca đi không được ba chiêu. Tào Anh, đến đây, đến đây, đến đây. Nếu ngươi có thể tiếp ta hơn ba chiêu, ta gọi ngươi tổ tông! Nếu ngươi tiếp không nổi, sớm cút con mẹ nó, đừng bịa đặt làm nhục người khác.

Mọi người đang giận dữ, thấy có người bước ra, không khỏi phấn chấn. Người đó lúc nãy vẫn lặng lẽ nghe thư ở một góc, người bên cạnh cũng không có để ý. Lúc này vươn người đứng dậy, mọi người mới phát hiện người này râu lổm chổm, hai tròng mắt sáng ngời, dù tiều tụy, nhưng đứng ở đó lại có ý cao ngạo không nói được.

Người mặc áo dài đó tên Tào Anh, nghe có người gọi ra tên của gã đã giật mình, quay đầu nhìn người đó, thần sắc hơi thay đổi. Mọi người cho rằng Tào Anh sẽbước lên giao đấu, không ngờ gã chỉ đạp chân, ảo nảo xuống lầu.

Triệu Trinh cách mảnh vải nhìn người đó khóe miệng mỉm cười trong thần sắc có phần xúc động, lẩm bẩm nói:

- Quách Quỳ không có làm nhục uy danh của Kỳ huynh.

Triệu Trinh đương nhiên nhận ra người đứng ra đó, thì ra người đó chính là Quách Quỳ đệ đệ của Quách Tuân.

Thời gian như mũi tên, thiếu niên hi hi ha ha năm đó, trải qua mạch chảy của thời gian, đau khổ tổn thương đã sớm trưởng thành hơn rất nhiều so với thiếu niên bình thường.

Những năm gần đây Quách Quỳ chuyên cần luyện võ kỹ, vô cùng khắc khổ, sớm tạo ra tên tuổi trong cấm quân, Tào Anh cũng là người trong cấm quân, thấy là Quách Quỳ tự biết không địch lại, lại biết người này được Thiên tử coi trọng, không thể đắc tội, chỉ có thể bỏ đi.

Mọi người thấy Quách Quỳ đuổi Tào Anh đi, vừa mừng vừa khâm phục, Lộ Nhi hé miệng cười:

- Mỗi lần có người nhục mạ Địch tướng quân, đều có người đứng ra bênh vực, xem ra công đạo tự trong lòng người. Vị công tử này, cao tính đại danh của ngài, không biết có thể nói cho chúng ta biết không?

Trong lòng Lộ Nhi lại thầm nghĩ: “Người này gọi Địch Thanh là Địch đại ca, xem ra rất thân với Địch Thanh. Sau khi biết tên của người này, nhất định tuyên dương cho y.”

Quách Quỳ do dự một chút, lắc đầu nói:

- Tại hạ vô danh tiểu tốt, gặp chuyện bất bình mà thôi. Ta còn có chuyện, cáo từ.

Y nói đi thì đi, thoắt cái xuống lầu, không biết đi đâu. Thật ra y biết dụng ý của Lộ Nhi, nhưng lòng nghĩ: Ta tuy tôn trọng Địch đại ca, nhưng ta là đệ đệ của Quách Tuân, tự có thể dựa vào hai bàn tay của mình làm ra khoảng trời, mới không nhục uy danh của đại ca. Nếu đã như vậy không cần mượn danh tiếng của Địch đại ca.”

Mọi người thổn thức một trận, lại tụm năm tụm ba bàn tán một hồi.

Triệu Trinh bảo Diêm Sĩ Văn cho Giang lão hán một trăm lượng, bảo ông ấy ở đây nói thêm mười ngày, không cần nói cho Triệu Trinh y nghe nữa.

Giang lão hán tuy cảm thấy kỳ quái, nhưng điều kiện này không có lý nào từ chối, cùng với Lộ Nhi rất vui mừng đi. Triệu Trinh lại uống rượu, có cung nhân vội vã lên lầu, nói nhỏ vài câu với Diêm Sĩ Lương, Diêm Sĩ Lương nghe xong, nói với Triệu Trinh Thánh Thượng, Hạ Tủng vào cung xin gặp.

Triệu Trinh gật đầu, đứng dậy xuống lầu, dưới hộ vệ của mấy thị vệ đi về cung. Mới qua mấy con phố, phía trước cách đó không xa đột nhiên hiện ra một người, cản trên đường

Bọn thị vệ hơi run, tay đã đặt lên chuôi đao, cản trước người Triệu Trinh.

Triệu Trinh đã nhìn thấy người đó chính là Quách Quỳ, quát lui thị vệ, hỏi:

- Quách Quỳ, ngươi làm gì?

Y vì nguyên do của Quách Tuân nên rất xem trọng Quách Quỳ.

Quách Quỳ quỳ một chân lên đất, hai tay ôm quyền nói:

- Thánh Thượng, thần có chuyện thỉnh cầu.

Triệu Trinh vẻ mặt ôn hòa nói:

- Khanh có chuyện gì, đứng lên nói đi.

Quách Quỳ chậm rãi đứng lên, khó hiểu nói:

- Thần không hiểu tại sao Thánh Thượng vẫn không gặp Địch Thanh màchỉ là mời người thuyết thư nói chuyện của Địch Thanh?

Diêm Sĩ Lương quát lớn:

- Thánh Thượng hành sự, không cần nói cho ngươi biết!

Triệu Trinh khoát tay chặn Diêm Sĩ Lương lại, thản nhiên nói:

- Ngươi từ lâu đã biết mời Giang lão hán thuyết thư là trẫm, do đó đợi trẫm ở tửu lầu? là Địch Thanh bảo ngươi tới?

Quách Quỳ lắc đầu nói:

- Địch Thanh không biết thần đến, chuyện này là thần tự chủ trương. Thánh Thượng, Địch Thanh trung thành vì nước, quay lại kinh thành chỉ vì chuyện nước, không biết tại sao Thánh Thượng vẫn trốn tránh không gặp?

Triệu Trinh trốn tránh không trả lời, nói:

- Trẫm còn có chuyện, ngươi về đi.

Dứt lời cất bước bỏ đi.

Quách Quỳ sờ cái mũi xám, thấy sắc mặt Triệu Trinh bình thản như nước, không dám khuyên nữa, ngượng ngùng tránh người qua một bên. Sau khi thấy Triệu Trinh bỏ đi, Quách Quỳ không còn cách nào trở về Quách phủ, thấy Địch Thanh đang ngồi trong đình viện, nhìn yến bay trên bầu trời, đi qua chào hỏi:

- Địch nhị ca, hôm nay không có gặp được Thánh Thượng sao?

Y làm việc suy tính mà làm, cũng không nói với Địch Thanh chuyện gặp qua Triệu Trinh

Địch Thanh lắc đầu, thu ánh mắt lại, đứng dậy vỗ vỗ vai của Quách Quỳ nói:

- Hôm nay vẫn đánh chứ? Sau khi hắn về kinh thành, vẫn cùng Quách Quỳ luận bàn võ nghệ, biết Quách Quỳ đã như bảo kiếm dùi mài, sắc nhọn dần hiện ra.

Quách Quỳ không kịp trả lời, Triệu quản gia của phủ Bát vương gia lại tới viện đình

- Địch tướng quân, Bát vương gia cho mời.

Địch Thanh hơi giật mình, sau khi hắn về kinh thành, ít liên lạc người khác, cũng vẫn không đi thăm Bát vương gia. Hắn cảm thấy trong lòng có hổ thẹn, vì hắn vẫn không có thực hiện lời hứa.

Quách Quỳ cười ha hả nói:

- Địch đại ca, đại ca đi thăm Bát vương gia đi. Hôm nay đệ có chút mệt, muốn nghĩ một ngày.

Trong lòng thầm nghĩ:

“Nếu qua Bát vương gia xin gặp Thánh Thượng cũng có chút hi vọng, hừ.. nếu mấy ngày sau, Thánh Thương vẫn không gặp Địch đại ca, đệ nhất định lại lần nữa xin gặp Thánh Thượng, nói chuyện này.”

Sau khi Địch Thanh tới phủ Vương gia, thấy Bát vương gia vẫn đang ngồi trước đường bên bình phong uống trà, quần áo sạch sẽ.

Mấy năm nay, tất cả mọi thứ đều thay đổi, hình như chỉ có Bát vương gia và cái bình phong đó không có thay đổi. Nhưng Địch Thanh mắt nhạy bén, đã nhìn thấy dung mạo Bát vương gia lộ vẻ già một chút, nếp nhăn trên mặt càng sâu thêm một chút.

Thấy Địch Thanh đến, Bát vương gia chỉ là khoát tay, ám chỉ Địch Thanh ngồi xuống. Khuôn mặt vốn chết lặng, cuối cùng lộ ra phần tươi cười, cảm tình của ông ấy đối với Địch Thanh, hình như cũng có thay đổi.

Địch Thanh ngồi xuống, có chút hổ thẹn nói:

- Bá phụ, cháu vẫn không thể vào Hương Ba Lạp... cũng vẫn cứu không được Vũ Thường.

Bát vương gia có chút bất ngờ nói:

- Không thể vào Hương Ba Lạp. Nói như vậy, cháu biết Hương Ba Lạp ở đâu?

Địch Thanh gật đầu nói:

- Từ các dấu hiệu cho thấy, Hương Ba Lạp ở Sa Châu gần Đôn Hoàng. Hơn nữa rất có thể ngay dưới sa mạc đó.

Bát vương gia thở dài thoải mái:

- Thì ra cháu cũng biết rồi, ta cũng mới dám khẳng định như vậy.

Định Thanh ngẩn ra, hỏi:

- Bá phụ, người làm sao biết tin tức này?

Sắc mặt Bát vương gia có chút mệt mỏi, chậm rãi nói:

- Mấy năm nay ta không ngừng phái người tới Sa Châu tìm hậu nhân họ Tào hỏi, lúc này mới có được kết luận này. Nghe cháu cũng nói như vậy, xem ra Hương Ba Lạp quả thật ở Sa Châu. Nhưng bây giờ cho dù biết Hương Ba Lạp ở Sa Châu rồi, nhưng không thể thuận tiện hành sự, ở đó có trọng binh Nguyên Hạo canh giữ. Hiền chất, lần này cháu về kinh, vội tìm Thánh Thượng có chuyện gì?

Địch Thanh đem chuyện liên minh Thổ Phiên cùng đánh nước Hạ sơ lược nói qua, lại nói:

- Bá phụ, nếu thật có thể như vậy, một mặt có thể ngăn chặn kiêu ngạo của nước Hạ, cũng có thể để chúng ta thuận tiện đi tìm Hương Ba Lạp. Có thể nói là kế nhất cử lưỡng tiện, nhưng Thánh Thượng vẫn tìm cớ không chịu gặp cháu. Bá phụ, người có thể dẫn cháu đi gặp Thánh Thượng không?

Bát vương gia cau mày, ngón tay khẽ gõ lên bàn, thấy trong thần sắc Địch Thanh có chút hy vọng, sau hồi lâu mới nói:

- Cháu và ta đều có cùng chung một nguyện vọng, chính là cứu lại Vũ Thường, theo lý ta không thể từ chối. Địch Thanh trong lòng trầm xuống, cảm giác trong lời nói của Bát vương gia có chuyện, Bát vương gia thở dài nói:

- Bây giờ nước Hạ cầu hòa, tây bắc cuối cùng có thời gian nghỉ ngơi. Thánh Thượng một lúc triệu mấy người Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ, Hạ Tủng từ tây bắc về. Ta hơn phân nữa cho rằng Thánh Thượng trốn tránh không gặp cháu là vì hạ quyết tâm nghị hòa với nước Hạ, không muốn cháu nhắc tới chuyện liên minh với Thổ Phiên.

Địch Thanh kinh ngạc nói:

- Chẳng lẽ không phải vậy sao?

Bát vương gia lắc đầu nói:

- Chuyện không có đơn giản như cháu nghĩ. Hiền chất, hơn phân nữa cháu không hề biết, lúc cháu chinh chiến ở tây bắc, đám người Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ đã nhiều lần dâng thư hồi kinh, chỉ ra khuyết điểm Đại Tống bây giờ. Cho rằng không thay đổi không hưng quốc, không thay đổi không cường binh. Bây giờ trước có bọn người Quách Mạc Sơn, Vương Tắc làm loạn, gây nên khắp nơi cả nước có lưu dân tạo phản. Lại vì tác chiến với Hạ bất lợi, Thánh Thượng cảm thấy Đại Tống loạn trong giặc ngoài, cũng kiên quyết thay đổi cải cách.

Địch Thanh khó hiểu nói:

- Vậy đây là chuyện tốt, vậy có liên quan gì Thánh Thượng không gặp cháu?

Bát vương gia thở dài nói:

- Có thể là chuyện tốt, nhưng cải cách này, lại động tới địa vị của Lã tướng đương triều. Cháu cũng biết, Lã Di Giản độc tài quyền to nhiều năm, nghe tin đồn Thánh Thượng cải cách, muốn loại bỏ địa vị của Lã Di Giản. Lã Dĩ Giản làm sao có thể ngồi chờ chết chứ? Khoảng thời gian trước, lúc cháu tới Thổ Phiên, Lã Di Giản đặc biệt đề nghị Thiên tử bổ nhiệm Trịnh Tiển làm Tứ Lộ Kinh lược An phủ sử Thiểm Tây, đi tới Thiểm Tây.

- Trịnh Tiển này là ai?

- Trịnh Tiển xuất thân tiến sĩ giữa năm Thiên Thánh, có chút quan hệ thân thích với Phạm công, cũng xem là một trung thần. Là người cương chính, cũng có nhiều xung đột trên công sự với Lã Di Giãn.

Bát vương gia nói

Địch Thanh có chút hoang mang, lại hỏi:

- Nếu Trịnh Tiển thật sự như vậy, đây cũng xem là chuyện tốt?

Hắn thấy Bát vương gia mặt cau mày có thì không hiểu.

Bát vương gia khẽ thở dài một cái nói:

- Hiền chất, cháu lãnh quân tốt, nhưng không hiểu nguy hiểm trong triều. Cháu thật cho rằng Lã Di Giản là có lòng tốt? Trịnh Tiển cương chính không giả, nhưng người quá cứng nhắc chân thật. Trước nay ông ta vốn trở mặt với Lã Di Giản lần này được Lã Di Giản đề cử đi Thiểm Tây, đương nhiên sẽ làm việc cẩn trọng nếu không sẽ bị nắm thóp. Vì Trịnh Tiển biết được, nếu là mưu lợi việc riêng thì chuyện nhỏ, chỉ sợ càng phải liên lụy tới Phạm công. Nhưng nếu Trịnh Tiển quá nghiêm túc, thì tây bắc xảy ra vấn đề rồi. Ta biết Phạm công và ông ta có tình cảm tốt với Đằng Tử Kinh xưa nay làm việc lớn không câu nệ tiêu tiết, chỉ mong được đối kháng quân Hạ, do vậy về mặt tiền công quỹ tiền sử dụng rất có vấn đề.

Địch Thanh ngược lại biết chút chuyện về tiền công quỹ.

Tiền công quỹ được xem như là kho bạc nhỏ của địa phương do triều đình đại Tống cấp cho quan viên địa phương, để địa phương chịu trách nhiệm chi tiêu linh hoạt, tính chất cùng loại với nội tàng khố trong hoàng cung. Tây bắc tích cực chuẩn bị chiến tranh mộ binh, nếu đợi triều đình phân phối, nhất định không thể kịp thời cung ứng. Do đó những người như Phạm Trọng Yêm, Đằng Tử Kinh, Chủng Thế Hành khéo léo dùng tiền công quỹ để đảm bảo cho Địch Thanh dụng binh.

Chuyện này vốn không thẹn với lương tâm, nhưng suy cho cùng trái lại với phép tắc của triều Tống. Nếu thật sự kiểm tra, rất nhiều tiền lấy ra rồi thì khó điều tra nghiên cứu, khó tránh khỏi có nghi ngờ tham ô.

Địch Thanh nghĩ tới đây, cau mày nói:

- Giặc ngoài chưa đi, người Hạ vẫn đang như hổ rình mồi, bây giờ hợp nghị chưa thành, Lã tướng muốn đối với thuộc hạ người mình rồi sao? Cháu cảm thấy Lã tướng là người bề trên, Phạm công cũng nói qua, người này xử sự quả cảm, chẳng lẽ không phân rõ chỗ có ích của biến pháp?

Bát vương gia mỉm cười nói:

- Lã Di Giãn đương nhiên cũng biết ích lợi của biến pháp. Nhưng một người đứng đầu ở Lưỡng phủ, thay đổi chính trị đối với ông ta không có lợi ích. Người này lòng tham vọng quyền lực rất nặng, chỉ lo địa vị của mình, làm gì để ý tới sống chết của tây bắc? 

Địch Thanh không ngốc, từ lời nói Bát vương gia đoán được điều gì, dò hỏi:

- Bát vương gia, cháu muốn rằng, Thánh Thượng thay đổi cải cách, muốn trọng dụng những người như Phạm công. Lã tướng vì bảo vệ chức quan, do đó muốn mượn Trịnh Tiển điều tra chuyện sử dụng tiền công quỹ để công kích Phạm công sao?

Nhưng trong lòng lại nghĩ:

“Điều này có liên quan gì với Thánh Thượng không gặp mình chứ?

Bát vương gia sắc mặt nghiêm trọng nói:

- Nếu chỉ là chút chuyện này, vẫn còn tốt. Nhưng bây giờ trong triều có đồn đại, Phạm công và cháu có binh tự trọng ở tây bắc, bí mật huấn luyện Thập Sĩ, có ý đồ tạo phản tự lập làm vương.

 Chương 365 - 367: Lựa chọn

Địch Thanh bỗng nhiên đứng lên, sắc mặt xanh mét, nói:

- Làm gì có chuyện này? Tại sao cháu muốn tạo phản? Cháu đi xin gặp Thánh Thượng.

Địch Thanh trong lòng kinh hãi khó hiểu, chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có tin đồn này. Hắn ngược lại không quan tâm mình, chỉ là sợ liên lụy Phạm Trọng Yêm.

Bát vương gia vội vàng khoát tay nói:

- Cháu đừng kích động, cháu nghe ta nói. Chuyện tin đồn này có thể lớn có thể nhỏ, cháu muốn hóa giải không phải chuyện khó. Nhưng nếu cháu kích động, chỉ sợ hư chuyện.

Địch Thanh trấn tĩnh lại, chậm rãi ngồi xuống, hỏi:

- Theo bá phụ thấy, cháu nên làm thế nào xử lý chuyện này?

- Nghĩ rằng thanh giả tự thanh. Ta tin hiền chất trung thành vì nước, thật ra Thánh Thượng cũng rất có thiện cảm với cháu. Thậm chí có thể nói, cháu là người Thánh Thượng tin nhiệm nhất. Nếu cháu ở bên cạnh Thánh Thượng, với cấp bậc hiện giờ, đợi một thời gian, thăng cấp càng nhanh hơn xa với tác chiến ở tây bắc. Thánh Thượng triệu cháu về kinh, không để cháu lãnh quân nữa, lời đồn tự lập làm vương không đánh mà tự diệt. Cháu ở bên cạnh Thánh Thượng, cho dù tây bắc có chút vấn đề, chỉ cần có Thánh Thượng mở lời, còn có ai có thể làm gì được cháu chứ?

Địch Thanh trầm ngâm hồi lâu, mới nói:

- Cháu hiểu rồi, Thánh Thượng vẫn không gặp cháu, một là không muốn cháu nhắc tới chuyện liên minh Thổ Phiên, mặt khác không muốn cháu đi tây bắc mữa, có phải không?

Bát vương gia cười cười, vui mừng nói

- Cuối cùng cháu hiểu rồi.

Địch Thanh cũng cười, đứng lên nói:

- Đa tạ bá phụ nhắc nhở, cháu còn có chuyện, xin về trước.

Hắn cáo từ bỏ đi, tâm sự nặng nề, không có để ý tới ánh mắt của Bát vương gia nhìn hắn có chút kỳ quái.

Địch Thanh nỗi lòng dồn dập, sau khi về tới Quách phủ, đóng cửa mấy ngày không ra ngoài, cũng không đi xin gặp Thánh Thượng nữa.

Quách Quỳ thấy vậy không kìm được lo lắng, nhưng y cũng không có cách nào. Qua mấy ngày như thế, trong kinh dường như vẫn gợn sóng không sợ hãi, Quách Quỳ lại có chút kìm nén không được, hôm nay mới muốn ra phủ đi gặp Thánh Thượng, đột nhiên trước cửa gặp được Diêm Sĩ Lương.

Diêm Sĩ Lương nhìn thấy Quách Quỳ, nói thẳng vào điểm chính:

- Địch Thanh có ở trong phủ không?

Quách Quỳ vừa mừng vừa sợ, vội hỏi:

- Diêm đại nhân, có phải là Thánh Thượng muốn gặp Địch đại ca?

Diêm Sĩ Lương lắc đầu nói:

- Không phải Thánh Thượng muốn gặp Địch Thanh, mà là Tào hoàng hậu muốn gặp Địch tướng quân, đặc biệt phái ta đến mời Địch Thanh vào cung.

Quách Quỳ ngẩn ra.

Địch Thanh nghe Diêm Sĩ Lương nói Tào hoàng hậu muốn gặp hắn, cũng không kìm nổi kinh ngạc. Hắn biết Triệu Trinh phế Quách hoàng hậu, thì lập Tào thị làm hậu. Tào hoàng hậu vốn là cháu gái của Tào Bân tướng lĩnh khai quốc Đại Tống, nghe nói ền lương thục đức, cho dù Phạm Trọng Yêm cũng có chút khen ngợi người này.

Nhưng Địch Thanh và Tào hoàng hậu hoàn toàn không có liên quan gì, Tào hoàng hậu tìm hắn làm gì?

Địch Thanh mang theo nghi hoặc vào cung, tới trước cung Bảo Từ chỗ ở của Tào hoàng hậu. Đã cách nhiều năm, đại nội sớm xóa đi dấu tích đại hỏa hoạn năm đó, nhưng cảnh ngọn lửa lớn đốt bát điện còn lưu lại trong đầu Địch Thanh.

Cung Bảo Từ vốn là điện Sùng Huy năm đó tu sửa lại. Trong cung rất nhiều đại điện sớm đã đổi sắc mới, lúc Địch Thanh tới đây, không kìm nổi nhìn về phía cửa Hoàng Nghi.

Cửa cung sâu nặng, khói lượn lờ, nhìn vào đó như nhìn thấy sự u oán thâm cung vô tận. Chỉ thấy có chim oanh hót vang, nhanh nhẹn không ngừng bay trên không trung. Trong đầu Địch Thanh lại có đường ảnh trắng xẹt qua, thần sắc buồn bã.

Có cung nữ đến nói:

- Hoàng hậu ở ngự hoa viên của hậu cung, mời Địch tướng quân đến gặp.

Diêm Sĩ Lương biết điều cáo lui. Sau khi cung nữ đó dẫn Địch Thanh tới qua đường nhỏ đầy hoa, qua hành lang dài, qua một ngọn núi giả, phía trước xuất hiện một hoa viên rộng lớn. Lúc này ý xuân đã nồng, trăm hoa rực rỡ, xanh lục bóng bẩy, có mùi cỏ xanh đập vào mặt, làm người ta ở trong đó, thần khí nhẹ nhàng khoan khoái.

Cung nữ dẫn đường đó trên đường đi luôn không kìm nổi lén nhìn Địch Thanh mấy lần. Địch Thanh có chút phát hiện, cũng không để ý.

Tới trước ngự hoa viên, sớm có mấy cung nữ đứng trước vườn, thấy Địch Thanh đến, thu ba (chỉ mắt long lanh của người con gái đẹp) không kìm được đều nhìn qua, lẳng lặng chỉ chỉ, che miệng cười duyên.

Có cung nhân cung kính nói:

- Địch tướng quân đến.

Lúc này trong vườn có mấy người trong đám xanh um đứng lên, nhìn về phía này. Xung quanh vườn có mấy cung nữ đang gánh nước, nghe vậy đặt thùng nước xuống, nhìn về hướng Địch Thanh.

Lúc này Địch Thanh mới để ý tới, ngự hoa viên này tên không hợp với thực tế. Vì trong vườn trồng hoa cỏ ít, nhiều ngũ cốc xanh mới. Cuối vườn đó, trồng mấy hàng cây dâu, đã cao được một chút.

Địch Thanh lớn lên ở thôn quê, ngược lại thấy nhiều loại thế này, trong lòng rất là kỳ lạ, thầm nghĩ nếu không phải mình biết là trong cung, vẫn cho rằng thể tới vườn rau.

Ngự hoa viên sao có thể trồng ngũ cốc cây dâu?

Lúc này có cung nữ đi đến nói:

- Địch... tướng quân, Tào hoàng hậu tìm ngài qua đó. Cung nữ đó lời nói run run, trên mặt đỏ bừng, lại không dám nhìn thẳng Địch Thanh.

Địch Thanh đi về hướng cung nữ đó chỉ, thấy trong vườn rau đang đứng một cô gái, đang nhìn về hắn. Cô gái đó mặc váy Bố La, trang điểm nhẹ, dung nhan mỹ lệ, cái trán hơi có mồ hôi, thấy Địch Thanh chần chừ đi tới, khẽ mỉm cười.

Địch Thanh tới trước mặt cô gái đó, thấy trên tay cô gái đó vẫn đang cầm cái cuốc, không khỏi kinh ngạc, hồi lâu mới thi lễ nói:

- Thần Địch Thanh tham kiến Hoàng hậu. Hắn thật không thể tin Hoàng hậu có thể cầm cuốc. Chẳng lẽ Hoàng hậu bị phạt? nhìn thấy mọi người vui vẻ hòa thuận, lại không giống như bị phạt.

Tào hoàng hậu hạ giọng nói:

- Địch tướng quân miễn lễ.

Tựa hồ nhận ra vẻ hoang mang của Địch Thanh, Tào hoàng hậu cười nói:

- Ta ở trong cung không có chuyện gì làm, thì dẫn bọn họ trồng ngũ cốc, trồng dâu nuôi tằm, thế cũng xem làm chút chuyện. Nếu có thể có chút thu hoạch, có thể cung cấp một số lương thực, quần áo cho những người chúng ta. Vậy thì càng tốt hơn rồi.

Lúc này có cung nữ xách nước tới trước mặt Hoàng hậu, đột nhiên dưới chân mềm nhũn, thùng nước đó muốn đổ ra ngoài.

Địch Thanh duỗi tay ra, nhẹ nhàng đón lấy thùng nước, nói:

- Những chuyện lặt vặt này, giao cho tạp dịch đi làm thì được rồi.

Tào hoàng hậu mỉm cười nói:

- Những chuyện này, vốn là ta bày ra, giao cho bọn họ, không phải tăng thêm trách nhiệm cho bọn họ? Cầm cái gáo múc nước tới mầm, Địch Thanh nói:

- Bây giờ thần không có gánh nặng, chuyện tưới nước này, giao cho thần trước nhé?

Tào hoàng hậu tự nhiên cười, đưa cái cuốc qua nói:

- Vậy chi bằng làm phiền Địch tướng quân lật đất làm cỏ.

Địch Thanh cũng không chối từ, lập tức nhận lấy cái cuốc. Hắn ở quê lâu, tuy nói lúc trẻ ham chơi, dù sao cũng có thể giảm bớt gánh nặng cho đại ca. Việc nhà nông quả thật làm qua không ít, chút chuyện làm cỏ xới đất tưới nước này làm tới thành thạo hơn giết địch trên trận.

Tào hoàng hậu theo bên cạnh Địch Thanh, thỉnh thoảng vẩy nước tưới mầm. Lúc này mặt trời đã lên cao, rọi lên hạt nước trên lá non, sáng lóng lánh một mãnh.

Trong vườn gió xuân ấm áp, trần đầy ánh nắng.

Tào hoàng hậu đột nhiên nói:

- Địch tướng quân có biết ta tìm ngài vì chuyện gì không?

Địch Thanh ngửi ngửi mùi hương của bùn non, tựa như trở lại thời gian lúc còn nhỏ, nhất thời quên đi tất cả phiền não, lúc đó chỉ đang nghĩ:

“Nếu ta không gây chuyện thị phi, nói không chừng không đến được kinh thành. Nếu cả đời ta đều ở quê nhà, vậy là khổ hay là sướng? Nếu không gặp được Vũ Thường...”

Không nghĩ ngợi nữa, nghe Hoàng hậu hỏi, Địch Thanh lắc đầu nói:

- Thứ lỗi thần ngu muội, không biết dụng ý của Hoàng hậu triệu thần tới đây.

Tào hoàng hậu cười hiền lành, duỗi tay chỉ xung quanh nói:

- Bọn họ đã lâu nghe tên của Địch tướng quân, muốn gặp Địch tướng quân lâu rồi.

Địch Thanh hơi giật mình, nhìn xung quanh, thấy xung quanh ngự hoa viên, chẳng biết lúc nào, sớm đã đứng đầy cung nữ. Thấy Địch Thanh nhìn qua, đều che miệng cười. Không biết là ai vỗ tay, mọi người hưởng ứng theo, nhất thời trong vườn tiếng vỗ tay một trận, hồng nhan cỏ xanh lục, tôn nhau lên sáng chói.

Địch Thanh có chút mờ mịt, kinh ngạc nói:

- Hoàng hậu, đây là...

Tào hoàng hậu khẽ mỉm cười, đợi sau khi tiếng vỗ tay ngừng, lúc này mới giải thích:

- Bọn a đầu này, bình thường trong cung rỗi chuyện. Mấy ngày nay nghe đại danh Địch tướng quân, vẫn muốn gặp ngài một lần. Lần này nghe Địch tướng quân trở về kinh thành, liền quấn quít lấy ta, bảo ta nghĩ cách mời Địch tướng quân tới. Ta không chống lại nổi nhõng nhẽo cầu xin của bọn họ, lại vì có chút chuyện muốn hỏi Địch tướng quân, lúc này mới mời Địch tướng quân vào trong cung. Vẫn hi vọng Địch tướng quân đại nhân đại lượng, xin đừng trách.

Địch Thanh có chút bất ngờ, thầm nghĩ: “Tào hoàng hậu này so với Quách hoàng hậu lúc trước bình dị hơn rất nhiều. Những cung nữ này dám cười đùa thế này, nếu gặp phải Quách hoàng hậu, còn không bị ngũ mã phân thây?”

Hắn xưa nay không câu nệ tiểu tiết, thi lễ nói:

- Địch mỗ hạng người bình thường thôi, Hoàng hậu chỉ đùa một chút, tại hạ cũng có chút buồn cười.

Tào hoàng hậu cười nói:

- Bọn họ vỗ tay, không chỉ vì Địch tướng quân chinh chiến chiến trường, trăm trận trăm thắng. Còn vì Địch tướng quân tuấn lãng tang thương, vượt xa tưởng tượng của bọn họ. Càng là vì ....

Ngó ngó cái cuốc trên tay của Địch Thanh, ngừng tạm thời, lúc này mới duyên dáng cười nói:

- Càng là vì Địch tướng quân quen thuộc đối với chuyện nhà nông như vậy, làm người ta phát ngây ra. Thật sự là nam nhân tốt trong vạn người có một, khó trách lúc Thường Ninh mấy ngày trước nhắc tới Địch tướng quân với ta, tràn đầy tôn sùng.

Địch Thanh nghe Tào hoàng hậu nói như vậy, hơi đỏ mặt. Nghe Tào hoàng hậu nhắc tới công chúa Thường Ninh, trong lòng khẽ động, mơ hồ nghĩ tới chút gì đó.

Lúc này bên ngoài ngự hoa viên có tiếng cung kính nói:

- Thánh Thượng giá lâm. Sau đó nghe tiếng bước chân vang lên, Triệu Trinh kim quan long bào, đã đến trong ngự hoa viên.

Chúng cung nữ vội quỳ xuống tại chỗ, Tào hoàng hậu đưa mắt ra hiệu Địch Thanh, nhanh tới nghênh đón, chỉnh đốn trang phục hãnh lễ:

- Tham kiến Thánh Thượng.

Địch Thanh ở phía sau mấy bước, xa xa quỳ một chân trên đất, lễ trong hành quân nói:

- Thần Địch Thanh... tham kiến Thánh Thượng.

Triệu Trinh đưa mắt liếc nhìn lên người Địch Thanh, trong thần sắc tựa hồ hơi có chút bất ngờ, khoát tay nói:

- Không cần đa lễ, đứng lên hết đi.

Chúng cung nữ đứng lên, xuôi tay đứng nghiêm, không dám làm càn nữa. Địch Thanh thấy thần sắc Triệu Trinh uy phong nghiêm nghị, buồn vui không rõ, trong lòng thầm nghĩ:

“Triệu Trinh cũng thay đổi rồi, thay đổi khó có thể đoán được.”

Đợi Hoàng hậu và Địch Thanh đứng lên, Triệu Trinh cười nói:

- Hoàng hậu, nàng tìm trẫm tới ngự hoa viên, có chuyện gì sao?

Tào hoàng hậu chỉ vườn rau trồng, cười khanh khách nói:

- Thánh Thượng, ngài xem xem, những ngũ cốc này hôm nay đều sinh trưởng rất tốt, còn có một phần công lao của ngài lúc trước.

Triệu Trinh vui vẻ hớn hở nói:

- Đúng vậy, lúc đầu mùa xuân, nàng nhất định phải kéo trẫm đến trồng trọt. Ta cũng ra phần sức, nhưng nhiều đều là công lao của Hoàng hậu nàng. Nàng nói bảo trong cung bớt ăn giảm mặc, dùng cho chinh chiến tây bắc, trẫm cảm thấy rất có lý.

Địch Thanh nghe xong, trong lòng ấm áp, thầm nghĩ: “Tào hoàng hậu này thân ở trong thâm cung, lại còn có thể vướng bận chiến sĩ tây bắc, quả thật làm người ta cảm kích.”

Triệu Trinh vừa chuyển đề tài, nhìn Địch Thanh nói:

- Hoàng hậu, nhưng nàng tìm Địch Thanh đến, có chuyện gì vậy?

Tào hoàng hậu nói:

- Thiếp tìm Địch Thanh đến, thật ra... là muốn hỏi chút chuyện xá đệ

Địch Thanh thầm chấn động, vừa nghĩ từng gặp qua Tào Dật. Tào Dật chính là em của Tào hoàng hậu. Triệu Trinh chau mày nói:

- Quốc cữu vẫn chưa có tung tích sao?

Tào hoàng hậu thu nụ cười lại, ẩn có ý lo lắng, nhíu màu nói:

- Thánh Thượng, xá đệ đã rất lâu không có tin tức truyền về, đệ ấy và những thị vệ đó hình như mất tích không dấu vết.

Địch Thanh cả kinh, vội hỏi:

- Hoàng hậu, quốc cữu mất tích rồi?

Hắn và Tào Dật có hẹn ước, rất có thiện cảm với người này, biết Tào Dật có chuyện, rất là quan tâm.

Lúc này sớm có người đặt cái ghế ở hoa viên, Triệu Trinh và Tào hoàng hậu cùng ngồi xuống, bảo Địch Thanh:

- Địch Thanh, ngươi cũng ngồi đi.

Địch Thanh do dự một chút, không muốn làm trái chỉ bảo của Triệu Trinh, cuối cùng ngồi xuống.

Mọi người thấy vậy trong lòng đều nghĩ:

“Theo lời đồn, Thánh Thượng đối với Địch Thanh như huynh đệ, hôm nay vừa thấy, quả nhiên không giả. Phải biết cho dù người trong lưỡng phủ tới trong cung, có những người đều không có trọng đãi ban chỗ ngồi.”

Tào hoàng hậu ngước khuôn mặt u sầu lên nhìn Địch Thanh nói:

- Địch tướng quân, chuyện của xá đệ, nói vậy ngài cũng biết chút. Lúc ngoài trại Cao Bình, ngài được xem là người gặp được đệ ấy cuối cùng, từ đó về sau, xá đệ chỉ truyền đến một lần tin tức. Lúc đó đệ ấy đã qua Hoành Sơn, tới trong cảnh Hạ, từ đó về sau, đệ ấy không có truyền tin về nữa. Đệ ấy dẫn mười mấy thị vệ, cũng không có một người về. Ta chỉ sợ đệ ấy có chuyện, lúc này mới tìm ngài đến hỏi thử.

Địch Thanh giật mình, nói:

- Thần và quốc cữu sau khi từ biệt ở trại Cao Bình, thì không có gặp lại nữa. Ngài ấy dẫn theo mười mấy thị vệ, cho dù gặp được quân Hạ, cũng không phải không có một người trở về.

Thấy Tào hoàng hậu lo lắng, Địch Thanh an ủi nói:

- Nói không chừng... quốc cữu tự có tính toán, Hoàng hậu không cần quá lo lắng.

Trong mắt Tào hoàng hậu có nước mắt, bi thương nói:

- Đều đã hai năm rồi, bặt vô âm tính, chỉ sợ... ta sợ đệ ấy xảy ra chuyện. Đám thị vệ đó sợ gánh trách nhiệm, lúc này mới không dám trở về nói cho bọn ta biết. Xá đệ xưa nay mệnh khổ, chẳng lẽ... đệ ấy thật sự...

Vốn định nói chẳng lẽ Tào Dật chết cũng không thể gặp lại người nhà một lần, thậm chí hài cốt cũng không thể hồi hương? Bỗng nhiên nỗi bi ai cùngcực trào dâng lên, dựa bàn khóc nức nở.

Triệu Trinh vội đứng dậy tới bên cạnh Hoàng hậu, vỗ nhẹ lên lưng Hoàng hậu, an ủi nói:

- Hoàng hậu đừng khóc nữa, bây giờ đều là phán đoán, quốc cữu chưa chắc có chuyện.

Địch Thanh thấy Tào hoàng hậu nức nở không ngừng, rất thương tâm nói:

- Hoàng hậu, lúc thần ở biên thùy, có một nhóm thuộc hạ rất linh thông tin tức. Nếu thần trở về biên thùy, nhất định bảo thuộc hạ toàn lực tìm kiếm tung tích của quốc cữu, cho Hoàng hậu một câu trả lời.

Triệu Trinh nghe vậy, vội vàng nói:

- Đúng vậy, Địch Thanh đề nghị rất hay.

Đột nhiên nhớ tới điều gì, nói:

- Nhưng mà... Địch Thanh, ngươi nói lại cho Binh bộ biết là được rồi. Trẫm sẽ hạ chỉ, bảo binh bộ xử lý chuyện này thì được rồi.

Địch Thanh trong lòng trầm xuống, Triệu Trinh nói như vậy, chẳng lẽ chính là không muốn để Địch Thanh hắn về lại tây bắc sao? Nhưng hắn vẫn thần sắc không thay đổi, nói:

- Sau khi thần xuất cung, lập tức đi xử lý.

Tào hoàng hậu ngẩng đầu lên, hai tròng mắt nước mắt chưa khô, cảm kích nói:

- Đa tạ Địch tướng quân để tâm, nhưng... ngài trở về kinh thành, là có chuyện quan trọng mà? Chậm trễ ngài làm việc, ta cũng thấy ái ngại.

Địch Thanh không kìm được ngước nhìn Triệu Trinh, thấy Triệu Trinh vừa đúng nhìn lại, trầm giọng nói:

- Thần phụng chỉ hồi kinh, hơn nữa tháng vẫn luôn xin gặp Thánh Thượng, bất cứ lúc nào cũng chuẩn bị trở lại tây bắc. Nhưng khoảng thời gian này Thánh Thượng hình như thân thể không khỏe, vẫn không có gặp thần. Còn chưa biết Thánh Thượng triệu thần về có gì căn dặn không?

Triệu Trinh ho vài tiếng nói:

- Địch Thanh, ngươi ở tây bắc, trẫm kỳ thực rất nhớ ngươi. Lúc trước đồn đại nói ngươi chết ở trại Bình Viễn, trẫm gần như rơi lệ...

Lúc nói, thần sắc tràn đầy xúc động.

Địch Thanh thấy Triệu Trinh biểu lộ chân tình, nhớ lại chuyện cũ, cảm tạ nói:

- Làm phiền Thánh Thượng bận lòng, thần hổ thẹn không dám nhận.

Triệu Trinh khoát tay nói:

- Địch Thanh, trẫm luôn xem người là huynh đệ, nhưng ngươi hình như đối với trẫm có chút xa cách. Năm đó trẫm phái ngươi tới tây bắc, liên lụy ngươi xém chút mất mạng. Mỗi lần nhớ tới điều này, trong lòng khó có thể yên. Nhưng lần này thì tốt rồi, Tây Hạ cầu hòa, tây bắc sẽ không có chiến sự nữa. Địch Thanh, trẫm hy vọng ngươi, sau này ở lại kinh thành.

Địch Thanh khẩn trương, nhớ tới lời nói của Bát vương gia, biết lúc này xin tới tây bắc nữa nhất định làm Triệu Trinh không vui, nhưng hắn không thể không nói, đứng dậy thi lễ nói:

- Thánh Thượng, thần cho rằng, Nguyên Hạo nước Hạ dã tâm bừng bừng, lần này nghị hòa, tuyệt không thành tâm. Nhớ năm đó Đức Minh cha của Nguyên Hạo cũng từng dâng biểu cầu hòa, vẫn chẳng phải đã bị Nguyên Hạo xé bỏ hiệp nghị? Việc phòng bị biên giới tây bắc tuyệt đối không thể lơi lỏng, ngăn chặn cơ hội tốt tiến thủ của nước Hạ.

Sắc mặt Triệu Trinh đột nhiên âm trầm, lạnh lùng nói:

- Địch Thanh, ngươi cũng biết, mấy ngày trước ta nhận được một bức mật thư. Ngươi muốn biết nội dung là gì không?

Địch Thanh trong lòng kinh hãi, lắc đầu nói:

- Thần không biết.

Triệu Trinh từ trong tay áo lấy ra một bức tấu chương, đặt lên bàn nói:

- Mấy ngoài trước, Đô Chỉ huy sứ Phủng Nhật Thiên Võ Tứ Sương Cát Hoài Mẫn có mật tấu, nói thuộc hạ Tào Anh từng nghe có người hát rong ở tửu lầu, khắp nơi tuyên dương công lao của ngươi, mua chuộc lòng dân.

Địch Thanh nghiêm nghị, biết mua chuộc lòng dân chuyện có thể lớn có thể nhỏ. Nghe khẩu khí Triệu Trinh uy nghiêm, càng bất an.

Triệu Trinh lại nói:

- Thật ra có từ năm trước, có người mật cáo nói ngươi bướng bỉnh không chịu thuần phục, tự mình mộ binh. Mạo phạm trên dưới, công nhiên bất kính đối với các trọng thần triều đình như Hàn Kỳ. Địch Thanh, những tội danh này, ngươi bảo ta xử trí thế nào?

Trong ngự hoa viên gió xuân mang hơi lạnh, có mây đen che mặt trời, cả khu vườn đều tối xuống.

Mọi người thấy Triệu Trinh tức giận, đều lo lắng cho Địch Thanh. Địch Thanh ngẩng đầu lên, chỉ là nói năm chữ:

- Thần không thẹn lương tâm.

Tức giận trên mặt Triệu Trinh chợt lóe lên, Tào hoàng hậu thấy, bên cạnh vội nói tránh:

- Thánh Thượng, nghe nói gần đây Mã Chí Thư ở Quảng Tây đích thân tới kinh thành xin Thánh Thượng xuất binh tấn công Ấp La. Không biết Thánh Thượng định đoạt thế nào.

Tào hoàng hậu chỉ muốn chuyển tầm mắt đi, không ngờ Triệu Trinh vẫn không chịu chuyển đề tài, lạnh lùng nói:

- Cha con Mã Chí Thư lúc trước không nghe ý chỉ của trẫm, bây giờ gặp khó mới cầu trẫm, đã muộn rồi.

Địch Thanh tuy ở tây bắc, nhưng biết chuyện của Mã Chí Thư.

Thời sơ Tống, gia tộc Mã thị và triều Tống qua lại rất tốt, được triều Tống ủng hộ, rất có uy tín ở Quảng Tây. Mấy chục năm qua, gia tộc Mã thị tới thời Mã Đạt Ba cha của Mã Chí Thư, đã thành cường hào Quảng Tây, thế lực hơi mạnh.

Mã Đạt Ba năm đó tất cung tất kính triều Tống. Nhưng chiếm cứ Quảng Tây nhiều năm, Mã Đạt Ba dựa vào địa lợi, khai thác mỏ vàng, giàu mạnh một thời. Mã Đạt Ba thế lực lớn mạnh, đối với triều Tống dần dần kêu căng lên. Lúc Lưu thái hậu đương quyền, triều Tống có Khiết Đan uy hiếp, sau có cha con Lý gia làm họa, trong nhất thời không quản được cha con Mã gia. Mặc cho Mã gia phát triển vững chắc, nhưng triều Tống và Mã thị bởi vậy trở mặt.

Triều Tống tuy vô lực xuất binh. Nhưng Mã Đạt Ba tự phong làm vương, chọc giận Ấp La phía nam.

Vốn Mã thị ở Quảng Tây, kẹp giữa Đại Tống và Ấp La, vẫn xưng thần đối với hai bên Đại Tống và Ấp La, tiến cống tài vật. Nhưng sau khi Mã Đạt Ba xưng làm vương, đối với triều Tống cũng ngạo mạn như đối với Ấp La.

Ấp La Vương tức giận, hưng binh đối với Mã Đạt Ba. Mấy năm trước bắt được Mã Đạt Ba. Mã Chí Thư tuy nghĩ nhiều cách cứu, nhưng 䰠La Vương vẫn chém Mã Đạt Ba. Mã Chí Thư con trai của Mã Đạt Ba tức giận, mấy lần dụng binh với Ấp La, nhưng không thành công. Bây giờ cầu xin triều Tống giúp, chỉ muốn mượn binh của triều Tống để báo thù cho cha.

Lúc Triệu Trinh nói tới chuyện này, nói rõ Mã Chí Thư, lại cũng là thầm cảnh cáo Địch Thanh chớ học theo Mã Chí Thư thân ở biên thùy, kiêu căng tự đại.

Địch Thanh trải qua nhiều năm sương gió, làm sao nghe không ra ý của Triệu Trinh, nhất thời trong lòng mờ mịt mất mát.

Triệu Trinh thấy Địch Thanh không nói, chỉ cho rằng hắn chịu thua, trong lòng thầm mừng, giọng chậm rãi nói:

- Địch Thanh, thật ra trẫm tin ngươi, nhưng chỉ có trẫm tin ngươi, bá quan không tin, trẫm cũng không nên khư khư cố chấp. Lần này Tây Hạ sai sứ thần Một Tàng Ngoa Bàng đến nghị hòa, thoạt nhìn có thành ý. Tống Hạ giao binh nhiều năm, bá tính ngao ngán chịu khổ, chuyện nghị hòa, vốn là thuận theo hành sự. Nếu ngươi thích, ta có thể bảo ngươi trao đổi chuyện nghị hòa.

Địch Thanh biết Triệu Trinh tạo lối thoát cho hắn, ý chính là, đem công lao nghị hòa tặng không cho Địch Thanh. Nhưng nghĩ tới chuyện cũ như khói, nghĩ tới những người Quách Tuân, Vương Khuê, Võ Anh, cắn răng nói:

- Thánh Thượng, thần vẫn không đồng ý nghị hòa với nước Hạ.

Triệu Trinh trong lòng tức giận, đứng lên nói:

- Địch Thanh, ngươi nói cái gì?

Địch Thanh trong lòng không thẹn, cũng không sợ hãi nói:

- Thánh Thượng, xin cho thần nói hết.

Thấy Triệu Trinh mặt trầm như nước, cũng không biểu lộ tâm ý, Địch Thanh nói:

- Thánh Thượng, thần chinh chiến tây bắc, cũng từng tự mình ám sát Nguyên Hạo, đã được gặp Nguyên Hạo. Nguyên Hạo người này có dã tâm, vẫn muốn lấy hết Quan Trung, thống nhất thiên hạ, tuyệt không hài lòng với thành quả trước mắt. Bây giờ Nguyên Hạo cầu hòa, theo thần thấy, có ba nguyên nhân....

Triệu Trinh lạnh băng băng nói:

- Có ba nguyên nhân nào?

Địch Thanh để ý tới không hài lòng của Triệu Trinh vẫn kiên trì nói:

- Nguyên nhân thứ nhất chính là Nguyên Hạo lấy lui làm tiến. Lúc này tây bắc Đại Tống đã thành Chúng Chí Thành, khó có cơ hội thừa cơ. Y đương nhiên biết hệ phòng thủ Đại Tống khiếm khuyết, đợi sau khi các tướng lĩnh Đại Tống này rời đi, lại chờ cơ hội xuất chiến.

Địch Thanh biết nói như vậy, không thể nghi ngờ là nghi ngờ gia pháp tổ tông, nhưng buộc lòng phải nói, lại nói:

- Nguyên nhân thứ hai chính là, liên tiếp mấy năm chinh chiến, không rời xa biên thùy, quân Tống dần mạnh, quân Hạ mất nhiều hơn được, lại không thể đánh thông tuyến Quan Trung. Lúc này tạm hoãn thế công, lấy nghị hòa để điều chỉnh sách lược, chỉ cần thời cơ tới, nhất định chính là lúc của bọn họ. Còn nguyên nhân thứ ba chính là, thần đã nhận được tin, Khiết Đan không biết tại sao, trở mặt với Nguyên Hạo, đã có tư thế dời binh tiến về phía tây. Nguyên Hạo chỉ sợ hai hướng bị địch, khó có thể chống đỡ, lúc này mới nghị hòa với Thánh Thượng. Đối phó Nguyên Hạo lòng muông dạ thú, chỉ có đuổi cùng giết tận, toàn lực tiêu diệt một đường, không thể chờ nuôi dưỡng sinh sôi, lại lớn mạnh. Thần đã thuyết phục Tán Phổ Thổ Phiên, ông ta đã nhận lời xuất binh. Cho dù Khiết Đan không xuất binh, chỉ cần Thổ Phiên dụng binh với nước Hạ, ta lại xuất binh tấn công. Cho dù không thể tiêu diệt nước Hạ, ít nhất cũng có thể lấy hết dãy Hoành Sơn. Hoành Sơn uốn lượn ngàn dặm, địa thế nói đơn giản không thua gì mười sáu châu U Vân. Chỉ cần có thể lấy Hoành Sơn, triều đình ta tiến công lui thủ, tây bắc có thể mất đi mối họa.

Thấy Triệu Trinh vẫn không nói, Địch Thanh tự đề nghị:

- Thánh Thượng, thần chỗ có hiềm nghi, nhưng không có thẹn với lòng, chờ lệnh tiếp tục được chiến đấu nơitây bắc...

Sắc mặt Triệu Trinh đột nhiên trầm xuống, quát:

- Đủ rồi, Địch Thanh. Bây giờ dân chúng chịu khổ, cả triều văn võ đồng ý nghị hòa, ngươi dám công kích tổ tông gia pháp, một mình làm ngược lại? Chẳng lẽ thật sự cho rằng văn võ bá quan, cũng không bằng một Địch Thanh ngươi? Ngươi nói ngươi hiểu Nguyên Hạo người này, có phải chính là châm chọc trẫm và bá quan có mắt như mù, không phân biệt thị phi?

Địch Thanh không ngờ mình luận bàn dài như vậy mà Triệu Trinh lại nghe ra ngược lại. Không khỏi kinh ngạc, cứng cỏi nói:

- Thánh Thượng, ngài nghe thần giải thích...

- Không cần nhiều lời, lui xuống!

Trong giọng Triệu Trinh tràn đầy uy nghiêm.

Địch Thanh còn định nói thêm, chợt thấy Tào hoàng hậu nháy mắt ra hiệu với hắn, lại thấy Triệu Trinh đang tức giận, thầm thở dài, thi lễ nói:

- Thần cáo lui.

Hắn xoay người ra ngự hoa viên, trong lòng tràn đây phiền muộn. Thầm nghĩ Triệu Trinh không hiểu khổ của biên thùy, không biết lòng của Nguyên Hạo, quyết ý nghị hòa, vậy Địch Thanh hắn nên làm thế nào mới phải?

Triệu Trinh thấy Địch Thanh bỏ đi, vẫn tức giận không thôi, đánh mạnh xuống bàn, oán hận nói:

- Trẫm nếu không phải nhớ tới giao tình với Địch Thanh. Hôm nay chỉ dựa vào chuyện hắn làm nhục gia pháp tổ tông, thì đã trị tội hắn rồi!

Tào hoàng hậu bên cạnh đứng lên, tự mình bưng chén trà cho Triệu Trinh, thấp giọng nói:

- Thật ra mấy năm trước, chẳng phải Quan gia đã từng nói, gia pháp tổ tông cũng không hẳn vậy, hơn nữa hệ thống pháp luật đầy khiếm khuyết nặng nề. Điểm này Quan gia sớm đã biết, Quan gia từng có ý biến pháp, chẳng phải là muốn nhằm vào những thiếu sót trước kia đấy sao? Địch Thanh nói ra ý của Thánh Thượng, vậy rất tốt. Vậy tại sao khi Địch Thanh nhắc tới chuyện này, Quan gia lại phản ứng mạnh như vậy?

Mũi Triệu Trinh thở ra khí lạnh, nói:

- Trẫm nói có thể, hắn nói không được! Những ngày này, đã có không ít thần tử nói Địch Thanh là phản, càng có người nói Địch Thanh thăng chức quá nhanh, khoe khoang quân công, nếu không hạn chế, chỉ sợ có ý phản.

Tào hoàng hậu thấy Triệu Trinh buồn bực như vậy, cười “khì” một tiếng:

- Quan gia, không ai rõ Địch Thanh hơn ngài, ngài nhất định biết hắn sẽ không phản, phải không? Mấy năm nay, thiếp vẫn chưa bao giờ quên chuyện cũ...

Lúc nói tới đây, sắc mặt Tào hoàng hậu có chút khác thường, nhưng rất nhanh ôn hòa như thường:

- Hôm nay thiếp gặp Địch Thanh, xem tướng mạo của hắn, nhìn làm việc, lại thấy đầy vườn sắc xanh, hắn lại nhìn như không thấy. Theo thiếp thấy, Địch Thanh rõ ràng là người đàn ông chung tình, chất phác và hiền lành. Loại người này, tuy có hùng tâm nghị lực, nhưng không có dã tâm khí ngạo, sẽ không phản.

- Nếu hắn không phản, vì sao cứ muốn tới tây bắc? Nếu không có ý phản, tại sao có người nói hắn là phản?

- Nhớ người xưa có câu, “cây cao đón gió lớn, đi nhanh hơn người dễ bị chê bai”. Địch tướng quân không qua khoa cử, từ thân nghiệp binh mà được vinh quang ngày nay, khó tránh khỏi có người không thuận mắt, vả lại hơn nữa gần đây có liên quan đến việc Quan gia muốn biến pháp...

Tào hoàng hậu từ tốn nói.

Triệu Trinh nhíu mày, hỏi lại:

- Địch Thanh chính là Địch Thanh, liên quan gì đến việc biến pháp?

Đôi mắt đẹp Tào hoàng hậu ngóng nhìn Triệu Trinh, ôn hòa nói:

- Thật ra có rất nhiều chuyện Quan gia đều biết. Quan gia có quyết tâm muốn biến pháp, không muốn dùng Lã tướng nữa. Nghĩ Lã tướng tuy ổn, nhưng đã tới cực vị, quyết tâm không muốn biến pháp. Quan gia muốn dùng Phạm Trọng Yêm, có người không hài lòng. Nhưng biết Phạm Trọng Yêm là người công chính, có tiếng thiên hạ, lòng vì nước, vua và dân điều biết. Nếu chửi bới Phạm Trọng Yêm, chỉ sợ rất nhiều người đều không tin. Bọn họ động không được Phạm Trọng Yêm, nhưng biết Địch Thanh và Phạm Trọng Yêm ở tây bắc, hợp nhau lại càng tăng thêm sức mạnh, giao tình không cạn. Nếu có thể xuống tay từ Địch Thanh , gièm pha thành công, chỉ sợ Phạm Trọng Yêm cũng liên can. Quan gia, lúc nãy nói, Địch Thanh người này tuyệt không có lòng phản, nếu hắn không có lòng phản, lúc nãy nói, cho dù kịch liệt, cũng chỉ là vì bá tính Đại Tống, vì giang sơn của Quan gia, không phải bất kính với Quan gia. Quan gia rất hiểu người này, kỳ thực những lời nói này, thiếp vốn nghe nhiều rồi. Nếu đã như vậy, chẳng lẽ Quan gia thật sự nhẫn tâm để một trung thần như thế bị hủy hoại bởi trong tranh đấu triều đình hay sao?

Triệu Trinh trầm tư thật lâu, thở dài nói:

- Ta chỉ giận hắn luôn làm nghịch ý ta mà thôi. Đúng rồi, Hoàng hậu, trẫm muốn biến pháp loại bỏ chỗ tệ nạn của triều đình, đã triệu đám người Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ, Phú Bật hồi kinh. Nhưng biến pháp là chuyện lớn, thời gian trước, Phạm Trọng Yêm dâng thư “mười chuyện điều trần” kiến nghị biến pháp bao gồm mười điều “ minh truất trắc, kìm nén kiêu hãnh, tinh tiến cử, lựa chọn quan chức, cùng công điền, nhiều dân nuôi tằm, dạy võ chuẩn bị, giảm lao dịch, thúc đẩy ân tính, trọng mệnh lệnh.”. Trẫm thấy nội dung nhắm vào chỉnh sửa cũng không tệ, rất là trọng tâm. Nhưng gần đây ngoại loạn chưa bình, lưu dân các nơi luôn gây chuyện, trẫm chỉ sợ đột nhiên biến pháp, làm thiên hạ rung chuyển, không biết Hoàng hậu có cách gì không?

Tào hoàng hậu xuất thân gia thế nhà tướng, kiến thức tinh thông, Triệu Trinh vẫn thường thương nghị việc triều chính với nàng.

 Chương 368 - 372: Giao chiến

Tào hoàng hậu khẽ mỉm cười, nói:

- Thời gian trước, thiếp nghe nói có một đề thi thú vị, không biết Thánh Thượng muốn nghe không?

Cuối cùng vẻ mặt Triệu Trinh dịu xuống, không kìm nổi cười nói:

- Nàng từ khi nào cũng quan tâm tới chuyện khoa cử?

Tào hoàng hậu lắc đầu mỉm cười duyên dáng nói:

- Không liên quan với khoa cử, thần thiếp muốn thử Quan gia.

Hai người ngồi nói chuyện, trời tuy không lạnh, nhưng bên cạnh sớm có người nấu nước pha trà trên lò lửa nhỏ bùn đỏ. Bất cứ lúc nào châm trà nóng cho Thiên tử và Hoàng hậu. Tào hoàng hậu ra hiệu cung nhân lấy bình đồng bắt lên ngọn lửa đang cháy..

Tào hoàng hậu tiện tay lấy một nhánh củi khô, lần lượt bỏ vào lửa. Triệu Trinh không rõ cho lắm, nhưng nhìn có hứng thú.

Cành củi khô đó cháy, Tào hoàng hậu không có đưa cành củi khô vào lò, ngược lại cầm trên tay nói:

- Quan gia, cành củi khô này nếu cháy hết thế này, thì thành củi than, thần thiếp muốn đố Quan gia một chút, làm sao có thể để cành củi khô sau khi cháy hết, vẫn có thể được than củi hoàn chỉnh trên tay?

Triệu Trinh cầm củi khô, cười nói:

- Cái này dễ dàng.

Y vốn cho rằng đơn giản, cầm củi khô trên tay chỉ đợi lửa cháy hết, không ngờ lửa đó cháy tới chỗ cầm, ngón tay Triệu Trinh không ngừng dời lại, cuối cùng không dời được nữa, nhìn thấy lửa cháy tới tay, vội vàng ném cành củi khô đi.

Cành khô rơi xuống đất, lăn tròn, Triệu Trinh đỏ mặt lên, nói:

- Chuyện này không thể làm được.

Tào hoàng hậu tự nhiên cười nói:

- Cũng không hẳn không thể.

Nói rồi tay trái cầm cành củi khô, đặt trên ngọn lửa đốt. Triệu Trinh tràn đầy không tin, nhìn chăm chăm Hoàng hậu, thấy ngọn lửa đó dần tới ngón tay của Tào hoàng hậu, vội nói:

- Nhanh vứt cành củi khô.

Không ngờ Tào hoàng hậu đột nhiên vươn tay phải ra, nắn bóp trên than củi vừa cháy xong.

Triệu Trinh cả kinh, thầm nghĩ than củi tuy không có lửa, nhưng vẫn rất nóng, Hoàng hậu sao đến nỗi thế này? Mới ngăn lại, củi khô đã cháy xong, Tào hoàng hậu nhẹ chau mày, cầm khúc than củi còn nguyên vẹn nói:

- Quan gia, thần thiếp làm được.

Lúc này mới vứt than củi ra.

Triệu Trinh thấy hai ngón tay phải của Tào hoàng hậu đã bị đốt đỏ lên, trong lòng thương xót, vội nói:

- Hoàng hậu, chỉ là một đề thi, hà tất thật như thế chứ? Nhanh truyền ngự y đến.

Tào hoàng hậu kìm nén đau đớn, vẫn có thể cười nói:

- Quan gia, cái này tuy là đề thi, nhưng liên quan tới đề thi của giang sơn Đại Tống. Bây giờ giang sơn Đại Tống giống như nhánh cây khô, loạn trong giặc ngoài tựa như ngọn lửa. Quan gia muốn trọn cả giang sơn, thì không thể nhượng bộ nữa. Chỉ có thể kìm nén cơn đau đánh cược một lần, mới có thể được toàn công. Tự cổ “sống gian lao cực khổ, chết an vui” biến pháp biến pháp, sửa cái cũ đón cái mới đến, đau một trận đương nhiên là khó tránh. Nếu vì đau mà không dám thay đổi, cuối cùng khó giữ giang sơn.

Triệu Trinh thở dài một tiếng, nhìn than củi trên đất, hồi lâu mới nói:

- Không ngờ Hoàng hậu lại có lòng quyết tâm khuyên trẫm. Nếu trẫm lại nhìn trước ngó sau, thật sự hỏi lòng có hổ thẹn.

Nhìn ngón tay trỏ của hoàng hậu, ánh mắt Triệu Trinh chớp động, đột nhiên hỏi:

- Nhưng ta nghĩ, đề thi này không phải Hoàng hậu nghĩ ra? Giống như hôm nay trẫm gặp Địch Thanh, cũng là Hoàng hậu sắp đặt?

Sớm có ngự y chạy tới, xử lý vết bỏng cho Tào hoàng hậu.

Tào hoàng hậu thấy Triệu Trinh hỏi như vậy, cười đáp:

- Thiếp chính là nói Quan gia thông minh tuyệt đỉnh, rất nhiều chuyện gạt không được ngài rồi. Mấy ngày trước Thường Ninh trên đường gặp Địch tướng quân mấy lần xin gặp Thánh Thượng thấy có chút sầu khổ. Lúc này mới lén nói tới chuyện này với thần thiếp. Thần thiếp triệu Địch Thanh vào cung, một là muốn hỏi chuyện xá đệ, càng nhiều là thiên hạ của Quan gia. Địch Thanh có dũng có mưu, quả thực là tướng tài hiếm có kế sau Tào tướng quân. Chỉ mong Thánh Thượng có thể suy nghĩ theo đại cuộc, chớ tránh hắn. Về phần đề thi đó, là Phạm Trọng Yêm nói với thần thiếp, thần thiếp chẳng qua truyền đạt dụng ý của Phạm Trọng Yêm mà thôi.

Triệu Trinh thấy Tào hoàng hậu như vậy, lòng cảm động, thầm nghĩ “trẫm đường đường là nam nhi, chẳng lẽ còn không bằng một nữ nhi? Hoàng hậu khổ đau khuyên như vậy, trẫm lại do dự không quyết, thật xấu hổ vô cùng.”

Vừa nghĩ tới đây, Triệu Trinh đã hạ chủ ý, hạ chỉ với Diêm Sĩ Lương:

- Triệu kiến Phạm Trọng Yêm.

Địch Thanh ra hoàng cung, nhất thời tâm phiền ý loạn.

Mấy năm nay hắn chỉ có hai mục đích, một là dẫn dắt quân dân tây bắc bảo vệ nước nhà, chống cự quân Hạ. Mục đích còn lại đương nhiên là tìm Hương Ba Lạp.

Nhưng sau đó hắn mới phát hiện hai mục đích này, vốn chính là hợp hai thành một. Đi Hương Ba Lạp, phải đánh bại Nguyên Hạo hãy nói. Hắn hết lòng lo lắng xuất chiêu, chưa bao giờ nghĩ có một ngày, Tống, Hạ đột nhiên nghị hòa.

Tiếp theo, hắn nên làm thế nào?

Lững thững ở thành cổ Khai Phong, thấy dòng người như cá diếc sang sông, chợ hoa như sóng dữ Bích Hải. Biện Kinh phồn hoa cực thịnh, náo nhiệt vô cùng, nhưng náo nhiệt này, trước sau là của người khác.

Đứng ở đầu phố, nhìn mặt trời chiều ngã về hướng tây, cuối cùng không vào chân trời. Đợi tới lúc bóng đêm bao phủ, Địch Thanh đột nhiên cảm thấy rùng mình, hắn dường như đã đứng bên vách núi.

- Địch Thanh... uống chút rượu chứ?

Đột nhiên có một người khàn giọng hỏi.

Địch Thanh hơi có kinh ngạc quay đầu nhìn qua. Nhìn thấy bên cạnh có một tửu quán, một ông lão ngồi bên ngoài tửu quán, trên mặt ông lão đó có vết sẹo đao, lông mày đã đứt một nữa, dung nhan quái dị, Địch Thanh bỗng nhiên nhớ ra, hắn biết ông lão này.

Năm đó hắn ám sát Hạ Tùy, bị Quách Tuân chặn lại, sau đó Quách Tuân dẫn hắn tới tửu quán này, ông lão này họ Lưu.

Chuyện cũ như gió, cảnh còn người mất, Địch Thanh lẳng lẽ vào tửu quán, phát hiện bên trong không có một người. Rượu thức ăn trong này tuy không tệ, nhưng giống như người, không cần thiết phải ngon cũng có người thưởng thức.

Ông lão Lưu sau khi mời Địch Thanh vào, thì cà thọt cái chân bận trước bận sau. Lão chuẩn bị món kho, ướp đồ ăn cho Địch Thanh, lại lấy vò rượu đặt lên bàn, sau đó che một nữa cửa hiệu lại, ra hiệu không buôn bán nữa. Địch Thanh vốn không nói, thấy thế nói:

- Ông lão Lưu, ta chỉ uống chút rượu, ông không cần đóng cửa đâu.

Ông lão Lưu lại bê một vò rượu, đặt thật mạnh lên bàn nói:

- Lão có chuyện nói với ngài.

Địch Thanh ngạc nhiên nhìn ông lão Lưu, không biết ông lão Lưu sẽ nói những gì? Ông lão Lưu đã lấy hai cái chén to, mở nút vò rượu.

Mùi rượu bốn phía, nghe thấy làm người ta say lòng. Ngọn đèn dầu lóe lên, chiếu vào tang thương của hai người không giống nhau.

Ông lão Lưu bưng một chén rượu nói:

- Rượu này là chính lão ủ, cất giấu hơn ba mươi năm, chỉ có hai vò. Rượu nguyên chất như người, lâu mới có thể biết hương vị. Rượu ngon như đao, có thể chém vạn nghìn tình sầu thế gian.

Địch Thanh chưa bao giờ nghĩ rằng ông lão này có thể nói ra mấy câu phong nhã này, bưng chén rượu nói:

- Ông lão Lưu từng nghe qua câu “mượn rượu giải sầu càng sầu hơn” chưa? Rượu này chỉ có hai vò, lão dùng nữa đời người để ủ rượu, vì sao muốn cho ta uống?

Lão Lưu nhìn chằm chằm Địch Thanh nói:

- Rượu này vốn là rượu Quách Tuân Quách đại nhân uống! Năm đó y có giao hẹn với lão, chỉ cần cởi bỏ khúc mắc, thì thoải mái uống một trận với lão, lão nói đợi y. Từ ngày đó về sau, lão liền cất giấu hai vò rượu này!

Địch Thanh nghe thấy tên của Quách Tuân, trong lòng chua xót, uống cạn bát rượu, thương cảm nói:

- Quách đại ca uống không được rượu này rồi. Hắn không biết dùng bao nhiêu dũng khí mới nói ra câu nói này.

Hắn chinh chiến khổ cực nhiều năm, đối với rất nhiều chuyện cũ như khói khó có thể dứt bỏ. Chuyện cũ khó đuổi, thay đổi quá nhiều, quá nhiều người đã rời bỏ hắn mà đi. Có lẽ hắn ngẫu nhiên nhớ lại, có lẽ hắn quên mãi mãi. Nhưng hắn biết, đời này người mãi không quên được, một là Vũ Thường, một là Quách Tuân.

Ông lão Lưu cũng uống cạn rượu trong chén, lại bưng vò rượu đầy rượu. Không đợi nói gì, đột nhiên Địch Thanh hỏi:

- Quách đại ca có khúc mắc gì?

Địch Thanh thầm nghĩ rằng:

“Theo lời ông lão Lưu nói, rượu này không có mở ra, Quách đại ca vẫn không có uống, thì cũng vẫn chưa cởi bỏ khúc mắc.” Nghĩ tới đây, Địch Thanh đã nghĩ bất luận thế nào, cũng phải giúp Quách Tuân hoàn thành tâm nguyện.

Ông lão Lưu nói:

- Khúc mắc của y, vốn có liên quan với ngài.

Địch Thanh ngẩn ra, thầm nghĩ chẳng lẽ là có liên quan với Hương Ba Lạp sao? Nghe lão Lưu nói:

- Địch Thanh, lão kể cho ngài nghe một chuyện cũ, không biết ngài có thể nghe không.

Địch Thanh nói:

- Lão kể gì, ta đều có thể nghe.

Ông lão Lưu gật đầu, bỏ chén rượu xuống ôm vò rượu uống mấy ngụm, mặc cho nước rượu đổ tràn lên ngực, không biết lúc nào trong mắt đã có nước mắt.

- Quách đại nhân cứu lão một mạng, làm sao cứu, lão không nói nhiều nữa. Từ sau khi y cứu lão, đời này lão, chuyện vui nhất, chính là đợi y đến uống mấy ngụm rượu, nói chuyện phiếm mấy câu. Y là người tốt, ngài biết chứ?

Địch Thanh thầm lấy làm kỳ lạ ông lão Lưu hỏi như vậy, mỉm cười nói:

- Nếu đại ca không phải người tốt, trên đời này rất khó có người tốt hơn.

Lão Lưu thổn thức nói:

- Nhưng người tốt cũng có thể làm chuyện sai. Y làm sai một chuyện, kết quả áy náy cả đời.

Địch Thanh đã không kìm được tim đập dồn dập, trực giác cho rằng, chuyện ông lão Lưu nói có thể có liên quan với hắn, nghe lão Lưu lại nói:

- Quách đại nhân là võ học kỳ tài, lúc tuổi trẻ đã được tiên đế coi trọng. Trước khi được vào Tiền điện, Y tuy ít tuổi đắc chí, nhưng là người thẳng thắn nhiệt tình, không thể gặp chuyện bất bình, bằng không y cũng sẽ không cứu lão. Lúc đó y ở kinh thành gặp được một thư sinh họ Địch... còn dẫn người đó tới chỗ lão uống rượu. Thư sinh họ Địch đó, lớn lên rất giống ngài, đều là tuấn lãng phi thường.

Địch Thanh trong lòng kinh hoàng, không đợi đoán, ông già Lưu đã nói ra đáp án:

- Ngài không cần đoán, thư sinh đó chính là lệnh tôn. Lệnh tôn và Quách đại nhân đã quen biết từ lâu!

Địch Thanh chợt hiểu rõ rất nhiều chuyện, đột nhiên nghĩ tới, năm đó Quách Tuân và hắn vừa gặp đã thấy hợp, có phải vì thấy hắn quen mặt không?

Ông lão Lưu đổ vài hớp rượu, nói:

- Lệnh tôn tuy là thư sinh nho nhã, nhưng cũng có chút ngay thẳng. Lão thấy họ qua lại thân thiết, rất là vui mừng. Năm đó lệnh tôn ở kinh thành ôn bài muốn thi trạng nguyên, không bao lâu, thì quen biết một cô gái họ Mai, cũng chính là lệnh đường. Lệnh tôn và lệnh đường là vừa găp đã thương, nhưng Quách đại nhân cũng rất thích lệnh đường!

Sắc mặt Địch Thanh tái nhợt, nhớ lại chuyện cũ, tay cầm chén rượu run rẩy kịch liệt, khàn giọng nói:

- Năm đó đả thương cha ta chính là Quách đại ca sao?

Hắn thật sự không muốn đoán như vậy, nhưng không thể không đoán như vậy. Chuyện cũ chợt đến, như gió cuốn tuyết cuồng.

Địch Thanh nhớ rõ cha luôn trọng thương mãi không khỏi, nhớ mẹ vẫn ảm đạm tiều tụy. Hắn biết là có người đả thương cha, hại cha thi không đậu khoa cử, nghèo khó cả đời. Nhưng mẫu thân chưa bao giờ nói với huynh đệ bọn họ kẻ thù là ai.

Hắn không ngờ người đả thương cha mình chính là Quách Tuân_ một Quách Tuân xem trọng như cha anh.

Trong hoảng hốt, nghe thấy ông lão Lưu nói:

- Phải, đả thương lệnh tôn chính là Quách đại nhân, nhưng y không cố ý.

Địch Thanh bỗng nhiên đứng lên, hai má co giật, ông lão Lưu thấy thế, vội gọi:

- Y thật sự là không cố ý đả thương lệnh tôn, tất cả mọi thứ là vì Ngũ long!

Địch Thanh rùng mình, thất thanh nói:

- Ngũ long? Sao có thể liên quan với Ngũ long?

Ông lão Lưu chua xót nói:

- Ngũ long là vật của điềm xấu. Ngài nhớ không, Quách đại nhân từng khuyên ngài bỏ Ngũ long, chính vì năm đó y đã bị vật này làm hại. Hôm đó là ngày 15 tháng 8, đêm trăng tròn!

- Ngày 15 tháng 8? Địch Thanh trong lòng kinh sợ, thầm nghĩ ngày 15 tháng 8 có phải chính là ngày Bát vương gia nói không? Tại sao Ngũ long có thể xuất hiện quái dị ngày này?

Trong mắt ông lão Lưu đột nhiên hiện ra ý kinh hoảng, xuyên qua cửa sổ nhìn ánh trăng trên trời.

Lúc này ánh trăng sáng tỏ, rọi xuống ánh sáng rực rỡ xuyên qua cửa sổ rải lên mặt đất, giống như mặt đất mạ một lớp thủy ngân.

Ông lão Lưu trong kinh hãi có run rẩy nói:

- Đêm đó trăng sáng cũng sáng thế này, tròn thế này. Đã rất muộn rồi, Quách đại nhân đột nhiên lảo đảo tới quán rượu của ta, mặt không có chút máu, nói mình phạm sai lầm lớn, đả thương lệnh tôn! Lúc đó lão vẫn không tin, lão biết Quách đại nhân tuy thích lệnh đường, nhưng tuyệt đối không ỷ vào võ công ức hiếp kẻ yếu. Nếu như vậy, làm sao y có thể ra tay với lệnh tôn? Lúc đó Quách đại nhân nói năng lộn xộn, ta nhìn đoán ra. Y vô cùng hối hận chán nản, lúc đó y chỉ nói, ‘là ngũ long, là do ngũ long, nhưng ai tin? Không được, ta nhất định phải đi giải thích.’ Đêm đó, Quách đại nhân lặp lại mấy câu nói đó, thì xông ra tửu quán.

Địch Thanh tâm tư hỗn loạn, nghĩ tới điều gì, mặt biến sắc. Ngũ long đột nhiên lộ ra dị trạng, Người bị khống chế đột nhiên tăng thần lực. Hắn là đích thân thể nghiệm, cũng từng bởi vậy màđả thương Mã Trung Lập. Nghe Tào Dật nói, Quách Tuân chắc chắn là bị ảnh hưởng của Ngũ long. Chẳng lẽ, năm đó Quách Tuân đột nhiên bị Ngũ long ảnh hưởng, khó kiềm chế, mới đả thương người?

Địch Thanh cảm động theo, đã hiểu ý của Quách Tuân. Lúc đó Quách Tuân đã cảm thấy là Ngũ long tác quái, do đó sau này mới xem Ngũ long là vật mang điềm xấu. Quách Tuân biết không ai tin, cũng biết mẹ của Địch Thanh sẽ không tin, nhưng Quách Tuân vẫn muốn đi giải thích.

Ông già Lưu nói tiếp:

- Lúc đó lão rất lo lắng, nhưng vẫn đợi tới ba ngày, Quách đại nhân mới trở về. Năm đó lúc nhìn thấy y, xém chút nữa nhận không ra y. Y tiều tụy không giống người, giống như cô hồn dạ quỷ. Chỉ là nói “tìm không được, bọn họ đi rồi”. Sau khi y nói xong câu nói đó, thì hôn mê bất tỉnh. Hai ngày sau y mới tỉnh lại, nhưng chỉ là uống rượu, hình như muốn uống chết mới thôi.

Địch Thanh tuy biết lúc đó Quách Tuân nhất định không sao, vẫn lo lắng nói:

- Sau đó huynh ấy thế nào? Khỏe lên không?

Ông lão Lưu liếc nhìn Địch Thanh có thâm ý, nữa hồi lâu mới nói:

- Sau đó lão tới lỗ tai của ông ấy, ghé vào tai ông ấy thét‘Nếu ngài là đàn ông, làm sai chuyện thì tìm cách bù đắp, không được để người ta xem thường.’ Sau khi Quách Tuân nghe thấy câu nói này của lão, không biết tại sao, đột nhiên bắt đầu ăn cơm. Nhưng sau đó bệnh nặng một trận, xém chút nữa chết rồi, Sau đó y nói với lão: ‘Chuyện ta làm sai, ta phải bù đắp lại, ông tin ta.’Lúc đó lão nói với ông ấy:

‘Ta tin ngài, ta ủ rượu chờ ngài, khi nào ngài cởi được khúc mắc, ta và ngài thoải mái uống một bữa.’

Địch Thanh đang nhìn hai vò rượu trên bàn, tựa hồ đang nhìn giao hẹn giữa hai người đàn ông. Vò rượu đó xanh biếc, dưới màu sắc của ánh đèn lưu chuyển không ngừng, khó có thể nắm bắt, như có tâm sự Quách Tuân chưa từng nói ra.

Ông gìa Lưu cũng đang nhìn vò rượu đó, thổn thức nói:

- Nhưng lúc giao hẹn năm đó, lão cũng chưa từng nghĩ tới giao hẹn này chính là hơ ba mươi năm. Cuối cùng Quách đại nhân không có uống rượu ta ủ cho y. Hai hàng lệ nóng đục ngầu theo khuôn mặt xấu xí chảy xuống. Ông lão Lưu nhìn qua Địch Thanh nói:

- Sau đó... Quách đại nhân tìm được ngài, dẫn ngài vào kinh. Ngài vì bị thương khó di chuyển, mỗi lần y đến chỗ ta uống rượu đều là mặt cau mày có, luôn nói: ‘Ta dẫn Địch Thanh vào kinh, vốn muốn bù đắp sai lầm, nhưng chính là làm hại cậu ấy.’

Địch Thanh sống mũi chua xót, lẩm bẩm nói:

- Huynh ấy làm quá nhiều rồi.

Hắn chưa từng hận Quách Tuân, cho dù lúc hắn biết đã thương cha hắn cũng không có ý hận.

Nếu trách, chỉ có thể trách ông trời trêu chọc!

- Sau kinh biến, Quách đại nhân càng thương tâm, nói với lão, y nhất định tìm được Hương Ba Lạp, giúp ngài tìm Hương Ba Lạp, cũng muốn đích thân giải câu đố này. Y luôn muốn nói ra chân tướng năm đó với ngài, nhưng lại vẫn không dám. Lúc xuất kinh, y gặp lão lần cuối, nói với lão, nếu y chết rồi, thì xin lão truyền đạt với ngài một câu. Đây chính là nguyên nhân hôm nay lão muốn mời ngài uống rượu, vì lão phải chuyển câu nói của y.

Trái tim Địch Thanh đập mạnh lên, trên mặt đã không có chút máu, chậm rãi nói:

- Xin lão nói.

Ông già Lưu run rẩy đứng lên, nhìn chằm chằm Địch Thanh, môi run run nói:

- Quách đại nhân nói, xin ngài thứ lỗi cho ông ấy! Thấy Địch Thanh im lặng không nói, Ông già Lưu nước mắt tuôn đầy mặt, khàn giọng nói:

- Quách đại nhân đời này chỉ làm sai hai chuyện, đều có liên quan với ngài. Bây giờ y đã chết rồi, chẳng lẽ... ngài thật sự không chịu tha thứ cho y?

Ông lão trong kích động lại có mất mát, nước mắt chảy xuống. Lão chờ rất lâu, vì truyền câu nói này, lão không muốn làm Quách Tuân thất vọng. Giữa lúc đó, quỳ xuống đất, không đợi quỳ xuống, Địch Thanh đã kéo ông lão Lưu nói:

- Ta không nên tha thứ huynh ấy.

Ông già Lưu khàn giọng nói:

- Tại sao, chẳng lẽ y làm sai một chuyện, cho dù chết đi, cũng không thể được tha thứ của ngài?

Trong mắt Địch Thanh đã có nước mắt, trầm giọng nói:

- Ta không nên tha thứ huynh ấy, chỉ vì trước giờ ta chưa từng trách huynh ấy. Địch Thanh ta đối với Quách đại ca, chỉ có cảm kích. Nếu lão thích, ta vẫn có thể nói cho Quách đại ca biết, mẹ của ta sớm đã tha thứ huynh ấy rồi. Mẹ ta nói, bà ấy từ lâu đã không hận người đả thương cha, bà không hy vọng ta báo thù rửa hận. Nếu Quách đại ca trên trời có linh thiên, huynh ấy chắc chắn biết.

Ông già Lưu mừng đến phát khóc, khóc như đứa trẻ.

Có những người cả đời khó có một hẹn ước, có những người cả đời không có thực hiện một lần hẹn ước, nhưng cũng có những người sống cả đời, chỉ vì một hẹn ước.

Có đáng không, dòng chảy thời gian đã khắc ghi.

Nước mắt không có lúc chảy hết, nhưng rượu cuối cùng có lúc uống cạn.

Lúc Địch Thanh trở về Quách phủ hơi có chút say. Lúc bước vào Quách phủ, hắn dường như cảm giác Quách Tuân vẫn bên cạnh, nhìn trăng sáng treo cao cao, hắn lẩm bẩm nói:

- Quách đại ca, người thật ngốc.

Trăng sáng đó dường như cũng hóa thành mặt Quách Tuân, cũng nhìn Địch Thanh. Trăng sáng không nói gì, im lặng như kim.

Địch Thanh thu tầm nhìn lại, không đợi tới trước phòng, thì nhìn thấy trong phòng đốt ngọn đèn, có bóng người xuyên lên giấy cửa sổ. Địch Thanh trong lòng hơi ấm áp, thầm nghĩ lúc này vẫn đang chờ hắn, không chừng chỉ có Quách Quỳ..

Đẩy cửa phòng ra “kẽo kẹt” vang lên, người ngồi bên cửa sổ nhìn qua hắn, mỉm cười nói:

- Địch Thanh, ngươi về rồi à?

Địch Thanh ngẩn ra, nhìn thấy đôi mắt sáng ngời đa tình, thất thanh nói:

- Phạm đại nhân, sao ngài tới đây?

Người ngồi trong phòng Địch Thanh, đúng là Phạm Trọng Yêm!

Phạm Trọng Yêm cười nói:

- Ta không thể tới sao?

Địch Thanh có chút vui mừng bất ngờ, vội nói:

- Không phải, chỉ là có chút bất ngờ vui mừng mà thôi.

Sau khi hắn đi sứ Thổ Phiên, thì được điều lệnh lập tức hồi kinh, không có nói tạm biệt với Phạm Trọng Yêm.

Tới kinh thành rất lâu, Địch Thanh cũng biết Phạm Trọng Yêm được điều về kinh thành, nhưng vẫn không có đi thăm hỏi. Không ngờ hôm nay Phạm Trọng Yêm lại tới tìm hắn.

Phạm Trọng Yêm thấy Địch Thanh lộ ra ý muốn hỏi, cũng không vòng vo, lập tức nói:

- Ta là từ hoàng cung đến. Lúc ban ngày, Thánh Thượng từng triệu ta vào cung, thương nghị chuyện biến pháp.

Trong thần sắc có chút phấn chấn, Phạm Trọng Yêm nói:

- Địch Thanh, cuối cùng Thánh Thượng hạ quyết tâm biến pháp rồi, ngày mai sẽ trong triều tuyên bố nghị sự biến pháp.

Cảm giác say của Địch Thanh dâng lên, ngồi trên giường, đột nhiên cười nói:

- Chuyện tốt.

Trong lòng hắn nghĩ tới, “lúc còn ở tây bắc, những người Phạm công, Bàng đại nhân từng thương nghị chuyện biến pháp, cuối cùng hôm nay được ước nguyện rồi. Nhưng ta thì sao?”

Hắn đương nhiên không phải phản đối biến pháp. Nhưng nghe tới tin tức này, không có vui mừng trong tưởng tượng.

Phạm Trọng Yêm suy nghĩ tinh tế đã nhìn ra buồn bã của Địch Thanh nói:

- Hôm nay ở trong cung, Thánh Thượng nói với ta, hình như ngươi phản đối biến pháp?

Địch Thanh ngẩn ra, lắc đầu cười khổ nói:

- Phạm đại nhân, ngài biết không phải như vậy, sao mạt tướng có thể phản đối biến pháp chứ? Mạt tướng chỉ là phản đối nghị hòa với nước Hạ mà thôi.

Phạm Trọng Yêm mỉm cười nói:

- Ta đương nhiên biết ngươi sẽ không. Thật ra hôm nay Thánh Thượng có chút tức giận, ngươi có biết ông ấy tức giận gì không?

Địch Thanh nhíu mày, buồn bã nói:

- Mạt tướng người vốn rất ngốc, đoán không ra ý của Thánh Thượng.

Phạm Trọng Yêm nói:

- Thánh Thượng nói với ta, ngài ấy luôn xem ngươi là bạn, nhưng ngươi lại không hiểu ngài ấy.

Địch Thanh trong lòng thầm nghĩ:

“Ta là không hiểu ngài ấy, nhưng ngài ấy hiểu ta sao?”

Nhưng Địch Thanh không muốn nói nhiều, chỉ trầm lặng, nghe Phạm Trọng Yêm lại nói:

- Đại Tống bệnh trầm kha nhiều năm. Ngươi và ta biết, Thánh Thượng biết, người có chí đều biết. Tình hình này phải đổi, không đổi không được. Nếu không sửa đổi, bệnh Đại Tống lâm vào nguy kịch, chỉ có thể ngồi chờ diệt vong. Thánh Thượng có chí biến pháp, là chuyện may mắn thiên hạ, ta toàn lực ủng hộ, lúc này không phụ Thiên tử lê dân...

Lần đầu tiên Địch Thanh cắt ngang lời nói của Phạm Trọng Yêm, bình tĩnh nói:

- Phạm công, nếu ngài đã biết mạt tướng biết, thì không cần nói những lời này. Ngài đến đây tìm mạt tướng, đương nhiên không phải nói lợi ích của biến pháp.

Phạm Trọng Yêm cười, chậm rãi nói:

- Thánh Thượng nói, Địch Thanh trước đây bất luận Thánh Thượng làm gì, đều toàn lực ủng hộ. Nhưng bây giờ Địch Thanh thay đổi rồi, một lòng chỉ vì chinh chiến tây bắc, không để ý đại cục thiên hạ.

Địch Thanh bỗng ngẩng đầu lên, ánh mắt sáng quắc nhìn Phạm Trọng Yêm nói:

- Vậy Phạm công thấy mạt tướng thế nào?

Phạm Trọng Yêm trầm ngâm một lát, nói:

- Ta biết ngươi cho rằng Nguyên Hạo tuyệt không phải thật lòng cầu hòa, đối phó loại người Nguyên Hạo nhất định diệt cỏ tận gốc mới được. Nhưng ăn cơm phải từng ngụm, bây giờ tây bắc chinh chiến nhiều năm, dân sinh mệt mỏi. Nói thật, bá tính ghét chiến tranh, bách quan cũng ghét chiến tranh. Bây giờ chúng ta làm không được quá nhiều. Có thể nhân cơ hội tu dưỡng sinh lợi, biến pháp cường quốc, cũng là chuyện tốt. Trên triều đình bây giờ, nghe Nguyên Hạo cầu hòa, trừ rất ít người ra, vẫn đồng ý hòa đàm. Tiêu điểm đơn giản là trên lợi thế hòa đàm. Lúc này ngươi toàn lực tác chiến, lực cô thế đơn, cho dù Thánh Thượng đồng ý với ngươi, chỉ sợ cũng không thể nào cản được tiếng gầm của nghị hòa.

Địch Thanh cười tẻ ngắt:

- Chết tây bắc không phải là bọn họ, đương nhiên bọn họ không quan tâm đau khổ. Nguyên Hạo không đánh tới kinh thành, đương nhiên bọn họ không quan tâm. Mạt tướng không muốn biết tâm tư của bọn họ, nhưng Phạm công.. ngài ủng hộ mạt tướng không?

Phạm Trọng Yêm ngước nhìn Địch Thanh thật lâu, khẽ thở dài nói:

- Ta thăng trầm nhiều năm, vẫn khó được trọng dụng, đơn giản đang kiên trì trên mặt. Năm đó Doãn Thù từng nói, ta thay đổi rồi. Ông ấy cho rằng đau khổ nhiều năm, đã làm ta mất đi nhuệ khí, thăng chức tây bắc làm ta đánh mất hùng tâm. Phạm Trọng Yêm đã không phải Phạm Trọng Yêm.

Địch Thanh nhìn người cũng cô đơn giống mình kia, nhưng đôi mắt vẫn quật cường, trong lòng đột nhiên kích động một trận, chậm giọng nói:

- Nhưng mạt tướng biết, ngài không có thay đổi.

Trong đôi mắt Phạm Trọng Yêm thần thái vừa hiện, lúc này nếp nhăn ở khóe mắt, đều đầy hào quang:

- Đúng vậy, cách xử sự của ta là biến pháp. Nhưng ta cho rằng làm người sẽ không thay đổi. Doãn Thù, Hàn Kỳ lấy tính mạng binh sĩ đánh cuộc, ta bất luận thế nào đều sẽ không đồng ý. Nhưng nếu lấy Phạm Trọng Yêm ta, đánh cuộc một chút biến pháp lợi nước lợi dân, ta sẽ không lùi bước. Địch Thanh, ngươi phải biết, trên đời tám chín phần mười không như ý người. Nếu tạm thời không thể dùng binh, cho dù ta ủng hộ ngươi, chẳng phải là.... cũng nhưng nếu ngươi và ta sau toàn lực trên biến pháp, sau khi lợi quốc cường binh, lại đánh Nguyên Hạo, cơ hội không phải lớn hơn sao?

Địch Thanh suy tư nói:

- Phạm công, vì Thánh Thượng bảo ngài đến khuyên mạt tướng, ngài ngược lại đến khuyên mạt tướng ở lại bên cạnh Thánh Thượng, ủng hộ ông ấy biến pháp?

Trong mắt Phạm Trọng Yêm lộ ra ý khen ngợi, thầm nghĩ Địch Thanh quả thật thông minh, một câu nói toạc ra ý của lão. Phạm Trọng Yêm biết Triệu Trinh tính cách do dự, cũng biết phân lượng Địch Thanh trong mắt Triệu Trinh. Biết nếu có Địch Thanh bên cạnh khuyên nhủ, càng có thể kiên định quyết tâm biến pháp của Triệu Trinh.

Phạm Trọng Yêm nghĩ đến đây, đột nhiên đứng dậy, hướng về Địch Thanh thi lễ.

Địch Thanh kinh ngạc không ngừng, vội vàng đứng dậy tránh đi nói:

- Sao Phạm công làm như vậy?

Phạm Trọng Yêm cảm khái nói

- Địch tướng quân, ta từ lâu nghe Chủng Thế Hành nói chuyện của ngài. Biết lựa chọn này, đối với ngài rất không công bằng, nhưng Phạm mỗ mặt dày, chỉ xin Địch tướng quân lấy thiên hạ làm trọng...

Lão tuy giỏi ăn nói, nhưng nghĩ tới tình cảnh của Địch Thanh. Lời nói tiếp theo, đột nhiên nói không được nữa.

Ánh mắt Địch Thanh vụt xa, nhìn lên ngọn đèn chập chờn, ngọn đèn dầu lóng lánh, ngọn lửa như múa, đang múa cô đơn đêm tối.

Không biết bao lâu, Địch Thanh mới nói:

- Mạt tướng định ngày mai diện thánh, không nhắc tới chuyện chinh chiến tây bắc nữa.

Phạm Trọng Yêm vừa vui mừng vừa thương cảm, nhìn người đàn ông thái dương điểm sương như thu muộn, nhất thời không nói.

Địch Thanh nói:

- Nhưng mạt tướng có thể hỏi Phạm công hai chuyện không?

Phạm Trọng Yêm nói:

- Xin nói.

Địch Thanh vẫn nhìn ngọn đèn đó, trong mắt tràn đầy chiến ý nghiêm túc lạnh lùng:

- Chuyện thứ nhất chính là, ngài cho rằng biến pháp có thể thành công không? Chuyện thứ hai lại là Nguyên Hạo làm sao chịu ngồi yên đợi Đại Tống biến pháp?

Phạm Trọng Yêm một hồi lâu không nói, sau đó rất lâu, ngọn đèn vừa nhảy, đôi mắt Phạm Trọng Yêm sáng ngời:

- Biến pháp thành công hay không, việc ở người làm, trước mắt ta không thể trả lời ngài. Ta chỉ có thể nói là, cơ hội này, lợi nước lợi dân, ta không thể bỏ qua. Ta chỉ cần dốc hết tâm lực, cuối đầu và ngẩng đầu không hổ thẹn, thì sợ gì đánh giá thành bại?

Lúc Phạm Trọng Yêm ra Quách phủ, nghĩ tới câu hỏi của Địch Thanh, vẫn lòng có ưu tư, lão không có trả lời vấn đề thứ hai của Địch Thanh, cũng không biết trả lời thế nào.

Nguyên Hạo dã tâm bừng bừng, nhưng quân thần Đại Tống đối với người này, vẫn như ngắm hoa trong sương. Người của Đại Tống thật sự hiểu Nguyên Hạo, không chừng chỉ có Địch Thanh.

Rất rõ ràng, Địch Thanh không phản đối biến pháp, nhưng không xem trọng Tống Hạ nghị hòa.

Địch Thanh sớm không còn là thiếu niên lỗ mãng giảo hoạt của năm đó. Phạm Trọng Yêm cho rằng, dưới gió đao sương xâm lấn, lưỡi mác mài mòn, Địch Thanh đối với tình hình của tây bắc, đương nhiên hiểu rõ hơn xa bách quan ngồi hưởng lạc ở Biện Kinh.

Trên đường đi Phạm Trọng Yêm suy nghĩ băn khoăn, tới lúc về phủ, đêm đã rất khuya, trăng ẩn sau đám mấy, sao lốm đốm đầy trời, có quản gia tiến đến nói:

- Phạm công, Hạ đại nhân ở thư phòng chờ ngài rất lâu.

- Hạ đại nhân?

Phạm Trọng Yêm ngẩn ra, quản gia thấp giọng nói:

- Là Hạ Tủng Hạ đại nhân.

Phạm Trọng Yêm hơi nhíu mày, có chút bất ngờ, nghĩ lại, đã hiểu mục đích Hạ Tủng đến đây, gật đầu nói:

- Dẫn ta đi gặp.

Tới trước thư phòng, Phạm Trọng Yêm ra hiệu quản gia lui xuống, đẩy cửa phòng. Trong phòng, bên cạnh ngọn đèn đang ngồi một người, tai to mặt lớn, ra vẻ trung hậu. Nhưng lúc đôi mắt nhìn qua, hơi lóe lên, rõ ràng trong trung hậu người đó có phần tâm cơ.

Người đó thấy Phạm Trọng Yêm, đứng lên thi lễ nói:

- Ôi chao, Hi Văn huynh, tại hạ không mời mà tới, xin thứ tội.

Phạm Trọng Yêm lại cười nói:

- Không dám không dám. Hạ đại nhân đến, hạ quan không có nghênh đón từ xa, khiến Hạ đại nhân chờ lâu, xin đừng trách.

Con mắt người đó dạo quanh, ha ha cười lớn, bộ dạng có chút cởi mở nói:

- Hi Văn huynh, nói đùa rồi, bây giờ ngài còn xưng hạ quan, thật sự cười nhạo bản quan rồi.

Người này chính là Hạ Tủng, từng là trọng thần khi Chân Tông còn tại vị, từng vào Lưỡng Phủ làm tướng. Lúc ở tây bắc, Hạ Tủng đảm nhiệm An phủ sứ Thiểm Tây, tổng lĩnh sự vụ tây bắc. Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ tuy thanh danh lớn, vẫn là trợ thủ của người này. Không có ông ấy, tư cách không bằng Hạ Tủng rồi.

Hạ Tủng háo sắc tham tiền, giỏi quyền lợi đấu sức. Năm đó vốn không muốn đi vùng đất lạnh giá tây bắc, nhưng Thánh Thượng có lệnh, không thể không theo. Sau khi Hạ Tủng tới tây bắc vẫn tầm hoan tác lạc, ngoại trừ treo giải thưởng năm trăm vạn xâu tiền lấy đầu của Nguyên Hạo ra, sau đó bị Nguyên Hạo dùng hai xâu tiền châm chọc lại, không làm gì nữa.

Tuy nhiên Hạ Tủng ở tây bắc ngược lại có chỗ tốt, chính là mặc cho Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ làm việc, lão tuyệt không nhúng tay.

Do vậy, quân Tống tuy hai lần thua quân Hạ, nhưng dưới xử lý của Phạm Trọng Yêm ở tây bắc, việc phòng thủ biên thùy dần khởi sắc, khiến người Hạ không thể tiến công được. Nước Hạ cầu hòa, cũng vì thấy triệu đổi hết các tướng ngoài biên thùy về, Hạ Tủng lập tức lệnh Phạm Trọng Yêm về kinh thành sớm một bước.

Mấy năm nay, tây bắt nếu luận công lao, đương nhiên Phạm Trọng Yêm lớn nhất. Do đó Triệu Trinh kiên quyết thay đổi cải cách, có ý bảo Phạm Trọng Yêm đảm nhiệm Lưỡng Phủ, cái này đã không phải là bí mật. Hạ Tủng tuy biết ở tây bắc đứng đầu là Phạm Trọng Yêm, nhưng sau khi về kinh,vẫn chưa định ai ở trên. Do đó đã hạ mình chủ động tìm đến Phạm Trọng Yêm. Lão gọi tên của Phạm Trọng Yêm, tỏ ý thân mật khắng khít, thấy Phạm Trọng Yêm mở miệng đại nhân, hạ quan, chỉ đành xưng bản quan trước.

Sau khi hai người ngồi xuống, Hạ Tủng đảo mắt, bốn vách tường thư phòng đều nghèo mà sạch, chỉ có hai ghế một bàn, một đàn, vì thế cảm thán nói:

- Nghe nói Phạm công chí công vô tư, vì nước quên nhà. Hôm nay vừa thấy nghèo khó thế này, thật sự danh bất hư truyền. Đúng rồi, gần đây bản quan mới tuyển được mấy ca cơ, tranh cãi ầm ĩ phiền lòng. Phạm công không hiềm nghi, chi bằng tặng cho ngài, không biết ý Phạm công thế nào?

Nói dứt lời vuốt râu mỉm cười.

Phạm Trọng Yêm thầm nghĩ, “Hạ Tủng là đến thám thính tin đồn biến pháp. Người này bụng đầy tâm tư, ngược lại cũng không nên đuổi đi”, mỉm cười nói:

- Hạ quan nghèo khó đã quen, có người hầu hạ ngược lại không thoải mái. Ý tốt của Hạ đại nhân, hạ quan lòng ghi nhận.

Đồng thời chuyển đề tài, Phạm Trọng Yêm nói:

- Hạ đại nhân đêm khuya đến, nghĩ chắc không chỉ đến kiểm tra thư phòng hạ quan đơn giản vậy chứ?

Hạ Tủng cười ha hả, thầm nghĩ Phạm Trọng Yêm vô cùng thông minh, đi vòng vo với người thông minh, vậy chắc chắn là chuyện ngu xuẩn. Lão từ tây bắc trở về, gặp biến pháp, Phạm Trọng Yêm cho rằng biến pháp là chuyện lợi nước lợi dân. Trong mắt Hạ Tủng, biến pháp cũng là cơ hội tốt cứu vớt thanh danh. Lão từ tây bắc trở về, tự nghĩ không có công lao cũng có khổ lao, đương nhiên không muốn bỏ qua cơ hội này.

Nhưng biến pháp ai có thể đảm đương, chỉ có Thiên Tử và Phạm Trọng Yêm bàn tính. Hôm nay Triệu Trinh tuyên Phạm Trọng Yêm vào cung, Hạ Tủng đoán nhất định là lựa chọn nhân tài biến pháp, lúc này đêm khuya đến thăm dò.

Lúc tâm tư xoay chuyển, Hạ Tủng lại cười nói:

- Phạm công, quả thật không dấu diếm. Bản quan biết Thiên tử kiên quyết biến pháp, mời Phạm công người kí tên đầu tiên trong văn kiện nên rất muốn ra sức hiến kế cho biến pháp. Nghe nói ngày mai trên triều muốn biến pháp. Phạm công và Thiên tử thân cận, không biết Thiên tử sắp xếp bản quan thế nào không?

Phạm Trọng Yêm thấy thần sắc Hạ Tủng khẩn trương, khẽ mỉm cười nói:

- Hạ đại nhân muốn ra sức cho biến pháp, thật là chuyện may mắn thiên hạ. Quả thật không dấu diếm, Thiên tử quyết định thế nào, hạ quan cũng không biết sự tình.

Thấy Hạ Tủng tràn đầy ý thất vọng... Phạm Trọng Yêm thầm nghĩ:

“Đang lúc biến pháp, không nên nội chiến, dù sao kết luận đã có rồi, nói trước cho Hạ Tủng cũng không sao. Người này tuy giả dối tham danh, nhưng nếu lão ủng hộ biến pháp, dù sao cũng là chuyện tốt.”

Vừa nghĩ đến đây, Phạm Trọng Yêm nói:

- Hôm nay Thiên tử từng nói, Hạ đại nhân thống lĩnh tây bắc nhiều năm, vất vả công lao càng lớn, hình như đảm nhận chức Xu mật sứ.

Hạ Tủng vừa mừng vừa lo, bỗng nhiên đứng lên nói:

- Chuyện này thật không? Thấy Phạm Trọng Yêm mỉm cười nhìn qua, Hạ Tủng cảm thấy có chút thất lễ, chậm rãi ngồi xuống, cười ha ha nói:

- Không ngờ trở về trong kinh thành, còn có thể bắt tay lại lần nữa với Phạm công, thật là chuyện vui cuộc đời.

Lão tuy dốc sức kìm chế, nhưng vẫn khó kìm nén thần sắc đắc ý.

Hạ Tủng biết Phạm Trọng Yêm lời nói ra không nhẹ, tuy trong khẩu khí Phạm Trọng Yêm không xác định, nhưng nếu đề cập như vậy thì, vị trí Xu mật sứ đó không phải lão thì ai phù hợp hơn.

Trung thư tỉnh và Xu mật sứ Đại Tống chia ra nắm hai bên văn võ. Xu mật sứ là quan tối cao Xu mật viện, nắm việc quân cơ quyền to. Tuy nói Đại Tống trọng văn kinh võ, nhưng đảm đương Xu mật sứ là một vị trí cũng có thể nói là trong triều chỉ dưới Thiên tử, ngang hàng với Tể tướng. Hạ Tủng uống viên thuốc an thần, cảm tình tốt với Phạm Trọng Yêm tăng lên. Thầm nghĩ Phạm Trọng Yêm thăng trầm nhiều năm, nhưng gần đây rất biết hành sự. Cho dù đối với Lã Di Giản đối thủ không đội trời chung cũng chung tay hòa thuận, sau ngày biến pháp nếu thành, người này nhất định thanh danh truyền xa, bây giờ phải cực kỳ lôi kéo.

Hạ Tủng lại cùng Phạm Trọng Yêm hàn huyên hai câu, lúc này mới mãn nguyện cáo từ bỏ đi.

Phạm Trọng Yêm ngồi dưới ánh đèn hiu quạnh, trâm ngâm một lát. Lúc này lại mở văn án trên bàn, mài mực cầm bút, lại lần nữa hoàn thiện nội dung “mười chuyện điều trần”

Lúc sáng sớm, Phạm Trọng Yêm mới nghỉ ngơi chốc lát, đợi gà trống mới gáy, đã bỗng nhiên tỉnh lại. Lão tuy xem nhẹ cuộc đời quan trường, nhưng lần biến pháp này, chuyện liên quan thiên hạ, trong phấn chấn trong lòng lại khó tránh pha lẫn ý lo sợ không yên.

Đi tới đi lui mấy bước, cuối cùng Phạm Trọng Yêm ngồi xuống bên cây đàn, tay đè lên dây đàn, gãy một khúc “dấn bước sương khói”

Trời hơi sáng, ngoài cửa khói sương sáng sớm tụ thành giọt sương. Ca khúc sầu kính mang phần lạnh lẽo, mang ưu tư vang vọng không ngừng.

Khúc nhạc kết thúc rồi, Phạm Trọng Yêm thở nhẹ một tiếng, trong lòng nghĩ rằng:

“Ta vui gảy đàn, ca từ hay, nhưng đời này ít sáng tác ca từ, chỉ gảy “dấn bước sương khói” quả thật không muốn vì bỏ lỡ hành sự. Khúc “dấn bước sương khói” vốn do Bá Kỳ con trưởng Doãn Cát Phủ trọng thần Chu Tuyên Vương sáng tác. Bá Kỳ vốn là người con có hiếu, vô tội, vì mẹ kế gièm pha, bị cha trục xuất, biên thủy hà y chi, thái bình hoa thực chi. Sáng sớm một ngày bước vào sương, Bá Kỳ buồn bã vô tội vì bị trục xuất, tự sáng tác khúc dấn bước vào sương khói để bài tỏ nổi lòng, sau đó nhảy xuống sông tự vẫn. Ta Phạm Trọng Yêm vô tội số lần bị trục xuất ít hơn Bá Kỳ? Biến pháp lần này, chủ yếu nhằm vào thay đổi người ngồi không ăn bám triều đình. Người đắc tội phải nhiều, ngày tháng sau này, lời gièm pha chỉ sợ lớn hơn trước. Ta tuy nói với Địch Thanh cái gì “chỉ cầu ngẩng đầu cuối đầu không thẹn, thì sợ gì bình luận thành bại?” Nhưng trong lòng luôn lo lắng, không phải lo lắng bản thân vinh nhục được mất, mà sợ bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở này. Bá tính càng khổ, giang sơn lung lay, chỉ mong chuyện biến pháp lần này thành công, cuộc đời Phạm mỗ không oán.”

Thấy giời gian đã đến, Phạm Trọng Yêm vỗ áo đứng lên, rửa mặt xong, chỉnh sửa lại quan y, bước ra phủ vào cung.

Chờ tới trước điện Văn Đức, sớm có không ít văn võ bá quan đợi thiên điện, đều bàn luận, không ít người đều là mỉm cười chào hỏi, còn có do dự, lúc này nghe cung nhân cung kính nói:

- Lã tướng đến.

Quần thần hơi yên tĩnh, người vốn muốn chào hỏi Phạm Trọng Yêm đều có chút lùi lại.

Lã Di Giãn, Phạm Trọng Yêm ân oán gút mắc nhiều năm. Tuy nói mấy năm gần đây, Phạm Trọng Yêm là được Lã Di Giản đề cử, mới tới tây bắc. Nhưng Lã tướng suy cho cùng tính toán thế nào với biến pháp của Phạm Trọng Yêm, rất nhiều người còn xem thái độ.

Lã Di Giãn nắm giữ triều chính nhiều năm, bây giờ đã tam nhậm Lưỡng Phủ chấp chính, rất có căn cơ, không ít người tuy muốn nịnh bợ Phạm Trọng Yêm, nhưng cũng không nóng vội đắc tội Lã Di Giãn.

Lã Di Giản chậm rãi đi tới, lúc đi ngang qua bên cạnh Phạm Trọng Yêm, tạm ngừng bước nói:

- Phạm công đã lâu không gặp?

Lão vẫn luôn gọi tên của Phạm Trọng Yêm, lần này lại gọi Phạm công, ngược làm mọi người bên cạnh có chút kinh ngạc.

Phạm Trọng Yêm thi lễ nói:

- Được Lã thừa tướng vất vả hỏi, hạ quan rất khỏe. Lã tướng phong độ vẫn như trước, thật đáng chúc mừng.

Lão tuy nói những lời nói này, lại để ý tới góc thái dương Lã Di Giản không biết lại tăng thêm bao nhiêu tóc bạc.

Lã Di Giản già rồi, dù cho là ai, dù tung hoành thiên hạ, quan trên đỉnh cao, cũng khó tránh khỏi dòng thời gian như nước.

Lã Di Giản chỉ là gật đầu, đi tới một bên. Quần thần từ trong đối thoại tinh tế, dường như phát giác cái gì, phần lớn đều là thầm tự cân nhắc, nghĩ tới trên triều hôm nay, ruốt cuộc phải đầu nhập về phía nào.

Rất nhiều người đều đã biết, hôm nay Thiên tử lâm triều, chính là muốn tuyên bố chuyện biến pháp. Nếu là tuyên bố biến pháp, vậy chính là không có con đường sống của thương lượng. Bây giờ mọi người có thể tranh lấy chính là làm thế nào trong biến pháp, có biểu hiện rõ ràng.

Triệu Trinh trọng dụng Phạm Trọng Yêm không thể nghi ngờ, nhưng Triệu Trinh có còn dùng Lã Di Giản nữa không, rất nhiều người đều muốn biết.

Lã Di Giản mới bỏ đi, thì có bốn người đã vây tới bên cạnh Phạm Trọng Yêm, hàn huyên:

- Bái kiến Phạm công.

Bốn người đó đều là hăm hở đang lúc tuổi trung niên, đối với Phạm Trọng Yêm đều là cực kỳ cung kính.

Phạm Trọng Yêm cười nói:

- Sao hôm nay đa lễ như vậy chứ?

Lão biết bốn người đi đến lần lượt là Thái Tương, Vương Tố, Dư Tĩnh và Âu Dương Tu, cũng đều là Gián quan của Gián viện.

Cơ cấu giám sát trong triều Tống là Ngự sử đài và Gián viện.

Chức trách chủ yếu của Ngự sử đài là “ giữ gìn trật tự quan tà, nghiêm túc kỷ cương” còn chủ yếu của Gián viện là “cung phụng can gián, phàm khuyết thất triều chính, đại tắc đình nghị, tiểu tắc thượng phong”

Ngự sử đài và Gián viện cũng có thể dò xét lẫn nhau, chỉ để chỉnh đốn biên cương.

Thái Tương đa tài ngay thẳng, Vương Tố con trai danh tướng Vương Đán tuổi trẻ đắc chí, Dư Tĩnh cũng mấy bận thăng trầm chính chắn lão luyện, còn Âu Dương Tu cũng nhiều lần trải qua gian khổ vẫn không thay đổi tính khí thẳng thắn cương trực.

Bốn người này kỳ thực vẫn đi theo Phạm Trọng Yêm nhiều năm. Phạm Trọng Yêm nhiều lần vô tội bị giáng chức, bốn người này lúc Thái hậu đương quyền vì bênh vực cho Phạm Trọng Yêm, cũng bị giáng chức mấy lần. Lần này lại tụ tập ở triều đường, nghĩ tới biến pháp sắp tới, đều khó nén được ý phấn chấn.

Thì ra lúc Phạm Trọng Yêm về tới trước kinh thành, Triệu Trinh đã rất bất mãn với dáng vẻ già nua nặng nề của triều đình, lẳng lặng điều chỉnh nhân sự ở Gián viện. Biết mấy người Thái Tương ăn nói thẳng thắn không kiên kỵ, đã sớm một bước điều bốn người này tới Gián viện.

Mà bốn người này cũng không có phụ lòng dày vọng của Triệu Trinh. Khoảng thời gian này, thẳng thắn trình lên khuyên ngăn, công kích triều đình. Bây giờ vì thẳng thắn can gián, được dân chúng ca tụng, từ lâu đã danh chấn kinh thành.

Dư Tĩnh nghe Phạm Công nói đùa, mỉm cười nói:

- Nay không phải vì Phạm công được vào Lưỡng phủ đa lễ, mà vì thiên hạ may mắn lớn mà lễ.

Phạm Trọng Yêm lời nói đầy thâm ý nói:

- Chuyện chưa thành, chuyện xấu quá nhiều, cho dù đắc ý cũng không cần quá sớm, đề phòng ngừa xảy ra rắc rối.

Vương Tố cũng không có để ý tới ngụ ý của Phạm Trọng Yêm, cười nói:

- Biến pháp lần này vì Phạm công mà ra, Phạm công nếu không vào Lưỡng phủ, tuyệt không thể. Bây giờ chúng ta tò mò nhất là không biết Thánh Thương sẽ phái người nào phụ trợ Phạm công đây?

Phạm Trọng Yêm nhíu mày, thấp giọng nói:

- Các ngươi chớ nói như vậy..

Lời nói còn chưa dứt, tiếng chuông khánh vang lên, có cung nhân cung kính nói:

- Thiên tử giá lâm.

Mọi người nghiêm nghị im lặng, Triệu Trinh người mặc long bào màu vàng, từ Thiên điện đi ra, chậm rãi tới trước ghế rồng ngồi xuống.

Quần thần quỳ lại, ba lần hô vạn tuế, Triệu Trinh trên đài cao nói:

- Chúng khanh gia miễn lễ bình thân.

Y giọng uy phong, trang nghiêm vô hạn, Địch Thanh xa xa nghe thấy, trong hoảng hốt có chút xa lạ.

Địch Thanh cũng tới điện Văn Đức, hắn tới điện Văn Đức là vì được Thiên tử tuyên triệu. Địch Thanh tuy không phản đối biến pháp, nhưng tự hỏi không hiểu rõ về biến pháp, vốn không hiểu tại sao Thiên tử bảo hắn đến đây. Nghĩ lại, cảm thấy Triệu Trinh hơn phân nữa không muốn hắn tới tây bắc nữa, do vậy muốn hắn tham gia triều chính? Nhưng Địch Thanh hắn, hoàn toàn không để ý tới khuấy đục một ao nước xuân trong này.

Trước đây tuy Địch Thanh thống lĩnh Kính Nguyên Lộ, sau đó lại thăng làm Đoàn luyện sứ, nhưng trên điện Văn Đức này, vẫn xếp ở hàng chót.

Trên điện Văn Đức, địa vị văn thần trên hẳn tướng võ. Văn thần theo Lưỡng phủ, Tam nha, Tam quán quan chức hàng lớn nhỏ, vừa liếc nhìn, rậm rạp đều là đầu người.

Địch Thanh đã xếp hàng ở ngoài điện, ngẩng đầu nhìn trời, thấy mây trắng thong dong.

Trong điện Triệu Trinh đã nói:

- Thái tổ lập quốc, công tích thiên hạ, người đời kính ngưỡng. Mỗi lần trẫm nhớ tới thái tổ hùng phong, vẫn khó có thể bình an. Nghĩ tây bắc quân ta nhiều lần bại, Trung Nguyên lại có dân loạn, trước có Quách Mạc Sơn, sau có đám người Vương Luân náo động Sơn Đông. Nghĩ điêu dân cố hữu sai lầm, trẫm thống trị giang sơn bất lợi, không thể thoái thác trách nhiệm.

Bá quan ngơ ngác nhìn nhau, thầm nghĩ Triệu Trinh cho mình một gậy trước, che mồm của người khác, xem ra lòng biến pháp đã rất kiên quyết, lúc này, người khôn lanh, đều lẳng lặng chờ lời tiếp theo.

Triệu Trinh lại nói:

- Trẫm mấy ngày nay sớm đêm khó ngủ, biết giang sơn bệnh trầm kha lâu ngày, làm khoái đao lực trảm, mới có thể hiểu nổi khổ của dân chúng. Do đó trẫm muốn thay đổi chính trị cũ trước đây, hưng trí thái bình, không biết chúng khanh gia có đề nghị gì?

Mọi người đều nghĩ, Triệu Trinh lấy chí tôn Thiên tử, nói cái gì hiểu khốn khổ bá tính. Lời lẽ rất nặng, miêu tả rất sinh động ý bất mãn nặng nề đối với triều thần.

Không đợi người bên cạnh nói, Thái Tương đã bước ra khỏi đám đông nói:

- Khởi bẩm Thánh Thượng, thần có việc xin tấu.

Tinh thần mọi người chấn động, thầm nghĩ xưa nay Thái Tương ăn nói thẳng thắn không kiêng kỵ, lại ở phe Phạm Trọng Yêm, nếu y nói, thì có thể là tiếng của tân pháp.

Triệu Trinh gật đầu nói:

- Chuẩn tấu.

Thái Tương nói:

- Từ khi Thái hậu về cõi tiên, Thánh Thượng đăng cơ tới nay, bá quan trong triều, có nhiều biến chuyển. Trong trường hợp đó chỉ có một người luôn được ngồi vị trí cao, luôn nắm giữ quyền to.

Tuy Thái Tướng không có nói ra danh tính của người đó, nhưng quần thần vừa nghe thì biết Thái Tương nói Lã Di Giãn. Lã Di Giãn được Thái Tương nhắc tới, thần sắc như thường, Phạm Trọng Yêm lại chau mày.

Thái Tương lại nói:

- Thánh Thượng tín nhiệm Lã tướng có tăng, theo lý mà nói Lã tướng vốn có ơn nên báo đáp mới phải. Nhưng Lã tướng nắm giữ triều chính tới nay, dùng người không khách quan, dùng người không nhìn tài năng, chỉ cần là người phải chăng có thể lĩnh hội tâm tư khác. Bây giờ tây bắc có chiến bại, triều đình ta tổn thất nghiêm trọng và thê thảm. Lúc này Đại Tống có Khiết Đan, Tây Hạ như hổ rình mồi, quanh năm cẩn trọng, nếu không cá lớn nuôt cá bé mà thôi. Mà Đại Tống suy nhược đã lâu, triều cương không phấn chấn, bá tính khổ ải dẫn đến lưu dân tạo phản, loạn trong giặc ngoài như vậy, càng thêm kịch liệt. Có lẽ nhiều nguyên nhân, nhưng Lã tướng vô năng, khó chối được sai lầm này.

Thái Tương nói xong, điện Văn Đức nghiêm nghị không tiếng động.

Quần thần có run rẩy, có phấn chấn, có bất an, có chau mày. Tất cả mọi người đều biết trên triều đường hôm nay, tuyệt đối sẽ có sóng dữ đánh úp kinh thiên động địa. Nhưng tất cả mọi người đều không có nghĩ tới, đòn công kích đầu tiên của Thái Tương phe của Phạm Trọng Yêm đánh thẳng người đứng đầu đương triều.

Lã Di Giản nắm triều chính nhiều năm, trong triều không ít thần tử còn là môn sinh của lão. Lão bị công kích, sao có thể khoanh tay chịu chết? Mọi người cùng cho rằng, lần nói này của Thái Tương, chính là người ủng hộ tân pháp tuyên chiến với phái bảo thủ của triều đình.

Lã Di Giản làm thế nào tiếp chiêu?

Trên điện Văn Đức, mưa gió nổi lên...

Lời lẽ Thái Tương quyết liệt, đầu mâu chỉ thẳng Lã Di Giản, Địch Thanh xa xa nhìn Lã Di Giản, đột nhiên phát hiện ông ta có chút cô độc.

Lã Di Giản già rồi, Lã tướng đã từng oai phong quát tháo trước triều già rồi, từ góc độ của Địch Thanh mà nhìn, nhìn thấy mái đầu bạc phơ của ông ta, lưng hơi khòm.

Địch Thanh không biết tại sao trong lòng có chút thương cảm, năm tháng cô độc lạnh lẽo trôi qua có thể phá huỷ vạn vật, cho dù đường đường là đệ nhất nhân của Lưỡng phủ cũng không ngoại lệ. Nhưng hắn lại không biết, Phạm Trọng Yêm lúc vừa trông thấy Lã Di Giản cũng thương cảm như vậy.

Đối với Lã Di Giản, Địch Thanh lại không cảm thấy chán ghét, bởi vì hắn có thể gia nhập Tam Ban, là công lao của Lã Di Giản.

Trận Tây Bắc binh bại, lưu dân tạo phản, trách nhiệm loạn trong giặc ngoài đều đổ lên người Lã Di Giản, Địch Thanh có chút không đồng tình, có những sai sót của người khác, phải tự kẻ đó gánh vác, nhưng nếu không phải là sai sót của ông ta thì sao?

Sau khi nghi ngờ, Lã Di Giản đến giờ lại không sắc bén phản biện, phản ứng một cách trầm lặng.

Quần thần cảm thấy kì lạ, bắt đầu xì xào bàn tán. Triệu Trinh ngồi trên long ỷ, nhìn thái độ của Lã Di Giản, dường như cũng có chút kì quái.

Sau khi không biết mất bao lâu, Triệu Trinh mới mở miệng nói:

- Lã tướng, đối với những lời chỉ trích của Thái Tư Gián, ngươi thấy thế nào?

Lã Di Giản lúc này mới đáp:

- Thánh thượng, thần những năm gần đây, cố gắng hết sức….

Nói đến đây, Lã Di Giản ngừng lại một chút, Thái Tương thầm nghĩ:

- Cố gắng hết sức của ngươi, có thể trốn tránh trách nhiệm sao?

Không ngờ rằng Lã Di Giản lại nói:

-Thần tâm sức cạn kiệt, không thể phân ưu cùng thánh thượng, không thể giải sầu cho thánh thượng, thêm vào đó tuổi tác đã cao, lực bất tòng tâm, mong muốn từ chức, xin thánh thượng ân chuẩn..

 Chương 373 - 377: Tai hoạ ngầm

Thái Tương ngẩn ra.

Chẳng chỉ Thái tương sững sờ, cả triều văn võ đều bị kinh ngạc vô cùng. Ai cũng cũng không ngờ được Lã Di Giản nắm giữ triều chính bao nhiêu năm lại không hề phản kích lại những lời chỉ trích này, mà còn đề ra thỉnh cầu từ chức.

Thái Tương công nhiên chỉ trích Lã Di Giản ngồi không ăn bám, làm cho cục diện triều đình nhà Tống hiện giờ suy sút, quả thực chưa từng thương lượng qua với Phạm Trọng Yêm. Nhưng ông ta và ba người Vương Tố, Dư Tĩnh, Âu Dương Tu thương nghị riêng, trước giờ cho rằng phải thúc đẩy nhanh việc tiến hành cải cách, Lã Di Giản bảo thủ, chắc chắn sẽ là thế lực lớn nhất ngăn cản việc cải cách. Do đó Thái Tương hôm nay đã sớm hạ quyết tâm, chắc chắn muốn gạt bỏ Lã Di Giản ra khỏi những người thực hiện cải cách, ông ta đã chuẩn bị ứng phó với tình hình phản kích kịch liệt nhất, nhưng không ngờ rằng Lã Di Giản lại lập tức từ chức, Thái Tương tuy đắc thủ, nhưng trong lòng luôn cảm thấy bất an:

- Lã Di Giản là người thâm trầm, cay độc lão luyện, chiêu này chẳng lẽ là kế lấy lùi làm tiến? Nhớ năm đó Thái hậu về trời, lúc thiên tử đăng cơ, Lã Di Giản lùi một bước, nhưng chưa đến mấy tháng, lại phản kích lại Lưỡng phủ, lần này, ông ta cũng giở trò này sao?

Trong điện cuối cùng yên tĩnh lại.

Triệu Trinh đảo mắt đến Phạm Trọng Yêm nói:

- Phạm khanh gia, ý khanh thế nào?

Phạm Trọng Yêm hơi chau mày, trầm giọng đáp:

- Thần cho rằng, chỉ trích của Thái Tư Gián có phần không thoả đáng, Lã tướng hà tất phải từ chức.

Quần thần vừa nghe Phạm Trọng Yêm không ngờ có ý giữ lại, lại ồ lên. Đám người Vương Tố, Dư Tĩnh nhíu chặt mày, nháy mắt với Phạm Trọng Yêm, hy vọng ông ta đừng giữ Lã Di Giản lại.

Phạm Trọng Yêm làm như không thấy, lại nói:

- Chuyện cải cách, sự tình trọng đại, Lã tướng chấp chính nhiều năm, biết rõ lợi hại, thần còn phải dựa vào Lã tướng, xin Lã tướng nghĩ lại.

Quần thần vô cùng bất ngờ, không nghĩ đến Lã Di Giản từ chức, Phạm Trọng Yêm lại giữ lại. Vốn cho rằng Lã Di Giản sẽ xuống thang, không ngờ Lã Di Giả bình tĩnh đáp:

- Ý tốt của Phạm công, trong lòng thần đã biết. Nhưng ý thần đã quyết, xin thánh thượng ân chuẩn.

Thanh âm Lã Di Giản vững vàng, nhưng ý lại quyết tuyệt. Triệu Trinh nghe xong, thần sắc có chút bất thường, cuối cùng mở miệng nói:

- Nếu đã như vậy, trẫm ân chuẩn.

Quần thần xôn xao, đều không ngờ kết quả sẽ yên ả như vậy. Những viên quan trước giờ theo Lã Di Giản thấy thế, đều âm thầm cảm thấy hối hận, thầm nghĩ sao không sớm có chút liên hệ với Phạm Trọng Yêm?

Hạ Tủng một bên nghe, dương dương tự đắc, thầm nghĩ hễ Lã Di Giản đi, trong triều đình này, chính là thiên hạ của y với Phạm Trọng Yêm. Y sớm biết lần này thánh thượng muốn trọng dụng hai người Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ. Phạm Trọng Yêm và y lại không có mâu thuẫn, Hàn Kỳ cũng không có lí do gì phải gây bất lợi với ông ta, biết rõ lúc đầu, thảm bại tại Tam Xuyên Khẩu, là ông ta thay Hàn Kỳ gánh trách nhiệm, nhận toàn bộ trách nhiệm về mình.

Nếu đã vậy, Hạ Tủng y tham gia làm chủ Lưỡng phủ không còn nghi ngờ, đã là chuyện chắc chắn.

Sớm có xá nhân tuyên đọc thánh chỉ do Lưỡng chế định ra, Lã Di Giản từ chức, do hai người Chương Đắc Tượng, Yến Thù đồng giữ chức tể tướng, Phạm Trọng Yêm tham gia chánh sự, chủ quản việc cải cách.

Đạo thánh chỉ này tuyên đọc ra, quần thần có chút ngoài dự liệu, nhưng hợp tình lí.

Chương Đắc Tượng thân là nguyên lão hai triều, đức cao trọng vọng, mấy năm trước được Triệu Trinh đề bạt, làm chủ Xu Mật viện, lần này từ Xu Mật viện chuyển vào Trung Thư tỉnh, chẳng qua chỉ là bình mới rượu cũ, chỉ là biểu thị ý tôn sùng nguyên lão trong triều. Vả lại, Yến Thù vốn là ân sư của Phạm Trọng Yêm, tự sẽ ra sức ủng hộ Phạm Trọng Yêm, ba người này cùng tại Trung Thư tỉnh chấp chính, đương nhiên sẽ tề tâm hiệp sức thúc đẩy cải cách.

Quần thần đều đang nghĩ đến cách hành xử ngày sau, phân tích mối quan hệ của những nhân tuyển trên danh sách, chỉ có Địch Thanh để ý đến một chi tiết.

Địch Thanh đã lâu ở trong cung, đương nhiên biết thánh chỉ là Lưỡng chế định ra. Tống triều lưỡng chế, chính là cách gọi chung của Hàn lâm học sĩ viện và Xá nhân viện, phụ trách soạn thảo chiếu lệnh của hoàng đế, mà Xá nhân trước mắt chỉ chịu trách nhiệm tuyên đọc nội dung, tuyệt không thể sửa đổi, nói như vậy, trước khi Lã Di Giản chủ động từ chức, nội dung trong chiếu thư đã muốn đẩy Lã Di Giản ra khỏi Lương phủ rồi sao?

Lã Di Giản từ chức, trên mặt Triệu Trinh lại không có chút ngạc nhiên. Theo Địch Thanh biết, Triệu Trinh có thể đoạt lại quyền vị từ tay Thái hậu, Lã Di Giản mang công đầu ủng hộ, vậy mà Lã Di Giản lại chủ động từ chức, chắc chắn là đã có kế ước ngầm với Triệu Trinh.

Lúc này, danh sách bổ nhiệm và miễn nhiệm đã tuyên đọc xong, Xá nhân chuyển qua đọc việc điều động bổ nhiệm và miễn nhiệm Xu Mật viện. Hạ Tủng dỏng tai lắng nghe, đợi đến lúc nghe được năm chữ “Xu Mật sứ Hạ Tủng”, không khỏi thở phào một tiếng, âm thầm đắc ý.

Kết quả này tuy trong dự liệu, nhưng vẫn còn thấy bất tâm. Xem vẻ mặt khác thường của triều thần, lại nhìn vẻ mặt kinh ngạc của bọn người Thái Tương, Dư Tĩnh. Hạ Tủng chau mày, đoán được mấy người này quá nửa sự việc cũng không biết trước, mới có biểu lộ thế này. Đám người Thái Tương xưa nay ngay thẳng, lại là đảng phái của Phạm Trọng Yêm, sau này phải tạo quan hệ tốt với bọn họ mới được.

Phó sứ Xu Mật do hai người Hàn Kỳ, Phú Bật đảm nhiệm, Gián viện vẫn như cũ do bốn người Thái Tương đảm trách, Ngự Sử Trung Thừa vẫn do Vương Củng Thần đảm đương...

Thánh chỉ đọc xong, mấy nhà vui vẻ, mấy nhà ưu sầu, thông tin truyền ra, kinh thành chấn động, cũng chính thức tuyên bố bắt đầu cuộc cải cách trong những năm Khánh Lịch của Đại Tống. Triệu Trinh đợi Xá nhân đọc xong thánh chỉ, mới hỏi:

- Chúng khanh gia có gì dị nghị?

Bách quan trầm mặc, Thái Tương nhìn Hạ Tủng, vừa mới bước lên, có một người bước ra, thi lễ nói:

- Thần có dị nghị.

Quần thần nhìn lại, thấy thần sắc người kia sáng sủa, hai mắt hơi nhỏ, ánh mắt sáng ngời, chính là Ngự Sử Trung Thừa Vương Củng Thần.

Năm đó, Địch Thanh trong khoảng thời gian thất bại tại Ma Khám, Vương Củng Thần đã đỗ tiến sĩ đầu bảng trong thời gian Thiên Thánh. Những năm gần đây, con đường làm quan thuận buồm xuôi gió, như nay đã có vị trí cao trong hàng ngũ Gián lưỡng viện.

Triệu Trinh có chút hoang mang, hỏi:

- Vương khanh gia có gì dị nghị?

Vương Củng Thần trầm giọng nói:

- Thánh thượng kiên quyết cải cách, thiên hạ vui mừng. Nhân tuyển chấp chánh đa phần là hiền tài, sáng suốt, thế nhưng thần cảm thấy có một người vào làm chủ chấp chánh Lưỡng phủ vô cùng không ổn.

Quần thần kinh sợ, không nghĩ Lã Di Giản từ chức, chẳng qua là món khai vị của cuộc cải cách trong triều, Vương Củng Thần lại nghi ngờ danh sách Lưỡng phủ mà thiên tử đưa ra, y muốn nói đến vị nào?

Triệu Trinh nhíu mày, chậm rãi hỏi:

- Khanh cảm thấy ai vào Lưỡng phủ không thoả đáng?

Vương Củng Thần từng chữ nói:

- Thần cho rằng, Hạ Tủng không phù hợp tham gia vào việc chấp chánh Lưỡng phủ.

Một lời vừa nói ra, vẻ mặt của quần thần mỗi người mỗi khác.

Hạ Tủng vừa kinh ngạc vừa tức giận, không ngờ lại là Vương Củng Thần hoài nghi khả năng chấp chánh của y! Hạ Tủng biết Vương Củng Thần xem như môn sinh của Lã Di Giản, thuộc phái Lã Di Giản, tại sao Lã Di Giản xuống đài, Vương Củng Thần không công kích Phạm Trọng Yêm, ngược lại khai đao với Hạ Tủng y?

Triệu Trinh cũng như vậy có chút không ngờ, sau một lúc lâu mới nói:

- Tại sao Hạ Tủng không phù hợp tham gia chấp chánh Lưỡng phủ?

Vương Củng Thần nói:

- Thánh thượng để Hạ Tủng làm Xu Mật Sứ, hiển nhiên cho là ông ta tại Tây Bắc có công lao lớn, mới có thể nắm quân cơ đại quyền. Nhưng thần nghe Hạ Tủng sau khi đến Tây Bắc, cả ngày tìm vui hưởng lạc, không để ý đến việc quân, con người Hạ Tủng tà ác nham hiểm, tham tài háo sắc, đối với chiến sự với nước Hạ hèn nhát cẩu thả, đó là nguyên nhân thất bại chủ yếu của quân ta tại Tam Xuyên Khẩu. Loại người này nếu vào Xu Mật viện, không phải là trò cười lớn nhất sao?

Hạ Tủng giận dữ, trên trán đã nổi gân xanh, hận không thể đánh cho Vương Củng Thần một trận.

Trong lòng Triệu Trinh do dự, cũng tán thành với lời của Vương Củng Thần. Y chọn Hạ Tủng làm Xu Mật sứ là bởi vì Phạm Trọng Yêm đề cử. Nhưng những ngày gần đây, y luôn nghe biết được, bá tánh đối với Hạ Tủng rất xem thường, trong dân gian đồn đại, cũng cho là chiến công tại Tây Bắc là thuộc về Phạm Trọng Yêm, Địch Thanh, mà việc Hạ Tủng trong quân doanh uống rượu mua vui, cũng đã sớm truyền đến bên tai Triệu Trinh.

Tuy nói uống rượu mua vui ở Biện Kinh vô cùng bình thường, nhưng như vậy ở biên thuỳ, khó tránh để người khác có cảm giác “quân sĩ trước mắt không rõ sống chết, mĩ nhân trong trướng ca múa”.

Triệu Trinh nghĩ đến đây, đối với đề nghị lúc đầu của Phạm Trọng Yêm có chút nghi ngờ. Nhìn thấy Phạm Trọng Yêm như muốn lên tiếng, ánh mắt xẹt qua, nhìn về phía Thái Tương hỏi:

- Thái Tư Gián, ý khanh thế nào?

Thái Tương lập tức nói:

- Thần đồng ý với lời của Vương Trung Thừa.

Hạ Tủng căm tức liếc nhìn Thái Tương, nhưng do vẫn còn trong dòng xoáy, không cách gì biện luận, nhịn không được nhìn về phía Phạm Trọng Yêm, chỉ mong Phạm Trọng Yêm có thể vì y nói vài câu tốt đẹp. Phạm Trọng Yêm cũng vô cùng khó xử, mới đứng ra khỏi hàng, Triệu Trinh đã nói:

- Được rồi, việc bổ nhiệm Hạ Tủng làm Xu Mật sứ, sẽ bàn bạc kỹ hơn. Chúng khanh gia còn có việc khác không?

Phạm Trọng Yêm bất đắc dĩ dừng lại, Hạ Tủng thấy, trong lòng thầm hận, đột nhiên nghĩ:

- Phạm Trọng Yêm ơi Phạm Trọng Yêm, ngươi cũng trở nên giảo hoạt như vậy, giả vờ biểu hiện đối tốt với ta, lại để phe đảng chơi ta một vố, nếu ta không làm được Xu Mật sứ, rồi các ngươi xem!

Lúc này có người đứng ra nói:

- Khởi bẩm thánh thượng, thần có hai việc muốn bẩm báo.

Thân người người đó trung bình, tuy tuổi đã cao, nhưng vẫn có thể mơ hồ thấy được phong thái tuấn tú, lỗi lạc trên khuôn mặt.

Người bước ra khỏi hàng lại là trọng thần trong triều, tân nhiệm tể tướng Yến Thù.

Yến Thù là một thần đồng, vào thời Chân Tông, lúc mười bốn tuổi đã đỗ tiến sĩ, danh chấn thiên hạ, con đường làm quan ngày sau không có gì trắc trở, có thể nói là một tể tướng phú quý. Phạm Trọng Yêm là môn sinh của ông ấy, mà Phú Bật lại là con rể của ông ấy, trước mắt ba người Yến Thù, Phạm Trọng Yêm, Phú Bật cùng vào Lưỡng phủ, con đường làm quan của Yến Thù có thể nói là rộng mở, nhưng ông ấy vẫn sắc mặt bình thản, khiêm nhường như cũ.

Triệu Trinh hỏi:

- Yến khanh gia chuyện gì khởi bẩm?

Yến Thù đáp:

- Việc thứ nhất chính là Mã Chí Thư mấy lần cầu kiến Thánh Thượng, xin Thánh Thượng xuất binh tiến đánh Ấp La. Mã Chí Thư lưu lại kinh thành đã lâu, thánh thượng cũng nên có câu trả lời. Nếu không, chỉ sợ khó tránh bất mãn.

Triệu Trinh hơi trầm ngâm một chút, không khỏi hỏi Lã Di Giản:

- Lã tướng…khanh thấy thế nào?

Triệu Trinh tuy đăng cơ nhiều năm, nhưng rất tín nhiệm đối với Lã Di Giản, mỗi lần phải lựa chọn, đa phần đều hỏi Lã Di Giản. Một lời vừa nói ra, mới tỉnh ngộ là Lã Di Giản đã từ chức, thần sắc không khỏi ngượng ngùng.

Lã Di Giản sau khi tự từ chức, vẫn luôn giữ vẻ mặt bình tĩnh, nhàn nhạt xem triều đình tranh chấp, nghe thấy Triệu Trinh hỏi, ho nhẹ hai tiếng nói:

- Thánh thượng, thần đã không còn tại vị, vốn không có chức vị gì, không tham dự triều chính, nhưng Thánh thượng có nghi vấn, thần chỉ nói ra cách nghĩ của mình. Việc phía nam rất khó khống chế, nhớ lúc Thái Tổ còn tại thế từng lấy ‘ngọc phủ vạch Đại Độ Hà’ làm giáo huấn, làm gì có việc ‘đức hoá sở cập, man di tự phục’. Ấp La xa xôi, tuy biên thuỳ đang khai chiến, nhưng nếu Đại Tống ta xuất binh, sẽ có nhiều biến đổi vô cùng nghiêm trọng. Nếu thắng thì khó lòng quản lí, còn nếu thua thì rước thêm sỉ nhục. Nếu đã như vậy, không bằng gửi chút lương thảo, quân giáp cho Mã Chí Thư, để y tự giải quyết việc ở Ấp La, nếu làm như thế, không làm mất hoà khí hai bên, cũng xem như là cách để bình ổn.

Triệu Trinh gật đầu, hỏi Chương Đắc Tượng:

- Chương tướng, ý khanh thế nào?

Y vừa rồi xưng nhầm, giờ đưa Chương Đắc Tượng lên, là mang ý xin lỗi.

Chương Đắc Tượng tuổi đã cao, đứng lâu có chút mệt mỏi, nghe thế run run nói:

- Lời Lã…đại nhân, rất có đạo lí.

Triệu Trinh nói:

- Nếu đã không có dị nghị, vậy Yến tướng, do khanh xử lí việc này theo ý Lã đại nhân đã đưa ra.

Quần thần đều đang nghĩ việc ở kinh thành, làm sao để ý đến Ấp La, nên từ từ bỏ qua việc này. Yến Thù gật đầu đáp:

- Thần tuân chỉ. Thần muốn bẩm báo việc thứ hai, là liên quan đến việc Tây Hạ nghị hoà. Thánh thượng, Nguyên Hạo sớm phái Một Tàng Ngoa Bàng đến trước để nghị hoà, nhưng thánh thượng vẫn chưa gặp qua người ngày, nếu hiện nay đã xúc tiến việc cải cách, việc nghị hoà dường như cũng nên có kết luận rồi.

Triệu Trinh gật đầu nói:

- Nếu đã vậy, tuyên Một Tàng Ngoa Bàng vào điện.

Y tuy có ý nghị hoà, nhưng cứ trì trệ không gặp Một Tàng Ngoa Bàng, chỉ muốn thừa dịp thay đổi chức vụ của triều thần hôm nay xem phản ứng của đám người Yến Thù.

Không bao lâu, có cung nhân xướng lên:

- Sứ giả Tây Hạ Một Tàng Ngoa Bàng diện thánh.

Quần thần xoay đầu lại nhìn, nhìn thấy hai người theo cung nhân tiến lên điện. Người đi đầu dung mạo thô tục, cử chỉ lỗ mãng, để một chòm râu dê, bên miệng còn có nốt ruồi đen, nhìn thấy thật chán ghét.

Sau Một Tàng Ngoa Bàng đi theo một người, xem bộ còn tthuận mắt. Người đó trên mặt mang theo nụ cười, cùng với Một Tàng Ngoa Bàng tiến vào điện Văn Đức, bị mọi người nhìn, nét cười vẫn không giảm như cũ.

Một Tàng Ngoa Bàng đến trước điện, hành lễ của sứ giả, đĩnh đạc nói:

- Sứ thần Đại Hạ Một Tàng Ngoa Bàng tham kiến thiên tử Đại Tống. Thiên tử Đại Tống, hôm nay ngài tìm ta đến có phải muốn thương nghị việc nghị hoà?

Mọi người nhìn thấy Một Tàng Ngoa Bàng như vậy, đều khinh thường, thầm nghĩ sứ thần di man, tôm tép nhãi nhép. Có không ít bá quan biết rõ Một Tàng Ngoa Bàng, Một Tàng Ngoa Bàng quả thật cũng được xem như là quốc cựu của Hạ quốc, nhưng cái danh xưng quốc cựu này cũng không có gì đáng nói.

Thì ra Một Tàng Ngoa Bàng vốn là anh của Một Tàng thị-thê tử của Dã Lợi Ngộ Khất. Thiên Đô vương Dã Lợi Ngộ Khất sau khi bị Địch Thanh chặt mất cánh tay, bị Nguyên Hạo phái đến Sa Châu, nhưng không lâu sau, Nguyên Hạo trong một lần săn bắn, tình cờ gặp Một Tàng thị, bị mỹ mạo của Một Tàng thị làm rung động, cấu kết ở cùng với Một Tàng thị.

Dã Lợi Ngộ Khất tại Sa Châu, không thể làm được gì, mà tên Một Tàng Ngoa Bàng này không cảm thấy thẹn vì việc này, ngược lại còn dương dương tự đắc, càng dựa hơi để thăng chức, thậm chí còn được phái đến nghị hoà. Tống thần xưa nay xem thường Nguyên Hạo, tuy mấy lần bị Nguyên Hạo đánh bại, nhưng từ trong xương vẫn luôn ý thức thiên triều Đại Tống, trông thấy Một Tàng Ngoa Bàng như thế, càng thêm khinh miệt.

Quần thần cùng nhìn Một Tàng Ngoa Bàng, chỉ có Địch Thanh là đang quan sát người bên cạnh Một Tàng Ngoa Bàng. Vừa rồi lúc người đó đi qua bên cạnh Địch Thanh, cũng nhìn hắn một cái, Địch Thanh thấy người này điềm đạm cô đọng, tuy nhìn có vẻ văn nhã, nhưng bước chân nhẹ nhàng, linh hoạt mà vững chắc, biết được người này có lẽ là một cao thủ võ thuật, không khỏi âm thầm để ý. Lại nhìn thấy người đó đứng bên cạnh Một Tàng Ngoa Bàng, tuy không cử động, nhưng cử chỉ vô cùng nhẹ nhàng, điềm đạm...

Nét mặt tươi cười, cử chỉ điềm đạm? Trong lòng Địch Thanh hơi chấn động, nghĩ đến một người, chau mày.

Triệu Trinh trên long ỷ nhìn thấy Một Tàng Ngoa Bàng không biết lễ nghĩa, trong lòng không vui, nhưng không muốn mất phong độ trước mặt triều thần, vẫn bình tĩnh nói:

- Một Tàng Ngoa Bàng, Tây Bắc chiến loạn đã lâu, bá tánh cực khổ, trẫm không nhẫn tâm để bá tánh vô tội chịu khổ, vừa hay chủ ngươi cầu hoà, do đó chủ ngươi chỉ cần đáp ứng vài điều kiện, trẫm sẽ không khơi lại chiến sự…

Trong khi nói, nháy mắt với Yến Thù.

Yến Thù hiểu dụng ý của Triệu Trinh, một bên nói:

- Chỉ cần Triệu Nguyên Hạo đảm bảo không dấy binh, lui về phía tây Hoành Sơn, hai nước giao hảo như Triệu Đức Minh, ta sẽ không nhắc lại chuyện cũ, đồng ý việc nghị hòa.

Quần thần nghe vậy đều gật đầu. Đại Tống tuy hai lần thua nước Hạ, nhưng ở Biện Kinh trong mắt quần thần, Nguyên Hạo chẳng qua chỉ là tên gia nô được ban họ Triệu, không có tư cách ngồi ngang hàng với Đại Tống, chỉ cần Nguyên Hạo giống với cha y, Đại Tống cảm thấy có thể chấp nhận tình hình trước mắt. Những điều kiện này quả thật cùng với kết quả thương nghị của Triệu Trinh và Lưỡng phủ chỉ cảm thấy không thể tốt hơn nữa, càng cho rằng Tây Hạ không có lí do gì từ chối.

Không ngờ Một Tàng Ngoa Bàng cười ha ha, trong điện Văn Đức nghiêm trang, lộ rõ dáng vẻ vô cùng ngang ngược.

Yến Thù cau mày nói:

- Một Tàng sứ giả, vì sao ngươi cười?

Một Tàng Ngoa Bàng sau khi cười, ngạo mạn nói:

- Cái loại điều kiện áp bức này, ngươi để nước Hạ bọn ta làm sao chấp nhận?

Văn võ bá quan triều Tống đều chau mày, không kìm được xem lại điều kiện đàm phán, Yến Thù không thể tiếp tục kiên nhẫn hỏi:

- Vậy theo ngươi, muốn điều kiện gì?

Một Tàng Ngoa Bàng đưa ba ngón tay nói với Triệu Trinh:

- Nếu muốn đàm phán, các ngươi phải đáp ứng nước ta ba điều kiện.

Sắc mặt Triệu Trinh trầm xuống, trong lòng không vui. Y thấy Nguyên Hạo chủ động đến cầu hoà trước, cố ý ra vẻ bình thản không gấp, muốn để sứ giả nước Hạ lo lắng. Đợi đến hôm nay mới tìm Một Tàng Ngoa Bàng, vốn muốn thể hiện quốc uy của Đại Tống, biểu thị ân sủng của Đại Tống. Theo Triệu Trinh thấy điều kiện Yến Thù đề ra vô cùng khoan dung, làm gì nghĩ đến đây lại là kẻ vô lại như vậy, còn muốn nêu điều kiện với bọn họ?

Trước mắt rốt cục là ai muốn cầu hòa?

Yến Thù đã thấy Triệu Trinh không vui, còn có thể giữ bình tĩnh, chau mày nói:

- Nghị hoà, nghị hoà, bây giờ lấy việc nghị hoà làm chính. Các ngươi có thỉnh cầu gì, nói ra nghe xem thế nào.

Một Tàng Ngoa Bàng không có thời gian làm văn làm chương với Thù Yến, lập tức nói:

- Yêu cầu thứ nhất, đương nhiên là mở lại các tràng ở biên thuỳ Tây Bắc, hồi phục giao dịch của hai nước trước giờ.

Bá quan văn võ trong triều trong lòng buồn cười, biết được việc Tây Hạ mở rộng, phá huỷ giao dịch của hai nước, mất nhiều hơn được, cuối cùng bây giờ lại vội.

Yến Thù gật đầu:

- Vậy yêu cầu thứ hai?

Một Tàng Ngoa Bàng nói:

- Đại Hạ ta chiến tranh mấy lần tổn thất vô cùng, các ngươi nếu đã chiến bại, cần phải bồi thường ngân lượng, vải vóc cho nước ta, bù đắp tổn thất nước ta trước giờ.

Triệu Trinh giận dữ, dường như muốn đập bàn đứng dậy. Yến Thù nhíu chặt mày, thầm nghĩ thiên tử vô cùng trọng sĩ diện, như vậy chẳng phải giáng một cú tát vào mặt thiên tử sao?

- Là các ngươi chủ động gây hấn, các ngươi chết người thì muốn bồi thường, vậy ai bồi thường cho bọn ta?

Thái Tương không đợi Thù Yến phí lời, đứng dậy chất vấn.

Một Tàng Ngoa Bàng cười lạnh nói:

- Vậy ta lo quá nhiều rồi, ta chỉ biết, trước giờ đều là kẻ thắng mới có tư cách yêu cầu này nọ.

Văn võ bá quan đều bực tức, nhưng phải miễn cưỡng áp chế, Yến Thù một lúc sau mới hỏi:

- Vậy thỉnh cầu thứ ba của các ngươi?

Một Tàng Ngoa Bàng xem bộ sớm có chuẩn bị, lập tức nói:

- Điều kiện thứ ba chính là từ nay về sau, Đại Tống, Đại Hạ xưng hô huynh đệ, qua lại trao đổi, nước Hạ ta có thể tự lập quan cấp, sau này triều đình các ngươi không được can dự.

Triệu Trinh tức giận đập long án, quát lớn:

- Thật là hàm ngôn!

Y không thể nhịn nữa, không ngờ loại gia nô được ban họ này lại đề ra điều kiện vô lí như vậy. Năm đó, Khiết Đan đánh xuống phía nam, Chân Tông tại thành Thiền Uyên đồng ý cái gọi là điều kiện xưng hô huynh đệ, chính thức thừa nhận địa vị của Khiết Đan, chịu sỉ nhục đến cuối đời. Việc đó luôn là nỗi nhức nhối trong lòng Chân Tông, sau này Chân Tông tin thần, có thể nói là có quan hệ rất lớn với hiệp ước tại Thiền Uyên.

Triệu Trinh không ngờ nỗi đau khi xưa, nay lại tái diễn, vừa tức vừa giận, trong giây lát nhìn về phía một người nói:

- Cát Hoài Mẫn, khanh xử lí yêu cầu của sứ giả Tây Hạ thế nào?

Cát Hoài Mẫn bước ra khỏi hàng, nói:

- Yêu cầu của sứ giả Tây Hạ quả thật rất vô lí.

Cát Hoài Mẫn thân là phụng nhật, chỉ huy sứ của Thiên Võ Tứ Sương Đô, lại là chỉ huy Mã Quân Đô của Tam Nha, xuất thân nhà tướng, lại bởi vì nhiều năm trước, trong trận cung biến lập công, nên luôn toạ trấn kinh sư.

Triệu Trinh không hỏi người khác, chỉ hỏi một mình Cát Hoài Mẫn, chính là muốn xem kiến nghị của những võ quan trong kinh thành.

Cát Hoài Mẫn đã ở kinh thành nhiều năm, ít khi lãnh binh, nhưng bản lĩnh xem sắc mặt rất tốt, nhìn thấy Triệu Trinh giận dữ, biết được đây là lúc để y biểu hiện, quát Một Tàng Ngoa Bàng:

- Thiên tử triều ta cho rằng các ngươi thật lòng cầu hoà, mới hạ mình triệu kiến các ngươi. Không ngờ các ngươi được nước lấn tới, không cảm kích ý tốt của thiên tử, những điều kiện này còn có gì phải bàn.

Xoay người hành lễ với Triệu Trinh nói:

- Thánh thượng, không bằng để bọn họ trở về sứ quán nghĩ kĩ lại, hôm khác bàn tiếp thế nào ạ?

Không đợi Triệu Trinh trả lời, Một Tàng Ngoa Bàng kiêu căng nói:

- Nếu đã vậy, không có gì để bàn, vậy hôm nay ta trở về chuyển cáo lại cho chủ ta, nói đàm phán không thành, gặp lại tại Tây Bắc.

Một lời vừa nói ra, bá quan toàn triều đều kinh hãi, Cát Hoài Mẫn trong lòng hối hận, không ngờ kết cục lại như vậy. Y biết Triệu Trinh một lòng muốn nghị hoà, không muốn lại đánh trận, nếu như vậy, Triệu Trinh đừng đem mọi sai lầm đẩy lên đầu y chứ?

Một Tàng Ngoa Bàng xoay người định đi, Chương Đắc Tượng đã đáp:

- Một Tàng sứ giả, đừng vội, có gì từ từ thương lượng.

Triệu Trinh đột nhiên quát:

- Địch Thanh, ngươi thấy việc này làm thế nào?

Triệu Trinh phí lời, cả triều nhất thời yên lặng. Mọi người không hẹn mà cùng nhìn về phía ngoài điện, nhìn Địch Thanh vẫn ngẩng đầu nhìn trời, không kìm được nhíu chặt mày.

Bá quan nghị hoà, chưa từng nghĩ đến có chỗ cho Địch Thanh góp lời, nhưng Triệu Trinh đã hỏi, chỉ sợ trên điện ngoài Một Tàng Ngoa Bàng, không có ai dám ngang ngược cắt ngang.

Địch Thanh thu lại tầm nhìn, chậm rãi từ ngoài điện bước vào, đứng bên cạnh Một Tàng Ngoa Bàng, nhìn Một Tàng Ngoa Bàng một cái. Một Tàng Ngoa Bàng ngẩng đầu trừng mắt Địch Thanh, cảm thấy rất kì lạ, không nghĩ nam tử tuấn tú trước mắt chính là chiến thần Địch Thanh của Tây Bắc.

Địch Thanh chậm rãi nói:

- Sứ giả Một Tàng, nghĩ đến thiên tử của ta khoan dung đối đãi, không nhẫn tâm để bá tánh trong thiên hạ chịu khổ, do đó tuyệt không chủ trương khởi sự….

Một Tàng Ngoa Bàng trong lòng chấn động, chỉ cho là Địch Thanh hèn yếu, không ngờ chân mày Địch Thanh đứng thẳng, rất cô đọng nhìn Một Tàng Ngoa Bàng, nói từng chữ:

- Nhưng nếu thật có người náo loạn vô lí, thiên tử Đại Tống ta cũng không sợ hãi khai chiến!

Quần thần vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, đều nghĩ trước mắt lấy khuyên giải làm chủ, Địch Thanh nói như vậy, không phải xong hết rồi sao?

Một Tàng Ngoa Bàng nhìn vào ánh mắt bức người của Địch Thanh, trong lòng có chút sợ hãi. Tại Tây Bắc, có thể không nghe qua tên của Triệu Trinh, nhưng có ai mà không biết đến Địch Thanh chứ? Nhưng lúc này, y đã ở thế cưỡi lên lưng cọp khó xuống, làm sao cam chịu yếu thế, cười ha ha nói:

- Được, được, cuối cùng ngươi muốn thế nào?

Địch Thanh lạnh nhạt nói:

- Ngươi có thể chuyển cáo đến Nguyên Hạo, nói nếu y thích, có thể cùng ta tranh giành Tây Bắc, Địch Thanh ta đợi y!

Một Tàng Ngoa Bàng trông thấy Địch Thanh lời lẽ thản nhiên, ý đã quyết tuyệt, không có gì có thể xoay chuyển, cắn răng nói:

- Được, ngươi nhớ rõ lời ngươi nói.

Nói rồi phất tay áo bỏ đi.

Quần thần ồ lên, đều có chút tức giận nhìn Địch Thanh, không đợi nhiều lời, Triệu Trinh đã nói:

- Bãi triều!

Nói rồi đi xuống long ỷ, rời khỏi điện Văn Đức.

Mọi người lúc này bàn tán, nghị luận, trong khẩu khí đa phần đều bất mãn với lời nói của Địch Thanh. Mọi người thầm nghĩ từ giờ là những việc liên quan đến quốc gia, không thể rời đi, đều đang thương nghị đối sách để giữ sứ thần Hạ quốc lại. Chỉ có Địch Thanh chậm rãi thong thả bước khỏi đại điện, ra khỏi cung.

Chờ ra đến ngoài cung, Địch Thanh mới thở dài một hơi, nhìn lên bầu trời xanh biếc không gợn chút mây, trời xuân mơn mởn, lắc đầu rồi mới rời đi. Đột nhiên phía sau có người kêu:

- Địch tướng quân, xin dừng bước!

Địch Thanh quay đầu nhìn lại, thấy Phú Bật nhanh bước tới, hỏi:

- Phú đại nhân có gì chỉ bảo?

Phú Bật đi đến trước mặt Địch Thanh, vội nói:

- Địch tướng quân, những lời của ngươi hôm nay, chỉ sợ sẽ đem đến phiền phức cho bản thân. Nghĩ đến hôm nay, khắp văn võ bá quan đều muốn nghị hoà, chỉ có một mình ngươi muốn xuất binh, thánh thượng không vui bỏ đi, sau này….

Địch Thanh ngắt lời nói:

- Thánh thượng hỏi, ta chẳng qua là căn cứ theo thực tế mà nói thôi. Người đời quở trách, Địch Thanh ta có gì phải sợ?

Hắn cười chua xót, trong lòng nghĩ đến:

- Năm đó cũng vào cuối xuân, Địch Thanh ta đi theo Quách Tuân đại ca rời khỏi quê hương, bắt đầu kiếp sống quân lữ. Chinh chiến nhiều năm, có lẽ phong thuỷ luân chuyển, Địch Thanh ta cũng nên rời đi rồi.

Hắn thật sự không sợ gì.

Phú Bật nhìn Địch Thanh thật lâu sau, lúc này mới nói:

- Nhưng bọn ta hôm nay thật muốn cảm tạ ngươi vì bọn ta mà trút cơn giận này, người không thể ngạo mạn, nhưng không thể không có cốt cách. Đối với việc này, Địch tướng quân cũng chẳng qua là quá lo lắng, bọn ta nhất định sẽ đứng về phía Địch tướng quân.

Phú Bật và Địch Thanh cùng đi sứ Thổ Phiên, trong lòng đối với cách làm người của Địch Thanh vô cùng bội phục.

Địch Thanh chỉ chắp tay, chậm rãi rời đi.

Phú Bật lại vội vã trở về cung, nhìn thấy đám người Phạm Trọng Yêm, Yến Thù, Thái Tương đi đến, Phú Bật vừa định bước đến hỏi Phạm Trọng Yêm việc nghị hoà Tống Hạ, Hạ Tủng đã đi đến, nói với Phạm Trọng Yêm:

- Phạm đại nhân, ông hay lắm.

Trong lời nói của y tràn đầy oán giận, cay độc, nói xong, phất áo bỏ đi.

Thái Tương bất mãn, vừa định đuổi theo, bị Phạm Trọng Yêm níu lại. Thái Tương căm giận nói:

- Hạ Tủng gian tà háo sắc, ngồi không ăn bám, lời nói của Vương Trung Thừa đúng vô cùng, ta chỉ hận không thể sớm một bước tấu y. Y lại dám chỉ trích Phạm đại nhân?

Dư Tĩnh một bên chau mày:

- Phạm công, nhân tuyển cho cải cách lần này vốn là ngài và thánh thượng nghị luận với nhau, tại sao để Hạ Tủng tham gia? Người này đối với chiến cục Tây Bắc không có cống hiến gì, nếu bước vào Xu Mật viện, thật sự sẽ biến thành trò cười. Phạm công tại sao không bàn trước với thánh thượng, mà để đến lúc này mới bị y ghen ghét?

Phạm Trọng Yêm âm thầm nhíu mày, không đợi nhiều lời, Yến Thù đã thở dài:

- Các ngươi chỉ biết trình lên khuyên ngăn, nhưng có từng nghĩ kĩ chưa? Hi Văn đề cử Hạ Tủng, Hạ Tủng chẳng lẽ không vì vậy mà ghét hận Hi Văn sao? Con người của Hạ Tủng rất ham danh lợi, tại Tây Bắc chỉ là cái cây rỗng, nhưng y ở Tây Bắc buông tay để Văn Hi, Hàn Kỳ hành động, lần này Hi Văn để Hạ Tủng được tiến nhập Lưỡng phủ, cho dù để Hạ Tủng được chút hư danh thì sao, chỉ cần cải cách thuận lợi, thiên hạ được lợi là tốt rồi. Lại nói thêm, Hạ Tủng là người cực kì hay che giấu khuyết điểm, có y tại vị, nếu có người công kích việc cải cách, y có thể hết sức ngăn cản. Nhưng bây giờ, chỉ sợ cải cách chưa thực hiện đã gặp cường địch rồi.

Đám người Thái Tương nhìn nhau, chưa hề nghĩ đến Phạm Trọng Yêm lại nghĩ như vậy.

Vương Tố nói:

- Cho dù lời của Yến tướng là thật, chẳng lẽ việc cải cách sắp tới, chúng ta phải cùng làm việc với loại người như Hạ Tủng sao?

Yến Thù nói:

- Trên đời người không như ý có đến tám chín phần, trên triều, chẳng lẽ chỉ có mấy người các ngươi làm chủ sự? Lã Di Giản đã trong triều nhiều năm, cân bằng mọi việc, há là chuyện dễ sao?

Dứt lời liền lắc đầu, ông ta đối với Phạm Trọng Yêm càng thêm tán thưởng, nhưng đối với đám người nóng nảy Thái Tương, lại không tán thành.

Dư Tĩnh, Thái Tương tuy khúm núm, nhưng trong lòng nghĩ:

- Cho dù đắc tội Hạ Tủng thì sao? Người này đã ra khỏi Lưỡng phủ, nghĩ lại thì thế nào, còn có thể làm được gì?

Âu Dương Tu vốn luôn trầm lặng, thấy vậy nói:

- Kỳ thật Thái Tư Gián chỉ là phụ hoạ theo Vương Củng Thần mà thôi, nếu không phải Vương Củng Thần tham tấu Hạ Tủng, sự việc sẽ không biến thành thế này. Nhưng kì lạ là Vương Củng Thần vốn thuộc phái Lã Di Giản, tại sao lại chỉ trích Hạ Tủng?

Yến Thù nói:

- Có gì khó lí giải? Vương Củng Thần vốn là kẻ danh cầu mưu lợi, thấy Lã Di Giản tuổi cao thất thế, chỉ sợ không thể lại tái khởi Đông Sơn, do đó y tham tấu Hạ Tủng, dụng ý là muốn lấy lòng chúng ta.

Mấy người Âu Dương Tu liếc mắt nhìn nhau một cái, cùng đồng thanh:

- Đều là do kẻ này mà hư hết đại sự.

Dư Tĩnh nóng lòng cứu chữa, hỏi:

- Phạm công, trước mắt xử lí thế nào?

Phạm Trọng Yêm thầm nghĩ, cải cách vừa mới bắt đầu, các ngươi liền đắc tội với hai người Lã Di Giản, Hạ Tủng, tự tạo cường địch, dẫn đến kết quả không tốt. Nhưng những người này quả thật là vì nghĩ cho cuộc cải cách, ông ta không tiện trách cứ, trầm ngâm một hồi mới nói:

- Ta một lát đi diện thánh, xem thử tâm ý của thánh thượng.

Ông ta một mặt muốn nói về việc của Hạ Tủng, một mặt muốn xem cách nhìn của Triệu Trinh đối với Địch Thanh.

Sau khi Phạm Trọng Yêm phân phó xong, vội vàng đi vào trong cung, mấy người Âu Dương Tu xì xào, giống như đang nghiên cứu gì đó, Yến Thù lắc đầu, tự mình rời đi.

Địch Thanh không có tâm tư như những người trong cung, điều duy nhất nghĩ là:

- Ta hôm nay trên triều không thể nhịn, lại tuyên chiến với Nguyên Hạo, chỉ sợ thánh thượng không vui. Có lẽ chức quan này của ta đã làm đủ rồi, Biện Kinh cuối cùng cũng không phải là nơi Địch Thanh ta ở lâu, cho dù đại quân không thể công phá Sa Châu, chẳng lẽ tự Địch Thanh ta không thể đi sao?

Nghĩ đến đây, trong lúc thê lương, Địch Thanh lại cảm thấy phấn chấn, ngay lúc đang đi, đột nhiên có hai người cản trước mặt hắn.

Địch Thanh hơi giật mình, đã thấy rõ người chặn đường, là Một Tàng Ngoa Bàng và cái người tay như nhặt hoa.

Hai người này tìm hắn làm gì? Trong lòng Địch Thanh có chút hoang mang, ngừng bước chân, nhìn hai người đó không nói.

Một Tàng Ngoa Bàng nhìn Địch Thanh, đột nhiên cười ha ha nói:

- Đều nói Địch tướng quân là đệ nhất dũng tướng của Đại Tống, hôm nay được gặp, quả nhiên danh bất hư truyền.

Y đột nhiên đổi chiều gió, vô cùng tán thưởng Địch Thanh, làm cho người ta vô cùng bất ngờ.

Lúc này dòng người trên phố qua lại như nước, lúc nghe thấy hai chữ “Địch Thanh”, từ từ chậm lại.

Địch Thanh ác chiến Tây Bắc nhiều năm, vì nước trấn thủ biên cương, cho dù là bá tánh của Biện Kinh đều biết đến việc này, nhưng rất ít người gặp qua Địch Thanh. Lúc này nghe Địch đại tướng quân đang trên đường, nhịn không được ghìm chân lại nhìn xem.

Thấy Địch Thanh trầm mặc không nói, Một Tàng Ngoa Bàng lặng lẽ cười nói:

- Địch tướng quân, ngươi đừng cho rằng ta có quỷ kế gì, kì thật Đại Hạ ta rất trọng anh hùng. Ta lần này đến Biện Kinh, sớm đã có ý định, cho dù không gặp được thiên tử của các ngươi cũng phải thấy được ngươi.

Địch Thanh thản nhiên nói:

- Bây giờ ngươi đã thấy, có thể đi được rồi?

Hắn dời bước định đi, Một Tàng Ngoa Bàng đưa tay ra cản:

- Địch tướng quân, xin dừng bước, ta còn lời chưa nói hết.

Địch Thanh híp mắt, ánh mắt sắc như kim:

- Ngươi muốn nói nhưng ta không muốn nghe, chỉ dựa vào người bên cạnh này của ngươi, sợ là không làm được.

Người hắn để ý nhất vẫn là người luôn mỉm cười bên cạnh Một Tàng Ngoa Bàng.

Người đó thấy Địch Thanh nhìn đến, mỉm cười nói:

- Địch tướng quân, tại hạ Thác Bạt Vô Danh. Muốn giữ Địch tướng quân sợ là không dám, nhưng Địch tướng quân nghe Một Tàng sứ giả nói vài ba câu cũng không có gì không tốt.

Thần sắc Địch Thanh không đổi, chau mày nói:

- Long Bộ Cửu Vương, mạnh nhất Bát Bộ. Niêm Hoa Già Diệp, chân thuỷ vô hương. Nếu nói trên đời này còn có việc Già Diệp vương không dám, ta thật khó tin.

Nụ cười người nọ không giảm, nhẹ giọng nói:

- Địch tướng quân đúng là Địch tướng quân, không ngờ đã nghe qua danh của tại hạ, chân thuỷ vô hương, chân dũng vô uý. Chẳng lẽ nói….Địch tướng quân uy danh hiển hách, trí dũng vô song, mà vẫn không dám nghe vài câu của bọn ta sao?

Người đó chính là Già Diệp vương.

Long Bộ Cửu Vương, mạnh nhất bát bộ. Niêm Hoa Già Diệp, chân thuỷ vô hương.

Già Diệp vương tên là Thác Bạt Vô Danh, trong Long Bộ Cửu Vương, đa số đều tại nước Hạ điều khiển đại quyền, chỉ có ba người A Nan, Già Diệp và Mục Liên hình như vẫn luôn thần bí khó gặp. Tin tức của Địch Thanh tuy nhanh nhạy, nhưng cũng chỉ biết việc Thác Bạt Vô Danh vẫn luôn tại Phiên học viện ở Hạ quốc tiến hành nghiên cứu kinh điển, không nghĩ người này lại âm thầm cùng với Một Tàng Ngoa Bàng đến Biện Kinh.

Nghe Già Diệp vương kích tướng, Địch Thanh nói:

-Ta không phải không dám, mà là không muốn. Giữa ta và các ngươi, vốn không có chuyện gì để nói. Xin nhường đường.

Dứt lời, chậm rãi đi về phía trước…

Nụ cười của Già Diệp vương càng sâu hơn, cánh tay nhón hoa đột nhiên cản lại, như không mang theo khói bụi vịn cánh tay Địch Thanh lại nói:

- Xin, dừng, bước!

Năm ngón tay của y nhẹ nhàng, khéo léo, như chậm nhưng thật ra nhanh vô cùng, chớp mắt đã sắp nắm được cánh tay trái của Địch Thanh.

Nhanh hơn chính là một cái vỏ đao.

Một tiếng “cộp” vang lên, ngón tay như nhón hoa đó đã chặn vỏ đao lại. Vỏ đao rắn chắc kia dường như đỡ không nổi cái chặn nhè nhẹ kia, như có vết nứt.

Lúc này nắng ấm diễm lệ, trời xanh biếc. Trong lúc đó, một tia sáng loé qua, xé toạc cảnh xuân lửng lờ.

Trong không gian, một vệt hàn khí của binh qua liếm qua.

Sau tia sáng, “Xoạt” một tiếng, đao vẫn ở trong vỏ, Địch Thanh nắm chặt vỏ đao trong tay, Già Diệp vương thoái lui ba bước, nụ cười trên mặt vô cùng gượng ép.

Tay phải y không còn ở trạng thái như niêm hoa nữa, mà ngược lại nắm chặt thành quyền.

Địch Thanh hừ lạnh một tiếng, sải bước rời đi. Trong mắt Già Diệp vương có vài phần khiếp sợ, đột nhiên giương giọng gọi lớn:

- Địch tướng quân, chủ ta rất ngưỡng mộ ngươi, nếu ngươi đến giúp, nhất định sẽ đứng vào hàng ngũ Cửu vương! Nếu ngươi thấy không đủ, cứ đưa ra điều kiện. Trên đời này…không có gì không thể làm được.

Địch Thanh dừng bước, con phố tiêu tịch, mọi người đều đang nhìn Địch Thanh.

Khoé miệng Già Diệp vương lộ ra nụ cười đắc ý, Một Tàng Ngoa Bàng cũng nhếch miệng cười, bất luận thế nào, chỉ cần nói ra câu này, Địch Thanh không thể không ở lại giải thích.

Đường phố phồn hoa, mang vẻ hiu quạnh khó nói, Địch Thanh từ từ xoay người lại, ngưng nhìn Già Diệp vương nói:

- Trên thế gian này ít nhất có hai việc không thể thực hiện được. Một là trái tim chính trực của đàn ông Đại Tống ta, một là lương tâm của các ngươi, không mua được lương tâm của các ngươi là bởi vì các ngươi không có. Mà muốn mua trái tim của bọn ta, các ngươi không xứng!

Sau khi hắn nói xong, thản nhiên cười một tiếng, sải bước rời đi.

Hắn biết Già Diệp vương đang khích bác li gián, hắn biết bất luận người khác tin hay không, nhưng Già Diệp vương nói ra câu này, đã gieo xuống đất mối nghi ngờ, nhưng hắn đã không cần giải thích, hắn chẳng thèm nói rõ nữa.

Bá tánh trên đường nhìn bóng lưng đi xa xa kia, tâm trạng kích động. Lúc đó, không có bất cứ người nào lại nghi ngờ tấm lòng của Địch Thanh.

Nụ cười của Già Diệp vương có chút khổ sở, Một Tàng Ngoa Bàng còn có thể hét lớn:

- Địch Thanh, ngươi không nghe lời khuyên của bọn ta, rất nhanh sẽ hối hận!

Địch Thanh lần này căn bản không có dừng lại, thân ảnh rất nhanh biết mất ở cuối con phố.

Già Diệp vương lúc này mới chậm rãi mở tay phải ra, nhìn vệt máu nhàn nhạt trong lòng bàn tay, trong mắt lộ ra ý kính sợ. Vừa nãy tuy chỉ giao thủ một chiêu, nhưng y đã thua.

Lúc y chặn vỏ đao của Địch Thanh, Địch Thanh rút đao chém lên lòng bàn tay y, Tốc độ cực nhanh, như tia nắng bình minh rọi xuống mặt đất, y cơ bản không kịp né tránh. Thậm chí người đi trên đường không kịp nhìn thấy Địch Thanh xuất đao.

Khoái đao như vậy, tựa như nước không một kẽ hở, cho dù là Già Diệp vương gặp phải, cũng là chịu thua quay về. Nhìn vết máu trong lòng bàn tay, trong lòng Già Diệp vương chỉ có một ý niệm, võ công của Địch Thanh so với truyền thuyết còn đáng sợ hơn, đến nay, có thể cản được khoái đao đó, chẳng lẽ chỉ có mũi tên ngũ sắc đó?

Địch Thanh vừa về đến Quách phủ, Quách Quỳ đã chạy ra nghênh đón, nói:

- Nhị ca, huynh làm sao giờ mới về vậy. Vừa nãy có người tìm huynh, là một cô gái….

- Là ai?

Địch Thanh cảm thấy có chút kì quái. Thầm nghĩ giờ khắc này, cô gái nào tìm hắn chứ? Đột nhiên tim nhảy lên một nhịp, nghĩ đến Phi Tuyết. Lúc đó, trong lòng hắn có chút khác thường. Hắn và Phi Tuyết tuy chỉ gặp qua vài lần, nhưng đa phần đều cùng nhau trải qua cửa ải sinh tử, thì ra trong lúc không hay không biết, Phi Tuyết đã lưu lại trong lòng hắn dấu vết khó có thể xoá nhoà.

- Cô ấy nói cô ấy gọi là Nguyệt Nhi, đúng rồi…

Quách Quỳ vỗ đầu một cái, nói:

- Là….là a hoàn của Vũ Thường tỷ sao?

Y tuy biết Dương Vũ Thường, nhưng không biết rõ tình hình cụ thể của Dương phủ, y sợ Địch Thanh đau lòng, lúc nhắc đến Dương Vũ Thường, khó tránh khỏi quanh co.

Địch Thanh ngạc nhiên hỏi:

- Cô ấy tìm ta làm gì?

Đột nhiên nghĩ đến, chẳng lẽ Nguyệt Nhi muốn nói việc của Vũ Thường? Nghĩ đến đây, trong lòng trở nên sốt ruột, vội hỏi:

- Cô ấy ở đâu?

Quách Quỳ lắc đầu nói:

- Đệ không biết cô ấy tìm huynh làm gì, nhưng….Dáng vẻ cô ấy hình như rất khẩn trương. Cô ấy không đợi được huynh, giống như sợ cái gì đó, sau đó vội vàng bỏ đi.

- Sợ hãi? Cô ấy sợ ngươi?

Địch Thanh chau mày nói.

Quách quỳ la lớn kêu oan, nói:

- Đệ ngọc thụ lâm phong như vậy, cô ấy làm sao lại sợ chứ?

Thu lại vẻ mặt cợt nhả, Quách Quỳ nghiêm túc nói:

- Địch nhị ca, đệ thấy cô ấy tìm huynh thật sự là có việc, nếu huynh rảnh, hay là đi tìm cô ấy đi?

Địch Thanh cảm thấy mơ hồ, không khỏi nói:

- Tiểu Nguyệt không có nói cái gì sao?

Quách Quỳ nghĩ cả nửa ngày, đột nhiên nói:

- Đệ nghe cô ấy tự lầm bầm, nói cái gì, “không được, ta nhất định phải nói cho Địch Thanh, đem…” Chính là vậy, đem cái gì đệ không biết, những lời còn lại, cô ấy không có nói.

Địch Thanh cảm thấy vô cùng kì quái, không hiểu tại sao Tiểu Nguyệt lại có mối quan hệ với Bát vương gia? Vừa đi ra cửa đến Dương phủ, một người đến trước cửa nói:

- Địch Thanh, thánh thượng truyền ngươi lập tức vào cung.

Địch Thanh ngẩn ra, thấy người kia là Diêm Sĩ Lương. Địch Thanh nói:

- Diêm đại nhân, thánh thượng tìm ta có việc gì? Có gấp không?

Hắn vẫn nghĩ đến việc của Tiểu Nguyệt, muốn đến Dương phủ trước, rồi mới vào cung.

Diêm Sĩ Lương chậm rãi nói:

- Ý của thánh thượng, ta không tiện phán đoán. Nhưng có gấp hay không, ngươi nói xem?

Y là đệ nhất thái giám trong cung, Triệu Trinh để y đích thân đến tuyên triệu, nếu là đại thần khác sớm đã lập tức đi rồi, nhưng Địch Thanh vẫn cứ ra sức từ chối.

Địch Thanh bất đắc dĩ, đành phải để Quách Quỳ đến Dương phủ tìm Tiểu Nguyệt trước, nói hắn rất nhanh sẽ đến. Còn mình thì theo Diêm Sĩ Lương vào cung.

Hắn hôm nay trên triều công nhiên tuyên chiến với sứ thần nước Hạ, biết rằng Triệu Trinh tìm hắn quá nửa là có liên quan đến chuyện trên triều hôm nay. Lúc này trong mắt kẻ khác, có thể là việc rất nghiêm trọng, nhưng trong lòng Địch Thanh không có gì ray rứt cả, thậm chí có ý định từ quan, và không sợ hãi.

Vào cung, La Sĩ Lương không trực tiếp dẫn Địch Thanh vào điện của hoàng đế, ngược lại lại đi về hướng cung Quảng Thánh.

Địch Thanh trong lòng buồn bực, thầm nghĩ gần cung Quảng Thánh đa phần là lâm uyển hoàng gia, đa số các phi tần đều ở tại đây. Triệu Trinh đến đây là để sủng hạnh phi tử, vậy gọi Địch Thanh hắn đến làm gì?

Mang theo hoang mang, Địch Thanh đã đến uyển hữu nằm tại góc tây bắc hoàng cung. Phía trước rừng cây xanh ngắt, trăm hoa như gấm, có cây cầu nhỏ bắc qua dòng nước chảy, khóm trúc thẳng đứng. Trong gió xuân, lá trúc vươn thẳng như mũi tên vào thế, nhưng đối với Địch Thanh, lại thiếu đi vài phần cứng rắn, hào sảng tại Tây Bắc.

Địch Thanh ban đầu có làm Điện Tiền thị vệ vài năm, đối với mọi thứ trong cung rất quen thuộc, nhìn thấy cây trúc, cảm khái nói:

- Ta nhớ trước kia, nơi đây không c trúc, nhiều năm không đến, rất nhiều thứ đã không giống lúc trước nữa rồi.

Hắn xúc động thốt ra, Diêm Sĩ Lương cười nói:

- Nhưng có nhiều việc vẫn không đổi…

Lúc này hai người bước lên một chiếc cầu nhỏ, dưới cầu dòng nước chảy róc rách, mát rượi. Địch Thanh biết, nước này là từ sông Kim Thuỷ ở ngoài cung dẫn vào, dùng để tưới tiêu cho cây cối trong cung. Gió mát lành lạnh, ngay lúc đó, có tiếng “leng keng” phát ra, đàn không xa vọng đến, trong trẻo hơn cả tiếng nước chảy vừa rồi.

Tiếng đàn đó vừa vang lên, vốn là uyển hữu tĩnh lặng, nay càng thêm thanh tịch. Địch Thanh nghe thấy ý xưa trong tiếng đàn, trong mơ hồ, có cảm giác đã từng quen biết, có chút hoài niệm.

Diêm Sĩ Lương dẫn Địch Thanh xuống cầu, vòng qua một con đường u tối, lúc sắp ra khỏi khu rừng, phía trước đột ngột sáng trưng, một vườn hoa thật lớn xuất hiện, trăm hoa đón xuân.

Trăm hoa đua nở diễm lệ, mang thêm xuân sắc cho cảnh xuân lửng lờ. Triệu Trinh ngồi dưới lọng vàng, nhìn nữ tử kiều diễm hơn cả trăm hoa.

Nữ tử gảy đàn, tiếng đàn kêu loạn, kích động trái tim nhảy lên không ngớt của Địch Thanh.

Phong tình đó, tiếng đàn đó, nhịp điệu đó…

Giây phút nhìn thấy nữ tử đó, trong lòng Địch Thanh hơi chấn động, kinh ngạc nghĩ:

- Nữ tử đánh đàn làm sao có thể là cô ấy?

Địch Thanh nghe thấy tiếng đàn của nữ tử, nhìn thấy phong tình của nữ tử đó, trông thấy ánh mắt đầu tiên của nữ tử đó, dường như cho rằng nữ tử đó là Trương Diệu Ca.

Nhưng nhìn kĩ lại, Địch Thanh lập tức phát hiện mình đã phán đoán sai, nữ tử đó không phải là Trương Diệu Ca, chỉ là dung mạo, phong tình có vài phần giống mà thôi.

Tiếng đàn đó từ từ gấp gáp, như hồng trần phồn hoa, Diêm Sĩ Lương dừng chân, không tiến về phía trước, Địch Thanh biết điều đứng ở một bên, trong lòng nghĩ:

- Triệu Trinh tìm ta vào cung, chẳng lẽ là đến nghe đàn? Y nếu là đang nghe đàn, nói rõ tâm tình không tệ.

Không biết tại sao, nghĩ đến tình hình của Trúc Ca lầu năm đó, như mới hôm qua.

Đang lúc Địch Thanh suy tư, tiếng đàn đột nhiên như tiếng bình bạc bị vỡ, thiết kỵ xông pha, đang lúc cao trào, tiếng đàn lại chuyển đổi, tựa một sợi chỉ bạc cuộn lấy đám mây, biến đổi vài lần, lại trở nên ưu tư sầu muộn, đắng chát, lạnh lẽo. Âm điệu đó dần dần nhẹ lại, chậm lại rồi trở thành không tiếng động, nhưng dư vị còn văng vẳng trong không gian, rất lâu vẫn chưa dứt.

Địch Thanh nghe thấy cầm nghệ cao siêu của nữ tử đó, nhất thời xuất thần. Nghe thấy một tiếng vỗ tay truyền đến, xoay đầu nhìn qua, thấy Triệu Trinh đang nhìn mình, Địch Thanh tiến lên trước vài bước, thi lễ nói:

- Thần Địch Thanh, tham kiến thánh thượng.

Triệu Trinh lặng lẽ cười nói:

- Miễn lễ. Địch Thanh, ngươi thấy cầm nghệ của Trương mĩ nhân so với Trương Diệu Ca thế nào?

Nữ tử đánh đàn đó đã đứng lên, ánh nhìn mơ màng, quyến rũ đi đến bên Triệu Trinh nói:

- Bệ hạ, người lại cười thần thiếp rồi.

Âm thanh của nữ tử dịu dàng, mang theo một loại mị lực trời sinh, ánh mắt nhìn Triệu Trinh tràn đầy tình ý.

Triệu Trinh nắm lấy tay nữ tử đó, ánh mắt dịu dàng, cho thấy đối với nữ tử đó vô cùng trìu mến.

Địch Thanh không tiện nhìn nhiều, nghĩ đến hậu cung của hoàng đế Đại Tống phân làm sáu cấp, hoàng hậu là đứng đầu, dưới phân gồm phi, tần, tiệp hảo, mĩ nhân, tài nhân. Nữ tử họ Trương này thuộc cấp mĩ nhân, trong hậu cung có địa vị thấp, nhưng nhìn bộ dạng của Triệu Trinh đối với hoàng hậu cũng không được như vậy.

Triệu Trinh và Trương ỹ nhân trêu đùa một phen, lại hỏi Địch Thanh:

- Địch Thanh, ngươi vẫn chưa trả lời ta.

Vẻ mặt y tràn đầy vui vẻ, xem ra triệu Địch Thanh vào cung, không có ý trách cứ Địch Thanh.

Địch Thanh lúc này mới nhớ đến vừa rồi Triệu Trinh hỏi gì, chần chừ giây lát đáp:

- Thần trước giờ đối với nhạc luật vô tri, cảm thấy cả hai người tựa như xuân lan, thu cúc, mỗi người mỗi vẻ.

Triệu Trinh cười ha hả, nói:

- Đáp hay, ban ngồi. Mĩ nhân, nàng cũng ngồi đi.

Y cuối cùng cũng buông tay của Trương mĩ nhân ra, nhưng ánh mắt vẫn dán trên người cô ta.

Trương mĩ nhân thản nhiên cười nhẹ, ngồi xuống bên cạnh Triệu Trinh, vừa vô tình lại như cố ý liếc Địch Thanh một cái, nói:

- Thánh thượng, đây có phải là Đại Tống Tây Bắc tiếng tăm lừng lẫy Địch tướng quân không? Thần thiếp đã nghe đại danh của Địch tướng quân từ lâu, cho rằng bề ngoài tựa hung thần ác sát, không ngờ….hoàn toàn không như thần thiếp nghĩ.

Dứt lời che miệng cười, thẹn thùng e lệ.

Địch Thanh mỗi lần được người ta tán dương, đều bị đối phương bàn về dung mạo, cũng lấy gì làm lạ, lập tức hỏi:

- Không biết thánh thượng triệu thần vào cung vì việc gì?

Triệu Trinh nâng chén trà, sau khi chậm rãi nhấp một ngụm, nói:

- Địch Thanh, ngươi còn nhớ việc năm đó cùng trẫm tại Trúc Ca lâu nghe nhạc chứ?

Địch Thanh gật đầu, vẻ mặt Triệu Trinh cảm khái nói:

- Nhưng sau này nghe chủ chứa nơi đó nói thân thể Trương Diệu Ca không khoẻ, đã về quê nhà. Từ sau đó, trẫm không gặp lại Trương Diệu Ca, cũng không biết nàng hiện tại thế nào.

Y thân là thiên tử, chỉ có ở trước mặt Địch Thanh mới bàn luận không có kiêng kị gì.

Địch Thanh thoáng nghĩ, không khỏi nghĩ đến lúc ở Hưng Khánh phủ.

Triệu Trinh không gặp lại Trương Diệu Ca, người mà Địch Thanh hắn gặp tại Hưng Khánh phủ có phải là Trương Diệu Ca hay không? Địch Thanh không dám khẳng định, nhưng hắn sớm đã hoài nghi Trương bộ chủ ban đầu giúp Đan Đan cứu hắn ra khỏi Hưng Khánh phủ chính là Trương Diệu Ca!

 Chương 378 - 382: Sát cơ

Trương Diệu Ca là mật thám của nước Hạ không chút nào kì lạ, Nguyên Hạo nhiều năm trước đã có ý thống nhất thiên hạ, tự nhiên sớm có chuẩn bị. Trận chiến Tam Xuyên Khẩu, sớm đã nhìn ra mưu tính sâu xa của Nguyên Hạo, việc Trương Diệu Ca từ lâu trước đó đến kinh thành dò thám tin tức cũng là việc hợp lí.

Địa vị của một ca cơ không gọi là cao, nhưng muốn hiểu rõ được bí mật của triều đình Đại Tống, có thể nói là may mắn vô cùng.

Nhiệm vụ của Trương Diệu Ca đã hoàn thành, đương nhiên không cần ở lại kinh thành.

Theo như trí thông minh của Trương Diệu Ca, không lí nào không nhìn ra được người Đan Đan muốn cứu có vấn đề, Trương Diệu Ca lúc đầu tại sao lại giúp đỡ?

Triệu Trinh nhìn Địch Thanh trầm ngâm không nói, chỉ cho rằng Địch Thanh cùng y nghĩ như nhau, đột nhiên thấp giọng nói:

- Địch Thanh, ngươi xem Trương mĩ nhân của trẫm cùng Trương Diệu Ca có phải có chút giống nhau?

Ánh mắt Địch Thanh lướt qua trên người của Trương mĩ nhân, trong lòng kinh ngạc, thầm nghĩ chẳng lẽ ý muốn nói Triệu Trinh thích Trương Diệu Ca, cho nên mới yêu ai yêu cả đường đi, đối với Trương mĩ nhân này yêu thương như vậy?

Triệu Trinh dường như nhìn ra được suy nghĩ của Địch Thanh, lắc đầu nói:

- Quả thật bởi vì trẫm nghe nói Trương Diệu Ca có thần thái rất giống với một vị Vương mĩ nhân mà trẫm sớm đã yêu thích, trẫm mới kêu ngươi dẫn trẫm đến Trúc Ca lâu. Không ngờ sau đó, xảy ra rất nhiều chuyện…. quả thật là ngoài dự liệu của trẫm.

Triệu Trinh thổn thức không thôi, trong lòng lại nghĩ:

- Địch Thanh trường tình, trẫm chẳng lẽ không phải như thế?

Nghĩ đến đây, trong lòng đột nhiên có chút kiêu ngạo, lặng lẽ lại nắm lấy tay của Trương mĩ nhân.

Hoá ra nữ tử mà Triệu Trinh thích nhất năm đó gọi là Vương Như Yên, vốn là con gái của thương nhân Vương Mông Chính. Triệu Trinh lúc đó đã ở lâu trong chốn thâm cung, gặp qua muôn vàn nữ tử có cùng một vẻ mặt, Vương Như Yên không giống với tiểu thư khuê các, càng không giống bảo vật quý giá của một gia tộc nào, mang theo dáng vẻ phong trần đến trước mặt Triệu Trinh, làm cho Triệu Trinh lúc đó vô cùng kinh ngạc.

Ngay lúc Triệu Trinh muốn tuyển hoàng hậu, y lần đầu ở trước mặt thái hậu nói ra suy nghĩ của bản thân, muốn chọn Vương Như Yên. Nhưng thái hậu chia rẽ uyên ương, không những không đồng ý, còn đuổi Vương Như Yên ra khỏi cung, gả cho con trai của Lưu Mỹ là Lưu Tòng Đức!

Triệu Trinh thương tâm người yêu bị kẻ khác ôm ấp, sự phẫn nộ trước giờ chưa từng có, từ đó căm thù thái hậu đến tận xương tuỷ. Năm đó, Địch Thanh đánh gẫy chân Mã Quý Lương, trong lòng Triệu Trinh vô cùng hả hê. Lần đó, y kiên quyết đứng về phía Địch Thanh. Sau này thái hậu băng hà, lúc Triệu Trinh biết được cái chết mẫu thân, ra lệnh cấm quân bao vây Lưu gia, chỉ cần phát hiện mẫu thân có dấu vết bị giết hại, đem chém cả nhà Lưu gia! Lúc đó, hiển nhiên là bởi vì thương tâm, nhưng nguyên nhân chủ yếu là ân oán chất chứa đã lâu của y đối với Lưu gia.

Chuyện đã qua của Như Yên khó có thể trở lại, Triệu Trinh khẽ thở dài, nhìn Trương mĩ nhân trước mắt, trong lòng thương tiếc nói không ra lời.

Y phế Quách hoàng hậu, chỉ có thể lại lập Tào hoàng hậu, y tuy là thiên tử, nhưng cho dù là việc cưới vợ, cũng phải chịu sự quản chế của đám quần thần. Nhưng lần này bất luận thế nào, y cũng có năng lực để giữ Trương mĩ nhân lại bên mình.

Y đối mặt với Trương mĩ nhân, tựa như đối diện với Vương Như Yên năm đó….

Lần này, thiên trường địa c� không gì có thể lại chia cắt bọn họ!

Triệu Trinh nghĩ đến đây, nắm chặt tay của Trương mĩ nhân. Y xem Địch Thanh như huynh đệ, bởi vì nhận thấy chỉ có Địch Thanh có thể hiểu được tình cảm của y, y vẫn luôn cảm thấy, y cùng Địch Thanh vốn làcùng một loại người, đều là người thâm tình.

Đang lúc trầm ngâm, Triệu Trinh đã nâng chén trà đến bên miệng, Trương mĩ nhân nhẹ nhàng giữ tay y lại, dịu dàng lên tiếng:

- Thánh thượng, nước trà còn nóng, người lưu ý một chút….

Dứt lời lại cười, nói:

- Thánh thượng, người luôn sơ xuất như vậy.

Trong lòng Triệu Trinh rất ấm áp, nhớ đến nhiều năm trước, nữ tử Như Yên đó không phải cũng nhắc nhở mình như vậy sao?

Trương mĩ nhân không những tướng mạo có vài phần tương tự Vương Như Yên, mỗi một cử chỉ nhỏ càng vô cùng giống Vương Như Yên! Triệu Trinh có lúc thậm chí có chút cảm khái, có phải ông trời bù đắp cho phần tình cảm tiếc nuối nhiều năm của y, mới để Trương mĩ nhân đến thay thế Vương Như Yên?

Địch Thanh thấy tình cảm mặn nồng của Triệu Trinh và Trương mĩ nhân, không khỏi lúng túng, thầm nghĩ Triệu Trinh ngươi kêu ta đến không phải để ta xem các người ân ái chứ.

Trương mĩ nhân liếc Địch Thanh một cái, đột nhiên sắc mặt hơi đỏ, cười duyên dáng nói:

- Thánh thượng, Địch tướng quân đợi lâu rồi.

Triệu Trinh cườ ha hả, có chút vui vẻ, nói:

- Địch Thanh, ngươi đoán xem ta tìm ngươi đến có việc gì?

Địch Thanh không hào hứng như Triệu Trinh, chần chừ nói:

- Có lẽ có liên quan với việc sứ giả Tây Hạ hôm nay?

Triệu Trinh nghe thấy, sắc mặt trầm xuống, hừ lạnh một tiếng. Địch Thanh nhìn thấy sắc mặt hay đổi nhanh như thời tiết của Triệu Trinh, trong lòng lo sợ. Triệu Trinh hỏi:

- Địch Thanh, ngươi có biết sau khi ngươi đi, người khác nói ngươi thế nào không?

Địch Thanh chỉ lắc đầu, thầm nghĩ nói ta thế nào thì đã sao? Lần này ta nhập cung, vốn muốn cáo lão hồi hương. Hắn nghĩ đến việc rời đi, không biết tại sao lại cảm thấy có chút thư thái.

Triệu Trinh hơi tức giận nói:

- Bọn họ nói ngươi ỷ lập được công mà kiêu ngạo, lại nói ngươi muốn dựa vào chiến tranh mà lập công, một lòng muốn đánh nhau với nước Hạ, không quan tâm đến việc xử lí quốc gia đại nghĩa…

Địch Thanh tuy biết đám quan văn ít bước chân ra khỏi Biện Kinh sẽ không nói lời gì tốt đẹp về hắn, nhưng nghe Triệu Trinh nói vậy, cũng cảm thấy thất vọng một trận, nghĩ đến Địch Thanh hắn vì Tây Bắc ra sinh vào tử, chống ngoại xâm, trên triều lại mang tiếng không quan tâm đến quốc gia đại nghĩa.

Cười chua chát, Địch Thanh đứng dậy hành lễ nói:

- Thánh thượng, thần nếu đã sai, thần….

Hắn vừa định xin từ chức, Triệu Trinh đã nói:

- Ngươi không sai!

Địch Thanh ngẩn ra, nhìn Triệu Trinh. Triệu Trinh đứng lên, đi đến trước Địch Thanh nói:

- Địch Thanh, ngươi hiểu tâm tư của trẫm nhất. Không sai, trẫm lo cho nỗi khổ của bá tánh, nếu có thể không chiến, đương nhiên không muốn chiến, nhưng bọn hắn nếu thật sự hung hăng như vậy, trẫm làm sao có thể lùi bước? Ngươi hôm nay trên điện nói rất hay!

Địch Thanh không ngờ Triệu Trinh lại nói giúp hắn, không đợi nói tiếp, Triệu Trinh lại nói:

- Sứ thần Tây Hạ ở trên triều ngang tàn như vậy, bọn họ đường đường là người trong Xu Mật viện, Tam Nha, lại không ai dám xuất ngôn ứng chiến, quả thật làm trẫm vô cùng thất vọng

Trong lòng nghĩ:

- Chẳng trách bọn người Vương Củng Thần, Thái Tương nói Hạ Tủng hèn nhát, tạm bợ, hôm nay trên triều, Hạ Tủng là người từng cầm quân tại Tây Bắc, lại không nói một lời. Xu Mật sứ như vậy, trẫm cần làm gì?

Triệu Trinh nghĩ đến đây cảm thấy Phạm Trọng Yêm đề cử không thoả đáng, có ý nghĩ đẩy Hạ Tủng ra khỏi Lưỡng phủ.

Địch Thanh nghĩ Triệu Trinh thay đổi thất thường, cũng chỉ có cái loại không lo đến sau này như ta mới dám nói thẳng, đám người đó vào lúc đó, vẫn còn đang suy ngẫm ý nghĩ của Triệu Trinh.

Triệu Trinh khoát tay nói:

- Nhưng hôm nay trẫm tìm ngươi đến, không phải muốn nói những việc mất hứng như vậy. Chủ yếu là mĩ nhân đã nghe đại danh của ngươi từ lâu, lại hiếu kì phong tình của nơi biên thuỳ, trẫm hôm nay mới…mời ngươi đến kể chuyện thú vị ở biên thuỳ.

Y cố ý dùng từ mời, đã có ý hoà hảo với Địch Thanh.

Trương mĩ nhân che miệng cười:

- Ta luôn nghe trưởng công chúa đề cập đến chuyện của Địch tướng quân, trong lòng rất hiếu kì, mới đặc biệt thỉnh cầu thánh thượng tìm Địch tướng quân đến. Địch tướng quân, ngài đừng để ta thất vọng.

Cô ta trời sinh quyến rũ, giọng điệu cầu khẩn mềm mại, mang một phong vị khác.

Địch Thanh thầm nhíu mày, thầm nghĩ nơi biên tuỳ đánh đánh giết giết, sống chết trong đường tơ kẽ tóc, có chuyện gì hay ho chứ? Biết nếu từ chối chắc chắn làm cho Triệu Trinh không vui, đang lúc trầm ngâm, có cung nhân lên tiếng:

- Hoàng hậu, trưởng công chúa đến.

Bên ngoài ngự hoa viên, Tào hoàng hậu và Thường Ninh công chúa đã đi đến.

Triệu Trinh bị cắt đứt nhã hứng, có chút không vui. Nhưng hoàng hậu hiền lành, ở trong lòng Triệu Trinh, tuy không yêu hoàng hậu, nhưng vẫn có phần kính trọng sự hiểu biết đại cục của hoàng hậu, đứng dậy chào đón nói:

- Hoàng hậu, nàng hôm nay không trồng rau sao? Thường Ninh, muội sao có nhã hứng đến đây?

Nhìn Địch Thanh, Triệu Trinh cười nói:

- Thường Ninh, muội đến đây cũng tốt.

Thường Ninh nhìn về phía Địch Thanh, khẽ mỉm cười nói:

- Địch tướng quân, vẫn khoẻ chứ?

Cô ta lần này không có mang khăn che mặt đến, lộ ra khuôn mặt thanh tú, điềm đạm.

Cô ấy tuy đang mỉm cười, nhưng trong nụ cười dường như có chút ưu sầu…

Địch Thanh thi lễ nói:

- Thần tham kiến Hoàng hậu, trưởng Công chúa.

Trương mỹ nhân hé miệng cười nói:

- Bệ hạ, kỳ thật lần này, là thần thiếp mời trưởng Công chúa tới nghe Địch tướng quân nói chuyện, không ngờ hoàng hậu cũng nể mặt đến.

Tào hoàng hậu mỉm cười nói:

- Bệ hạ, người vẫn luôn nói Trương muội muội cầm kỹ thiên hạ vô song, vừa trùng hợp, Thường Ninh nói Trương muội muội hẹn muội ấy, thần thiếp nhất thời hiếu kì, cũng cùng đến. Bệ hạ, người không khiển trách chứ?

Triệu Trinh thấy Tào hoàng hậu và Trương mỹ nhân quan hệ hòa hợp, trong lòng vui vẻ, cười nói:

- Sao lại thế chứ? Nhưng mĩ nhân đã đàn lâu rồi, cũng mệt nhiều rồi, không bằng trước nghe Địch Thanh nói chút chuyện ở biên thuỳ, rồi để mĩ nhân đàn, thế nào?

Tào hoàng hậu cười nói:

- Như vậy cũng được, tuy nhiên...

Lời còn chưa dứt, lại có cung nhân đến bẩm bá:

- Khởi bẩm thánh thượng, Vương Củng Thần cầu kiến.

Triệu Trinh thầm nghĩ trên điện Văn Đức còn chưa đủ ầm ĩ, Vương Củng Thần lúc này lại gây ồn ào gì nữa? Không vui nói:

- Không gặp!

Cung nhân vừa định lui xuống, Tào hoàng hậu một bên cản cung nhân lại, khuyên nói:

- Bệ hạ vừa mới tiến hành cải cách, Vương Củng Thần là người giám sát cải cách, y đến cầu kiến, quá nửa là có liên quan đến việc cải cách, bệ hạ không nên không gặp.

Trương mĩ nhân một bên thấy thế cũng nói:

- Bệ hạ, hoàng hậu nói rất đúng. Bệ hạ nên lấy quốc gia làm trọng, chuyện nơi Tây Bắc, tiếng đàn của thần thiếp lúc nào nghe cũng được.

Triệu Trinh nghe như vậy, cũng thấy có lí, y có ý muốn cải cách, không muốn vừa bắt đầu đã bị đám quần thần nói là lưu luyến mĩ sắc, không quan tâm đến triều chính, tiếc nuối nói:

- Vậy được, trẫm trước xử lí quốc sự. Địch Thanh, ngươi có thể về.

Trương mĩ nhân đột nhiên đi đến bên Thường Ninh, cười nói:

- Ai da, nô gia (em, thiếp) làm phiền Địch tướng quân đến, cảm thấy vô cùng áy náy. Không bằng lại làm phiền Thường Ninh tỷ tỷ tiễn Địch tướng quân xuất cung, cũng có thể bày tỏ ý chuộc lỗi của nô gia.

Dứt lời nhẹ đẩy Thường Ninh một cái, duyên dáng cười.

Thường Ninh đột nhiên bị Trương mĩ nhân đẩy đến bên cạnh Địch Thanh, gương mặt thanh tú xinh đẹp hơi đỏ, chốc lát chuyển lại như thường nói:

- Muội cũng vừa lúc muốn nói vài câu với Địch tướng quân. Thánh thượng, có được không?

Triệu Trinh cười ha hả nói:

- Có gì không được? Thường Ninh, muội dẫn Địch Thanh xuất cung đi.

Thường Ninh vui vẻ nói:

- Địch tướng quân, mời bên này.

Địch Thanh sao lại không biết ý của Trương mĩ nhân, thầm chau mày, nhưng lúc này không tiện từ chối, chắp tay nói:

- Công chúa, làm phiền rồi.

Hai người ra khỏi ngự hoa viên, băng qua uyển hữu, xuyên qua hoa kính, Thường Ninh vẫn dẫn đường phía trước, im lặng không nói. Đợi đến bên một cây cầu nhỏ, ngay lúc Địch Thanh vừa định nói tự mình biết đường, không dám làm phiền, Thường Ninh đã dừng lại. 

Gió xuân khẽ lay cành liễu, nhịp cầu bắc tựa cầu vồng. Ánh mặt trời từ phía tây rọi đến, chiếu lên mặt nước, gợn ánh kim, loé sáng không ngừng, tựa như tâm trạng phức tạp khó nắm bắt của một cô gái. Địch Thanh vừa ý thức được, đã sắp hoàng hôn.

Thường Ninh đứng trên chiếc cầu nhỏ tựa cầu vồng, có ánh tà dương chiếu lên mặt cô ấy, làm khuôn mặt như bạch ngọc sáng lên:

- Địch tướng quân, quả thật ta không có kêu Trương mĩ nhân tìm tướng quân.

Địch Thanh có chút lúng túng, khẽ ho, nói:

- Thần đa tạ công chúa xin lời tốt đẹp từ thái hậu, để thần được gặp thánh thượng.

Hắn không ngốc chút nào, đoán được Hoàng hậu tìm hắn quá nửa là do Thường Ninh.

Thường Ninh đột nhiên cười, xoay qua nhìn Địch Thanh nói:

- Địch tướng quân vì Đại Tống vào sinh ra tử, trải nhiều phong sương, bá tánh trong thiên hạ đều cảm kích tướng quân, không biết lấy gì đền đáp. Thường Ninh làm chút việc, chẳng qua chỉ là cái nhấc tay, cầu chút tâm an mà thôi.

Địch Thanh không nghĩ Thường Ninh hiểu rõ đại nghĩa như vậy, trong lòng cảm tạ, không biết nói gì cho phải.

Thường Ninh thấy Địch Thanh trầm mặc, nụ cười ít nhiều mang chút lo lắng:

- Đúng rồi, Địch tướng quân, lần trước thánh thượng tìm ta, lần này Trương mĩ nhân tìm ta, bọn họ đều là có ý tốt, xin tướng quân đừng trách họ nhiều chuyện.

Địch Thanh vội đáp:

- Thần không dám.

Không đợi nói tiếp, Thường Ninh đã nói:

- Nhưng ta thật sự chỉ xem tướng quân như bằng hữu. Không biết…

Nói đến đây, đôi mắt xinh đẹp nhìn Địch Than:

- Không biết Địch tướng quân có thể xem Thường Ninh là bằng hữu không?

Địch Thanh nghe vậy như trút được gánh nặng, chắp tay nói:

- Trong thâm tâm của thần, đã coi Công chúa như bằng hữu, đối với Công chúa cũng vô cùng cảm kích, chỉ sợ là mình trèo cao. Ngày sau, Công chúa có việc gì, cứ việc phân phó, Địch Thanh sẽ dùng hết sức mình đi làm.

Thường Ninh nghiêng đầu đi, nhìn nước chảy dưới cầu nhỏ, tóc đen nhẹ bay, như dương liễu bay trong gió. Sau một hồi, Thường Ninh mới lên tiếng:

- Tướng quân nếu nghĩ như vậy, sau này nếu tướng quân có rảnh rỗi, thì chỉ cần đến chỗ Thường Ninh kể chuyện Tây Bắc là được.

Ngừng chút, cúi đầu nói:

- Lúc này, tướng quân đang bận rộn quân vụ, Thường Ninh sẽ không trì hoãn thời gian của tướng quân.

Vừa nói xong lời cuối, có gió xuân thổi tới, làm lay động tay áo của nàng. Thường Ninh bỗng nhiên xoay người, cất bước dời đi. Nàng đi một mạch đến khi khuất bóng phía sau trăm hoa, không có quay đầu một lần.

Địch Thanh nhìn theo Thường Ninh rời đi, chỉ cảm thấy trời chiều có chút nhạt, khung cảnh cũng trở nên tiêu điều.

Không biết bao lâu, Địch Thanh mới xoay người rời cung. Thấy trời đã tối, đột nhiên nghĩ đến Tiểu Nguyệt từng muốn tìm hắn. Mặc dù không biết Tiểu Nguyệt có chuyện gì, nhưng Địch Thanh vừa nghĩ tới có khả năng liên quan tới Vũ Thường, hắn nhịn không được bước nhanh hơn, đi về hướng ngõ Mạch Kiết.

Đi đến ngõ Mạch Kiết, màn đêm đã buông xuống. Trăng lưỡi liềm cong cong mọc trên đầu ngọn cây, giống như chân mày quyến rũ của thiếu nữ.

Đang lúc Địch Thanh đi qua ngõ Mạch Kiết, đột nhiên dừng lại, đứng ở trước một cây mai. Địch Thanh sờ vào thân cây mai, hai mắt nhắm lại. Hắn còn nhớ rõ, năm đó Vũ Thường từng ở dưới cây mai này nghển cổ chờ đợi. Năm đó hắn cũng từng bồi hồi dưới bóng cây không đi, chỉ vì muốn nhìn thấy người trong lòng.

Cây còn xanh tốt, nhưng hoa đã tiêu điều.

Năm tháng cứ trôi đi, bốn mùa tuần hoàn, nhưng người lại thay đổi. Hắn, Địch Thanh đã không còn là Địch Thanh năm đó. Nhưng trái tim của hắn vẫn còn, vẫn luôn giữ mãi tình yêu năm đó.

Cành mai thô ráp mọc ra ngoài kia, còn loang lỗ những vết búa bổ. Địch Thanh nhớ rõ, nếu không có Tiểu Nguyệt tức giận bổ cây mai, hắn còn thực không biết tình cảm của Vũ Thường. Vừa nghĩ đến đây, Địch Thanh không do dự nữa, đi tới hướng cửa Dương phủ. Còn chưa ra khỏi ngõ, hắn một lần nữa dừng lại.

Trên mặt đất có vài vết màu tím.

Địch Thanh ngồi xổm xuống, dùng ngón tay xoa xoa, để lên mũi ngửi, nhíu mày. Hắn ngửi ra được là máu người. Ở đây không lâu trước có người chảy máu sao?

Chẳng biết tại sao, khóe mắt của Địch Thanh có chút co giật, trong lòng dâng lên sự lo lắng. Hắn chậm rãi đứng lên, trầm ngâm một lát, vẫn đi tới trước cửa Dương phủ, dùng sức đập cửa.

Chờ giây lát, không người phản ứng.

Mí mắt của Địch Thanh lại giật. Hắn đẩy cửa ra, chỉ phát hiện then cửa bên trong không gài. Nói như vậy, trong nhà có người, trời cũng chưa tính là muộn, chưa phải thời gian để đi ngủ. Địch Thanh dựa theo tường sân đi tới. Nhiều năm trước, hắn đã đi theo đường này vào phủ, p cửa luôn có giai nhân mỉm cười.

Đẩy cửa phòng khách, chỉ có tiếng kẽo kẹt vang lên. Trên cửa không có cài chốt, nhưng phía sau dường như có cái gì chặn lại. Địch Thanh nhướn mày, nhảy lên tường, nhìn về phía dưới. Suýt chút nữa bị ngã xuống.

Phía sau cửa có một người dựa vào. Lúc này đã mềm nhũn. Trên khóe miệng của người này có máu, hai mắt trợn lên, dường như gặp phải việc gì cực kỳ khủng khiếp, nhưng không thể nói ra lời.

Người nọ đúng là Tiểu Nguyệt!

Trong ngắn ngủi, đầu óc của Địch Thanh trở nên trống rỗng. Không biết như thế nào nhảy xuống đầu tường, cũng không biết như thế nào tới trước mặt của Tiểu Nguyệt.

Tiểu Nguyệt đã chết, vết thương trí mạng nằm ở trước ngực. Một vật cứng cực kỳ bén nhọn đâm vào tim của Tiểu Nguyệt. Một kích trí mạng!

Toàn thân Địch Thanh run rẩy không ngừng. Thời khắc này, hắn chỉ nghĩ, Tiểu Nguyệt là một nữ tử không tranh quyền thế, ai lại muốn hạ độc thủ với một nữ tử như vậy?

Đột nhiên hắn phát hiện trong tay của Tiểu Nguyệt đang nắm một cái gì đó. Hình như là một góc giấy viết thư, trên góc giấy cũng không có chữ viết.

Chẳng lẽ là Tiểu Nguyệt muốn đưa tin, lúc này mới bị thủ tiêu? Trong thư rốt cuộc là nội dung gì?

Trong Dương phủ chỉ là sự yên tĩnh đáng sợ. Địch Thanh đột nhiên ý thức được điểm ấy, liền đứng dậy xông vào đại sảnh của Dương phủ. Phát hiện có một người chết nằm ở đình viện, đúng là Điêu quản gia của Dương phủ.

Điêu quản gian cũng bị một thứ sắc bén đâm trúng ngực. Hiển nhiên là ông ta muốn chạy trối chết trước khi bị người từ phía sau đâm trúng chỗ yếu hại.

Mặc dù hắn không có cảm tình gì đối với Điêu quản gia, nhưng nhìn thấy một người chết như vậy, trái tim của Địch Thanh cũng không kìm nổi đập nhanh hơn. Hắn đã sớm nhìn thấy trên bàn trong nội đường có một người nằm sấp, nhìn bộ trang phục, đúng là Dương Niệm Ân.

Sắc mặt Địch Thanh xanh mét đi tới, thở nhẹ nói:

- Bá phụ?

Trong lòng hắn còn hi vọng sự may mắn. Không nghe thấy Dương Niệm Ân đáp lại, Địch Thanh nhẹ nhàng vươn tay tới, đẩy đầu vai của Dương Niệm Ân.

Dương Niệm Ân quả nhiên đã chết. Ông ta mở to hai mắt, trong mắt còn vẻ hoảng sợ khó tin. Miệng ông ta mở, hầu kết đã vỡ, hẳn là bị người bóp chết.

Địch Thân trở nên đờ đẫn, đứng ở đó nhìn vào mắt của Dương Niệm Ân, bi phẫn khó hiểu. Là ai hạ độc thủ? Vì sao phải xuống tay? Đột nhiên hắn nghĩ đến, Tiểu Nguyệt mới tới tìm ta, trong giây lát đã bị độc thủ. Chẳng lẽ nói, Tiểu Nguyệt bị giết là do liên quan tới ta? Là do ta đắc tội người khác, mới liên lụy đến bọn họ?

Trong đầu nghĩ tới lời của Quách Quỳ vào ban ngày:

- Đệ nghe Tiểu Nguyệt thì thào tự nói, nói cái gì không được, nhất định phải nói cho Địch Thanh, đem…

Tiểu Nguyệt rốt cuộc muốn nói cho Địch Thanh chuyện gì?

Trong lúc ngơ ngẩn, sắc mặt Địch Thanh trở nên trắng bệch. Hắn nhớ tới một chuyện cực kỳ đáng sợ, đột nhiên hô to nói:

- Quách Quỳ? Quách Quỳ!

Tiếng gọi vang khắp nơi, dư âm còn chưa hết, Địch Thanh đã chạy về hướng hậu viện. Hắn từng kêu Quách Quỳ tìm đến Tiểu Nguyệt. Hung thủ là kẻ tàn nhẫn, liệu có thể hạ độc thủ đối với Quách Quỳ?

Vừa nghĩ đến đây, trái tim của Địch Thanh như muốn nhảy ra ngoài. Quách Tuân có ân tình sâu nặng với hắn. Nếu Quách Quỳ bởi vì mình mà xảy ra chuyện, hắn còn mặt mũi gì sống trên đời?

Đã tới hậu viện, chỉ thấy vài người nhà hoàn cùng đầu bếp nằm la liệt khắp phía. Hung thủ giết ba người Dương Niệm Ân còn chưa đủ, không ngờ còn đem trên dưới Dương gia đều giết sạch sẽ. Hung thủ làm sao lại thù hận với Dương gia như vậy. Hay là tất cả là do liên quan tới hắn Địch Thanh?

Nhưng Địch Thanh đã bất chấp nghĩ nhiều. Trong thời gian uống một chén trà hắn đã tìm khắp Dương phủ. Cả Dương phủ có mười ba người bị giết, nhưng không thấy có thi thể của Quách Quỳ.

Địch Thanh cực kỳ bi phẫn, không tiếp tục tìm nữa. Hắn cũng tìm không ra đầu mối gì, mất đi tung tích của Quách Quỳ. Địch Thanh thầm nghĩ, chẳng lẽ Quách Quỳ không có gặp được hung thủ, chắc cũng sắp về lại phủ?

Nghĩ đến đây, Địch Thanh lập tức chạy về hướng Quách phủ. Khi chạy đến Quách phủ, trời đã muộn, bầu trời đầy sao giống như những ngọn đèn dầu. Nhưng bên trong Quách phủ, lại không có đốt đèn.

Trong lòng Địch Thanh trầm xuống.

Quách Quỳ và hắn, đều là người cô đơn, cuộc sống cũng đơn giản, ngay cả người hầu cũng ít thuê. Duy nhất có một lão nô, vẫn còn xin nghỉ ở quê. Quách phủ giờ này không có ai. Đã trễ thế này, Quách Quỳ đi nơi nào?

Địch Thanh tâm loạn như ma, đi dạo trong phủ hai vòng, liền đưa ra quyết định. Hắn ra khỏi Quách phủ, xuyên qua mấy phố, đi tới trước quán rượu. Đêm dài vắng người, quán rượu cũng không buôn bán, nhưng vẫn có đèn dầu sáng.

Địch Thanh nhảy vào quán rượu, ông chủ quán rượu đã mỉm cười đi ra hỏi:

- Địch tướng quân, ngài vội vội vàng vàng như vậy, đã có chuyện gì sao?

Ông chủ kia có quen biết với Địch Thanh. Địch Thanh không tỏ vẻ kỳ quái, nhìn chằm chằm vào ông chủ kia, từng chữ nói:

- Hàn Tiếu, ngươi lập tức triệu tập tất cả nhân sự có khả năng điều động trong kinh thành, giúp ta làm một chuyện!

Ông chủ quán rượu đúng là Hàn Tiếu!

Hóa ra, Địch Thanh bị triệu trở về kinh thành, đại bộ phận Thất Sĩ đều lưu lại Tây Bắc. Riêng Hàn Tiếu thì đi theo Địch Thanh tới kinh thành. Việc kinh doanh của Chủng Thế Hành càng ngày càng lớn, Hàn Tiếu dễ dàng kiếm được một quán rượu và làm ông chủ. Bất cứ lúc nào cũng có thể làm theo mệnh lệnh của Địch Thanh.

Việc Địch Thanh muốn cầu kiến thiên tử, Hàn Tiếu không giúp được gì. Nhưng lúc này gặp chuyện không may, Địch Thanh biết thời gian quý như và, Quách Quỳ bất cứ lúc nào cũng có thể nguy hiểm tới tính mạng, nên người hắn đầu tiên nghĩ tới là Hàn Tiếu.

Hàn Tiếu thấy thần sắc của Địch Thanh vô cùng lo lắng, nụ cười trở nên cứng ngắc. Đợi Địch Thanh nói xong mọi chuyện Hàn Tiếu liền thu lại vẻ tươi cười. Thấy Địch Thanh lòng nóng như lửa đốt, Hàn Tiếu bất chấp an ủi, lập tức quyết định nói:

- Địch tướng quân, nếu xem xét từ góc độ xấu nhất, Quách Quỳ mất tích, rất có khả năng liên quan tới việc Dương phủ bị diệt môn. Nếu như vậy, chúng ta phải bắt tay từ hai hướng. Phái một ít người tới phụ cận của Quách Phủ hỏi xem có ai khả nghi lui tới không. Sau đó lại phái người đến Cấm Quân doanh, tìm những nơi mà Quách Quỳ thường xuyên lui tới. Cũng lưu lại người ở Quách phủ tránh cho việc Quách Quỳ trở về mà không biết.

Địch Thanh biết lúc này cũng chỉ làm được như thế, nói:

- Vậy thì làm phiền ngươi.

Hàn Tiếu nói:

- Thuộc hạ sẽ toàn lực đi tìm. Lúc này, nhân sự khá đủ. Địch tướng quân không bằng lưu lại nơi này chờ tin tức.

Địch Thanh gật đầu, biết rằng cho dù mình đi tìm, cũng không có tác dụng. Không bằng ở đây chờ tin tức, đưa ra các quyết định tiếp theo.

Hàn Tiếu đã sớm truyền lệnh ra ngoài. Trong lúc nhất thời, tiểu nhị, đầu bếp, phòng kế toán cùng mọi người trong quán rượu đều bị phái đi, toàn lực tìm kiếm tung tích của Quách Quỳ.

Địch Thanh ngồi ở trong quán rượu, im lặng suy nghĩ. Trong lòng liên tục tính toán hai vấn đề:

- Quách Quỳ còn sống hay chết? Ai giết cả nhà Dương gia?

Nhưng mặc cho hắn nghĩ tới nghĩ lui, chung quy đều không nghĩ ra được đáp án.

Trời dần sáng, hai mắt của Địch Thanh đã đầy tơ máu, một đêm không ngủ. Tin tức liên tục truyền tới, lại không có cái nào có tác dụng. Quách Quỳ vẫn chưa trở về Quách phủ, giống như bị biến mất vậy.

Đợi đến gà trống cất cao tiếng gáy, ánh nắng mặt trời chiếu vào trong quán rượu, Đột nhiên Địch Thanh cảm thấy kinh hãi, tim đập thình thịch. Thầm nghĩ, đã lâu không có tung tích của Quách Quỳ, chẳng lẽ y đã…

Địch Thanh không dám nghĩ tiếp nữa. Đã chờ đợi không được, thì tự mình đi tìm. Hàn Tiếu ở một bên thấy vậy, biết rằng khuyên cũng vô dụng. Y nhìn bóng lưng của Địch Thanh, cũng cảm thấy lo lắng.

Đúng lúc này, có người chạy tới, đầu đầy là mồ hôi, thấp giọng nói vào tai của Hàn Tiếu hai câu, Hàn Tiếu cả kinh, vội kêu lên:

- Địch tướng quân, có tin tức của Quách Quỳ.

Địch Thanh vốn đã đi xa, nghe vậy bước nhanh quay lại, vội la lên:

- Tin tức thế nào?

Hắn thậm chí không dám hỏi Quách Quỳ sống hay chết.

Trong mắt Hàn Tiếu tràn đầy quái dị nói:

- Theo tin tức thì tối hôm qua, Quách Quỳ xâm nhập sứ quán Tây Hạ, bị người Hạ bắt.

Địch Thanh giật mình nói:

- Sao cậu ta lại đi vào đó?

Biết Hàn Tiếu cũng không có đáp án, Địch Thanh lập tức nói:

- Hàn Tiếu, ngươi đi theo ta!

Hàn Tiếu nhắc nhở:

- Địch tướng quân, nơi đó là sứ quán của nước Hạ, chúng ta đi có thể, nhưng... Sẽ phiền toái vô cùng.

Địch Thanh không nói, lông mày nhăn lại, trèo lên một con ngựa, chạy về hướng sứ quán Tây Hạ. Hắn sao không biết ý của Hàn Tiếu. Từ trước tới nay, Địch Thanh luôn là người chủ chiến. Giờ đang là thời kỳ mẫn cảm, nếu lại đắc tội sứ quán nước Hạ. Không cần người Hạ như thế nào, chỉ sợ đủ loại quan lại triều Tống cũng đủ dìm hắn chết!

Nhưng hiện tại, hắn còn sự lựa chọn nào khác sao?

Địch Thanh phi ngựa như bay, không bao lâu đã đến sứ quán nước Hạ. Lúc này, mặt trời đã lên cao, người đi đường ngày càng nhiều. Bọn họ thấy Địch Thanh cưỡi ngựa lao nhanh, không khỏi nghị luận. Có người nhận ra Địch Thanh, lại xì xào bàn tán.

Địch Thanh đã tới trước cửa sứ quán, xoay người xuống ngựa, vừa tiến đến, đã bị hai binh lính canh gác sứ quán ngăn lại:

- Làm cái gì đấy?

Địch Thanh mặc dù vội, nhưng vẫn khống chế cảm xúc, nói:

- Địch Thanh mong được gặp sứ giả nước Hạ, Một Tàng Ngoa Bàng đại nhân.

Binh lính nghe thấy tên Địch Thanh, giật nảy mình, cuống quít đi vào sứ quán bẩm báo.

Có không ít dân chúng đi tới xem, chỉ trỏ, không biết Địch tướng quân vội vàng tới nơi này làm gì? Địch Thanh ở ngoài cửa chờ hồi lâu, thị vệ kia mới nhàn nhã đi ra nói:

- Không gặp! Mời ngươi trở về.

Thị vệ mặc dù ra vẻ nhàn nhã, nhưng thần sắc vẫn là đề phòng.

Địch Thanh vừa nghe, đã biết Một Tàng Ngoa Bàng có quỷ. Quách Quỳ bị những người này bắt, sống chết không rõ. Dương gia cả nhà bị giết, chẳng lẽ bởi vì hắn xung đột với Một Tàng Ngoa Bàng, mới dẫn tới Một Tàng Ngoa Bàng hạ sát thủ? Địch Thanh nghĩ đến đây, làm sao có thể nhịn được, cười lạnh nói:

- Ta muốn gặp y, y không thể không ra gặp!

Bước tới phía trước, hai binh lính kia định rút đao, nhưng thấy lông mày của Địch Thanh nhướng lên, lập tức vọt tới một bên. Trong lòng người Hạ, Địch Thanh giống như sát thần vậy. Bọn họ đã nghe nhiều truyền thuyết về Địch Thanh, nên làm sao dám ngăn cản Địch Thanh?

Địch Thanh vừa vào sứ quán, chợt nghe thấy tiếng leng keng không dứt. Đối diện vọt tới hơn mười người Hạ, tay cầm đao sắc bén chắn trước mặt Địch Thanh. Một người cầm đầu, mạnh mẽ quát:

- Địch Thanh, ngươi muốn làm gì? Đây là sứ quán của Đại Hạ ở đất Tống. Cho dù ngươi là người của Lưỡng Phủ, muốn gặp sứ giả của chúng ta, cũng cần phải thông báo trước. Ngươi biết hậu quả của việc xông vào không?

Địch Thanh cười cười:

- Vậy làm phiền ngươi thông báo giúp ta một tiếng. Ta muốn gặp Một Tàng Ngoa Bàng.

Người nọ lạnh lùng nói:

- Nếu ta không truyền thì sao?

Nụ cười của Địch Thanh trở nên lạnh lẽo nói:

- Ngươi thử xem!

Nếu hắn là lớn tiếng quát tháo, người nọ không chừng chỉ cười nhạt khinh bỉ. Nhưng đối với ngữ điệu bình tĩnh này, mọi người chỉ thấy rùng cả mình.

Đang lúc giằng co, ngoài cửa có người nói:

- Địch Thanh, ngươi đang làm cái gì?

Có mấy người đi vào đình viện. Người cầm đầu có hai tròng mắt bé như hạt đậu, đúng là Ngự Sử Trung Thừa Vương Củng Thần. Đi theo phía sau Vương Củng Thần là mấy người, cũng nhìn về hướng Địch Thanh.

Địch Thanh nhíu mày, trả lời:

- Ta muốn gặp Một Tàng Ngoa Bàng.

Vương Củng Thần nói:

- Càn quấy, vì sao ngươi muốn gặp Một Tàng sứ giả?

Địch Thanh đang tâm phiền ý loạn, nghe vậy lạnh lùng trào phúng:

- Ta muốn gặp ai, dường như không cần phải phải báo cáo với Vương đại nhân?

Vương Củng Thần âm thầm tức giận. Thầm nghĩ cho dù Hạ Tủng cũng bị ta đuổi ra khỏi kinh thành. N một Địch Thanh, dám vô lễ với ta như vậy? Hóa ra trong triều đình hôm qua, Vương Củng Thần đã chơi Hạ Tủng một vố. Về sau bãi triều, Vương Củng Thần lại tới gặp Triệu Trinh, luân phiên thỉnh cầu đem Hạ Tủng xóa bỏ khỏi danh sách Lưỡng Phủ. Triệu Trinh lúc đầu còn hoài nghi đề nghị của Phạm Trọng yêm. Rốt cuộc bị Vương Củng Thần đả động, cũng không thảo luận cùng Phạm Trọng Yêm, trực tiếp đổi Đỗ Diễn làm Xu Mật Sứt, đem Hạ Tủng phái đi ngoài kinh thành nhậm chức.

Đỗ Diễn thân là nguyên lão hai triều. Đã qua tuổi hoa giáp. Kỳ thực, ông ta giống như Chương Đắc, đều là người tuân thủ quy tắc cổ xưa. Đối với Triệu Trinh mà nói, gian tà diệt hết, có lão thần chỗ dựa, có đám người Phạm Trọng Yêm cải cách, là không cần phải lo lắng. Mà Vương Củng Thần lại cho rằng, đây là điều đầu tiên cần làm để củng cố biến pháp.

Vương Củng Thần là người giỏi về dựa thế. Giống như Yến Thù đã nói, sau khi thấy Lã Di Giản rơi đài, y liền đầu nhập vào Phạm Trong Yêm. Hiện giờ y tuy tức giận Địch Thanh chống đối, nhưng y biết Địch Thanh là người của Phạm Trọng Yêm. Nên trong lúc nhất thời, không muốn cùng Địch Thanh trở mặt.

Nhưng vào lúc này, Một Tàng Ngoa Bàng rốt cuộc từ trong phòng đi ra, cười nói:

- Hóa ra là Trung Thừa đại nhân đến, không biết có chuyện gì quan trọng?

Y cũng không thèm nhìn Địch Thanh, chỉ nói:

- Vương đại nhân, mời vào bên trong.

Vương Củng Thần vui vẻ, cũng bất chấp để ý tới Địch Thanh, cười nói:

- Ngoa Bàng đại nhân không cần khách sáo.

Hôm qua Một Tàng Ngoa Bàng tức giận rời đi, các quan lại nhà Tống đều kinh hãi. Bọn họ chỉ sợ việc hòa đàm tan vỡ, rơi vào chiến loạn vô tận với người Tây Bắc. Vương Củng Thần biết được Một Tàng Ngoa Bàng chưa lập tức rời đi, nên sáng nay tới, muốn nói lại về chuyện hòa đàm. Thấy vẻ mặt của Một Tàng Ngoa Bàng ôn hòa, Vương Củng Thần cảm thấy việc này có cơ hội xoay chuyển.

Không nghĩ Vương Củng Thần vừa mới định vào, chợt nghe Địch Thanh nói:

- Một Tàng Ngoa Bàng, ngươi đứng lại!

Vương Củng Thần tức giận, Một Tàng Ngoa Bàng lúc này mới nhìn phía Địch Thanh, dương dương đắc ý nói:

- Đây không phải Địch tướng quân sao, ngài tìm ta có việc gì? Chẳng lẽ việc nói ở phố Nhật Trường hôm qua, Địch tướng quân đã có quyết định sao?

Địch Thanh không để ý tới Một Tàng Ngoa Bàng châm ngòi, bình tĩnh nói:

- Ngươi trước giao Quách Quỳ cho ta rồi nói sau.

Đám người Vương Củng Thần ở một bên không hiểu ra sao. Một Tàng Ngoa Bàng thì cười ha hả nói:

- Thật sự là buồn cười, Quách Quỳ cũng không phải trẻ con, ngươi bảo ta trông giữ y hay sao mà giờ đến đòi người?

Y tự cho mình đã trả lời khéo, nhưng Địch Thanh lập tức phát hiện ra sơ hở. Đó là Một Tàng Ngoa Bàng biết Quách Quỳ, chứng minh tin tức của Hàn Tiếu không có sai.

Tiến lên một bước, Địch Thanh hít một hơi dài, lại hỏi:

- Ngươi có giao ra hay không?

Một Tàng Ngoa Bàng liếc Vương Củng Thần một cái, dường như đã quyết định gì đó, y đùa cợt nói:

- Nếu ta không giao thì sao?

Vừa mới nói xong, chỉ nghe một tiếng keng vang lên, một cây đao đã gác lên cổ y.

Ánh đao trong trẻo nhưng lạnh lùng, tỏa ra khí lạnh thấu xương.

Sắc mặt của mọi người đều thay đổi, khó có thể tin nhìn cây đao trước mặt. Bọn họ còn chưa kịp phản ứng, Địch Thanh đã rút đao, vượt qua bọn hộ vệ, chế trụ Một Tàng Ngoa Bàng.

Đôi mắt của Địch Thanh đỏ bừng, nhìn chằm chằm Một Tàng Ngoa Bàng nói:

- Ngươi nếu nói thêm một tiếng không giao, ta sẽ chém đứt đầu của ngươi! Hiện tại, ngươi có giao Quách Quỳ hay không?

Một Tàng Ngoa Bàng đứng im một chỗ, Già Diệp Vương cũng rùng mình, không dám tiến lên ngăn cản.

Vương Củng Thần thấy thế, vội vàng quát:

- Địch Thanh, mau bỏ đao xuống!

Phía sau cũng có một vị mặc trang phục quan văn hô theo:

- Địch Thanh, dừng tay, ngươi có biết ngươi đang làm gì không?

Người nọ đi ra từ đám người, định vặn tay của Địch Thanh.

Địch Thanh chỉ khoát tay một cái chặn lại, người nọ đã lảo đảo lui về phía sau, đặt mông ngã xuống đất.

Già Diệp Vương uy hiếp nói:

- Vương trung thừa, các ngươi là đến nghị hòa hay là muốn tới giết người? Các ngươi uy hiếp sứ thần của quốc gia ta, nếu cứ như vậy, chuyện hòa đàm đừng mong nói lại!

Vương Củng Thần sắc mặt ngưng trọng quát lên:

- Địch Thanh, còn không bỏ đao xuống. Nếu ngươi dám làm bậy, có tin ta báo cáo cho Thánh Thượng chém đầu ngươi hay không?

Địch Thanh mỉm cười, không để ý tới Vương Củng Thần, chậm rãi nói:

- Ta đếm tới ba, nếu không thấy Quách Quỳ, khẳng định có đầu người rơi xuống. Một...

- Địch Thanh!

Vương Củng Thần tiến lên một bước, nhưng thấy sát khí trong mắt Địch Thanh cùng hàn khí phát ra từ thanh đao, y lại không dám tới gần khiển trách.

- Hai…

Địch Thanh thản nhiên nói. Ánh mặt trời chiếu lên thanh đao, hiện ra hào quang như băng. Hắn chỉ nghĩ đến việc cứu Quách Quỳ, còn đâu chẳng thèm quan tâm.

Ở thời khắc này, sinh tử của Quách Quỳ còn quan trọng hơn hết thảy mọi thứ.

Một Tàng Ngoa Bàng thoáng nhìn sắc mặt tràn đầy sát khí của Địch Thanh, rốt cục hoảng hồn, kêu lên:

- Các ngươi là người chết sao? Còn không mau mang Quách Quỳ đi ra?

Có binh vệ vội vàng chạy vào nội đường. Chỉ trong chốc lát, đã dẫn Quách Quỳ đi ra.

Địch Thanh thấy mặt mũi của Quách Quỳ tràn đầy tiêu điều, vết máu trên người cũng chưa khô, nhưng thấy y còn sống mới nhẹ nhàng thở phào. Quách Quỳ nhìn thấy Địch Thanh, kích động nói:

- Địch nhị ca.

Già Diệp Vương vung tay lên, ra lệnh cho binh vệ mở tri cho Quách Quỳ. Quách Quỳ đi tới bên cạnh Địch Thanh. Y liền minh bạch tất cả, trong lòng cảm thấy bất an. Già Diệp Vương lạnh lùng nói:

- Vương trung thừa, đêm qua Quách Quỳ lẻn vào nơi này, bị chúng ta bắt được. Ta còn chưa bẩm báo lên Thiên Tử của các ngươi, Địch Thanh lại dám tới uy hiếp sứ giả của chúng ta, tùy ý làm bậy. Việc này ta sẽ bẩm báo lên chúa thượng, không biết các ngươi còn có lời giải thích?

Sắc mặt của của Vương Củng Thần xanh mét, trừng mắt nhìn Địch Thanh nói:

- Địch Thanh, ngươi đã thấy, còn không thả Một Tàng đại nhân ra?

Địch Thanh không đáp, chỉ nhìn Quách Quỳ nói:

- Ta biết ngươi nhất định có lời muốn nói.

Quách Quỳ lập tức nói:

- Địch nhị ca, ta đuổi theo hung thủ tới được nơi này. Kết quả bọn họ nói ta tự tiện xông vào sứ quán, không cho ta lục soát, lại sai người đánh ta.

Y chỉ một ngón tay về phía Già Diệp Vương, thần sắc lạnh lùng nói:

- Ngươi đợi đấy.

Già Diệp Vương tối hôm qua bắt được Quách Quỳ, nhưng bị Quách Quỳ chém một đao, tuy không nặng, nhưng thấy khuôn mặt đầy sát khí của Quách Quỳ, trong lòng y rét run. Y nhìn ra được, Quách Quỳ là đệ đệ của Quách Tuân, là người có hùng tâm. Bị một người như vậy nhớ kỹ, chỉ sợ là một việc đau đầu.

Địch Thanh nghe vậy, thấp giọng hỏi:

- Ngươi nhận ra hình dáng của hung thủ sao?

Quách Quỳ không đáp, chỉ chậm rãi lắc đầu, thấp giọng nói:

- Nhưng ta có thể khẳng định, người nọ trèo tường đi vào đây.

Địch Thanh nhìn chằm chằm Một Tàng Ngoa Bàng hỏi:

- Vì sao ngươi muốn giết cả nhà Dương gia?

Một Tàng Ngoa Bàng ngẩn ra, kêu lên:

- Cái gì Dương gia, Ngưu gia (ý chỉ dê bò). Ngày hôm qua, tên tiểu tử này xông tới, nói chúng ta chứa chấp hung thủ, kết quả bị đánh một trận. Hôm nay, ngươi lại tới vu oan ta giết cả nhà Dương gia, ta có bản lãnh gì giết cả nhà bọn họ?

Địch Thanh liếc nhìn lên trên tay nhón hoa của Già Diệp Vương nói:

- Ngươi không có bản lãnh này, nhưng có một người lại có.

Ngón tay của Già Diệp Vương có thể nhón hoa, cũng có thể bóp nát vỏ đao, cũng có thể bóp nát cổ họng của Dương Niệm Ân.

Già Diệp Vương nói:

- Địch Thanh, ngươi đừng có cố tình gây sự. Ta xem ngươi căn bản là không muốn đàm phán, mới tới nơi này vu oan chúng ta. Vương trung thừa, ta muốn các ngươi giải thích!

Vương Củng Thần cũng tức giận khó nhịn. Trong lòng sớm đã chửi bới tổ tông của Địch Thanh, nhưng y không có cách nào khác. Vị quan văn bị đẩy ngã kia thì tức giận kêu lên:

- Địch Thanh, ngươi muốn tạo phản sao?

Địch Thanh bỗng nhiên quay đầu, căm tức nhìn vị văn thần kia nói:

- Cả nhà Dương Niệm Ân mười ba người đều bị giết. Quách Quỳ truy đuổi hung thủ tới tận đây, bị người Hạ cản trở giam giữ. Ta đến muốn đòi người có gì sai? Giết người đền mạng. Nếu Một Tàng Ngoa Bàng thật sự giết người, cho dù thiên vương lão tử, ta cũng không bỏ qua cho y.

Thanh đao vẫn giữ nguyên, Địch Thanh nhìn gần Một Tàng Ngoa Bàng nói:

- Hiện tại, ta đếm tới ba, nếu như ngươi không giao ra hung thủ, ngươi đã biết kết quả là gì! Một!

Mọi người đều run sợ, Già Diệp đột nhiên tiến lên, bàn tay như nhón hoa vươn tới, đã bắt được sống đao của Địch Thanh.

Vừa rồi thân hình của Địch Thanh như điện, thì giờ Già Diệp Vương giống như chiếc lá, độc tác cực nhanh, làm người hoa cả mắt. Sống đao đã bị ngón tay nhón hoa bắt được, giống như rắn độc kẹp tới, ánh sáng vụt tắt.

Nhưng chỉ trong giây lát, hào quang lại sáng lên, Địch Thanh xuất đao. Đao là thanh đao kiêu ngạo bất quần, há lại bị người bắt được?

Già Diệp Vương vội vàng lui, áo trước ngực đã bị đao phong cắt qua, nếu chậm một bước, chỉ sợ đã ngực đã bị mở. Sắc mặt y không khỏi kịch biến. Địch Thanh mang theo Một Tàng Ngoa lui sau một bước, nói:

- Hai…

Mọi người kinh hãi, biết ở dưới gầm trời này, đã không còn ai có thể cứu tính mạng của Một Tàng Ngoa Bàng. Hai chân của Một Tàng Ngoa Bàng run lên, đũng quần có vết nước, y hét lớn:

- Địch Thanh, chuyện này thực sự không có liên quan gì tới ta. Ngươi con mẹ nó đừng giết nhầm người.

- Ba!

Chữ ba vừa nói ra, thanh đao giơ lên, Một Tàng Ngoa Bàng bị hù sợ, hai mắt trở nên trắng dã, hôn mê bất tỉnh.

Vang lên tiếng keng, Địch Thanh đã thu đao vào vỏ, nói với Quách Quỳ:

- Chúng ta đi!

Hắn và Quách Quỳ sóng vai đi ra khỏi sứ quán, không một ai dám ngăn lại.

Tất cả mọi người đều kinh ngạc há hốc miệng. Khí thế vừa rồi của Địch Thanh, nhìn giống như sẽ giết Một Tàng Ngoa Bàng là. Không ngờ tới, Địch Thanh lại buông tha cho Một Tàng Ngoa Bàng. Rốt cuộc Địch Thanh nghĩ gì?

Địch Thanh đi ra sứ quán, trong lòng nghĩ, hung thủ không phải là Một Tàng Ngoa Bàng. Nếu là y giết người, gặp thời khắc sống chết, vẻ mặt sẽ không sợ hãi như vậy. Nhưng hung thủ không phải Một Tàng Ngoa Bàng, vậy là ai giết cả nhà Dương Niệm Ân?

Phố dài phồn hoa, tâm tình lạnh lẽo. Địch Thanh đi trên con phố, không khỏi ngẩn ra.Vô số dân chúng ngăn ở trước sứ quán, thấy Địch Thanh đi ra, đều tự động tách thành một con đường.

Trong lòng Địch Thanh cảm thấy kỳ quái. Không biết bọn họ đứng ở nơi đây làm gì? Lúc này có một người thanh niên khỏe mạnh cả gan tiến lên hỏi:

- Địch tướng quân, muốn đánh nhau sao? Chúng ta sợ ngài gặp nạn, mới sang đây xem.

Địch Thanh giờ mới hiểu, dân chúng thấy hắn nổi giận đùng đùng đi tới. Cho là hắn muốn khai chiến với người Hạ, mới chen chúc tới đây giúp đỡ.

Mặc dù trên triều đình, chức vụ của Địch Thanh không bằng nhiều vị quan khác, nhưng trong mắt của dân chúng, Địch Thanh mới là hy vọng của Đại Tống.

Đã hiểu được tâm ý của dân chúng, Địch Thanh liền cảm động, không có lời nào có thể diễn tả được, chỉ thi lễ thật sâu nói:

- Đa tạ các hương thân phụ lão. Lần này là Địch mỗ nhất thời kích động, làm việc không suy nghĩ trước, mời mọi người trở về cho.

Dứt lời liền cất bước rời đi. Đám dân chúng còn nghị luận một lúc, mới tản đi.

Lc Địch Thanh, Quách Quỳ, Hàn Tiếu ba người quay lại Quách phủ, có người truyền tin tới. Hàn Tiếu nghe xong, chuyển cáo Địch Thanh nói:

- Địch tướng quân, căn cứ vào tin tức mà chúng ta nắm được, mấy ngày nay, Dương Niệm Ân không có gây thù chuốc oánm với ai. Kỳ thật, Dương lão trượng làm người không tệ. Rất nhiều người lại biết việc của Dương cô nương và Địch tướng quân, nên đối với Dương lão trượng rất tôn kính. Hiện giờ Một Tàng Ngoa Bàng cũng không giống như chủ mưu. Động cơ của hung thủ thực sự làm người ta khó hiểu. Lúc này, chuyện Dương gia diệt môn đã truyền ra ngoài, phủ Khai Phong đang điều tra sự việc.

Địch Thanh ngồi im trên ghế, thật lâu không nói gì. Dường như đang nghe, cũng như không nghe thấy gì cả.

Quách Quỳ thấy bộ dáng của Địch Thanh tràn đầy thê lương. Trong lòng y áy náy nói:

- Địch nhị ca, lần này là đệ liên lụy tới huynh rồi.

Địch Thanh khoát tay một cái nói:

- Không phải là ngươi liên lụy tới ta, mà là ta làm phiền tới ngươi mới đúng. Đúng rồi, vì sao ngươi truy đuổi hung thủ tới tận sứ quán, kể rõ đầu đuôi xem.

Quách Quỳ nói:

- Ngày hôm qua, huynh đi gặp Thánh Thượng, đệ theo sự chỉ bảo của huynh, đi Dương phủ tìm Tiểu Nguyệt. Tuy nhiên, do ở quân doanh có việc, nên đến chiều, đệ mới chạy tới Dương gia. Cửa lớn của Dương gia đóng chặt, đệ gõ rất lâu, Tiểu Nguyệt mới mở cửa. Sau khi cô ấy mở cửa, đệ liền hỏi cô ấy tìm Địch nhị ca rốt cuộc có việc gì? Cô ấy đột nhiên biến sắc mặt nói, “Ai đi tìm Địch Thanh, ngươi nhận lầm người rồi”. Lúc ấy đệ rất kỳ quái, nhưng kiên trì không có nhận sai, bởi vậy còn cãi nhau với cô ấy một trận. 

Hàn Tiếu nghe vậy, trầm ngâm nói:

- Ta chỉ sợ, khi đó hung thủ đã không chế Dương lão trượng. Tiểu Nguyệt sợ Dương lão trượng bị hại, lúc này mới cố ý nói chưa từng tìm Địch tướng quân.

Quách Quỳ vỗ đầu một cái, buồn rầu nói:

- Nếu như ta thông minh như ngươi thì tốt. Lúc ấy ta làm sao nghĩ tới sẽ có án mạng xảy ra. Ta chỉ nhớ rõ khuôn mặt của Tiểu Nguyệt có chút tái nhợt, còn hỏi cô ấy bị bệnh à. Thấy cô ấy kiên trì nói không có đi tìm Địch nhị ca, ta cũng chỉ tức giận mà đi. Nhưng khi ta đi chưa được xa, thì cảm thấy không đúng, mới quay lại xem…

Trên mặt lộ vẻ sầu thảm, Quách Qùy áy náy nói:

- Kết quả, ta còn chưa tới trước cửa Dương phủ, chợt nghe thấy một tiếng hét thảm. Ta đẩy cửa nhưng không mở, liền trèo tường mà vào. Phát hiện Tiểu Nguyệt đã chết ở cửa. Lúc đấy, trời cũng tối, ta mơ hồ nhìn thấy một bóng người trèo tường mà ra, ta liền đuổi theo. Kết quả là đuổi tới sứ quán người Hạ. Khuôn mặt của người nọ, từ đầu đến cuối ta còn chưa nhìn ra. Ta mới vào sứ quán, đã bị đám người kia phát hiện. Lúc ấy ta cực kỳ tức giận, nói bọn họ giao hung thủ ra. Nhưng bọn họ làm bộ không biết gì cả, còn trách ta tự tiện xông vào sứ quán. Về sau thì đánh nhau, ta bị vây công, lại bị Già Diệp Vương đánh lén, mới bị bắt được. Mọi chuyện là như vậy.

Quách Quỳ nói xong, trong lòng thấp thỏm. Thấy Địch Thanh đờ đẫn ngồi chỗ kia, Quách Quỳ nói:

- Địch nhị ca, chuyện này đệ sẽ nói với Thánh Thượng. Huynh không cần lo lắng quá mức.

Hàn Tiếu thì nói:

- Chuyện Địch tướng quân tự tiện xông vào sứ quán, không lớn cũng không nhỏ. Cho dù dùng đao uy hiếp Một Tàng Ngoa Bàng, cũng có thể nói là tra án. Nhưng việc chống đối Vương Củng Thần, chỉ ợ bọn họ sẽ tố cáo lên triều đình.

Hàn Tiếu cảm thấy Địch Thanh lao vào sứ quán đã không ổn. Nhưng biết khi đó nói gì cũng vô dụng. Huống chi, trong lòng y cũng bất mãn với đám người Vương Củng Thần.

Địch Thanh đạm mạc nói:

- Hừ, cho dù ta không chống đối bọn họ, chẳng lẽ bọn họ còn buông tha ta sao? Sẽ không đâu, mâu thuẫn đã sớm có, trừ phi ta…

Không nói hết, Địch Thanh liền chuyển đề:

- Từ phản ứng của người Hạ, hung thủ chạy vào sứ quán có thể có hai khả năng. Khả năng thứ nhất chính là bọn họ cũng không biết việc này. Người nọ dẫn theo Tiểu Quỳ, bất quá là vu oan giáọa, chuyển dời ánh mắt. Thậm chí, dụng ý của y có thể là mượn tay ta, khiến hai nước xảy ra xung đột. Nếu như vậy, dụng tâm của kẻ này cực kỳ hiểm ác đáng sợ.

Sắc mặt của Quách Quỳ xanh mét, càng nghe càng kinh hãi. Thầm nghĩ, nếu mọi việc như lời Địch Thanh nói, vậy thì mình đã gây ra đại họa.

Địch Thanh lại nói:

- Tuy nhiên, chuyện nghị hòa, tạm thời không có thay đổi. Bởi vì ta nghe nói Khiết Đan không biết vì sao, trở mặt cùng nước Hạ. Lúc đầu xuân đã dời binh về phía tây, chuẩn bị dụng binh cùng Nguyên Hạo. Nguyên Hạo không muốn hai mặt thụ địch, khẳng định là muốn nghị hòa.

Hắn nhìn ra Quách Quỳ bất an, mới nói chuyện này an ủi y. Dừng một chút, Địch Thanh lại nói:

- Khả năng thứ hai chính là Một Tàng Ngoa Bàng muốn trả thù ta. Nhưng qua sự việc hôm nay, khả năng này lại không lớn. Đúng rồi, Tiểu Quỳ, lúc ấy ngươi không nhìn thấy mặt của hung thủ, nhưng ngươi thấy bóng lưng của người kia. Có giống Già Diệp Vương hay không?

Quách Quỳ hơi chút trầm tư, lắc đầu nói:

- Không phải là Già Diệp Vương. Bóng lưng của người kia xem ra cường tráng hơn Già Diệp Vương.

Trên mặt y lộ ra vẻ cổ quái nói:

- Lúc ta truy đuổi người kia, có cảm giác rất lạ, giống như người nọ là một cây búa.

Ánh mắt của Hàn Tiếu lóe ra, chậm rãi nói:

- Giống cây búa là sao?

Hình như y nghĩ ra cái gì, nhìn thoáng qua Địch Thanh.

Quách Quỳ cau mày nói:

- Mỗi lúc y chạy, giống như cây búa đục xuống. Trông có chút buồn cười, nhưng chạy rất nhanh.

- Như một cây búa?

Trong đầu của Địch Thanh như có ánh điện thoáng qua. Hắn từng nghĩ đến những lời Triệu Minh đã nói, thương nhân họ Lịch đi Hương Ba Lạp kia, lúc đi đường giống như cây búa. Hắn nhìn sang Hàn Tiếu, trong mắt cũng có thâm ý.

Chẳng lẽ nói, thương nhân họ Lịch kia chính là người mà Quách Quỳ nhìn thấy? Thương nhân họ Lịch kia là hung thủ sao? Nhưng vì sao y muốn giết cả nhà Dương gia? Trong lúc này, căn bản không có một chút liên hệ nào.

Trong lúc Địch Thanh liên tục suy đoán, nghe Hàn Tiếu nói:

- Địch tướng quân, ty chức cảm giác, hung thủ kia rất quen thuộc với Dương lão trượng. Nếu như chúng ta muốn tìm hung thủ, thì nên điều tra từ phương diện này.

Địch Thanh nghi ngờ hỏi:

- Vì sao ngươi nghĩ như vậy?

Hàn Tiếu nói:

- Thủ hạ đã điều tra qua Dương phủ, cũng không có phát hiện ra nhiều manh mối. Tuy nhiên, nhìn trên bàn có hai chén trà, trong ấm trà lại là trà Long Đoàn cực phẩm.

Quách Quỳ khó hiểu nói:

- Thì sao?

Hàn Tiếu nói:

-Trà Long Đoàn là loại trà tốt nhất. Dương lão trượng lấy loại trà này ra đãi khách, chứng tỏ người khách kia rất tôn quý. Có thể phỏng đoán, người kia còn rất quen thuộc với Dương lão trượng.

Trong lòng Địch Thanh sáng tỏ. Nhưng chẳng biết tại sao, hắn luôn cảm thấy bất an. Dường như bỏ qua một tình tiết mấu chốt nào đó. Nhưng suy nghĩ mãi cũng không ra.

 Chương 383 - 386: Cáo lão

Hàn Tiếu nói:

- Địch tướng quân, lúc này ty chức có mấy đề nghị.

Y thấy Địch Thanh vẫn đờ đẫn, biết lúc này Địch Thanh tâm tình có chút loạn. Nhưng ykìm nổi đề nghị ra.

Địch Thanh mỏi mệt nói:

- Cứ nói đi.

Hàn Tiếu đề nghị:

- Việc cấp bách lúc này, chính là cho huynh đệ Quách Quỳ đi gặp Thánh Thượng, nói rõ sự việc hôm nay. Tránh cho triều đình gây ra bất lợi cho tướng quân.

Quách Quỳ lập tức nói:

- Tốt, ta ngay lập tức đi làm. Hàn Tiếu, nếu không còn chuyện gì, ta đi vào cung trước.

Thấy Hàn Tiếu gật đầu, Quách Quỳ lập tức xuất phát.

Kỳ thật, Địch Thanh không để việc này trong lòng. Hắn thầm nghĩ, dù có tội danh trước mắt, cùng lắm là xăm chữ trên mặt. Nhưng hắn biết hai người có ý tốt, nên không ngăn trở.

Hàn Tiếu đợi Quách Quỳ đi rồi, nói:

- Địch tướng quân, chúng ta hiện tại có thể chia ra ba đường. Một đường đi thăm dò những người quen của Dương lão trượng. Đường thứ hai là theo dõi động tĩnh của sứ quán. Dù sao ty chức cảm thấy, bọn họ rất có thể tham gia vào việc này. Đường thứ ba chính là mượn việc phát tang Dương lão trượng, nhìn xem phủ Khai Phong kia có đầu mối gì không…

Địch Thanh gật đầu nói:

- Tốt, vậy thì ta đi Dương phủ.

Hắn vừa đứng dậy, Hàn Tiếu đã nói:

- Địch tướng quân, ty chức đề nghị tướng quân ở lại Quách phủ là được, không nên có thêm hành động gì.

Địch Thanh nhìn Hàn Tiếu thật lâu sau, rốt cục ngồi xuống nói:

- Ừ, vậy ngươi phái người đi làm đi.

Hắn biết tâm tình của mình lúc này, không nên xung đột với người khác. Hàn Tiếu bảo hắn ở đây chờ tin tức, cũng là vì suy nghĩ cho hắn. Địch Thanh tâm loạn như ma, cần thời gian để suy nghĩ lại.

Hắn ngồi yên ở trong phủ, ánh hoàng hôn rọi vào người, càng thêm cô tịch.

Đêm dần sâu, sự phồn hoa của Biện Kinh dần biến mất, mà quay lại sự yên lặng. Nhưng trong đầu của Địch Thanh vẫn loạn. Hắn muốn biết, hung thủ kia nếu là thương nhân họ Lịch, vì sao muốn giết Dương Niệm Ân? Nếu như hung thủ không phải là thương nhân họ Lịch kia, vậy là người nào? Việc Dương gia bị giết cả nhà, liệu có phải do Địch Thanh hắn liên lụy?

Đang lúc trầm ngâm, có tiếng bước chân vang lên. Địch Thanh ngẩng đầu vừa nhìn, là Hàn Tiếu đi đến, còn mang theo một đứa nhỏ. Trên khuôn mặt đứa nhỏ đầy vết bẩn, quần áo thì tơi tả, rất giống tên ăn mày.

Hàn Tiếu mang đứa nhỏ này tới làm gì? Địch Thanh trong lòng kỳ quái. Hàn Tiếu biết Địch Thanh nghi hoặc, nói ngay vào điểm chính:

- Địch tướng quân, đứa nhỏ này cố ý muốn gặp ngài. Nó nói có một phong thư tự tay giao cho ngài. Nó còn nói, nội dung của bức thư có liên quan tới Dương gia.

Địch Thanh run lên, đứng dậy, nhìn đứa bé kia nói:

- Tiểu huynh đệ, làm sao ngươi biết chuyện của Dương gia, thư này là ai đưa cho ngươi?

Cái đứa bé kia còn chảy nước mũi, nghe thế sụt sùi một cái, đưa một bức thư tới nói:

- Có người cho ta một lượng bạc, bảo ta đưa bức thư này cho ngài. Người ấy nói nếu có người không cho ta đi vào, thì bảo bức thư này có liên quan tới Dương gia là được. Chuyện còn lại, ta không biết, người nọ ta cũng không biết.

Địch Thanh thấy đứa bé kia đích thực là không biết cái gì. Nên không hề truy vấn, cầm lấy bức thư, mở ra nhìn, sắc mặt liền kịch biến.

Hàn Tiếu cảm thấy là giấy viết thư không phải người bình thường có thể sử dụng. Đang cân nhắc là ai viết, thấy sắc mặt khác thường của Địch Thanh, vội hỏi:

- Địch tướng quân, tướng quân làm sao vậy?

Thân hình của Địch Thanh loạng choạng, sắc mặc trắng bệch. Hắn dùng tay đỡ lấy bàn, như không nghe thấy Hàn Tiếu hỏi, chỉ lẩm bẩm nói:

- Không thể, không thể là y.

Giờ khắc này, trong mắt Địch Thanh chỉ tràn đầy kinh hãi, khó hiểu, còn mang theo vài phần bàng hoàng…Thậm chí, có chút thương tâm muốn chết!

Hàn Tiếu rất ít khi nhìn thấy Địch Thanh đau khổ như vậy. Y liền nghĩ:

- Trong thư viết cái gì?

Không đợi y định hỏi, chỉ nghe Địch Thanh nói:

- Ta đã hiểu, ta đã hiểu. Hóa ra, hung thủ…thực sự là y!

Hàn Tiếu thấy Địch Thanh nhắc tới hung thủ thì rùng mình, vội vàng hỏi:

- Địch tướng quân! Hung thủ là ai vậy?

Trước đây mỗi khi có tin tức gì Địch Thanh thường bàn bạc với Hàn Tiếu. Những năm gần đây, Hàn Tiếu tuy bề ngoài là thuộc hạ nhưng đã giúp đỡ Địch Thanh rất nhiều, Địch Thanh sớm đã coi Hàn Tiếu như huynh đệ của mình. Có rất nhiều bí mật, thậm chí là rất nhiều chuyện liên quan tới Hương Ba Lạp Địch Thanh đều nói cho Hàn Tiếu biết.

Nhưng lần này Địch Thanh lại có vẻ bí mật. Hắn nghe thấy Hàn Tiếu hỏi vậy nhưng vẻ mặt vẫn lạnh lùng. Đặt bức thư lên bàn xong, Địch Thanh chậm rãi ngồi xuống nói:

- Hàn Tiếu! Ta muốn yên tĩnh một lát, tới khi trời sáng ta sẽ nói cho ngươi biết một số chuyện.

Hàn Tiếu cảm thấy có chút bất an nhưng y vẫn tôn trọng quyết định của Địch Thanh, dẫn thằng bé ăn xin ra ngoài. Hàn Tiếu cẩn trọng hỏi lại thằng bé ăn xin rốt cuộc là ai gửi thư tới. Tuy nhiên thằng bé này cứ lập lờ nói rằng người đưa thư đơn giản chỉ là một người có một cái mũi và hai con mắt, không hề có đặc điểm gì đặc biệt.

Hàn Tiếu không biết thằng bé này ngốc ngếch thật hay là trả vờ. Sau khi để nó đi, Hàn Tiếu lại sai người theo dõi thằng é. Mấy canh giờ sau, thuộc hạ hồi âm nói rằng thằng bé này không hề có điểm khả nghi. Hàn Tiếu hoàn toàn thất vọng, trong lòng y rất muốn biết bức thư trên tay Địch Thanh có nội dung gì.

Nếu như bức thư thật sự cho biết hung thủ là ai vậy thì người đưa thư rõ ràng rất đáng bàn đến. Hàn Tiếu nghĩ nát óc cũng không thể nào hiểu được. Quách Quỳ ban ngày vào cung tới giờ vẫn chưa quay về. Hàn Tiếu thực sự vô cùng lo lắng. Trời tờ mờ sáng, y vội vàng vào gặp Địch Thanh luôn.

Lúc nhìn thấy Địch Thanh, đột nhiên Hàn Tiếu thấy trong lòng chua xót. Mới chỉ có một đêm trôi qua mà y cảm thấy tóc bạc trên thái dương Địch Thanh đã nhiều lên rất nhiều rồi.

Thần sắc Địch Thanh vô cùng tiều tụy. Thấy Hàn Tiếu đi vào, hắn không ngẩng đầu lên mà chỉ nhìn bức thư trên bàn. Cả đêm qua hắn không ngủ.

Hàn Tiếu mang một chút nước với lương khô tới nói:

- Địch tướng quân! Ngài ăn một chút gì đi!

Chỉ có Hàn Tiếu mới nhớ đã hai ngày một đêm Địch Thanh không ăn gì cả.

Địch Thanh ngẩng đầu nhìn Hàn Tiếu, đột nhiên hỏi một câu không đầu không đuôi:

- Nếu như người ngươi tin lừa dối ngươi thì ngươi sẽ làm thế nào?

Hàn Tiếu ngẩn người một lát, nói:

- Ty chức muốn biết hắn cố tình hay vô ý.

Trong lòng y nghĩ: “Lời này của Địch tướng quân rốt cục có ý gì?”

Địch Thanh lẩm bẩm nói:

- Liệu có phải là vô ý không? Nếu như đó là sự thật, e rằng nhiều từ năm trước y đã muốn lừa ta rồi. Nhưng ta không sao hiểu được, tại sao y lại làm như vậy?

Địch Thanh khó nhọc đứng lên, nói:

- Thư ở trên bàn, nếu như ngươi muốn xem thì cứ xem. Nhưng ngươi phải đồng ý với ta một việc…

Ánh mắt đỏ ngầu của Địch Thanh nhìn vào Hàn Tiếu nói:

- Sau khi xem xong bức thư này thì hãy đốt nó đi. Sau này không được đề cập tới chuyện này với bất kỳ ai. Ta đi gặp một người.

Nói xong, Địch Thanh liền bỏ đi.

Hàn Tiếu nhìn bức thư trong lòng vừa lo lắng vừa hiếu kỳ. Cuối cùng y không kìm được, y mở bức thư ra xem. Vừa đọc qua một lượt, thần sắc Hàn Tiếu đã biến đổi.

Địch Thanh đã rời khỏi Quách phủ.

Lúc này mặt trời vẫn chưa lên, màn sương bao phủ trong phủ Khai Phong, chỗ nào chỗ nấy đều mịt mù mông lung.

Địch Thanh thở dài một hơi rồi bước đi. Hắn càng đi càng nhanh, chẳng bao lâu sau đã tới trước phủ đệ của Bát Vương gia.

Đứng trước cửa Vương phủ, thần sắc Địch Thanh hỗn loạn. Hắn chần chừ một lại rồi vẫn quyết định gõ cửa. Lát sau, Triệu quản gia mở cửa, thấy Địch Thanh, ông không nói nhiều mà lánh người sang một bên nhường đường. Triệu quản gia vốn đã có tính trầm mặc từ lâu, Địch Thanh cũng đã quen với việc này rồi, hắn cứ thẳng hướng phòng khách đi tới.

Trời vẫn còn sớm mà Vương gia đã ngồi ở phòng khách uống trà từ bao giờ rồi. Hương trà thơm nức bay khắp gian phòng.

Thấy Địch Thanh tới, Bát vương gia có chút ngạc nhiên. Ông đứng dậy tỏ vẻ lo lắng nói:

- Địch Thanh, ta đang muốn tìm ngươi đây.

Địch Thanh nhìn Bát vương gia một lúc lâu mới nói:

- Thần cũng có chuyện muốn nhờ Bát vương gia giúp đỡ.

Bát vương gia có chút ngạc nhiên, cảm thấy giọng điệu xưng hô của Địch Thanh có vẻ nghiêm trọng. Ông thở dài nói:

- Chuyện này tuy vướng tayướng chân nhưng dù sao thì ta cũng là bá phụ của cháu. Ta sẽ có hết sức để giúp cháu. Điệt nhi…có việc gì cứ nói, chúng ta bàn bạc trước rồi mới ra quyết định.

Địch Thanh đi đến chiếc bàn đối diện rồi ngồi xuống. Bát vương gia nói:

- Uống trà nhé?

Thấy Địch Thanh lắc đầu, Bát vương gia chau mày nói:

- Ta biết hiện giờ ngơi cũng không có tâm trạng để uống trà nhưng mà họa lần này quả thật quá lớn. Ta nghe nói ngươi tự ý tới quậy phá Hạ Quốc sử quán, lại còn công khai chống đối Vương Trung Thừa, đánh Văn Ngạn Bác bị thương nữa.

Địch Thanh nhíu mày nói:

- Cháu đã đả thương Văn Ngạn Bác sao?

Bát vương gia nói:

- Đúng vậy! Ban đầu Văn Ngạn Bác tới khuyên cháu bỏ đao xuống nhưng cháu lại đẩy hắn một cái. Nghe nói vết thương của hắn không nhẹ. Văn Ngạn Bác là Ngự Sử, lần này cháu đã đắc tội với người của Ngự Sử đài rồi…Haizz…nếu như là hôm kia thì còn dễ giải quyết nhưng sau một ngày thì cháu thật sự là không xong rồi.

Địch Thanh lãnh đạm nói:

- Tại sao lại như vậy?

Hình như Địch Thanh không hề để tâm tới chuyện này.

Bát vương gia không hề để ý tới bộ dạng khác thường của Địch Thanh, ông ân cần nói:

- Địch Thanh, có lẽ ngươi không biết, kể từ khi Thánh Thượng ban hành luật mới đã bãi nhiễm chức vị tể tướng của Lữ Di Giản và trọng dụng Phạm Trọng Yêm. Vương Củng Thần vốn là một kẻ tiểu nhân chỉ biết nịnh hót. Y một lòng muốn lấy lòng Phạm Trọng Yêm, y cho rằng Phạm Trọng Yêm sẽ vì tình mà giữ Hạ Tủng lại nên mới gia nhập chỗ Hạ Tủng. Không ngờ ý đồ đó của y bị Gián viện nhìn ra, Âu Dương Tu liền nhân cơ hội đó dâng tấu cho rằng quan viên Ngự Sử đài lãng phí người tài, ám chỉ trực tiếp vào Vương Củng Thần. Âu Dương Tu là người của Phạm Trọng Yêm, y dâng tấu như vậy khiến cả Ngự Sử đài tức giận. Họ cho rằng Phạm Trong Yêm muốn ra tay với Ngự sử đài, nghe nói họ muốn liên thủ để thay đổi Gián viện, phản đối luật mới…

Địch Thanh ngồi nghe với vẻ mặt thản nhiên như là chuyện không liên quan gì tới mình vậy. Trên thực tế, hắn rất ghét việc cạnh tranh đấu đá trên triều đình mà chỉ thích sự đơn giản ở Tây Bắc.

Bát vương gia lại nói:

- Ngươi cũng coi như là người của Phạm Trọng Yêm, Ngự Sử đài biết được nhất thời không thể lật đổ được Phạm Trọng Yêm nên mới cố ý ra tay với ngươi. Nghe nói cả ngày hôm qua đã có ba người của Ngự Sử đài là Vương Củng Thần, Văn Ngạn Bác và Lương Kiên dâng tấu, nội dung các bản tấu đều có liên quan tới ngươi. Đại khái là cản trở buổi nghị hòa, làm loạn Hạ sử quán, ẩu đả với các quan văn. Thậm chí còn có người nói những người dân trong thành tập trung trước Hạ sử quán cũng là do ngươi kích động, cố ý tạo phản. Chuyện này quả thật quá rắc rối!

Bát vương gia liên tục chà xát tay vào nhau, thần sắc vô cùng lo lắng. Nhưng ông đột nhiên phát hiện Địch Thanh lại hoàn toàn bình tĩnh, ông liền hỏi:

- Hiền điệt…sao ngươi không hề lo lắng chút gì vậy?

Địch Thanh nhìn Bát vương gia nói:

- Kể từ khi Thái hậu nắm quyền, Bát Vương gia vì tránh hiềm nghi mà ẩn cư trong phủ không ra ngoài. Sau khi Thiên tử nắm vị, Bát vương gia vẫn luôn như vậy, đúng không?

Bát vương gia nhíu mày, đang trong tình thế cấp bách như hiện giờ sao Địch Thanh còn nhắc tới chuyện này?

Địch Thanh nói:

- Tuy nhiên mặc dù Bát vương gia luôn ẩn cư ở trong phủ nhưng đối với chuyện triều chính có lẽ ngài còn biết nhiều hơn nhiều người khác. Chuyện này quả là rất khó hiểu.

Thần sắc Bát vương gia thay đổi, ông nhấp một ngụm trà rồi nói:

- Bản vương đương nhiên là vì ngươi nên mới đi nghe ngóng những tin tức này.

- Có đúng vậy không?

Ánh mắt Địch Thanh sáng quắc rồi đột nhiên hắn căm phẫn nghiến từng câu chữ:

- Vậy ông giết Dương Niệm Ân cũng là vì ta sao?

“Xoàng” một tiếng, tay Bát vương gia run rẩy, chiếc chén trên tay rơi xuống đất vỡ vụn.

Nước trong chén trà chảy xuống, chảy cả lên quần áo Bát vương gia. Nhưng Bát vương gia không hề để ý tới, ông chỉ ngạc nhiên nhìn Địch Thanh nói:

- Ngươi nói cái gì?

Địch Thanh lạnh lùng nói:

- Ta biết ông đã nghe thấy rất rõ ràng rồi. Ông phái người giết Dương Niệm Ân, sau đó còn dụ Quách Quỳ tới Hạ Quốc sử quán. Ông cũng biết tính ta rồi đó, cũng biết rằng ta nhất định sẽ biết được chuyện này, chắc chắn sẽ đi cứu Quách Quỳ, như vậy buổi nghị hòa Tống-Hạ nhất định sẽ thất bại. Tới bây giờ ông vẫn còn giả nhân giả nghĩa giúp đỡ ta, nhưng ta thực sự rất sợ, không biết ông định giúp đỡ ta thế nào đây?

Bát vương gia lẳng lặng ngồi nghe, rồi ông đột nhiên nói:

- Ngươi nói xong chưa vậy? Ngươi không thấy những gì ngươi nói rất buồn cười sao?

Vẻ mặt Địch Thanh lạnh lẽo, hắn chậm rãi nói:

- Ta chẳng thấy có chút gì đáng buồn cười cả. Ta vẫn luôn cảm thấy kỳ lại là tại sao Phi Ưng lại biết chuyện của Vũ Thường, tại sao ban đầu khi ta quay về kinh thành Vương Tắc lại biết trên người ta có Ngũ long? Lại muốn lục soát hành lý của ta? Tất cả chuyện này đều do ông sai người nói cho bọn họ có đúng không?

Bát vương gia nói:

- Người biết ngươi có Ngũ long không phải chỉ có mình ta.

Địch Thanh hỏi lại:

- Biết ta có Ngũ long có mấy người, nhưng khi ta nói tới Vương Tắc, Phi Ưng ông lại không hề kinh ngạc chút nào. Từ trước tới giờ ta chưa nói về hai người này với ông bao giờ, ông lại từ đâu mà biết được những chuyện này vậy? Có phải là do trước giờ ông vẫn thường xuyên liên lạc với họ không?

Sắc mặt Bát vương gia đột nhiên thay đổi, ánh mắt thâm trầm. Ông không có lời nào để nói.

Địch Thanh nở nụ cười, trong nụ cười tràn đầy nỗi khổ. Hắn lẩm bẩm:

- Lúc ta biết được ông chính là hung thủ ta thực sự rất khó tin vào chuyện này. Nhưng ta đã nghĩ cả một đêm cuối cũng cũng đã nghĩ thông ra rất nhiều việc. Ông thực ra vẫn luôn muốn tìm Hương Ba Lạp, trước khi Vũ Thường bị trọng thương ông đã bắt đầu đi tìm Hương Ba Lạp rồi. Ông không muốn nói cho ta biết về người họ Tào kia là vì ông sợ ta sẽ biết được những chuyện liên quan tới ông từ người họ Tào kia.

Bát vương gia định nhấc chung trà lên thì mới phát hiện chung trà đã bị vỡ. Ông khàn giọng nói:

- Ta thì có chuyện gì sợ ngươi biết chứ?

Ông sợ ta biết dụng ý thực của ông không phải là muốn cứu Vũ Thường mà là hy vọng Hương Ba Lạp giúp ông soán vị. Ông sợ người khác biết trước nay ông vẫn thường xuyên liên lạc với đạo phỉ. Năm đó, thương nhân họ Lịch cùng đi tìm Hương Ba Lạp với người họ Tào cũng chính là Lịch Nam Thiên, đạo tặc ở Lĩnh Nam chẳng phải cũng chính là do ông phái đi sao?

Sắc mặt Bát vương gia biến đổi, cả người ông run rẩy. Những thứ Địch Thanh biết được nhiều hơn so với ông tưởng.

Địch Thanh nói:

- Năm đó Triệu Duẫn Thăng vẫn luôn canh cánh trong lòng chuyện đoạt vị Đông cung thái tử, vì vậy mà câu kết với người Hạ để làm loạn nhưng đã bị Thánh thượng dẹp loạn. Thực ra ông cũng giống ông ta, vẫn luôn ghi hận trong lòng việc không được kế thừa hoàng vị. Tuy nhiên rõ ràng ông hiểm độc hơn ông ta, hành sự cũng bí mật hơn. Ông sợ Thái hậu phát hiện ra dã tâm của mình nên mới ẩn mình trong phủ, đợi khi Thái hậu qua đời ông sẽ nhảy ra chỉ trích Thái hậu, hy vọng tạo được ấn tượng tốt với Thánh thượng, từ đó nắm được quyền hành. Nhưng theo ta được biết, Thánh thượng lại không hề trọng dụng ông, ngược lại người còn xa lánh ông. Ông ôm mối hận trong lòng, bắt đầu câu kết với đám loạn đảng, đi tìm Hương Ba Lạp, hy vọng Hương Ba Lạp sẽ giúp ông đạt được dã tâm xưng đế.

Nói xong, hai tròng mắt Địch Thanh đột nhiên căm phẫn:

- Ông làm những việc này ta không hề trách ông nhưng tại sao ông lại nhất định phải giết Dương Niệm Ân?

Bát vương gia mặt mày tái mét:

- Địch Thanh, ngươi nói xằng nói cuội. Những thứ ngươi nói đều không đúng. Ta không hề giết Dương Niệm Ân. Chuyện ta liên lạc với Phi Ưng là có thật nhưng ta chỉ muốn lợi dụng bọn họ để tìm Hương Ba Lạp tới cứu Vũ Thường mà thôi.

Nói đến đây, nước mắt Bát vương gia rơi xuống, ông đau đớn nói:

- Nhưng ta thực sự không ngờ rằng ngươi lại nghi ngờ ta. Vũ Thường đã tin nhầm ngươi rồi…

Bỗng nhiên Địch Thanh đứng lên, hắn tức giận đập bàn nói:

- Ông nói bậy! Tới bây giờ mà ông vẫn muốn lừa ta sao? Ông giết Dương Niệm Ân, Tiểu Nguyệt vì ông nhận thấy họ đã biết bí mật của ông. Ban đầu Tiểu Nguyệt tới tìm ta, nói cái gì mà “không xong rồi, ta nhất định phải nói với Địch Thanh, ba….!” Ta vẫn luôn nghĩ rằng cô ấy muốn ta làm chuyện gì đó nhưng thứ cô ấy muốn nói không phải là ba, mà là bát, chính là bát trong Bát vương gia ông. Những gì cô ấy muốn nói có liên quan tới ông, có liên quan tới bí mật của ông.

Bát vương gia chấn động:

- Ta có bí mật gì?

Hai tròng mắt Địch Thanh như phát hỏa, hắn nắm chặt tay nắm tay nói:

- Bởi vì Dương Niệm Ân biết ông không phải là phụ thân của Vũ Thường.

Lời vừa nói ra, không khí trong phong khách như đóng băng lại. Địch Thanh trong cơn phẫn nộ xen lẫn với nỗi xót xa khi bị người khác lừa dối…Thì ra…trước giờ hắn vẫn chưa giúp được Vũ Thường tìm cha ruột của mình. Lúc đọc thư biết được tin này, hắn chỉ cảm thấy thật có lỗi với Vũ Thường.

Sắc mặt Bát vương gia xám lại, mồ hôi trên trán túa ra, chảy xuống qua mũi, chảy tới óe miệng, chua chua mặn mặn.

Lát sau, Bát vương gia mới nói:

- Ngươi….Ngươi nói cái gì?

Cổ họng ông ứ lại, tiếng nói như tiếng khóc:

- Không thể nào, không thể nào!

Ông cũng không biết đang nói những điều Địch Thanh nói là không thể hay nói không thể nào có người biết được bí mật này.

Bỗng nhiên ông đứng lên, vội vàng nói:

- Địch Thanh, nếu ta không phải phụ thân của Vũ Thường, sao ta dám vì chuyện này mà trở mặt với Thái hậu trước Hoàng Nghi môn. Nếu ta không phải là phụ thân của Vũ Thường, tại sao ta phải bôn ba như vậy chứ?

Địch Thanh cười lạnh nói:

- Ông vốn cùng Triệu Duẫn Thăng cùng nhau âm mưu phản loạn. Thực ra từ trước tới giờ ông vẫn cùng lúc lấy lòng cả hai bên. Biến sự ở Hoàng Nghi môn, nếu như Triệu Duẫn Thăng mưu sự thành công thì ông sẽ có công đầu. Nhưng lúc đó ông thấy Triệu Duẫn Thăng khởi sự thất bại, vì nóng lòng thoát tội nên mới dùng thân phận của Vũ Thường ra để che giấu tội tình của mình, giả bộ tình thế ép buộc. Triệu Nguyên Nghiễm, tới giờ ông còn gì để nói nữa?

Bat vương gia ngã lui về sau một bước, ông lắc lắc đầu:

- Không thể nào, không thê nào…ngươi không thể nào biết được chuyện này.

Địch Thanh lạnh lùng nói:

- Tiểu Nguyệt yêu ai thì yêu hết lòng, sau khi biết được ông không phải là cha ruột của Vũ Thường, sợ ông làm khó cho ta nên mới tới tìm ta để nói cho ta chân tướng sự việc. Không ngờ lại bị ông phát hiện, ông liền phái người giết Tiểu Nguyệt và ba mươi mạng người nhà họ Dương. Sau đó chĩa mũi nhọn về Hạ sứ giả. Triệu Nguyên Nghiễm, ông lừa ta ta còn có thể tha thứ nhưng ông phái người giết Tiểu Nguyệt và bao nhiêu người nhà họ Dương như vậy, sao ta có thể tha thứ cho ông đây?

Bát vương gia hồn bay phách lạc tựa hồ như không nghe thấy Địch Thanh nói gì vậy. Trong mắt ông lộ ra vẻ sợ hãi, giọng nói run rẩy:

- Địch Thanh, sao ngươi lại biết được những chuyện này, là ai nói cho ngươi biết những chuyện này?

Trong lòng Địch Thanh kỳ thực cũng rất muốn biết rốt cuộc là ai đã viết lá thư đó.

Nội dung lá thư đơn giản rõ ràng, chỉ viết: “Triệu Nguyên Nghiễm âm mưu tạo phản, chính thực là hung thủ giết Dương Niệm Ân, hắn không phải là phụ thân Dương Vũ Thường.

Chỉ mấy câu đơn giản nhưng lại như sấm sét giáng xuống trước mắt Địch Thanh vậy.

Ban đầu khi Địch Thanh mới xem nội dung bức thư hắn còn bán tin bán nghi nhưng ba câu này lại giúp hắn suy ra rất nhiều kết luận rất thuận tình thuận lý.

Nếu không phải là bức thư này nhắc nhở thì e rằng cả đời này Địch Thanh cũng không ngờ được rằng chính Triệu Nguyên Nghiễm đã hạ thủ. Tuy nhiên hắn cũng không dám dễ dàng tin vào đáp án này, lần này hắn tới Vương phủ chính là vì muốn kiểm chứng suy luận của mình.

Hiện giờ sự thật đã rất rõ ràng, những điều hắn nói đều đúng sự thật. Mặc dù hắn đoán đúng sự thật, phát hiện ra chân tướng nhưng trong lòng hắn lại không cảm thấy có chút vui sướng nào.

Lá thư này rốt cuộc là do ai viết, người này gửi cho Địch Thanh là có dụng ý gì?

Nghĩ tới đây, Địch Thanh chỉ nói:

- Ai nói cho ta điều này không quan trọng nhưng ông chỉ cần biết lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt. Triệu Nguyên Nghiễm, trước mắt có hai con đường cho ông lựa chọn. Một là ông giao hung thủ ra đây. Vừa rồi ở trên bàn có một vòng tròn nước, là vết tích của đáy chung trà lưu lại. Mặc dù ông đã cất chung trà đi nhưng lại quên mất không lau vết nước trên bàn. Ta biết người hiện giờ vẫn đang liên lạc với ông chính là Lịch Nam Thiên.

Bát vương gia giờ này mới hiểu ra tại sao vừa rồi Địch Thanh cứ chăm chú nhìn lên mặt bàn. Cả người ông run lên, ông lẩm bẩm nói:

- Lựa chọn thứ hai là ngươi sẽ đi tố cáo lên Thánh thượng chân tướng, ngươi cho rằng người sẽ tin sao?

Địch Thanh hừ lạnh một tiếng:

- Cho dù Thánh thượng không tin ta nhưng nếu ta nói hết với Thánh thượng những chuyện này thì liệu ông có còn dám ở lại Kinh thành không?

Bát vương gia chậm rãi ngồi xuống ghế, ông ngơ ngẩn một lát rồi đột nhiên nở một nụ cười. Ông ngẩng đầu cười ha hả, tiếng cười tràn đầy sự quỷ dị điên cuồng.

Địch Thanh nhìn chằm chằm vào nhất cử nhất động của Bát vương gia. Mặc dù không sợ Bát vương gia phản khánh nhưng thấy ông ta cười như vậy hắn cũng không khỏi hoảng sợ:

- Ông cười cái gì?

Bát vương gia vẫn tiếp tục cười, mãi lâu sau ông mới ngưng lại, nói:

- Ta hiểu rồi! Cuối cùng thì ta cũng hiểu rồi!

Ngược lại Địch Thanh lại không hiểu ông ta đang nói gì, hắn hoang mang nói:

- Ông hiểu ra cái gì?

Bát vương gia nhìn Địch Thanh một lát mới nói:

- Địch Thanh, dù thế nào thì năm đó ta cũng đã đứng ra làm chứng cho ngươi. Bất luận thế nào thì ta cũng đã vì ngươi giữ cho Vũ Thường một mạng sống.

Địch Thanh nhớ lại chuyện cũ, bùi ngùi nói:

- Nhưng những việc này không phải là cớ để ông giết người. Có những chuyện làm sai rồi thì ân tình cũng không thể bù đắp được.

Bát vương gia càng thêm lãnh tĩnh, ông mỉm cười nói:

- Ta thật không ngờ ngươi lại không đếm xỉa tới chuyện này như vậy, nhưng nếu ngươi niệm tình ta đã từng vì Vũ Thường mà bỏ công bỏ sức thì hãy cho ta một ngày để suy nghĩ. Một ngày sau ta sẽ có câu trả lời cho ngươi.

Ông kiệt sức ngồi xuống, vẻ mặt vô cùng nghiêm túc giống như đang đưa ra quyết định gì vậy.

Địch Thanh nhìn Bát vương gia hồi lâu rồi gật đầu nói:

- Được! Vậy ta sẽ chờ ông!

Nói xong hắn xoay người rời đi. Hắn không sợ Bát vương gia sẽ chơi mình. Hắn biết Bát vương gia đã không còn lựa chọn nào khác nữa rồi.

Cuối cùng hắn cũng không nổi nóng.

Bát vương gia tuy đã lừa hắn rất nhiều chuyện nhưng dù sao thì Bát vương gia cũng từng làm một chuyện khiến hắn vô cùng cảm kích, khiến cho Địch Thanh không thể đuổi cùng giết tận được.

Vừa mới quay trở lại Quách phủ, Hàn Tiếu đã chạy ra đón, y thấp giọng nói:

- Địch tướng quân, Diêm Sĩ Lương đang chờ ngài. Thánh thượng muốn triệu ngài vào cung.

Địch Thanh không hề cảm thấy lạ, hắn đi thẳng vào trong gặp Diêm Sĩ Lương. Diêm Sĩ Lương nhìn thấy k Địch Thanh, trên mặt cũng không chút biểu cảm, y chỉ nói:

- Địch Thanh, Hữu ngự sử đài dâng tấu về ngươi, Thánh thượng triệu ngươi vào cung hỏi cho rõ ràng.

Địch Thanh đã sớm đoán được ngày này, hắn vội vàng cùng Diêm Sĩ Lương vào trong cung đi thẳng tới điện Văn Đức. Địch Thanh đi tới trước điện, đột nhiên thoáng chút giật mình. Trong điện mặc dù không có nhiều quan lại nhưng cũng có không ít các trọng thần. 

Quần thần chia làm hai phái. Đám người Phạm Trọng Yêm, Âu Dương Tu mặt mày nghiêm nghị, nhăn nhó. Còn đám người Vương Ủng Thần, Văn Ngạn Bác đứng đối diện với Phạm Trọng Yêm. Vương Củng Thần đang tấu gì đó.

Địch Thanh chỉ nghe thấy Vương Củng Thần nói:

- Bốn người Trương Kháng, Đằng Tử Kinh, Chủng Thế Hành, Địch Thanh thân đảm nhiệm chức vị quan trọng ở Tây Bắc, biết luật mà vẫn phạm luật, ảnh hưởng nghiêm trọng tới triều đình. Nếu như không nghiêm khắc trừng trị, để những tướng lĩnh khác ở biên thùy bắt chước thì hậu quả thật khó lường.

Địch Thanh nhíu mày, hắn ý thức được chuyện Vương Củng Thần đang nói tới chính là chuyện công quỹ. Chuyện này hắn đã nghe Bát vương gia nói qua rồi nhưng hắn không ngờ rằng lại có nhiều người dính dáng tới chuyện này như vậy.

Đằng Tử Kinh trước kia từng là Phó An Phủ sứ của Kính Nguyên Lộ, còn Trương Kháng vốn là Bộ Thự của bộ Kính Nguyên Lộ. Khi còn ở Tây Bắc, quan chức của hai người này đều cao hơn Địch Thanh. Tuy nhiên hai người này đều là quan văn, không hiểu chuyện dùng binh nên đã giao hết quyền điều binh lại cho Địch Thanh. Hai người cố gắng hết sức hỗ trợ Địch Thanh hành sự. Về việc điều động công quỹ cũng ưu tiên duy trì dùng vào việc binh, điều này khó có thể tra xét rõ ràng. Không ngờ chuyện này lại bị vin làm cớ để buộc tội.

Địch Thanh chậm rãi bước vào trong điện. Thấy trên mặt Phạm Trọng Yêm lộ vẻ giận dữ, trong lòng hắn thầm nghĩ tất cả mọi chuyện từ Địch Thanh ta mà ra, vậy chi bằng hãy để Địch Thanh ta kết thúc mọi chuyện. Hắn vừa định mở miệng thì Âu Dương Tu nói:

- Vương triều ta từ khi dùng binh ở Tây Bắc đến nay, tướng sĩ biên thùy không thể đếm hết. Nhưng người tài thực sự chỉ có hai người là Địch Thanh và Chủng Thế Hành. Địch Thanh trung dũng vô song, thiên hạ đều thấy, y chỉ một lòng tác chiến, cho dù có lạm dụng công quỹ nhưng tuyệt đối không hề có ý đồ khác. Thần cho rằng, không thể dùng ánh mắt bình thường để nhìn những người phi thường được. Mong Thánh thượng minh xét. Chớ để chuyện này dây dưa quá nhiều, khiến cho các chiến sĩ biên thùy bất an.

Địch Thanh thật không ngờ Âu Dương Tu không hề có liên quan gì tới hắn vậy mà lại nói giúp hắn. Hắn không khỏi cảm kích trong lòng.

Thì ra trước khi Địch Thanh tới, mọi người đã cãi cọ, tranh luận từ lâu rồi.

Mặc dù Vương Củng Thần phụ trách duy trì trật tự, túc chính kỷ cương ở Ngự Sử đài nhưng lòng dạ y hẹp hòi, có thể nói là tính toán chi li. Y dâng tấu tố cáo Hạ Tủng vốn là muốn lấy công, cho rằng Phạm Trọng Yêm sẽ vì vậy mà tín nhiệm y hơn. Không ngờ Âu Dương Tu lại dâng tấu lên nói Ngự sử đài lãng phí người tài. Chuyện này đã chọc giận tới Vương Củng Thần, đúng lúc Trịnh Tiển điều tra ở Tây Bắc trở về, phần lớn công quỹ ở Kính Đường Lộ không được ghi chép, khó có thể điều tra rõ ràng. Vương Củng Thần nhân cơ hội này gây khó dễ, trong lòng y thầm nghĩ Phạm Trọng Yêm ngươi muốn công kích Ngự sử đài của ta, ta sẽ giải quyết hết thân tín của ngươi.

Địch Thanh và Phạm Trọng Yêm ở Tây Bắc phối hợp rất ăn ý. Chủng Thế Hàn là tâm phúc của Phạm Trọng Yêm, Đằng Tử Kinh là bạn cũ của Phạm Trọng Yêm, còn Trương Kháng và Phạm Trọng Yêm lại có kết giao thân mật. Vương Củng Thần làm khó như vậy chính là muốn một lưới bắt gọn toàn bộ thân tín của Phạm Trọn Yêm ở Tây Bắc.

Vừa rồi Phạm Trọng Yêm ra sức bảo vệ Đằng Tử Kinh, kết quả là Vương Củng Thần lấy việc từ chức ra uy hiếp khiến Triệu Trinh vô cùng tức giận. Âu Dương Tu biết chuyện này do y mà ra, trong lòng thầm nghĩ Địch Thanh tai bay vạ gió, thực sự oan uổng. Thấy Hoàng Thượng có ác cảm với Đằng Tử Kinh, y nghĩ thầm có thể bảo vệ người nào hay người đó nên mới giúp Địch Thanh nói tốt vài câu.

Văn Ngạn Bác nói:

- Người phi thường lại càng cần phải tuân theo pháp luật, làm gương cho thiên hạ. Nếu như ai cũng làm như vậy, cho rằng có thể miễn tội, thử hỏi pháp luật kỷ cương ở đâu?

Y vẫn canh cánh trong lòng cái đẩy đó của Địch Thanh. Quan văn Đại Tống cao cao tại thượng vậy mà lại bị một võ quan nghiễm nhiên đánh mình, quả thực là nỗi nhục lớn trong đời.

Phạm Trọng Yêm nhíu mày lại, trong lòng thầm nghĩ những người này hoàn toàn vì muốn gây sự nên mới công kích, rõ ràng là không thể nói lý được với bọn họ. Triệu Trinh bất mãn với Đằng Tử Kinh thì Phạm Trọng Yêm còn có thể hiểu được. Năm đó Triệu Trinh mới nắm quyền, thoát ly khỏi sự ràng buộc của Thái hậu, y chỉ ham mê sắc giới không hề để ý tới chuyện triều chính. Còn Đằng Tử dâng tấu thẳng thừng lên lớp Triệu Trinh “Nhật cư thâm cung, lưu luyến hoang yến”. (Ý nói chỉ suốt ngày ở trong cung ham mê tửu sắc, ăn chơi xa xỉ). Nếu nói Triệu Trinh không khắc cốt ghi tâm chuyện này thì đó là giả. Vừa rồi ông ra sức bảo vệ Đằng Tử đã khiến cho Triệu Trinh bất mãn rồi. Chuyện này khiến cho Triệu Trinh bắt đầu dùng ánh mắt thù địch để nhìn nhận vấn đề, e rằng chuyện này càng cãi càng khó khăn hơn…

Tuy biết rằng những gì mình nói đối với Triệu Trinh đã dần không còn giá trị nữa nhưng Phạm Trọng Yêm vẫn không muốn để Địch Thanh chịu oan uổng. Ông vừa định bước lên phân trần thì Triệu Trinh đã chuyển sang hỏi Địch Thanh:

- Địch Thanh, bọn họ nói ngươi tham ô công quỹ, ngươi có lời nào để thanh minh không?

Quần thần ngẩn ra, không ngờ Triệu Trinh lại hỏi như vậy. Hiện giờ Địch Thanh đang bị hiềm nghi, đám người Phạm Trọng Yêm càng muốn bảo vệ Địch Thanh bao nhiêu thì đám người Vương Củng Thần lại càng muốn kéo hắn xuống bấy nhiêu. Hiện giờ Trương Kháng và Đằng Tử đã chết chắc tới tám phần rồi, đám người Văn Ngạn Bác đang định bắt đầu bàn tới tội trạng của Địch Thanh vậy mà tại sao Triệu Trinh tự nhiên lại hỏi Địch Thanh như vậy?

Dưới con mắt của đám người Vương Củng Thần, Địch Thanh không tới lượt được nói chuyện ở đây.

Ánh mắt Địch Thanh chậm rãi lướt qua đám Phạm Trọng Yêm, thứ mà hắn nhìn thấy toàn là sự căm hận sục sôi. Hắn thầm nghĩ không ngờ một người bình thường như Phạm công, khi tranh luận cũng ác liệt tới vậy. Phạm công không hề thay đổi, Phạm Trọng Yêm trầm lặng năm đó không hề thay đổi.

Nhưng Địch Thanh đã thay đổi rồi, trái tim Địch Thanh đã chán nản rồi.

Ánh mắt hắn lại nhìn về phía Vương Củng Thần cùng đám quan Ngự Sử đài, hắn chỉ thấy sự căm hận và khinh bỉ hiện lên trên mặt họ. Địch Thanh thầm nghĩ: “ Lẽ nào Địch Thanh ta chinh chiến nhiều năm như vậy mà lại khiến bọn họ chán ghét như vậy sao?”

Địch Thanh tiến lên một bước, hắn quỳ gối lạnh lùng nói:

- Hoàng thượng! Thần có tội hay vô tội, thần không muốn tự biện, tội tham ô công tiễn chi bằng cứ tính lên đầu thần. Nếu thiên hạ đã không còn chiến trận nữa…vậy thần xin cáo lão hồi hương!

Lời Địch Thanh vừa nói ra, mọi người ai nấy đều vô cùng kinh ngạc. Đám người Vương Củng Thần, Văn Ngạn Bác cũng ngơ ngác nhìn nhau, không ngờ Địch Thanh lại từ quan như vậy.

Vương Củng Thần biết rằng cho dù tội danh của Địch Thanh là có thực thì cũng chỉ giáng chức hắn, cắt giảm bổng lộc, không trọng dụng nữa là cùng. Thời thế thay đổi, chỉ cần có thể ở triều đình, áp chế được Phạm Trọng Yêm là mục tiêu của Vương Củng Thần đã thực hiện được rồi. Nhưng Địch Thanh cũng thật là, lại xin cáo lão về quê, mong muốn xử trí Địch Thanh của Vương Củng Thần đã đạt được, y chỉ thấy chuyện này quá thuận lợi, nhất thời không biết nói thế nào.

Triệu Trinh cũng có chút kinh ngạc. Trong lúc chần chừ thì có người tới bẩm báo:

- Thánh thượng, Ngự Sử Bao Chửng cầu kiến.

Khi Bao Chửng vào tới trong điện, các quần thần mỗi người lại có một suy nghĩ.

Âu Dương Tu xưa nay không hề liên can gì tới Bao Chửng, nhưng Bao Chửng cũng là người của Ngự Sử Đài, xem ra trận tranh cãi này ngày càng gian nan rồi.

Vương Củng Thần lại nghĩ các quan viên trong Ngự Sử Đài phần lớn đều nghe theo lời của y, chỉ có Bao Chửng là khác biệt. Mấy ngày trước Bao Chửng được Hoàng thượng bí mật phái tới vùng Tây Bắc, liệu có phải cũng là vì để điều tra chuyện ở Tây Bắc không? Cho dù là Bao Chửng thì cũng có cách nào làm rõ chuyện sổ sách mờ ám ở Tây Bắc được chứ?

Triệu Trinh thấy quần thần im ắng lại, y bèn nói:

- Bao khanh gia, Trẫm phái ngươi tới điều tra chuyện ở Tây Bắc, đã có kết luận chưa?

Dáng vẻ Bao Chửng mệt mỏi, có vẻ như y vừa hồi kinh là vào cung diện kiến ngay vậy. Y nói thẳng vào vấn đề:

- Hoàng thượng, sau khi thần tới Tây Bắc đã điều tra kĩ càng tình hình công quỹ ở Kính Nguyên, Phu Diên Lộ. Thần phát hiện có khoảng 5 triệu tiền công quỹ không ghi chép rõ ràng.

Đám quan của Ngự Sử Đài ngạc nhiên, không ngờ triều đình lại phát Trịnh Tiển đi điều tra, thậm chí lại còn để Bao Chửng phụ trách việc này nữa. Xưa nay mọi người đều nói Bao Chửng thiết diện vô tư, lần này xem ra đám người Địch Thanh, Chủng Thế Hành không có cơ hội xoay mình rồi.

Triệu Trinh nhíu mày, chậm rãi nói:

- Vậy số tiền đó do ai quản lí?

Bao Chửng nói:

- Do ba người Chủng Thế Hành, Đằng Tử Kinh và Trương Kháng quản lí.

- Nói như vậy, toàn bộ mọi việc Địch Thanh đều không biết sao?

Triệu Trinh nói.

Đám quan thần đều có kinh nghiệm quan trường, nghe Hoàng thượng hỏi vậy thì ai nấy đều cho rằng Triệu Trinh không muốn xử phạt Địch Thanh. Ý của câu hỏi của Triệu Trinh là muốn Địch Thanh không dính dáng gì tới chuyện công quỹ mà Bao Chửng điều tra.

Bao Chửng nói:

- Hoàng thượng, thần khôn dám khẳng định Địch Thanh có biết chuyện này hay không, nhưng thần biết rằng một phần của số tiền công quỹ này được Địch Thanh dùng.

Địch Thanh cũng không tỏ vẻ kinh ngạc, thậm chí một chút sự phẫn nộ cũng không có. Bởi vì hắn biết, những gì mà Bao Chửng đang nói đều là sự thật.

Triệu Trinh chau mày lại, y biết Bao Chửng và Địch Thanh vốn là bằng hữu, ban đầu khi Triệu Trinh cho Địch Thanh tiến cử nhân tài, Địch Thanh đã tiến cử Bao Chửng. Triệu Trinh sai Bao Chửng âm thầm điều tra chuyện ở Tây Bắc vốn hy vọng Bao Chửng sẽ nói đỡ giúp Địch Thanh. Không ngờ cái tên mặt đen này lại không niệm tình ai cả.

Triệu Trinh trầm ngâm một lát, y định sẽ xử lí chuyện tiền công quỹ này sau, y không muốn cho Địch Thanh cáo lão về quê.

Bao Chửng đột nhiên nói:

- Hoàng thượng, nhưng trước khi thần nói tới chuyện tiền công quỹ, thần muốn mời Hoàng thượng xem thứ này trước.

Y lấy ra một vật gì đó rồi hai tay dâng cho Hoàng thượng.

Mọi người đều chăm chú nhìn vào vật đó, chẳng qua chỉ là một đôi giày trẻ con làm bằng rơm rách nát, ai nấy đều cảm thấy có chút nghi hoặc. Trong lòng họ nghĩ Bao Chửng lôi đôi giày này ra làm gì?

Triệu Trinh cũng hoang mang hỏi:

- Bao khanh gia, đây chỉ là một đôi giày rơm, có gì đáng xem chứ?

Bao Chửng nhìn đôi giày rơm trên tay mình, vẻ mặt nghiêm nghị nói:

- Không sai! Dưới con mắt của quan viên trong triều thì đây quả thật chỉ là một đôi giày rách mướp, thậm chí còn chẳng buồn liếc mắt nhìn nữa. Nhưng trong con mắt của Bao Chửng, đôi giày rơm này lại biết nói.

Vừa rồi quần thần trong triều còn đang bàn tán, cãi cọ khiến Triệu Trinh nổi giận. Hiện giờ nghe Bao Chửng nói vậy đột nhiên y lại thấy có chút hứng thú, y liền hỏi:

- Giày rơm thì sao biết nói chứ?

Lời vừa nói xong y liền mỉm cười, cảm giác rất thú vị.

Bao Chửng nói:

- Lúc đầu khi thần mới tới Tây Bắc, do không chịu được thời tiết giá lạnh ở đó mà đã nhiễm phong hàn, bệnh ở ven đường. May có một người hảo tâm nhìn thấy đã đưa về nhà chăm sóc.

Mọi người đều biết rằng Bao Chửng không bao giờ nói những lời vô ích, cũng không phải là người thích khoe công lao. Do vậy ai nấy đều có chút khó hiểu tại sao Bao Chửng lại nói những chuyện lặt vặt này….

Bao Chửng lại nói:

- Thần tới nhà của người đó thì phát hiện nhà người này tuy không thể nói rằng chỉ có bốn vách tường nhưng cũng vô cùng nghèo đói. Trong nhà có hai đứa nhỏ, một đứa mười tuổi còn một đứa nhỏ hơn một chút. Hai đứa nhỏ này cũng chẳng có gì đặc biệt, chỉ là chúng rất gầy gò. Người cứu thần là một người phụ nữ, khuôn mặt có chút già nua nhưng sau đó thần mới biết người phụ nữ này chỉ mới hơn bốn mươi tuổi.

Vương Củng Thần rốt cuộc kiềm chế không được, nói:

- Bao Ngự Sử, Hoàng thượng sai ngài đi điều tra chuyện công quỹ ở Tây Bắc, ngài nói những chuyện này làm gì?

Triệu Trinh lại nghĩ Bao Chửng mở lời rất hay, y ôn hòa nói:

- Cứ nói tiếp đi!

Thiên tử lên tiếng rồi, Vương Củng Thần ngượng ngùng không dám chặn họng Bao Chửng nữa. Bao Chửng nói tiếp:

- Người phụ nữ đó đã mời đại phu cho thần, lại nấu cháo cho thần ăn nữa. Lúc đó thần chẳng có suy nghĩ gì cả nhưng khi thần gần khỏi, thần mới ra ngoài cửa thì nghe thấy thằng nhỏ nói: “Nhị ca, đệ đói!”, lại nghe thấy thằng lớn nói : “Sao đệ lại nhanh đói như vậy? Suốt ngày thấy đệ đòi ăn. À, huynh còn có chút đồ ăn đây, đệ ăn trước đi.” Thần đứng sau cửa nhìn thấy thằng lớn lôi ra nửa chiếc bánh ngô đen đen đưa cho thằng nhỏ. Thằng nhỏ vội cầm lấy bánh ăn như chết đói còn thằng lớn chỉ đứng đó nuốt nước bọt nhìn. Thằng nhỏ ậm ừ hỏi: “Nhị ca, huynh không ăn chút nào sao?” Thằng lớn ưỡn ngực nói : “Ta ăn no rồi”.

Những thứ lặt vặt mà Bao Chửng nói, Triệu Trinh nghe thấy mà cũng bùi ngùi, y than thở:

- Cái bánh đó chắc chắn là do thằng lớn để dành lại, do nó thương em trai quá nên mới cho em ăn. Nhưng mà người phụ nữ kia thà để hai đứa con chịu khổ cũng vẫn nấu cháo mạch cho ngươi ăn, quả thật là khiến người ta cảm động!

Bao Chửng gật đầu nói:

- Hoàng thượng nói rất đúng, người phụ nữ đó cũng thật là phúc hậu. Thần âm thầm quan sát thấy chiếc bàn mà họ ăn cơm cũng rất tàn tạ, một chiếc chân đã bị gãy và dùng đá chèn tạm vào. Đến khi trời tối, người phụ nữ kia còn mang cho thần hai chiếc bánh ăn. Thần thấy hai thằng nhỏ đứng bên cạnh nuốt nước miếng thì hỏi: “Cháu đã ăn chưa?” Thằng nhỏ nhìn mẹ nó một cái rồi nuốt nước bọt nói: “Cháu ăn no rồi ạ!”

Mắt Triệu Trinh đã đẫm nước, nghĩ tới lòng dân chân thật giản dị, người dân ở Tây Bắc phải sống khổ sở như vậy chả trách trong lòng y thấy bất an. Y vẫn luôn cố gắng làm một vị hoàng đế tốt, nghe thấy ở Tây Bắc còn có những chuyện như vậy thì trong lòng không khỏi cảm thấy hổ thẹn, y hỏi:

- Bao ái khanh, người phụ nữ đó sao lại trung hậu tới như vậy, không biết ngươi có còn nhớ họ tên người này không, trẫm sẽ lập tức ra lệnh cho quan phủ địa phương thưởng cho họ.

 Chương 387 - 391: Khí khái

Bao Chửng trầm mặc một lát mới nói:

- Người phụ nữ đó chính là vợ của Chủng Thế Hành, còn hai đứa nhỏ đó chính là con trai của Chủng Thế Hà, thằng lớn tên Chủng Ngạc, thằng nhỏ là Chủng Chẩn.

Cả cung điện đột nhiên tĩnh lặng. Ngay cả đám người Vương Củng Thần, Văn Ngạn Bác cũng mặt mày biến sắc.

Bọn họ vừa lật đổ được Trương Kháng, Đằng Tử Kinh, lại muốn ép Địch Thanh cáo lão về quê. Còn đang chuẩn bị ra tay với Chủng Thế Hành, một lưới toàn thắng thì đột nhiên lại nghe được tin Chủng gia nghèo khó nhưng vậy, trong lòng cũng không khỏi có chút xúc động.

Triệu Trinh im lặng một lát rồi hỏi:

- Sau đó thì sao?

Bao Chửng nói:

- Đêm đó thần ra ngoài sân thì thấy Chủng Ngạc và Chủng Chẩn đang ngồi ở đó. Thần định nhân lúc người phụ nữ kia không chú ý cho Chủng Ngạc năm lượng bạn. Thần nhận ân huệ của người ta nên rất muốn báo đáp, nhưng không ngờ người phụ nữ kia nhất quyết không chịu nhận mà chỉ nói rằng người khác gặp nạn ra tay cứu giúp là chuyện đương nhiên, không cần báo đáp. Thần không còn cách nào khác đành bảo bọn trẻ nhận lấy số bạc đó. Không ngờ Chủng Ngạc đĩnh đạc nói một câu khiến thần không thể nào quên.

Triệu Trinh hỏi:

- Nó nói gì vậy?

Từ lúc vào trong cung điện, Bao Chửng luôn làm như không nhìn thấy Địch Thanh vậy, mãi tới bây giờ y mới nhìn sang phía Địch Thanh, hùng hồn nói:

- Chủng Ngạc nói với thần rằng, Địch Thanh vì bách tính Tây Bắc mà vào sinh ra tử, cứu người vô số nhưng từ trước tới giờ chưa bao giờ cần báo đáp, chúng cháu chỉ làm được chút chuyện nhỏ thế này nào dám mong người báo đáp?

Lời vừa nói ra, xung quanh lặng lẽ như tờ.

Đám người Vương Củng Thần vốn chỉ chăm chăm gây sự, nhưng giờ nghe thấy như vậy, nhìn sang Địch Thanh cũng cảm thấy có chút không tự nhiên. Vẻ mặt đám người Âu Dương Tu có thần sắc hẳn lên. Phạm Trọng Yêm lại vừa kiêu ngạo vừa thương tâm.

Chỉ có Địch Thanh là vẫn đờ đẫn đứng ở đó giống như là không nghe thấy gì vậy. Nhưng không biết là vì sao mà khóe mắt lại ướt ướt. Địch Thanh không phụ bách tính Tây Bắc, thì ra bách tính ở Tây Bắc xưa nay vẫn không hề quên hắn.

Mãi lâu sau, Bao Chửng mới nói tiếp:

- Thần nghe Chủng Ngạc nói như vậy cảm thấy vô cùng xấu hổ đành lấy lại số bạc đó. Thần hỏi Chủng Ngạc nó và đệ đệ ngồi ở đó làm gì thì nó nói rằng nó và đệ đệ đang đợi sao băng.

Triệu Trinh liếc mắt nhìn Địch Thanh hiếu kỳ nói:

- Nó đợi sao băng để làm gì?

Bao Chửng nói:

- Có truyền thuyết nói rằng nếu như nhìn thấy sao băng mà kịp thời ước nguyện thì ước nguyện sẽ trở thành hiện thực.

Triệu Trinh ở trong cung đã lâu, đây là lần đầu tiên y nghe thấy truyền thuyết như vậy, y chợt nói:

- Chủng Ngạc đợi sao băng để ước nguyện sao? Nó muốn ước cái gì?

Bao Chửng nói:

- Đếm đó nó không đợi được sao băng nhưng nó đã nói ước nguyện của nó cho thần nghe.

Ngừng một lát, Bao Chửng chậm rãi nói:

- Nó muốn ước cho mình nhanh chóng trưởng thành, giống như Địch tướng quân, chống lại người Hồ, bảo vệ đất nước.

Triệu Trinh liếc nhìn Địch Thanh một cái, lần này y không hỏi thêm điều gì cả. Các thần tử trên điện tuy nhiều nhưng không ai có thể chấp nhận được chuyện này.

Trầm mặc một lát, Bao Chửng nói:

- Thật ra không chỉ có Chủng Ngạc có ước nguyện, Chủng Chẩn cũng có nguyện vọng của mình.

Triệu Trinh nói:

- Ước nguyện của Chủng Chẩn có liên quan gì tới Địch Thanh sao?

Thật ra Triệu Trinh cũng chẳng có ấn tượng gì với Chủng Thế Hành, nhưng chỉ vừa nghe chuyện của Chủng Ngạc, Chủng Chẩn thì ấn tượng của Hoàng thượng đối với Chủng Thế Hành lại hoàn toàn thay đổi. Y cũng hiểu được ý của Bao Chửng, gia đình Chủng Thế Hành nghèo khó như vậy, cho dù có lạm dụng chút công quỹ thì cũng là có lý của y.

Bao Chửng lắc đầu, y một lần nữa giơ đôi giày rơm ra nói:

- Nguyện vọng của Chủng Chẩn có liên quan tới đôi giày rơm này. Nó nói chân của nó dài rất nhanh, đôi giày vải năm ngoái giờ đã không đeo vừa rồi, giờ nó chỉ có thể đeo giày rơm, hơn nữa lại còn là một đôi giày rơm rách mướp. Nếu như nó có thể nhìn thấy sao băng nó sẽ xin ông trời cho nó một đôi giày rơm mới. Nếu như trước năm mới mà có được một đôi giày vải mới thì quả thật là quá vui mừng rồi.

Giọng Bao Chủng nói rất bình thản nhưng quần thần trong triều nghe thấy trong lòng không khỏi cảm thấy chua xót.

Những quan viên trong triều này phần lớn đều là hạng người có cuộc sống xa hoa, cả ngày chỉ biết tới ngắm hoa ngâm từ, xuân nhã thu sầu, họ nào có bao giờ nghĩ tới Chủng Chẩn thân là con của Chủng Thế Hành mà ngay cả đôi giày vải cũng là một điều xa xỉ.

Phạm Trọng Yêm thầm thở dài, trong lòng nghĩ mỗi lần nhìn thấy Chủng Thế Hành thường thấy y lề mề lôi thôi. Nhưng khi giao nộp quân trang đồ đạc thì lại chưa từng chậm chạp bao giờ. Ông vẫn luôn cho rằng Chủng Thế Hành bất cần đời, cho rằng Chủng Thế Hành kinh thương hữu thuật nhưng nào ngờ mỗi một xu tiền đều là tiền mô hôi sương máu của y?

Vương Củng Thần thấy Triệu Trinh dáng vẻ ủ dột, y liếc mắt nhìn đôi giày rơm trên tay Bao Chủng rồi tiến lên nói:

- Khởi bẩm Hoàng thượng, nếu những lời Bao Chửng nói là thật thì chuyện Chủng Thế Hành bị cáo buộc tham ô công quỹ là có hiểu lầm.

Trung Thừa của Ngự sử đài mà lại chủ động nói đỡ cho Chủng Thế Hành khiến cho nhiều người cảm thấy vô cùng ngạc nhiên. Không ngờ Bao Chửng nói:

- Không hề có hiểu nhầm, Chủng Thế Hành đích thật là có lạm dụng công quỹ.

Lời Bao Chửng vừa nói ra, mọi người ai nấy đều vô cùng ngạc nhiên, trong lòng thầm nghĩ Bao Chứng hao tổn bao nhiêu tâm huyết nói ra chuyện này chẳng phải là vì muốn giải vây cho Chủng Thế Hành sao. Nếu Vương Củng Thần đã tỏ thái độ như vậy rồi, Bao Chửng đánh nhẽ nên dừng lại cho chuyện này qua đi, không ngờ Bao Chửng lại vẫn kết luận Chủng Thế Hành lạm dụng công quỹ. Vậy thì những nỗ lực vừa rồi của y chẳng phải là vô ích sao?

Triệu Trinh cũng vô cùng kinh ngạc, y trầm mặc một lát rồi nói:

- Bao khanh gia, ngươi có ý gì?

Bao Chửng chần chừ hồi lâu mới nói:

- Hồi bẩm Hoàng thượng, thật ra Chủng Thế Hành xin thần tố cáo chuyện y tham ô công quỹ.

Mọi người kinh ngạc, không ai hiểu Bao Chửng đang nói gì cả. Địch Thanh thất thanh nói:

- Tại sao hắn lại làm vậy? Chuyện này vốn chẳng liên quan gì tới hắn cả.

Địch Thanh đã buông xuôi mọi chuyện rồi nhưng khi nghe thấy Chủng Ngạc nhắc tới mình thì không khỏi cảm thấy biết ơn, cảm ơn Chủng Ngạc đã tin tưởng hắn như vậy. Nghe thấy Bao Chửng nói như vậy, Địch Thanh đã hiểu được dụng ý của Chủng Thế Hành.

Mọi người trong triều ai nấy đều trở nên hồ đồ, không hiểu chuyện gì cả, duy chỉ có Địch Thanh là hiểu được hết dụng ý của Chủng Thế Hành. Vừa nghĩ tới khuôn mặt xanh xao, chế nhạo đó Địch Thanh lại không khỏi cảm động.

Triệu Trinh cũng không hiểu đầu cua tai nheo thế nào, y chần chừ nói:

- Bao khanh gia, Trẫm hồ đồ rồi. Chủng Thế Hành tại sao lại bảo khanh cáo buộc hắn?

Trong lòng y thì nghĩ, chuyện này bị người khác tố lên, né tránh còn không kịp. Chủng Thế Hành cũng thật là kỳ quái, lại còn xin Bao Chửng cáo buộc y? Ccho dù Chủng Thế Hành không xin thì người muốn cáo buộc hắn còn không ít sao? Nghĩ tới đây, Triệu Trinh lại liếc mắt nhìn đám người Ngự sử đài.

Đám quan của Ngự sử đài ai nấy đều cúi không nói gì, quả thật khó hiểu.

Khuôn mặt nghiêm nghị của Bao Chửng đột nhiên tỏ ra tôn kính, y thong thả nói:

- Ban đầu thần cũng không hiểu tên Chủng Thế Hành này lắm, chỉ là phụng chỉ điều tra mà thôi. Sau này khi gặp được Chủng Ngạc và Chủng Chẩn mới cho rằng mình cũng có một chút hiểu biết về tên Chủng Thế Hành này, không ngờ y lại khác xa hơn thần tưởng rất nhiều.

Bao Chửng suy nghĩ rất lâu mới nói ra được câu này, biết được Triệu Trinh sẽ không hiểu nên y bèn giải thích:

- Mãi mấy ngày sau đó thần mới gặp Chủng Thế Hành. Y vừa gặp thần đã biết được thần tới để điều tra chuyện công quỹ, y nói y sớm đã biết sẽ có ngày này rồi.

Triệu Trinh nhíu mày liếc mắt nhìn quần thần, ai nấy đều gục đầu xuống không biết trong lòng đang nghĩ gì.

- Chủng Thế Hành nói, từ khi hắn phụng thánh chỉ bắt đầu tu sửa thành Thanh Giản, hắn đã nghĩ tới sẽ có ngày hôm nay rồi. Hắn nói hắn không sợ….

Bao Chửng tỏ vẻ ưu tư, y thở dài một tiếng rồi nói:

- Chủng Thế Hành nói gió cát Tây Bắc khổ sở, bách tính ở đây còn khổ hơn cả gió cát. Nếu như theo lẽ thường thì việc tu sửa thành Thanh Giản cũng chẳng mất tới dăm ba năm, nhưng có quá nhiều người không đợi được. Năm đó thành Thanh Giản không có nước, nếu như đào không được nước thì cả tòa thành sẽ trở thành hoang phế. Y đã bỏ ra một trăm ki cát đá để cổ vũ cho bách tính đào giếng. Nếu như báo chuyện này lên cho triều đình, cho dù có phê thì cũng phải đợi vài năm, lão bách tính ở Tây Bắc lại không đợi được lâu như vậy.

Triệu Tring nghe xong, y trầm ngâm, trong lòng thầm nghĩ quân Đại Tống điều động không nhanh nhạy, vũ trang cũng không được tu sửa, tình hình kinh tế vùng Tây Bắc khó khăn, tất cả những điều này Phạm Trọng Yêm đã nói qua rồi. Chỉ có điều Phạm Trọng Yêm không nói rõ ràng tỉ mỉ tới như vậy.

Các quan thần trong triều, kể cả một thiên tử như y cũng luôn nghĩ rằng Phạm Trọng Yêm chỉ là nói quá lên mà thôi, bây giờ tất cả mọi người đều đã biết được nếu không phải Chủng Thế Hành tu sửa thành Thanh Giản thì đại cục của Đại Tống hiện giờ đã khác rồi, có thể giữ được Diên Châu hay không cũng chưa nói chắc được chứ đừng nói tới thu hồi lại được trại Kim Minh, cầu hòa với Nguyên Hạo.

Bao Chửng vẫn giữ giọng nói điềm tĩnh, những chuyện y nói ra cũng rất đời thường nhưng ai biết được ẩn sâu bên trong những chuyện bình thường giản dị này lại có biết bao là gian khổ thăng trầm?

- Chuyện đào giếng là chuyện nhỏ nhưng Chủng Thế Hành nói rồi, vùng biên thùy có quá nhiều chuyện như thế này. Y từ trước tới giờ y vẫn luôn hết lòng lo lắng suy nghĩ cách để làm những chuyện nhỏ như vậy nên cũng không có cách nào ghi chép lại hết tất cả những chuyện đó lại để trình lên cấp trên xem. Tuy nhiên y cũng nói rằng mỗi xu tiền mà y dùng đều xứng đáng, y đều không cảm thấy hổ thẹn với lương tâm. Nếu như ban đầu thần chưa gặp người nhà của y thì thần cũng không thể tin được nhưng khi biết được Chủng Ngạc, Chủng Chẩn ngày này qua ngày khác đều bữa no bữa đói, thậm chí việc mua một đôi giày đối với Chủng Chẩn cũng là một ước nguyện xa vời. Đây là lần đầu tiên thần chưa điều tra đầu đuôi thần đã tin lời của Chủng Thế Hành rồi.

Nói đến đây, Bao Chửng ngừng lại một lát, y nhìn những quan viên khác trong Ngự sử đài, hỏi:

- Các ngài có tin không?

Các ngài có tin không?

Đây chỉ là năm chữ bình thường nhưng trong cung điện này nó lại đánh trúng lòng mỗi người. Vương Củng Thần mặc dù không từ bỏ ý niệm công kích thân tín của Phạm Trọng Yêm, nhưng khi y liếc mắt nhìn biểu lộ của Triệu Trinh, y đã từ bỏ ý niệm loại bỏ Chủng Thế Hành.

Triệu Trinh không nói câu nào nhưng ai nhìn vẻ mặt của y cũng biết được y đã tin những chuyện này rồi. Nhưng mà tất cả mọi người đều có chút nghi hoặc, nếu đã như vậy thì tại sao Chủng Thế Hành lại vẫn muốn Bao Chửng tố cáo chuyện mình lạm dụng công quỹ?

Thậm chí Vương Củng Thần còn đang nghĩ, lẽ nào Chủng Thế Hành tự biết mình không sai nên mới muốn chuyển tầm ngắm để bảo vệ người bên cạnh sao? Nhưng những lời nói sau đó của Bao Chửng lại khiến y vô cùng xấu hổ.

- Chủng Thế Hành nói với thần rằng mặc dù y không thẹn với lương tâm nhưng y biết mình đã phá vỡ quy tắc. Nếu như gặp phải người nào có ý định xấu thì nhất định sẽ tấu chuyện này lên. Y nói “Ta đã sống bao nhiêu năm trời, bấp bênh bao nhiêu năm trời, sớm đã nhìn ra mọi chuyện rồi. Ta còn có thể sống thêm bao năm nữa chứ? Nếu như có gì sai sót xin Bao dại nhân cứ đổ hết lên người ta, ta không có gì để nói cả.”

Bao Chửng nói lại nguyên văn lời của Chủng Thế Hành, Triệu Trinh vẫn không hiểu, bèn hỏi:

- Tại sao hắn lại làm như vậy?

Bao Chửng liếc nhìn Địch Thanh một cái, thấy được nét buồn trên mặt Địch Thanh, y biết ngay Địch Thanh đã hiểu được chuyện này rồi.

- Vì Chủng Thế Hành nói “Phần lớn tiền công quỹ ta đều dùng vào việc tu sửa hệ thống phòng ngự và các vũ trang cho quân sĩ, ví dụ như chế tạo thêm nhiều binh khí, áo giáp, nghĩ cách mua được những con ngựa chạy nhanh nhất. Các ngài không biết rằng triều đình tuy có cung tiễn áo giáp nhưng cung thì bị sâu mọt, dây cung thì đứt, áo giáp cũng hỏng hết, ngài nói xem các binh sĩ sao có thể dùng những trang bị này đi chịu chết được? Nếu như muốn nói tới trách nhiệm thì Địch Thanh dùng nhiều tiền công quỹ nhất vì quân đội mà ngài ấy lãnh đạo là quân tinh nhuệ của Tây Bắc, đa số tiền công quỹ đều dùng cho đội quân này. Nhưng nếu như không có những quân tinh nhuệ không đúng quy củ này thì những thiệt hại của quân Đại Tống ở vùng Tây Bắc cũng chẳng phải chỉ có chút tiền công quỹ này rồi. Nếu không phải lạm dụng số tiền công quỹ này thì một số người của triều đình đã bị chiến hỏa thiêu cho sứt đầu mẻ trán rồi chứ lấy đâu ra thời gian mà bàn tới chuyện công quỹ ở Tây Bắc. Thực ra ta có thể không quan tâm nhưng ta có thể không quan tâm sao? Được thôi, nếu như giữa ta và Địch Thanh nhất định phải có một người đứng ra gánh vác trách nhiệm vậy thì hãy để ta gánh vác. Dù sao thì lão tử ta cũng không nghèo túng vì ta đã có vợ con, Địch Thanh còn nghèo túng hơn ta nhiều. Ngài ấy chinh chiến bao nhiêu năm nay nhưng vẫn chỉ có một mình. Ngoài những vết sẹo nhiều hơn ta thì Địch Thanh chẳng có thêm bất cứ thứ gì. Ta thực sự cảm thấy rất hổ thẹn với ngài ấy. Bao đại nhân, ta cầu xin ngài, hãy để tất cả trách nhiệm cho một mình ta gánh vác, ta nhận tất cả.

Nói đến đây, vẻ mặt như sắt đá của Bao Chửng cũng trở nên thổn thức. Trong giọng nói bình thản cũng có chút gay cấn. Hồi lâu, trong cung điện không một tiếng động, Bao Chửng gằn từng chữ từng chữ:

- Cuối cùng Chủng Thế Hành đã nói “Ta gánh chịu tất cả trách nhiệm thì sự tổn thất của Tây Bắc sẽ giảm đi được chút ít. Bởi vì Tấy Bắc có thể không có Chủng Thế Hành nhưng không thể thiếu Địch Thanh được.”

Tây Bắc có thể thiếu Chủng Thế Hành nhưng không thể thiếu Địch Thanh!

Địch Thanh nghe tới đây, đôi mắt ngấn nước, trong nhạt nhòanhư nhìn thấy bộ dáng bất cần đời của Chủng Thế Hành vậy: “Địch Thanh, ngài không thể chết, ngài còn nợ ta rất nhiều tiền chưa trả đấy!”

Thứ mà hắn nợ Chủng Thế Hành đâu phải chỉ có tiền?

Bao Chửng nói xong, cả cung điện lặng ngắt như tờ. Mãi lâu sau Triệu Trinh nhìn về phía Địch Thanh, thấy mái tóc chỗ thái dương Địch Thanh đã có nhiều sợi bạc, y mới đột nhiên nghĩ “Địch Thanh đang thời tráng niên sao đã có tóc bạc rồi. Có lẽ trước giờ hắn chưa từng quên lời hứa của mình, một lòng dốc sức vì trẫm chinh chiến ở Tây Bắc. Không chỉ có những vết sẹo trên người hắn ngày một nhiều mà những sợi tóc bạc cũng ngày một nhiều rồi.”

Triệu Trinh vẫn luôn nghĩ rằng mình không hề bạc đãi Địch Thanh, ngay cả lúc Ngự Sử Đài cáo trạng Tây Bắc lạm dụng công quỹ thì y cũng vẫn bí mật phái Bao Chửng đi điều tra. Trực giác của y vẫn luôn che chở cho Địch Thanh.

Nhưng khi thấy được trên khuôn mặt tuấn lãng của Địch Thanh tràn đầy sự tang thương cô đơn, lại nghĩ tới vừa rồi Địch Thanh muốn cáo lão hồi hương Triệu Trinh đột nhiên nghĩ: “Cuối cùng thì là trẫm bảo vệ Địch Thanh hay Địch Thanh đang bảo vệ giang sơn của trẫm đây?”

Tất cả mọi người cũng đều hiểu hết mọi chuyện rồi, Bao Chửng lòng vòng nói những lời này không chỉ đơn thuần là muốn bảo vệ Chủng Thế Hành mà hơn nữa chính là muốn bảo vệ Địch Thanh.

Âu Dương Tu bước lên thi lễ nói:

- Hoàng thượng, nếu như Bao ngự sử đã điều tra sáng tỏ mọi chuyện, vậy thần vẫn cho rằng chuyện tiền công quỹ không liên quan gì tới Địch Thanh, mong Hoàng thượng minh xét!

Triệu Trinh nhìn về phía Bao Chửng nói:

- Bao ngự sử! Nếu khanh đã điều tra rõ ràng mọi chuyện, vậy theo ý của khanh chuyện này nên giải quyết thế nào?

Bao Chửng có chút trầm ngâm nói:

- Việc thu chi của tiền công quỠrõ ràng có chênh lệch nhưng nhớ tới thời Thái tổ cũng đã từng xây dựng quốc khố, mục đích chính là dự trữ cho chi tiêu quân sự. Còn về tiền công quỹ ở Tây Bắc, nếu đã gọi là công quỹ thì dụng ý chính là vì nước vì dân. Chủng Thế Hành và Địch Thanh tuy đã dùng chúng không theo quy tắc nhưng đều dùng vào việc nước. Có thể nói theo quy định thì không thể dung tha nhưng xét về tình về lý thì có thể tha thứ. Pháp luật không thể không xét đến tình người, Thái tổ lập pháp cũng vì muốn giang sơn bền vững, bách tính an cư lạc nghiệp, người nhất định sẽ không hy vọng hậu thế chỉ biết khư khư làm theo cái cũ.

Triệu Trinh gật đầu, lại hỏi:

- Nếu như Thái tổ còn thì người sẽ xử trí việc này ra sao?

Bao Chửng lập tức nói:

- Với tầm lòng khoan dung độ lượng của Thái tổ, nếu như chưa rõ ngọn ngành người nhất định sẽ điều tra tới cùng. Nhưng nếu đã biết được chân tướng mọi chuyện thì chắc người sẽ chỉ cười cho qua mà thôi.

Triệu Trinh ha ha cười nói:

- Nói rất hay, kể từ ngày hôm nay không cần nhắc tới chuyện Chủng Thế Hành, Địch Thanh lạm dụng công quỹ ở Tây Bắc nữa.

Các quan thần tuân chỉ, người vui người buồn. Phạm Trọng Yêm nghĩ thầm: “Hoàng thượng chỉ nói không cần nhắc tới chuyện Chủng Thế Hành và Địch Thanh nhưng lại không nói gì tới Đằng Tử Kinh và Trương Kháng. Xem ra trong lòng người đã quyết rồi, khó có thể thay đổi được. Người làm như vậy coi như đã cân bằng được mối quan hệ giữa Ngự Sử Đài và Lưỡng phủ nhưng chỉ sợ hậu hoạn vô lường.”

Nhưng sự việc đã tới ngày hôm nay Phạm Trọng Yêm cũng biết rằng mình có nói nhiều cũng vô ích, đành phải chờ đợi cơ hội mà thôi.

Vương Củng Thần lại nghĩ: “Hừ, Hoàng thượng chỉ nói không truy cứu Chủng Thế hành và Địch Thanh nhưng không nói sẽ không truy cứu những người khác. Âu Dương Tu ơi Âu Dương Tu, sớm muộn gì thì ta cũng phải cho ngươi biết được hậu quả của việc đắc tội với ta. Ta vốn chỉ muốn truy cứu tội danh của Địch Thanh nhưng thấy Hoàng thượng một mực giải vây cho Địch Thanh như vậy, chỉ sợ nếu cứ cố ý cáo trạng sẽ đắc tội với Hoàng thượng. Chuyện Địch Thanh phá hỏng buổi nghị hòa tạm thời ta sẽ tính sau.

Nghĩ tới đây, Vương Củng Thần ngoảnh sang nhìn Văn Ngạn Bác lắc lắc đầu. Văn Ngạn Bác thấy vậy, tuy trong lòng vẫn canh cánh chuyện này nhưng cũng không dám nói nhiều nữa.

Hàn Tiếu mở bức thư ra, chỉ vào chữ viết trên đó nói:

- Địch tướng quân, ngài có để ý không, loại chữ này bên trong những nét đen lại có những vệt trắng…

Địch Thanh ít đọc sách cũng chẳng nghiên cứu gì về thư pháp nên khi đọc cũng chỉ biết đọc mà thôi. Nghe Hàn Tiếu nói vậy hắn mới xem kỹ lại . Lúc này hắn mới phát hiện những nét chữ này quả thật có chút khác lạ. Mỗi một chữ đều có những vết trắng.

Hàn Tiếu biết Địch Thanh không hiểu, bèn giải thích:

- Loại chữ này được gọi là phi bạch thể, cũng gọi là thảo triện, là loại chữ mà Thái Ung sáng tạo ra. Nghe nói Thái Ung xem thợ sơn sơn tường mỗi lần sơn một ít, như vậy không thể phủ kín được toàn bộ màu của bức tường, để lộ ra những vết trắng. Sau đó ông đã sáng tạo ra loại chữ phi bạch thể này.

Địch Thanh chợt nói:

- Phương pháp ghì bút này chủ yếu là để ý tới những chỗ trắng, những người biết viết loại chữ này không nhiều.

Hàn Tiếu nói tiếp:

- Địch tướng quân nói không sai. Người viết bức thư này đã dùng phi bạch thể, nếu muốn điều tra người này là ai chúng ta có thể bắt đầu từ đây.

Y cầm bức thư soi ra chỗ có ánh sáng, nói:

- Địch tướng quân, ngài xem bức thư này đi, có còn có chữ ẩn ở trong.

Địch Thanh quan sát, kỳ thật dưới ánh mặt trời, phía góc phải của bức thư có lộ ra một chữ “Cát”. Hắn hỏi:

- Giấy này làm rất tinh tế, cũng không phải tầm thường.

Hàn Tiếu mỉm cười nói:

- Giấy này vốn là Cát Tinh Trai ở kinh thành sản xuất. Do mỗi năm số lượng sản xuất ra không nhiều nên những người dùng nó toàn là người giàu có.

Địch Thanh trầm ngâm nói:

- Người viết thư dùng phi bạch thể, lại là người giàu sang phú quý, nhưng phạm vi này vẫn còn quá rộng, không dễ tìm chút nào.

Hàn Tiếu nói:

- Bất kể thế nào thì chúng ta cũng có được chút đầu mối rồi. Thuộc hạ định sẽ truy tìm từ đây, không biết ý tướng quân thế nào?

Địch Thanh gật gật đầu nói:

- Vất vả cho ngươi rồi.

Sau khi Hàn Tiếu rời đi, Địch Thanh thở dài một tiếng rồi chậm rãi nhắm hai mắt lại. Mấy ngày nay hắn thực sự vô cùng uể oải nhưng trong lòng hắn luôn thấy bất an. Hắn luôn nghĩ rằng có rất nhiều chuyện còn chưa kết thúc, ngược lại nó chỉ càng thêm phức tạp mà thôi.

Chớp mắt đã tới mùa hè. Những ngày này Địch Thanh luôn nhốt mình trong nhà nhưng hắn cũng biết được không ít chuyện ở trong thành. Triệu Trinh cuối cùng cũng quyết định sửa luật, thông báo cho toàn dân, bách tính hân hoan, thần dân ca tụng.

Năm nay là năm Khánh lịch của Đại Tống, lịch sử gọi là Khánh Lịch Tân Chính.

Người chấp hành Tân Chính có Phạm Trọng Yêm, Phú Bật, Yến Thù, Hàn Kỳ, Âu Dương Tu,… Những người này trong mắt người dân là những người có uy danh cực lớn. Thân tín của họ phần lớn cũng vào kinh thành hiệp trợ sửa đổi luật pháp. Nhất thời danh sĩ tập hợp trong kinh thành, cả triều đình cùng dân chúng đều hân hoan ca ngợi.

Phạm Trọng Yêm đưa ra “Thập sự điều trần”, Hàn Kỳ sau khi thảm bại ở trận Tam Xuyên Khẩu nhưng lại được hoàng thượng trọng dụng nên sự cuồng ngạo đã giảm bớt đi nhiều, y viết ra “Bị ngự thất sự”. Những gì hai người này nói ra đều như những mũi kim châm biếm sự trì trệ, căn bệnh trầm kha của Đại Tống.

Công văn truyền ra, cả kinh thành xôn xao, thiên hạ vui mừng nhảy nhót.

Còn Một Tàng Ngoa Bàng bị Địch Thanh làm cho sợ hãi, dường như đột nhiên hiểu ra nhưng chưa vội vàng quay Tây Bắc mời Nguyên Hạo phát binh mà hạ thấp điều kiện, còn Nguyên Hạo lại xưng thần với Đại Tống, xóa bỏ niên hiệu. Để đáp lại Nguyên Hạo, Triệu Trinh đã phong Nguyên Hạo thành Hạ quốc chủ, đồng thời thừa nhận phân định biên giới hiện tại.

Đại Tống không còn lấy chiến bại làm lý do bồi thường tổn thất của Hạ Quốc mà chuyển thành ban thưởng bảy vạn hai ngàn lượng bạc, gấm lụa hàng chục vạn tấm, trà ba vạn cân cho nước Hạ.

Những thứ mà triều Tống tặng đi không thay đổi mà chỉ thêm ban thưởng mà thôi.

Những tin tức này đều là do Hàn Tiếu nói cho Địch Thanh biết. Khi Địch Thanh nghe được tin, hắn bỗng cười lên rồi không nói gì cả. Trong lòng hắn lại nghĩ: “Triệu Trinh rất coi trọng thể diện, những thứ mà y nói đều là những thứ phi lí, nhưng Nguyên Hạo lại kiếm được nhiều lợi ích nhất. Những thứ này nếu dùng để nuôi binh thì thập sĩ sớm đã hoàn thiện rồi. Thì ra ngày đó ta phá hỏng Hạ sứ chẳng qua chỉ là một lợi thế giúp Triệu Trinh đạt được nghị hòa mà thôi.” Nhưng hắn hiện giờ đang bị hiềm nghi, có thể bình an vô sự cùng là nhờ đóng cửa không ra ngoài, có biết được thì cùng vô dụng.

Hoàng hôn gần buông xuống, Diêm Sĩ Lương đột nhiên tới nói:

- Địch tướng quân! Hoàng thượng triệu người vào cung!

Địch Thanh biết những ngày này Trương mỹ nhân bị bệnh, hơn nữa bệnh tình lại không hề nhẹ. Ngày nào Triệu Trinh cũng đều không có tâm trạng lâm triều. Vào những lúc thế này Triệu Trinh tìm hắn có việc gì chứ?

Địch Thanh bụng ôm nghe hoặc vào trong cung. Diêm Sĩ Lương lại dẫn hắn tới ngự hoa viên lần trước.

Xuân qua hạ đến, hoa nở hoa tàn, tâm tình thay đổi, phồn hoa vẫn vậy. Ánh mặt trời chiều lập lờ chiếu rọi lên hàng ngàn hàng vạn bông hoa, một màu đỏ tươi như máu.

Địch Thanh vừa tới ngự hoa viên đã nghe thấy tiếng đàn vang tới. Tiếng đàn lần này ít vẻ cô đơn lãnh đạm mà nó mang dư vị của mùa hè.

Gần hơn một chút, hắn thấy Trương mỹ nhân đang ngồi trước đàn, Triệu Trinh ngồi bên cạnh nhìn nàng với ánh mắt thương xót. Thấy Địch Thanh tới, Triệu Trinh đứng lên, Địch Thanh chưa kịp thi lễ thì Triệu Trinh đã nói:

- Miễn lễ! Địch Thanh, trẫm tìm ngươi có việc đây!

Địch Thanh thấy thần sắc Triệu Trinh sầu não, hắn khó hiểu hỏi:

- Không biết Hoàng thượng có gì sai bảo?

Triệu Trinh u sầu nói:

- Haizz! Trương mỹ nhân mấy ngày nay lâm trọng bệnh, bây giờ mới khỏe lên được chút ít nhưng nàng ấy mới vừa khỏe hơn đã đòi đánh đàn…Nàng ấy còn muốn nghe ngươi kể chuyện về Tây Bắc nữa. Lần trước không được nghe, không ngờ thoáng cái đã mấy tháng trời rồi. Trẫm khuyên nàng ấy không được nên đành phải tìm ngươi tới đây. Địch Thanh, làm phiền ngươi rồi!

Đã rất lâu rồi Địch Thanh mới lại thấy Triệu Trinh khách khí như vậy. Không ngờ Triệu Trinh vội vàng triệu hắn vào cung là vì chuyện này. Hắn liếc mắt nhìn Trương mỹ nhân một cái nhưng thấy nàng chỉ nhìn chiếc đàn, tựa hồ như không nghe thấy Triệu Trinh nói gì vậy.

Nếu nàng ấy đã mời Địch Thanh tới kể chuyện ở Tây Bắc vậy tại sao sau khi Địch Thanh tới rồi thì nàng ấy lại không nhìn Địch Thanh lấy một cái?

Triệu Trinh kéo tay Địch Thanh ngồi xuống rồi nói với Trương mỹ nhân:

- Mỹ nhân! Địch tướng quân tới rồi. Chẳng phải nàng muốn nghe chuyện ở Tây Bắc sao? Nàng đừng đánh đàn nữa, nghỉ ngơi một chút đi!

Cuối cùng Trương mỹ nhân cũng dịu dàng đứng lên, nàng đi tới cười nói:

- Làm phiền Địch tướng quân rồi!

Đôi mắt dịu dàng của nàng nhẹ nhàng lướt qua khuôn mặt Địch Thanh một lượt.

Dù trong lòng Địch Thanh không tình nguyện nhưng nể mặt Triệu Trinh hắn vẫn đáp một tiếng:

- Giây phút ánh mắt Trương mỹ nhân và ánh mặt trời đối diện với nhau, Địch Thanh đột nhiên cảm giác tim mình đập nhanh hơn!

Hắn cũng chẳng biết tim mình đập cái gì nữa. Tới khi gục đầu xuống, Địch Thanh lại hồi tưởng lại giây phút vừa rồi, hắn bỗng nhiên nghĩ: “Trương mỹ nhân mặc dù cười nhưng trong ánh mắt nàng dường như không hề có ý cười? Thậm chí có thể nói là lạnh lùng.

Ý nghĩ trong đầu vụt qua, Địch Thanh không nghĩ lung tung nữa. Có cung nhân bẩm báo:

- Hoàng hậu giá đáo!

Triệu Trinh có chút kinh ngạc, thấy Hoàng hậu bưng một nồi đất đi tới y liền vội đứng dậy đón tiếp:

- Hoàng hậu! Nàng tới đây làm gì vậy?

Hoàng hậu nhẹ nhàng đặt nồi đất xuống, mỉm cười nói:

- Hoàng thượng, tối qua người vất vả chuyện chính sự, phê duyệt công văn. Nghe nói đêm khuya người đói bụng định sai Diêm Sĩ Lương mang chén canh thịt dê tới nhưng tại sao sau đó người lại không làm như vậy nữa?

Triệu Trinh nhẹ nhàng thở dài, nói:

- Từ khi trẫm nghe Bao Chửng nói người dân ở Tây Bắc chịu khổ sở thì trẫm mới biết ý nghĩa của việc Hoàng hậu nói cái gì mà tiết kiệm trong cung, chăn nuôi trồng trọt ngũ cốc. Tối qua thực ra trẫm rất muốn uống canh thịt dê nhưng trong cung cũng không thường chuẩn bị, một lần ngoại lệ, chỉ sợ lần sau Ngự thiện phòng ngày nào cũng giết dê để chuẩn bị. Nếu cứ như vậy thì có chút lãng phí, vì thế mà trẫm liền nhịn một tối.

Vừa nói người vừa nhìn Địch Thanh rồi nói tiếp:

- Haizzz…trẫm không khai chiến không phải là sợ bọn họ, chỉ là trẫm nghĩ tới lê dân bá tánh phải chịu khổ nạn, như vậy thật không nhẫn tâm?

Địch Thanh biết câu nói sau cùng của Triệu Trinh muốn giải thích nỗi khổ ở trong buổi nghị hòa. Nghe thấy những chuyện lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày của Triệu Trinh, hắn như có những hiểu biết lại một lần nữa Triệu Trinh vậy. Trong lòng hắn nghĩ thầm tuy Triệu Trinh nhu nhược không quả quyết nhưng y có thể hiểu được nỗi thống khổ của lê dân bá tánh, có thể nghe lời của người khác nói, như vậy cũng là một Hoàng đế hiếm có rồi.

Tào hoàng hậu mở chiếc màn đậy nồi đất ra, hương thơm từ chiếc nồi bay ra ngào ngạt. Tào hoàng hậu thản nhiên cười nói:

- Thần thiếp biết Hoàng thượng muốn ăn, vừa hay hôm nay trong cung giết một con dê nên đã hầm cho người một bát canh…

Triệu Trinh mừng thầm trong lòng, y nghĩ thầm Tào hoàng hậu mặc dù không có nét e thẹn động lòng người của Trương mỹ nhân nhưng cũng là một hiền thê. Hậu cung của trẫm không cần tới ba nghìn phi tần, chỉ cần Hoàng hậu và Trương mỹ nhân là đủ rồi. Triệu Trinh nhìn về phía Trương mỹ nhân nói:

- Mỹ nhân, nàng qua đây thưởng thức tay nghề của Hoàng hậu đi!

Trương mỹ nhân cười cười nói:

- Được thôi! Nhưng đây là tâm ý của Hoàng hậu, không biết thần thiếp có phúc phận được thưởng thức nó không?

Tào hoàng hậu che miệng cười nói:

- Muội muội à, muội chê cười tay nghề của ta sao? Có phải muội không muốn uống không?

Trương mỹ nhân thấy Tào hoàng hậu nói vậy, không nén nổi cười nói:

- Hoàng hậu, nô gia đâu có gan dám như vậy?

Xưa nay trước mặt mọi người trong cung Tào hoàng hậu là một người hiền hậu, thấy Hoàng thượng đối xử tốt với Trương mỹ nhân nên nhưng cũng không hề đố kị. Tào hoàng hậu luôn gọi Trương mỹ nhân là muội muội nhưng Trương mỹ nhân lại không dám gọi Tào hoàng hậu là tỷ tỷ, vì thế vẫn luôn xưng là nô gia.

Hai người nói nói cười cười khiến Triệu Trinh không khỏi u sầu. Trương mỹ nhân vừa nhấp một ngụm canh dê, đột nhiên nàng chau mày ôm trán. Triệu Trinh thấy vậy cũng chẳng uống canh nữa mà vội hỏi:

- Mỹ nhân, nàng sao vậy?

Trương mỹ nhân cau mày, thấp giọng nói:

- Hoàng thượng, không có gì ạ! Chắc là do bệnh tình của thần thiếp vừa mới khá lên nên vẫn hơi đau đầu.

Triệu Trinh đau lòng oán giận nói:

- Nàng đã biết bệnh tình mới đỡ nhẽ ra không nên ra đây đánh đàn chứ…Mau…mau…trẫm dìu nàng về cung nghỉ ngơi.

Vừa nói Triệu Trinh vừa dìu Trương mỹ nhân trở về hậu cung. Tào hoàng hậu thấy vậy liền sai cung nữ đi mời ngự y tới thăm khám cho Trương mỹ nhân. Nàng nhìn Địch Thanh, áy náy nói:

- Địch tướng quân, lại làm phiền ngài phải vào cung rồi. Bây giờ thế này, ngài hãy về trước đi!

Địch Thanh thở dài, cũng không phàn nàn, lập tức ra khỏi hậu hoa viên, nhưng vừa đi được vài bước thì Diêm Sĩ Lương từ phía sau đuổi theo nói:

- Địch tướng quân xin dừng bước!

Địch Thanh khó hiểu, hắn ngoảnh lại, hỏi:

- Diêm đại nhân có chuyện gì sai bảo vậy?

Diêm Sĩ Lương cười nói:

- Không dám sai bảo. Vừa rồi Trương mỹ nhân nói đau đầu nhưng lúc trở về nghỉ ngơi người lại muốn nghe Địch tướng quân nói chuyện về Tây Bắc…

Địch Thanh không thể hiểu nổi vị Trương mỹ nhân này tại sao lại quan tâm tới chuyện ở Tây Bắc như vậy, liền nhíu mày nói:

- Chẳng nhẽ bảo ta ở lại trong cung sao? Trời sắp tối rồi, ta ở lại trong cung chẳng phải là không hợp lệ sao?

Diêm Sĩ Lương nói:

- Quy định là như vậy nhưng có khẩu dụ của Hoàng thượng, Địch tướng quân không cần lo lắng. Hoàng thượng đối xử với Địch tướng quân không giống với những người khác. Hoàng thượng bảo ngài chờ ở Thưởng nguyệt đình. Địch tướng quân, vất vả cho ngài rồi. Xin ngài đừng làm khó tiểu nhân.

Trong lòng Địch Thanh vốn có chút bất mãn, thầm nghĩ ta đường đường là tướng quân Tây Bắc, Hoàng thượng lại coi ta là một thuyết thư hay sao? Nhưng thấy Diêm Sĩ Lương ăn nói khép nép, lại nghĩ tới Triệu Trinh lo lắng cho Trương mỹ nhân như vậy nên cũng mềm lòng. Hắn biết trong chuyện tình cảm Triệu Trinh cũng không thể tự chủ được, chẳng dễ gì mới có được người tâm đầu ý hợp, mình cũng không nên để người thất vọng. Địch Thanh vốn là người ưa mềm không ưa cứng, hắn bèn nói:

- Được rồi! Vậy thì ta sẽ đợi!

Diêm Sĩ Lương vui mừng vội vàng dẫn Địch Thanh tới Thưởng nguyệt đình. Thưởng nguyệt đình tuy chỉ là một cái đình nhưng bên trong bố trí trang nhã, ngẩng đầu lên có thể ngắm được vầng trăng mọc lên ở phía Đông chiếu rọi khắp nơi.

Diêm Sĩ Lương sớm đã sai người hầu chuẩn bị rượu thịt để Địch Thanh vừa ăn vừa đợi, còn sai một tiểu thái giám ở bên cạnh hầu hạ Địch Thanh. Sau đó y quay người rời đi. Địch Thanh chẳng có lòng dạ nào ăn uống, lòng nghĩ trong cung này cũng không nên uống rượu. Nghĩ tới đây, hắn đành ngồi xuống nhìn lên ánh trăng đang chiếu rọi.

Bầu trời lúc này như một bức tranh, vầng trăng xuyên qua những đám mây, lúc thì ẩn trong đám mây, lúc lại chạy xuyên qua nó. Gió mùa hạ thổi không ngừng, trăm hoa đua nở, hương thơm nồng đậm.

Tên tiểu thái giám kia thấy Địch Thanh không có gì sai bảo bèn xin cáo lui trước.

Địch Thanh cũng chẳng để ý, hắn nhìn lên ánh trăng, lẩm bẩm nói:

- Vũ Thường! Ta vốn cho rằng liên thủ với Thổ Phiên để tấn công Nguyên Hạo, chỉ cần phá được Sa Châu, tìm được Hương Ba Lạp, cầu xin những thần nhân ở đó thì nhất định sẽ gặp lại được nàng!

Giọng nói hắn nhẹ nhàng giống như Vũ Thường đang ở bên cạnh hắn vậy. Những năm gần đây hắn chưa từng cảm thấy Vũ Thường đã rời xa hắn.

- Nhưng không ngờ Nguyên Hạo lại đột nhiên nghị hòa, phá hỏng mọi kế hoạch của ta. Dường như Nguyên Hạo sớm đã biết có người sẽ tới tìm Hương Ba Lạp nên mới phái trọng binh canh phòng cẩn mật như vậy. Nhưng càng như vậy ta lại càng tin vào cái truyền thuyết này. Mặc dù Nguyên Hạo cầu hòa nhưng ý nghĩ đi tìm Hương Ba Lạp của ta chưa từng lung lay. Nguyên Hạo là một người cảnh giác, ta sợ sẽ đánh rắn động cỏ, chỉ có thể đánh một phát trúng luôn. Vũ Thường, nàng biết không? Ta có tin tốt muốn cho nàng biết đây…

Nói đến đây, sắc mặt Địch Thanh đột nhiên phấn chấn lên. Ánh trăng sáng tỏ chiếu rọi lên khuôn mặt cô đơn giống như cái âu yếm của tình nhân lại vừa giống như những lời nói ngọt ngào của người tình vậy.

- Người thứ tám trong Tây Bắc Thập sĩ kỳ thực sớm đã bắt đầu sắp xếp xong rồi. Mặc dù Chủng Thế Hành chưa giúp ta tìm được Hương Ba Lạp nhưng ta biết từ trước tới giờ y chưa từng quên lời hứa với ta. Còn người thứ tám này tên là Phượng Minh! Bọn họ đã thành công rồi…

Lời của hắn còn chưa dứt thì đột nhiên có tiếng bước chân vọng tới.

Địch Thanh quay đầu lại nhìn, hắn vốn nghĩ đó là Diêm Sĩ Lương tới tìm hắn, không ngờ đó lại là một cung nữ. Người cung nữ đó thướt tha đi tới trước mặt Địch Thanh, thấy Địch Thanh có vẻ ngạc nhiên, liền cười nói:

- Địch tướng quân, là trưởng công chúa sai nô tỳ tới tìm ngài!

Địch Thanh đứng dậy nói:

- Trưởng công chúa có chuyện gì muốn sai bảo sao?

Đối với một Thường Ninh uyển chuyển dịu dàng, trong lòng Địch Thanh có chút cảm kích.

Người cung nữ kia nói:

- Trưởng công chúa đi gặp Trương mỹ nhân thì thấy Trương mỹ nhân đã ngủ rồi, tối nay chắc chắn sẽ không nghe Địch tướng quân kể chuyện Tây Bắc được

Địch Thanh nhíu mày, trong lòng thầm nghĩ, nếu đã như vậy thì tại sao Triệu Trinh không nói cho ta biết sớm? Người cung nữ kia dường như nhìn thấu được tâm tư của Địch Thanh, cô nói:

- Hoàng thượng vốn định sai cung nữ đi nói lại với Địch tướng quân, bảo ngài có thể về rồi nhưng trưởng công chúa nói để người tới nói với ngài là được rồi.

Nói xong nàng liền che miệng cười trộm.

Địch Thanh có chút xấu hổ, thầm nghĩ Hoàng thượng chắc chắn sẽ cho rằng Thường Ninh và ta có chuyện muốn nói với nhau. Đối với những chuyện như thế này Hoàng thượng rất mẫn cảm. Ngay cả cung nữ này e rằng cũng đã biết được chuyện giữa ta và Thường Ninh rồi. Nhưng trước giờ ta với Thường Ninh chỉ là bạn bè , lần trước vội vội vàng vàng rời đi, lần này sai cung nữ tới thông báo với ta, chẳng nhẽ lại có gì muốn nói sao?

Cung nữ kia quả nhiên nói:

- Thường Ninh công chúa mời Địch tướng quân tới Triêu Phượng các một lát. Người sẽ không làm phiền Địch Tướng quân lâu đâu!

Địch Thanh có chút do dự, thầm nghĩ ta mặc dù được Thánh thượng hạ chỉ cho ở lại trong cung nhưng tùy tiện đi lại như vậy có vẻ như không thích hợp cho lắm. Lẽ nào Thường Ninh sợ có người nhìn thấy nên không dám tới gặp ta sao, vì thế mới sai người bảo ta tới đó?

Cung nữ kia thấy Địch Thanh do dự, hơi oán giận nói:

- Dù sao thì trưởng công chúa cũng đã giúp Địch tướng quân nhiều chuyện, lẽ nào Địch tướng quân không nể mặt sao?

Địch Thanh nhìn cung nữ kia, đột nhiên lại nhớ lại Tiểu Nguyệt lòng dạ thẳng thắn, hắn than thầm rồi gật đầu nói:

- Được rồi! Vậy phiền cô dẫn đường!

Hắn thầm nghĩ: “Triêu Phượng các? Trước đây khi còn ở cung hắn chưa từng nghe thấy cái tên này. Nhiều năm như vậy, đâu chỉ có mỗi Hoàng cung là thay đổi đâu? Không biết Thường Ninh tìm ta có chuyện gì? Gặp cô ấy rồi phải nhanh chóng rời khỏi cung mới được, tránh chuyện rắc rối.”

Địch Thanh theo cung nữ kia đi qua vườn hoa, qua đình, cách một rừng trúc nhỏ nữa thì thấy cái mái cong cong của lầu các. Chiếc mái cong như mây lưu chuyển, lầu các ghi Nhã Thanh Ninh, trên lầu hai đèn thắp sáng trưng. Cung nữ đi tới trước cửa, đưa tay ra, mặt đột nhiên đỏ lên:

- Địch tướng quân, trưởng công chúa đang ở bên trong đợi ngài. Nô tỳ sẽ ở ngoài!

Nói xong cung nữ liền quay người rời đi.

Địch Thanh ngẩn ra, lại không tiện lớn tiếng, hắn vừa quay mắt lại nhìn thì cung nữ kia đã biến mất tích rồi. Địch Thanh chau mày thầm nghĩ, nếu như chỉ có Thường Ninh ở trong, cô nam quả nữ như vậy thật không tiện. Địch Thanh ta tuy không thẹn với lương tâm nhưng chuyện này liên quan tới danh tiết của Thường Ninh…

Hắn bồi hồi một lát rồi cuối cùng cũng phải gõ cửa nói:

- Thường Ninh công chúa, thần Địch Thanh thỉnh kiến!

Không thấy bên trong có tiếng đáp trả, Địch Thanh đang định nói lại nhưng đột nhiên hắn thấy rùng mình. Trong lòng hắn lo lắng, lúc này hắn mới để ý tới trước chiếc cửa đang bị đóng chặt kia có mấy vết máu.

Là vết máu!

Địch Thanh ngồi xuống ngửi một cái thì biết chắc đó là vết máu. Hắn không khỏi lạnh toát cả người, hắn thấp giọng nói:

- Thường Ninh công chúa?

Trong lầu vẫn không có tiếng đáp trả. Địch Thanh lo lắng đẩy cửa vào, cảnh tượng trước mắt khiến hắn kinh hoàng.

Phía sau cánh cửa không xa, một cô gái nằm ngửa trên mặt đất, yết hầu đã bị cắt đứt. Máu tươi vẫn còn chảy ra làm đỏ cả mặt đất, cảnh tượng vô cùng kinh khủng.

 Chương 392 - 395: Xử án

Địch Thanh ngây người chốc lát, rồi chạy thẳng đến chỗ cô gái, tim đập loạn xạ, cúi đầu nhìn, thấy đó là một gương mặt xa lạ, không phải là Thường Ninh.

Địch Thanh thoáng yên tâm, nhưng rồi sự hoang mang lại xuất hiện.

Hung thủ là ai? Cô gái này là ai? Vì sao Thường Ninh lại hẹn hắn đến đây nhưng lại có một người cô gái bị chết? Vậy Thường Ninh bây giờ ở chỗ nào? Địch Thanh cảm thấy mơ hồ, bấn loạn. Đúng lúc này lại nghe được một tiếng thét kinh hãi.

Địch Thanh bỗng nhiên quay đầu lại, nhìn thấy một cô gái đằng trước cửa. Cô ta nhìn thấy cảnh tượng máu me như vậy trong các, tay vịn khuông cửa, ngã xuống đất.

Cô gái đó chính là Trương mỹ nhân.

Địch Thanh cả kinh, lập tức chạy đến đỡ lấy Trương mỹ nhân, kêu lên:

- Trương cô nương…

Nhưng Trương mỹ nhân vẫn nhắm chặt hai mắt ngã vào lòng Địch Thanh. Dĩ nhiên là bị hoảng sợ đến hôn mê bất tỉnh.

Trương mỹ nhân không phải đang ngủ sao? Sao bây giờ lại đến đây? Địch Thanh suy nghĩ, cảm giác thấp thỏm trong lòng. Hắn lại gọi thêm vài tiếng, nhưng Trương mỹ nhân vẫn hôn mê bất tỉnh. Địch Thanh vốn định đỡ nàng lên trên ghế, sau đó sẽ đi tìm người, nhưng nghĩ lại, hung thủ vẫn còn đang ở đây. Trương mỹ nhân ở lại chỗ này rất không thích hợp.

Cắn răng một cái, hắn ôm Trương mỹ nhân ra ngoài, định tìm một cung nữ để giao lại Trương mỹ nhân.

Mới ra khỏi lầu các, đối diện liền truyền đến tiếng bước chân chạy đến. Có mấy người cầm theo đèn. Cô gái dẫn đầu thấy Địch Thanh ôm một cô gái, thì nhịn không được hét lên một tiếng. Tiếng kêu kia tựa hồ như có lực lây truyền, thoáng cái mấy người liền cùng hét ầm lên.

Địch Thanh nhíu mày, định lên tiếng thì đã nghe tiếng cô gái nói:

- Đừng kêu nữa. Địch Thanh, chuyện gì xảy ra thế?

Giọng nói của cô gái kia mềm mại, đó là công chúa Thường Ninh.

Địch Thanh vừa nhìn thấy Thường Ninh, vừa mừng vừa sợ nói:

- Công chúa, người hẹn thần ở chỗ này. Nhưng sao lại không đến?

Thường Ninh vô cùng kinh ngạc nói:

- Chờ một chút. Ta hẹn ngươi? Ta không có.

Địch Thanh nhìn vẻ mặt khó hiểu của Thường Ninh, thì trong lòng trầm xuống. Hắn nhìn ra Thường Ninh không có nói dối. Nếu không phải là Thường Ninh hẹn hắn thì cung nữ đó là ai? Vì sao phải dụ hắn đến Triêu Phượng các? Chẳng lẽ muốn giết người rồi đổ lên đầu Địch Thanh hắn?

Rốt cuộc là ai đã thù hận hắn? Rồi bày ra bố cục này để hại hắn? Địch Thanh rối loạn,lại thấy Thường Ninh nhìn hắn vẻ mặt khác thường, lúc này mới ý thức được mình còn ôm Trương mỹ nhân liền vội vàng giao lại Trương mỹ nhân cho Thường Ninh, Địch Thanh đơn giản nói lại tình huống đã xảy ra.

Thường Ninh lập tức bảo cung nữ đi tìm ngự y đến trị liệu cho Trương mỹ nhân. Đôi mắt đẹp nhìn chằm chằm vào hắn. Địch Thanh không thẹn với lương tâm nên cũng không lảng tránh, sau khi kể lại xong, hắn nhíu mày nói tiếp:

- Trưởng công chúa, cung nữ kia tìm thần không phải là người của công chúa phái đi?

Thường Ninh lắc đầu, trong mắt hiện lên sự lo lắng, nói khẽ với người cung nữ bên cạnh vài câu. Người cung nữ kia vội vã chạy đi. Sau đó ít phút, cách đó không xa có tiếng ồn ào. Không ít cung nữ người trong cung vọt tới.

Thì ra tiếng cung nữ vừa thét ra đã kinh động không ít người nơi khác. Mọi người nhìn thấy án mạng thì liền ồn ào. Tin tức truyền ra, không bao lâu sau, Triệu Trinh vội vã chạy tới, giận dữ nói:

- Chuyện gì đã xảy ra? Mỹ nhân đâu?

Thường Ninh liền nói qua sự tình. Triệu Trinh nghe xong, trong lòng phát lạnh, thầm nghĩ nơi này là cấm cung, tại sao lại xảy ra chuyện giết người? Nghe Thường Ninh nói rằng Địch Thanh đã cứu mạng Trương mỹ nhân, Triệu Trinh trong lòng thầm kêu may mắn. Nếu hung thủ làm hại Trương mỹ nhân thì hậu quả sẽ khó có thể tương tượng nổi. Đang định hỏi tung tích của Trương mỹ nhân thì một một cô gái liền thất thểu nhào ra, lao vào lòng Triệu Trinh, khóc nức nở:

- Thánh thượng….

Nàng kia chính là Trương mỹ nhân. Trương mỹ nhân vừa nãy được Thường Ninh cho gọi ngự y nên giờ này đã tỉnh.

Triệu Trinh nhìn thấy Trương mỹ nhân búi tóc rối bù, nước mắt đầy mặt thì trong lòng thở phào nhẹ nhõm, ôm lấy Trương mỹ nhân nói:

- Mỹ nhân, nàng không có việc gì là tốt rồi.

Trương mỹ nhân đột nhiên tránh cái ôm của Triệu Trinh, quỳ xuống nói:

- Thánh thượng, thiếp thiếu chút nữa là không còn được gặp người. Mong người hãy vì thiếp mà làm chủ, nghiêm phạt hung đồ.

Triệu Trinh nâng Trương mỹ nhân dậy nói:

- Mỹ nhân, nàng có chuyện gì thì cứ đứng lên mà nói. Trẫm nếu tìm được hung đồ thì sẽ trừng phạt ổn thỏa. Chỉ tiếc là…Hung đồ bây giờ vẫn còn chưa tìm được.

Rồi lại quay sang bên cạnh:

- Diễm Sĩ Lương, trầm truyền ý chỉ….

Y định cho tìm bộ đầu Khai Phong đến tra án, nhưng đột nhiên Trương mỹ nhân lại nói:

- Thánh thượng, Địch Thanh chính là hung thủ giết người. Y còn định giở trò với thiếp. Xin Thánh thượng hãy làm chủ cho thiếp.

Khi nàng ta nói vừa dứt, mùa hè nắng chói chang lập tức bốn phía trở nên đóng băng, vắng vẻ.

Địch Thanh nghe xong, sắc mặt biến đổi, hầu như không tin được vào lỗ tai của mình. Trương mỹ nhân nói hắn là hung thủ? Trương mỹ nhân chẳng lẽ hồ đồ rồi? Nhưng nhìn thế nào cũng thấy Trương mỹ nhân rất là tỉnh táo.

Vì sao Trương mỹ nhân lại nói hắn là hung thủ? Hắn và Trương mỹ nhân căn bản không có liên quan, vì sao Mỹ nhân lại hại hắn?

Triệu Trinh cũng lặng người, hoài nghi nhìn Địch Thanh, nghiêm giọng nói:

- Nàng nói hung thủ chính là Địch Thanh?

Trương mỹ nhân nức nở nói:

- Không sai, Thánh thượng. Xin người hãy hạ chỉ bắt hắn lại. Thiếp…không muốn sống nữa.

Dứt lời liền quay đầu đi, Triệu Trinh cuống quýt kéo Trương mỹ nhân lại, nhìn Địch Thanh lạnh lùng nói:

- Địch Thanh…ngươi thật sự vô lễ với Trương mỹ nhân sao?

Địch Thanh rốt cuộc đã hồi phục lại tinh thần, kiên định nói:

- Thần không có.

Trương mỹ nhân đột nhiên chỉ vào Địch Thanh, kêu lên:

- Đến giờ mà ngươi không nhận sao? Địch Thanh, ngươi có dám lặp lại những vừa rồi đã nói với ta không?

Địch Thanh chăm chú để ý nét mặt Trương mỹ nhân, nhíu mày nói:

- Vừa rồi ta chẳng nói cái gì với cô nương cả.

Lúc này, giọng nói của hắn trở nên lạnh lùng.

Tào hoàng hậu cũng đã chạy tới, Thường Ninh lập tức tiến lên, thấp giọng nói với Tào hoàng hậu vài câu. Vừa rồi Thường Ninh cảm giác sự việc có chút kỳ lạ, đã phái cung nữ mời Tào hoàng hậu đến.

Tào hoàng hậu nghe Thường Ninh nói xong, thần sắc trở nên nghiêm trọng, nhìn Trương mỹ nhân muốn nói gì lại thôi, tiến lên nhắc nhở Triệu Trinh:

- Quan gia, chuyện này tựa hồ có chút kỳ quặc. Không ngại ta nói vài câu với riêng nàng không?

Nhìn thấy Triệu Trinh lạnh lùng nhìn Địch Thanh, Tào hoàng hậu thấp giọng nói:

- Quan gia, Địch Thanh cũng không phải là đồ háo sắc. Lẽ nào ngài lại không biết?

Triệu Trinh suy nghĩ, biết Tào hoàng hậu nói không sai. Y không phải là không tin Địch Thanh, nhưng y lại càng tin Trương mỹ nhân. Từ khi Trương mỹ nhân vào cung, thanh tao, ôn nhu lịch sự, am hiểu lòng người, tính tình lại giống như Vương Như Yên lúc trước, Triệu Trinh đem mối tình tưởng niệm của mình di chuyển sang người Trương mỹ nhân. Một người như vậy nói lẽ nào y không tin.

Nhưng Triệu Trinh bây giờ không còn là Triệu Trinh năm đó. Suy nghĩ một chút, biết Tào hoàng hậu nói có lý, nên căn dặn:

- Diêm Sĩ Lương, ngươi triệu Cát Hoài Mẫn vào cung. Địch Thanh…

Dừng lại một chút, Triệu Trinh chậm rãi nói tiếp:

- Ngươi nếu như không thẹn với lương tâm thì tạm thời ở lại Tử Vi Các chờ trẫm điều tra rõ tất cả rồi sẽ quyết định sau. Ý của ngươi như thế nào?

Địch Thanh nhìn thấy sắc mặt sa sầm của Triệu Trinh, thì trong lòng càng thêm chùng xuống, thầm nghĩ hắn đang bị hiềm nghi, Triệu Trinh không cho người trói hắn lại đã là nể mặt hắn lắm rồi, lập tức nói:

- Thần tuân chỉ.

Hai người hầu dẫn Địch Thanh đến lầu các. Trong lầu các rất vắng vẻ. Địch Thanh vừa bước vào thì cánh cửa liền bị đóng lại. Có mấycung nhân thần sắc khẩn trương canh giữ ở bên ngoài. Hiển nhiên là canh chừng không cho Địch Thanh đào tẩu.

Địch Thanh ngồi xuống ghế, trong lòng nghĩ đến: “Nếu ta muốn đi, mấy người thái giám này cũng không ngăn cản được. Nhưng Địch Thanh ta không thẹn với lương tâm, làm sao có thể bỏ đi được? Trương mỹ nhân và ta không hề có quen hệ gì, vì sao cô ta lại vu oan cho ta?”

Địch Than suy nghĩ mãi nhưng không giải thích được. Không bao lâu sau, ngoài cửa đột nhiên vang lên tiếng bước chân dồn dập. Địch Thanh nhìn xuyên qua tấm màn cửa sổ bằng lụa mỏng, chỉ thấy bên ngoài chạy đến một đội cấm quân, cầm trong tay cây đuốc, thần sắc giống như chiến đấu với quân địch. Chỉ trong giây lát, đạo cấm quân kia đã vây quanh Tử Vi Các. Người dẫn đầu chính là Cát Hoài Mẫn. Địch Thanh không khỏi kinh hãi, thầm nghĩ: “Lẽ nào, Triệu Trinh vừa rồi chỉ là giả vờ ổn định ta, thời khắc này lại không nghe ta giải thích. Chẳng lẽ muốn giết ta?” Hắn đã ở chung một thời gian với Triệu Trinh. Tuy rằng Triệu Trinh mỗi lần đều tiếp hắn với vẻ mặt ôn hòa, nhưng chẳng hiểu vì sao, hắn trong lòng càng cảm thấy xa cách Triệu Trinh.

Về phần là nguyên nhân gì thì hắn không muốn nghĩ sâu thêm.

Nhưng những năm gần đây, Triệu Trinh đối xử với hắn không tệ. Chỉ có hôm nay, bóng đêm bao trùm, nhưng hắn vẫn nhìn thấy sát khí trong mắt Triệu Trinh. Địch Thanh trong lòng cảm giác được Triệu Trinh không còn là Thánh công tử của năm đó nữa, mà là quân vương thiên hạ, cửu ngũ chí tôn nắm giữ quyền sinh sát trong tay.

Cát Hoài Mẫn cho cấm quân bao quanh Tử Vi Các, không nói với Địch Thanh một câu nào. Địch Thanh ngồi giữa phòng công đường xử án, nhìn ngọn đèn lấp lóe, khóe miệng hiện lên nụ cười thản nhiên.

Chẳng bao lâu sau, đột nhiên một tiếng bước chân rất nhỏ truyền đến. Tiếng bước chân lúc này đã tới trước cửa. Một tiếng gõ cửa nhẹ vang lên. Địch Thanh lúc này không biết người đến là ai, bình tĩnh nói:

- Mời vào!

Cửa phòng bị đẩy ra. Thường Ninh mặc chiếc áo vàng, lẳng lặng nhìn Địch Thanh.

Địch Thanh hơi bất ngờ, đột nhiên nghĩ đến:

“Hôm nay ở trong cung, đến thăm ta sợ rằng chỉ có một mình Thường Ninh thôi.”

Hắn cảm thấy cảm kích, tuy nhiên chỉ là tình bằng hữu. Thường Ninh bước tới, ngồi đối diện với Địch Thanh, ánh mắt dịu dàng ôn hòa dưới ngọn đèn, có chút phát ra tia lửa nóng.

Trầm mặc một lát, Thường Ninh lại dời ánh mắt, khẽ mở đôi môi mọng đỏ, thấp giọng nói:

- Người bị giết là Chiêu Dung, họ Thượng. Bởi vì năm xưa đắc tội với Quách hoàng hậu, nên bị biếm vào lãnh cung. Sau khi Quách hoàng hậu chết, Chiêu Dung vẫn ở lại lãnh cung. Nhưng bởi vì trong cung thiếu người nên bị điều đi. Chiêu Dung này thêu rất khéo. Ta lúc ấy vì có chuyện đặc biệt nên rất muốn học thêu. Tối nay ta tới đây, vốn là tìm nàng.

Địch Thanh nhớ tới nàng kia sống cuộc sống thê lương, cô độc, chẳng khác nào như chết đi. Nay trông thấy khuôn mặt bình tĩnh của Thường Ninh, đột nhiên cũng có vài phần đồng tình với Thường Ninh.

Trưởng công chúa thân là em gái thiên tử. Thoạt nhìn vinh quanh hàng vạn hàng nghìn. Nhưng trong cái lãnh cung u ám này, thì may mắn hơn Chiêu Dung bao nhiêu?

Thường Ninh đến tìm Chiêu Dung, chẳng lẽ chỉ muốn học thêu?

Chuyện này kỳ thực chẳng có liên quan gì đến mình, Địch Thanh liền bình tâm lại, hỏi:

- Có tra ra ai đã giết nàng chưa?

- Vốn chỉ có mình ngươi!

Thường Ninh buồn bãi nói. Địch Thanh nhếch một nụ cười đầy mỉa mai, nhưng không nói gì nữa. Thường Ninh lại nói tiếp:

- Hiện tại tình huống của ngươi không được tốt. Bởi vì mọi căn cứ chính xác đều bất lợi đối với ngươi. Diêm Sĩ Lương vốn có phái một cung nhân đi theo ngươi. Nhưng người cung nhân này nói chỉ đi một lát thì đã không thấy ngươi đâu. Do đó, y không chứng minh được có cung nữ đến tìm huynh. Ta cũng không hiểu, trước đây ngươi là Điện Tiền thị vệ, đáng nhẽ phải biết nhiều quy củ chứ…

Thường Ninh nói như vậy, tựa hồ như trách cứ Địch Thanh lần này đã quá lỗ mãng.

Địch Thanh mỉm cười nói:

- Thần tuy là thị vệ không hiểu quy củ, nhưng thần không phải là một người không tuân thủ theo quy cũ.

Hắn lảng tránh ánh mắt đầy hàm ý thăm dò của Thường Ninh, chỉ nhìn vào ngọn đèn dầu cô độc trong lầu các. Hắn không có gì phải giải thích cả. Hắn biết Thường Ninh muốn tìm hắn, hắn phải đi ngay, cho dù có phá hư quy luật cũng không sao.

Có những người, sống luôn tuân thủ theo quy củ, nhưng có một số người, có một số việc còn quan trọng hơn cả quy củ!

Thường Ninh u oán thở dài, lại nói:

- Trương mỹ nhân vốn không thoải mái, nên ngủ không nhiều. Sau khi Thánh thượng trở về nghỉ ngơi, Trương mỹ nhân đột nhiên đau đầu, bảo muốn đi dạo xung quanh một chút. Nàng đi tới trước các nơi Chiêu Dung bị giết không xa, thấy cung nữ vẫn còn đi theo thì đột nhiên nổi giận, nói rằng nàng ta muốn một mình, đừng ai đi theo nữa. Cung nữ này không thể làm gì khác là ở lại tại chỗ. Sau đó thì nàng ta gặp ngươi.

Đôi mắt đẹp của Thường Ninh chăm chú nhìn Địch Thanh đầy hàm ý:

- Trương mỹ nhân nói rằng đã gặp ngươi. Còn ngươi chẳng biết vì sao lại đi ngang trước cửa Chiêu Dung... 

Địch Thanh nhướng mày, vốn định nói là không thể nào, nhưng rồi lại im lặng. Thường Ninh không nghe tiếng Địch Thanh giải thích, liền nói tiếp:

- Trương mỹ nhân nhìn thấy ngươi, vốn định rời đi. Nàng ấy nghĩ ở cùng một chỗ với ngươi không tiện...

Nói tới đây, sắc mặt Thường Ninh hơi ửng đỏ, chẳng phải hiện giờ nàng cũng đang ở cùng một chỗ với Địch Thanh sao, nhưng nàng lại không có cảm giác không thích hợp. Nhưng nếu người ngoài nhìn thấy thì như thế nào? Thường Ninh thật nhanh nói tiếp:

- Trương mỹ nhân muốn rời đi, nhưng không ngờ lại bị ngươi ngăn cản, trêu đùa kể chuyện ở tây bắc cho nàng ấy. Trương mỹ nhân muốn đi, không ngờ ngươi càng nói càng không dừng lại, lại còn động chân động tay. Trương mỹ nhân nói rằng, có lẽ ngươi thấy nàng ấy hai lần tìm ngươi nói chuyện thì tưởng rằng nàng ấy xem trọng ngươi. Bởi vậy nên mới có sự vô lễ đó.

Địch Thanh nghe Thường Ninh nói xong, thì ý nghĩ trong đầu càng thêm rõ ràng.

Hắn có thể vào cung, cũng bởi vì Trương mỹ nhân. Hắn lưu lại không thể đi, cũng bởi vì Trương mỹ nhân. Cho tới bây giờ, hắn rơi vào một cái bẫy cũng là Trương mỹ nhân lập nên mà căn bản không hề xảy ra chuyện gì.

Tất cả đều do Trương mỹ nhân. Cô ta muốn giết chết Địch Thanh hắn. Nhưng vì sao Trương mỹ nhân lại hận Địch Thanh hắn như vậy? Hắn cũng không rõ.

Thường Ninh ngồi đối diện với Địch Thanh, sắc mặt bị l ánh đèn chiếu vào ửng đỏ, nhưng chẳng biết vì sao lại đột nhiên trở nên trắng bệch:

- Ngươi cố tình nắm tay Trương mỹ nhân. Trương mỹ nhân cố sức giãy dụa, nhưng chạy không thoát khỏi tay ngươi. Cổ tay của nàng bây giờ vẫn còn dấu vết bầm tím. Chính vì điều này mà Thánh Thượng vô cùng tức giận ngươi.

Địch Thanh rùng mình, thầm nghĩ Trương mỹ nhân thậm chí sớm làm bị thương tay của mình. Có thể nói là dùng trăm phương ngàn kế để đối phó hắn. Kết quả sẽ rất đơn giản. Chỉ cần Triệu Trinh nhận định Địch Thanh có tội thì hắn chỉ có một kết cục là chết!

Trên đời này, có rất nhiều chuyện, người bị gán tội chết không phải đáng chết, mà là bị cho rằng là có tội.

Thường Ninh hiển nhiên sớm biết đạo lý này, đôi mi thanh tú cau lại nói:

- Trương mỹ nhân sau lại nói, huynh quá mức làm càn, Chiêu Dung trong lầu các vì nhìn thấy chướng mắt nên đi ra quát lớn hai câu. Kết quả ngươi cuồng tính bộc phát, tràn ngập hung hãn, Chiêu Dung thấy tình thế không tốt, định nói cho Thánh Thượng biết chuyện này, không ngờ ngươi lại rút cây chủy thủ. Chiêu Dung thấy thế liền cuống quýt trốn vào phòng trong. Ngươi đột nhiên đánh Trương mỹ nhân ngất xỉu, sau đó đuổi theo. Trương mỹ nhân trong lúc mơ màng nhìn thấy ngươi bắt được Chiêu Dung, rồi giết chết nàng ấy. Lúc đó Trương mỹ nhân hoảng sợ quá độ, nên hôn mê bất tỉnh. Chuyện sau đó…

Thường Ninh khẽ thở dài:

- Cùng với những gì ta thấy chính là ngươi ôm Trương mỹ nhân trốn đi, nhưng kết quả lại gặp phải ta. Ngươi rơi vào đường cùng, không thể làm gì khác hơn là giao Trương mỹ nhân cho ta.

Địch Thanh trầm ngâm hỏi:

- Nếu nói như vậy, ta vì sao không sợ Trương mỹ nhân nói ra chân tướng, đơn giản giết người diệt khẩu là được?

Thường Ninh nói:

- Hoàng hậu cũng đưa ra nghi vấn này. Cho rằng Trương mỹ nhân nói có chút không hợp tình hợp lý. Nhưng Trương mỹ nhân lại nói, trời không che được hết thảy, tất cả những điều vô lý đều có thể. Tào hoàng hậu nghe xong, cũng không truy hỏi nữa.

Địch Thanh cười khổ một tiếng, thật lâu sau mới nói:

- Công chúa, cám ơn người đã nói cho thần biết. Xin….người hãy trở về.

Hắn đột nhiên cảm thấy chuyện này trong tưởng tượng còn khó làm hơn. Nếu tội danh bị định, hắn sẽ có khả năng bị chém đầu. Chuyện này Thường Ninh công chúa cũng không cản được. Hắn không muốn Thường Ninh tham dự vào.

- Hôm nay ta đi, phỏng chừng sẽ không trở về.

Thường Ninh nhẹ giọng nói, thần sắc kiên quyết.

Địch Thanh ngẩn ra:

- Không quay về, vì sao?

Thường Ninh công chúa nói:

- Trong lòng Thánh Thượng đã định ngươi có tội. Nhưng Tào hoàng hậu lại nói vụ án này có vấn đề, không nhất thiết phải để cho trung thần chịu oan. Cho nên sau khi nghe lời của ta và Trương mỹ nhân nói xong thì đã phái Ngự Sử Bao Chửng đến đây tra án. Bao Chửng đã đến hiện trường kiểm tra, sáng sớm mai sẽ có kết luận.

Ngoài miệng thì nói như thế nhưng trong lòng lại nghĩ “Lúc này, Thánh Thượng sợ ngươi lẩn trốn, nên bảo ta đến canh chừng ngươi. Hoàng huynh đang động sát khí, ta lúc này mới chủ động đến đây để ổn định Địch Thanh. Có ta ở đây, đám người Cát Hoài Mẫn sẽ không dám làm xằng bậy. Ta không làm được gì nhiều, chỉ có bảo vệ Địch Thanh thêm một phút một giây nữa thôi”. Nhưng những lời này không thể nói ra.

Địch Thanh thầm nghĩ: “Nếu ta muốn trốn đi thì đừng nói là nàng, cho dù là cấm quân của Cát Hoài Mẫn cũng chẳng ngăn được ta? Nhưng Địch Thanh ta không thẹn với lương tâm, thì cần gì phải bỏ trốn? Bao Chửng tuy nói làm việc lưu loát, phán đoán như thần, nhưng vụ án này cực kỳ khó xử lý, chỉ sợ hắn cũng bất lực”.

Hai người theo đuổi tâm sự của mình, ngồi đối diện không nói. Thường Ninh đối mặt với Địch Thanh đang rất bình tĩnh, trong lòng cảm thấy kỳ quái, nhất thời nỗi lòng như nước thủy triều dâng lên. Đêm khuya thanh tĩnh, rốt cuộc không khống chế được cơn buồn ngủ. Vốn định dựa bàn nghỉ ngơi, nhưng cơn buồn ngủ lại kéo tới, nên rất nhanh ngủ ngay.

Trời sáng, Thường NInh bỗng dưng giật mình tỉnh giấc. Ngẩng đầu lên, phát hiện Địch Thanh không có ở đây. Nàng lập tức quay đầu nhìn lại, chỉ thấy Địch Thanh đang đứng gần cửa sổ.

Tia nắng ban mai rớt xuống trên mặt. Trời ngày mùa thu thật lặng lẽ, hiu quạnh.

Thường Ninh chậm rãi đứng dậy, phát hiện một chiếc áo dài nam rớt xuống đất. Thì ra tối hôm qua nàng dựa vào bàn ngủ, Địch Thanh sợ nàng cảm lạnh, nên cởi áo khoác khoác lên thân thể nàng.

Nhặt chiếc áo lên, Thường Ninh nhìn bóng dáng cô đơn kia, trong lòng dâng lên một tia kiêu hãnh. Địch Thanh không có ý đào thoát, không phụ lòng tín nhiệm của nàng. Trong lúc mọi người hoài nghi Địch Thanh, nhưng nàng lại rất tin tưởng Địch Thanh.

Loại cảm giác này, khiến nàng cảm thấy tất cả đều rất đáng giá.

Nàng biết Địch Thanh rất thích Dương Vũ Thường, thích một nữ tử mà nàng chưa từng gặp mặt. Địch Thanh vì thích nàng ấy mà không tiếc liều mình tới cứu.

Nàng rất hâm mộ Dương Vũ Thường, nhưng trong giây phút Vũ Thường ra đi, trong lòng nàng đã quyết định, nàng sẽ đứng bên cạnh Địch Thanh. Bởi vì….bọn họ là bằng hữu.

Có thể làm bạn cùng Địch Thanh, nàng cảm thấy cuộc sống của mình bớt cô đơn hơn.

Địch Thanh cảm nhận được Thường Ninh đang đi tới đằng sau nên chậm rãi quay người lại, đối mặt với Thường Ninh, nói:

- Công chúa, cám ơn công chúa đã bảo vệ thần một đêm.

Trong lòng Thường Ninh thầm run lên, không nghĩ Địch Thanh nhìn thấu tâm tư của nàng. Địch Thanh lại nói tiếp:

- Thần nghĩ rồi, chuyện này thần nên giải thích rõ với Thánh thượng. Thần không có làm, thần vô tội.

Thường Ninh nhìn vào đôi mắt vừa sáng ngời vừa có phần tang thương, đưa chiếc áo qua cho Địch Thanh, rồi nói:

- Ta tin ngươi vô tội.

Trong giây lát, hai người tựa như đều nghĩ không cần nói cái gì nữa.

Có nói, Bằng hữu ý hợp tâm đầu, không cần giải thích gì nữa.

Chẳng bao lâu sau, cánh cửa phòng mở ra. Cát Hoài Mẫn mang theo đại mã kim đao bước đến, lạnh lùng nói:

- Địch Thanh, Thánh thượng ra lệnh ngươi đến điện Sùng Chính để nhận thẩm tra. Ngươi biết điều thì nên đi theo ta, nếu như không thì….

Lời còn chưa dứt thì Địch Thanh đã bước ra khỏi lầu các.

Ngoài cửa sớm đã có cấm quân bảo vệ đứng đó, vốn phòng bị Địch Thanh đào tẩu. Khi nhìn thấy Địch Thanh bước ra thì liền xôn xao, vọt đến một bên. Mặc dù không lên tiếng, nhưng trong mắt vẫn hiện lên sự tôn kính.

Cát Hoài Mẫn thấy thế, vừa tức vừa giận, thầm nghĩ đám người này quả thực là vô pháp vô thiên. Nếu tối hôm qua Địch Thanh thực sự muốn chạy trốn, chỉ bằng đám người này, sợ rằng không giữ được Địch Thanh. Cát Hoài Mẫn xuất thân thế gia tướng môn, thanh danh hiển hách, đã sớm chướng mắt với Địch Thanh, đơn giản là vì lúc này nổi danh nhất, được bách tính ca ngợi sớm tối tại kinh thành chính là Địch Thanh, chứ không phải là Tam nha trường quan Cát Hoài Mẫn y.

Lúc trước y nghe nói có người kể chuyện tuyên dương công lao của Địch Thanh thì dâng một quyển mật tấu nói rằng Địch Thanh mua chuộc lòng người, vốn có ý chống đối lại. Kết quả, chuyện này mặc dù truyền đến tai thiên tử, nhưng cũng chẳng giải quyết được chuyện gì. Cát Hoài Mẫn lần trước không làm gì được Địch Thanh, thì lần này sẽ không cho Địch Thanh cơ hội nữa.

Kè kè đi theo sát sau Địch Thanh, Cát Hoài Mẫn tay cầm chuôi đao, thầm nghĩ, chỉ cần Địch Thanh có ý định chạy trốn thì y sẽ xuất đao.

Địch Thanh bước chân trầm ổn đến điện Sùng Chính. Cho nên Cát Hoài Mẫn không có cơ hội rút đao.

Điện Sùng Chính vốn có tên là điện Giảng Vũ. Mặc dù Tống Thái Tổ đã truyền xuống gia pháp “sùng văn ức võ”, nhưng bản thân cũng là một cao thủ. Năm đó, chỉ bằng hai bàn tay mà dựng nên non sông to lớn, thời điểm mới xây dựng đất nước, điện Giảng Vũ là nơi quân nhân thi triển võ nghệ. Thời hậu Thái Tông, điện Giảng Vũ được thay bằng tên điện Sùng Chính. Nhưng hầu hết thời gian quân nhân đều luyện tập võ nghệ ở chỗ này.

Địch Thanh thầm nghĩ, điện Giảng Vũ được đổi thành điện Sùng Chính, ý rằng Đại Tống không gặp cường địch thì thật sự không cần đến quân nhân.

Trong lúc suy nghĩ, Địch Thanh đã bước vào trong điện. Cát Hoài Mẫn lại bị chặn ở bên ngoài điện. Trong đại điện, Triệu Trinh, Tào hoàng hậu, Diêm Sĩ Lương, Trương mỹ nhân đều có mặt. Trong điện còn có hai người, một là Bộ đầu Khâu Minh Hào của Khai Phong Phủ, còn một người chính là Ngự Sử Đài Bao Chửng. Công chúa Thường Ninh không bao lâu sau cũng yên lặng tiến vào điện, mà Triệu Trinh cũng không ngăn cản.

Chuyện này mặc dù rất nghiêm trọng, nhưng không thể nghi ngờ là càng ít người biết càng tốt. Triệu Trinh nghe theo lời của Tào hoàng hậu, chỉ ra lệnh cho hai người Bao Chửng và Khâu Minh Hào vào cung tra án.

Bao Chửng vẫn như cũ, thấy Địch Thanh tiến đến, cũng không nhìn, chỉ nhíu mày, hiển nhiên cho rằng xử lý vụ án này không hề đơn giản.

Tào hoàng hậu nhìn thấy Địch Thanh đi vào, nhỏ giọng bên tai Triệu Trinh:

- Quan gia, nếu Địch Thanh muốn chạy trốn thì tối hôm qua lúc Thường Ninh ở bên cạnh hắn, hắn có thể dùng Thường Ninh để đào tẩu rồi. Nhưng chung quy hắn vẫn không có trốn. Thứ nhất bởi vì hắn không thẹn với lương tâm. Thứ hai bởi vì hắn hoàn toàn tin tưởng Quan gia.

Triệu Trinh hừ lạnh một tiếng, từ chối cho ý kiến. Nhìn thấy Địch Thanh đi vào, chỉ nói:

- Bao Chửng, trẫm lệnh cho khanh tra rõ án. Khanh đã có kết luận chưa?

Lúc Địch Thanh bước vào trong điện, đột nhiên nghe được hai bên hành lang đại điện có tiếng hít thở truyền đến, thì trong lòng run sợ. Hắn biết Triệu Trinh đã có sự cảnh giác với hắn nên cho cấm quân mai phục hai bên. Nếu Bao Chửng thực sự nói hắn có tội, chỉ sợ đám cấm quân này sẽ lao ra.

Bao Chửng thi lễ nói:

- Khởi bẩm Thánh Thượng, thần cho rằng, Địch Thanh cũng không phải là hung thủ sát hại Chiêu Dung.

Lời vừa nói ra, cả bốn người ngồi đó đều kinh hãi, Địch Thanh thì ngẩn ra, không rõ vì sao Bao Chửng lại khẳng định như vậy.

Trương mỹ nhân lộ vẻ giận dữ, đột nhiên gục lên bàn, bờ vai run lên, hiển nhiên là khóc nức nở. Triệu Trinh thấy thế, vừa đau lòng, vừa buồn bực, quát hỏi:

- Bao Chửng, khanh dựa vào cái gì mà kết luận như vậy?

Bao Chửng nói:

- Vết thương trí mạng trên người Chiêu Dung là ở yết hầu. Nói như vậy, hung thủ phải có một con dao sắc bén trong tay. Khi thần vào cung đã bảo Khâu bộ đầu tìm kiếm hung đao. Chuyện này sẽ do Khâu bộ đầu nói rõ.

Khâu Minh Hào tiến lên nói:

- Khởi bẩm Thánh Thượng, hung đao đã tìm được.

Lúc này có người trình lên một cao dao đặt trên chiếc khay bạc. Thân dao ngắn, to, trên dính vết máu. Nhưng nhìn qua thì đó là một con dao cắt rau.

Triệu Trinh nhìn xong, nhíu mày nói:

- Ngươi làm sao tìm được hung đao này?

Bao Chửng nói:

- Văn võ bá quan khi nhập triều đều không được mang theo dao sắc bén. Thần tra ra được, lần này Địch Thanh đi vào, trước tiên đã đến phòng nghỉ để kiểm tra thân thể, phải cất toàn bộ dao đi thì mới được vào cung, sau khi ra khỏi cung thì mới có thể lấy được dao. Thần nói chắc chắn như vậy đương nhiên có quan kiểm tra trong triều chứng minh. Đã như vậy thì lúc đó trong người hắn không có hung khí. Thử hỏi, nếu hắn giết người thì hung khí từ đâu mà đến?

Triệu Trinh nghẹn lời, nhưng Khâu Minh Hào lại nói tiếp:

- Nhìn hình dạng của con dao thì rõ ràng là dao trong bếp của hoàng cung. Địch Thanh vào cung, lẻn vào bếp thì lấy dao thì hoàn toàn có khả năng này.

Bao Chửng nói:

- Trong Triêu Phượng các không có bếp thì tất nhiên sẽ không có dao làm bếp. Bởi vì ăn uống trong hậu cung toàn bộ đều do ngự trù thống nhất cung cấp. Ngự trù cách Quan Nguyệt đình một khoảng cách khá xa, nên việc đi lại cũng khó khăn không ít. Căn cứ vào thời gian mà ba người Lý cung nhân, Trưởng công chúa và Trương mỹ nhân nói để suy đoán, Địch Thanh muốn lấy hung dao thì thời gian tất có chút gấp gáp.

Khâu Minh Hào thản nhiên nói:

- Gấp gáp thì gấp gáp, nhưng không giải thích được chuyện gì.

Bao Chửng hỏi ngược lại:

- Thử hỏi Khâu bộ đầu, trong thời gian gấp gáp như vậy, lẽ nào Địch Thanh thật sự có bản lĩnh biết trước, biết tại Triêu Phượng các sẽ gặp được Trương mỹ nhân, rồi biết phải giết Chiêu Dung. Cho nên tận lực lấy đi hung đao đến Triêu Phượng Các để giết người sao?

Khâu Minh Hào hơi giật mình, một lát sau mới nói:

- Người có bệnh cuồng trong tâm thì trước nay hành sự không bao giờ nói lý. Bao Ngự sử chỉ bằng việc suy đoán nguyên do này mà cho rằng Địch Thanh vô tội, thì dường như không có sức thuyết phục.

Triệu Trinh nói:

- Khâu bộ đầu nói không sai.

Bao Chửng nhíu mày nói:

- Suy đoán này quả thật khó có khả năng chứng minh Địch Thanh không giết người. Nhưng ta tin tưởng Địch Thanh vô tội khi phát hiện hung khí. Khâu bộ đầu, ta và ngài đều ở chỗ bí mật góc tây bắc Triêu Phượng Các phát hiện được hung khí đúng không?

Khâu Minh Hào gật đầu:

- Không sai, chỗ đó có chút âm u, hiển nhiên là có dụng ý khác người nên mới vứt đao ở đó.

Bao Chửng mỉm cười:

- Nhưng ta có thể chứng minh, con dao đó tuyệt đối không phải do Địch Thanh vứt bỏ.

Khâu Minh Hào ngẫm nghĩ một lát mới nói:

- Bao Ngự Sử làm sao có thể kết luận như vậy?

Bao Chửng nói:

- Nếu theo như Trương mỹ nhân đã nói, Địch Thanh trêu ghẹo nàng ấy, lại sợ Chiêu Dung tiết lộ nên lúc này mới nảy lòng sắc tâm, giết người diệt khẩu. Địch Thanh trước tiên đánh ngất xỉu Trương mỹ nhân, sau đó giết chết Chiêu Dung, rồi vứt bỏ con dao ở góc tây bắc Triêu Phượng Các, sau đó ôm lấy Trương mỹ nhân rời đi, ý đồ gây rối, nhưng không ngờ lại gặp phải Thường Ninh công chúa. Địch Thanh có tật giật mình, nên đành giao Trương mỹ nhân cho Thường Ninh công chúa. Không biết Thánh Thượng đang có suy nghĩ như vậy phải không?

Triệu Trinh phẫn nộ đập bàn nói:

- Chính là như vậy.

Sau đó hung hăng liếc mắt nhìn Địch Thanh, lộ ra hung ý. Y dễ dàng tha thứ cho Địch Thanh chống lại mệnh lệnh của y, nhưng thực sự không thể tha thứ cho Địch Thanh đã đùa giỡn với người mà y yêu nhất.

Bao Chửng chậm rãi nói:

- Xin Thánh Thượng đợi một chút, đừng sốt ruột. Kết luận này chẳng qua là do Trương mỹ nhân nói ra. Nhưng thần phát hiện có vấn đề. Đầu tiên, Địch Thanh vì sao không sợ Trương mỹ nhân nói ra chuyện ác của hắn, mà không giết Trương mỹ nhân để diệt khẩu?

Khâu Minh Hào nói:

- Điều này có thể giải thích, nhưng ta nghĩ không cần phải giải thích, đúng không?

Ý tứ của gã mọi người đều rõ, thầm nghĩ Khâu Minh Hào cho rằng Địch Thanh thấy sắc nảy lòng tham, trong lúc nhất thời không muốn giết Trương mỹ nhân. Sau lại gặp phải Thường Ninh, lúc đó muốn hạ thủ thì đã muộn rồi.

Bao Chửng gật đầu:

- Không sai, Địch Thanh không hạ thủ tất có lý do để giải thích. Nhưng Khâu bộ đầu lại quên mất một điểm. Địch Thanh trong lúc kiểm tra Thượng mỹ nhân có chết hay không thì giày đã dính phải vết máu.

Khâu Minh Hào nhíu mày nói:

- Điều đó chứng minh được Địch Thanh kẻ bị tình nghi giết người.

Bao Chửng sắc mặt nghiêm nghị, từng câu từng chữ nói:

- Nhưng ngược lại, vết máu đó chứng minh Địch Thanh không có giết người.

Kết luận vừa nói ra, mọi người đều hoang mang không giải thích được, nghĩ mãi mà không rõ ý của Bao ChửngBao Chửng nói tiếp:

- Khi Địch Thanh nhìn thấy Thường Ninh công chúa, bởi gì giày dính máu nên đã để lại trên đường rất nhiều vết máu nhỏ. Hiện tại giày của hắn vẫn còn dính máu.

Mọi người nhìn lại, quả nhiên giày của Địch Thanh vẫn còn dính máu, nhưng vẫn không giải thích được dụng ý của Bao Chửng.

Bao Chửng trầm giọng nói:

- Lúc Hắn ôm Trương mỹ nhân gặp Thường Ninh công chúa thì vết máu trên giày vẫn còn chưa khô. Thần đã kiểm tra vết máu, phát hiện Địch Thanh chưa đi được mấy bước thì gặp phải Thường Ninh công chúa. Nhưng trong phạm vi phát hiện con dao, thì căn bản không có một vết máu nào. Thử hỏi Địch Thanh tài năng thế nào mà dính máu trên giày, nhưng vùng phụ cận vứt hung khí lại chẳng có vết máu? Điều đó có thể chứng minh Địch Thanh căn bản không có đi qua chỗ đó, và con dao cũng không phải do Địch Thanh vứt. Bởi vậy Địch Thanh không phải là hung thủ.

Khâu Minh Hào trầm ngâm, lập tức nói:

- Nói không chừng Địch Thanh đứng đằng xa quăng dao tới nên vùng phụ cận không có dấu máu.

Bao Chửng lập tức nói:

- Vị trí vứt dao là chỗ tối góc chết tây bắc lầu các, còn Địch Thanh gặp Thường Ninh công chúa là ở phía đông nam. Khoảng giữa có tòa lầu ngăn cách. Thần lúc đó đã thử qua, với vết máu mà Địch Thanh để lại trên đường bộ, tuyệt không có khả năng vứt dao tới đó. Nếu Thánh Thượng không tin thì có thể đi thử.

Triệu Trinh nhìn Khâu Minh Hào. Khâu Minh Hào lúc này trầm ngâm hồi lâu, mới chậm rãi lắc đầu. Triệu Trinh nói:

- Khâu bộ đầu không có ý kiến thì trẫm sẽ không thử.

Bao Chửng giọng điệu hàm ý, nói rằng:

- Địch Thanh hoàn toàn không có mang theo dao, mà Chiêu Dung thì lại bị con dao làm cho mất mạng. Bởi vậy thần cho rằng, Thượng Chiêu Dung không phải do Địch Thanh giết chết.

Đại điện yên lặng, Địch Thanh trong lòng cảm kích, không nghĩ Bao Chửng lại thận trọng suy đoán cẩn thận như vậy.

Trương mỹ nhân đang gục đầu xuống bàn khóc nức nở, đột nhiên ngồi dậy, nói:

- Ngươi nói Địch Thanh không có khả năng mang dao thì ta không tin. Địch Thanh mặc dù gặp phải Thường Ninh, vết máu vẫn còn chưa khô. Nhưng trước đó hắn có thể cởi giày rồi vứt đao, lẽ nào không có khả năng?

Bao Chửng trầm ngâm nói:

- Trương mỹ nhân nói rằng hung đồ thấy sắc nảy lòng tham, sau khi gây án vẫn có tâm tư kín đáo. Tuy khó tưởng tượng nhưng đích xác vẫn có một phần nhỏ khả năng. Nhưng chuyện này chứng minh lại càng đơn giản. Nếu Địch Thanh cởi giày vứt dao, lúc này vẫn chưa có cơ hội để hủy diệt chứng cứ, lòng bàn chân của hắn chắc chắn sẽ dính bùn đất. Thần xin thử nghiệm một chút.

Dứt lời liền đi tới trước mặt Địch Thanh, ý bảo Địch Thanh cởi giày. Ông ta đã nói liền làm, không có kéo dài.

Chờ cho Địch Thanh cởi giày xong, mọi người rõ ràng nhìn thấy, bàn chân của Địch Thanh sạch sẽ vô cùng, căn bản không có dính bùn đất. Tào hoàng hậu thở nhẹ một hơi, nói khẽ với Triệu Trinh:

- Quan gia, nếu Bao Chửng đã chứng minh được Địch Thanh vô tội, vậy hãy để cho Địch Thanh xuất cung?

Triệu Trinh còn đang do dự thì Trương mỹ nhân đã khóc lóc nói:

- Quan gia, những gì mà thiếp nói chẳng lẽ là đổ oan cho Địch Thanh. Khi thiếp ngất xỉu, đã nhìn thấy Địch Thanh đuổi theo Chiêu Dung. Cho dù hung thủ không phải là Địch Thanh thì việc hắn trêu ghẹo thiếp không phải là giả.

Dứt lời thì lại khóc rống lên.

Triệu Trinh trong lòng căm tức hỏi:

- Địch Thanh, trẫm hỏi ngươi, rốt cuộc ngươi đến có trêu ghẹo mỹ nhân hay không?

Địch Thanh ngẩng đầu:

- Thần không có.

Trương mỹ nhân khóc to hơn:

- Ngươi bây giờ đương nhiên là không thừa nhận rồi.

Địch Thanh nhíu mày:

- Thần không làm, vì sao phải thừa nhận?

Triệu Trinh vỗ long án, quát to:

- Được rồi, Bao Chửng, khanh kết luận ra sao?

Bao Chửng nói:

- Kỳ thật có thể kết luận Địch Thanh rốt cuộc có vô lễ với Trương mỹ nhân hay không thì biện pháp rất đơn giản.

Lời vừa thốt ra, mọi người vô cùng kinh ngạc, chờ đợi Bao Chửng đưa ra kết luận. Còn Trương mỹ nhân thì ngạc nhiên nhìn Bao Chửng.

Bao Chửng chậm rãi nói:

- Địch Thanh cùng với Trương mỹ nhân nói khác nhau, có thể thấy được một người không nói thật. Chỉ cần tìm ra người nói dối thì có thể cho ra kết luận.

Mọi người thầm nghĩ “Ngươi đây không phải là nói nhảm, mấu chốt là như thế nào để tìm ra?”

Bao Chửng cho tay vào ngực, đột nhiên lấy ra một bức tượng ngọc phật nho nhỏ. Bức tượng toàn thân nhẵn nhụi, trong suốt. Mọi người cảm thấy kỳ lạ, không biết Bao Chửng vì sao lại lấy ra bức ngọc phật này.

Bao Chửng thấy mọi người không hiểu thì liền giải thích:

- Thánh Thượng, nhà thần cũng không giàu có gì. Nhưng bức tượng ngọc phật này cũng chiếm hết một nửa gia tài nhà thần. Tuy nhiên nó không phải sở hữu của thần, mà là do một cao tăng ẩn thế tặng.

Triệu Trinh nhíu mày hỏi:

- Khanh mang bức ngọc phật này ra làm gì?

Bao Chửng nói:

- Bởi vì ngọc phật và việc phá án có quan hệ với nhau. Ngọc phật này vốn có tên là Noa Ma Phật. Noa Ma là tiếng Phạn. Trung Nguyên gọi là lễ kính. Nghe cao tăng đó nói: “Ngọc phật này vốn là vật trong Tạng Biên Mật Tông, nay truyền đến tay ta.”

Sở dĩ thần mang theo bức ngọc phật này bên mình không phải bởi vì nó quý trọng mà là nó rất kỳ quái.

Triệu Trinh nhìn bức tượng Phật, cũng cảm thấy hứng thú hỏi:

- Tượng phật này rốt cuộc có cái gì thần bí?

Bao Chửng nghiêm nghị nói:

- Bức tượng phật này nếu là Noa Ma Phật thì mọi người nhất định phải lễ kính, trong lòng không thể xem nó chỉ là pho tượng. Nếu người đó nói dối, chỉ cần chạm tay vào nó thì trong chốc lát sẽ có hào quang nhàn nhạt phát ra.

Trương mỹ nhân sắc mặt khẽ biến, còn mọi người thì thần sắc đa nghi. Triệu Trinh ngạc nhiên nói:

- Trên đời thật sự tồn tại vật như vậy sao? Trẫm khó tin quá.

Bao Chửng nói:

- Trên đời này vốn có nhiều việc không thể tưởng tượng được. Đối với Tạng Truyền Mật Tông thì lại càng có nhiều chuyện khó dò. Thần đã tự mình nghiệm chứng sự thần kỳ của nó. Ban đầu là thử những vị quan chức nhỏ. Tuy nói là thần theo luật làm việc, nhưng trước đó chính là len lén tìm cách cho bọn họ sờ lên tượng Phật. Cho dù tượng phật sáng lên hay không thì cũng chứng minh được tâm ý của bọn họ. Thánh Thượng nếu không tin thì thần có thể làm một chứng minh cho người thấy. Xin Thánh Thượng cấp cho thần một gian phòng tối.

Triệu Trinh thật ra lúc này đã có chút hứng thú, lập tức chuẩn bị thiên điện phía sau điện Sùng Chính làm phòng tối. Địch Thanh chỉ nghe có vài tiếng bước chân bận rộn. Sau đó thì trong điện liền yên tĩnh trở lại.

Bao Chửng bước vào trong thiên điện, rồi quay lại nói với Triệu Trinh:

- Thần biết thiên tử không thể mạo phạm. Không biết Hoàng hậu có hứng thú cùng thần chứng minh việc này hay không?

Tào hoàng hậu ở một bên nghe xong, nét mặt kinh ngạc, một lát sau mới nói:

- Thiếp thân cũng không tin. Nhưng nếu sự việc trọng đại, Bao khanh gia tin tưởng vững chắc thì thiếp thân cũng không ngại thử xem. Không biết làm thế nào để chứng minh đây?

Bao Chửng nói:

- Chứng minh rất đơn giản, xin thỉnh Hoàng hậu cứ nói thật.

Tào hoàng hậu giật mình:

- Thế nào mới là nói thật?

Bao Chửng trả lời:

- Có thế nào thì nói thế ấy.

Tào hoàng hậu suy nghĩ một lát mới nói:

- Thiếp thân ngày hôm qua mới cấp cho Thánh Thượng món canh thịt dê.

Bao Chửng lập tức nói:

- Có thể. Thần đã đặt bức tượng Noa Ma Phật trong phòng tối, nhưng vẫn có thể thấy được. Thần mời Tào hoàng hậu vào bên trong sờ lên ngọc phật một lát.

Tào hoàng hậu cười nói:

- Chuyện thú vị như vậy, ta thật ra cũng muốn mở mang kiến thức một chút.

Dứt lời thì đứng dậy, bước vào trong thiên điện. Bao Chửng đã sớm đặt sẵn vị trí Để Triệu Trinh, Khâu Minh Hào, Bao Chửng và Thường Ninh đều nhìn xem được, nhìn thấy trong thiên điện rất tối, chỉ thấy được thân ảnh mông lung của Tào hoàng hậu đang sờ tay lên bức tượng phật.

Bức tượng phật không có xuất hào quang. Qua một lát, Tào hoàng hậu đi tới nói:

- Tượng phật không có phát quang.

Bao Chửng nói:

- Thế thì Hoàng hậu không có nói dối. Tượng phật tất nhiên là không phát quang.

Triệu Trinh một bên cảm thấy hứng thú:

- Nếu Trẫm nói dối thì tượng Phật khẳng định sẽ phát quang chứ?

Bao Chửng khẳng định:

- Đương nhiên là như vậy.

Triệu Trinh cảm thấy hiếu kỳ, lập tức nói:

- Trẫm tối hôm qua đã uống một chén canh thịt dê do hoàng hậu nấu.

Kỳ thật thì y rất cảm ơn ý tốt của Tào hoàng hậu. Tào hoàng hậu mang đến canh thịt dê, y uống liền hai chén. Tào hoàng hậu thản nhiên cười nói:

- Quan gia, ngài có thể mạnh miệng nói như vậy.

Triệu Trinh cười nói:

- Vì cầu chân tướng, ta mạnh miệng cũng không sao.

Sau khi nói xong, Triệu Trinh cũng không sợ, bước vào chỗ tượng phật.

Chỉ trong chốc lát, ngoài điện vang lên tiếng hô. Bởi vì mọi người nhìn thấy tượng phật đã phát ra ánh sáng màu xanh nhạt.

 Chương 396 - 399: Xuất đao

Triệu Trinh bước tới, không nghĩ trên đời lại có loại chuyện thần kỳ như vậy. Chờ sau khi chuyện này kết thúc, thì nhất định sẽ bắt Bao Chửng dâng lên vật này. Khi đó sẽ không cần bọn quan lại nói dối nữa.

Bao Chửng không biết tâm tư của Triệu Trinh, liền quay sang Trương mỹ nhân:

- Thần cả gan mời Trương mỹ nhân tiến nhập thử một lần.

Sắc mặt Trương mỹ nhân có chút tái nhợt, thấy mọi người đều nhìn qua. Triệu Trinh lại nói:

- Mỹ nhân, nàng không cần phải sợ. Chỉ cần những gì nàng nói là thật thì phật ngọc đó sẽ không phát quang.

Trương mỹ nhân có chút do dự, nhưng khi nhìn thấy ánh mắt sáng quắc của Bao Chửng thì liền cắn răng đi vào. Trong bóng tối, mọi người chỉ nhìn thấy được thân ảnh của Trương mỹ nhân đang chạm vào phật ngọc. Sau một lúc lâu, phật ngọc cũng không có phát quang.

Tào hoàng hậu sắc mặt có chút dị dạng, hướng Bao Chửng nhìn. Bao Chửng cúi đầu xuống, nhìn vào ngón chân của mình.

Sắc mặt Thường Ninh lộ ra vẻ sầu thảm, trong lòng thầm kêu “Sẽ không! Tuyệt đối sẽ không? Nếu Trương mỹ nhân không có nói dối, chẳng phải Địch Thanh là kẻ nói dối sao? Điều này sao có thể?”. Không đợi Trương mỹ nhân đi ra, Thường Ninh đã nói:

- Bao đại nhân, biện pháp này của ngài nhất định đúng sao?

Triệu Trinh tức giận:

- Thế nào lại không chính xác? Mỹ nhân không có nói dối thì tượng phật dĩ nhiên sẽ không phát sáng.

Đang khi nói chuyện, Trương mỹ nhân đi tới, nhìn Triệu Trinh mỉm cười;

- Tượng Phật thực sự rất linh, biết thiếp không có nói sai.

Dứt lời thì nhìn chằm chằm vào Địch Thanh, không nói lời nào.

Bao Chửng nhìn Địch Thanh, thần sắc tựa hồ có chút bất đắc dĩ:

- Địch tướng quân, tới phiên ngài.

Địch Thanh trong lòng cũng cực kỳ kinh ngạc, thầm nghĩ nếu tượng phật thực sự linh nghiệm, Trương mỹ nhân không có nói dối, Địch Thanh ta cũng sẽ không nói dối. Vậy tột cùng thì tối hôm qua đã xảy ra chuyện gì?

Hắn không giải thích được, nhưng cũng không thẹn với lương tâm, chân chính bước vào phòng tối, tay đặt lên phật tượng, trong lòng tự nói:

- Phật chủ, ngài nếu có mắt thi biết rằng Địch Thanh ta không có sai.

Tay của hắn đạt lên tượng phật, chỉ cảm thấy một sự lạnh lẽo, rồi đột nhiên thân thể chấn động, sắc mặt biến đổi.

Ngoài điện cũng vang lên tiếng hô.

Mọi người đã nhìn thấy tượng phật phát ra thứ ánh sáng yếu ớt.

Triệu Trinh thấy ngọc phật phát quang, sắc mặt trầm xuống, phất tay ra hiệu Cát Hoài Mẫn chạy tới bắt người. Địch Thanh võ công cao cường, nếu thực sự phản kháng, Triệu Trinh cũng sợ Địch Thanh sẽ liều mạng.

Tào hoàng hậu vội vàng kéo tay Triệu Trinh, nói rằng:

- Thánh Thượng xin chờ một chút. Thiếp thần muốn nói ra suy nghĩ của mình.

Triệu Trinh lạnh lùng nói:

- Cho tới bây giờ còn nói cái gì nữa? Địch Thanh khi quân phạm thượng, tội bất khả xá.

Tào hoàng hậu vội la lên:

- Thánh Thượng, Địch Thanh không có nói dối.

Triệu Trinh ngẩn ra, hồ nghi nhìn Tào hoàng hậu rồi lại nhìn bộ dạng khác thường của Bao Chửng, đột nhiên trong lòng trầm xuống, mơ hồ cảm giác có cái gì đó không thích hợp.

Bao Chửng đột nhiên quỳ xuống, thi lễ nói:

- Thánh Thượng, xin thứ cho thần tội khi quân. Kỳ thật thì ngọc phật không như thần đã nói, cũng biết người khác có nói dối hay không.

Triệu Trinh sửng sốt, còn Trương mỹ nhân thì biến sắc. Thường Ninh cùng Khâu Minh Hào thì đều cau mày, trong lúc nhất thời không hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Triệu Trinhtrầm như nước, chậm rãi nói:

- Sự thật chứng minh, ngọc phật thật sự có lúc có thể phát quang.

Nhưng trong lòng lại thầm nghĩ “Lẽ nào Bao Chửng muốn bảo vệ Địch Thanh mà muốn phủ định về thuyết pháp của Noa Ma Phật?”

Bao Chửng nói:

- Ngọc phật đích xác chính là Noa Ma Phật, nhưng cũng không biết có được thần thông hiểu chuyện đúng sai của thế nhân hay không. Nó có thể phát quang chỉ vì phật ngọc này là một loại ôn lương ngọc phía tây bắc Côn Luân. Loại ngọc này có một điểm đặc biệt, nếu người nào chạm vào, ảnh hưởng thân nhiệt người đó thì nó sẽ phát quang.

Sau đó chậm rãi quay đầu nhìn về phía Trương mỹ nhân:

- Địch Thanh bởi vì trong lòng không thẹn nên đã dám xoa xoa ngọc. Do đó ngọc phật đã phát quang. Thần muốn hỏi một chút Trương mỹ nhân, vì sao sau khi người đi vào, ngọc cũng không có phát quang? Có phải vì người cảm thấy mình nói dối nên không có đụng vào Na Moa Phật?

Mọi người đều giật mình. Địch Thanh trong tối nghe thấy liền hiểu rõ ngọn nguồn, nhưng không khỏi lo lắng cho Bao Chửng. Bao Chửng làm như vậy, nói trắng ra là có dụng ý lợi dụng tâm lý có tật giật mình. Bao Chửng vì Địch Thanh mà nói dối Triệu Trinh, chống đối nghi vấn Trương mỹ nhân, hậu quả là có thể đoán được.

Bao Chửng chưa từng có giao hảo qua với hắn. Nhưng Bao Chửng đối với hắn còn hơn huynh đệ sinh tử.

Đây chính là Bao Chửng, biết mình sẽ đắc tội với thiên tử, nhưng cũng muốn vạch trần chân tướng.

Trương mỹ nhân nghe Bao Chửng chất vấn, sắc mặt trắng bệch, đột nhiên kêu lên:

- Ngươi nói xạo. Vừa rồi Hoàng hậu vào sờ lên ngọc phật, lúc đó cũng không có phát quang mà?

Triệu Trinh nghĩ tới điểm này, lập tức nói:

- Không sai, Hoàng hậu vì sao sờ vào ngọc phật nhưng không có phát quang?

Tào hoàng hậu liếc mắt nhìn Trương mỹ nhân, nhẹ giọng nói:

- Bởi vì ta khi tiến vào phòng tối, cũng chẳng qua là giống như cô, làm bộ không có sờ vào ngọc phật.

Trương mỹ nhân cắn chặt răng, sắc mặt trở nên trắng bệch. Cô ta vì thiếu cẩn trọng nên đã rơi vào cái bẫy của Bao Chửng. Có lẽ, cái bẫy này là do Tào hoàng hậu và Bao Chửng hợp nhau bày ra, chính là muốn khảo nghiệm xem ai là người nói dối.

Hết thảy đều đã chứng minh, nói dối thì sẽ không dám sờ vào ngọc phật. Mà hiện tại, người không dám sờ vào ngọc phật không phải là Địch Thanh, mà là Trương mỹ nhân.

Trương mỹ nhân đang nói dối.

Diêm Sĩ Lương ở một bên, trầm mặc không nói, thấy thế liền đột nhiên lên tiếng:

- Bao Chửng, ngươi cũng gan lớn. Ngươi biết làm như vậy là khi quân phạm thượng hay không?

Bao Chửng trầm mặc không nói, nhưng trên mặt không hề có một tia hối hận. Tào hoàng hậu ôn nhu mà kiên định:

- Vừa rồi Thánh Thượng đã nói, vì cầu chân tướng nên mạnh miệng cũng không tiếc. Nếu Thánh Thượng đã nói như vậy thì Bao Chửng vì cầu chân tướng, dùng ít thủ đoạn cũng không có gì đáng trách.

Quay đầu nhìn về phía Trương mỹ nhân, Tào hoàng hậu định nói cái gì đó, đột nhiên sắc mặt biến đổi, lui về phía sau hai bước.

Tất cả mọi người đều có chút bất ngờ, cũng không dám nhìn Trương mỹ nhân. Mọi người biết lần này, mặc dù vạch trần chân tướng, Triệu Trinh khẳng định sẽ không vui. Triệu Trinh cũng không rõ vì sao Trương mỹ nhân lại muốn nói dối hãm hại Địch Thanh, nhìn thấy sắc mặt Tào hoàng hậu khác thường, rồi quay đầu nhìn sang hướng Trương mỹ nhân, rồi đột nhiên sắc mặt đại biến, bước nhanh đến:

- Mỹ nhân, ngươi làm sao vậy?

Mọi người lúc này mới nhìn thấy, Trương mỹ nhân sắc mặt trở nên xám xịt, khóe miệng rỉ máu. Đây chính là dấu hiệu của trúng độc.

Trương mỹ nhân nhìn Triệu Trinh, chỉ kịp nói vài câu:

- Thánh Thượng, thiếp….thiếp không có nói dối.

Sau đó cả người cô ta ngã xuống đất.

Triệu Trinh bất ngờ, không ngờ sự tình sẽ có kết quả như vậy, cũng không quan tâm đến việc xử án, hét lớn:

- Mau truyền ngự y…

Mọi người đều kinh hãi, không giải thích được vì sao Trương mỹ nhân lại bị trúng độc. Lẽ nào trong phòng tối còn ẩn trốn một hung thủ không thể nhìn thấy?

Ngự y tới, lại một phen rối loạn. Tào hoàng hậu vô cùng kinh ngạc, nhưng rồi biết sự việc có biến, ý bảo Bao Chửng và Địch Thanh lui ra. Mọi người không nghĩ tới kết quả này nên đều rời khỏi đại nội.

Bao Chửng ra khỏi cung, cau mày, tựa hồ như lo lắng điều gì. Địch Thanh áy náy nói:

- Bao huynh, bởi vì tại hạ mà liên lụy đến Bao huynh.

Bao Chửng với vẻ mặt giải quyết việc chung, nên nói:

- Chỉ là chức trách của ta mà thôi. Bất luận là ai thì ta cũng sẽ làm như vậy. Địch tướng quân hà tất phải sợ liên lụy. Mới vừa rồi…

Ông ta đang muốn nói tới điều gì, thoáng trong mắt hiện lên tia cổ quái, lại lắc đầu nói:

- Địch huynh, ta còn có việc, tạm thời cáo từ.

Địch Thanh trong lòng nặng trĩu. Mặc dù đã thoát nạn, nhưng trong bụng vẫn đầy nghi hoặc. Trương mỹ nhân vì sao lại hại hắn? Người nào đã hại Trương mỹ nhân? Trương mỹ nhân đến tột cùng vì sao lại không nói?

Đều nói người mà gần chết sẽ không có nói dối. Trương mỹ nhân cho dù sau khi bị trúng độc, vẫn nói không nói dối. Nhưng Địch Thanh cũng không có nói dối, lẽ nào trong đó có ẩn tình? Hết thảy vốn nhìn như rất rõ ràng, nhưng Địch Thanh càng nghĩ càng cảm thấy cổ quái.

Sau khi về tới Quách phủ, Hàn Tiếu vội vã đến thấp giọng bên tai Địch Thanh nói:

- Địch tướng quân, không tốt rồi. Căn cứ vào tin tức của chúng ta, mấy ngày nay, Nguyên Hạo thừa dịp nghị hòa cùng Đại Tống, vườn không nhà trống tấn công Khiết Đan. Không bao lâu sau đã đánh bại Khiết Đan. Mà Khiết Đan bởi vì dụng binh với nước Hạ thất bại, nên giận chó đánh mèo, trút giận lên chúng ta, quay sang đóng quân ở U Yến, có dấu hiệu xuôi xuống phía nam tấn công Đại Tống.

Địch Thanh sắc mặt khẽ biến, cau mày lại, một lát sau mới nói:

- Chuyện này chỉ sợ vài ngày triều đình sẽ có tin tức. Chúng ta không hiểu nhiều lắm, chỉ có thể chờ đợi bọn họ quyết định.

Trong mấy ngày, Địch Thanh vẫn đóng cửa không ra. Sau khi trở lại kinh thành, càng nghĩ càng cảm thấy huyền bí trong đó. Mà điều khiến cho Địch Thanh không thể giải thích được đó chính là hai sự kiện. Trương mỹ nhân vì sao phải hãm hại hắn. Và lá thư vạch trần Bát Vương gia đến cuối cùng là do ai viết?

Mặc dù liên tục ở trong Quách phủ, nhưng Địch Thanh vẫn thường xuyên thu thập tin tức.

Tân pháp phát triển, vạn dân vui sướng. Nhưng trong đó vẫn có người không hài lòng. Vương Củng Thần mặc dù không truy trách Địch Thanh, cuối cùng chỉ ra tay với Trương Kháng và Đằng Tử Kinh trên vấn đề chi phí của công sứ. Trương Kháng thì điều đến chỗ hắn, còn Đằng Tử Kinh thì điều đến quận Ba Lăng.

Tân pháp nhanh chóng được toàn dân áp dụng. Khiết Đan đột nhiên khởi binh.

Trong lúc nhất thời, hơi thở của chiến tranh đã ngưng tụ khắp bầu trời, thậm chí đông lạnh nhiệt huyết của biến pháp.

Tây bắc mấy năm nay chiến loạn liên tiếp, nhưng du sao vẫn còn cách Khai Phong xa, khiến người ta nhìn chưa rõ. Nhưng Khiết Đan khởi binh nam hạ, quân tiên phong thế như chẻ tre chỉ vào Khai Phong, bắt đầu lên kế hoạch cho minh ước Thiền Uyên, khiến người ta lòng đau như cắt. Tất cả mọi người trong lòng lo sợ, chỉ sợ Khiết Đan khởi binh đến Đại Tống thì bách tính phải chịu khổ.

Triều đình tạm thời buông hết tất cả nội đấu, tập trung lo đối phó với Khiết Đan.

Qua vài ngày, Phạm Trọng Yêm đột nhiên đến Quách phủ.

Địch Thanh nhìn thấy Phạm Trọng Yêm đến, cảm thấy rất kinh ngạc nhưng cũng vui mừng. Kinh thành không thể so với Tây bắc. Ở Tây bắc hắn có huynh đệ thân thiết, nhưng ở kinh thành, bằng hữu đích thật của hắn lại không có bao nhiêu. Phạm Trọng Yêm chính là một trong những bằng hữu của hắn.

Phạm Trọng Yêm sau khi ngồi xuống, cũng không khách sáo, đi thẳng vào vấn đề:

- Địch Thanh, ta lần này đến đây là có việc muốn nhờ.

Địch Thanh trong lúc nhất thời chẳng biết Phạm Trọng Yêm đến nhờ chuyện gì, nhưng cũng nói ngay:

- Phạm Công nếu có gì phân phó thì cứ nói.

Hắn biết Phạm Trọng Yêm người này khi cầu việc sẽ không phải là việc tư.

Quả nhiên, Phạm Trọng Yêm nói:

- Khiết Đan đóng quân nơi Yến Vân, có ý định nam hạ. Lúc này biên cương phía bắc căng thẳng, thiên tử lo lắng. Văn võ bá quan thương nghị một lúc lâu, nghĩ việc này không thể chậm trễ, muốn phái ngươi đi sứ Khiết Đan, hướng Tiêu thái hậu phân tích lợi hại. Nếu có thể khuyên Tiêu thái hậu hủy bỏ ý định xuất binh thì mới là thượng sách.

Địch Thanh biết lúc này Tiêu thái hậu là người đương quyền ở Khiết Đan, giống như Lưu thái hậu của Đại Tống.

Khiết Đan lập quốc, nếu luận về phồn hoa thì thua xa Đại Tống. Nhưng nếu nói về sự uyên bác, binh lực hùng hậu thì Đại Tống thua xa.

Đại Tống sau khi lập quốc, bắt đầu là Thái Tổ, Thái Tông, và Chân Tông đều đối kháng với Khiết Đan. Nhưng đời sau lại không bằng đời trước. Thái Tổ còn có thể phản công đoạt lại Tấn Dương, Kiều Quan. Nhưng đáng tiếc Thái Tổ bỗng dưng băng hà một cách kỳ lạ. Thái Tông xuất binh muốn kế thừa cường thế của Thái Tổ, nhưng không ngờ tại sông Cao Lương bị người Khiết Đan đánh bại, phải ngồi xe lừa trở về. Có thể nói là chật vật không chịu nổi. Tới Chân Tông thì người Khiết Đan đã tiến nhanh vào nam hạ, định ra những điều quy ước bất đắc dĩ.

Đại Tống và Khiết Đan giao chiến với nhau, nhưng đời sau không bằng đời trước. Chỉ cảm thấy Khiết Đan là kẻ thù lớn nhất của Đại Tống, tự nhiên sẽ khiến cho Đại Tống sinh ra tâm lý lo sợ.

Nhưng khi định ra minh ước dưới chân thành với Chân Tông thì Liêu Thánh Tông lại mất. Trước khi chết đã lập Tề Thiên hoàng hậu là Thái hậu. Da Luật Tông Chân làm thái tử. Da Luật Tông Chân tuổi bằng với Triệu Trinh. Khi đăng cơ thì mẫu hậu vẫn còn đương quyền.

Chuyện cũ luôn luôn khiến người khác ngạc nhiên. Quốc chủ của Khiết Đan Da Luật Tông Chân hiện giờ cũng là do một cung nữ sinh ra, được Tề Thiên hoàng hậu đem về nuôi dưỡng. Nhưng chuyện cũ cũng có một chút khác biệt rất nhỏ. Lưu thái hậu của Đại Tống thì nắm hết quyền hành, không cho người bên ngoài nhúng tay. Cung nữ Lý Thuận Dung thì bắt túc trực bên linh cữu. Nhưng còn cung nữ bên Khiết Đan Tiêu Nậu Cân có thể liên hợp anh em, lặng lẽ nắm quyền lớn trong tay, thiêu hủy di chiếu của Liêu Thánh Tông, vu cáo Tề Thiên Hoàng hậu mưu phản, ngược lại giam Tề Thiên hoàng hậu lại.

Tiêu Nậu Cân giam cầm Tề Thiên thái hậu, thừa dịp quốc chủ Khiết Đan Da Luật Tông Chân tuổi còn nhỏ, nên nắm trọn quyền lớn. Hiện nay ở Khiết Đan hô phong hoán vũ. Điều khác biệt với Lưu thái hậu chính là Tiêu thái hậu này càng ngày càng kiêu ngạo, không chỉ trắng trợn tiêu diệt kẻ thù, mà còn đề bạt huynh đệ, gia nô, xuất động hưng binh, trước đó vài ngày đánh Tây Hạ không thắng. Chẳng hiểu vì sao lại giận cho đánh mèo đánh vào Đại Tống.

Địch Thanh sớm từ miệng Hàn Tiếu biết được biết này. Khi nghe Phạm Trọng Yêm đề cập đến chuyện đi sứ thì cũng có thể lý giải.

Địch Thanh thấy được, quân sự Đại Tống suy nhược lâu ngày, muốn ăn thì phải ăn từng miếng. Lúc này còn phải lo đối kháng với Nguyên Hạo đang bừng bừng dã tâm. Nếu thật sự phải đấu với Khiết Đan, Nguyên Hạo từ Tây bắc thọc dao tới thì chỉ sợ Đại Tống sẽ bị cô lập. Nghĩ tới đây, Địch Thanh lại nói:

- Nếu triều đình đã phái người đi sứ Khiết Đan thì không biết Phạm Công tìm ta có việc chi?

Phạm Trọng Yêm nói:

- Đi sứ Khiết Đan rất quan trọng, nhưng cũng vô cùng hung hiểm. Nói thật, trong trều rất ít có vị quan nào lại nguyện ý đi sứ. Ta đang phải chủ trì một chuyện, nên không thể tự mình đi. Triều đình thương nghị hồi lâu, quyết định để Phú Bật đại nhân đi sứ Khiết Đan.

Địch Thanh nói:

- Phú đại nhân thái độ làm người trầm ổn. Nếu đi sứ thì thật là tốt.

Phạm Trọng Yêm nói:

- Phú Bật đồng ý đi sứ Khiết Đan, nhưng muốn có người cùng đi. Không biết là ngươi có chịu đi không?

Dứt lời thì ánh mắt kỳ vọng nhìn Địch Thanh.

Địch Thanh kinh ngạc một lát, nói:

- Ta đi? Bọn họ sao lại bảo ta đi?

Trong lòng thầm nghĩ: “Lúc trước đám người Vương Củng Thần hận không thể cách chức ta đày ra hải ngoại. Đi sứ Khiết Đan nhiệm vụ gian khổ, bọn họ làm thế nào lại để cho mình đi?”

Phạm Trọng Yêm mỉm cười:

- Bọn họ nói rằng, quân Khiết Đan lòng dạ hung dữ, chỉ có Địch tướng quân đi đến đó thì mới bộc lộ được uy nghiêm của Đại Tống ta. Hơn nữa, lần trước ngươi cùng với Phú đại nhân đi sứ Thổ Phiền. Mặc dù sự việc không thành, nhưng năng lực của ngươi rất đáng được công nhận. Lần đi sứ này, ngươi là người thích hợp nhất được chọn.

Nguyên Khiết Đan có ý định hưng binh nam hạ, Triệu Trinh vừa nghe thì không khỏi luống cuống. Trương mỹ nhân trúng độc, nhưng may mắn không chết, vẫn còn hôn mê trên giường. Triệu Trinh vừa sợ vừa giận, giao trách nhiệm cho Khâu Minh Hào điều tra, không cho Bao Chửng tham dự vào.

Triệu Trinh ban đầu nghe theo lời của Tào hoàng hậu, yêu cầu Bao Chửng điều tra làm rõ việc này. Chính vì muốn công chính, công bình, không muốn mất nhiều thời gian nhưng kết quả lại rất tàn khốc. Trương mỹ nhân trúng độc, Triệu Trinh trong lòng hối hận, cả ngày đều ở cạnh giường Trương mỹ nhân. Cho đến khi Khiết Đan có ý định hưng binh, Triệu Trinh thấy giang sơn gặp nạn, đành tạm thời buông chuyện Trương mỹ nhân ra, triệu tập quần thần thương nghị đối sách.

Trong triều bá quan văn võ đều nhất trí cho rằng, tạm thời không chiến, muốn trước tiên phái sứ thần đi thuyết phục Tiêu thái hậu không nên xuất binh. Không có Địch Thanh, lần này quần thần giải quyết vấn đề rất nhất trí nhưng khi đề cập đến chuyện đi sứ thì liền gặp phải khó khăn.

Hai nước giao binh, quan hệ khó lường. Nếu đi sứ không thành, thì chính là đánh cược với sinh mạng mình. Ban đầu việc đi sứ Khiết Đan, triều đình định phái Hạ Tủng đi. Nhưng kết quả Hạ Tủng lại từ chối không đi, tiến cử Vi Tiếu Đàm. Người khác thì không sao, nhưng nếu rơi trúng người mình thì đó là bi kịch.

Quần thần đang khó xử, Phạm Trọng Yêm liền chủ động xin đi giết giặc, nhưng Triệu Trinh không cho. Lúc này biến pháp cần có Phạm Trọng Yêm gồng gánh, làm sao có thể đi bắc cương xa xôichứ? Phú Bật thấy tình thế như vậy, cuối cùng nguyện ý đi sứ Khiết Đan. Quần thần thở phào nhẹ nhõm, nhưng Phú Bật lại đưa ra một điều kiện, muốn Địch Thanh cùng đi sứ cùng.

Triệu Trinh hiện tại không biết vì oán giận Địch Thanh, hay vì áy náy chuyện oan ức của Địch Thanh mà đối với đề nghị của Phú Bật từ chối cho ý kiến.

Nhưng việc Địch Thanh đi sứ cũng không phải là thuận buồm xuôi gió. Vương Củng Thần lập tức nhắc đến chuyện cũ, đưa ra việc Địch Thanh lỗ mãng, chống đối thượng cấp, ẩu đả Văn Thần Văn Ngạn Bác, không phải là lựa chọn tốt nhất để đi sứ. Nhưng Phạm Trọng Yêm đã nói một câu mà Vương Củng Thần không thể chống đỡ được:

- Vương Trung Thừa không muốn Địch Thanh đi sứ, chẳng lẽ muốn đi cùng với Phú đại nhân?

Vương Củng Thần nội đấu người trong nghề, ngoại đấu người thường, đối với đám người Khiết Đan lạnh lùng kia khiếp đảm trong tâm, cho rằng với đám người Khiết Đan ngang ngược tàn bạo chẳng có cùng câu chuyện nên không nói nữa.

Khúc chiết có nhiều, nhưng Phạm Trọng Yêm lại không muốn vì những chuyện rườm rà này mà làm phiền nhiễu Địch Thanh. Chẳng qua chỉ dùng ánh mắt chờ mong nhìn Địch Thanh, Địch Thanh thấy thế liền không đùn đẩy nữa, lập tức nói:

- Nếu Phạm Công có ý như thế thì tại hạ sẽ tận hết khả năng.

Phạm Trọng Yêm vui mừng, thầm nghĩ Địch Thanh khổ luyện nhiều năm, nếu luận tầm nhìn, khí độ và quyết đoán thì có thể mạnh hơn rất nhiều người trong triều. Y biết tâm sự của Địch Thanh, cũng biết có nhiều chuyện bất công đối với hắn. Nhưng mỗi khi thấy được mỗi khi quốc gia có nạn thì Địch Thanh đều kiên quyết đảm đương nên trong lòng cảm động.

Địch Thanh tiễn Phạm Trọng Yêm rời khỏi phủ, thấy Phạm Trọng Yêm có chút u sầu thì nhịn không được liền hỏi:

- Phạm Công, chuyện đi sứ ngài đừng lo lắng. Ta nghĩ người Khiết Đan cũng an nhàn nhiều năm, không còn lợi hại như trước nữa. Bọn họ thực sự muốn khai chiến thì chúng ta cũng không sợ.

Phạm Trọng Yêm nói:

- Theo như ta đoán thì lần này Tiêu thái hậu có ý muốn hưng binh nguyên nhân chỉ bởi vì bại trong tay của Nguyên Hạo, nên nóng lóng muốn dùng Đại Tống của chúng ta để bù đắp tổn thất. Thật sự muốn xuất binh, chỉ sợ không có khả năng. Đối với ngươi lúc này lo lắng nhất không phải chuyện này.

Địch Thanh hỏi:

- Phạm Công có chuyện gì lo lắng, có cần ta giúp đỡ gì không?

Phạm Trọng Yêm nhìn Địch Thanh, nếp nhắn khóe miệng tràn đầy ý cười. Địch Thanh đột nhiên phát hiện, Phạm Trọng Yêm già hơn rất nhiều. Mưa gió ở vùng tây bắc đã mài dũa Phạm Trọng Yêm trở nên khí khái hơn, nhưng đồng thời cũng làm cho ông già nua hơn. Nghĩ như vậy, nên trong lòng cảm thấy phiền muộn.

Phạm Trọng Yêm nói:

- Chuyện này thoạt nhìn tuy rất nhỏ, nhưng lại rất phiền phức. Hạ Tủng bị giáng sức, Thạch Giới thì viết ra quyển “Khánh Lịch Thánh đức tụng”.

Địch Thanh cũng biết việc này. Thạch Giới là người dạy học của Quốc Tử Giám, cũng là người kiên định đi theo Phạm Trọng Yêm. Quốc Tử Giám là một trong Cửu Tự Ngũ Giám của Đại Tống, chủ yếu phụ trách giảng dạy truyền đạo, kinh thuật, có uy vọng rất cao trong hàn sĩ khắp thiên hạ.

Hạ Tủng sau khi bị giáng chức khỏi kinh thành, Thạch Giới đã viết quyển “Khánh Lịch Thánh Đức Tụng”, ca ngợi việc Triệu Trinh dùng đám người Phạm Trọng Yêm là “Chúng hiền chi tiến”, còn Hạ Tủng thì bị Xu Mật Viện nói là “Đại gian chi khứ”.

Bài văn có thể nói là kinh thiên động địa, bách tính thay nhau truyền tụng. Điều này Địch Thanh có biết. Nhìn Phạm Trọng Yêm lo lắng như vậy, Địch Thanh lại nói:

- Thạch đại nhân nói ra tình hình thực tế, dường như cũng không có gì?

Phạm Trọng Yêm thở dài:

- Tiểu nhân giống như đống than chưa đốt hết. Nếu ngươi không động vào không đẩy y, thì y chỉ đốt xong rồi tắt. Nhưng nếu ngươi có động vào, chỉ sợ y sẽ càng đốt mạnh hơn. Thậm chí càng không thể cứu vãn được. Ta sớm biết tân pháp mới lập, nhất định sẽ có khó khăn chồng chất. Có một số người tạm thời tỏ ra hòa thuận mặc dù trong lòng không muốn, nhưng vì ích nước lợi dân, nên cũng là vô phương. Lúc này Âu Dương Tu, Thái Tương, Thạch Giới bọn họ mặc dù có ý tốt, nhưng trò đời hiểm ác, kẻ địch lại mạnh, chỉ sợ không bao lâu sau sẽ lọt vào sự phản kích của đối thủ. Vốn là việc có thể dự liệu, nhưng nếu vì vậy mà làm lỡ việc cải cách pháp luật thì ta thật sự không muốn.

Nói đến đây, Phạm Trọng Yêm cười nói:

- Nhưng việc này ta có thể xử lý tốt. Địch Thanh, đường đi sứ xa xôi, phong sương hiểm ác, ngươi hãy bảo trọng.

Dứt lời thì quay người rời đi, thầm nghĩ: “Mặc dù Lã Di Giản không còn nắm quyền hành trong tay, nhưng để ứng phó một đám tiểu nhân này có lẽ cần thuyết phục Lữ Di Giản một lần nữa vào triều làm quan, việc cải cách tân pháp sẽ thành.” Nghĩ tới đây, y liền lập tức bước đến Lã phủ.

Địch Thanh đợi thêm mấy ngày nữa. Triều đình hạ chỉ lệnh Phú Bật và Địch Thanh đi sứ Khiết Đan.

Phú Bật và Địch Thanh sớm có hợp tác qua, không nhiều lời, lập tức quần áo giản dị, rời khỏi Biện Kinh, băng qua Hoàng Hà, thẳng đến Khiết Đan.

Lần đi sứ này khác với lần đi sứ đất Tạng trước. Lần đi sứ đất Tạng là bí mật hành sự. Còn lần đi Khiết Đan này cũng cần thận trọng. Bởi vậy, ngoại trừ Phú Bật và Địch Thanh thì còn có thêm mười cấm quân đi theo. Dọc đường có người truyền tống công văn, tự có quan phủ địa phương tiếp đãi.

Đám cấm quân kia biết là theo Địch Thanh đi sứ nên đều cao hứng bừng bừng, không còn cảm thấy đi sứ là khổ cực mà ngược lại còn rất v. Địch Thanh chỉ là một binh lính bình thường, có thể đạt được địa vị như ngày hôm nay, trong mắt cấm quân mang một sắc thái truyền kỳ. Có thể cùng Địch Thanh đi sứ một lần, đời này cho đến lúc chết cũng rất đáng giá.

Dọc theo đường đi, mọi người theo sự phân phó của Địch Thanh, cùng khoái mã chạy nhanh, cũng không dừng lại một ngày.

Một ngày qua đi, từ phía xa đã nhìn thấy núi non trùng điệp, cây cỏ xanh um. Cơn gió thổi qua, từng ngọn cỏ tươi mát lay động trên mặt đất. Mọi người ai nấy cũng mệt mỏi, nhìn thấy cảnh tượng như vậy, tinh thần có phần linh hoạt hơn.

Địch Thanh biết qua dãy núi dài kia là đến Khiết Đan. Trước đây đi sứ chưa hề có phong cảnh ven đường tuyệt đẹp như vậy.

Lúc này Hàn Tiếu bước tới, thì thầm bên tai Địch Thanh vài câu. Địch Thanh gật đầu rồi quay sang nói với Phú Bật:

- Phú đại nhân, có tin tức, bởi vì gần vào thu, nên quốc chủ Khiết Đan theo lệ thường sẽ đi Nại Bát. Bởi vậy hẳn là sẽ đi đến vùng Phục Hổ Lâm gần Thượng Kinh. Dựa theo lệ cũ, Tiêu thái hậu cũng đi theo. Nếu như theo lẽ thường chúng ta phải đến Trung Kinh trước, chỉ sợ phải chờ bọn họ thu hoạch ở Nại Bát xong thì mới quay về Trung Kinh để gặp mặt được. Chi bằng trực tiếp đến Nại Bát xin gặp bọn họ để nói chuyện, không biết ý của ngài như thế nào?

Tuy có cấm quân đi theo, nhưng Địch Thanh vẫn phái Hàn Tiếu âm thầm thu thập tin tức. Mà tin tức của Hàn Tiếu so với quan gia thì chính xác, mau lẹ hơn.

Địch Thanh chỉ sợ trên đường đi làm phí thời gian, nên bảo Hàn Tiếu sớm chuẩn bị.

Phú Bật trầm ngâm không nói, không lúc nhất thời có chút do dự.

Khiết Đan chia làm năm đạo, phân biệt là Thượng Kinh Lâm Hoàng Phủ, Đông Kinh Liêu Dương Phủ, Tây Kinh Đại Đồng Phủ, Nam Kinh U Châu Phủ cùng với Trung Kinh Đại Định Phủ.

Nam Kinh Khiết Đan chính là U Châu trước đây. Mà Tây Kinh Khiết Đan là vùng lân cận Đại đồng Sơn Tây ngày nay.

Vô luận Nam Kinh, Tây Kinh đều thuộc về Đại Tống trước đây. Người Khiết Đan khi đánh chiếm Trung Nguyên đã chiếm lấy, nhưng Tống triều vẫn không đoạt lại. Tây Kinh và Nam Kinh đều là yếu đạo quân sự của người Khiết Đan. Năm xưa khi ký hòa ước Thiền Uyên, người Khiết Đan đã thông qua hai con đường này tiến thẳng vào Trung Nguyên.

Mà Trung Kinh tại phía Nam, Tây Kinh tại phía bắc, nguyên nhân vì Tây Kinh giáp giới với Nam Kinh nên phát triển có chút phồn hoa. Sứ thần của Đại Tống, Cao Ly hay nước Hạ đều ở Trung Kinh chờ đợi gặp mặt quốc chủ Khiết Đan. Địch Thanh cùng Phú Bật đến Thượng Kinh để trực tiếp gặp mặt quốc chủ Khiết Đan là không hợp lệ.

Nhưng Phú Bật cũng biết, Địch Thanh là có lòng tốt.

Bởi vì tuy nói Thượng Kinh Lâm Hoàng Phủ lúc này là quyền lợi trung tâm của Khiết Đan, nhưng trên thực tế, người Khiết Đan cho tới nay vẫn bảo tồn phong tục du mục, lấy xe ngựa làm nhà. Bởi vậy Hoàng đế Khiết Đan sẽ không giống như Đại Tống, suốt ngày ở lại Biện Kinh, mà làm quanh năm lưu lạc.

Quốc chủ Khiết Đan vẫn như cũ chọn bốn mùa săn bắn. Xuân hạ thu đông sẽ tìm địa điểm khác nhau để ở lại săn bắn. Phương thức này gọi là Nại Bát.

Mùa xuân thì quốc chủ Khiết Đan sẽ ở lại vùng lân cận Đông Kinh. Còn mùa thu thì đến Thượng Kinh. Quy củ này cho đến nay vẫn không thay đổi. Mà quốc chủ Khiết Đan di cư bất định, làm cho các sứ thần quốc gia khác phải chờ mòn mỏi mấy tháng, thậm chí lâu hơn.

Địch Thanh muốn tốc chiến tốc thắng. Bởi vậy đã đề nghị Phú Bật trực tiếp đến Thượng Kinh cầu kiến. Phú Bật biết phương pháp này trực tiếp phá huy quy củ của người Khiết Đan, ngược lại bất lợi cho việc đàm phán.

Do dự một lúc, Phú Bật mở miệng nói:

- Dù sao thì đến Thượng Kinh cũng phải qua Trung Kinh, chi bằng đến Trung Kinh trước rồi tính toán sau?

Địch Thanh cũng biết Phú Bật lo lắng, lập tức tán thành.

Mọi người băng qua ngọn núi trùng điệp, thẳng đến cuối Nam Kinh, tiến nhập vào địa giới Trung Kinh.

Nam Kinh, Trung Kinh Khiết Đan bởi vì gần Đại Tống nên ảnh hưởng phong thổ Trung Nguyên, nên bách tính phần đông cũng là người Trung Nguyên. Phố xá phồn hoa, tuy không thể so với Biện Kinh, nhưng mọi người ߠđây cũng không khác gì ở Trung Nguyên.

Phú Bật, Địch Thanh sai người đến Đại Định Phủ, vào quan nha trình công văn, theo lễ tiết sứ giả cầu kiến quốc chủ Khiết Đan cùng Thái hậu, thương nghị chuyện đóng quân ngoài biên cảnh. Lúc này, tuy là Tiêu thái hậu nắm quyền, nhưng dù sao Gia Luật Tông Chân cũng đã đăng cơ, chính vụ cũng sẽ tham dự vào.

Công văn trình lên được nửa tháng, cuối cùng Xu Mật Viện của nam viện Khiết Đan đến phúc đáp, nói Tiêu thái hậu có chỉ, sai người mời sứ giả Đại Tống đến Thượng Kinh, cùng đi săn ở Phục Hổ Lâm.

Phú Bật sau khi biết được tin tức này thì chỉ biết cười khổ, thầm nghĩ nếu sớm nghe Địch Thanh nói thì cũng không ở đây chờ lâu như vậy. Địch Thanh ngược lại an ủi Phú Bật. Nếu Tiêu thái hậu muốn bọn họ đi săn cùng thì có thể nói rõ trong nhất thời sẽ không nam hạ. Phú Bật vừa nghe cũng thấy có lý. Tuy nói rằng ở Trung Kinh làm mất thời gian, nhưng nếu có thể khiến Khiết Đan không phát binh thì coi như việc ông ta đi sứ cũng có chút hiệu quả. Nhưng Tiêu thái hậu nói cái gì cùng đi săn, lẽ nào muốn lập uy trước mặt sứ giả Đại Tống? Phú Bật vốn chút lo lắng, nhưng thấy Địch Thanh dường như không có việc gì thì cũng bình tĩnh trở lại.

Địch Thanh chờ đến ngày thứ hai mới khởi hành ra khỏi Trung Kinh, đi vòng qua tây bắc, thẳng đến Phục Hổ Lâm ở Thượng Kinh. Đường xá rất xấu, mọi người rất nhanh đã đến thảo nguyên mênh mông.

Bầu trời trong xanh, cánh đồng bao la, gió thổi cây cỏ, thấp thoáng bóng dê bò.

Thảo nguyên mênh mông giống như một bờ biển rộng. Người đi trong đó tựa như một con thuyền cô độc, tự nhiên cảm giác mình nhỏ bé, hèn mọn. Mọi người không quen với địa hình thảo nguyên. May mà còn có Hàn Tiếu, dọc đường đi còn có người Khiết Đan do Xu Mật Viện Khiết Đan cử đến dẫn đường, nên mọi người mới không bị lạc trong đó.

Một đường đi tới, chỉ thấy chấm chấm những căn lều như những bông hoa nở rộ giữa thảo nguyên. Dê bò giống như cơn sóng lung linh sinh động. Những nữ dũng sĩ du mục bôn ba trong đó, nhu tình nhưng tràn đầy hào phóng. Địch Thanh nhìn thấy, trong lòng đột nhiên nghĩ đến, nếu hắn không phải là một tướng quân, không vào kinh, chỉ cùng người yêu ở chỗ này cưỡi ngựa chăn dê, khoái ý suốt đời thì thật là quý giá.

Nhưng hắn có cơ hội đấy không? Suy nghĩ như thế, hắn trong lòng cảm thấy chua xót.

Hoàng hôn dần buông xuống, ánh nắng mặt trời vàng rực rơi xuống thảm cỏ xanh vô cùng vô tận, như con sóng biếc mênh mong. Gió thổi lay lay ngọn cỏ xanh. Phía trước hiện lên không ít những căn lều. Hóa ra bọn họ trong lúc vô tình đã đến một bộ lạc của Khiết Đan.

Bộ lạc mà họ đến là bộ lạc Bá Đức của Khiết Đan. Viên quan do Xu Mật Viện phái tới đến nói chuyện với tộc trưởng của bộ lạc Bá Đức. Tộc trưởng rất nhiệt tình hiếu khách, chiêu đãi sứ giả Tống triều. Buổi tối, lửa trại hừng hực. Người của bộ lạc nướng dê, chuẩn bị ca múa cho đám người Địch Thanh thưởng thức.

Tuy nói Tiêu thái hậu có ý định xuất binh, nhưng Khiết Đan và Đại Tống dù sao cũng hòa bình hơn mười năm nay. Trong cảm nhận của bách tính, song phương vẫn là bằng hữu chứ không phải kẻ thù.

Địch Thanh không quan tâm đến ca múa, thừa dịp Phú Bật đang bận xã giao thì lặng yên rời khỏi bữa tiệc, tới sườn núi của bộ lạc, ngẩng đầu nhìn bầu trời.

Lúc này, ánh trăng như chiếc móc câu. Dưới con mắt của Liêu nhân, ánh trăng giống như sóng mắt của tình nhân.

Địch Thanh ngơ ngác nhìn ánh trăng, rất lâu sau đó…

Tiếng bước chân truyền đến, Địch Thanh quay đầu nhìn lại, thấy Hàn Tiếu bước tới, thì nở nụ cười thật tươi:

- Sao tướng quân lại không ở trong đó nghe ca hát uống rượu? Trong số chúng ta thì tướng quân là người quen thuộc với thảo nguyên nhất.

Hàn Tiếu không biết võ, nhưng ngoại trừ võ nghệ thì không có cái gì là không biết. Y biết ngôn ngữ nhiều nơi, hiểu được phong tục, biết được rất nhiều chuyện. Địch Thanh có đốt đèn cũng không tìm được người như Hàn Tiếu. Bản thân Hàn Tiếu hình như vẫn còn có nhiều điều bí mật.

Tuy hắn là bằng hữu với Hàn Tiếu, nhưng chưa bao giờ hắn truy vấn Hàn Tiếu. Có đôi khi bằng hữu là phải cần lắng nghe, nhưng có đôi khi cần phải cho đối phương không gian của mình.

Hàn Tiếu bước tới, ngồi trước mặt Địch Thanh, hai tay ôm đầu gối nhìn trời:

- Địch tướng quân, lần này Tiêu thái hậu yêu cầu chúng ta đi đến vùng Thu Nại Bát của bọn họ. Chẳng hiểu vì sao, ty chức cuối cùng cảm giác sự tình không đơn giản như vậy. Lần tiếp đãi này, bọn họ địch ý cũng không rõ ràng. Bởi vậy ty chức không hiểu lão thái bà này nghĩ cái gì.

Địch Thanh mỉm cười:

- Nếu không rõ thì không nên suy nghĩ, tự nhiên sẽ biết thôi. Dù sao chúng ta cũng nên chú ý động tĩnh của người Khiết Đan. Lúc này còn chưa phát hiện được ý tứ của bọn họ lãnh binh đến Yến Vân. Được rồi, Trương mỹ nhân tìm được đầu mối nào chưa?

Hàn Tiếu lắc đầu:

- Trương mỹ nhân là con gái của Trương Nghiêu Tá. Trương Nghiêu Tá xuất thân tiến sĩ, nhiều năm qua thân mình trong sạch, không có chỗ khả nghi. Những chuyện này lúc trước ở Biện Kinh đã nói với tướng quân rồi. Nếu như có điểm khiến người ta phải nói đó chính là sau khi Thiên tử thích Trương mỹ nhân thì Trương Nghêu Tá được đề bạt có chút hơi nhanh. Nhưng lúc đó Bao Chửng cũng đã từng tham gia vào chuyện này.

Địch Thanh thầm nghĩ: “Ta nghĩ tới nghĩ lui, Trương mỹ nhân muốn hãm hại mình có thể là bởi vì Nguyên Hạo. Nhưng lúc này xem ra, khả năng này rất nhỏ bé. Nhưng nếu không phải Nguyên Hạo thì Trương mỹ nhân đối phó với ta là vì cái gì?”

Hàn Tiếu quay đầu nhìn Địch Thanh, đột nhiên nói:

- Địch tướng quân, Biện Kinh mặc dù phồn hoa nhưng không thích hợp với tướng quân. Kỳ thật, tướng quân ở lại thảo nguyên cũng là chuyện tốt.

Địch Thanh cười thản nhiên:

- Ta vẫn chờ lệnh quay về Tây bắc. Nhưng gia pháp tổ tông quy định, ta sợ rằng trong một thời gian ngắn tới sẽ không được đi tây bắc. Ta đi sứ, không phải vì tránh họa mà là vì ta nghĩ, nếu ta có năng lực làm chuyện gì thì cũng nên đi làm.

Hàn Tiếu cười, ánh mắt lộ ra sự tôn kính. Y biết Địch Thanh nói như vậy là xuất phát từ nội tâm.

Địch Thanh trong lòng lại nghĩ “Huống chi, ta biết Vũ Thường khẳng định sẽ mong ta đi làm như thế này”. Nhìn bầu trời, Địch Thanh lẩm bẩm:

- Không biết bao giờ mới có thể đến Sa Châu? Không biết đến lúc nào thiên hạ mới thái bình?

Hàn Tiếu đè thấp thanh âm nói:

- Địch tướng quân, phượng minh của chúng ta …

Lời còn chưa dứt thì Địch Thanh đã nhướng mày, thấp giọng nói:

- Khoan, có gì đó không ổn.

Hàn Tiếu cả kinh, quay đầu nhìn về phía Phú Bật, thấy lửa trại hừng hực, tiếng ca mơ hồ theo gió bay tới, không biết có cái gì không ổn. Địch Thanh nhảy vài bước lên một sườn núi cao, từ xa nhìn lại. Hàn Tiếu thấy thế, bước nhanh đến, nhưng chưa lên đến sườn núi thì chợt nghe tiếng vó ngựa vang lên.

Trong bóng tối, hai đội nhân mã một trước một sau chạy vọt tới hướng này.

Đội nhân mã đi trước mặc toàn đồ xanh, nhưng chỉ có hơn mười người. Còn đội nhân mã đi sau lại có hơn năm sáu mươi người, đều mặc trang phục màu đen.

Hàn Tiếu thấy đội kỵ mã, trong lòng dâng lên sự hoài nghi, cho rằng những người này tới là vì muốn cướp bộ lạc hoặc là vì sứ giả Đại Tống mà đến. Nhưng nhìn thoáng qua thì biết mình đã sai. Bởi vì đội nhân mã phía sau khi dần tiến lại gần thì một tiếng hô vang lên. Một làn mưa tên bay đến.

Có chiến mã hí lên. Mười thanh y nhân phía trước có một bị bắn trúng rớt xuống ngựa. Những người còn lại đều là thân thủ nhanh nhẹn, hoặc né tránh làn tên, hoặc vung roi quất vào mũi tên.

Những người này có kỹ thuật cưỡi ngựa rất siêu việt. Địch Thanh trong đêm tối nhìn thấy những người mặc áo xanh thân hình vạm vỡ, ẩn chứa sự lo lắng. Đều không hẹn mà che chắn cho một người.

Người đứng đầu sắc mặt ngăm đen, đôi môi nhếch lên. Mặc dù tuổi tác không lớn nhưng dưới làn mưa tên cũng không tỏ ra sợ hãi.

Phía sau người thanh niên có một người râu quai nón đột nhiên hét lên. Hơn mười kỵ binh đột nhiên xiết cương, kéo cung lên. Chỉ nghe giữa không trung tiếng vù vù, hơn mười mũi tên bắn về phía sau.

Làn tên mặc dù không nhiều lắm nhưng tốc độ rất nhanh. Đám hắc y nhân đằng sau trở tay không kịp, bị bắn trúng sáu người. Một người hô lên, đội quân không lùi bước, chỉ tách ra thành hai đạo, phân lộ đánh tới.

Địch Thanh đang đứng ở sườn núi, nhìn thấy những người này kỹ thuật cưỡi ngựa rất cao, thân thủ nhanh nhẹn, thầm nghĩ họ hơn phân nửa là người Khiết Đan. Trách không được binh lính Khiết Đan tung hoành chiến trường những năm gần đây. Đại Tống không thể làm gì. Những người này đúng là có bản lĩnh độc đáo của mình. Nhưng hai đội nhân mã này đều là người Khiết Đan, sao lại chém giết lẫn nhau như thế?

Binh lính hắc y nhân chia làm hai đường, cản lối đi của thanh y nhân. Trong tiếng hô quát, chỉ nghe tiếng mưa tên bay ra, ngang dọc giữa không trung, có sự chấn động lòng người nói không nên lời.

Chỉ trong chớp mắt, hắc y nhân đã bị bắn chết mười người. Còn thanh y nhân vẫn còn không dưới mười người. Người thanh niên dẫn đầu đột nhiên hô lên một tiếng, từ trên lưng ngựa té xuống. Vốn mũi tên bắn ra trúng ngay giữa đầu ngựa y ngồi. Lực bắn vô cùng lớn, khiến cung tên ghim hết trong đầu ngựa, chỉ còn chưa lại đầu mũi tên.

Hắc y nhân một tiếng hoan hô, giục ngựa chạy đến, trường mâu vung lên, hướng người thanh niên trên mặt đất đâm tới.

Những gã thanh y nhân còn lại đều kinh hãi. Mắt thấy trường mâu sẽ đâm tới chàng thanh niên, một người liền nhảy ra ôm lấy y, ngay tại chỗ lăn một vòng, tránh được cây trường mâu.

Người cứu chàng thanh niên chính là hán tử râu quai nón.

Tiếng “phập phập” vang lên không dứt. Trường mâu đâm tới, toát ra hàn khí. Hán tử râu quai nón đột nhiên nhảy dựng, ôm lấy chàng thanh niên chạy lên sườn núi. Gã bản thân tuy nhanh nhẹn, nhưng dù sao phải ôm thêm một người, chưa được hai ba bước đã bị ba kỵ binh đuổi theo.

Trường mâu lại tiếp tục đâm tới.

Gã hán tử không tránh né được, trong tiếng hét vang liền vứt chàng thanh niên trẻ tuổi ra bên ngoài. Ba chiếc trường mâu liền đâm vào gã.

Gã hán tử hét lên phẫn nộ. Trước khi chết, còn kéo một thanh trường mâu. Một người ngã xuống, thì dùng đao chém chết người nọ. Nhưng vó ngựa bước qua, đã thấy gã hán tử kia bị giết chết ngay tại chỗ.

Chàng thanh niên trong mắt ngấn lệ, nhưng vẫn bỏ chạy không ngừng. Lúc này chỉ nghe tiếng vù vù, một mũi tên lại bắn tới. Dĩ nhiên là bắn tới sau lưng chàng thanh niên.

Thanh y nhân hô to, sắc mặt hoảng sợ. Giữa không trung đột nhiên phát ra ánh sáng. Mũi tên kia vốn đang lao vào thân thể chàng thanh niên, đột nhiên tách một tiếng, gãy làm đôi giữa không trung, rồi chẳng biết rơi về đâu.

Mọi người đều giật mình. Hai kỵ binh liền chạy vội tới, nhưng chưa kịp thì trường mâu lại đâm tới sau lưng chàng thanh niên. Trong bóng tối chỉ có thể thấy được một đạo quang ảnh hiện lên, giống như ánh trăng đột nhiên được dẫn tới nhân gian.

Trăng sáng trên trời, đao ngay trước mắt.

Trong mắt hai gã phát động trường mâu đột nhiên kinh hãi. Rắc rắc hai tiếng, trường mâu đã bị bẻ gẫy.

Mọi người chỉ thấy được một tình cảnh cả đời khó quên. Hai gã hắc y nhân đâm trường mâu đột nhiên dừng lại, đạo quang hoa chiếu thẳng vào trên người. Ngay sau đó tay và đầu hai người đều bị chém cụt.

Máu phun ra nhiễm đỏ cả bầu trời đêm. Con ngựa vô chủ, hí lên vang trời.

Không ai lúc này lại đi nhìn người đã chết. Tất cả mọi người đang nhìn vào người đang đứng bên cạnh chàng thanh niên. Người nọ trong bóng đêm xuất hiện, giống như hung thần ác sát, đột nhiên xuất đao. Chỉ một đao nhưng đã chém chết hai hắc y nhân.

Đây là đao pháp gì mà bá đạo hung ác như vậy? Đây là ai mà lại quỷ dị khó dò như vậy?

Mọi người trong lòng giống như bị một cú sốc, nhìn người nọ đang ngạo nghễ cầm đao.

Người xuất đao chính là Địch Thanh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro