Chương 41 - 50

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 41

Hữu tắc cải chi, vô tắc gia miễn

"Bỏ họ Mặc tất về với họ Dương", xuất xứ từ thiên Tận Tâm trong sách Mạnh Tử, nguyên văn là "Bỏ họ Mặc tất về với họ Dương, bỏ họ Dương tất về với Nho đạo."

Khác với thời Xuân Thu có đến hàng trăm trường phái tư tưởng đua nhau hình thành, thời Chiến Quốc có ba trường phái lớn được người đời chấp nhận, bao gồm trường phái Mặc gia, trường phái Dương Chu và trường phái Nho gia. Câu "Bỏ Mặc tất về với Dương" là cái nhìn của Mạnh Tử đối với ba trường phái này. Ý của ông là "đào thải trường phái Mặc gia tất sẽ hướng về trường phái Dương Chu. Đào thải trường phái Dương Chu, tất sẽ quy thuận trường phái Nho gia."

Nói ngắn gọn là Mạnh Tử coi trường phái Nho gia là chính thống, là con đường ngay duy nhất cho các học giả.

Về cơ bản đề này không phải là dạng khó viết. Trường phái Mặc gia chủ trương ôn hòa, nhân ái, phản đối chiến tranh, đề cao việc hi sinh bản thân để cứu đời, tạo phúc cho thế gian. Trường phái Dương Chu thì chủ trương tư tưởng vị kỉ, không màng đến ai mà cũng chẳng màng tới thiên hạ, không hại người tức là làm lợi cho bản thân. Đường Thận có thể nghĩ ngay ra mấy hướng giải đề khác nhau, tỷ như lấy góc nhìn của tư tưởng ích người ích mình trong Nho gia để phân tích ngược lại hai trường phái Mặc gia và Dương Chu, từ đó tôn vinh sự ưu việt của trường phái Nho gia.

Cái khó là hướng đi này phải lấy tư tưởng phê phán Mặc gia, Dương Chu và tôn sùng Nho gia làm điều kiện tiên quyết.

Đường Thận trông đề mục trên giấy, lại ngẩng đầu dõi mắt về lầu Minh Viễn, thở dài thườn thượt.

Thiên hạ này có ai không biết, hoàng đế Triệu Phụ hiện nay mải mê theo đuổi con đường trường sinh bất lão, tu luyện đan dược của Đạo gia!

Mà trường phái Dương Chu chính là một trong ba trường phái kinh điển của Đạo gia.

Thực ra thì Triệu Phụ chưa bao giờ công khai sùng bái Đạo gia, thậm chí ông ta cực kì coi trọng Nho gia, hằng năm cứ đến ngày kỵ của Đức thánh Khổng, ông ta lại viết một bài điếu văn. Nhưng lòng si mê với Đạo gia của Triệu Phụ cả triều đình đều thấy rõ mồn một. Lý Đại học sĩ ra đề mục thế này chẳng có gì sai cả, nhưng nếu thí sinh phê phán Dương Chu quá gay gắt, thì dẫu có cơ hội đề danh bảng vàng, làm quan đến hàng nhất phẩm đi chăng nữa, cũng tự khắc biến thành kẻ thù chính trị trong mắt Triệu Phụ mà thôi.

Quân tâm khó dò, gần vua như gần cọp, ai mà lường trước được suy nghĩ của Triệu Phụ!

Đường Thận nghĩ thầm, sơ sơ thôi cũng đã có hai tình huống rồi. Hoặc là Triệu Phụ không phải hôn quân, mặc kệ anh muốn viết gì thì viết; hoặc là Triệu Phụ sẽ để ý tới kẻ bề tôi dám phê phán việc mình tu tiên. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, nếu chẳng may Triệu Phụ muốn xử lí bề tôi, thì bài văn phê phán đó chính là một trong những lí do ông ta sẽ vin vào để hạch tội kẻ bề tôi đó.

Các cử nhân khác có thể không suy nghĩ sâu xa tới vậy, nhưng Đường Thận nhất định phải suy tính trước sau cho chu toàn.

Bởi tầm nhìn của cậu không thể chỉ dừng lại ở kì thi Hội này, cậu phải nhìn xa, phải toan tính trước cho tương lai!

Nhắm mắt lại, Đường Thận lược bỏ dần từng phương án phá đề trong đầu. Cậu quyết định chọn phương án đơn giản nhất, kém phần xuất sắc nhất, nhưng không sai vào đâu được. Sau đó, cậu đặt bút viết: "Quan dị đoan giả phẫn lệ băng căng, xá nhất cầu tái dĩ cầu khoáng dật, dĩ mặc chi ác nhi quy vu dương, tất viết hà dĩ vi chi..."

Ta thấy những người không chung đường với Nho gia, thường là do chứng kiến cái sai ác nhiều nên sinh sợ sệt. Bởi lẽ đó họ từ bỏ Mặc gia mà mưu cầu Dương Chu để cõi lòng được khoáng đạt, an nhàn. Bỏ Mặc đề về với Chu, là vì cớ gì chứ?

Chính thế, lần này Đường Thận không suy luận mở rộng từ đề mục nữa, mà tập trung khai thác ý chính, viết bài văn bát cổ thảo luận về vấn đề "tại sao sau khi từ bỏ trường phái Mặc gia, các học giả lại chọn theo đuổi trường phái Dương Chu". Bài văn này cốt là để không làm mích lòng bên nào cả, Đường Thận không khẳng định trường phái Dương Chu là đúng đắn, thậm chí còn cho rằng trường phái này dựa trên mê tín dị đoan, nhưng cậu không trắng trợn hạ thấp trường phái Dương Chu trên giấy mực.

Đây là lần đầu tiên Đường Thận viết văn mà khổ sở thế, cậu biết bài này phá đề không tốt, nên chú trọng nhiều vào logic và luận chứng. Sau ba canh giờ, chau chuốt từng li từng tí, cuối cùng Đường Thận cũng viết xong bài chế nghệ thứ hai. Xong bài, cậu phát hiện lưng áo mình đã đẫm mồ hôi.

Giữa mùa đông tháng hai trời rét căm căm, thế mà mồ hôi mồ kê đầm đìa!

Làm bài nháp xong, Đường Thận chợt ngẩn ngơ, không hiểu là mình đang làm đúng hay sai nữa.

Phải chăng cậu đã suy nghĩ quá nhiều? Chẳng qua chỉ là một bài thi Hội, có cần để ý lắm thế không?

Nhưng cậu gạt đi ngay: "Nếu đặt Vương Tử Phong vào hoàn cảnh này, chắc chắn huynh ấy cũng làm giống mình."

Đường Thận tự biết bài mình không vượt trội hẳn, nhưng chắc chắn vẫn thuộc tốp trên trong các thí sinh. Cậu chép lại bài cho sạch đẹp rồi đánh một giấc. Đến khi tỉnh lại, đã sang ngày thi thứ ba rồi.

Trước khi ngủ Đường Thận đã đọc đề số ba. Đề mục lần này là "ngô nhật tam tỉnh ngô thân."

Tăng tử viết: "Tôi, mỗi ngày tự xét mình ba điều: mưu việc cho người có hết lòng chăng? Cùng bạn bè giao thiệp có giữ niềm tin chăng? Được truyền dạy, có ôn tập chăng1?"

Đoạn này trích từ thiên Thuật Nhi trong sách Luận ngữ, cũng là một trích đoạn kinh điển mà ai cũng thuộc lòng ở thời hiện đại. Hai bài chế nghệ vừa rồi khiến Đường Thận có chút phiền muộn, nhưng vừa đọc đề thứ ba thì cậu khoái chí lắm, suýt tí nữa thì cười phá lên giữa trường thi.

Bình thường trong các kì thi Hội, ba bài chế nghệ ở trường đệ nhất sẽ được ra đề từ những cuốn sau: Hai bài dựa trên Luận Ngữ hoặc Mạnh Tử, một bài dựa trên Đại Học hoặc Trung Dung. Nhưng Lý Đại học sĩ lại rất ngược đời! Bài thứ nhất ông ta ra đề hiếm, bài thứ hai thì có bẫy phạm thượng, đến bài thứ ba lại vòng về Luận Ngữ!

Đường Thận kiếp trước trong đầu rặt Toán với Lý, chẳng có tí văn vẻ nào, nhưng cậu làm sao mà không biết câu "Tôi mỗi ngày tự xét mình ba điều" chứ, thậm chí cậu còn biết một câu khác.

"Hữu tắc cải chi, vô tắc gia miễn!"

Đây là lời bình của Chu Hi cho câu "Tôi mỗi ngày tự xét mình ba điều."

Đến nước này thì Đường Thận cũng chẳng ngại ngần chi nữa, mượn luôn câu của Chu Hi để vào bài, dựa trên quan điểm của ông để viết áng văn này: "Tăng thánh mỗi ngày tự xét bản thân ba điều, quan sát người khác rồi dốc sức rèn luyện. Nếu Khổng thánh biết học trò của mình nỗ lực đến vậy, ắt sẽ nhận xét rằng: có sai thì sửa, không sai thì khích lệ bản thân nỗ lực hơn nữa!"

Bài văn thứ ba viết trôi chảy, Đường Thận đọc lại vẫn thấy trào dâng cảm xúc. Riêng câu "hữu tắc cải chi, vô tắc gia miễn" là ăn chắc thứ hạng cao rồi, kể cả phần sau có viết dở đi chăng nữa.

Chép nốt bài bát cổ chế nghệ này vào giấy thi, Đường Thận mở đề thơ thí thiếp ngũ ngôn bát vận cuối cùng.

Đề mục là: "Phong vũ thê thê."

Mưa bay gió thổi lạnh lùng, tiếng gà eo óc, dặm chừng đìu hiu. Thấy chàng quân tử mến yêu, lòng em thoắt đã muôn chiều thảnh thơi2.

Xuất xứ từ Kinh Thi, bộ thơ Quốc phong, phần Trịnh phong*.

(*) phong ở đây là "phong tục". Trịnh phong = phong tục nước Trịnh. MTH viết sai là Trịnh Vũ, mình sửa lại cho đúng.

Câu thơ này miêu tả cảnh gió thảm mưa sầu, nhưng cả bài lại nói về nỗi tương tư của người con gái với tình lang. Đường Thận ngẫm nghĩ cẩn thận rồi viết:

Ai tìm nẻo mây về, ve bàng hoàng trước gió

Hột mưa nảy chuối biếc, tám hồi sấm rì rầm

...

Bạc đầu đường đời tận, khắc khoải tiếng cuốc kêu

Đến kì thi Hội thì nét chữ của học trò không còn quan trọng nữa, dù sao các quan chấm thi đều không được thấy chữ thật của thí sinh. Song Đường Thận vẫn chép bài thơ thí thiếp cho thật đẹp, kiểm tra không còn gì sai sót rồi mới đứng dậy nộp bài.

Cậu ra khỏi phòng thi, tới lối đi chính thì gặp ngay Mai Thắng Trạch.

Mai Thắng Trạch thấy Đường Thận thì mừng quýnh, hỏi: "Cảnh Tắc, phát biểu cảm tưởng coi."

Đường Thận thật thà đáp: "Đúng là vô liêm sỉ!"

Thành ra Mai Thắng Trạch đang tí tởn vì gặp cạ cứng lại xẹp như bong bóng xì hơi: "Vô sỉ thấy ớn!"

Hai người cười phá lên, mồm miệng tía lia đi ra khỏi trường thi.

Mai Thắng Trạch: "Đề thứ nhất, huynh nghĩ mất hai canh giờ mới chốt là phá đề thế nào. Huynh dở bát cổ chế nghệ lắm, riêng cái khoản này thì đệ với Lưu Phóng ăn đứt huynh rồi. Hôm nay không tệ, đề thơ "Phong vũ thê thê" ngon ăn quá, chả hiểu sao cái bài chế nghệ đầu tiên khó thế không biết! May mà Lý đại học sĩ cho hai bài sau dễ, không thì hôm nay huynh đâm đầu vào cột lầu Minh Viễn chết luôn cho rồi!"

Đường Thận nghe thế thì biết Mai Thắng Trạch viết bài chế nghệ thứ hai không đắn đo nhiều như mình.

Hai người ra khỏi trường thi liền từ biệt nhau.

Diêu Tam đã dẫn theo thầy thuốc trực sẵn ngoài cổng chờ Đường Thận. Đường Thận nói: "Về nhà đã, hôm nay tôi không mệt lắm, chắc là có kinh nghiệm thi Hương đợt trước nên khá ổn. Về tắm cái, ngủ một giấc rồi mai thi tiếp."

Diêu Tam và kế toán Lâm trút được gánh lo lớn.

Buổi tối tắm nước nóng xong, đánh một giấc ngon lành cành đào, hôm sau Đường Thận lại tới trường thi từ lúc trời chưa sáng.

Vương Trăn đã từng bảo Đường Thận rằng, trong bốn Đại học sĩ trong viện Hàn Lâm hiện giờ thì Dương Đại học sĩ và Phan Đại học sĩ thích Chu Dịch, Chu Đại học sĩ thích Xuân Thu. Chỉ riêng Lý Đại học sĩ là chàng không bảo ông ta thích gì. Đường Thận không hỏi, bởi cậu biết Vương Trăn không nói chẳng qua là vì trong Ngũ Kinh không có cuốn nào Lý Đại học sĩ thích hơn hẳn cả. Rất có thể ông ta thích Luận Ngữ trong Tứ Thư, vì thế mà trường đệ nhất kì thi Hội mới ra đến hai đề về Luận Ngữ.

Nếu Lý Đại học sĩ không tâm đắc cuốn nào trong Ngũ Kinh thì Đường Thận chẳng phải nghĩ ngợi nhiều, chọn ngay đề dễ nhất bắt tay vào làm.

Ba ngày sau, Đường Thận mặt mũi bợt bạt đi ra khỏi trường thi.

Diêu Tam vội vàng chạy tới.

Đường Thận nói: "Không sao, buồn ngủ quá thôi."

Ngủ kĩ cho hồi sức, Đường Thận lại trở về "trại giam", cày thêm ba ngày ba đêm nữa, viết đủ ba đề về các vấn đề thời sự của trường đệ tam.

Ròng rã chín ngày, cuối cùng kì thi Hội cũng khép lại. Cả nhà vừa về, quản lí Lục đã ghé thăm. Ông lựa đúng lúc Đường Thận thi Hội xong để đến gặp, thế mà Đường Thận vừa thấy mặt ông thì xua tay lia lịa, nói: "Mai hẵng qua."

Quản lý Lục cười méo cả miệng: "Vâng, xin nghe lời tiểu đông gia."

Hôm sau Đường Thận ngủ tít đến lúc mặt trời cao ba sào, xơi bánh nướng kiểu Thịnh Kinh mà Phụng Bút mua về, đang húp dở tô cháo thì quản lí Lục gõ cửa vào nhà. Ông vái chào Đường Thận, nói: "Tiểu đông gia, thành công rồi! Hôm trước lúc cậu đang thi thì quản lí Hình của lầu Thiên Lý tới tìm tôi. Ông ta nói thẳng luôn rằng đã biết tôi chính là quản lí của lầu Tế Hà ở phủ Cô Tô, sau đó bóng gió hỏi thăm tôi có muốn hợp tác với Họa Đường Thu để bán xà phòng và Hoàng Kim Lũ không."

Đường Thận nghe thế thì đặt bát cháo xuống, hỏi: "Ông ta biết chú là quản lí lầu Tế Hà rồi à?"

"Đúng vậy. Hai tháng trước lúc tôi tặng ông ấy hộp Hoàng Kim Lũ cũng rầu lắm. Tiểu đông gia không biết, lúc đó tôi nghĩ, chúng ta đã tỏ ý muốn hợp tác với Họa Đường Thu đến thế rồi, sao quản lí Hình nhận lễ vật xong vẫn tỏ ra không hiểu chứ? Mãi hôm nay tôi mới biết, không phải người ta không hiểu, mà người ta ngấm ngầm điều tra rõ thân phận của tôi, bấy giờ mới ngỏ lời hợp tác!"

Đường Thận cười: "Có thể phát triển lầu Thiên Lý và Họa Đường Thu thành những tên tuổi bậc nhất chốn kinh kỳ, quản lý Hình ắt chẳng phải người tầm thường. Thế chú bàn bạc với ông ta đến đâu rồi?"

Quản lý Lục lần lượt nêu những thỏa thuận sơ bộ của mình với quản lí Hình: "...Tôi thấy không có vấn đề gì, các điều kiện quản lí Hình đề xuất đều rất có lợi. Nhưng cụ thể hợp tác thế nào, hai quản lí chúng tôi không định đoạt được. Quản lí Hình mong cậu có thể gặp trực tiếp ông chủ của lầu Thiên Lý, để hai vị cùng thương lượng rõ ràng với nhau."

Đường Thận kinh ngạc: "Gặp Tiêu Dao vương gia Triệu Ngao ư?"

Quản lý Lục: "Là thế tử Cảnh vương, Triệu Quỳnh."

Bóng dáng người kia liền hiện lên trong đầu Đường Thận, cậu gật đầu ngay: "Được, gặp chứ sao không."

Lời tác giả:

Anh Vương hàng xóm: Ơ thế hôm nay không có suất diễn của tui à?"

Tiểu Đường lang: Thì sao? Huynh muốn diễn cái gì chớ?

Lại nói, tui cảm thấy công trong bộ này, tức là anh Vương hàng xóm á, khá là khác với công trong các bộ tui viết trước đây. Tui đã rất nghiêm túc khi xây dựng và viết về nhân vật này, không biết mọi người có cảm nhận được không?

Chú thích

[1] Bản dịch của Lý Minh Tuấn.

[2] Bản dịch của .

[3] Bánh nướng Đường Thận ăn

Chương 42

Thi Hội

Muốn xem ngàn dặm xa xôi, hãy lên tầng nữa trông vời nước non.

Lầu Thiên Lý nằm ở khu Tây thành Thịnh Kinh. Leo lên bốn tầng lầu, tầm nhìn thu trọn một góc Đại Vận Hà mênh mông như thước lụa bạc. Hôm sau kì thi Hội, Đường Thận và quản lý Lục đi đến lầu Thiên Lý, quản lí Hình với gương mặt tròn trịa niềm nở đã chờ sẵn để đón hai người.

Quản lí Hình ngắm nghía Đường Thận, cười: "Không ngờ tiểu công tử còn trẻ như vậy, đúng là thanh niên tài tuấn."

Đường Thận vái chào: "Quản lí Hình."

Quản lí Hình: "Thế tử nhà chúng tôi chưa tới, xin mời tiểu công tử lên nhã gian, nghỉ ngơi chốc lát."

Ba người cùng nhau lên lầu, Đường Thận đi vào nhã gian, quản lí Hình và quản lý Lục đứng ngoài cửa.

Vừa vào nhã gian, Đường Thận đã bắt gặp một tấm bình phong vẽ ngàn dặm núi non. Góc trái phòng là một kệ trưng bày nhiều ngăn, đặt không biết bao nhiêu là các loại đồ cổ, trân bảo lung linh muôn màu. Nhìn qua bên phải, khung cửa sổ hai cánh khép kín. Đường Thận đẩy cửa sổ, ùa vào tầm mắt là cảnh thành thị, người ngựa tấp nập trên đường phố thênh thang của Thịnh Kinh.

"Lên trên lầu này, tất thấy tinh thần nhẹ nhõm, u cảm tiêu tan, nâng rượu đón gió, vui vẻ dương dương làm sao!" Được chiêm ngưỡng phong cảnh phồn hoa của Thịnh Kinh, Đường Thận bỗng thấu hiểu mấy câu văn này của Phạm Trọng Yêm.

"Câu "tất thấy tinh thần nhẹ nhõm, nâng rượu đón gió" nghe hay lắm. Đã thế, hôm nay không được thiếu rượu đâu nhé."

Đường Thận nhanh chóng quay lại nhìn, thì ra thế tử Cảnh vương đã vào trong phòng. Thế tử mặc áo bào gấm, đội ngọc quan chỉnh tề. Hai người thấy mặt nhau, Triệu Quỳnh đứng sững lại, ngạc nhiên nhìn Đường Thận. Lát sau, thế tử mới thốt lên: "Hóa ra là ngươi à!"

Đường Thận vái chào: "Bái kiến thế tử Cảnh vương."

Có một số việc một khi đã biết thì sẽ hiểu nguyên lí ẩn sau. Triệu Quỳnh nhận ra ngay rằng việc Đường Thận đến phủ Cảnh Vương dự yến hẳn là có tính toán. Nhưng chuyện nhỏ nhặt cỡ ấy chẳng khiến y phật lòng, trái lại, y lấy làm mừng vì việc kinh doanh xà phòng lại được chủ trì bởi một sĩ tử có công danh.

Triệu Quỳnh gọi quản lí Hình: "Dâng thức ăn lên."

Quản lí Hình: "Vâng."

Triệu Quỳnh hỏi Đường Thận: "Kì thi Hội mới kết thúc hôm qua, Đường công tử thi tốt chứ?"

Đường Thận cười đáp: "Tốt lắm."

"Tuyệt, thế thì hôm nay không nói chuyện sách vở, chỉ bàn chuyện trời trăng mây gió thôi. Còn đâu chờ yết bảng rồi bàn nhé, được không?"

Đường Thận cũng không muốn vừa gặp mặt đã đi thẳng vào chuyện buôn bán xà phòng và tinh dầu. Hơn nữa, Triệu Quỳnh nói thẳng như vậy tức là có ý định hợp tác với cậu rồi. Đợt đến khi công bố kết quả thi Hội, nếu Đường Thận đỗ Tiến sĩ, thái độ của Triệu Quỳnh rất có thể sẽ thay đổi. Lúc ấy, hai bên lại đàm phán chuyện hợp tác thì vừa có lợi cho Đường Thận, vừa có ích cho Triệu Quỳnh.

Đã tỏ ý nhau, hai người chỉ đơn thuần nâng ly nói chuyện phiếm.

Đường Thận còn nhỏ tuổi, không thể uống rượu, Triệu Quỳnh cũng không ép cậu.

Một canh giờ sau, hai người đã thành bè bạn. Đường Thận ra khỏi nhã gian, xoay người lại vái chào Triệu Quỳnh: "Thế tử không cần tiễn."

Triệu Quỳnh nói: "Thế khi nào Hạnh bảng gọi tên, ta lại chúc mừng Cảnh Tắc vậy nhé."

Đường Thận và quản lý Lục rời khỏi lầu Thiên Lý, quản lý Lục xem chừng khá bất ngờ: "Cứ tưởng thế tử Cảnh vương là hoàng thân quốc thích thì khó nói chuyện lắm. Nào ngờ ngài ấy cởi mở dễ gần quá, chẳng làm giá chút nào."

Đường Thận sực nhớ ra một việc, cười nói: "Quản lý Lục, chú thấy phủ Cảnh vương mở lầu Thiên Lý và Họa Đường Thu với mục đích gì?"

Quản lý Lục đáp: "Hoàng thân quốc thích ở Thịnh Kinh ai ai cũng có sản nghiệp riêng, phủ Cảnh vương buôn bán cũng là chuyện thường, chẳng lẽ có chỗ nào bất thường ư?"

"Phải, đúng là rất bình thường, nhưng phủ Cảnh vương lại chuyên kinh doanh mỹ thực mỹ tửu, ngọc ngà châu báu. Cảnh vương là một Vương gia giàu có song không có thực quyền. Thế nên, có những phi vụ một vốn bốn lời như việc sửa chữa tuyến vận chuyển đường sông năm ngoái, bất cứ quan viên nào nhúng tay vào đều có cơ may hốt bạc vạn, ông ta lại chịu bó tay!"

Việc tu sửa đường sông của triều đình thường là cách tốt nhất để vương công quý tộc và trọng thần đại quan kiếm chác.

Nói thế không có nghĩa là giới quý tộc và quan viên hà lạm, bởi riêng việc mua bán vật liệu tu bổ công trình ở từng châu, từng phủ thôi đã là những phi vụ lớn, đủ cho họ thu lợi nhuận ngay cả khi không tham ô. Tuy không hoàn toàn loại bỏ được tình trạng bòn rút của công, nhưng những dự án này luôn đem lại khoản tiền kếch sù cho quan lại và quý tộc.

Cảnh vương có thể mở tửu lầu và cửa hàng châu bảo lớn nhất Thịnh Kinh, nhưng ông sẽ không bao giờ tranh thủ được một chân trong việc triều đình. Bởi lẽ ấy, ông rốt cuộc vẫn chỉ là một vương gia khá giả, có tiếng mà không có miếng.

Ở vào hoàn cảnh ấy, có người tha hóa, có người lại say sưa hưởng lạc đến quên đường về.

Đường Thận ngẫm nghĩ thì thấy thế tử Cảnh vương xem chừng không mấy uất ức với hoàn cảnh nhà mình. Dù sao đương kim thánh thượng rất tạo điều kiện cho công thương nghiệp, dẫu người đời có chỉ trích ông ta là hôn quân, là hoàng đế gàn dở chỉ mong trường sinh bất lão. Xưa nay đầy rẫy quân vương ôm mộng trường sinh, Triệu Phụ may mắn vẫn là một minh quân.

Hoàng đế không hà khắc với anh em nhà mình, Cảnh vương cũng vui vẻ yên phận.

Còn những chuyện thâm cung bí sử, những dây mơ rễ má chằng chịt trong hoàng gia thì chẳng phải điều mà Đường Thận có thể biết được vào lúc này.

Quản lý Lục hỏi: "Tiểu đông gia, bao giờ thi Hội yết bảng vậy? Có phải sau mười ngày giống thi Hương không?"

Đường Thận bật cười: "Nào dễ thế!"

Thi Hội là cửa ải cuối cùng trên con đường khoa cử. Từ nay về sau, một khi đã đỗ thi Hội rồi thì không trượt vào đâu được nữa, chỉ chờ thi Đình xếp hạng tiến sĩ thôi. Thi Đình mà không tốt thì vẫn có danh, chỉ tội là xếp chót.

Bởi tầm quan trọng của kì thi Hội, ngoại trừ việc dán tên, từng quyển thi còn phải được sao chép lại để giám khảo không chấm vào bản chính.

Cử nhân trong thiên hạ có đến hơn vạn người, các tú tài được thuê có nai lưng chép ba ngày cũng chưa chắc đã xong nổi.

Trên thực tế, Đường Thận áng chừng ba ngày là còn nhanh chán. Kì thi hội kết thúc vào trung tuần tháng Hai, nhưng đến tận ngày hai mươi bảy, các giám khảo mới biết mặt mũi bài thi ra sao. Tên đã được quết hồ, chữ cũng không phải là chữ của thí sinh, tất cả đều chung một thể Quán các chỉnh tề nắn nót. Sau khi tế bái Đức thánh Khổng xong, các khảo quan đều khóa mình trong khu vực chấm thi, tập trung phê quyển.

Sau năm ngày, ba mươi giám khảo cũng lọc ra được mười bài xuất sắc nhất.

Nhân lúc Lý Đại học sĩ – quan chủ khảo vắng mặt, một giám khảo mới thì thầm than với đồng nghiệp: "Đề lần này oái oăm phát sợ. Có mấy thí sinh văn chương trác tuyệt mà viết lạc đề hết trơn. Thậm chí có bài phá đề chệch đến mức muốn vớt cũng không vớt nổi. Về tình về lí đều không thể xếp bài kiểu ấy vào mười hạng đầu được, đành phải chấm cho đỗ tiến sĩ, hi vọng thi Đình có cơ hội trổ tài bứt phá."

Đợi Lý Đại học sĩ tới, các quan cùng nhau xét duyệt lại mười quyển đáng chú ý nhất.

Thi Hội, Thi Hương và thi Đồng sinh đều lấy trường đệ nhất là chính. Ở trường đệ nhất lần này, Lý Đại học sĩ ra ba đề mục, lần lượt là: "Viên quan ấp Nghi xin gặp", "bỏ Mặc tất về với Dương", và "ta mỗi ngày tự xét mình ba điều".

Riêng đề thứ nhất thôi đã loại được hàng đống thí sinh rồi.

Ba vị Phó khảo lần này có hai người là học sĩ viện Hàn Lâm, một người là Thị lang bộ Lễ. Một phó khảo nói: "Ta thấy quyển này xứng với danh hiệu Hội Nguyên nhất. Mời chư vi xem, Nghi phong nhân thỉnh kiến, trò này phá đề bằng cách mượn Khổng thánh để răn dạy người trong thiên hạ. So sánh đối chiếu rõ ràng, kết luận vô cùng xác đáng.""

Mọi người đọc quyển ấy xong thì gật gù: "Viết tốt thật!"

Phó khảo khác nói: "Thế chư vị xem thử quyển này đi."

Mọi người lại ngó sang.

Lý Đại học sĩ có tuổi rồi nên không tinh mắt, thính tai bằng các giám khảo khác. Ông giơ quyển bài trước mặt, nheo mắt đọc: "năm lần bảy lượt xin được nghe lời răn của Thánh, chẳng hóa là đã thấy Đức thánh mà không biết đường ngộ ra hay sao...Ờ, trò này hết sức sùng bái Đức thánh Khổng. Để xem bài thứ hai coi." Đọc một hồi, Lý Đại học sĩ nói: "Bài này thường quá, được cái lời văn chặt chẽ, câu chữ chải chuốt, nhưng phá đề chẳng có gì nổi bật cả. Hừ, quyển này lọt vào mười hạng đầu còn được, chứ làm sao đòi đoạt Hội Nguyên?"

Phó khảo bị Lý Đại học sĩ xét nét, trong bụng thở vắn than dài. Lý Đại học sĩ là học giả lão làng, nổi tiếng là trái tính trái nết. Có thể thấy ngay từ cái cách ông ta ra đề tréo ngoe là vị Đại học sĩ này cũng chẳng được lòng mọi người ở viện Hàn Lâm mấy.

Phó khảo nói: "Lý đại nhân đã đọc bài chế nghệ thứ ba của trò này chưa ạ?"

Lý Đại học sĩ bèn đọc tiếp bài còn lại. Chỉ một lát sau thôi, ông đã phải trầm trồ kinh ngạc, dí bài thi vào sát tận mặt để soi tỉ mỉ từ trên xuống dưới, đoạn thốt lên: "Thật phi thường! Câu 'hữu tắc cải chi, vô tắc gia miễn' mới hay làm sao. Văn chương kết nối được cả tư tưởng xưa và nay, cứ ngỡ như đang được nghe lời răn của Tăng thánh vậy." Nói rồi, ông lại nhẩm đi nhẩm lại tám chữ này, xong mới đưa bài cho các giám khảo khác trong sảnh chấm thi cùng đọc.

Lý Đại học sĩ rạng rỡ mặt mày, khen: "Sâu sắc từng câu chữ, đúng là một áng văn trác tuyệt, xứng đáng xếp hạng nhất kì thi Hội lần này!"

Chú thích

Trích bài thơ Lên lầu Quán Tước – Vương Chi Hoán. Bản dịch của

Câu văn nằm trong bài tản văn Nhạc Dương lâu ký (Ký ở lầu Nhạc Dương). Không biết là chủ động hay vô tình, MTH bỏ vế "u cảm tiêu tan." Mình bổ sung vào theo đúng nguyên văn bài ký và bản dịch của Điệp Luyến Hoa (Thi Viện).

Chương 43

Tấm lòng sư huynh

Lý Đại học sĩ cầm quyển thi đã bị che tên, tấm tắc khen hay.

Các giám khảo khác cũng gật đầu liên tục, ai nấy tán thưởng. Một giám khảo nói: "Tuy hai bài đầu viết không có gì nổi trội, nhưng riêng bài cuối thì xứng đáng xếp hạng nhất trong hơn một vạn thí sinh."

Có người hỏi: "Thế ta nên xếp hạng sao cho phải đây?"

Lý Đại học sĩ suy ngẫm một chút, nói: "Tuy bình thường dù xét đến mười bài xuất sắc cũng hiếm khi bóc tên thí sinh, nhưng hôm nay chúng ta sẽ phá lệ. Thời tiên đế đã có tiền lệ hai cử nhân văn chương xuất chúng ngang ngửa nhau, cuối cùng các quan quyết định bóc tên, xét chữ viết từng người, sau đó kết hợp với bài viết trong hai trường còn lại để chọn Hội Nguyên. Chư vị đồng liêu, lão phu đề xuất chúng ta chọn ra ba thí sinh đỗ đầu trước, sau đó bóc tên, rồi sắp xếp thứ hạng cho ba người ấy, các vị thấy sao?"

"Xin nghe theo Lý đại nhân."

Vì thế, các quan chấm thi bèn chọn ra ba bài đứng đầu, rồi cho sai nha lấy bài thi hai trường còn lại của ba người ra. Đương nhiên là bản gốc với chữ thật của thí sinh.

Tuy những người được chọn để sao chép bài thi đều có nét chữ ngay ngắn chỉnh tề, nhưng dầu sao cũng chỉ là tú tài thôi. Vừa đem so với chữ gốc của ba thí sinh xuất sắc liền thấy khác biệt một trời một vực. Các giám khảo xem bản gốc cũng rất hào hứng.

Sau khi duyệt bài của ba thí sinh, một phó khảo nói: "Ta có kết luận rồi."

Hai vị phó khảo còn lại cùng gật gù: "Tôi cũng thế."

Cuối cùng mọi người nhìn về phía Lý Đại học sĩ.

Vị đại học sĩ nổi tiếng lập dị vuốt chòm râu dê bạc trắng khô queo: "Thế chúng ta bỏ phiếu quyết định. Lão phu tính làm ba phiếu, ba người các vị mỗi người được tính hai phiếu."

"Vâng."

Một ngày trước khi yết bảng, Đường Thận đã vứt toẹt chuyện thi cử ra sau đầu, ngủ đến là ngon lành. Ai ngờ hôm sau, cậu bị Phụng Bút đánh thức dậy từ lúc trời còn chưa sáng. Đường Thận giật mình, chợt nhớ ra hôm nay là ngày gì. Phụng Bút nói: "Hôm nay công tử vẫn đợi ở nhà, còn tôi đến trường thi xem kết quả chứ ạ?"

Đường Thận nghĩ ngợi một chút: "Để ta tự đi."

Cậu mặc áo bông dày ấm, khoác thêm áo choàng, dẫn Phụng Bút và Diêu Tam đến trường thi Thịnh Kinh từ lúc trời vẫn còn mịt mờ.

Đã vào tháng Ba xuân về, nhưng Thịnh Kinh vẫn rét mướt, thở ra khói được. Chưa tới giờ Dần, trên đường cái hẵng còn vắng vẻ, ngoại trừ các vương công, đại thần lên triều sớm thì chỉ có các thí sinh chờ kết quả thi tụ tập ở trước cống viện. Bọn họ chịu khó dãi dầm sương gió, lặng lẽ đi lại hai bên đường, chẳng hề có chút hân hoan, tự tin nào.

Đường Thận vén rèm xe liền thấy đám thí sinh mặt nhăn mày nhó, bất đắc dĩ thở dài: "Đề mục thi Hội lần này đúng là trái khoáy thật!"

Đi tới cổng trường thi, dưới ánh trăng là đám đông học sinh đen kìn kịt. Nhiều người thế mà chỉ nghe thấy tiếng hít thở với đôi ba tiếng ho húng hắng, còn lại thì lặng ngắt như tờ.

Rốt cuộc, cổng chính trường thi mở ra, làn sóng thí sinh bắt đầu động đậy.

Đường Thận đứng giữa đoàn người, cậu thấy hai sai nha giơ cao tấm bảng son, dán lên danh sách những người lọt vào Hạnh bảng. Danh sách được dán từ dưới lên trên, kì thi Hội lần này có tổng cộng hai trăm chín mươi mốt thí sinh thi đỗ. Đường Thận phát hiện Lưu Phóng thế mà đỗ hạng hai trăm mười bảy. Cậu cứ tưởng là trùng tên, nhưng nhìn kỹ lại thì đúng là Lưu Phóng – Lưu Khắc Kỷ, học trò Quốc Tử Giám được tất cả đặt kì vọng đoạt Hội Nguyên.

Cũng có học trò Quốc Tử Giám khác phát hiện tên Lưu Phóng, bèn hô: "Lưu Phóng, sao huynh lại đứng hạng hai trăm mười bảy thế kia? Ơ, Lưu Phóng huynh, làm sao vậy...Hầy, không ngờ huynh ấy thiếu kiên nhẫn thế, chẳng đợi danh sách dán hết đã phất tay áo bỏ đi rồi!"

Đường Thận nghĩ thầm: Nếu không phải tại Lý Đại học sĩ ra đề kì quặc, thì có lí nào ba ngôi đầu bảng lại không gọi tên Lưu Phóng kia chứ? Phất tay áo bỏ đi còn tốt chán, phải người nóng tính thì chắc đã chửi đổng lên ngay tại chỗ rồi.

Chờ thêm một lúc, Đường Thận lại nhận ra một vài cái tên quen thuộc. Có mấy học trò tham dự Giải Nguyên yến lần trước ở phủ Cảnh Vương, hầu hết đều có tên trong một trăm hạng đầu, xếp hạng không chênh lệch quá nhiều. Xem lên tiếp, Đường Thận tìm thấy tên Mai Thắng Trạch, đứng hạng ba mươi tư.

Đường Thận ngó ngay về phía Mai Thắng Trạch cách đó không xa.

Mai Thắng Trạch chắp tay với cậu, cười méo xẹo: "Thế là thỏa mãn lắm rồi, Cảnh Tắc đừng chê cười ta nhé."

Đường Thận vô cùng thông cảm: "Đệ hiểu mà, vô sỉ thấy ớn."

Phần sau của danh sách, Đường Thận cũng thấy hai người mình quen. Sau hai khắc, chỉ còn ba cái tên đứng đầu là chưa được công bố.

Diêu Tam nín thở hồi hộp, Đường Thận cũng trừng trừng nhìn Hạnh bảng, không dám chớp mắt.

Khai Bình năm hai mươi bảy, kì thi Hội tại Thịnh Kinh, đệ tam danh: Diêu Thiện – Diêu Vấn Cơ.

Đệ nhị danh: Đường Thận – Đường Cảnh Tắc.

Đệ nhất danh: Vương Tiêu – Vương Đại Nhạc.

Bỗng có người vỗ vai, Đường Thận ngơ ngác ngoái lại, hóa ra là Mai Thắng Trạch hớn hở hò reo: "Cảnh Tắc, đệ đỗ đệ nhị kìa!"

Diêu Tam cũng vỡ òa sung sướng: "Tiểu đông gia, cậu đỗ đệ nhị danh rồi!"

Đường Thận sửng sốt, cố ý hỏi: "Tên ta là Đường Thận à?"

Mọi người cười phá lên, bè bạn Quốc Tử Giám xung quanh đều xúm lại chúc mừng.

Mai Thắng Trạch trêu: "Trông cái mặt này, đắc chí thấy ghét."

Đường Thận cười hí ha hí hửng, không nén được kích động: "Người hiểu ta chỉ có Thắng Trạch huynh thôi! Các bạn học, trưa nay tại lầu Thiên Lý, Đường Thận xin chiêu đãi tất cả mọi người!"

"Sao mà lỡ tiệc chúc mừng của Cảnh Tắc huynh được!"

"Ta nhất định sẽ có mặt!"

Đỗ thi Hội hoàn toàn nằm trong dự kiến của Đường Thận, nhưng đỗ hàng đệ nhị hoàn toàn nằm ngoài dự kiến. Cậu sung sướng suốt một ngày một đêm, ngẫm nghĩ kĩ càng rồi kết luận: "Hừm, hẳn là tám mươi phần trăm nguyên nhân đỗ cao là nhờ ta đây có tài năng trời phú, lại được phụ trợ bởi bàn tay vàng xuyên không đọc gì cũng nhớ. Ngoài ra, bài đầu viết không tệ, bài thứ hai lại khá tầm thường, chỉ được cái chặt chẽ. Được đỗ hạng nhì ắt là nhờ bài thứ ba, "Ngô nhật tam tỉnh ngô thân". Chu Hy tiên sinh giúp ta rồi!"

Đoán vẩn vơ mà cũng gần như trúng phóc.

Đạt thành tích tốt, Đường Thận đi báo tin mừng ngay cho Phó Vị và Vương Trăn. Song lần này cậu không gặp được Vương Trăn, bởi chàng có việc nên đã rời kinh mấy ngày chưa về. Sau đó, Đường Thận gặp lại Vương Trăn trong một hoàn cảnh khá bất ngờ.

Thi Hội mỗi khóa đều diễn ra vào tháng hai, yết bảng vào tháng ba, đầu tháng tư thì thi Đình.

Nhân tài Quốc Tử Giám nhiều như lá mùa thu, mỗi lần thi Hội phải có một phần sáu thí sinh thi đỗ là học trò Quốc Tử Giám. Khi ấy, Lâm Tế tửu sẽ mời đại thần trong triều tới giảng bài ở Quốc Tử Giám, những tiết giảng này gọi là "Quan khóa." Hôm ấy Đường Thận nghe giảng tập thông báo, người đứng lớp Quan khóa ngày mai là Thượng thư bộ Hộ Vương Tử Phong, cậu ngạc nhiên muốn rớt quai hàm.

Mai Thắng Trạch cũng nói: "Cảnh Tắc, sư huynh của đệ kìa! Chắc là đệ biết trước rồi chứ gì."

Đường Thận kêu oan: "Nào có, sư huynh của đệ về kinh từ bao giờ đệ còn chẳng biết nữa là!"

Hôm sau, Lâm Tế tửu dẫn các đệ tử đến Suất Tính đường. Giờ Mùi một khắc, Vương Trăn mặc quan bào đỏ thuần tiến vào từ cổng chính giảng đường. Tuy chàng mặc quan phục nhưng không đội mão quan. Đứng trước bục giảng, chàng nhìn lướt qua toàn bộ học sinh trong giảng đường bằng ánh mắt ôn hòa, cũng trông thấy Đường Thận, nhưng chỉ thoáng qua thôi.

Trong số học trò Quốc Tử Giám phải có một nửa là con nhà quan lại, thế gia, cũng biết đôi chút về Vương Trăn. Nửa còn lại là học trò nghèo, chưa từng gặp quyền thần trong triều như chàng. Thấy Vương Trăn trẻ như thế, các đệ tử hàn môn, đại diện là Lưu Phóng, đều lấy làm kinh hãi, ngạc nhiên trưng hết lên mặt.

Nhưng mọi người đều hết sức trật tự.

Vương Trăn cất tiếng nói: "Tên ta là Vương Trăn, tự Tử Phong. Hôm nay mở Quan khóa ở Quốc Tử Giám, chúng ta thảo luận với tư cách thầy-trò, không liên quan đến vai vế trong quan trường."

Các học trò đáp: "Xin nghe Vương tiên sinh giảng."

Vương Trăn liền bắt đầu giảng bài.

Lâm Tế tửu cố ý mời Vương Trăn đến giảng, nội dung bài giảng chính là tình hình thời sự, việc triều chính, chứ hoàn toàn không phải Tứ thư Ngũ kinh. Dĩ nhiên, Vương Trăn không thể để lộ việc nước; song bài giảng của chàng là những chuyện từ thời tiên đế, phong cách giảng cũng hết sức thoải mái ung dung, chuyện trò vui vẻ với tất cả. Các học trò đều thông minh nên tiếp thu nhanh chóng, càng hiểu rõ hơn về quan trường, coi như chuẩn bị cho kì thi Đình sắp tới.

Thi Đình đầu tháng Tư không thi bát cổ chế nghệ mà thi sách vấn về tình hình chính trị đương thời!

Quan khóa kết thúc, các học trò hẵng còn say sưa đắm chìm trong bài giảng.

Giọng Vương Trăn thanh như tiếng chuông ngân: "Còn trò nào thắc mắc không?"

Vài học sinh dè dặt đặt câu hỏi, Vương Trăn tận tình giải đáp cặn kẽ.

Từ đầu tới cuối giờ học, Vương Trăn hoàn toàn không nhìn Đường Thận lấy một cái. Đường Thận bắt đầu thắc mắc, chẳng lẽ rằng sư huynh mình đến đây chỉ để dạy học thôi sao?

"Vương Tử Phong mà tốt bụng thế ư?" Đường Thận luôn cảm thấy cái từ này không hợp với con người Vương Tử Phong xíu nào cả.

Cậu vừa ra khỏi Suất Tính đường, một giảng tập đứng ngoài bảo: "Cảnh Tắc, Vương đại nhân chờ cậu ở Sùng Chí đường đấy!"

Đường Thận ù ù cạc cạc đi sang Sùng Chí đường. Cậu gõ cửa khe khẽ, Vương Trăn nói: "Vào đi."

Đường Thận vào phòng, liền thấy Vương Trăn đang ngẩng đầu ngắm nghía một bức ông lão cưỡi trâu treo trên mặt tường phía Tây của Sùng Chí đường. Khi Đường Thận đi vào, chàng quay ra nhìn cậu, ánh mắt lưu lại trên gương mặt một chút, rồi liếc xuống mỏm vai Đường Thận.

Đường Thận: "Tử Phong sư huynh."

Vương Trăn bước tới, đưa tay nhón lấy cánh hoa màu nhạt trên bờ vai Đường Thận.

Đường Thận ngỡ ngàng.

Vương Trăn: Hoa hạnh."

Đường Thận: "Chắc lúc nãy đệ đi từ hậu viện Quốc Tử Giám sang đây thì hoa rụng lên vai đấy."

Vương Trăn cười: "Chúc mừng tiểu sư đệ đề danh Hạnh bảng, đạt hạng nhì thi Hội ."

Mấy bữa nay nhận vô số lời chúc mừng tán tụng, Đường Thận đã miễn dịch với khen ngợi. Nhưng không hiểu sao khi nghe câu nói rất đỗi bình thường này, nhìn nét mặt vui vẻ của Vương Tử Phong, Đường Thận lại thấy hơi thẹn thùng. Cậu thật thà đáp: "Như sư huynh nói ấy à, thi Hội không quan trọng mấy, quan trọng là...thi Đình."

Vương Trăn gật đầu, chợt quay phắt sang một vấn đề khác hẳn: "Đệ luyện chữ đến đâu rồi?"

Đường Thận là người hiện đại mà cũng không hiểu nổi cách não bộ Vương Tử Phong vận hành.

Sao đang nói chuyện thi Hội lại nhảy sang chuyện luyện chữ?

Đường Thận lẩm nhẩm trong bụng thế, ngoài miệng chỉ đáp: "Lâu nay vẫn luyện đều ạ."

"Còn có mười ngày nữa là thi Đình, mấy hôm tới cứ giờ Thân thì đệ sang phủ ta nhé."

"Sư huynh?"

"Ta hướng dẫn đệ luyện chữ."

"..."

Hôm nay Vương Tử Phong kì quặc quá mức bình thường rồi!

Mãi về sau Đường Thận mới biết, Vương Trăn căn bản không tin học lực của cậu đủ để tự thi đỗ đệ nhất giáp!

Thi sách vấn nói thì dễ, nhưng viết còn khó hơn văn bát cổ! Đề văn bát cổ lúc nào cũng nằm trong Tứ thư Ngũ kinh, dù các đệ tử hàn môn không mấy quen thuộc với chính trị cũng có thể trích dẫn, lí luận, viết được bài văn xuất sắc. Nhưng sách vấn thì sao?

Đường Thận năm nay mới mười sáu tuổi, luận về độ từng trải thì cậu kém Diêu Thiện – người đỗ đệ tam, luận xuất thân từ gia đình có truyền thống khoa bảng thì cậu kém xa Hội Nguyên Vương Tiêu. Ngoại trừ hai người này ra, trong số những thí sinh có tên trên bảng hạnh, ối người là con nhà quan lại, quý tộc, dòng dõi thư hương, ai cũng giỏi giang hơn cậu! Đường Thận nhắm hai mươi hạng đầu còn có cơ hội, nhắm mười hạng đầu thì rất khó, mong đỗ tam khôi nữa thì khó như lên trời!

Nhưng, thành sự tại nhân.

Chủ khảo thi Đình chỉ có duy nhất một người là đương kim hoàng đế, các khảo quan đều chỉ được gọi là "Quan đọc quyển." Trong hai trăm chín mươi mốt quyển thi, các quan đọc quyển sẽ lọc ra mười bài, xếp sẵn thứ tự rồi trình lên hoàng đế để ngài khâm điểm ba người đỗ đầu.

Đường Thận nếu không lọt vào mười hạng đầu thì khỏi được hoàng đế nhìn đến luôn.

Mùng hai tháng tư, chưa tới giờ Mão, các thí sinh đã tiến vào hoàng cung từ cửa bên cổng Tuyên Võ, tập trung ở điện Minh Ý. Giờ này, hoàng đế đương nhiên chưa có mặt. Gần ba trăm thí sinh hành lễ trước ngai rồng trống không, mười quan đọc quyển phát đề và coi thi.

Đường Thận đỗ hạng hai trong kì thi Hội, được ngồi ở vị trí thứ hai trên hàng đầu.

Dù cậu đã chuẩn bị từ trước, nhưng gặp bốn đề sách vấn vẫn thấy hoang mang vô cùng. Đường Thận kiếp trước không có kinh nghiệm chính trị, đời này xuyên không chưa được ba năm, ngay cả vấn đề "chiến loạn biên cương" trong đề thứ tư cậu cũng mới chỉ nghe chung chung chứ chưa nắm vững, nữa là bắt cậu tư duy bằng lập trường của một quan viên, đề xuất sách lược giải quyết!

Nhưng Đường Thận không vì thế mà căng thẳng, cậu hít sâu thở đều, bình tĩnh làm bài thi.

Không biết viết gì thì cứ bắt đầu bằng kính tâu thánh thượng, thỉnh an bệ hạ các kiểu. Đường Thận tỉ mỉ viết từng câu từng chữ theo đúng quy cách thi Đình, viết xong thì chép lại từng bài cho sạch đẹp.

Viết bài sách vấn không khó, viết sao cho đẹp, sao cho đúng quy cách thì khó kinh khủng! Mãi đến khi mặt trời lặn đằng Tây, Đường Thận mới viết xong chữ cuối cùng. Cậu thổi khô mực, dừng bút ở đây.

Nửa canh giờ sau, toàn bộ thí sinh dừng bút, nộp quyển, rời khỏi hoàng cung.

Đường Thận đi nửa đường thì Mai Thắng Trạch đuổi kịp. Hai người nhìn nhau, sầu như trái bầu.

Mai Thắng Trạch: "Cảnh Tắc, thi thế nào?"

Đường Thận thật thà đáp: "Viết kín giấy, mỗi bài một ngàn năm trăm từ."

Mai Thắng Trạch: "Đường Cảnh Tắc đệ ghê thật, ta chỉ viết được có một nghìn hai trăm từ thôi. Tiêu rồi, kiểu này thứ hạng thi Đình của ta lại thấp hơn đệ."

Hai người cười phá lên.

Các sĩ tử thi xong nối đuôi rời khỏi cung theo cửa bên cổng Tuyên Võ. Các quan đọc quyển thì chia nhau mỗi người ba chục bài thi đã dán tên, bắt đầu chấm điểm. Quan đọc quyển đều là trọng thần trong triều, một nửa số đó là Thượng thư lục bộ hàm nhị phẩm, trừ Vương Trăn vắng mặt để tránh hiềm nghi.

Thượng thư bộ Lễ là một người đàn ông trung niên cao gầy, nuôi một chòm râu đen mướt vô cùng phong cách.

Đến thi Đình thì các quan đọc quyển đều chấm thẳng vào bài thi gốc của thí sinh. Thượng thư bộ Lễ vừa chấm hết một quyển, mở quyển tiếp theo thì khựng lại ngay từ hàng chữ đầu tiên. Hồi lâu, ông ta mới vẫy Tả thị lang bộ Lễ ra, chỉ quyển thi bảo: "Trông quen không?"

Tả thị lang bộ Lễ vừa nhòm vào đã không dứt mắt được. Đọc xong bài thi, ông ta phải phì cười, ới Hữu thị lang bộ Hộ: "Tần đại nhân, ra đây xem cái này, nhanh."

Ông ta nói câu đấy làm cả phòng chấm thi tò mò lắm.

Các quan xúm lại một chỗ. Tần Tự chạy sang đọc bài, thiếu điều dán luôn mắt lên bài thi.

Thượng thư bộ Lễ vuốt râu, cười híp mắt: "Phải chữ Vương đại nhân không nào?"

Tần Tự cười gượng: "Phải có đến bảy phần thần vận của Vương đại nhân ấy. Chắc là quyển của Đường Cảnh Tắc, tiểu sư đệ Vương đại nhân chẳng sai rồi!"

Thượng thư bộ Lễ giả vờ nghiêm giọng: "Nét chữ này ít nhất phải luyện một năm rưỡi mới giống được đến mức ấy! Tên Vương Tử Phong quả thực gan cùng mình, hành vi này là cố ý đánh dấu bài, làm rối kỉ cương để mưu lợi riêng đây mà!"

Trong phòng chấm thi, các quan đại thần rường cột nước nhà đều cúi đầu đếm kiến, nghĩ bụng: Ông có giỏi thì nói thẳng câu này vào mặt Vương Tử Phong ấy!

Thượng thư bộ Lễ hừ một tiếng, chuyển bài của Đường Thận cho Tả thị lang.

"Lập luận chặt chẽ, văn hay chữ tốt, xếp bài này vào mười hạng đầu."

"Vâng."

Tấm lòng này của sư huynh, Đường Thận hỡi, liệu có thấu chăng?

Chương 44

Bố!

Mùng bảy tháng tư, toàn bộ hai trăm chín mươi mốt tân khoa tiến sĩ của kì thi Hội thay Nho phục, bước vào hoàng cung lần thứ hai.

Hôm nay, trong điện Tử Thần chật kín đại thần văn võ trong triều. Như buổi triều sớm ngày thường, quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải. Hơn hai trăm tiến sĩ đương nhiên không thể nhét tất vào điện Tử Thần. Giờ Dần ba khắc, khi tia nắng đầu tiên ló rạng, Thủ lĩnh Thái giám Quý Phúc đi ra từ điện Tử Thần, hô vang: "Tiến sĩ thi Hội năm Khai Bình thứ hai mươi bảy vào điện Tử Thần diện thánh!"

Dứt lời, hai thái giám trẻ đừng dưới bậc thềm đầu tiên ngoài cửa cung hô theo: "Tiến sĩ thi Hội năm Khai Bình thứ hai mươi bảy vào điện Tử Thần diện thánh!"

Tiếp theo, bốn thái giám khác lại nối đuôi tuyên bố.

Sau ba mươi mốt tiếng hô, lời tuyên triệu đã âm vang khắp cả hoàng cung.

Tiếp đó, Quý Phúc gọi tên mười vị tiến sĩ xuất sắc nhất vào điện. Danh tính ba người đỗ đầu hẵng còn để ngỏ, chờ hoàng đế khâm điểm.

Tên Đường Thận được gọi thứ năm, ám chỉ rằng cậu được các quan đọc quyển xếp hạng năm trong số mười người. Đường Thận cúi đầu, bình tĩnh bước ra khỏi hàng ngũ tiến sĩ, đi cùng chín người kia vào điện Tử Thần.

Trong mười người này, có Diêu Thiện từ lúc chưa thi đã nức tiếng tài giỏi, cũng có Hội nguyên Vương Tiêu, và hai bạn cùng trường Quốc Tử Giám của Đường Thận là Lưu Phóng và Mai Thắng Trạch.

Nhưng lúc này dù có thân đến mấy họ cũng chẳng thể châu đầu rì rầm với nhau. Điện Tử Thần mặt tiền rộng chín gian, bề sâu dài năm gian1, tượng trưng cho ngôi cửu ngũ chí tôn. Ngẩng đầu lên là mái đôi lưu ly hoàng ngọc, trên nóc vẽ tranh màu vàng kim lấp lánh. Chính giữa điện treo một bức hoành, thời tiên đế thì bức hoành đề "Thận chung như thủy2", còn đến triều này, Hoàng đế Khai Bình Triệu Phụ đã đổi lại từ mười năm trước thành "Thông nhất vạn tất", lấy từ sách Thôn Trang của Đạo gia, câu "Thông ư nhất nhi vạn sự tất, vô tâm đắc nhi quỷ thần phục3."

[1] Đơn vị đo đạc nhà cửa thời xưa. [2] Đến cuối vẫn cẩn thận như ban đầu. [3] Khi Đạo bao trùm hết thảy thì mọi sự đều thành, khi tâm trí không bị trói buộc thì quỷ thần cũng phục tùng.

Mười tiến sĩ tập trung đông đủ. Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng bưng khay lót tơ vàng, trình quyển thi Đình của mười người lên trước Triệu Phụ.

Triệu Phụ chưa xem quyển ngay lập tức mà cười rằng: "Các khanh coi, cứ mỗi ba năm trẫm lại được thấy mười mái đầu đen mới." Vừa dứt lời, Triệu Phụ bổ sung ngay: "Năm nay trẫm sai rồi, trong số thí sinh này có một người tóc hoa râm. Ngươi tên gì?"

Người này đứng thứ bảy trong số mười người, Đường Thận đã nghe danh từ trước khi thi Hội, chính là Giải Nguyên vùng Sơn Tây.

Được hoàng đế gọi tên, vị tiến sĩ già năm mươi tuổi này cảm động rơi nước mắt, quỳ xuống xưng tên.

Triệu Phụ nói: "Trời thương lấy đức cần cù."

Chỉ bốn chữ ngắn ngủi thôi mà khiến vị tiến sĩ già nước mắt đầm đìa.

Triệu Phụ cho phép mười người ngẩng đầu lên, cả mười tiến sĩ liền y lệnh. Đối với một số người trong nhóm này, hôm nay có thể là dịp họ được gần vua nhất trong cả cuộc đời. Đường Thận đứng ngoài cùng ở hàng thứ nhất, lẳng lặng hướng ánh mắt xuống đất, đứng im ru. Cậu nghe thấy Triệu Phụ nói chuyện với bách quan, rồi lại nói riêng với Thượng thư bộ Lễ – Mạnh Lãng.

Hoàng đế như vậy, ai dám chê bai là tầm thường, hồ đồ đây? Dẫu ông ta mê mải tu tiên, tiêu hao quốc khố để tìm kiếm đảo tiên ngoài khơi xa, nhưng đất nước vẫn phồn vinh hưng thịnh không kém gì khi xưa. Bách tính thương thay cho Chung Thái Sinh và các vị đại nho qua đời, nhưng có ai hận thù Hoàng đế đâu?

Triệu Phụ không phải minh quân, nhưng cũng là vị quân chủ biết gìn giữ thành quả của người đi trước. Ông ta sủng tín hạng tiểu nhân (như đám Giám chính Lý Tiêu Nhân của Khâm Thiên Giám chẳng hạn), nhưng không mù quáng tin dùng tiểu nhân. Hôm nay ông ta chỉ nói vài cậu, Đường Thận trộm liếc Mai Thắng Trạch đứng cạnh mình, nét mặt tuy bình thản, nhưng trong lòng cậu thở dài: Anh bạn thân hiển nhiên đã quyết định trở thành bề tôi trung thành nhất của hoàng đế rồi!

Luận về thuật đế vương, Triệu Phụ quả là một cao thủ!

Nói thêm dăm câu, rốt cuộc Triệu Phụ cũng mở bài thi của mười người ra xem. Đây được gọi là "Thiên tử duyệt văn." Thi Đình chỉ có một quan chủ khảo duy nhất, mười quan đọc quyển cũng chỉ có quyền dâng xếp hạng của mười thí sinh lên cho hoàng đế, nhưng không hề biết sau đó hoàng đế sẽ sửa lại thứ hạng như thế nào.

Mọi người chỉ thấy Triệu Phụ nghiêng mình từ ngai rồng, khom người lấy quyển thi.

Ông ta xem bài cực kì nhanh, rõ ràng chỉ tùy tiện đọc lướt qua, cho tới một quyển thi nọ thì Triệu Phụ chợt dừng lại. Ông ta nhỏ giọng nói gì đó, tiếng cực khẽ, chỉ đủ để Quý Phúc đứng hầu bên cạnh nghe thấy, thậm chí Thượng thư bộ Lễ cũng không biết hoàng đế nói gì.

Quý Phúc lập tức ngẩng đầu, ánh mắt bắn thẳng về phía Đường Thận.

Đường Thận thực ra vẫn lén quan sát hoàng đế như các tiến sĩ khác, khi Quý Phúc nhìn về phía cậu, Đường Thận vội vàng cúi ngay đầu xuống, ánh mắt của hai người hoàn toàn không chạm nhau.

Quý Phúc nhìn gương mặt tuấn tú non nớt của Đường Thận, nghĩ thầm: Không ngờ lần Thiên tử lâm Ung vừa rồi lại hời to cho tên nhóc này!

Vừa rồi Triệu Phụ nói gì thế?

Triệu Phụ nói: "Chỉ e kinh động đến người thiên cung à? Nhưng nhỡ kinh động mất rồi thì phải làm sao?" Bèn thủng thẳng lấy bút son, sửa luôn tên Đường Thận từ hàng đệ ngũ lên đệ tam.

Trong cuộc thi Đình, ba trăm tiến sĩ sẽ được xếp hạng theo ba giáp.

Đệ nhất giáp là "Tiến sĩ cập đệ," chỉ bao gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Đệ nhị giáp là "Tiến sĩ xuất thân," số lượng không giới hạn; còn đệ tam giáp là "Đồng tiến sĩ xuất thân." Quý Phúc phải giật mình là bởi Triệu Phụ đưa thẳng Đường Thận vào đệ nhất giáp.

Người ngoài không hiểu Triệu Phụ, nhưng Quý Phúc biết, tuy vị hoàng đế này nói toàn lời hay ý đẹp, thái độ ân cần thương dân như con, nhưng trên thực tế những năm gần đây, Triệu Phụ chẳng còn hứng thú với khoa cử thi Đình nữa! Hôm nay nói "Trời thương lấy đức cần cù" thế thôi, chứ ngày mai tu tiên là ông quên mặt mũi vị tiến sĩ già "được trời thương" kia ngay.

Bậc vua chúa vốn vô tình, thế mà Triệu Phụ lại nâng Đường Thận lên hẳn một giáp, chứng tỏ ông ta có ấn tượng với Đường Thận. Dù chỉ là một Thám hoa, nhưng tương lai của cậu khéo còn rạng rỡ hơn cả Trạng Nguyên nữa!

Quý Phúc thầm lưu tâm đến cái tên Đường Thận này.

Triệu Phụ duyệt bài thi xong, Thượng thư bộ Lễ nhận các quyển thi lại. Ông mở bài ra thì thấy sửa đổi thứ hạng của Triệu Phụ, đôi mày giật giật, kín đáo nhìn về phía Vương Trăn giữa bách quan triều đình.

Song Vương đại nhân chỉ đang nhìn thẳng xuống đất rất đỗi nghiêm chỉnh, thơ thẩn đếm xem điện Tử Thần có mấy viên gạch lát nền!

Mạnh đại nhân chửi thầm: "Chỉ giỏi làm bộ làm tịch!" Rồi sau đó ông bắt đầu xướng tên đệ nhất giáp của kì thi Đình năm nay.

"Tân khoa Trạng nguyên năm Khai Bình thứ hai mươi bảy, Diêu Thiện – Diêu Vấn Cơ!"

Diêu Thiện vốn được các quan đọc quyển, trong đó có Mạnh Lãng, xếp thứ nhất; anh ta nghe tên mình thì vui mừng khôn xiết, vội vàng tiến tới hành lễ tạ ơn.

"Tân khoa Bảng nhãn, Vương Tiêu – Vương Đại Nhạc!"

Thứ hạng gốc của Vương Tiêu cũng là đệ nhị, anh này cũng tiến lên phía trước.

"Tân khoa Thám hoa, Đường Thận – Đường Cảnh Tắc!"

Đường Thận sửng sốt, ánh mắt cậu đầy ắp ngạc nhiên, song cậu không để lộ ra mặt, điềm tĩnh bước lên phía trước.

Tiếp theo, Thượng thư bộ lễ công bố danh sách giáp đệ nhị, số tiến sĩ còn lại xếp hết vào giáp đệ tam là "Đồng tiến sĩ xuất thân."

Mạnh Lãng hô vang: "Truyền lô điện ngọc, các tiến sĩ bái Thiên tử, tạ ơn ân sư!"

Đến lúc này, từ mười tiến sĩ trong điện đến hai trăm tiến sĩ ngoài cửa, cùng đại thần văn võ có mặt đều dập đầu bái lạy Triệu Phụ, hoàn thành bước cuối cùng trong đại lễ truyền lư.

Chờ Triệu Phụ đi rồi, ba người Đường Thận ra khỏi cung theo lối chính cổng Tuyên Võ, những người còn lại chỉ được đi ra từ cổng bên.

Lúc ra khỏi hoàng cung, Đường Thận thở phào nhẹ nhõm. Cậu vô thức quay đầu lại, những mong tìm thấy bóng sư huynh giữa dòng quan lại xuất cung. Tiếc rằng Vương Trăn không có trong đó, các quan nhất phẩm, nhị phẩm khác cũng vậy, hẳn là được Triệu Phụ giữ lại rồi.

Đường Thận cũng không rõ tại sao tự dưng cậu lại muốn thấy Vương Trăn nữa. Nhưng cậu chưa kịp suy nghĩ thì đã nghe tiếng reo hò đinh tai nhức óc bên ngoài hoàng cung. Ngay khi bước ra khỏi cổng cung, các tiến sĩ được đón chào bởi vô vàn bách tính đứng chật hai bên lề đường.

E là toàn bộ thiếu nữ kinh thành đều tụ tập cả về đấy.

Thấy Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa bước ra từ cổng chính, dân chúng vây xem, nhất là các thiếu nữ chưa chồng đều căng mắt hết cỡ mà chiêm ngưỡng. Diêu Thiện năm nay ngoài bốn mươi, dáng người đô con rắn rỏi, tướng mạo tục tằng. Các chị em nhác thấy Trạng nguyên lang có tướng tá nhà binh như vậy thì thất vọng vô cùng.

Rồi Vương Tiêu xuất hiện, nhen nhóm hy vọng cho các cô gái.

Có người đứng giữa đám đông nói: "Đây là Bảng nhãn Vương Tiêu, người Kim Lăng, có họ hàng xa với Lang Gia Vương thị! Năm nay ba mươi mốt tuổi, đã có thê thất."

"Ôi thật đáng tiếc!"

Chị em xuýt xoa chán nản tập hai.

Đến khi Đường Thận bước ra khỏi cổng cung, các cô gái lại háo hức mong đợi.

"Thám hoa lang trẻ tuổi như vậy, chắc chắn là chưa đính hôn đâu!"

"Trẻ như vậy, hẳn là Đường Thám hoa – Đường Thận phủ Cô Tô rồi!"

"Y như lời hát kịch ấy nhỉ, chàng Trạng nguyên đa tài, chàng Thám hoa tuấn tú, ngỡ là ngọc là hoa. Đúng là Thám hoa trong mộng đây mà!"

Nghe câu này xong, Đường Thận: "..."

Ông mới là ngọc là hoa ấy, cả nhà ông là ngọc là hoa thì có5!

[5] Gốc: như hoa như ngọc – vốn là câu khen phụ nữ

Lề lối Đại Tống rất cởi mở, triều đình cũng ngầm cho phép dân chúng tụ tập hai bên đường reo hò chúc tụng khi đệ nhất giáp diễu hành qua phố.

Cộng cả hai kiếp Đường Thận cũng chưa bao giờ được nhiều người săn đón đến vậy. Cậu cưỡi trên chú ngựa cao to, rõ ràng là đi đằng sau Diêu Thiện và Vương Tiêu, nhưng số người dân chen chúc vây xung quanh cậu là đông nhất.

May mà triều đại này không có truyền thống các cô gái ném hoa quả thay lời ái mộ, chứ không chắc Đường Thận đã ngỏm củ tỏi dưới sự nồng nhiệt của người dân rồi!

Bận rộn suốt cả ngày mới được thả về nhà, Đường Thận thỏa thích ngâm mình trong bồn tắm. Chưa kịp thư giãn thì ngoài cổng nhà đã dồn dập tiếng đập cửa.

Đường Thận bật cười: "Chẳng thà đỗ hạng năm cho đám đông giải tán!"

Nhưng hả hê xong, Đường Thận cũng ra tiễn hết khách khứa đến tận nhà chúc tụng. Cậu trở lại thư phòng, lấy bảng chữ mẫu Vương Trăn đưa cho.

Đường Thận đặt bảng chữ trên án thư, mài mực, đặt bút viết.

Viết tròn một trang giấy, Đường Thận thở phù một cái, ngồi xuống ghế. Cậu nhắm đôi mắt lại, đầu óc trở nên rất minh mẫn, toàn bộ những chuyện xảy ra từ khi đặt chân tới Thịnh Kinh ùa tới như dòng lũ.

Lúc mới đến Thịnh Kinh, cậu chỉ là một tú tài tầm thường, được Phó Hi Như quan tâm, lại được Vương Tử Phong đích thân dạy dỗ.

Đến Quốc Tử Giám, gặp được mấy người bạn chí cốt, hô một tiếng là có thể tụ tập nâng ly chuyện trò.

Thi Hương đậu Á nguyên, thi Hội lại đỗ đệ nhị. Đến thi Đình, hoàng đế đích thân sửa thứ hạng, đưa cậu hạng năm đệ nhị giáp lên hẳn Thám hoa đệ nhất giáp.

Bỗng nhiên, Đường Thận mở choàng mắt, vội vã lấy Bảng chữ mẫu Pháp Môn của Chung Thái Sinh ra.

Đường Thận nhìn Bảng chữ mẫu Pháp Môn, rồi lại chăm chú nghiên cứu bảng chữ mẫu Vương Trăn đích thân viết cho cậu.

Một hồi lâu, Đường Thận ngẩng mặt nhìn trời, gấp bảng chữ lại, than: "Vương Tử Phong à, hóa ra kết cục này đã được huynh sắp đặt chu toàn ngay từ đầu!"

Lúc mới tới Thịnh Kinh, Vương Trăn cho Đường Thận luyện chữ theo Bảng chữ Pháp Môn chính là vì chữ Chung Thái Sinh đẹp nổi tiếng khắp thiên hạ, cậu học theo không khó, luyện cũng đơn giản. Sau khi thi Hương xong, cách thi Hội chừng nửa năm, Vương Trăn bắt đầu sửa lại bảng chữ mẫu cho Đường Thận.

Khi ấy, Đường Thận đoán Vương Trăn làm thế chỉ vì giúp cậu chuẩn bị cho thời điểm "Thiên tử duyệt văn" trong kì thi Đình, tránh để nét chữ làm phật lòng hoàng đế. Đường Thận đoán cũng không sai, trong mười người xếp đầu kì thi Đình thì có đến bốn người viết thể chữ của Chung Thái Sinh. Cả bốn đều không lọt được vào đệ nhất giáp, Triệu Phụ cũng không có ý kiến gì hết cả.

Nhưng chẳng lẽ chỉ có vậy thôi ư?

"Đến thi Đình không còn luật đổi quyển. Mình có thể xếp hạng năm, hẳn là cũng liên quan đến huynh ấy."

Huynh trưởng như cha, ân sư như cha.

Vương Tử Phong vừa là sư huynh của mình, vừa là thầy trên thực tế.

Một suy nghĩ nảy lên khiến biểu cảm của Đường Thận trở nên hết sức kì cục: "... Cha?" Nói xong chữ ấy, Đường Thận cũng hết hồn. Dù cậu có bằng lòng nhận ông bố này (thà chết chứ không nhận đâu), khéo Vương Tử Phong cũng chẳng thèm nhận cậu làm con!

"Đã vậy, cớ gì huynh ấy lại tốt với mình thế nhỉ?!"

Đường Thận ôm một bụng thắc mắc, mệt mỏi thiếp đi.

Sau khi yết bảng thi Đình, Đường Thận mất liền mấy ngày lu bu, tham gia đủ các loại tiệc tùng, tiếp đón ti tỉ vị khách đến chúc mừng. Mãi đến ngày thứ bảy sau khi kì thi kết thúc, Phó Vị phái gia nhân tới gọi cậu, dặn tối nay nhất định phải đến Phó phủ để thầy trò ba người có dịp chung vui ăn mừng Đường Thận thi đỗ Thám Hoa.

Đường Thận lập tức từ chối hàng đống lời mời dự tiệc, vội vã đi sang Phó phủ.

Tiểu đồng Ôn Thư đã chờ cậu sẵn ngoài cổng, dẫn Đường Thận đi vào phủ, qua cổng nguyệt môn của khu vườn7, vừa đi vừa liến thoắng: "Đường tiểu công tử mấy hôm nay có mệt không? Xí nhầm, phải gọi là Thám hoa lang chớ! Chín năm trước Vương đại nhân đỗ Trạng nguyên cũng bận y như cậu, tụi tôi hiểu mà." Tiểu đồng Ôn Thư nháy mắt: "Không đỗ Thám hoa, chẳng ai thèm hỏi. Vừa đỗ Thám hoa, người dưng nước lã cũng ùa tới chúc mừng, rõ phiền!"

Đường Thận than thở: "Chỉ có Ôn Thư đồng tử hiểu ta!"

Ôn Thư đồng tử cười hì hì: "Đường tiểu công tử, mời nhanh chân nào!"

Hai người đi xuyên vào khu vườn, vừa qua một hòn giả sơn thì Đường Thận chợt va phải ai đó. Cả hai cùng lùi lại nửa bước, Đường Thận ngẩng lên liền thấy Vương Trăn đang cúi đầu nhìn mình. Chàng mặc y phục trắng thường nhật, từ đầu đến chân toát lên vẻ quyền quý. Phát hiện người mình đụng phải là Đường Thận, Vương Trăn khẽ nhướng mày, định nói gì đó.

Nào ngờ, Đường Thận vốn trằn trọc suốt mấy ngày đêm vì câu "Huynh trưởng như cha, ân sư như cha", hôm nay tự dưng thấy Vương Trăn liền buột miệng gọi: "Ba!"

Vương Trăn sửng sốt: "Bãi?"

Đường Thận: "..."

Tức thì, gương mặt "ngỡ là ngọc là hoa" của tân khoa Thám hoa lang đỏ bừng như gấc!

Lời tác giả:

Tiểu Đường lang: Ba!

Anh Vương hàng xóm: Phụ (ehhh!) tử văn?

Chú thích

Gốc: thiên đạo thù cần – đạo trời ban thưởng cho người cần cù

Chỗ ngày Đường Thận dùng thành ngữ "泯然众人" ý chỉ một người lúc tài năng thì mọi người săn đón, hết tài rồi thì chẳng ai quan tâm. Xuất xứ từ chính câu chuyện Thương Trọng Vĩnh đã từng được nhắc đến từ đầu truyện.

[7] Cổng hình tròn, mô phỏng mặt trăng, rất phổ biến trong kiến trúc vườn

Ảnh:

Chương 45

Đồng môn là bằng, đồng chí là hữu!

Đường Thận luýnh quýnh, trong lúc khẩn cấp, ý tưởng chữa cháy bật ra: "Ba... Bãi như giang hải ngưng thanh quang!"

Cảnh sắc trong khu vườn Phó phủ có thể miêu tả bằng câu "xuân về hoa đua nở, chỉ nghe tiếng chim ca." Bóng liễu xòa lên hòn giả sơn, hòn giả sơn lại ngả bóng lên ba người Đường Thận. Câu nói của Đường Thận rơi tõm vào bầu không khí tĩnh lặng trong vườn.

Đường Thận gặp khó ló cái khôn mà bật ra câu thơ ấy, Ôn Thư đồng tử chưa nghe lần nào, còn Vương Trăn lại đăm chiêu nhìn cậu. Một lát sau, chàng mới cất lời: "Lai như lôi đình thu chấn nộ? Sao tiểu sư đệ vừa thấy ta lại đột nhiên nói thế?"

Đến tựa thiên lôi thâu sấm sét, dừng múa ánh ngời tỏa biển sông.

Đây là câu thơ Đỗ Phủ viết để tả cách múa kiếm của Công Tôn đại nương, thế giới này cũng có.

Đường Thận đã kịp bình tĩnh lại, cậu bịa ngay: "Lâu lắm rồi không thấy Tử Phong sư huynh, hôm nay gặp lại, trông thần thái huynh vẫn rạng rỡ ung dung hệt như trong trí nhớ của đệ, chẳng khác nào giọt nắng giữa dòng Trường Giang, lấp lánh chói lọi. Đệ thấy sư huynh liền nhớ ngay tới câu thơ ấy, thế nên mới vô thức thốt thành lời." Trước tiên cứ phải xoa mông ngựa cái đã.

Vương Trăn nhìn Đường Thận một hồi, nói: "Không ngờ mới bảy ngày không gặp nhau mà Cảnh Tắc đã nhớ nhung ta dường ấy." Đoạn chàng trách thư đồng nhà mình: "Cảnh Tắc không sang phủ Thượng thư suốt bảy ngày, sao ngươi không đi mời đệ ấy hả? Nếu không nhờ hôm nay tiên sinh gọi hai huynh đệ chúng ta tới thì chẳng biết bao giờ mới gặp lại Cảnh Tắc! Ngươi đã biết tội chưa?"

Cậu thư đồng không dưng bị đổ oan: "?" Chuyện hai vị vừa nói có liên quan gì đến tôi chứ?

Đường Thận: "..."

Thư đồng ngoan ngoãn thưa: "Là lỗi của tiểu nhân ạ."

Vương Trăn răn đe: "Cấm có lần thứ hai đấy."

Thư đồng: "... Thưa vâng."

Vương Trăn kéo tay Đường Thận, nhẹ nhàng vỗ về. Hai người như một đôi huynh đệ chí thân, như những quân tử thời Xuân Thu, dan tay thả bộ ra khỏi vườn hoa. Vương Trăn thủ thỉ: "Chúng ta là sư huynh đệ đồng môn, từ rày những việc như vậy nhất định sẽ không tái diễn nữa. Nếu Cảnh Tắc nhớ ta, bất lúc nào cũng có thể đến chơi phủ Thượng thư, nghe không?"

Đường Thận gật đầu, thở phào nhẹ nhõm, nghĩ bụng Vương Tử Phong cũng chỉ đến thế mà thôi, nói linh tinh mấy câu là qua mặt như bỡn. Mãi đến lúc vào phòng khách, Đường Thận mới ngớ người. Ban nãy cậu chỉ bảo mình thấy Vương Trăn thì ngợi ca theo phản xạ, chứ có bảo nhớ anh ta đâu? Sao Vương Tử Phong dám đổ điêu cho cậu kia chứ!

Đường Thận thiếu điều tức ói máu như trong phim truyền hình.

Vương Trăn dắt tay Đường Thận vào phòng khách, Đường Thận giận mà không dám nói, cứ dỗi dằn lườm sư huynh. Đến khi Vương Trăn ngó sang cậu thì Đường Thận lại liếc qua chỗ khác, đứng đắn gọi: "Sư huynh."

Vương Trăn: "Đúng là sư đệ nhớ ta quá rồi, từ nãy đến giờ cứ nhìn ta suốt thôi."

Đường Thận: "..."

Đúng lúc đó Phó Vị đi tới, ông ồ lên: "Cảnh Tắc nhớ Tử Phong à? Xem ra những lúc vi sư không có mặt, hai sư huynh đệ chung sống vui vẻ hòa thuận phết nhỉ!"

Vương Trăn: "Tiên sinh."

Đường Thận tiu nghỉu: "Tiên sinh."

Hai người cùng nhau chắp tay hành lễ với Phó Vị.

Trong phòng khách đã đặt sẵn một chiếc bàn tròn làm bằng gỗ sưa, trên bàn bày biện nhiều món ăn Giang Nam được chế biến công phu. Đường Thận và Vương Trăn đều là người Giang Nam, ẩm thực nơi đây chú trọng vào sự tinh tế và khéo léo, mỗi phần ăn chỉ vừa đủ, nêm nếm thiên về thanh đạm. Tuy ăn uống chung nhưng mục đích chính của bữa cơm là để trò chuyện nên ba thầy trò không ăn nhiều lắm, Phó Vị cũng không mấy khắt khe với quy tắc không được nói khi đang ăn. Ông hỏi Đường Thận: "Tân khoa Thám hoa lang, cảm giác ấy mới sung sướng làm sao nhỉ?"

Khổ quá! Đường Thận chớp mắt đầy oan ức: "Tiên sinh chế nhạo con!"

Phó Vị cười ha hả, trỏ đũa về phía Vương Trăn: "Trạng nguyên năm Khai Bình thứ mười tám kìa." Đoạn lại chỉ bản thân: "Vi sư cũng phải chào thua. Hồi ấy Chung Thái Sinh thi cùng khoa với vi sư, xui tận mạng. Ông ta đỗ Trạng, còn ta chỉ được Bảng nhãn thôi." Nói rồi ông lại nhìn Đường Thận: "Khéo sao con lại đỗ Thám hoa, sư môn ta ôm cả đệ nhất giáp, thật không gì vẹn tròn bằng!"

Vương Trăn chỉ bình thản lắng nghe Phó Vị chứ không lên tiếng.

Đường Thận liếc chàng, lại nảy ra một ý: "Thế mà Tử Phong sư huynh từng nói với con theo kiểu khác cơ."

Phó Vị: "Ồ, nói kiểu gì?"

Vương Trăn ngước mắt liếc Đường Thận.

Đường Thận trong bụng hí hửng, người ta mới mười sáu nè, huynh cứ chống mắt lên mà coi, chẳng ai bắt bẻ lời trẻ con cả! "Hồi trước con thi Hương đỗ Á nguyên, Tử Phong sư huynh mới bảo con rằng, huynh ấy là Giải nguyên, con là Á nguyên, hai người chúng con chẳng khác nào long phượng trình tường, sư môn ấy mới vẹn tròn. Con nghĩ bụng, Tử Phong sư huynh là Trạng nguyên, tiên sinh là Bảng nhãn, thầy với huynh chẳng phải cũng là long phượng trình tường sao, quả đúng là điềm lành!"

Phó Vị: "..."

Vương Trăn mỉm cười.

Trong bữa cơm, Phó Vị lườm Vương Trăn mấy cái liền, Vương Trăn lờ đi như không, đến cuối bữa thì châm rượu cho Phó Vị.

Ăn cơm xong, ba thầy trò mỗi người một chén Bích Loa Xuân Minh Tiền nóng hổi, ngồi trong phòng khách ngắm hoa thưởng trà. Ánh trăng khoác lên cho khu vườn Phó phủ một vẻ đẹp mới mẻ diệu kì, nghe đâu đây còn có tiếng ếch ộp vọng về từ phía hồ. Ba người chuyện trò không dứt, chủ yếu là Phó Vị căn dặn Đường Thận đủ điều.

Phó Vị nói: "Quan trường khác với đời thường, vi sư chỉ có thể dìu dắt con đến đây thôi, về sau giỏi lắm thì chỉ điểm được cho con phương hướng, còn xoay xở thế nào phải dựa vào sức con. Là Thám hoa, con khác với hai tiến sĩ còn tại trong đệ nhất giáp, được bổ nhiệm chức Biên tu ở viện Hàn Lâm, hàm thất phẩm. Vi sư tuy là Thừa chỉ viện Hàn Lâm, nhưng chẳng qua là do hoàng thượng ưu ái giữ lại, chứ rất ít khi đến viện Hàn Lâm. Mấy hôm nữa con nhậm chức, còn gì không hiểu không?"

Đường Thận lần đầu ra làm quan, còn là quan thời cổ đại, dĩ nhiên có rất nhiều điều thắc mắc, bèn đem ra hỏi hết.

Phó Vị giải đáp một số điều, Vương Trăn cũng trả lời thêm vài cái khác.

Trăng lên đỉnh đầu, Đường Thận và Vương Trăn cùng nhau từ biệt Phó Vị.

Sư huynh đệ hai người ra đến cổng chính Phó phủ, Đường Thận định về luôn, đang chuẩn bị tạm biệt Vương Trăn thì phát hiện Vương Trăn đang say sưa ngẩng đầu ngắm trăng rằm, còn chỉ lên bầu trời. Đường Thận nhìn theo hướng chàng chỉ. Thường thường trăng sáng thì sao thưa, nhưng ở thời cổ đại, không có ánh đèn thị thành, không có khói bụi ô nhiễm, xung quanh vầng trăng sáng vằng vặc trên bầu trời vẫn có thể nhìn thấy hơn mười vì sao sáng lấp lánh.

"Giơ tay với được trăng sao trên trời. Tiểu sư đệ còn nhớ câu thơ đệ viết không?"

Đường Thận mặt dày nói: "Nhớ chứ ạ. Sao Tử Phong sư huynh lại nhắc chuyện này?"

Vương Trăn: "Dám đâu to tiếng nói cười, chỉ e kinh động đến người thiên cung."

Đường Thận chưa kịp phản ứng thì Vương Trăn đã trỏ lên trời mà rằng: "Tiểu sư đệ phúc trạch dài lâu, kinh động đến người trời rồi đấy."

Đường Thận chợt hiểu ngay ý Vương Trăn.

Người trời chỉ có một, chính là Triệu Phụ chứ chẳng còn ai.

Hóa ra Triệu Phụ nâng cậu lên một giáp, từ hàng đệ ngũ lên hàng đệ tam, chính là bởi bài thơ cậu từng viết trong kì Quán khóa ở Quốc Tử Giám! Đường Thận hồi tưởng về con đường khoa cử của mình từ khi đến Thịnh Kinh; xem ra, sự kiện Thiên tử lâm ung chính là yếu tố then chốt để cậu đỗ Thám hoa. Nhưng mối liên hệ giữa kì quán khóa và Thiên tử lâm ung, lời nhắc nhở rằng nhất định phải lọt vào ba hạng đầu, vốn bắt nguồn từ Vương Tử Phong cả.

Đường Thận vã mồ hôi, cậu không tài nào ngờ nổi chuyện này lại có dây mơ rễ má với Vương Tử Phong.

Đường Thận chắp tay: "Đa tạ Tử Phong sư huynh."

Vương Trăn cười: "Ta không hiểu sư đệ đang cảm ơn cái gì."

Đường Thận không nói huỵch toẹt ra, chỉ nghĩ bụng huynh nói đến thế chẳng phải là để ta cảm ơn huynh hay sao, đuôi sói xù lên thế kia còn vờ vĩnh! Nhưng cậu chỉ nói đơn giản: "Đệ vô cùng biết ơn sư huynh đã có lòng dạy dỗ, chỉ bảo!"

Vương Trăn cười, hai người đi vài bước, chợt chàng nói: "Bài thơ đó của đệ viết rằng muốn vươn tay hái sao trời. Vậy đệ có biết ở Thịnh Kinh, và thậm chí là trên toàn cõi Đại Tống, tòa lầu cao nhất nằm ở đâu không?"

Đường Thận suy nghĩ một lát, đáp: "Phải chăng là lầu Thiên Lý?"

Vương Trăn lắc đầu: "Là lầu Hư Cực!"

Lầu Hư Cực nằm ở phía Bắc kinh thành. Ngồi trên xe ngựa của phủ Thượng thư, Đường Thận và Vương Trăn đi tới tận chân lầu Hư Cực. Đường Thận ngẩng đầu nhìn, ngạc nhiên phát hiện tòa lầu ấy cao tận chín tầng!

Thời cổ đại, các kiến trúc cao tầng thường là tháp trong chùa miếu. Kiến trúc của các công trình Phật giáo khác với nhà lầu thông thường, dù xây cao cũng vẫn chắc chắn, không sợ gió lay đổ. Nhưng từ khi đến thời đại này, Đường Thận chưa thấy tòa lầu nào cao quá sáu tầng cả, huống chi là một tòa lầu cao chín tầng! Trước đây, cậu chưa bao giờ đến khu Bắc nên mới không thấy tòa lầu này. Dẫu vậy, dù cậu có dịp đi qua, chỉ e cũng chẳng vào được.

Xung quanh lầu Hư Cực là lớp lớp vệ binh mặc giáp trụ sáng lóa!

Vương Trăn: "Lên xem tí nào."

Đường Thận không nghi ngờ lời Vương Trăn một chút nào. Chàng đã bảo được thì chắc chắn là họ có thể vào. Cậu đi theo Vương Trăn tới lầu Hư Cực. Quả nhiên, dàn lính canh thấy Vương Trăn thì dẹp ra nhường đường cho chàng đi vào.

Chín tầng lầu cao. Nếu còn ở kiếp trước, Đường Thận sẽ đi thang máy ngay không ngần ngại. Lâu lắm rồi cậu không leo cao đến vậy. Kiếp này càng chẳng cần nói, hai người leo lên tầng trên cùng, ngay cả Vương Trăn cũng thấm mệt. Trông vầng trán lấm tấm mồ hôi của Vương Tử Phong, Đường Thận chợt nhận ra sư huynh của mình cũng chỉ là một người phàm thôi.

Cậu chỉ vừa kịp nghĩ anh Vương cũng giống như người trần mắt thịt, thì bất chợt, màn mây đen được vén lên bởi bàn tay chị Hằng. Trong ánh trăng tuôn trào, dáng hình Vương Tử Phong như được dát lên một vầng hào quang huyền ảo, như thể chỉ trong chớp mắt, chàng trai ấy sẽ vụt thoát khỏi xác phàm, giang rộng đôi cánh chạm tới cõi tiên!

Đường Thận chợt thấy tim mình hơi mỏi.

Đường Thận: "Sao tự nhiên đêm nay Tử Phong sư huynh lại muốn tới đây? Dưới kia có nhiều lính gác như vậy, lúc đầu đệ cứ tưởng chúng ta không vào được."

"Đệ hiểu ý nghĩa của lầu Hư Cực không?"

Nếu đổi người đối thoại, có lẽ ngay cả tân khoa Trạng nguyên Diêu Thiện cũng chưa chắc trả lời được câu hỏi của Vương Trăn. Nhưng Đường Thận là ai kia chứ? Cậu là người có bàn tay vàng đọc một lần là nhớ. Chẳng những Tứ thư Ngũ Kinh, cậu đã thuộc lòng tất cả những tác phẩm kinh điển. Suy ngẫm giây lát, Đường Thận đáp: "Trí hư cực, thủ tĩnh đốc."

Xuất xứ từ Đạo Đức kinh của Đạo gia.

Vương Trăn xem chừng rất hài lòng, nói: "Không sai, chính là câu "Hư không cùng cực, hết sức yên tĩnh." Năm năm trước, Thánh thượng muốn xây một tòa lầu cao thông lên trời để tìm đạo. Bốn năm trước thì bộ Hộ bắt đầu xây dựng tòa lầu này, tháng sau hoàn thành. Thánh thượng sẽ đích thân tới đây, cử hành đại lễ Hư Cực."

"Thì ra là vậy."

Nhưng chuyện đó thì liên quan gì đến cậu?

Vương Trăn trông về phía nam, hiện giờ họ đang đứng ở vị trí dựa bắc nhìn nam, giống như Thiên tử vậy, phóng tầm mắt là thu trọn cả Thịnh Kinh. Vương Trăn bỗng vươn tay lên bầu trời, diễn cảm ngâm lên bài thơ Đường Thận viết: "Chênh vênh trăm thước lầu cao, giơ tay với được trăng sao trên trời. Dám đâu to tiếng nói cười, chỉ e kinh động đến người thiên cung. Đứng ở đây, tiểu sư đệ, đệ nói xem có thể hái được sao trời không?"

Chả cứ đứng trên tòa lầu cao chín tầng này, dẫu huynh có đứng trên mặt trời cũng không hái nổi một ngôi sao nhé!

Chủ nghĩa lãng mạn làm sao mà thẩm thấu nổi vào bộ não vận hành bằng toán, lý của Đường Thận! Nhưng cậu không thể làm một bài diễn văn giải thích cho Vương Trăn rằng "sao" là một khối cầu nằm ở xa tít tắp mù khơi ngoài Trái Đất. Ngẫm nghĩ hồi lâu, Đường Thận bèn đáp bằng một câu mà tự cậu cho là lãng mạn ghê gớm: "Chỉ cần trong lòng có sao, tự khắc sẽ hái được sao xuống."

Vương Trăn chợt quay lại nhìn Đường Thận.

Đường Thận thấy nghèn nghẹn ở cổ.

... Thái độ gì thế này?

Vương Trăn bật cười.

Đường Thận: ???

Ủa, anh ta cười nhạo mình à?

Dưới ánh trăng, Vương Tử Phong trong bộ bào gấm trắng tuyền thủng thẳng nói: "Khổng Tử từng giảng, đồng môn gọi là bằng, đồng chí gọi là hữu. Cảnh Tắc, đệ nói xem, chúng ta đã là bằng, nhưng có phải là hữu không?"

Đường Thận thầm hoảng hốt, chuông báo động reo liên hồi kì trận. Cậu ngước nhìn Vương Trăn.

Vương Trăn ấy thế mà đang cười tủm tỉm nhìn lại, ánh mắt rất đỗi trong trẻo ẩn chứa bao điều thâm thúy mà Đường Thận không tài nào lí giải.

Trò cùng thầy thì gọi là bằng, người cùng chí hướng thì gọi là hữu!

Vương Tử Phong... đang vấn lòng cậu đấy ư?

Lời tác giả:

Anh Vương hàng xóm: Chúng ta là đồng môn, hay là đồng chí đấy?

Tiểu Đường lang (hốt hoảng): Huynh muốn làm gì!!!

(*Đồng chí: gay)

Chú thích

Hai câu thơ trong bài hành Xem Công Tôn đại nương múa "Kiếm khí" của Đỗ Phủ. Trích đoạn dịch của Nguyễn Phước Hậu.

Đoạn này tác giả dùng từ "vũ hóa" (Từ điển Nguyễn Quốc Hùng giải thích vũ hóa là "Trở thành có lông có cánh mà bay, ý nói thành tiên"). Đây là một khái niệm xuất phát từ Đạo giáo. Đạo giáo coi thần tiên sống ở trên trời, và chỉ có các loài chim mới có thể bay tới cõi tiên. Một ví dụ mình biết là người ta từng phát hiện lông vũ được đính trên nắp quan tài của phu nhân Đại thời Tây Hán, thể hiện mong ước rằng bà sẽ được thành tiên sau khi qua đời. Các bạn có thể tìm hiểu thêm về ngôi mộ của phu nhân, nơi xác ướp của bà gần như vẹn nguyên sau hơn 2000 năm nằm trong 4 lớp quan tài sơn mài cực kì công phu.

Nhân tử Nguyễn Văn Thọ bình giảng: "'Hư cực' tức là khi lòng trống, không còn vấn vương sắc tướng, trần ai, tục lụy. 'Tĩnh đốc' tức là khi tâm tư không phát sinh một niềm lự nào." Câu dịch xuôi mà Vương Trăn nói mình mạn phép mượn của dịch giả. Nguyễn Văn Thọ cũng dịch hai câu ấy thành thơ như sau:

Thử tách khỏi vòng đời luân chuyển,

Để lặng thinh ngắm chuyện trần hoàn.

Hai câu này thuộc chương 16 trong Đạo Đức kinh, bàn về chuyện khi con người ta đạt đến "hư" và "tĩnh" thì hiểu được quy luật trời đất tuần hoàn, vạn vật đều quy về một mối.

Chương 46

Dẫu vạn người cản ngăn, ta quyết không chùn bước!

Mảnh trăng mất hút sau cụm mây dày sụ. Đứng trên lầu Hư Cực, chỉ nghe thấy tiếng gió thổi ào ạt. Đến cỏ dại cũng phải oằn mình trước sức gió. Đã sang tháng tư, xuân đà ngót nửa, thế mà Đường Thận vẫn thấy rét buốt tận tim.

Thoạt tiên, những gì Vương Trăn nói khiến Đường Thận hết sức ngỡ ngàng, nhưng cậu nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, cố ghìm cơn xúc động.

Cậu và Vương Trăn là trò cùng thầy, dù thế nào đi chăng nữa cũng đã là bằng. Nhưng Vương Trăn nói, phải cùng chí hướng mới thành hữu! Chí hướng của Vương Trăn ra sao, Đường Thận làm sao biết? Lẽ nào anh ta hỏi vậy là có ý ép mình theo phe cánh anh ta?

Giờ Đường Thận đã là Thám Hoa, đương nhiên sẽ được giao việc ở viện Hàn lâm. Nếu không có gì bất ngờ, ít nhất cậu sẽ làm việc ở viện Hàn Lâm nửa năm, không hề dính dáng đến Vương Trăn ở bộ Hộ. Tình huống trong triều cậu hết sức mù mờ, mãi đến bữa tiệc hôm nay mới hỏi được Phó Vị và Vương Trăn. Như vậy, cậu có ích lợi gì cho Vương Trăn đây? Chí hướng của Vương Trăn là gì, con người của anh ta trên triều đình ra sao, địa vị của anh ta cao đến mức nào, cậu hoàn toàn không biết dù chỉ một chút!

Sự bình tĩnh ngoài mặt của Đường Thận, chẳng qua là lớp ngụy trang cho mớ bòng bong rối rắm trong lòng.

Bỗng cậu như sực tỉnh: Có đúng là Vương Trăn đang lôi kéo mình về phe anh ta không?

Cậu mới mười sáu tuổi, xuất thân tầm thường, chẳng phải con dòng cháu giống. Nếu không nhờ sự nâng đỡ của Lương Tụng, Đường Thận không bao giờ có được cơ hội bái Phó Vị làm thầy. Suốt một năm qua, cậu được gần gũi, bầu bạn với Vương Trăn. Lúc này đây, Đường Thận bỗng nhớ lại từng chuyện lớn nhỏ đã trải qua, từ những lần Vương Trăn chỉ điểm cho cậu, đến sự giúp đỡ của chàng để cậu thi cử đầu xuôi đuôi lọt, đến cả cái lần Vương Trăn dẫn cậu phóng sinh trước kì thi Hội.

Hít một hơi thật sâu, Đường Thận kết luận: Vương Trăn quả thật chỉ đang hỏi chí hướng của mình thôi! Cũng có thể anh ta có ý khác, nhưng bây giờ mình giả bộ không nắm bắt được cũng không hại gì.

Khi thấy nụ cười của Vương Tử Phong, Đường Thận lại chần chừ trong giây lát rồi mới nói: "Tháng ba năm ngoái đệ đến Thịnh Kinh, được tiên sinh và sư huynh hết lòng chăm nom, coi như có chốn dừng chân ở nơi đất khách quê người xa lạ. Từ lúc rời Cô Tô, đệ chưa bao giờ nghĩ con đường khoa cử của mình lại trôi chảy được đến thế, tất cả là nhờ ơn Tử Phong sư huynh hết lòng dạy dỗ bảo ban. Ơn nghĩa ấy, Cảnh Tắc trọn đời không quên." Ngưng một lát, cậu mới nói câu cuối cùng: "Trong lòng ta, sư huynh vừa là thầy, vừa là bạn hữu."

Vương Trăn quan sát bộ dạng căng thẳng, thấp thỏm của Đường Thận hồi lâu, bỗng bật cười khẽ.

"Nhìn sư đệ hôm nay, ta chợt nhớ đến khoảng thời gian chín năm về trước."

Đường Thận ngẩng lên nhìn chàng: "Chín năm trước?"

Vương Trăn như chìm vào kí ức: "Chín năm trước là thuở ta đỗ Trạng Nguyên, cũng trẻ như sư đệ bây giờ."

Lần này Đường Thận mới thực là choáng váng.

Vương Trăn năm nay hai mươi sáu tuổi, lớn hơn Đường Thận tròn mười tuổi, song Đường Thận chưa bao giờ có suy nghĩ rằng Vương Trăn đã già. Bởi lẽ, nếu đặt vào bối cảnh hiện đại, Vương Trăn ở độ tuổi này hẵng còn là thanh niên, có khi vẫn đang cặm cụi trên giảng đường chứ chưa đi làm nữa. Ở thời hiện đại, chẳng ai bảo hai mươi sáu tuổi là già! Nhưng đây là thời cổ đại kia! Vương Trăn nói mình không còn trẻ, Đường Thận cũng không thể phủ nhận được.

Cậu ngắm khuôn mặt Vương Trăn, chợt nhớ tới Lưu Phóng mình quen ở Quốc Tử Giám hình như cũng hai mươi sáu tuổi, nhưng trông già gấp mấy lần Vương Trăn. Nhìn Vương Trăn cùng lắm chỉ như hai mươi tuổi. Chàng mang dáng vẻ của một thế gia công tử vừa cập quan, rạng ngời nét phong lưu như hòn ngọc quý.

Đường Thận nói: "Sư huynh hẵng còn trẻ lắm mà." Hiếm hoi mới có một nhận xét thật lòng.

Vương Trăn ngoái nhìn Đường Thận, nói: "Về đêm gió lớn, xuống lầu thôi."

Hai người cùng nhau xuống khỏi lầu Hư Cực.

Trước khi đi, Vương Trăn bỗng hỏi: "À, tiểu sư đệ đã biết phủ Thám Hoa của mình ở đâu chưa?"

Đường Thận: "Chưa ạ, đệ nghe nói tháng sau mới thông báo."

Vương Trăn trỏ về một khu ở phía Đông, ngay sát hoàng thành, vừa hay cũng gần Phó phủ và phủ Thượng thư. Chàng nói: "Cứ mỗi dịp thi Đình, tam khôi luôn được Thánh thượng ban dinh thự, việc này thường do bộ Hộ phụ trách. Tiểu sư đệ thấy chỗ kia thế nào?"

Chỗ ấy đương nhiên là đất lành, phong thủy tốt, cả Phó Vị và Vương Trăn đều ở khu đấy, Đường Thận có gì để phàn nàn?

Oái oăm thay, viện Hàn Lâm nằm ở phía Tây kinh thành, hai nơi cách nhau cả nửa Thịnh Kinh.

Đường Thận thật thà đáp: "Chỗ đó tuyệt lắm ạ, mỗi tội hơi xa viện Hàn Lâm."

Vương Trăn: "Ừ, báo cho đệ một tiếng ấy mà. Khu đất ấy được chọn từ cách đây ba hôm rồi."

Ý rằng: Thông báo cho mà biết thôi nhé, không phải để hỏi ý kiến đâu.

Đường Thận: "..."

Đã vậy huynh còn hỏi làm chi!

Sau khi sư huynh đệ hai người cùng nhau xuống lầu, Vương Trăn chủ động đề nghị đưa Đường Thận về nhà, Đường Thận cũng không từ chối. Xe ngựa của Vương Trăn rộng ơi là rộng, ghế ngồi lót da hổ thượng hạng, nước lông bóng mượt, trong tủ trên xe chứa đầy các loại đồ ăn vặt và thư tịch. Vương Trăn đúng là người biết hưởng thụ, xe chạy trên đường phố Thịnh Kinh bằng phẳng, êm ru không xóc nảy tí nào.

Chiếc xe ngựa treo đèn Thượng thư thong thả dừng lại trước ngõ nhà Đường Thận. Đường Thận nhảy xuống xe, quay lại thưa: "Đa tạ Tử Phong sư huynh đã tiễn đệ."

Vương Trăn vén rèm xe, nói với Đường Thận: "Đêm khuya rồi, tiểu sư đệ đi cẩn thận."

Đường Thận: "Sư huynh cũng thế ạ."

Hai người khách sáo xong, Đường Thận định về nhà, Vương Trăn bỗng nói thêm: "Mấy hôm trước đọc sách có câu này, hôm nay ngẫm lại thấy rất chí lí. Tiểu sư đệ, có đôi khi cần biết mình có thể làm gì, nhưng cũng nên biết việc gì không thể làm được."

Đường Thận ngẩn ra, ngẩng lên nhìn Vương Trăn trong xe ngựa.

Một lúc sau, cậu phì cười: "Câu này chẳng phải là câu 'tri kỳ bất khả nhi vi chi' trong Luận Ngữ sao, huynh sửa lại khéo thật!"

Vương Trăn cũng cười theo, không nói nữa. Bánh xe ngựa lăn lộc cộc trên nền đường đá. Đường Thận đứng ở đầu hẻm, nhìn Vương Trăn đi xa dần, nụ cười trên môi cũng nhạt mất.

Về đến nhà, Đường Thận vào thư phòng ngồi, Phụng Bút dâng một chén canh nóng cho cậu, nhưng cậu không có tâm trạng nào để ăn.

Luận ngữ có câu: tri kỳ bất khả nhi vi chi, ý rằng "Khổng Tử biết rõ việc bất khả thi, nhưng vẫn muốn thực hiện." Ban nãy tự dưng Vương Trăn lại sửa câu ấy, nói với cậu rằng "Nên biết điều gì có thể làm và điều gì là không thể."

"Rốt cuộc anh ta muốn nói gì đây?" Đường Thận suy tư mãi, đột nhiên siết hai nắm tay: "Chẳng lẽ anh ta biết mình đến Thịnh Kinh với ý đồ gì?"

Song, Đường Thận gạt đi ngay: "Không thể có chuyện đó. Suốt năm vừa qua, từ khi trở thành môn sinh của Phó Vị, mình không hề có hành động nào khả nghi hết. Nếu Vương Tử Phong thần thông quảng đại hơn nữa, có khi còn biết mình đã thẳng thừng chỉ trích đảng Tùng Thanh trước mặt thánh thượng ở Quốc Tử Giám."

Quả thật chuyện này Đường Thận đoán không sai. Vương Trăn với Đại thái giám Quý Phúc như sói săn theo bầy, hợp tác cực kì khăng khít với nhau, chàng đúng là đã nắm được tin ấy.

Đường Thận lại nghĩ: "Không có sơ suất nào ở đây cả. Ngay sau khi Lương tiên sinh mất, mình đã cắt đứt quan hệ với thầy, thậm chí rất ít khi nhắc đến thầy trước mặt Phó tiên sinh. Huống hồ, hiện giờ mình mới mười sáu tuổi, chỉ có thể coi là trẻ con. Hẳn là mình đã lo lắng thái quá rồi."

"Nhưng ngộ nhỡ...mình không nghĩ quá lên thì sao nhỉ?"

"Lẽ nào Vương Tử Phong thực sự đang nhắc nhở mình rằng, nhiệm vụ mà mình tưởng là khả thi thực ra là bất khả thi, khuyên mình nên suy nghĩ cho thật chín rồi hẵng quyết định?"

Trong thư phòng, bấc nến nổ lách tách.

Trăn trở hồi lâu, Đường Thận vẫn hạ quyết tâm. Ánh mắt cậu kiên định rực lửa, không gì lay chuyển được: "Dẫu vạn người cản ngăn, ta quyết không chùn bước!"

Đả thông tư tưởng xong, Đường Thận như trút được một gánh nặng. Cậu không để bụng những gì Vương Trăn nói nữa, tránh cho đầu óc mệt mỏi thêm. Bưng bát canh thịt nên định húp một miếng, Đường Thận chợt phát hiện canh đã nguội ngắt, thịt trắng nổi lềnh phềnh, trông đến là mất khẩu vị. Đường Thận cụt hứng, để bát canh dịch ra. Nghĩ ngợi giây lát, cậu trải giấy Tuyên, mài mực viết chữ, luyện một lượt bảng chữ mẫu Vương Trăn cho. Cậu lấy con dao tước1, đóng những tờ tập viết của mình thành một quyển.

Hôm sau, Đường Thận nhờ Diêu Tam làm hộ một ít thanh đoàn tử2.

[2] Bánh viên tròn làm từ gạo nếp và nước rau ngải cứu. Vỏ xanh, nhân ngọt hoặc mặn. Tên bánh là "bánh tròn màu xanh" nếu hiểu theo nghĩa đen

Tiết Thanh Minh rơi vào tháng Tư, song người dân Thịnh Kinh không có phong tục ăn bánh thanh đoàn tử như người Giang Nam. Chạng vạng, Đường Thận xách giỏ thanh đoàn tử nóng hổi, cầm theo cuốn tập viết chữ của mình, đi đến phủ Thượng thư.

Đợi ở phòng khách nửa canh giờ, cuối cùng Vương Trăn cũng trở về từ bộ Hộ.

Vương Trăn thấy cậu đến thì ngạc nhiên lắm.

Đường Thận nói: "Hôm trước sư huynh có nói rằng đã lâu đệ không đến phủ Thượng thư, nên hôm nay đệ lại ghé chơi. Tiện thể bữa nay nhà đệ làm bánh thanh đoàn tử, tuy hơi vụng, nhưng cũng xin mời sư huynh nếm thử. À, còn có chữ đệ luyện theo bảng mẫu tháng trước nữa. Chữ của sư huynh đẹp quá, đệ viết đi viết lại mà chỉ bắt chước được hình dạng chứ không tài nào học nổi ý. Mong sư huynh chỉ điểm thêm."

Vương Trăn nhìn Đường Thận, nở nụ cười dịu dàng: "Chi bằng, tối nay đệ hãy ngủ lại phủ Thượng thư. Hai hôm nữa đệ sẽ nhậm chức ở viện Hàn Lâm, nơi ấy tuy nhàn hạ, nhưng cũng không thể rảnh rang được như bây giờ. Hôm nay sư huynh đệ chúng ta chong đèn đàm đạo, để ta xem đệ viết như thế nào, được không?"

Đường Thận không định ở lại phủ Thượng thư qua đêm, nhưng cậu vẫn để tâm đến những lời Vương Trăn nói giữa đêm khuya hôm nọ. Chí ít hiện giờ, nếu muốn trở thành quan to, có quyền thế trong tay, thì lợi dụng con đường tắt Vương Tử Phong vẫn là lựa chọn tốt nhất của cậu.

Đường Thận nói: "Tuyệt quá, đệ cũng có ý định đấy từ đầu, chỉ ngại quấy rầy sư huynh."

Vương Trăn: "Thật thế ư?"

Đường Thận dằn lương tâm, thành thực đáp: "Thật ạ!"

Vương Trăn: "Thế từ giờ cứ chăm qua đây mà ngủ, phủ Thám Hoa cách có mấy bước chân thôi!"

Đường Thận: "..."

Nghe cứ là lạ thế nào ấy nhỉ?

Dùng bữa tối xong, Đường Thận lấy bài tập viết của mình ra, bốc phét trắng trợn là bài luyện từ tháng trước. Vương Trăn cầm quyển luyện chữ lên xem rất tỉ mỉ, rồi bảo Đường Thận viết thử cho mình quan sát lần nữa. Chàng chỉ điểm đôi ba chỗ, Đường Thận bèn viết lại hai chữ.

Thình lình, một bàn tay từ đằng sau phủ lên tay cậu. Vương Trăn nắm tay Đường Thận, hướng dẫn cậu đưa nét bút.

"Sắc sảo là tốt, nhưng nét móc này, nên mềm mại hơn."

Trong ánh nến lung linh, Đường Thận chậm rãi ngước mắt nhìn người đang đứng sau lưng.

Vương Trăn buông tay, cười hỏi: "Tiểu sư đệ?"

Đường Thận quay đầu lại: "Nên viết thế này đúng không hả sư huynh?"

"Ừ, đúng rồi."

Dưới ánh sáng vàng nhạt của ngọn nến, một bàn tay nắm lấy tay cậu, dạy cậu nắn nót từng nét bút. Một năm rưỡi về trước, đã từng có người làm như thế.

Đường Thận học viết nghiêm túc, Vương Trăn cũng kiên nhẫn chỉ bảo. Đến khi học xong, hai người tạm biệt nhau, Đường Thận ngủ lại ở phòng dành cho khách trong phủ Thượng thư. Nằm trên giường, cậu giơ tay, nương ánh trăng ngắm nghía bàn tay phải. Trên bàn tay ấy, hơi ấm da thịt khi Vương Trăn chạm vào hẵng còn chưa phai, nhưng cảm giác khi Lương Tụng dạy cậu tập viết đã không cách nào tái hiện nổi nữa.

Bàn tay Lương Tụng hình như lạnh hơn một chút, còn tay Vương Tử Phong thì ấm áp vô cùng.

Nhưng đối mặt với Vương Tử Phong cũng giống như bước đi trên mặt băng mỏng dính. Còn trước mặt Lương Tụng, điều gì Đường Thận cũng dám làm, cái gì Đường Thận cũng dám nói, cậu chính là cậu, là Đường Thận, không phải Đường Cảnh Tắc.

Với Vương Tử Phong, cậu vừa là Đường Thận, vừa là Đường Cảnh Tắc, nhưng phần nhiều thời gian, cậu là Đường Cảnh Tắc.

Chỉ có ở bên Lương tiên sinh, cậu mới chỉ là Đường Thận, luôn luôn chỉ là Đường Thận mà thôi!

"Thầy ơi..."

Con nhớ thầy xiết bao!

Đường Thận mất ngủ trắng đêm, thức tới tận khi bình minh ló rặng. Khi cậu xuống giường, Vương Trăn đã lên triều. Quản gia giữ Đường Thận ở lại phủ Thượng thư ăn sáng, Đường Thận không từ chối, dùng bữa sáng xong mới về nhà. Lúc cậu về chưa tới giờ Mão; trưa nay, ở lầu Thiên Lý, cậu có hẹn với Triệu Quỳnh.

Có việc thì chớ dềnh dàng. Đường Thận rửa mặt chải đầu, ăn vận tịnh tươm rồi đến lầu Thiên Lý.

Chú thích

[1] Dao tước: loại dao dùng để sửa lỗi viết sai trong sách vở thời xưa

Update (2/11/2020): Mình mới biết người dân tộc Tày nước ta cũng làm bánh lá ngải giống với thanh đoàn tử vào dịp Thanh Minh tảo mộ (mùng 3 tháng 3 Âm lịch theo truyền thống của người Tày). Có lẽ đây là một phong tục được tổ tiên người Tày tạo ra và được lưu truyền khắp khu vực theo sự di cư và giao thoa của văn hóa. Ở nước Nhật thì món bánh này được gọi là yomogi dango (Yomogi là ngải cứu, dango – 団子 là đoàn tử).

thanh đoàn tử

Bánh lá ngải

Yomogi dango


Chương 47

Nước biếc chảy về Đông

Đường Thận và Diêu Tam vừa vào lầu Thiên Lý, quản lý Hình đã niềm nở đón tiếp: "Xin được diện kiến Thám hoa đại nhân."

Đường Thận cười nói: "Quản lý Hình sao lại bắt chước mấy người lũ lượt đến nhà ta tặng quà thế này?"

"Cậu chủ Đường tiền đồ vô lượng, mười sáu tuổi đã đỗ Thám hoa, thảo dân nào dám thất lễ. Cậu mà khách sáo thế tiểu nhân không kham nổi đâu ạ." Quản lý Hình ngoài miệng thì nói thế, nhưng thấy Đường Thận không kiêu căng ngạo mạn, liền thở phào nhẹ nhõm.

Quản lý Hình biết sau lưng mình chính là phủ Cảnh Vương, Đường Thận muốn hợp tác với họ, chẳng cứ đỗ Thám Hoa, dẫu đỗ Trạng Nguyên cậu cũng không dám ra vẻ ta đây với phủ Cảnh Vương. Nhưng người thường xuyên tiếp xúc với Đường Thận không phải là Cảnh Vương gia hay thế tử Cảnh Vương, mà chính ông – quản lí Hình! Hôm nay thấy Đường Thận không hề hách dịch hay kênh kiệu so với trước, quản lý Hình mới yên lòng rằng từ giờ việc hợp tác sẽ không có gì thay đổi.

Ông ta cung kính dẫn Đường Thận lên nhã gian trên tầng bốn. Đường Thận vừa bước chân vào cửa đã thấy Triệu Quỳnh đang đợi mình.

Triệu Quỳnh nói: "Cảnh Tắc, hôm hay chúng ta nhất định phải chúc mừng ngươi đỗ Thám Hoa nhé! Đây là rượu nếp Hầu Nhi lầu Thiên Lý nhà ta ủ suốt bấy lâu nay, hai ta không say không về!

Đường Thận chắp tay thưa: "Xin đa tạ thế tử."

Hai người cười ha hả, châm rượu, tỉ tê chuyện trò.

Ăn trưa xong, quản lý Hình đích thân dọn bàn trên nhã gian thật sạch sẽ, rồi dâng một ấm trà Long Tỉnh nóng hổi.

Đường Thận và Triệu Quỳnh nhâm nhi trà, bắt đầu nói vào chuyện chính.

Đường Thận: "Chắc hẳn thế tử cũng biết, tôi là người Cô Tô, việc buôn bán xà phòng ở phủ Cô Tô là do nhà đại bá phụ tôi quản lí. Sang Kim Lăng thì ủy thác cho nhà họ Trịnh phủ Kim Lăng. Khi hợp tác với nhà họ Trịnh, xưởng nhà họ Đường sẽ sản xuất xà phòng sẵn, rồi chở sang phủ Kim Lăng theo đường Đại Vân Hà."

Triệu Quỳnh trầm tư chốc lát, nói: "Từ phủ Cô Tô tới Kim Lăng cũng gần, chi phí phát sinh trong lúc vận chuyển không nhiều. Cảnh Tắc, ngươi nên biết Thịnh Kinh xa Cô Tô hơn Kim Lăng nhiều lắm!"

Đường Thận: "Phải, Thế tử nói đúng, đương nhiên tôi biết điều này. Chính vị thế năm ngoái tôi đã cho Diêu Tam để mắt đến các xưởng ở vùng ngoại ô kinh thành, tháng trước anh ta đã mua lại một xưởng rồi. Xưởng đó ban đầu dùng để chưng cất rượu, nhân công giữ nguyên như vậy, chỉ cần hướng dẫn một chút là có thể chuyển đổi sang sản xuất xà phòng."

Triệu Quỳnh nghe thế thì đã rõ, mắt sáng ngời: "Vậy là người định mở xưởng xà phòng ở ngay Thịnh Kinh luôn?"

"Đúng vậy."

Triệu Quỳnh mỉm cười: "Tốt lắm. Cảnh Tắc, nếm thử trà Long Tỉnh Minh Tiền đi. Đây là cống phẩm vua ban đấy, người thường không có diễm phúc thưởng thức đâu."

Đường Thận vốn không hiểu biết về trà. Tuy nhiên, trong hai năm vừa qua, cậu học với Lương Tụng suốt năm đầu tiên, sang năm thứ hai thì thường xuyên theo Vương Trăn, nên dần dà Đường Thận cũng thay đổi. Cậu học cử chỉ uống trà của Vương Trăn, nhẹ nhàng, từ tốn nhấc nắp chung, gạt khẽ hơi nóng bốc lên, nhấp thử một ngụm.

Đường Thận khoan khoái thốt lên: "Hương thơm vấn vương nơi đầu lưỡi, hậu vị lưu luyến mãi chẳng phai!

Sau khi Đường Thận ra về, Triệu Quỳnh gọi quản lý Hình đến, chủ tớ hai người bàn bạc với nhau.

Hôm sau, quản lý Hình đi theo Diêu Tam đến xưởng xà phòng ngoài thành Thịnh Kinh, chốt số lượng hàng hóa và thời gian xuất hàng.

Lúc đầu Đường Thận không mở xưởng sản xuất xà phòng ở ngoài thành Kim Lăng là vì sợ khuất mắt trông coi. Nhà họ Đường không vươn tay nổi tới Kim Lăng; nếu đặt bừa công xưởng dưới mắt chúa trùm phương ấy là nhà họ Trịnh, rất có thể họ sẽ nảy lòng tham, lừa gạt thợ thuyền, chiếm lấy công xưởng, khiến nhà mình tiền mất tật mang. Thế nhưng ở vùng nước lạ Thịnh Kinh này, Đường Thận có gan mở xưởng ngay tại chỗ.

Thứ nhất, hiện giờ cậu đã không còn là một cử nhân tép riu nữa rồi. Giờ đây cậu có thể dựa vào uy tín của chính bản thân mình – Đường Thận, chứ không cần dựa dẫm hoàn toàn vào nhà họ Đường. Sắp tới, cậu – một Thám hoa vừa là học trò Phó Vị vừa có sư huynh là Vương Tử Phong, sẽ định cư tại Thịnh Kinh. Nếu có người dám không nể mặt mà ngang nhiên cướp xưởng của cậu, không biết Vương Tử Phong thế nào, chứ Phó Vị nhất định sẽ không khoanh tay đứng nhìn.

Thứ hai, ấy chính là việc hợp tác giữa Đường Thận và Cảnh Vương phủ. Bất luận kẻ nào muốn nhòm ngó việc làm ăn của phủ Cảnh Vương cũng phải tự đặt mình lên bàn cân mà xem được bao nhiêu lạng. Đương nhiên, không loại trừ trường hợp chính phủ Cảnh Vương muốn chiếm xưởng của Đường Thận, như thế, đối tượng duy nhất cậu phải để phòng là Cảnh Vương.

"Trên đời này há có việc kinh doanh nào mà không mạo hiểm!" Đường Thận cảm thán.

Xà phòng không phải là thứ xa lạ ở các nhà giàu có tại Thịnh Kinh, nhưng đích đến của sản phẩm này kì thực lại là tầng lớp bình dân.

Nói đến xà phòng, người dân Thịnh Kinh nghe đâu đó là một mặt hàng xuất xứ từ vùng Giang Nam, có tác dụng giống với di tử. Thế nhưng khi Họa Đường Thu bất ngờ mở bán xà phòng rầm rộ, dân chúng Thịnh Kinh mới trầm trồ: "Ồ tuy giống di tử, nhưng tác dụng tốt hơn di tử nhiều!"

Đường Thận chỉ kinh doanh ở ba nơi là phủ Cô Tô, phủ Kim Lăng và Thịnh Kinh.

Ba tòa thành này, tòa sau giàu hơn tòa trước!

Hạ tuần tháng Năm, xưởng xà phòng xuất lô hàng đầu tiên, mới được một buổi đã bán hết sạch sành sanh.

Đường Thận mới nhậm chức ở viện Hàn Lâm, tối đến liền sang Phó phủ thăm Phó Vị. Phủ Cầm đồng tử vừa dẫn cậu vào thư phòng vừa nói: "Đường đại nhân, nghe nói cái xà phòng Họa Đường Thu bán ấy, là của nhà cậu phải không? Cái đó xài tốt lắm ạ. Mẹ tôi hôm qua mới mua một cục, hôm nay nói với tôi rằng xà phòng không làm xây xát tay như di tử, mùi hương cũng thơm tho hơn di tử nhiều."

Đường Thận cười: "Mẹ ngươi cũng mua hả?"

Phủ Cầm đồng tử nói: "Mẹ tôi là người giặt giũ trong phủ này ạ. Trước đây Đường đại nhân có biếu Phó tiên sinh mấy cục xà phòng, nhưng chẳng mấy chốc là hết. Hôm nay Thịnh Kinh có bán xà phòng, cả phủ chúng tôi đều chuyển sang dùng xà phòng hết."

Đường Thận lập tức bảo: "Để tiên sinh dùng thì không thể mua, từ giờ hàng tháng ta sẽ sai Phụng Bút đem một giỏ xà phòng sang. Mọi người trong phủ cùng nhau sử dụng, sẽ đủ hết cho tất cả."

Tiểu đồng Phủ Cầm chỉ tiện thể nói thế thôi, nào ngờ Đường Thận lại nhiệt tình đến vậy. Tuy là việc nhỏ, nhưng chú ta vô cùng cảm kích, bèn nói: "Tạ ơn Đường đại nhân!"

Thịnh Kinh là kinh đô của Đại Tống, phong tục nơi đây đậm nét giản dị, phóng khoáng của miền Bắc, cũng cởi mở với vô vàn yếu tố mới lạ, thập cẩm. Cư dân nhanh chóng đón nhận xà phòng, chỉ mấy ngày thôi, khắp các ven kênh, ven sông trong Thịnh Kinh đều thấy phụ nữ giặt quần áo bằng xà phòng!

Thợ thuyền trong xưởng lần đầu làm xà phòng, Đường Thận tạm thời để họ chuyên tâm vào chế tạo xà phòng cho thành thạo, chưa dạy họ cách làm xà phòng thơm và tinh dầu.

Tháng sáu, thiết bị chưng cất tinh dầu được chuyển đến xưởng, đám thợ ngạc nhiên vây quanh cục sắt to lớn đen sì sì này, nghe Diêu Tam giảng giải cách luyện chế tinh dầu. Đường Thận là quan ở viện Hàn Lâm, tuy triều đình cho phép quan lại buôn bán, nhưng cậu không hề lộ mặt mà khoán hết cho Diêu Tam phụ trách.

Luyện chế tinh dầu khó hơn so với xà phòng, muốn đạt chất lượng cao thì vừa đòi hỏi quá trình luyện chế công phu vừa đòi hỏi tay nghề giỏi.

HIện giờ đang là mùa hoa nở ở Thịnh Kinh. Giữa dịp xuân, Đường Thận cho thợ làm đi thu gom cánh hoa các loại. Nếu để cánh hoa khô mới làm tinh dầu thì độ tinh khiết bị giảm sút, hương thơm cũng không đậm đà. Tinh dầu như vậy là loại hạ phẩm, bán với giá rẻ. Tới tháng sáu có hoa sen, hoa nhài, thược dược, thạch trúc, khi đó dùng cánh hoa tươi làm tinh dầu sẽ cho ra hàng thượng phẩm, bán được với giá đắt.

Hơn nữa, còn có thể trộn lẫn nhiều loại hoa tạo thành tinh dầu hỗn hợp.

Lầu Thiên Lý, nhã gian tầng bốn.

Quản lý Hình kiểm tra thử tinh dầu hạ phẩm làm từ cánh hoa khô, nhận xét: "Mùi hương nồng nàn!"

Sau đó ông ta lại thử tinh dầu từ cánh hoa tươi, nhận xét: "Tươi mới trong trẻo!"

Đường Thận lại lấy tinh dầu hỗn hợp ra, nói: "Đây chính là Hoàng Kim Lũ trân phẩm mà ta đã kể."

Quản lý Hình trịnh trọng đỡ ngay lấy lọ tinh dầu, nhẹ nhàng mở nắp rồi ngửi thử, sắc mặt hơi khác thường. Quản lý Hình nhắm mắt lại, cẩn thận nghiền ngẫm, cảm thấy có rất nhiều mùi hương pha trộn với nhau. Lúc mở mắt ra, ông ta ngần ngại nói: "Cậu chủ Đường khiến tiểu nhân buồn quá. Họa Đường Thu xưa nay chỉ buôn châu báu, song tiểu nhân cũng là quản lí lầu Thiên Lý. Tuy chẳng dám tự xưng là nhạy bén hơn người với mùi hương, nhưng ắt là hơn hẳn người thường. Tôi nhận ra được Hoàng Kim Lũ hạ phẩm của cậu mùi hương nồng nàn nhưng kém xa loại thượng phẩm. Riêng Hoàng Kim Lũ trân phẩm này, đúng là trộn lẫn nhiều hương hoa với nhau đấy, song phải chăng do tiểu nhân ngu dốt, không hiểu phong nhã, nên chưa thấy được sự nổi trội của Hoàng Kim Lũ trân phẩm. Chẳng lẽ loại trân phẩm khác xa loại thượng phẩm thật sao? Tiểu nhân thích Hoàng Kim Lũ hương hoa sen hơn, mùi thương thanh nhã dễ chịu!"

Đường Thận nở nụ cười: "Ta chưa hề nói Hoàng Kim Lũ trân phẩm tốt hơn so với Hoàng Kim Lũ thượng phẩm."

Quản lý Hình cảm thấy khó hiểui: "Vậy ý cậu là sao?"

"Ở lầu Thiên Lý của quản lý Hình, món gì là đắt nhất?"

"Đương nhiên là bào ngư và chân gấu rồi!"

"Vì sao lại đắt thế?"

"Vì những nguyên liệu ấy vô cùng hiếm quý."

Đường Thận: "Nhưng ta nghe nói, lầu Thiên Lý có hai món chân gấu, tuy đắt tiền thật, nhưng không phải là món đắt nhất. Thậm chí, có món ăn chay còn đắt hơn cả món ăn này."

Quản lý Hình: "Không ngờ cậu chủ Đường nắm rõ về lầu Thiên Lý như vậy. Đúng, lầu Thiên Lý chúng tôi có một món chay tên là Bích thủy Đông lưu. Mỗi buổi sớm, chúng tôi lấy những giọt sương được tia nắng mặt trời đầu tiên rọi vào để dùng kèm với tám món chay trân quý và độc đáo. Các nguyên liệu được chần sơ, sau đó đun nhỏ lửa, cuối cùng là xào to lửa. Lúc bày món thì dẫn nước sương vào ống nhỏ lên ngói lưu ly, lót bên dưới, đồ chay đặt lên trên. Mỗi ngày chỉ bán đúng tám đĩa, bán hết thì dừng." Quản lý Hình tự hào giới thiệu.

Đường Thận hỏi: "Nói thế thì về bản chất vẫn là một món xào chay thôi?"

Quản lý Hình: "Ầy, cậu nói vậy..."

Ông ta chẳng có cách nào phản bác cả!

Đường Thận: "Tám món chay, nhờ cách chế biến mà còn đắt hơn cả chân gấu. Quản lý Hình, như thế thì đâu phải cứ món nào ngon hơn, hay mùi hương nào thơm hơn thì tự khắc quý giá hơn đâu? Người đời có bao giờ theo đuổi vật gì vì bản chất của nó chứ! Hoàng Kim Lũ vốn không hướng tới bình dân, nếu ta bảo ông rằng, Hoàng Kim Lũ trân phẩm chỉ dùng cánh hoa tươi mới, mềm mại nhất được ngắt mỗi sớm mai để chế tạo thành, ông nghĩ nó có quý báu không?"

Quản lý Hình: "Đương nhiên là có, nhưng cậu chủ Đường, như thế chẳng cậu ngài đang lừa khách ư?"

"Ta chỉ ví von vậy thôi. Nhưng quả thực cách chế tạo Hoàng Kim Lũ trân phẩm phức tạp hơn nhiều so với Hoàng Kim Lũ thượng phẩm. Phải làm sao để tạo ra một công thức kết hợp, hòa quyện được tất cả những mùi hương đó với nhau, đã tốn bao nhiêu công sức suy nghĩ rồi. Công thức chế tạo cũng là trí tuệ cả đấy!"

Vừa dứt câu, Đường Thận chợt ngẩn ra giây lát, rồi sung sướng thốt lên: "Quản lý Hình, đến đêm Thất Tịch khi Họa Đường Thu mở bán xà phòng thơm và Hoàng Kim Lũ, ta muốn quản lý Hình hãy làm giúp ta một chuyện, việc này ở cả Cô Tô lẫn Kim Lăng ta đều chưa từng thực hiện."

Quản lý Hình lập tức đứng dậy: "Xin cậu cứ giao phó!"

Chương 48

Nay kỉ niệm 9 năm lập tài khoản WordPress. Thời gian trôi như chó chạy ngoài đồng.

Nghệ thuật nịnh hót

Tinh dầu không phải của hiếm ở Thịnh Kinh.

Tất cả những khách hàng có đủ tiền của mua nổi tinh dầu thì dù mặt hàng này không có mặt ở Thịnh Kinh, họ cũng đặt mua được từ Cô Tô, Kim Lăng xa xôi với cái giá đắt đỏ. Tin tức Họa Đường Thu chuẩn bị bán tinh dầu vào hôm nay, chưa tới nửa tháng đã lan truyền khắp các nhà phú hộ ở Thịnh Kinh.

Tinh dầu là thứ bọn họ đã dùng rồi, giờ Họa Đường Thu có bán thì cũng không còn mới mẻ, hấp dẫn như trước, hiệu quả quảng cáo kém xa so với ở Cô Tô hay Kim Lăng.

Quản lí Hình ra lệnh cho các nhân viên Họa Đường Thu chào hàng nhiệt tình, nhưng không thu hoạch được mấy.

Chỉ còn ba hôm nữa là đến tiết Khất Xảo, Đường Thận xong việc ở viện Hàn Lâm thì đến lầu Thiên Lý gặp quản lí Hình. Vị quản lí oai phong lẫm liệt thường ngày cũng có lúc thẫn thờ, thấy Đường Thận thì than thở: "Cậu chủ Đường, chẳng giấu gì cậu, tôi đã nghe tả cảnh dân chúng đổ xô ra đường khi Trân Bảo Các ở Cô Tô và Cẩm Tú Các ở Kim Lăng bán xà phòng, Hoàng Kim Lũ. Chỉ tiếc là, Giang Nam tuy giàu có, đông đúc, nhưng chung quy vẫn kém Thịnh Kinh. Xin cậu chớ nóng giận, những gì tôi nói đều là thật. Các phu nhân, tiểu thơ ở chốn kinh kỳ chúng tôi đây còn của ngon vật lạ gì trên đời là chưa thấy, từ dạ minh châu Tây Vực đến san hô cao ba trượng Đông Doanh? E là chúng tôi chẳng thể làm Hoàng Kim Lũ đắt hàng như ở Giang Nam đâu."

Đường Thận nghe thế thì biết mình suy đoán không trật, nhưng vẫn hơi ngạc nhiên: "Phú thương ở Thịnh Kinh am hiểu thế cơ à?"

"Quả đúng vậy ạ."

Đường Thận an ủi ông ta: "Vậy thì phải trách người dân Thịnh Kinh cái gì cũng biết, chứ quản lí Hình đâu có lỗi."

Quản lí Hình được an ủi thì cũng đỡ buồn, càng có hảo cảm hơn với Đường Thận.

Đường Thận hỏi: "Việc ta nhờ ông nửa tháng trước đã ổn thỏa chưa?"

Quản lí Hình nói: "Việc trưng bày ngọc ngà châu báu là sở trường của Họa Đường Thu. Tiểu nhân đã nghe lời cậu, cho chế tác một trăm kiểu dáng khác nhau, sáng sớm hôm nay thì giao cho quản lí Lục mang đến xưởng ngoài thành. Tiểu nhân xin mạo muội hỏi, cậu chủ Đường, cậu giao cho tôi làm thế để làm gì?"

Đường Thận mỉm cười: "Chẳng phải ông nói các phu nhân, tiểu thơ ở Thịnh Kinh am hiểu nhiều thứ, không có gì là chưa từng thấy, chưa từng thưởng thức sao? Nếu họ đã dùng Hoàng Kim Lũ rồi, chúng ta chỉ cần cho họ một thứ mới hơn là được. Ba ngày sau, ông sẽ biết."

Ba ngày sau, tiết Khất Xảo. Tiết Khất Xảo còn có tên gọi khác là đêm Thất Tịch. Cái tên này xuất phát từ việc ngày lễ này rơi vào mùng bảy tháng bảy. Ban đầu, đêm Thất Tịch là dịp lễ mừng ngày sinh của nàng tiên thứ bảy (tức nàng Chức Nữ), cũng là dịp để các thiếu nữ cầu xin cho tay nghề may vá thêu thùa của mình thêm điêu luyện. Về sau khi xuất hiện câu chuyện tình giữa Ngưu Lang và Chức Nữ thì ngày lễ này cũng dần dần trở thành ngày các cô gái cầu khấn nhân duyên tốt lành.

Chạng vạng hôm đó, có mấy cỗ xe ngựa xa hoa đỗ lại trước cửa Họa Đường Thu.

Nữ giới nhà quyền quý thường ít khi lộ mặt vào ban ngày. Tới tối, họ không hẹn mà ghé thăm Họa Đường Thu. Vừa xuống xe, ba người phụ nữ liền ngạc nhiên khi tình cờ gặp phải người quen.

"Lâm phu nhân, Triệu phu nhân."

"Mã phu nhân, Triệu phu nhân."

"Lâm phu nhân, Mã phu nhân."

Ba vị phu nhân nghiêng mình chào hỏi nhau, rồi cùng đi vào Họa Đường Thu.

Tầng một Họa Đường Thu dùng để trưng bày trâm khảm đá quý, son phấn, bột màu trang điểm giá cả phải chăng và xà phòng. Xà phòng chỉ bán riêng ở tầng thứ nhất. Ba vị phu nhân nhà quan vào trong cửa hàng thì có nhân viên đón tiếp, kính cẩn mời lên tầng hai.

Lên đến tầng hai, ba vị phu nhân ngạc nhiên phát hiện ở khúc ngoặt trên thang có đặt một giá trưng bày rất tinh xảo, liền dừng bước. Một phu nhân che miệng cười duyên: "Nghe nói ở Giang Nam, xà phòng là thứ bình dân hay dùng để giặt giũ, rửa tay. Còn giới quý tộc giàu sang thì phải rửa tay bằng thứ xà phòng ướp hương thơm ngát, còn gọi là xà phòng thơm. Ta bắt đầu chuyển sang dùng xà phòng thơm từ cách đây một năm, đúng là rất sạch sẽ, tay cũng mềm mịn hơn hẳn."

Một phu nhân khác nói: "Độ một năm rưỡi trở lại đây ta luôn rửa tay bằng xà phòng thơm, đúng là hữu dụng."

Vị phu nhân cuối cùng cười: "Còn ta thì chẳng bì được với hai tỷ tỷ, nửa năm trước mới bắt đầu dùng xà phòng thơm. Song Hoàng Kim Lũ được ngợi ca nức nở thì ta vẫn sử dụng thường xuyên từ nửa năm nay, tay trắng mềm hơn bao nhiêu. Kìa thằng hầu, ta nghe nói từ hôm nay Họa Đường Thu sẽ bán xà phòng thơm và Hoàng Kim Lũ. Hoàng Kim Lũ ở đâu, dẫn ta và hai chị đây đi xem thử nào."

Cậu nhân viên cửa hàng cảm thấy mình xui tận mạng mới vớ phải ba Phật bà vào cũng một buổi thế này.

Thịnh Kinh là đô thành của Đại Tống nên người ta hay bông đùa rằng, đập bừa một bảng hiệu, đấm đại mười người thì dễ có tám người là quan lại, một người đã từ quan. Ba vị phu nhân này là khách quen của cửa hàng, phu quân các bà ở trong triều bét nhất cũng là quan ngũ phẩm. Tướng công của Mã phu nhân còn là quan tứ phẩm – tức quan lớn! Phu quân các bà trên triều đình khác nhau về tư tưởng chính trị, đấu đá kèn cựa nhau suốt, thành thử ba bà hễ gặp mặt là phải cạnh khóe, hơn thua nhau bằng được.

Thậm khéo, đúng cái hôm Họa Đường Thu mở bán Hoàng Kim Lũ thì cả ba bà hứng chí kéo nhau đến đây!

Cậu nhân viên nén nỗi đau thét gào trong lòng, cười thân thiện: "Mời các vị phu nhân đi theo tiểu nhân."

Ba bà đi một chốc đã băng qua gian chính bày xà phòng thơm và các loại trang sức, rồi vòng qua một tủ Bách Bảo cổ làm bằng gỗ sưa, trưng bày vô số thứ. Đằng sau một tấm bình phong hai mặt thêu tranh bách điểu triều phượng trên gấm Tô Châu, ba phu nhân phải choáng ngợp trước một tủ Bách Bảo khác, lộng lẫy như một động tiên bí mật đang náu mình!

Trước tủ Bách Bảo là một cái giá cao bày chiếc bình lưu ly nhỏ xíu, đựng dung dịch trong veo màu vàng nhạt. Một viên dạ minh châu to bự vô cùng xa xỉ nằm ở một góc giá. Tắm trong ánh sáng từ viên minh châu, nước ngọc lưu ly càng lóng lánh gấp bội. Ba vị phu nhân phú quý chẳng kém ai, thấy giá trưng bày này cũng phải trố mắt hãi hùng vì độ xa hoa phung phí.

Đến khi ngẩng lên nhìn tủ Bách Bảo...

Mỗi ô vuông trên tủ Bách Bảo đều trưng bày một chiếc lọ trong suốt bé xinh, mỗi bình chỉ đủ đựng một xíu chất lỏng. So với chiếc bình trên giá bày dạ minh châu, mỗi bình ở đây chỉ nhỏ bằng một phần năm, nhưng chế tác thì vô cùng tinh xảo, bản thân chiếc bình đã khiến người xem phải thấy thích thú vô cùng, không nỡ buông tay. Phần lớn những chiếc bình này chứa chất lỏng màu vàng, nhưng cũng có một số bình chứa chất lỏng nhạt màu hơn, gần như trong suốt.

Mã phu nhân hiểu biết rộng rãi, nói thẳng: "Bình trên giá này là Hoàng Kim Lũ, ta biết rồi. Nhưng mười mấy bình nhỏ trên tủ Bách Bảo kia chẳng lẽ cũng là Hoàng Kim Lũ ư?"

Cậu nhân viên cười nói: "Phu nhân thật uyên bác. Trên giá Bách Bảo cũng là Hoàng Kim Lũ, nhưng những bình Hoàng Kim Lũ này đều được đông gia nhà chúng tôi đích thân điều chỉnh, thay đổi thành phần. Ba vị phu nhân e là không biết, Hoàng Kim Lũ bán ở Họa Đường Thu Thịnh Kinh không hề có mặt ở Kim Lăng hay Cô Tô! Hoàng Kim Lũ ở Thịnh Kinh chúng tôi chia làm ba bậc, hạ phẩm, thượng phẩm và trân phẩm." Nói rồi, cậu ta giải thích về ba loại Hoàng Kim Lũ cho các phu nhân nghe, rồi kết luận: "Ở Giang Nam chỉ có Hoàng Kim Lũ hạ phẩm và thượng phẩm, còn Hoàng Kim Lũ trân phẩm, chỉ riêng Thịnh Kinh mới bán!"

Ba bà nghe thế thì sướng rơn, liên tục gật gù.

Cậu nhân viên còn thổi phồng thêm: "Những bình trên chiếc tủ Bách Bảo này còn phi thường hơn. Hoàng Kim Lũ trân phẩm được điều chế từ nhiều loại cánh hoa khác nhau, tạo ra mùi thơm mới lại. Họa Đường Thu chúng tôi đã cải tiến thêm một bước. Những bình Hoàng Kim Lũ phía sau tiểu nhân đây đều là Hoàng Kim Lũ thượng phẩm, chỉ có một hương hoa, song chúng có thể được pha chế với nhau đấy ạ!"

Mã phu nhân kinh ngạc hỏi: "Ý ngươi là, chúng ta có thể tự điều chế ra Hoàng Kim Lũ trân phẩm ư?"

Cậu nhân viên gật đầu lia lịa: "Đúng rồi đấy ạ! Những hương hoa khác nhau hòa chung vào sẽ tạo ra mùi hương mới. Ba vị phu nhân đây là thượng khách, làm sao có thể dùng chung mùi hương với người khác được!"

Nghe câu này xong thì cả ba phu nhân đều lóa mắt. Một khắc sau, ba bà lớn cùng ra về với cả mớ chai lọ be bé, sung sướng ra mặt.

Bán được hơn một trăm bình Hoàng Kim Lũ cỡ nhỏ, cậu nhân viên phổng hết cả mũi. Tiễn ba thượng khách xong, cậu ta thầm ngạc nhiên: "Quản lí làm thế nào mà biết, các phu nhân này sẽ mua hết mọi mùi hương nhỉ?"

Xin một tràng pháo tay, đây chính là ý tưởng mới của Đường Thận ở Thịnh Kinh: Tinh dầu tự chế tạo!

Phương pháp điều chế tinh dầu của Đường Thận còn rất sơ khai, chất lượng không thể sánh bằng sản phẩm thời hiện đại, nhưng được cái là không có nhiều chỗ lắt léo cần lưu ý như sản xuất thời hiện đại. Khi pha trộn các mùi hương với nhau, thành quả tệ nhất là một mùi hương khó ngửi, nhưng không gây ra vấn đề gì nghiêm trọng. Bình ngọc lưu ly vô cùng quý giá, chỉ dùng để đựng hàng mẫu đặt trong cửa hàng. Các bình tinh dầu bán cho các cô các bà đều là bình sứ trắng phỏng theo.

Độc nhất vô nhị chính là thứ bùa mê mà giới nhà giàu Thịnh Kinh không cưỡng lại nổi.

Những người phụ nữ này đã thấy vô số của hiếm trên đời rồi, dù có quý giá đến mấy, dù có thổi phồng Hoàng Kim Lũ lên như quảng cáo kim cương, họ cũng có tiền mua, thành ra chẳng mấy mặn mà hồ hởi. Song, nếu nói rằng họ có thể tự mình điều chế, thử nghiệm, tạo ra Hoàng Kim Lũ thuộc về riêng mình, chắc chắn các quý cô quý bà sẽ lung lay ngay. Thậm chí, Đường Thận phỏng đoán, độ nửa năm nữa thôi, Thịnh Kinh sẽ rộ lên phong trào so tài pha chế Hoàng Kim Lũ trong khuê phòng ấy chứ!

Đường Thận đem sáng kiến này nói cho quản lí Hình, quản lí Hình phải thốt lên là quá sáng suốt. Đồng thời, ông ta cũng bổ sung một chiêu rất cao tay. Nhân viên bình thường làm sao mà nói được những câu mê hoặc lòng người thế? Toàn là do quản lí Hình bày cho cả đấy! Thổi phồng giới nữ quý tộc ở Thịnh Kinh, hạ thấp các phu nhân tiểu thơ Giang Nam, nhấn mạnh rằng trên toàn Đại Tống, loại Hoàng Kim Lũ này chỉ được bán duy nhất ở Thịnh Kinh, làm sao các chị em không xiêu lòng cho được?

Chiêu trò marketing này quả nhiên phát huy cực kì hiệu quả. Về sau khi nó truyền đến tai Đường Thận, cậu ngẩn người, dở khóc dở cười: "Hóa ra cái lối thượng đội hạ đạp, phân biệt vùng miền đã có từ xa xưa, mười lần chẳng sai!" Suy nghĩ một lát, cậu nghĩ thầm: "Rõ thật trơ trẽn!"

Dù sao thì các phu nhân, tiểu thơ xứ Giang Nam cũng chẳng biết đến việc này. Đường Thận chỉ đành chờ đến sang năm thì bắt đầu bán Hoàng Kim Lũ trân phẩm ở Kim Lăng và Cô Tô, rồi mở rộng phong trào tự pha chế tinh dầu.

Xà phòng, xà phòng thơm và Hoàng Kim Lũ đại thắng ở kinh thành, tiền chảy như lũ vào túi Đường Thận và phủ Cảnh Vương.

Sang tháng tám, thời tiết vẫn rất mát mẻ. Đường Thận và các tiến sĩ cùng bảng dần dần vững chân ở Thịnh Kinh. Đệ nhất giáp được phân hết về viện Hàn Lâm; Đường Thận, Diêu Thiện, Vương Tiêu không còn xa lạ gì nhau nữa. Khoảng một nửa đệ nhị giáp thì đi làm quan ở ngoài, số còn lại đều ở kinh thành. Cuối tháng tám, Vương Tiêu chủ trì, các tiến sĩ cùng bảng tụ hội ở lầu Thiên Lý.

Trăng sáng trên không, đèn hoa vừa thắp.

Trong nhã gian trên tầng hai lầu Thiên Lý, hơn hai mươi tân khoa tiến sĩ nâng chén chúc tụng.

Vương Tiêu vui vẻ nói: "Chư vị đồng liêu, xin mời các vị, tối nay không say không về."

Mọi người cùng nhau nói: "Mời Vương đại nhân, không say không về!"

Các tiến sĩ chia nhau ra ngồi hai bàn, vừa ăn uống vừa ngâm thơ, lãng mạn bay bổng đúng chất tài tử.

Của đáng tội, say bí tỉ rồi thì tài tử cũng thành ma men, thơ thẩn dẹp hết sang một bên để mà nói sảng. Người thì oán thán thượng cấp hà khắc, tống cho mình cả núi việc. Người thì khóc lóc rằng lương bổng bèo bọt, nuôi làm sao đủ tám miệng ăn trong nhà. Cứ tưởng đỗ tiến sĩ là lên hương, nào ngờ muốn làm thanh quan thì cả đời chỉ có ăn rau ăn trấu!

Ai cũng có nỗi khổ riêng, Đường Thận tuổi nhỏ nhất nên ít bị mời rượu nhất. Cậu không say nên lỉnh ngay sang bên chỗ Mai Thắng Trạch ngồi cùng. Mai Thắng Trạch tửu lượng tốt nhưng mặt mũi cũng đỏ gay. Vừa thấy Đường Thận, anh ta ôm chầm lấy cậu khóc, mắt sưng vù: "Cảnh Tắc, huynh khổ quá hu hu!"

Đường Thận đã bao giờ thấy Mai Thắng Trạch rũ rượi thế này, vừa bấm bụng cười ngất vừa giả vờ sốt sắng: "Thắng Trạch huynh, làm sao thế?"

Mai Thắng Trạch khóc: "Sau kì thi dành cho các quan lại, huynh bị điều đến bộ Công, đệ biết rồi đúng không?"

Đường Thận trêu: "Biết quá đi chứ lị. Chẳng phải huynh là Viên Ngoại lang của Thủy bộ trực thuộc bộ Công đó sao? Chức Viên Ngoại lang ấy ở tiền triều là quan ngũ phẩm, tuy giờ xuống thành lục phẩm, nhưng Mai đại nhân ơi, ngài đỗ đệ nhị giáp mà giờ đã là quan lục phẩm, còn cao hơn cả ta. Ta phải gọi ngài là là tiến bối mất."

Mai Thắng Trạch chỉ vào mặt Đường Thận: "Đệ đệ đệ..."

"Đệ làm sao?"

Mai Thắng Trạch chấm nước mắt: "Thôi đệ thì ghê gớm rồi Đường Cảnh Tắc ạ, huynh không nói lại đệ, huynh khổ quá mà! Một thư sinh trói gà không chặt như huynh, học tập gian khổ mười năm những mong báo đền ơn vua. Đệ bảo họ bắt huynh đến bộ Công để làm gì chứ? Gần đây Thủy bộ bên huynh phải lo trùng tu hồ Thái Dịch, huynh ờ à ờ ẫn, chẳng biết một cái gì. Lang Trung đại nhân còn bắt huynh phải theo ông ta đi khảo sát hồ Thái Dịch hằng ngày trong cung. Huynh chỉ là quan lục phẩm tép riu, mỗi lần vào cung cứ sợ nhũn cả chân. Hồ Thái Dịch trong mắt huynh có khác gì cái ao to bự đâu, huynh có biết gì đâu chứ!"

Đường Thận nghĩ ngợi một lát, nói: "Thế huynh có muốn giống đệ, hằng ngày giam mình ở viện Hàn Lâm sửa sang Tứ Thứ, viết đến gãy cả cổ tay, tương lai mịt mù không thấy mặt trời không?"

Mắt Mai Thắng Trạch sáng rực như đèn lồng: "Muốn!"

Đường Thận: "..."

Đường Thận: "Đệ chỉ ước được hóa thành huynh thôi!"

Mai Thắng Trạch mặt mũi ngơ ngác.

Mai Thắng Trạch ước ao được tu soạn Tứ Thư giống như Đường Thận, trong mắt anh chàng đấy là nghiệp lớn, có thể lưu danh sử sách, tiếng thơm muôn đời. Nhưng trong mắt Đường Thận, thay vì giam mình trong phòng sao chép, viết lách, cậu thà đi khảo sát hồ Thái Dịch còn hơn! Quan trọng hơn là...

Ánh mắt Đường Thận rất gian manh!

Quan trọng hơn là ngày nào cũng được vào cung!

Mai Thắng Trạch thì sợ vãi ra quần vì ngày nào cũng đụng phải quý nhân trong cung, không tránh được, thỉnh thoảng còn gặp cả hoàng đế. Nhưng đấy chẳng phải là cơ hội vô cùng tốt sao? Đường Thận thầm thở ngắn than dài, cơ hội béo bở như vậy huynh không thèm, thì cho ta đi, ta chỉ thèm có dịp được xuất hiện trước mặt hoàng đế thôi!

Tháng chín, viện Hàn Lâm hoàn tất việc tu soạn sách Trung Dung kéo dài suốt một năm. Lý đại học sĩ đích thân cất sách vào kho sách.

Mọi người đều thở phào nhẹ nhõm, nhưng chỉ nhàn rỗi được hai ngày, bên trên đã lại giao việc xuống.

Viết văn cầu phúc nhân dịp sinh nhật của hoàng đế!

Cả viện Hàn Lâm lại rơi vào cảnh nước mắt chan mưa.

Người ngoài ai cũng thấy viện Hàn Lâm là một cơ quan rất nhàn hạ, vì hằng ngày cứ tạt qua đây công chuyện là thấy từ Đại học sĩ nhị phẩm đến chức Biên tu thất phẩm đang đọc sách, còn không thì đang trên đường đi đọc sách.

"Rảnh đến mức không có việc gì ngoài việc đọc, chẳng nhàn quá thì gì?"

Quan Biên tu thất phẩm ở viện Hàn Lâm, tức Đường Thận, xin được nhổ tặng anh một bãi nước bọt: "Xùy!"

Nếu như nói, đọc sách viết văn là một việc nhàn hạ, thì đúng là viện Hàn Lâm rất nhàn, cả ngày quanh đi quẩn lại chỉ có hai việc đó thôi. Nhưng từ sáng sớm đến đêm thâu, từ năm này qua năm khác, ai mà chịu nổi? Diêu Thiện, Vương Tiêu thì vô tư, cả hai đều là người cổ đại, đèn sách hơn mười năm nay đã thành quen. Còn Đường Thận ấy à, cậu đến phát ốm lên từ tám mươi đời bảy mươi kiếp rồi!

Ngày nào cũng viết viết viết!

Mở mắt ra bắt đầu nghĩ hôm nay phải viết mấy bài luận, đang và miếng cơm lại nghĩ xem hôm nay còn mấy bài chưa viết. Buổi tối tan làm, trước khi nhắm mắt lại nghĩ xem ngày mai phải viết bao nhiêu bài.

Nước mắt Đường Thận chảy ngược vào tim!

Sinh nhật hoàng đế thì càng khốn đốn gấp bội.

Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ của nước Đại Tống sinh vào ngày mùng bảy tháng mười. Giờ mới đầu tháng chín, viện Hàn Lâm đã bù đầu bù óc lo viết văn cầu phúc cho ông ta. Diêu Thiện bị Dương Đại học sĩ giao việc tổng kết những gì hoàng đế đã làm trong năm vừa qua, khảo sát kỹ lưỡng xong thì chép lại thành sách. Vương Tiêu và Đường Thận bị sai viết văn, chỉ viết đúng văn cầu phúc.

Khốn nỗi, văn chương dầu hay hớm đến mấy thì hoàng đế cũng chỉ đọc vài bài thôi, còn lại đốt tuốt dưới cái mỹ danh cầu phúc với trời.

Người lãnh trách nhiệm tuyển lựa các bài văn dâng lên bệ hạ, chính là Hàn Lâm viện Học sĩ – Dương Đại học sĩ hàm nhị phẩm.

Ngài Dương Đại học sĩ này với Đường Thận cũng gọi là có duyên phận.

Trước đây khi Đường Thận thi Hương, số người viết bát cổ chế nghệ xuất sắc ở trường đệ nhất quá nhiều, bài của cậu chưa đủ nổi bật, không có cơ hội trở thành Á Nguyên. Nhưng Dương Đại học sĩ phát hiện ra trường đệ nhị cậu viết năm đề Chu Dịch. Vị đại học sĩ ấy vừa thấy đã xiêu lòng, thiếu điều trao ngay ngôi Giải Nguyên cho Đường Thận. Cuối cùng, ông cân nhắc rằng bài thi trường đệ nhất của Đường Thận quả đúng là kém hơn các thí sinh khác, vì tính công bằng, bèn chấm cho Đường Thận đỗ Á Nguyên.

Từ khi đến viện Hàn Lâm thì Đường Thận không có cơ hội gặp các Đại học sĩ. Chức quan cao nhất cậu tiếp xúc chỉ đến hàm ngũ phẩm.

Biết ngày mai Dương Đại học sĩ đích thân tới, Đường Thận về nhà suy nghĩ miên man, bèn lôi Chu Dịch ra, đọc thêm một lượt cho kỹ.

Đi làm ở viện Hàn Lâm lâu như thế, Đường Thận đã sớm phát hiện rằng chuyện Dương Đại học sĩ thích Chu Dịch, trừ mình ra thì chẳng ai biết!

"Vương Tử Phong ơi là Vương Tử Phong!"

Đường Thận ngâm nga tên sư huynh nhà mình, dở khóc dở cười.

Ba tháng trước Đường Thận chuyển nhà về phủ Thám Hoa. Phủ đệ của cậu quả thực rất gần phủ Thượng thư, chỉ cách hai con ngõ nhỏ. Tối đó, đọc Chu Dịch xong, Đường Thận nghĩ ngợi một hồi, bèn cầm quyển sách mò sang phủ Thượng thư. Người gác cổng thấy Đường Thận thì lập tức cung kính mời cậu vào. Hôm nay Vương Trăn có nhà, Đường Thận không cần phải vào phòng khách mà đi thẳng đến thư phòng.

Vương Trăn đang nằm trên ghế bập bênh, nhàn nhã thắp nến đọc sách.

Đường Thận tới nơi thì gọi: "Tử Phong sư huynh."

Vương Trăn ngẩng lên từ trang sách, trông mặt có vẻ ngạc nhiên: "Sao hôm nay tiểu sư đệ lại đến chơi thế?"

Đường Thận nói điêu: "Đệ đọc sách có chỗ không hiểu, thấy hẵng còn sớm, nên qua đây nhờ sư huynh giải đáp thắc mắc."

Vương Trăn bình thản nhìn cậu, đặt sách xuống, mỉm cười: "Đến giải đáp thắc mắc thật à?"

Đường Thận ngẫm nghị, quyết định nói thật lòng: "Nhớ sư huynh."

Vương Trăn cười tươi roi rói, chìa tay ra hỏi: "Sách gì?"

Đường Thận nghĩ thầm, nói xạo huynh không tin, nói thật huynh cũng không tin! Vương Tử Phong à, huynh thông minh lắm chỉ tổ phản tác dụng thôi, đúng là cóc thể hiểu nổi!

Hôm nay đúng là Đường Thận bỗng dưng nổi hứng đến phủ Thượng thư. Vương Trăn nói không sai, từ khi Đường Thận đi làm ở viện Hàn Lâm, sư huynh đệ hai người tiếp xúc với nhau ngày càng ít, thời gian gặp gỡ cũng giảm đi nhiều. Đường Thận chỉ là quan thất phẩm ruồi muỗi, trên quan trường cậu chưa đủ tư cách để được qua lại với Vương Trăn. Hãn hữu lắm thì khi tan làm hai người mới tình cờ gặp nhau.

Hôm nay Đường Thận nhớ đến việc Vương Trăn từng mách cho mình rằng Dương đại học sĩ thích Chu Dịch, tự dưng lại muốn đến nghe ý kiến của Vương Trăn.

Vương Trăn đương nhiên sẽ không tin câu "Nhớ sư huynh" của Đường Thận, nhưng khi Đường Thận đưa cuốn Chu Dịch cho chàng thì Vương Trăn lại trầm ngâm. Sau một hồi, chàng mới hỏi: "Viện Hàn Lâm đang phải viết văn cầu phúc cho hoàng thượng à?"

Trong giây lát Đường Thận không tài nào hiểu nổi làm sao mà Vương Trăn biết được, nhưng cậu nhìn cuốn Chu Dịch thì giật mình kinh sợ: Chỉ một cuốn sách thôi, làm sao mà Vương Tử Phong đoán được tường tận vậy? Đáng sợ quá đi mất!

Đường Thận suy nghĩ một lát, không giấu giếm: "Vâng." Người như Vương Trăn nếu muốn biết sự thật thì chỉ chẳng tốn mấy thời gian.

Vương Trăn im lặng hồi lâu mới nói: "Tiểu sư đệ nhớ ta thật rồi."

Đường Thận ngẩng đầu nhìn chàng bằng ánh mắt ngạc nhiên. Trong ánh nến lung linh, Vương Trăn mỉm cười mới dịu dàng làm sao, hiếm có khi nào chàng tỏ ra hiền hậu và ấm áp đến thế.

Giây phút ấy, lần đầu tiên Đường Thận cảm thấy mình dường như đã giao nộp lòng mình cho Vương Trăn, chính thức trở thành bằng hữu của chàng rồi.

Cầm một cuốn Chu Dịch, sư huynh sư đệ rủ rỉ hàn huyên, tâm sự thâu đêm.

Hôm sau, Đường Thận đến viện Hàn Lâm, tầm buổi trưa thì Dương Đại học sĩ tới thật.

Dương Kỳ ngồi ở ghế chủ trong phòng, tầm mắt ông bao trọn tất cả quan lại trước mặt. Ông chậm rãi nói: "Chư vị đồng liêu, mấy ngày nữa là đến thọ thần của Thánh thượng, viện Hàn Lâm bận bịu suốt cả tháng, cũng nên có thành quả rồi. Thọ thần hàng năm của Thánh thượng, bản quan luôn là người tuyển lựa ba áng văn hay trình lên bệ hạ, năm nay cũng không ngoại lệ. Mỗi người một bài, chư vị đã chuẩn bị xong chưa?"

Mọi người trăm miệng một lời: "Đã chuẩn bị xong rồi ạ."

Dương Kỳ hài lòng gật đầu: "Quan Biên thừa thu lên đây đi."

Các sai nha đi xuống từ trên đài, thu từng bài văn một. Đường Thận nộp bài của mình, Dương đại học sĩ thu xong bài cũng không nói gì, đi thẳng luôn.

Diêu Thiện không phụ trách viết văn, trong đệ nhất giáp khoa thi năm nay thì chỉ có Vương Tiêu và Đường Thận viết.

Vương Tiêu cảm khái với Đường Thận: "Không biết kết quả ra sao, Cảnh Tắc, cậu có tự tin không?"

Đường Thận: "Từ trước đến nay ta vẫn nghĩ, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên."

Vương Tiêu gật đầu: "Đúng đấy, chúng ta chỉ cần làm tốt phần việc của mình, thế là đủ."

Ngày kế, Dương Đại học sĩ vẫn chưa công bố ba áng văn được dâng lên vua là của ai. Tới mùng bốn tháng mười, Đường Thận tự dưng nhận được chiếu chỉ. Một vị quan ngũ phẩm bên bộ Lại cười tươi rói ghé thăm viện Hàn Lâm, tuyên đọc chiếu chỉ trước mặt cả viện: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, xét thấy Hàn Lâm viện Biên tu Đường Thận khiêm nhường, chỉn chu, văn chương mẫu mực1, nay thăng lên chức Khởi Cư xá nhân hàm lục phẩm, mùng mười nhậm chức, khâm thử. Tháng mười, năm Khai Bình thứ hai mươi bảy."

Toàn bộ mọi người trong phòng đều choáng váng, Đường Thận cúi đầu, nét mặt bình thản, nhưng đôi tay run nhè nhè khi giơ lên tiếp chỉ đã nói lên nỗi xúc động trong nội tâm.

Cùng lúc đó, một chiếu chỉ khác cũng được đưa vào viện Hàn Lâm, nhưng nơi tuyên chỉ là tòa nhà chính ở ngay kế bên. Diêu Thiện giơ cao hai tay tiếp chỉ, khó kiềm nổi nét mặt vui mừng, anh ta đã được thăng chức thành Khởi Cư lang hàm ngũ phẩm.

Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân được coi là "sử quan bên cạnh hoàng đế", phụ trách ghi chép lại tất cả sự vụ lớn nhỏ của hoàng đế, tập hợp lại thành cuốn Khởi Cư chú. Từ đối thoại giữa hoàng đế với các bề tôi, đến tấu chương của quần thần, hay thánh ngôn mà hoàng đế ngẫu hứng thốt lên, tất cả đều được ghi chép lại bởi Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân.

Triều đình đặt ba chức Khởi Cư lang và mười hai chức Khởi Cư xá nhân. Phần lớn thời gian, phải có một Khởi Cư lang và một Khởi Cư xá nhân đi theo hoàng đế để ghi chép.

Khởi Cư lang hàng năm ít nhất là đổi một người. Sau mỗi kì thi Đình, Trạng Nguyên chắc chắn được bổ nhiệm làm Khởi Cư lang, vấn đề chỉ là thời điểm bổ nhiệm. Sau khi Trạng Nguyên làm Khởi Cư lang một thời gian thì sẽ được thay đổi, không ngày ngày theo hoàng đế nữa. Kể từ lúc ấy, Trạng Nguyên mới chính thức được vua trọng dụng. Về phần Khởi Cư xá nhân thì tự do hơn nhiều, thường xuyên thay đổi, cũng không giới hạn đối tượng đảm nhận là ai.

Tất cả mọi người đều biết Diêu Thiện sẽ được thăng chức làm Khởi Cư lang, nhưng không ai ngờ Đường Thận cũng được thăng chức cùng anh ta!

Mọi người trong viện Hàn Lâm đều chúc mừng, Vương Tiêu trông thất vọng ra mặt, bần thần mãi. Nhưng anh ta vẫn chắp tay chúc mừng Đường Thận: "Cảnh Tắc, cung hỉ cung hỉ."

Đường Thận nhìn anh ta bằng ánh mắt thâm thúy: "Đa tạ Đại Nhạc huynh."

Cõi lòng Vương Tiêu đắng nghét, định đáp lời mà không nặn ra được chữ nào.

Đường Thận ở viện Hàn Lâm rất được lòng đồng nghiệp, thứ nhất là vì cậu còn trẻ, viện Hàn Lâm toàn các cụ học giả, ai cũng thấy cậu như cháu giai nhà mình, làm sao mà không đem lòng yêu mến? Thứ hai, ấy là vì cậu có chỗ dựa!

Đường Thận là đồ đệ của Phó Vị, chuyện này không ai không biết. Phó Vị tuy không có mặt ở viện Hàn Lâm, nhưng trên danh nghĩa, ông vẫn là người đứng đầu viện. Ngoài ra, quan hệ giữa Đường Thận và Vương Trăn rất tốt đẹp. Bộ Hộ phụ trách phân phối và sửa sang phủ đệ cho Trạng Nguyên, Bảng Nhãn và Thám Hoa. Phủ Trạng Nguyên, phủ Bảng Nhãn đều ở phía Tây thành, riêng phủ Thám Hoa lại ở phía Đông, ngay sát phủ Thượng thư.

Người đời hay kháo nhau rằng Vương Tiêu là họ hàng xa của Vương Tử Phong. Họ nói chẳng sai, Vương Tiêu với Vương Tử Phong đúng là họ hàng xa, xa theo kiểu bắn đại bác cũng không tới nổi. Từ khi đến Thịnh Kinh Vương Tiêu đã bái phỏng Vương Trăn mấy lần, Vương Trăn lúc nào cũng niềm nở lắm, nhưng cũng chỉ niềm nở mà thôi.

Trong khi đó, Vương Trăn với Đường Thận là sư huynh đệ đồng môn thứ thiệt.

Vương Tiêu có cay cú đến mấy thì cũng chỉ rủa được một câu: "Quỷ tha ma bắt cái mớ quan hệ!"

Nhưng anh ta không biết rằng việc Đường Thận được thăng chức thành Khởi Cư xá nhân lần này chẳng hề dính dáng gì tới Vương Trăn. Người quyết định thăng chức cho Đường Thận chính là Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ.

Trong ba áng văn Dương Kỳ tiến cử, đương nhiên có một bài của Đường Thận, bởi mở đầu bài Đường Thận đã viết: "Rồng bay ở trời, ngôi về đức trời. Rồng hiện ở ruộng, thiên hạ văn minh." Hai câu này lấy trong sách Chu Dịch, phần về quẻ Càn. Dương Đại học sĩ vừa đọc đã thích mê, lại nhớ tới năm bài văn Đường Thận viết hồi thi Hương.

"Thôi, trước đây không thể cho ngươi đỗ Giải Nguyên, hôm nay coi như đền bù vậy, vì đã thấu hiểu tấm lòng của lão phu!"

Đoạn đầu viết để lấy lòng Dương Đại học sĩ, từ đoạn giữa trở đi, Đường Thận trích lấy trích để các thể loại kinh, điển, từ Đạo Đức Kinh đến Trang Tử, Hoài Nam Tử, rồi múa bút tâng bốc công tích vĩ đại của Triệu Phụ suốt hai mươi bảy năm trị vì lên tận chín tầng mây. Cả bài ngợi ca Triệu Phụ là vị vua anh minh tựa thần tiên, lời lẽ hoa mỹ, chỉ thiếu điều đứng trước mặt Triệu Phụ mà tung hô "Bệ hạ, người quả là đấng tiên nhân."

Áng văn này được thảo ngay trước mặt Vương Trăn vào đêm cậu với Vương Trăn chuyện trò thân mật. Đường Thận nghĩ bụng chắc mình lên cơn động kinh rồi mới sáng tác nổi áng văn phỉnh nịnh vô tiền khoáng hậu như vậy! Có thể tối đấy cậu đã vô thức viết trong lúc lơ mơ buồn ngủ. Giờ mà bảo viết lại chắc cậu bó tay: Làm sao mà trơ trẽn thế được!

Nói tóm lại, Đường Thận có việc vui, được thăng lên chức Khởi Cư xá nhân, từ giờ trở đi tha hồ theo sát hoàng đế. Cậu cũng không keo kiệt, bèn mời đồng liêu và mấy tiến sĩ thân quen cùng bảng đi liên hoan ở lầu Thiên Lý, ăn mừng sự kiện này.

Khuya về nhà, Diêu Tam biết chuyện đó thì mừng rỡ nói: "Tiểu đông gia song hỷ lâm môn rồi!"

Đường Thận ngạc nhiên: "Song hỷ? Còn việc vui gì khác nữa?"

Diêu Tam đáp: "Việc này đáng lẽ phải xong từ sớm cơ ạ. Nửa năm trước, lúc tiểu đông gia đỗ Thám Hoa, tiểu thư A Hoàng đã định đi từ Cô Tô lên đây, đoàn tụ với tiểu đông gia. Chẳng may, mẹ tôi bỗng dưng bị cảm nặng, nằm liệt giường, không thể đi thuyền được. Tiểu thư A Hoàng không chịu bỏ mẹ tôi lại để một mình lên Thịnh Kinh mà kiên quyết ở lại phủ Cô Tô chăm sóc bà. Thế là việc điều dưỡng cho bà cụ kéo dài suốt nửa năm. Tháng trước mẹ tôi khỏe hẳn, nên hai bà cháu lên thuyền cách đây hai ngày rồi, cỡ nửa tháng là tới Thịnh Kinh!"

Đường Thận nhớ đến hình ảnh cô nhóc mặc áo vải gai, tức tối quát "Đường Thận em không cho anh tiêu tiền bậy bạ đâu", lòng chợt ấm áp, nói: "Được, chúng ta cùng chờ hai bà cháu đến đây!"

Mùng sáu tháng mười, Phó Vị bị cảm, Đường Thận tan làm thì sang Phó phủ thăm ông. Một canh giờ sau, Vương Trăn cũng tới.

Hai người nói chuyện với thầy một hồi, đến khi Phó Vị ngủ thì sư huynh đệ cùng ra về.

Rời khỏi Phó phủ, Đường Thận bỗng dưng hỏi: "Hôm nay nhà sư huynh có rượu và đồ ăn ngon không?"

Vương Trăn ngạc nhiên nhìn Đường Thận, lát sau mới cười bảo: "Tiểu sư đệ sang nhà, làm gì có chuyện không sẵn rượu ngon, thức ăn ngon?"

Đường Thận gật đầu: "Thế chờ đệ về nhà thay bộ quần áo rồi sang tìm sư huynh nhé."

Vương Trăn nheo mắt nhìn Đường Thận, chỉ cười mà không ý kiến.

Đêm xuống, quả nhiên Đường Thận đã đổi sang bộ y phục màu xanh, đi tới phủ Thượng thư.

Phủ Thượng thư rộng lớn vắng tênh. Vương Trăn đã cho bày biện bàn ăn trong sân, cách mấy bước chân là hồ nước. Bóng trăng lai láng mặt hồ, hơn mười chú chép hoa nô đùa dưới làn nước. Vì Vương Trăn ít khi nói chuyện trong lúc ăn cơm, Đường Thận cũng trật tự ăn uống. Đến khi ăn xong bữa, quản gia dọn bàn, dâng ấm trà lên.

Ngẩng đầu ngắm trăng tròn vành vạnh, cúi đầu nhấp ngụm trà thơm tho.

Đường Thận lấy từ trong tay áo ra một món đồ, khẽ khàng đặt lên mặt bàn đá, tiếng "canh cách" trong veo.

Vương Trăn cúi đầu thấy vật này thì ngẩn ra, ngẩng lên hỏi: "Tiểu sư đệ?"

Đường Thận nói:

"Có người quân tử tài ba.

Như lo cắt dũa để mà lập thân.

Dồi mài dốc chí siêng cần2.

Trước giờ đệ vẫn biết sư huynh cao nhã, thanh bạch; đệ sai người tìm kiếm ở Cô Tô suốt hai tháng mới được một miếng bạch ngọc trong trẻo thế này, trộm nghĩ ngọc này phối với áo bào gấm trắng sư huynh thường mặc là hợp nhất. Đệ biết sư huynh xuất thân Lang Gia Vương thị, từng gặp vô vàn loại ngọc quý, nên miếng ngọc này chẳng thể nào lọt vào mắt xanh của sư huynh. Vì vậy, mong sư huynh coi nó như chút lòng thành nhỏ nhoi của đệ, mừng sư huynh bước sang tuổi hai sáu."

[2] Trích Kỳ úc 1, Kinh Thi. Tạ Quang Phát dịch.

Dưới ánh trăng vằng vặc, cặp mắt trong vắt như nước mặt hồ của Vương Trăn lấp lánh những tia sáng tựa ánh sao trời.

Hồi lâu, Vương Trăn cầm miếng ngọc lên: "Sao đệ biết hôm nay là sinh nhật ta?"

Đường Thận sửng sốt, nói: "Hồi năm ngoái, Phó tiên sinh có nhắc đến. Thầy bảo bận bịu mấy bữa thành ra quên mất sinh nhật huynh vào hôm kia. Tiên sinh nói thế vào hôm mùng tám tháng mười, lẽ nào sinh nhật sư huynh không phải là ngày mùng sáu tháng mười?"

Vương Trăn vuốt ve viên ngọc quý: "Phải. Có điều mùng bảy tháng mười là đại thọ của Thánh thượng, các quan trên triều trăm thứ việc phải lo, ngay cả ta cũng hay quên mùng sáu là sinh nhật mình."

Đường Thận không ngờ là còn có chuyện này, bèn nói không chút đắn đo: "Vậy cứ để đệ ghi nhớ hộ sư huynh là được mà."

Vương Trăn thình lình ngẩng lên, nhìn Đường Thận chăm chú.

Đường Thận: "... Sư huynh?" Cậu đâu có trêu Vương Tử Phong chứ? Chẳng lẽ vuốt mông ngựa lệch chỗ rồi?

Vương Trăn ngắm nghía cậu hồi lâu mới mỉm cười. Chàng lần xuống túi hương thắt dưới miếng ngọc. Túi hương được làm từ gấm màu lam đậm, Vương Trăn ngửi thử, mùi hương tỏa ra từ chiếc túi ấy vừa thanh nhã vừa thân thuộc vô cùng. "Hương thược dược đấy ư?"

Đường Thận giải thích: "Hương cỏ lan và thược dược đấy ạ. Bài Trăn Vị trong tập Quốc Phong, Kinh Thi có viết: 'Dòng sông Vị với sông Trăn, thuỷ triều vào khoảng mùa xuân dẫy đầy. Khắp vùng con gái con trai, hoa lan mới bẻ cầm tay trao lời. Nàng rằng: sao chẳng xem chơi? Chàng rằng: vừa mới đến rồi xem qua. Nàng thêm: hãy đến xem mà, phía ngoài sông Vị đôi ta đến cùng. Chắc là vui thú mênh mông, rủ nhau sánh bước đi chung hai người. Lại nhân dịp ấy vui cười, tặng nàng thược dược ghi lời ái ân.' Đệ đoán tên của sư huynh lấy từ bài Trăn Vị, lẽ nào đệ đoán sai rồi?"

Vương Trăn mỉm cười với Đường Thận: "Không sai đâu."

||

Tưởng như rất thẳng mà ngờ đâu gay quá...gay ~

Lời tác giả:

Tiểu Đường lang: Xuyên về cổ đại, việc hay nhất ta học được là vuốt mông ngựa! Sư huynh, chẳng nhẽ đệ vuốt tệ lắm ư?

Anh Vương hàng xóm: Cực kì tốt là đằng khác (mỉm cười)

Chú thích

[1] Gốc: 谦雅恣让, 躬亲事必, 文善达雅. Trình độ mình có hạn nên những câu khó thế này chúng ta nhẹ nhàng lướt qua nhé :)) hoặc ai biết thì bảo mình với

Thược dược (hoa nở mùa xuân) này khác với thược dược mà chúng ta biết (nở mùa thu). Trai gái xưa kia tặng nhau hoa này trước khi đi xa để tỏ lòng nhung nhớ. Thời cổ, tên hoa đọc gần giống "hẹn yêu" nên cũng được tặng để bày tỏ tình yêu và mong muốn kết duyên (theo Zhihu).

Bản dịch thơ Trăn Vị (hay Trân – Vỹ, theo cách phiên âm của dịch giả) là của dịch giả Tạ Quang Phát. Ông đã dịch cuốn Kinh Thi do NXB Đà Nẵng xuất bản. Mời các bạn tìm đọc thêm.

Tủ Bách Bảo là một dạng tủ/giá trưng bày đồ sưu tầm (đá, bình, lọ gốm sứ). Có rất nhiều hình dạng khác nhau nhưng đặc điểm chung là chia làm nhiều ngăn trưng bày.

Chương 49

Khởi Cư xá nhân

Vương Trăn đứng lên, đeo luôn miếng ngọc và túi hương vào đai lưng.

Thấy chàng làm thế, Đường Thận có chút ngạc nhiên, nhưng cậu không nói gì.

Đường Thận hoàn toàn không biết người xưa có những tập tục gì vào dịp lễ sinh nhật. Cậu thử suy nghĩ, bèn đoán rằng chắc ít nhất cũng phải ăn mì trường thọ. Tuy thế, ở quê cậu hồi xưa, mọi người thường ăn mì vào buổi trưa, còn buổi tối thì mở tiệc. Chần chừ chốc lát, Đường Thận mới hỏi: "Sư huynh đã ăn mì chưa ạ?"

Vương Trăn đương nhiên biết Đường Thận đang nghĩ gì, chàng ra lệnh cho quản gia: "Đưa hai bát mì lên đây."

Quản gia sai bảo đầy tớ: "Đem hai bát mì lên."

Đường Thận ngơ ngơ ngác ngác.

Sinh nhật Vương Trăn thì mình anh ta ăn mì thôi, sao lại quàng thêm cả cậu? Nhưng Đường Thận chưa kịp từ chối, tên đầy tớ đã vâng dạ rồi chạy tọt xuống bếp. Chẳng bao lâu, đầy tớ lại bưng hai tô mì vào vườn.

Đường Thận nhìn chằm chằm bát mì trên bàn, không biết phải nói sao.

"Tiểu sư đệ không thích ăn mì à?"

Đường Thận: "Không phải ạ."

Vương Trăn tỏ vẻ phật ý: "Thế thì ắt là nhà bếp nấu nướng không hợp khẩu vị đệ rồi."

"Không đâu ạ."

"Vậy thì ăn đi."

Đường Thận không thể làm gì khác ngoài cầm đũa, gắp mì. Cậu ăn ba bốn miếng mới phát hiện rằng Vương Trăn chưa ăn miếng nào, đũa vẫn gác nguyên đấy. Đường Thận lấy làm lạ: "Sao sư huynh không ăn?"

Vương Trăn tỏ ra hết sức ngạc nhiên, nói như đúng rồi: "Chúng ta mới ăn tối xong, huynh hẵng còn no căng, làm sao mà ăn được nữa."

Đường Thận: "..."

Ô thế huynh no căng, còn ta thì không no căng phỏng?

Đường Thận chẳng nói chẳng rằng buông đũa, bỏ mứa bát mì luôn, trong bụng thì mắng mỏ Vương Tử Phong xối xả. Ấy thế mà Vương Tử Phong vừa gọi một tiếng "Cảnh Tắc," Đường Thận lập tức "Dạ" ngay, ngoan thế cơ chứ lại! Dạ xong Đường Thận cũng chỉ muốn tự vả miệng: Rõ bẽ mặt! Vương Tử Phong, anh giỏi lắm. Giờ thì tôi phải nịnh anh, nhưng hãy đợi đấy, sẽ có ngày tôi không phải nịnh anh nữa!

Sư huynh đệ hai người lại nói chuyện thêm một chốc rồi Đường Thận cáo từ về nhà, Vương Trăn tiễn cậu ra tận cửa.

Nhìn bóng lưng dần xa của Đường Thận, Vương Tử Phong cầm quạt gõ nhè nhẹ lên lòng bàn tay trái. Gõ một lát, chàng trỏ quạt về phía Đường Thận, nói: "Ngươi đoán xem hồi nãy đệ ấy có thầm nói xấu ta không?"

Quản gia nhìn xung quanh, nghĩ bụng ở đây chẳng có ai, hẳn là công tử đang nói chuyện với mình.

Ông ta nhủ thầm: Có mắng ngài hay không, ngài chẳng biết quá rồi còn gì?

Quản gia cung kính đáp: "Tiểu nhân không biết ạ."

Gương mặt điển trai của Vương Trăn đầy ắp ý cười, song khi chàng cất lời thì rất nghiêm túc: "Ta là ta cứ thấy những lúc đệ ấy oán thầm mình mới hay ho làm sao, không tài nào mà nhịn trêu được, ngươi nói xem, biết làm sao cho phải đây?"

Quản gia: "..."

Vương Trăn chỉ hỏi thế thôi chứ chàng không định nghe quản gia trả lời. Vuốt ve miếng bạch ngọc thượng hạng trên thắt lưng, chàng thở dài một hơi, rảo bước quay về cổng chính phủ Thượng thư.

Ngày mùng bảy tháng mười, đại thọ Thiên tử.

Quan thất phẩm ruồi muỗi như Đường Thận không có tư cách tham gia nghi lễ tế trời ở Đàn Trời. Tuy thế, trong lúc văn võ bá quan và hoàng thân quốc thích tế tổ thì họ cũng phải ngồi quỳ trong viện Hàn Lâm cả buổi, cảm nhận "oai trời" lồng lộng từ cách đó mấy chục dặm. Đến tận chiều, nghi thức tế trời dài lê thê mới kết thúc. Văn võ bá quan vào hoàng cung dự tiệc, đám quan nhỏ lục phẩm, thất phẩm thì về nhà nghỉ ngơi, hưởng thụ thời gian thanh nhàn.

Sinh nhật hoàng đế, đại xá thiên hạ.

Ba ngày sau tức mùng mười tháng mười, Đường Thận thay quan phục lục phẩm của Khởi Cư xá nhân, đi đến nha môn Trung Thư Tỉnh.

Triều đại trước, Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân là hai chức quan thuộc Nội Sử Tỉnh. Sang triều đại này, vua Thái Tổ phế bỏ Nội Sử Tỉnh, dựng nên Trung Thư Tỉnh. Quan lại trong Trung Thư Tỉnh đều kiêm nhiệm chức khác, ví dụ như Vương Trăn vừa là Thượng thư bộ Hộ, vừa là Nội Các đại thần trong Trung Thư Tỉnh, nên còn được gọi là Vương tướng công. Những quan lại không kiêm chức trong Trung Thư Tỉnh cũng chỉ có duy nhất hai đối tượng.

Một là các tể tướng, hai là các quan Khởi Cư như Đường Thận, Diêu Thiện.

Một đằng là quan nhất phẩm, quyền thế nghiêng trời lệch đất; đằng kia là cận thần của thiên tử, phụ trách ghi chép cuộc sống hàng ngày của đức vua.

Đến nha môn Trung Thư Tỉnh, Đường Thận thấy Diêu Thiện đến trước cả mình. Anh ta gặp Đường Thận thì nói: "Cảnh Tắc, không ngờ chúng ta lại có duyên như vậy. Trung Thư Tỉnh khác xa viện Hàn Lâm, sau này chúng ta nên chiếu ứng lẫn nhau."

Đường Thận tán thành: "Xin được phấn đấu cùng Vấn Cơ huynh!"

Hai người hàn huyên một hồi thì có hai viên quan mặc áo bào ngũ phẩm đi tới cửa. Đường Thận vái chào hai vị này, họ lại chào hỏi Diêu Thiện bằng lễ của quan cùng cấp. Một trong hai người nói: "Hẳn vị này là Diêu Vấn Cơ – Diêu đại nhân, còn vị này là Đường Cảnh Tắc – Đường đại nhân. Ta là Lý Thư, cũng là quan Khởi Cư lang ngũ phẩm giống Diêu đại nhân đây. Còn đây là Trương Tư – Trương đại nhân, cũng là quan Khởi Cư lang .

Trương Tư nói: "Hôm nay đến lượt ta theo bệ hạ, đã chọn sẵn hai Khởi Cư xá nhân rồi. Sang ngày mai đến lượt Lý đại nhân theo hầu bệ hạ, lúc ấy, Đường đại nhân hẵng vào cung."

Đường Thận hỏi: "Trương đại nhân, ngày mai đến lượt ta ghi chép ư?" Cậu tỏ vẻ lúng túng: "Chẳng giấu gì hai vị, ta vừa mới đến Trung Thư Tỉnh nên còn bỡ ngỡ lắm, hỏi một chẳng biết ba, chỉ sợ mai thành trò cười mất. Khiến mọi người cười chê là chuyện nhỏ, kinh động đến thánh giá mới nguy to. Ngày mai, ta biết phải làm sao đây?"

Đường Thận mới mười sáu tuổi, đóng vai âu sầu rầu rĩ không thể nào đạt hơn. Cậu chau mày, hai tay nắm chặt, trông hết sức lúng túng.

Hai quan Khởi Cư lang ngũ phẩm thấy thế thì nhìn nhau cười, quả nhiên như lời đồn, cậu ta chỉ là một đứa con nít. Lý Thư nói: "Đại nhân chớ lo lắng, ngày mai người chịu trách nhiệm là ta, không chỉ có mình cậu ghi chép đâu. Đến lúc ấy, cậu cứ đứng sau lưng ta, xem ta chép thế nào là được. Ta sẽ đứng bên trái thánh thượng, một Khởi Cư xá nhân khác đứng ở bên phải. Cậu và Diêu đại nhân mới tới đây, vẫn chưa quen việc. Đã thế, hôm nay hai người hãy tham khảo Khởi Cư chú của năm Khai Bình triều ta đi. Xem được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu. Khi nào các cậu đọc xong, ắt sẽ biết phải làm thế nào."

Diêu Thiện và Đường Thận liếc nhau một cái, cười bất đắc dĩ: "Vâng."

Không ngờ rời khỏi viện Hàn Lâm rồi vẫn phải đọc sách!

Đường Thận và Diêu Thiện mỗi người mở một cuốn Khởi Cư chú dày cồm cộp ra đọc. Hai người đọc một mạch đến tận lúc mặt trời lặn, Hoàng đế đã tu tiên xong, quay về hậu cung. Sau khi hoàng đế về hậu cung, Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân mới kết thúc một ngày làm việc.

Đường Thận về đến nhà, rửa mặt bằng nước lạnh. Dòng nước lạnh buốt như đá hắt lên mặt khiến cậu tỉnh táo bất ngờ.

Đường Thận xốc lại tinh thần, mắt sáng rực, khẩn trương đi vào thư phòng, lấy một cuốn vở trắng. Cậu mài mực, cầm bút lông dê mảnh viết thoăn thoắt: "Năm Khai Bình thứ hai mươi tư, ngày mùng bốn tháng tám, có sao chổi lớn như trái đào, rơi về phía Đông Nam. Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân vào cung giữa đêm...."

Nhắm mắt lại, vô số hàng chữ lại hiện lên trước mắt cậu, Đường Thận viết tiếp: "Năm Khai Bình thứ hai mươi tư, mùng bảy tháng tám, Thánh thượng triệu Thiếu Khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn. Vua nói: Đêm qua trẫm gặp cơn mộng dữ, thấy chúng sinh trong lao tù than khóc, huyết lệ đẫm song sắt. Tô khanh đáp rằng: Bệ hạ nhân từ, thần không bì kịp. Vua nói: Trẫm đau nỗi đau của thiên hạ, Tô khanh có xót xa cùng với trẫm không? Nhân nhớ đến muôn dân, ban phúc trạch cho bách tính, trẫm đại xá thiên hạ! Ngày hôm ấy, vua Tống đại xá tội nhân.

Cây bút của Đường Thận đưa nhanh như chớp trên giấy trắng.

Đọc một lần không quên!

Ngay cả Đường Thận cũng không ngờ, sẽ có ngày cậu dùng năng lực trời ban của mình vào việc này.

Hôm nay khi đến kho lưu trữ của của Trung Thư Tỉnh chọn sách thì Đường Thận chọn đúng cuốn Khởi Cư chú năm Khai Bình thứ hai mươi tư đến năm Khai Bình thứ hai mươi sáu. Cậu đọc suốt cả ngày mà mới chỉ xong được một năm, còn hơn một năm nữa chưa xem hết.

Viết tất tật những gì cậu nghĩ có liên quan đến việc mình cần, Đường Thận thở phù một hơi rõ dài, ngồi tê liệt trên ghế. Cậu cầm cuốn Khởi Cư chú bản nhái mình vừa viết xong, đọc lại kỹ càng.

Đường Thận sao chép đủ thứ linh tinh tạp nham, có những câu nói vu vơ của Triệu Phụ, cũng có những cuộc đối thoại giữa Triệu Phụ và bề tôi. Tất cả những gì có có thể liên quan đến thành viên Tùng Thanh đảng , cậu đều ghi lại tất.

Nhưng mà những mẩu vụn này...

"Còn xa mới đủ!"

Đường Thận đặt phịch cuốn vở lên án thư, đôi mắt đỏ quạch: "Hoàng đế đại xá thiên hạ, đương nhiên không có chuyện thả Chung Thái Sinh. Đại xá thiên hạ chỉ đặc xá cho một số phạm nhân tội nhẹ, còn trọng phạm, mệnh phạm thì không thể được ban ơn. Triệu Phụ đặc xá tội phạm, chỉ vì một cơn ác mộng, hay ông ta còn ý đồ gì?"

Đường Thận vắt óc ra mà nghĩ: "Sau đêm sao chổi xuất hiện, đây là lần duy nhất ông ta nhắc đến phạm nhân trong tù. Mình đã bỏ sót gì nhỉ?"

Đường Thận nhanh chóng lật lại cuốn vở mình chép, nhưng soi xét ngược xuôi, cậu vẫn không tìm được manh mối.

Áp lực như Thái sơn đè trên vai khiến Đường Thận phát ngộp. Cậu biết chắc rằng chuyện sinh tử của Chung Thái Sinh có liên quan đến Triệu Phụ, cậu còn biết, chính biến trong cung hai mươi bảy năm trước cũng liên quan đến Triệu Phụ. Hàng ngàn bí mật đan cài với nhau như một mạng nhện dày đặc, cậu có mở to mắt hết cỡ cũng không tài nào nhìn thấu.

"Hiện giờ những gì mình biết còn quá ít ỏi." Đường Thận phán đoán.

Đặt một giả thiết táo bạo, cẩn thận tìm kiếm bằng chứng. Tất phải làm như vậy!

Đường Thận thổi tắt nến trong thư phòng, lặng lẽ giấu cuốn vở trong ngăn bí mật đằng sau giá sách, về phòng ngủ nghỉ ngơi.

Giờ Sửu ngày hôm sau, từ lúc trời còn tờ mờ, Đường Thận đã thay quan bào đến nha môn Trung Thư Tỉnh.

Lý Thư thấy Đường Thận đến trình diện từ sớm thì rất hài lòng. Chờ Khởi Cư xá nhân còn lại đến nơi, Lý Thư chỉ liếc người đó một cái, rồi lẳng lặng dẫn Đường Thận và người đó đi vào hoàng cung. Màn đêm vẫn còn chưa tan, sao nhỏ li ti rải rác trên trời. Ba viên quan nhỏ không ai dám ngẩng đầu, rảo bước đi trong cung.

Trong hoàng cung vô cùng yên tĩnh, đình đài lầu các chìm trong bóng đêm, nom như những con thú dữ nhe nanh múa vuốt, chỉ chực ăn tươi nuốt sống người ta.

Ba người tới điện Tử Thần, trong điện chỉ có thái giám và cung nữ đang quỳ trên sàn lau dọn. Lý Thư dặn dò hai người Đường Thận rằng: "Cấm nói gì đấy." Hai người biết điều, không ai hé răng, ông ta bèn dẫn họ ra đằng sau ngai rồng.

Đường Thận mới vào điện Tử Thần một lần duy nhất – hồi cậu đỗ đệ nhất giáp kì Đình. Lần đó, cậu đứng giữa đại điện, được Triệu Phụ đích thân ban danh hiệu Thám Hoa lang.

Lý thư liếc mắt ra hiệu cho Khởi Cư xá nhân kia, người kia đã có kinh nghiệm, thì thào dạ một tiếng rồi đi sang bên phải. Đường Thận đi theo Lý Thư sang bên trái. Bọn họ đi vòng qua ngai vàng, đứng ở mé bên bệ đá đúc từ đá trắng Thái Hồ. Khuất đằng sau một cây cột bàn long2 bằng bạch ngọc năm người ôm mới xuể là một chiếc bàn nho nhỏ.

[2] Bàn long: rồng cuốn

Chiếc bàn này vừa hẹp vừa nhỏ, ghế ngồi cũng chỉ được ghép từ ba tấm gỗ.

Đường Thận giật mình nhìn kỹ lại. Lúc được phong Thám Hoa lang, cậu không ngờ đằng sau cây cột hai bên ngai rồng còn có người nữa!

Lý Thư: "Cậu đứng sau lưng ta, đứng sao cho khuất sau cột."

Đường Thận: "Vâng."

Lý Thư ngồi xuống, nhẹ nhàng mài mực.

Qua một lúc, cung nữ, thái giám quét tước điện Tử Thần nối đuôi nhau ra ngoài. Sau đó thì có một nhóm thái giám khác tiến vào từ cửa hông. Thái giám đi cuối cùng phụ trách đóng cửa điện Tử Thần lại. Hai khắc sau, ngoài cửa vang lên tiếng hô lanh lảnh như thể ép giọng: "Bá quan vào điện!"

"Bá quan vào điện!"

"Bá quan vào điện!"

Những câu lệnh cứ lần lượt truyền xuống, vang khắp hoàng cung.

Sau một hồi tuyên gọi, Đường Thận căng tai lắng nghe, để ý thấy tiếng bước chân sột soạt. Lũ thái giám vào điện Tử Thần từ sớm đang cúi đầu, đi tới trước hai bên cửa điện, chia làm bốn người mỗi bên. Tám thái giám hè nhau kéo, hai cánh cổng điện kẽo kẹt mở ra. Sau một khắc, quan lại hai ban văn võ, khoác trên mình những bộ áo bào tượng trưng cho phẩm trật khác nhau, lần lượt vào điện.

Đường Thận và Lý Thư đứng ở bên trái của ngai rồng, tức là bên phải của bá quan.

Văn bên trái, võ bên phải. Trước mặt Đường Thận toàn các tướng võ. Đường Thận ngó nghiêng, phát hiện Vương Trăn đứng trong hàng ngũ quan văn bên trái, chàng mặc áo bào đỏ, cầm chiếc hốt ngọc rất dài, đứng ở vị trí thứ ba trong hàng quan văn. Hai người đứng trước chàng đều mặc áo bào của quan nhất phẩm. Bên cạnh chàng cũng có mấy người khác mặc quan bào nhất phẩm.

Trong đám quan lại này, xếp hàng sau cùng chính là các quan tứ phẩm.

Đại Tống trọng văn, từ thời Thái Tổ đã bỏ lễ quỳ, những khi có lệnh "quỳ" thì chỉ cần ngồi quỳ mà thôi. Khi lên triều thì các quan thậm chí không cần quỳ trước hoàng đế mà được phép đứng trong điện, ngước nhìn lên hoàng đế.

Trong điện, sàn gạch dát vàng tỏa ra hơi lạnh.

Trăm quan cầm hốt đứng đợi một khắc mới nghe tiếng Đại thái giám Quý Phúc cất cao: "Bá quan bái yết!"

Lý Thư lập tức đứng lên, Đường Thận cũng bắt chước, hành lễ cùng các quan trong điện. Mấy chục con người cùng nhau hô lớn, tiếng nói cộng hưởng rung chuyển cả điện Tử Thần, thấu tận trời cao.

"Bái kiến bệ hạ!"

Chú thích

Đây là một câu nói có từ xa xưa để chỉ người thiếu hiểu biết. Xin đừng liên tưởng đến nhân vật nào trong truyện nào đó nhé :P

Chương 50

Vương Tử Phong!

Đường Thận và Lý Thư đứng phía tay trái ngai vàng, sau cây cột rồng bằng bạch ngọc. Hai người khom mình hành lễ, Triệu Phụ đi ngang qua họ. Đường Thận chỉ có thể thấy một góc vạt áo nho nhỏ màu vàng sáng, cậu nheo mắt. Lát sau, nghe tiếng Triệu Phụ nhẹ nhàng nói: "Miễn lễ."

"Tạ ơn bệ hạ."

Lý Thư ngồi xuống chuẩn bị ghi chép, Đường Thận đứng sau lưng ông ta.

Điện Tử Thần vắng vẻ lạnh lẽo cuối cùng cũng bắt đầu buổi triều.

Cây cột bàn long bạch ngọc quá đỗi bé nhỏ so với những trụ cột quyền lực trên khắp cõi Đại Tống tập trung đằng sau nó. Có bề tôi tâu chuyện chiến sự biên cương gần đây. Triệu Phụ lắng nghe xong rồi phán: "Để sau rồi bàn lại." Lý Thư ghi câu này vào Khởi Cư chú. Các đại thần lần lượt tâu trình, phần lớn là báo cáo những việc phát sinh gần đây.

Trong triều không có việc gì nghiêm trọng cả.

Sau nửa canh giờ, buổi triều kết thúc. Bá quan hành lễ trước ngai báu, tiễn Triệu Phụ rời điện. Sau khi Triệu Phụ đi, các quan mới rút ra khỏi điện từ hai bên cửa hông. Còn Đường Thận, Lý Thư và Khởi Cư xá nhân còn lại thì theo Triệu Phụ rời khỏi điện Tử Thần.

Từ lúc buổi triều kết thúc, Khởi Cư lang và hai Khởi Cư xá nhân vẫn theo sau hai bên Triệu Phụ. Trừ lúc tiêu tiểu ra, bọn họ không hề rời vua một tấc. Đến lúc chạng vạng, Triệu Phụ lên đài Đăng Tiên tu luyện thì ba người đứng ngoài cửa, Triệu Phụ chỉ cho hai đạo đồng theo hầu.

Đường Thận thắc mắc ngó Lý Thư, Lý Thư chỉ nhìn xuống đất, không nói gì.

Đường Thận thở dài trong lòng.

Hoàng đế rốt cuộc vẫn là hoàng đế thôi!

Theo lý thuyết, Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân phải túc trực cạnh hoàng đế từ sáng đến tối, từ lúc lâm triều đến khi hoàng đế về hậu cung, mới được coi là hoàn thành nhiệm vụ. Triệu Phụ tu tiên không cho bọn họ theo sau, việc ấy không phải phép, nhưng ai dám hé răng phản đối nửa lời?

Song ông ta vẫn có thể coi là một hoàng đế đứng đắn.

Nghe đồn triều đại trước đây từng có một vị hoàng đế cực kì quyền lực và độc đoán. Ngày nọ ông ta đột nhiên yêu cầu được xem Khởi Cư chú. Bá quan văn võ đều can gián: "Bệ hạ không thể làm vậy được!" Nhưng hoàng đế đó không hề quan tâm. Khuyên sao cũng không nổi, các đại thần không tài nào lay chuyển nổi vị hoàng đế quyền lực đầy mình này, chỉ đành để mặc ông ta đọc những ghi chép về bản thân. Đương nhiên, sau khi hoàng đế đọc Khởi Cư chú, bản ghi chép đã bị sửa đổi rất nhiều1.

Về sau, sử sách ghi nhận việc này, cho nên Khởi Cư chú thời hoàng đế này bị nhiều sử quan coi là không có giá trị.

Triệu Phụ khá hơn nhiều, ông ta chỉ không cho quan ghi chép đi theo thôi chứ không nhúng tay vào việc sửa đổi Khởi Cư chú. Cuộc sống hàng ngày của ông ta cũng không có tì vết gì, tuy không phải minh quân cả đời, nhưng cũng không có thói hư tật xấu. Tóm lại, ông ta là một hoàng đế bình thường.

Hoàng đế tu tiên xong thì dùng bữa tối rồi về hậu cung. Màn đêm buông xuống, ba người Đường Thận tranh thủ ra về khi cổng cung chưa khóa.

Đây là ngày đầu tiên nhậm chức của Đường Thận, đến ngày hôm sau thì cậu không cần tiến cung, chỉ ở trong nha môn đọc sách.

Quanh đi quẩn lại, bảy ngày đã trôi qua.

Đường Thận vẫn theo Lý Thư học hỏi chứ chưa tự làm việc được. Nhưng trước hết cậu phải nghênh đón một người đã.

Hôm đó Đường Thận nghỉ làm. Từ sáng sớm, cậu và Diêu Tam đi đến bến cảng Vận Hà ở phía Tây Thịnh Kinh, đứng trên bến tàu, trông vời sông nước mênh mang. Nửa canh giờ sau, một con thuyền chở khách rẽ nước tiến tới từ đằng xa. Thuyền cập bờ, khách khứa trong khoang nối đuôi lên bến. Diêu đại nương và Đường Hoàng vừa xuất hiện, Diêu Tam đã nhận ra ngay mẹ mình, sung sướng gọi ầm lên: "Mẹ ơi, mẹ ơi, con ở đây!"

Diêu đại nương thấy con trai thì mừng quýnh, nước mắt rơm rớm.

Bên cạnh Diêu đại nương dĩ nhiên là Đường Hoàng. Thế nhưng, nhác thấy cô thiếu nữ duyên dáng yêu kiều, Đường Thận đứng đực ra. Khi Đường Hoàng và Diêu đại nương đến gần, cậu mới giật mình thốt lên: "Đường Hoàng đấy à?"

Dưới bầu trời xanh trong và những áng mây biêng biếc, cô thiếu nữ mảnh khảnh mặc chiếc váy màu vàng nhạt như ánh trăng, hoa văn như ý hồng cánh sen phơn phớt, khoác chiếc áo lông trắng nhỏ, dáng vẻ thanh tú lạ thường. Bên dòng Vận Hà cuồn cuộn, em mang trong mình nét duyên của miền sông nước Giang Nam hiền hòa say đắm lòng người, khác hẳn với những thiếu nữ kiêu sa chốn kinh kỳ.

Chỉ hai năm ngắn ngủi thôi, Đường Thận không ngờ em gái mình trổ mã nhanh đến vậy!

Song, cậu cũng nhận ra Đường Hoàng năm nay đã mười hai tuổi. Một cô bé mười hai tuổi ở thời hiện đại mới tốt nghiệp tiểu học, nhưng ở thời đại này, chỉ tầm ba năm nữa là đến tuổi cập kê, có thể lập gia đình.

Nhưng Đường Thận cứ thấy có gì đó là lạ.

Thấy Đường Thận nhìn mãi quần áo của mình, Đường Hoàng cúi đầu, lí nhí: "Đại bá mẫu nói Thịnh Kinh lạnh hơn Cô Tô, nên bá mẫu cho em mang theo nhiều quần áo. Giờ xem ra cũng không lạnh lắm." À, cô bé đang giải thích tại sao mình phải mặc áo khoác lông.

Đường Thận ngắm nghía em gái mình một hồi lâu, tỏ vẻ biết tuốt, cười khoái trá: "Em béo lên rồi!"

Đường Hoàng ngẩng phắt đầu, trợn trừng mắt la lên: "Béo đâu mà béo!"

Đường Thận cười ha hả: "Ăn nói lí nhí, hít thở phập phù, chẳng phải là béo tắc thở đấy thì gì? Á à, giờ nói to được rồi này."

Đường Hoàng điên tiết: "Đồ anh trai thối, sao anh không nói nổi một câu tử tế chứ?"

"Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng, vi huynh chỉ muốn tốt cho em thôi." Đường Thận thật thà nói.

Đường Hoàng: "..."

Than ôi, chứng dở hơi của anh tôi hai năm nay vẫn chưa khỏi!

Nhí nhố một hồi, cả nhà cười chán chê, bèn lên xe ngựa về phủ Thám Hoa.

Ngồi trên xe, Đường Hoàng thở phào nhẹ nhõm.

Đầu năm ngoái sau khi Đường Thận đi rồi, Đường Hoàng lúc nào cũng nhớ anh trai, mỗi ngày đều mong ngóng được lên Thịnh Kinh đoàn tụ với anh. Nhưng theo tháng ngày, tâm trạng của cô bé dần dần thay đổi. Người ta nói với em rằng, Đường tiểu tam nguyên đã đỗ Á nguyên, trở thành ông cử rồi. Sau đó họ lại bảo với em, Đường Thận đỗ hẳn Thám hoa, trở thành quan lớn thật sự rồi.

Đường Thận giáo dục Đường Hoàng theo kiểu nuôi thả tự do, Đường Hoàng không phải giam mình trong nhà trong phủ như các cô gái khác. Đường Hoàng có gia sư riêng, cũng hay đi chơi với các thiên kim tiểu thư khác ở phủ Cô Tô. Có người bảo cô bé rằng, Đường Thận đỗ Thám hoa lang, ra làm quan rồi sẽ khác trước, dù là em gái ruột, từ rày cũng phải cư xử thận trọng, không thể vượt cấp bậc lễ nghĩa.

Vì thế, trước khi tới Thịnh Kinh, Đường Hoàng lo nghĩ miên man. Đặt chân lên thuyền, cô bé bắt đầu nôn nao sợ hãi.

Mãi đến khi gặp lại Đường Thận, mọi lo lắng của Đường Hoàng mới tan biến: Anh mình vẫn là ông anh thối tha chuyên bắt nạt người khác!

Bốn người về phủ Thám Hoa, Đường Thận đã biết trong hai năm vừa qua mình rời nhà phủ Cô Tô phát sinh những việc gì.

Diêu Tam nói: "Việc này năm ngoái lúc mới về Cô Tô tôi có kể cho tiểu đông gia rồi. Hầy, đúng là giậu đổ bìm leo. Năm ngoái khi tiểu đông gia mới rời Cô Tô, có đến mấy nhà tửu lầu, son phấn nhòm ngó việc kinh doanh nhà chúng ta. Họ không bươi móc được Trân Bảo Các với lầu Tế Hà thì quay ra chơi đểu Hậu cần Đường thị, bôi nhọ nhân viên. Đến khi tin tiểu đông gia bái Phó đại nho làm thầy truyền tới Cô Tô, lũ đấy cờ im trống lặng ngay tức khắc, tiệt không còn bóng dáng đứa nào."

Đường Thận ngạc nhiên: "Anh biết cả cụm 'cờ im trống lặng' nữa à?"

Diêu Tam đỏ mặt: "Tiểu đông gia, tôi nói nhiều thế, sao cậu chỉ nghe được mỗi vậy?"

Đường Thận cười: "Diêu đại ca, anh có muốn đi học không?"

Diêu Tam cuống cuồng xua tay: "Ấy chớ ấy chớ, tôi chỉ muốn làm trợ thủ cho tiểu đông gia thôi, thế là đủ rồi."

Đường Thận mỗi tháng đều biên thư về Cô Tô để liên lạc với người nhà. Đôi khi cậu cũng nhờ vả Vương Trăn để gửi ké thuyền nhà họ Vương mấy thứ đồ về Giang Nam. Tuy thế, có nhiều việc không thể nói rõ qua thư từ được.

Đường Hoàng hớn ha hớn hở: "Nghe nói anh thi đỗ Á nguyên, cả nhà mình tưng bừng đáo để. Tất cả các phú thương có quan hệ lợi ích với lầu Tế Hà và Trân Bảo Các và cả những người không quen biết đều đến bái phỏng nhà chúng ta. Phủ doãn mới ở Cô Tô cũng đến nữa." Nghỉ một lát, Đường Hoàng nói: "Nhưng Á nguyên chỉ là cái cớ thôi. Ngay từ đầu ông ta đã có ý định gặp anh rồi."

Đường Thận liền nhìn Đường Hoàng, không ngờ cô bé hiểu cả chuyện Phủ doãn mới ở Cô Tô đến thăm Đường gia không phải vì cậu đỗ Á nguyên, mà vì quan hệ của cậu với Phó Vị và Vương Trăn.

Đường Hoàng lại nói thêm: "Sau kì thi Hương, đại bá phụ mở tiệc lớn ở Cô Tô linh đình suốt bảy ngày đêm! Đến khi anh đỗ Thám hoa thì thôi rồi, không thể tưởng tượng nổi. Người nhà họ Đường ở khắp phủ Cô Tô đều đến chung vui, tiệc tùng suốt mười ngày mười đêm, dân chúng cả thành kéo về ăn uống. Tiếc là anh không về được, đại bá mẫu bảo khi nào thư thư ra thì anh nhớ về, cả nhà chờ để mở từ đường cho anh tế tổ đấy."

Đường Thận nghĩ thầm, có phải chưa mở từ đường cho mình vào tế tổ lần nào đâu, song cậu chỉ nói: "Anh biết rồi."

Đường Hoàng nói thêm một hồi thì nhớ ra một chuyện. Nét mặt cô bé hơi kì lạ, nháy mắt với Đường Thận: "À, anh ơi, anh có nhớ lúc chúng ta rời khỏi thôn Triệu gia thì có chuyện gì không?"

Đường Thận bị hỏi thế thì hơi lúng túng: "Chuyện từ khi mình rời thôn Triệu gia ấy à?" Cậu suy nghĩ một hồi: "Chuyện gì ý nhỉ?"

"Anh nhớ lại mà xem."

"Anh em mình nợ ai chưa trả? Hay người ta nợ nhà mình?"

"..."

"Thế anh có nhớ, nếu anh đỗ cử nhân, bác trưởng thôn đã hứa với chúng mình cái gì không?"

Đường Thận sực nhớ ra: "Ơ? Chuyện đấy á?"

Diêu đại nương cười nói: "Giờ không còn thôn Triệu gia nữa đâu. Từ khi cậu thi đỗ Á nguyên, thôn đó đã cải danh thành thôn Đường gia rồi!"

Đường Thận dở khóc dở cười.

Không ngờ câu nói đùa ngày xưa lại thành sự thật.

Việc thôn Triệu gia sửa tên thành thôn Đường gia này cũng khá thú vị. Trưởng thôn hồi trước chỉ hứa đại thế thôi, bởi đâu có dễ gì mà đỗ cử nhân. Ngay cả anh họ cả của Đường Thận, Đường Vân, con trưởng của Đường cử nhân, tới giờ vẫn chưa đậu nổi tú tài!

Nhưng trưởng thôn làm sao mà ngờ được, mới hơn một năm, Đường Thận đã thi đỗ thật, còn đỗ hẳn Á nguyên.

Trưởng thôn lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan.

Tên thôn đâu phải cứ thích là đổi chứ? Nào là phải lên phủ nha Cô Tô báo cáo, rồi sau khi đổi tên, gia phả rất nhiều hộ trong thôn cũng phải sửa theo, không được viết là "Ông này bà nọ thôn Triệu gia nữa", mà phải sửa thành "Ông này bà nọ thôn Đường gia." Trưởng thôn nghĩ tới nghĩ lui mãi, nghĩ từ năm nọ qua năm kia, nghĩ đến tận lúc Đường Thận đỗ Thám hoa rình rình rang rang.

Sau sự kiện ấy, mọi người trong thôn đều hối thúc trưởng thôn sửa tên. Trưởng thôn bấy giờ mới hồ hởi đi sửa tên ngay.

Phiền đến mấy thì phiền chớ, làm sao sánh nổi với niềm hãnh diện khi thôn Đường gia bọn họ có một chàng Thám hoa?

Nghe Đường Hoàng và Diêu đại nương kể lại những chuyện phát sinh trong hai năm xa nhà, Đường Thận cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Từ khi đến Thịnh Kinh, đây là lần đầu tiên cậu cảm nhận được không khí gia đình ấm cúng, chân thật, như thể được trở lại những tháng ngày êm ả ở Cô Tô.

Ăn tối xong, chỗ ở cho Đường Hoàng và Diêu đại nương được thu xếp ổn thỏa.

Đường Thận gọi Diêu Tam vào thư phòng: "Bao giờ anh định lên phương Bắc?"

Diêu Tam: "Định đi sớm rồi đấy ạ, nhưng vì mẹ tôi và tiểu thư A Hoàng lên đây nên mới lùi lại. Sáng mai tôi sẽ khởi hành."

Đường Thận: "Cũng không phải vội thế đâu. Diêu đại nương mới tới, anh cứ ở chơi với mẹ hai hôm đã."

Diêu Tam cười ngượng nghịu: "Cậu đừng trêu tôi, việc miền Bắc khéo cậu còn sốt ruột gấp mấy lần tôi ấy chứ. Không sao đâu, sáng mai tôi đi."

Đường Thận chỉ cười.

Diêu Tam đang định đi, chợt thấy trên bàn Đường Thận có một cuốn sách đang mở ra. Anh ta lấy làm lạ, hỏi: "Ơ, tiểu đông gia, gần đây cậu đang luyện... vẽ bùa à?"

"Bùa?"

Diêu Tam nói: "Đúng thế, chứ không cuốn sách trên bàn kia là sách gì ạ, không phải sách bùa sao?"

Đường Thận nhìn theo ánh mắt của Diêu Tam, thoáng giật mình, lặng lẽ gập cuốn sách kia lại, cười nói: "Ừ, tôi đọc mấy cuốn sách Đạo gia ấy mà, trau dồi thêm chút xíu. Được rồi, anh cứ đi cho xong việc đi rồi về tha hồ bầu bạn với Diêu đại nương."

"Vâng ạ."

Đợi Diêu Tam đi hẳn, Đường Thận mới mở lại cuốn sách "bùa" ra, lặng lẽ nhìn.

Nếu Diêu Tam may mắn xuyên thời gian đến hiện đại, học hết chương trình phổ cập giáo dục chín năm, thì hẳn là anh ta sẽ nhận ra ngay, cuốn sách này đâu phải bùa Đạo gia, mà toàn là bính âm tiếng Hán.

Cất cuốn bính âm vào ngăn mật sau giá sách, Đường Thận thổi tắt nên, rời khỏi thư phòng.

Đường Hoàng và Diêu đại nương mới tới Thịnh Kinh nên vô cùng hiếu kì với đế đô phồn hoa. Đường Thận hàng ngày phải đến nha môn, không có thời gian rảnh dẫn hai bà cháu du ngoạn, bèn giao chuyện này cho Phụng Bút lo.

Lên làm Khởi Cư xá nhân được nửa tháng, Đường Thận cuối cùng cũng được chính thức ghi chép cuộc sống hàng ngày của hoàng đế.

Hôm đó lên triều, cậu không đi sang bên trái ngai vàng với Lý Thư mà tự mình sang phía bên phải. Như thường lệ, Đường Thận triều kiến hoàng đế theo bách quan, sau đó ngồi xuống, nhấc bút ghi chép.

Tan triều, cậu và Lý Thư quay về ngự thư phòng. Hoàng đế đọc sách, xem tấu chương, còn bọn họ cũng không nghỉ ngơi mà phải trau chuốt, sửa sang lại những ghi chép của ngày hôm nay, đảm bảo không có gì sai sót.

Suốt cả buổi, dù không phải viết nhiều, nhưng Đường Thận căng thẳng hết sức, lưng áo ướt đẫm mồ hôi.

Từ đầu đến cuối, Triệu Phụ không hề liếc nhìn cậu lấy một cái, như thể ông ta đã hoàn toàn quên mất chàng Thám hoa được chính mình khâm điểm trên điện Tử Thần hôm nào.

Đêm về, Triệu Phụ lên đài Đăng Tiên, Đường Thận và Lý Thư đứng ngoài cửa.

Trong những câu chuyện gẫu của các Khởi Cư xá nhân, vị Lý đại nhân này mặc dù không tốt tính cho lắm nhưng cũng không đến nỗi khó ở chung. Tuy vậy, khi Đường Thận theo ông ta học tập, ông ta lúc nào cũng hòa nhã, tận tình. Đường Thận biết mình được đối xử như thế là nhờ thầy mình cây cao bóng cả, tán cây của thầy là "ô dù vững chắc" cho cậu. Mọi người kể rằng, dù là Trạng nguyên Diêu Thiện, Khởi Cư lang hàng ngũ phẩm ngang với Lý Thư, ông ta cũng chưa bao giờ chu đáo đến vậy.

Hai người đứng ngoài đài Đăng Tiên, áng chừng một canh giờ nữa hoàng đế mới ra ngoài.

Lý Thư cười hỏi: "Ngày làm việc chính thức đầu tiên, Đường đại nhân thấy sao?"

Đường Thận giả vờ sầu khổ: "Bình thường chỉ quan sát thôi thì tưởng là dễ, bắt tay vào làm mới biết vô vàn khó khăn. Thêm nữa, khi thánh thượng nói chuyện với quần thần, các quan nói nhanh quá, nhiều lúc ta không viết theo kịp, nhưng chẳng dám viết sai một chữ."

Lý Thư gật đầu: "Cậu làm đúng lắm, dù không viết kịp lúc ấy, chúng ta vẫn có thể so sánh với bản ghi chép của nhau rồi bổ sung sau. Còn nếu viết sai thì có thể nguy đến tính mạng đấy."

Hai người thì thà thì thầm, trời dần dần sẩm tối.

Sau gần nửa canh giờ, bỗng có một người mặc quan bào đỏ thẫm vội vã đi vào từ cổng cung. Dưới ánh mặt trời cuối ngày, người này đội mũ quan, gương mặt hết sức điển trai, đôi mắt như cánh hoa đào. Lý Thư và Đường Thận đều liếc nhìn anh ta theo bản năng. Người đàn ông này cũng liếc lại chòng chọc, ánh mắt sắc lẻm rọi thẳng vào hai người.

Lý Thư thấy anh ta thì thầm than: Sao lại là gã chứ!

Đoạn vội vàng cúi gằm xuống không dám nhìn nữa.

Đường Thận ngó nghiêng mấy lần, viên quan trẻ tuổi này thấy Đường Thận vẫn nhìn mình thì nhếch mép. Sau hồi lâu, anh ta mới quay đi, lên trên đài tiên, thì thầm mấy câu với đạo đồng giữ cửa điện. Đạo đồng nghe xong thì mở cửa đi vào điện, lát sau mới đi ra, mở rộng cửa cho viên quan trẻ tuổi ấy tiến vào.

Cửa điện khép lại, Lý Thư cũng thở phào nhẹ nhõm, lẩm bẩm: "Thế là tống tiễn được đức ôn thần."

Đường Thận hỏi: "Người ấy là ai thế?"

Lý Thư ngó nghiêng xung quanh, biết là không có ai nhưng càng phải thì thào: "Thiếu Khanh Đại lý tự, Tô Ôn Duẫn. Tay này không dễ chọc đâu, sau này nếu tránh được thì ráng mà tránh. Đại lý tự có hai Thiếu Khanh, tuy y là quan tứ phẩm nhưng tất cả các quan phạm tội đều thuộc quyền quản lí của y. Hơn nữa, y còn rất được lòng Thánh thượng. Đài Đăng Tiên này ngoài các tể tướng trong Trung Thư Tỉnh ra thì chỉ có Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức, Thượng thư bộ hộ Vương Tử Phong, và y – Tô Ôn Duẫn là được vào."

Đường Thận giật mình thon thót.

Tô Ôn Duẫn!

"Khai Bình năm thứ hai mươi tư, ngày mùng bảy tháng tám, thánh thượng triệu quan Thiếu Khanh Đại lý tự là Tô Ôn Duẫn. Vua nói: Đêm qua trẫm gặp cơn mộng dữ, thấy chúng sinh trong lao tù than khóc, huyết lệ đẫm song sắt. Tô khanh đáp rằng: Bệ hạ nhân từ, thần không bì kịp. Vua nói: Trẫm đau nỗi đau của thiên hạ, Tô khanh có xót xa cùng với trẫm không? Nhân nhớ đến muôn dân, ban phúc trạch cho bách tính, trẫm đại xá thiên hạ! Ngày hôm ấy, vua Tống đại xá tội nhân."

Tô Ôn Duẫn là người xử lí tất cả quan có tội, như vậy hai năm trước, Chung Thái Sinh cũng nằm trong phạm vi quản lí của anh ta!

Đang nghĩ dở, cửa điện lại mở, Tô Ôn Duẫn bước ra ngoài.

Đường Thận cúi xuống, lần này không nhìn anh ta nữa. Chỉ thấy một bóng người áo đỏ thẫm đi ra khỏi đài Đăng Tiên, ngang qua Đường Thận và Lý Thư thì thoáng ngần ngừ. Nhưng cũng có thể đó chỉ là ảo giác, vì anh ta lại xăm xăm bước về phía trước, nghênh ngang ra về.

Mấy ngày sau đó, Đường Thận cũng chưa gặp viên quan nào khác đi vào đài Đăng Tiên cả.

Đường Thận thích nghi rất tốt với công việc của Khởi Cư xá nhân, thuận buồm xuôi gió. Diêu Thiện so ra thì kém hơn cậu một chút, Diêu Thiện là Khởi Cư lang, công việc của anh ta cũng là ghi chép lại cuộc sống thường ngày của hoàng đế như các Khởi Cư xá nhân, nhưng kèm thêm chức trách đôn đốc, rà soát sai sót trong quá trình ghi chép. Tiếc rằng Diêu Thiện đi lính nhiều năm, tốc độ viết không nhanh bằng Đường Thận, đôi khi hoàng đế xuất thần phán một câu thì anh ta khó mà viết theo kịp.

Cứ thế, tháng Mười một đã sang.

Đầu tháng mười Một, Đường Thận về tới nhà đã thấy Diêu Tam mặc áo lông đợi cậu từ lâu. Thấy Đường Thận, Diêu Tam bước ngay tới thưa: "Tiểu đông gia, tình hình bên kia hơi khác so với chúng ta tưởng, viết thư khó nói rõ được, tôi đành phải quay về một chuyến. Tôi nghe nói quản lí Lục đã chọn được địa chỉ cho lầu Tế Hà, cũng mua luôn tửu lầu rồi, nhưng việc bên tôi lại chưa ra đâu vào đâu." Nói đến đây, Diêu Tam tỏ ra rất hổ thẹn: "Tôi về đây, thứ nhất là để xin cho quản lí Lục đi cùng với tôi, có thêm anh ta thì tiện hơn nhiều. Thứ nhì... Tôi xin cậu bí mật đồng hành với chúng tôi ạ."

Đường Thận chau mày: "Bí mật đi cùng anh ư?"

Diêu Tam cười ngượng nghịu: "Việc buôn bán với người Liêu khó hơn tôi tưởng rất nhiều, có lắm việc tôi không dám tự tiện quyết định. Chỉ có cậu mới biết khi nào cần quyết đoán, khi nào cần thận trọng. Bên ấy cũng không an toàn, xin cậu hãy cải trang đi cùng tôi với quản lí Lục, như vậy cũng tiện bảo vệ bản thân hơn."

Đường Thận suy nghĩ một lát: "Giờ anh thương thảo được đến đâu rồi?"

"Cỡ ba phần mười ạ."

Ít hơn nhiều so với dự liệu của Đường Thận.

Diêu Tam: "Chỉ được chừng ấy là vì nhiều việc tôi không dám quyết bừa. Có cậu, mọi chuyện sẽ đâu vào đấy ngay!"

Đường Thận cân nhắc hồi lâu mới đáp: "Được rồi, ba ngày nữa là đến ngày nghỉ, tôi sẽ xin nghỉ thêm mấy hôm, đi cùng với anh!

Hôm sau đến nha môn, Đường Thận xin nghỉ với thượng cấp của mình là Lý Thư, Lý Thư chẳng buồn hỏi cậu bận việc gì, phê chuẩn cho nghỉ luôn. Lúc ra khỏi nha môn Trung Thư tỉnh, Đường Thận cảm khái: "Trong triều có quan hệ rõ sướng, ô dù còn đấy thì việc gì cũng trôi chảy!"

Mấy hôm nữa phải rời Thịnh Kinh, Đường Thận chợt phát hiện ra nửa tháng nay cậu chưa đến thăm hai cái ô đại bự của mình.

Đã nghĩ tới thì phải làm ngay. Về nhà xong, Đường Thận bèn lấy đặc sản Cô Tô Đường Hoàng mang lên sang thăm Phó phủ. Phó Vị đang vẽ tranh, thấy Đường Thận thì rào ngay một câu: "Cảnh Tắc lại đây nào con, nào nào, con hãy bình phẩm kiệt tác này của vi sư đi."

Đường Thận: "..."

Tiên sinh, "kiệt tác" là để người khác khen ngài, chứ đời thuở nhà ai tự dùng để mà huênh hoang!

Quà cáp Phó Vị xong, thầy trò hai người tâm tình trò chuyện. Sau đó, Đường Thận mang hộp quà đi sang phủ Thượng thư.

Chẳng may, hôm nay Vương Trăn không có nhà, nghe bảo là đã tiến cung diện thánh rồi, phải lâu lâu mới về.

Đường Thận nghĩ một lát rồi nói: "Cứ để ta ngồi đây đợi sư huynh."

Quản gia đáp: "Vâng ạ."

Cậu đợi mãi đến khi trăng lên đỉnh đầu, sao trời lấp lánh mà Vương Trăn vẫn chưa về. Đường Thận bận bịu cả ngày quá mệt, ngả ra ghế ngủ thiếp đi. Trong lúc mơ màng cậu thấy mũi ngưa ngứa, tức mình khua tay gạt cái thứ cọ lên mũi mình ra. "Chát!" Đường Thận giật mình tỉnh giấc, bắt gặp ngay Vương Trăn đang khom người nhìn mình bằng ánh mắt ngạc nhiên.

Sư huynh đệ hai người nhìn nhau hồi lâu, Vương Trăn lên tiếng trước, nghe giọng vừa ngỡ ngàng vừa tủi thân: "Tiểu sư đệ, đệ..."

Đường Thận cũng hết cả hồn.

Cậu ngả lên ghế ngủ, thấy ngứa mũi nên vô thức xua tay. Nhưng trông tư thế giữa mình và Vương Trăn mà xem, chắc chắn là lúc Vương Trăn cúi xuống nhìn cậu thì tóc chàng rủ xuống mũi làm cậu bị ngứa, thế là cậu đã tát...

Tát thẳng vào mặt Vương Trăn!

Giàng ơi, sao cậu đến tặng quà mà lại thành tát vào mặt Vương Tử Phong thế này? Thế này liệu còn tặng nổi quà không đây?

Gay thật, lỡ cái tát này ủn bay luôn cây dù bự nhất của mình thì chết dở!

Đường Thận ngó mặt Vương Trăn ngay trước nhất, trên gương mặt trẻ trung, điển trai và trắng trẻo ấy không hề có một dấu tay nào. Nhưng ai quy định rằng cứ bị tát vào mặt thì phải hằn dấu tay? Đường Thận giật mình, vội vàng đứng dậy, rối rít phân bua: "Sư huynh, đệ mới ngủ thiếp đi, không biết đã xảy ra chuyện gì. Đệ có lỡ làm sai điều gì không?"

Vương Trăn không nói gì cả, chỉ lẳng lặng nhìn Đường Thận.

Đường Thận bị chàng nhìn thế thì chột dạ, cuống quýt nghĩ cách chữa cháy. Cậu vớ lấy hộp quà trên bàn: "Vừa rồi em gái đệ mới từ Cô Tô lên đây, con bé có mang theo vài món ăn vặt ở Cô Tô, mời sư huynh nếm thử."

Vương Trăn vẫn cứ nhìn cậu mà chẳng nói chẳng rằng.

Đường Thận: "..."

Anh ơi, em van anh, anh nói giùm em một câu đi anh ơi!

Cuối cùng, trong ánh mắt thiết tha van nài của Đường Thận, Vương Trăn mới chịu mở mồm: "Lâu rồi không gặp tiểu sư đệ, ta nhớ đệ lắm luôn. Thấy tiểu sư đệ đang ngủ, ta không nỡ đánh thức nên mới khẽ khàng lại gần. Nào ngờ tiểu sư đệ chưa tỉnh ngủ, lại đánh vào tay ta, dường như không muốn gần gũi với ta vậy..."

Lúc Vương Trăn nói câu ấy thì trông mặt mũi rầu rĩ vô cùng, như thể hành động của Đường Thận làm chàng tổn thương ghê gớm.

Đường Thận hối hận lắm, nói: "Sư huynh, lúc đó đệ đang ngủ, không biết gì hết cả, huynh đừng để bụng được không? Không phải là đệ không muốn gần gũi với huynh, cũng không cố ý gạt tay huynh ra, tại đệ đang ngủ nên không..." Cậu bỗng khựng lại, trố mắt: "Gạt tay huynh á?"

Vương Trăn nín cười: "Đúng rồi, ta thấy tiểu sư đệ đang ngủ nên lấy tóc gẩy nhẹ lên má đệ ý mà, gọi là gần gũi với nhau tí."

Đường Thận nhất thời không nhận thấy có gì bất thường trong câu "gần gũi với nhau tí", cậu thộn ra nhìn Vương Trăn, miệng há hốc, không thốt nên lời.

Thấy thế, Vương Trăn không tài nào mà nhịn nổi nữa, cười phá lên.

Ngay từ đầu Vương Trăn đã biết Đường Thận hiểu nhầm rồi, nhưng nom tiểu sư đệ đáng yêu quá đi mất, nên chàng cứ giả đò như không biết, mặc kệ Đường Thận tự biên tự diễn.

Đường Thận từ từ bặm môi, thình lình, cậu đặt hộp quà đánh "cộp" lên bàn, quay lưng bỏ về.

Ánh mắt Vương Trăn thoáng chút hoảng hốt, chàng túm lấy cổ tay Đường Thận.

"Tiểu sư đệ."

Có ai bị trêu ghẹo mà vui nổi chứ? Đường Thận tức cành hông: "Sư huynh, quà tặng xong rồi, đệ nên cáo từ thôi." Nói rồi lại giằng ra.

Vương Trăn níu chặt tay Đường Thận.

Đường Thận ngẩng đầu: "Vương Tử Phong!"

Vương Trăn chỉ lặng im nhìn cậu. Trước ánh mắt sáng trong như vì sao của sư huynh, Đường Thận bỗng thấy cơn giận nguôi ngoai, nhận ra hình như thái độ của mình vừa rồi không được hay lắm. Vừa hối hận vừa ảo não, Đường Thận nhủ thầm "Kệ đi, phải nhịn chứ, giờ mình vẫn cần anh ta mà." Cậu định chủ động xin lỗi, nhưng Vương Trăn đã giành nói trước. Bằng một giọng nói hết sức dịu dàng, chàng rủ rỉ những lời khiến người ta phải giật mình thảng thốt:

"Cảnh Tắc giận ta trêu đùa đệ, khiến đệ hoảng sợ lo lắng có phải không?"

"Đệ còn giận vì mình tức tối đến thế mà lại chẳng thể nổi nóng, thậm chí còn phải tìm mọi cách nhún nhường ta, đúng không?"

"Hay phải nói," Vương Trăn nhẹ nhàng siết cổ tay Đường Thận, kéo mạnh cậu về sát trước mặt mình rồi buông tay, không cương quyết giữ lấy Đường Thận nữa. Chàng cúi đầu nhìn cậu, rót vào tai Đường Thận những câu chữ mê hoặc: "Hay phải nói là, đệ giận vì sao mình cứ sợ sệt, giận vì sao bản thân lại rơi vào cảnh bất lực đến thế, phải chứ?"

Đường Thận trợn tròn mắt, bị hỏi đến nỗi á khẩu.

Trông dáng vẻ ấy, đáng lẽ Vương Trăn phải thấy Đường Thận buồn cười lắm, nhưng không hiểu sao chàng chẳng thể hồ hởi nổi. Hơn cả thế, chàng vừa thấy khó chịu, vừa không thể lờ đi cảm giác xót xa đang len lỏi trong lòng. Mãi sau, Vương Trăn mới thở dài, ngẩng lên ra lệnh cho quản gia trực ngoài phòng khách: "Chuẩn bị cơm tối, lấy thêm một đôi đũa."

Chú thích

[1] Đoạn này khả năng là dựa vào chuyện vua Lý Thế Dân đời Đường, người đã nhiều lần xem và sửa quốc sử. Chi tiết Triệu Phụ bắn chết Thái tử trong chính biến có thể coi là phỏng theo sự kiện Huyền Vũ môn nổi tiếng. Nếu bạn nào chưa biết thì Lý Thế Dân không phải con trưởng của Đường Cao Tổ. Tuy anh trai ông đã được lập làm Thái tử, nhưng Lý Thế Dân vẫn kiên quyết cạnh tranh quyền thừa kế. Ông cho quân mai phục ở cổng Huyền Vũ khi Thái tử và Tề vương vào cung, và tự mình giết cả hai người anh em. Đường Cao Tổ không còn lựa chọn nào khác ngoài nhường ngôi cho Thế Dân.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#dammy